THỨC MÀ KHÔNG TỈNH – TỈNH MÀ KHÔNG THỨC

THỨC MÀ KHÔNG TỈNH – TỈNH MÀ KHÔNG THỨC

LM Minh Anh (Gp. Huế)

“Lạy Chúa, con nâng hồn lên tới Chúa.
Lạy Chúa, con nâng hồn lên tới Ngài”.

HAY SAN SANG

Các bạn trẻ thân mến,

Thánh Vịnh đáp ca của Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là một lời cầu nguyện khẩn thiết, cũng là tâm tình đúng đắn để chúng ta đi vào Mùa Vọng, khởi đầu một năm phụng vụ mới.  Bởi lẽ, là những người đang sống trên đất, dường như chúng ta đang quá lo lắng những chuyện ngang đất.  Đi giữa ban ngày, nhưng lắm lúc chúng ta đang lần khần trong đêm tối; trừng trừng mắt mở, nhưng không ít lần chúng ta lại hoá đang ngủ mê.  Ấy thế, khởi đầu Mùa Vọng, Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta: “Hãy tỉnh thức, hãy cầu nguyện.”

Và thật ý nghĩa, theo Tin Mừng Luca, khi “Hãy tỉnh thức, hãy cầu nguyện” chính là câu nói cuối cùng trong Diễn Từ Chung Luận của Chúa Giêsu trước khi Ngài ra đi chịu chết.  Vậy thì tại sao “lời cuối cho nhau” lại là tỉnh thức và cầu nguyện mà không là một lời nào khác?

Phải chăng, bởi Chúa Giêsu biết có nhiều người thức mà không tỉnh; hay ngược lại, nhiều người tỉnh mà không thức?

Thức mà không tỉnh nghĩa là mê.  Ở đây không nói đến mê ngủ nhưng nói đến mê lầm, mê muội, mê đắm: tức là mê danh, mê tiền, mê việc, mê đất, mê người… mê đến nỗi quên tất cả, quên cả Chúa, quên cả người, quên cả bà con ruột rà anh em và nhất là quên cả nhân cách, quên luôn cả linh hồn mình.  Thức mà không tỉnh là vậy!

Còn tỉnh mà không thức là thấy điều lành nhưng lại không ao ước, mà có ao ước cũng không dám thực hiện.  Vì lẽ, thực hiện thì phải cố gắng, cố gắng lại phải hy sinh, hy sinh hẳn phải bỏ mình.  Bởi thế, sẽ không ngạc nhiên khi có người định nghĩa: “Hoả ngục là nơi được lát bằng những thiện chí.”  Tỉnh mà không thức là thế!

Kho tàng ngụ ngôn Ấn Độ kể rằng:  Cụ già kia có cô cháu ngoại 12 tuổi với khuôn mặt thật xinh xắn, đôn hậu; nhưng rủi thay, cô bé bị mù từ thuở mới sinh.  Bởi thế, ngày ngày cô thầm khóc vì tủi thân và nét mặt bao giờ cũng trầm buồn.  Cho đến một hôm, cụ già gọi cô lại và bảo: “Cháu ơi, trên đời này người ta khổ vì mê, người ta bất hạnh vì lầm.  Vì mê, nên người ta so; vì lầm, nên người ta sánh.  Phần cháu, cháu không mê, cũng không lầm; cháu không so, cũng không sánh nên thật hạnh phúc.”

Cô bé xem ra không hiểu nên ngoại em nói tiếp: “Người ta so sánh cái này với cái kia, người này với người nọ.  Chính cái hơn thua làm cho người ta đau khổ, chính cái đua đòi làm cho người ta u mê, để rồi họ miên man chạy theo danh, hụt hơi tìm theo lợi, rong ruổi theo cái phù hoa, bất chấp phải xâu xé, không ngại phải dẫm đạp…  Thế mà đang khi đó, mấy ai nhớ rằng, tất cả mọi sự đang qua đi, tất cả mọi sự đang tan chảy; có cái tan nhanh như bọt nước, có cái tan chậm như địa cầu.  Mỗi người quên rằng, chính thân xác họ đang tan, cuộc đời họ cũng đang chảy.  Sống thêm một ngày là một ngày bước tới gần bên huyệt mộ của mình”.

Nghe xong lời giải thích, cô cháu lặng người, những giọt lệ từ đôi mắt mù loà lăn dài trên đôi má; nhưng cũng từ đó, khuôn mặt cô bắt đầu rạng rỡ.  Cô cảm nhận mình đang thật hạnh phúc.

Các bạn thân mến,

Khởi đầu Mùa Vọng, là những lữ khách trên chốn trần ai, chúng ta không được đề nghị hãy quên những chuyện dưới thấp để sống lỏng bỏng hỏng chân cho những chuyện trên trời, nhưng mỗi người đang được mời gọi hướng lên cao đang khi chu toàn những công việc dưới thấp, mỗi người được mời gọi làm những việc bình thường một cách phi thường, nghĩa là được mời gọi nâng tâm hồn lên tới Chúa.

Mỗi người hãy ao ước thưa lên: “Lạy Chúa, con nâng hồn con lên tới Chúa, con nâng hồn con lên tới Ngài.”  Muốn được vậy, chớ gì chúng ta cũng biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn để không phải là người lừng khừng đi giữa ban ngày mà thực tế, đang lầm lũi trong đêm; để không là những người quá quen với bóng tối đến nỗi không biết ở bên kia vẫn còn sự hiện diện của ánh sáng.

Vậy mà, tự sức chúng ta, tỉnh thức và cầu nguyện lại không dễ chút nào.  Hãy đến với Chúa Giêsu mỗi ngày trong phép Thánh Thể, vì Thánh Thể không chỉ là của ăn linh hồn nhưng còn là mặt trời cho mỗi ngày sống của chúng ta.

Càng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta càng được mạnh sức; càng đến với Ngài, chúng ta càng được khôn ngoan, tỉnh táo.  Tâm có tỉnh, trí mới khôn; lòng có cầu, ý mới nguyện.  Tỉnh thức và cầu nguyện là vậy, là ước ao nên tốt hơn mỗi ngày, là biết sống như những người con sẵn sàng đứng thẳng và ngẩng đầu lên một khi ra trước mặt Chúa.

Mỗi người chúng ta có thể cầu nguyện: “Lạy Chúa, dù làm việc, dù học hành…, mỗi chúng con cũng đang bôn tẩu ngược xuôi giữa chợ đời.  Xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con… để con cũng có thể nâng hồn lên tới Chúa; cho tim con đang trĩu nặng được thư thái, cho trí xôn xao của con được lặng yên, cho thần kinh căng thẳng của con được dịu lại, cho gân cốt mệt nhoài được ngơi nghỉ.  Cho con thật tỉnh thức và chuyên chăm nguyện cầu.

Giữa bao công việc thường ngày, xin dạy con biết dừng lại năm mười phút, trầm sâu xuống lòng mình để nghe cho được tiếng Chúa, tiếng tha nhân và cả tiếng lòng con.

Xin cho con mỗi tuần, ít nữa ngày Chúa Nhật, biết dành thời giờ cho Chúa, cho linh hồn con nhiều hơn.  Từ đó, con có thể rút ra nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.  Và lạy Chúa, cho dẫu trời có sập xuống, đất có vỡ đôi khi mà mọi người phải hồn xiêu phách lạc, thì phần con, lạy Chúa, Chúa có thể gọi con bất cứ lúc nào vì con đang tỉnh thức và cầu nguyện để luôn sẵn sàng; sẵn sàng khi thức, sẵn sàng cả lúc ngủ, nhất là giấc ngủ không bao giờ chỗi dậy, giấc ngủ sau cùng, Amen”.

LM Minh Anh (Gp. Huế)

TỬ ĐẠO – ĐỨC TIN

TỬ ĐẠO – ĐỨC TIN

Chúa Nhật XXXIII Thường Niên –

Kính Trọng thể Các thánh tử đạo Việt Nam

Mt 10, 17-22

Tác giả:  Lm. Vinh Sơn, scj

“Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”, chết vì Chúa Kitô đạt được niềm hạnh phúc như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; Lc 6,22).

Suốt ba thế kỷ trong nhiều thời kỳ bách đạo khác nhau, Giáo Hội Việt Nam đã sinh ra trên 100.000 ngàn vị anh hùng tử đạo, trong số đó có 117 vị được phong thánh, một Vị Chân phước tử đạo đầu tiên cho Giáo hội Việt Nam là thầy giảng Anrê Phú Yên. Hiện nay cũng có mười vị được tôn kính như là bậc “Đáng kính” và 1.000 vị được đứng vào bậc “tôi tớ Chúa”. Các tín hữu còn sót lại trong các cuộc bách hại cũng bị nhà tan cửa nát, trốn tránh vào những nơi rừng thiêng nước độc để giữ niềm tin, như các giáo dân chạy vào vùng La Vang, Quảng Trị, giống như xưa các Kitô hữu tiên khởi đã phải trốn vào sinh sống các hang toại đạo được đào sâu trong lòng đất ở ngoại ô Rôma.

Các ngài thuộc đủ mọi thành phần Dân Chúa: Giám mục, linh mục, thầy giảng, chủng sinh, giáo lý viên, trùm họ, chánh trương và anh chị em tín hữu. Về xã hội các ngài cũng thuộc mọi thành phần: Quan trong triều đình, chánh tổng, quan án, lý trưởng… quân nhân các cấp bậc, thương gia, nông dân, ngư dân hay nội trợ… Địa vị và chức nghiệp của các ngài không hề là trở ngại hay là lý do phân cách các ngài trong sứ mệnh làm chứng cho Đức Tin vào Đức Kitô, tất cả vì lòng tin và yêu mến Thiên Chúa và Đức Kitô.

Chiêm ngưỡng cha ông tử đạo để thể hiện tình yêu với Chúa Kitô, chúng ta – con cháu Rồng – Tiên biểu lộ tử đạo qua cuộc sống hằng ngày dù rằng chúng ta còn bất toàn và yếu đuối. Các ngài cũng như chúng ta cũng từng có những yếu đuối sa ngã của con người, như Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, khi làm Chánh Tổng đã có một thời gian dan díu tình cảm với cô Trung, người làng Trà Lũ; hay như thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm, một thương gia giàu có, đã từng yếu lòng đèo bồng thêm một cô vợ bé… Nhưng sau khi vị Linh hướng hay gia đình khuyên bảo nhắc nhở, các ngài ý thức được sự yếu đuối sai sót của mình và hết lòng ăn năn hối cải, quyết tâm đổi mới lại cuộc đời, sống tình bác ái Tin mừng theo gương Chúa Giêsu, trở nên gương sáng cho người khác, hết sức phục vụ Giáo Hội. Là con người bất toàn, dù yếu đuối, nhưng khiêm tốn, phó thác Thiên Chúa đã ban ân sủng, các ngài trở nên mạnh mẽ, trung kiên, can đảm nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.

Dịp mừng kính các vị anh hùng tử đạo cha ông, là thời gian và cơ hội quý báu giúp chúng ta – thế hệ con cháu, dù thuộc bất cứ thành phần nào cũng có thể nhìn vào các ngài soi chiếu để duyệt lại lại đức tin của chúng ta như Giáo Hội mời gọi: Đức tin can đảm, Tin vào Chúa là tất cả, Đức tin sống động được thể hiện qua lời nói việc làm như thánh Giacôbê xác tín “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi duyệt lại đời sống đức tin chúng ta, gần gũi và sống động nhất theo gương của các vị tiền bối mà tiến bước. Nhìn đức tin dưới ba khía cạnh cần duyệt lại, các anh hùng tử đạo nói chung và các anh hùng tử đạo Việt Nam đã làm chứng đức tin khi đổ máu đào tuyên xưng Đức Kitô:

  • Các chứng nhân Tử đạo mạnh mẽ đồng nhất từ tâm can đến cách hành xử can đảm chấp nhận gian nan và đi vào cái chết vì Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Tử đạo là chết vì Chúa Kitô, trong đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu…
  • Với anh hùng tử đạo, các ngài nhìn nhận Chúa Kitô là tất cả sự chọn lựa. Không có sức mạnh nào ngay cả cái chết có thể tách rời sự kết hợp lòng yêu mến Chúa, các ngài mặc tâm tình như Thánh Phaolô đã khẳng định: “Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”. Trong gian nguy nhưng sẽ chiến thắng như thánh Tông đồ đã xác tín: “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).
  • Các anh hùng tử đạo đã tuyên xưng đức mạnh mẽ bằng cái chết , dù trước sức mạnh của bạo quyền trong các nhục hình: Xử trảm (chặt đầu), bị xử giảo (thắt cổ), bị tra tấn và chết rũ tù, bị thiêu sống, bị lăng trì (phân thây bằng sức mạnh của dã thú), bá đao (hay còn gọi là tùng xẻo, mỗi tiếng trống cắt một miếng thịt làm đủ một trăm nhát), không thể làm các Ngài tách ra khỏi niềm tin, xa cách tình yêu Thiên Chúa mà trái lại các ngài luôn thể hiện niềm xác tín và tình yêu vào Đấng mà các ngài tin thờ.

Khi duyệt lại đời sống đức tin và “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9),

Thật thế, chúng ta con cháu noi gương đức tin của cha ông – các anh hùng Tử Đạo sống theo lời dạy của Thánh Phaolô:

“Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7).

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn 14/11/2015

Nụ hôn của Đức Giáo Hoàng đã giúp teo u não bé gái 1 tuổi

Nụ hôn của Đức Giáo Hoàng đã giúp teo u não bé gái 1 tuổi

Bé gái Gianna ở Pennsylvania (Mỹ) có một khối u não ở vị trí không thể phẫu thuật được. Sau khi Giáo Hoàng Phanxico hôn lên đầu bé, kì diệu thay khối u đã teo nhỏ đi trông thấy.

 

Bấm xem Video Thánh Ca

Giáo Hoàng Francis hôn lên đầu bé gái Gianna 1 tuổi hồi tháng 9 vừa qua, trong chuyến thăm của ông tới vùng Philadelphia. Chị Kristen Masciantonio, mẹ bé trả lời trên truyền hình địa phương: “Con bé đang khỏe lên và khá hơn trước. Nó đã biết hôn gió và chỉ trỏ vào các đồ vật”.

Joey và Kristen Masciantonio nói rằng nụ hôn của Giáo hoàng thực sự là “một phép màu”. So sánh phim chụp khối u giữa tháng 8 và tháng 11 cho thấy một sự chuyển biến rõ rệt. Nhà Masciantonio coi đây là một “sự can thiệp thần thánh”.

 Kết quả giữa tháng 8 và tháng 11 phim chụp não cho thấy kết quả khác biệt hoàn toàn.

Anh Joey Masciantonio trả lời trên truyền hình: “Năm ngoái thực sự là ác mộng của con bé. Tôi tin rằng phép màu này là do Chúa ban phước. Tôi chắc chắn Giáo hoàng là một sứ giả của Chúa trời”.

Theo Quang Minh – Daily Mail (danviet.vn)

httpv://www.youtube.com/watch?v=RiXWkF02sh8

Kinh Hòa Bình – Lm.JB.Nguyễn Sang

CHÚA KITÔ VUA TÌNH YÊU

CHÚA KITÔ VUA TÌNH YÊU

Giáo hội Kitô giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

Lễ Chúa Kitô Vua chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi.  Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trong vinh quang. “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ta.”  Ðó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.  Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù hợp hơn cả.  Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?

Chua Kito VuaNăm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài.   Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử.  Kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.  Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ.  Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân tộc cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Ðavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động.  Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực.  Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chúa Giêsu Kitô là vua khi Người bị treo lên thập giá.  Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Ðây là Vua dân Do Thái.”  Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua.  Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.

Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng.  Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất.  Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh  chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua.  Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách.Chàng thanh niên này được nhận.  Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:

Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình.  Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua.  Tình yêu nằm trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.

************************

Quí vị và các bạn thân mến,

Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá.  Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài.  Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.

Ðọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa.  Anh ta đã khám phá ra tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.  Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này.  “Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng.”

Chúa Giêsu đã mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh chính mình.  Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.

Xưa cũng như nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để thống trị, để hưởng lợi.  Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự.  Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu thương đó.

************************

Lạy Chúa Kitô Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người.  Xin cho chúng con được can đảm bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua.  Amen.

  1. Veritas

Nếu Được Cả Thế Giới Mà Phải Thiệt Mất Mạng Sống, Thì Nào Có Lợi Gì?

Nếu Được Cả Thế Giới Mà Phải Thiệt Mất Mạng Sống, Thì Nào Có Lợi Gì?

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Không, không, mẹ à! Con không có gì để than thân trách phận cả! – RV

ME A`

Ngày 1-4-1982 – một ngày mùa xuân – vạn vật như bừng nở, vui tươi chào đón khí trời êm ả dễ chịu. Nơi một bệnh viện ở tỉnh Québec, Canada, một thiếu nữ 18 tuổi – đang tuổi xuân mơn mởn – cũng cảm thấy lòng tràn ngập yêu thương.

Thiếu nữ đó là Edith Ferguson mắc chứng hoại huyết và đang ở giai đoạn cuối đời. Cùng hòa nhịp với niềm vui vũ trụ, Edith lấy giấy và viết tờ di chúc. Tờ di chúc tinh thần để lại cho Cha Christian Beaulieu, vị Linh Mục trẻ đồng hành với Edith trong thời gian cô thọ bệnh. Edith viết:

Thưa Cha Christian kính mến,

Vì không biết phải viết di chúc như thế nào nên con xin viết dưới hình thức một bức thư. Như con từng nói với Cha: tất cả những gì con sở hữu xin dùng để giúp anh chị em tàn tật hầu các anh chị em này trở về với cuộc sống của những người mệnh danh là ”bình thường”. Con rất ước ao sống đến ngày con hân hạnh nghe câu nói: ”Tôi sống thật sự chứ không phải chỉ hiện hữu mà thôi”. Đối với con thì thật là tuyệt diệu, ít ra là một người, hay càng nhiều người càng tốt, có cuộc sống bình thường, chứ không phải bị xã hội và thành kiến ruồng rẫy. Nhưng vì con không thể sống đến ngày đó nên xin giao phó cho Cha thực hiện ước nguyện của con. Thế nhưng, trong xã hội chúng ta đang sống, muốn thực hiện chương trình nào đó cần phải có tiền. Con không có nhiều tiền nhưng tất cả tiền của con nơi nhà băng cũng như tiền bán các vật dụng của con sẽ giúp Cha có số vốn ban đầu. Những gì không bán được – chẳng hạn những đồ lặt vặt – thì xin Cha phân phát cho những gia đình thật túng thiếu .. Con muốn yêu nhiều chừng nào có thể. Trong cuộc sống, con từng gặp những người dạy con biết yêu thương, nhưng con cũng có nhiều thiếu sót lầm lẫn nên con xin mọi người tha thứ cho con. Điều đáng buồn là con có thói xấu hay làm mất lòng người khác mặc dầu con không chủ ý. Nhưng sau đó con hối hận nhiều lắm. Con yêu mọi người và mong mọi người đừng quên con. Trên trời, con không quên ai hết. Con sẽ dõi theo cuộc sống của mọi người và yêu mến mọi người mãi mãi .. Ký tên, Edith.

Đó là di chúc của Edith Ferguson, đúng 10 ngày trước khi qua đời, 10-4-1982, hưởng dương 18 tuổi.

18 tuổi với con tim tràn đầy yêu thương, dĩ nhiên ban đầu Edith không dễ chấp nhận chết. Hai tháng trước đó, khi bác sĩ cho biết là bệnh tình vô phương cứu chữa và đang đi vào giai đoạn trầm trọng, Edith vẫn còn nuôi hy vọng sống. Cô muốn sống để thực hiện ước mơ:

– Thành lập một hội chuyên việc giúp đỡ người tàn tật, giống như hội ”Arche – Con Tàu” do ông Jean Vanier thành lập.

Để thực hiện giấc mơ Edith bắt đầu tiết kiệm từng đồng tiền túi. Vì hạnh phúc của người tàn tật, bằng mọi giá, Edith muốn sống chứ không muốn chết. Edith mở to mắt nói với mẹ:

– Mẹ à, con có một sứ mệnh phải chu toàn: con muốn thành lập một Hội chuyên việc chăm sóc người tàn tật!

Lấy hết can đảm, bà Marie-France dịu dàng nói với con gái:

– Con à, ở dưới đất này, con chỉ chăm sóc giỏi lắm là vài người tàn tật, nhưng trên trời, con có thể chăm sóc không biết bao nhiêu người tàn tật, trên toàn thế giới!

Câu nói nhẹ nhàng của hiền mẫu như một sự thật rót thẳng vào tim. Edith bỗng hiểu rõ tất cả. Cô thiếu nữ giữ thinh lặng không đáp lại lời nào. Nhưng cũng từ giây phút đó Edith can đảm đối đầu với thực tế, sẵn sàng chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA.

Khi thấy con chịu bệnh cách anh hùng bà Marie-France sung sướng nói:

– Con thật gan dạ, mẹ không thấy con rên rĩ bao giờ!

Edith tươi cười trả lời:

– Mẹ à, có biết bao bạn trẻ và người tàn tật phải chịu nhiều đau khổ mà không than thở bao giờ. Không lẽ con lại mở miệng than van sao? Không, không, mẹ à! Con không có gì để than thân trách phận cả!

Một lần khác, Edith trầm tư nói với mẹ:

– Kể từ ngày bị bệnh con mới hiểu rõ thế nào là giá trị của cuộc sống!

Suốt thời gian chịu bệnh Edith luôn giữ nét mặt trầm tĩnh và dáng điệu thanh thản. Cô gái luôn mang trong mình Kinh giải thoát và đọc Kinh này thường xuyên. Cứ sau mỗi lần bị thổ huyết, Edith nắm chặt trong tay Ảnh Đức Mẹ ban ơn (Ảnh vảy phép lạ) và ảnh thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU để cầu nguyện. Edith không muốn người khác cầu nguyện thay cho mình. Cô nói:

– Phải cầu nguyện luôn luôn. Cầu nguyện không ngừng!

Edith vào nhà thương tám ngày trước khi qua đời. Cô thiếu nữ chịu bệnh cách anh hùng. Edith từ chối không dùng thuốc giảm đau. Cô can đảm chờ đợi cái chết đến gần. Edith vẫn luôn giữ nét thanh thản cho đến đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng Lễ Phục Sinh, 10-4-1982, thì êm ái đi vào cõi phúc vĩnh cửu.

Trước khi trút hơi thở cuối cùng đôi mắt Edith Ferguson mở thật lớn, như muốn nói với mọi người hiện diện:

– Thật là tuyệt đẹp điều mà con đang diễm phúc trông thấy!

 … Đức Chúa GIÊSU nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ấy sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của CHA Người cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Matthêu 16,24-27).

 (Daniel-Ange, ”Les Témoins de l’Avenir”, Le Sarment FAYARD, 1989, trang 146-153)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

  1. Đạo Trời là gì ?

Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.

  1. Tại sao nhận biết có Trời ?

Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay tác tạo…

Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )

  1. Những ai tin tưởng có Trời ?

Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…

  1. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?

Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).

  1. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?

Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa – Khổng Tử )

  1. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?

Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống – theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).

  1. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?

Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.

  1. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?

Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.

  1. Đạo Trời có từ bao giờ ?

Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.

  1. Ý Trời thế nào ?

Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.

  1. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?

Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên mà lòng người khao khát.

  1. Sống đạo Trời có dễ không ?

Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).

  1. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?

Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác quỷ, luôn tìm hại con người.

  1. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?

Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3 chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.

  1. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?

Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời, nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.

  1. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa ?

Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được Xa-tan.

  1. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?

Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.

Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:

Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt sầu khổ.

Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước Công Lịch.

Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.

  1. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?

Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:

  1. Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.
  2. Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.
  3. Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.
  4. Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.

Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.

  1. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?

Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.

Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.

  1. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?

Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.

Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.

Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.

  1. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?

Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn vẹn thì không thể không theo cho được.

Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp, như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.

Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.

  1. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?

Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi, “sinh ký tử quy” là thế.

Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta, nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối trung gian mà thôi.

  1. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?

Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.

Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.

  1. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?

Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.

Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…

PHỤ LỤC:

Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:

  1. Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius and of Christ )
  2. Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )
  3. Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).
  4. Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu thương”.

Tưởng nhớ ông bà tổ tiên

Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:

  1. Thắp hương đèn trên bàn thờ
  2. Làm dấu hình Thánh Giá
  3. Nguyện Kinh Lạy Cha
  4. Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.
  5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”

Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:

Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.

  1. Nghi thức Lễ Vu Quy:

Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng thuận…

  1. Nghi thức Lễ Thành Hôn:

Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.

Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:

  1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời. Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.
  2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú rể, cả hai cùng vái 4 vái ).
  3. Cô dâu chú rể thắp nến.
  4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới… “Lạy Cha chúng con…”
  5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )
  6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.
  7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…

Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,
Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”

http://www.trungtammucvudcct.com/web/bible.php?id=353

LẬN ĐẬN

LẬN ĐẬN

LM Giuse Hoàng Kim Toàn

Nhìn những dòng người tấp nập đến và đi trên con đường, tôi nghĩ về những cuộc đời lận đận, lao đao.  Bao giờ mới thực sự hết lận đận lao đao và tôi nghĩ về cuộc đời.

Tôi nhớ về lời của bài hát “tiến thoái lưỡng nan” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Tiến thoái lưỡng nan đi về lận đận.  Ngày xưa lận đận không biết về đâu.”  Có những cuộc đời đến lúc ra đi vẫn còn lận đận, vẫn hoài lao đao.  Tôi nghĩ đến những phận người khốn khổ, không phải khốn khổ vì người khác mang đến mà tự thân mình mang vào những khốn khổ.  Khốn khổ lao đao khi không biết rằng mỗi người đều có một thời, không đón nhận thay đổi của thời gian.  Cái lận đận của một tuổi già, sức kém mà vẫn hoài mong một thời chiến tích lập lại, cái lận đận của những mưu tính ôm giữ địa vị, vị thế dù biết mình không thể.  Lận đận vì những lo sợ hão huyền, không còn người biết đến, không còn gì để nắm giữ…  Tôi nghĩ đến những lận đận, cái lận đận của những con người chỉ thích tiếng khen, lời dịu ngọt tâng bốc, những lời giả dối mà không sẵn sàng đón nhận thực tế, những lời chân thành.  Không biết về đâu nên đâu cũng là con đường giống nhau, không dẫn tới đích.  Con người lận đận, loanh quanh không lối thoát trong khổ đau của hành trình.  Những lận đận của những con người quên mất mình có một thời: “Về thu xếp lại, ngày trong nếp ngày” (lời “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn).  Một thời của tuổi già tìm về yên tĩnh, rũ bỏ những âu lo, tìm về tháng ngày bình yên, đó chẳng là con đường tìm về, thu xếp lại những ngổn ngang cuộc đời trước khi về bên kia thế giới.

Tôi nghĩ đến bao tâm hồn hạnh phúc trước khi ra đi.

Tôi đã được phép giã từ.  Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường.  Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa, và cả căn nhà cũng trao trọn anh em. Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối thắm đượm tình thân.  Từ lâu rồi, sống bên nhau, chúng mình là láng giềng lối xóm; nhưng anh em đã cho tôi nhiều hơn tôi cho lại anh em.  Bây giờ ngày đã rạng, đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt.  Lệnh triệu ban rồi, tôi đi đây” (93, Lời dâng, R. Tagore).

Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa.”  Hay quá, con người cao thượng quá, trao lại cho người sau tất cả những gì cuộc đời mình đã gầy dựng được, chỉ xin giữ tình thân.  Cuộc đời không giữ gì cho mình lại là cuộc đời đầy tràn tất cả.  Cuộc đời nhìn nhận mình đón nhận tất cả hơn những gì mình kiến tạo, sao hạnh phúc quá. Tôi ước mơ tôi cũng hành động như thế trong mọi lúc trước khi ra đi, tôi ước mơ cái hạnh phúc thật đơn giản, thật sự quên mình trong thế giới bao la của tình người.

Con người rồi sẽ ra đi, rồi sẽ để lại tất cả những gì mình có, để lại ngôi nhà, của cải, vật chất mình đang nắm giữ…  Lận đận khi mình cố níu giữ, bám chặt dù không còn sức, lận đận khi vẫn còn tham vọng, đầy mưu tính.  Tôi ước mơ những cuộc đời lận đận, đừng làm khổ đời mình nữa, tôi ước mơ, con người sống đừng giả dối nhau, đưa nhau lên đài danh vọng rồi chôn vùi đời nhau trong lao đao.  Lận đận chạy chọt, tạo liên minh, gây chia rẽ, tìm chỗ bám víu, làm chi vậy, chỉ thêm khổ, mất thêm nhiều tình nghĩa, và lẻ loi trong hoạt động của phe nhóm.  Hãy nói cho nhau về sự thật cuộc đời, hãy để cho Lời Chúa được thực hiện trong cuộc sống: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).  Tại sao lại bám víu để rồi lận đận.

Thanh thản, an nhiên ra đi như một người vừa làm xong công việc của mình, khiêm nhường đón nhận: “Tôi chỉ là đầy tớ vô duyên, tôi chỉ làm việc bổn phận của tôi” (Lc 17,10).  Diễm phúc cho mỗi cuộc đời khi nhận ra mình là tôi bộc cho hạnh phúc nhân loại, và sẵn sàng như một người đã hoàn thành sứ mạng của mình: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7)

Rũ bỏ lận đận để khỏi lao đao.  Tôi ước mong như bao tâm hồn mong ước: Ra đi trong niềm hân hoan vì cuộc đời này tôi đã sống qua bao hạnh phúc, qua bao đau thương vẫn thấy hạnh phúc.  Hạnh phúc của một con người vì thấy mình được yêu thương, hạnh phúc vì thấy mình đã nỗ lực dâng hiến cho con người được hạnh phúc.

LM Giuse Hoàng Kim Toàn

CHẾT LÀ KẾT CỦA SỐNG

CHẾT LÀ KẾT CỦA SỐNG

Tác giả:  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B

Cách đây chừng hơn một tháng, tại giáo xứ mà trước đây, tôi đã từng hiện diện và phục vụ, người phụ nữ vừa tròn 62 tuổi, là một tín hữu trung thành với đức tin, đột ngột tử nạn.

Nhà bà gần sát bên tường nhà thờ. Buổi chiều đã chập choạng tối, bà có ý định sang bên kia đường. Bỗng dưng hai thanh niên chở nhau trên chiếc xe máy với tốc độ cao, đã tông vào bà, lôi bà đi thêm một khoảng về phía nhà thờ. Bà qua đời ngay trước cổng chính nhà thờ, ngay giữa con đường lớn.

Cái chết bất ngờ ập đến trên người phụ nữ, đã làm nỗi đau của gia đình và mọi người thân trở thành nỗi đau nát lòng, nỗi đau đầy nghẹn ứ. Với bản thân, vì sự quý mến, khiến tôi không khỏi bàng hoàng lặng người đi, khi được báo tin.

Dẫu biết sống là để chết. Và chết là kết của sống. Chết là tất yếu của một kiếp làm người. Ai cũng có thể chết, bất luận là người yếu đau hay khỏe mạnh, người giàu sang hay bần cùng.

Nhưng đứng trước một cái chết quá nhanh, một cái chết giữa lúc con người còn mọi khả năng hoạt động, mọi khả năng thực hiện những ước muốn của mình, lòng chúng ta không sao tránh khỏi những thổn thức…

Chúng ta hay nói tương lai của tôi sẽ là…, tương lai con tôi sẽ như thế này…, tương lai vợ tôi, chồng tôi sẽ đạt thế kia… Ít ai nói cái chết là tương lai đời mình. Nhưng thật phủ phàn: Chính cái chết mới thật là tương lai! Dù chết cách nào, mọi người đều chung một tương lai: chết. Chết là kết của sống. Chết là chung kết của một thời làm người.

Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật áp cuối của năm phụng vụ. Qua phụng vụ Lời Chúa, Hội Thánh dạy chúng ta hướng về sự chết. Thời gian cuối năm là thời gian cần để chúng ta nhìn ra phía trước hướng về ngày cuối cùng của vũ trụ. Nó cũng là thời gian thích hợp để nghĩ đến giây phút cùng tận của đời mình, mà chuẩn bị cho một chuyến đi không bao giờ trở lại cách tươm tất, đàng hoàng.

Bài đọc I, sách tiên tri Đaniel cho biết tình hình của ngày phán xét chung. Đó là ngày mà những người đã chết sẽ trỗi dậy, “người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời”.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến ngày mà Chúa sẽ ngự đến đầy vinh quang, uy hùng, hiển hách. Đó là ngày mà “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”, ngày mà “Người sẽ sai các thiên thần đi, và Người sẽ tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”.

Thánh Phaolô cũng từng diễn tả sự khải hoàn của Chúa Kitô trong “ngày của Người”. Đó là ngày Thiên Chúa “đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô…Thiên Chúa đặt mọi sự dưới chân Đức Kitô” (Ep 1, 10.22),

Phần chúng ta, để tránh “chịu ô nhục” và “bị ghê tởm”, nhưng được “hưởng phúc trường sinh”, ta cần chọn lựa một lối sống theo Tin Mừng của Chúa. Đó là trọn một đời, ta nỗ lực sống đẹp lòng Chúa, sống phù hợp luật pháp của Chúa, phù hợp thánh ý Chúa.

Trước mọi quyết định, mọi hành vi, mọi tư tưởng, mọi lời nói…, ta cần tự hỏi, điều này có được phép không? Có phù hợp thánh ý Chúa không? Nếu không phù hợp, dù có phải trả bất cứ giá nào, ta cũng không bao giờ chạm đến. Nhưng nếu đó là điều đúng, mang lại giá trị cứu độ, thì dù phải chết, ta vẫn không được bỏ qua.

Hãy nhớ, cái chết không trừ ai. Bởi nó là kết của sống, cho nên sống là chạy về phía chết. Ngay trong sự sống đã chất chứa, đã tìm ẩn sự chết. Chết có trong sống, vì thế sự sống mới trở nên mong manh, yếu ớt. Cũng vì thế, bất cứ lúc nào, sự sống cũng đều có thể bị cắt đứt, bị sự chết cướp mất.

Quá khứ đi qua là cái chết đang gần đến. Bề dày thời gian và tuổi tác của một con người, là phần chết đã dày thêm lên, đã càng lúc càng xâm chiếm sự sống trong con người ấy. Bởi thế, được sống thêm ngày nào là ngày ấy đưa con người đến gần cái chết hơn. Được sống thêm một ngày, đồng nghĩa với việc chúng ta đánh rơi thêm một ngày trong quỹ thời gian của mình. Thời gian cứ thế sẽ vơi. Cho đến một ngày, không còn gì để vơi… Lúc đó chính là lúc chúng ta chấp nhận bỏ lại tất cả…

Dù chết là kết của sống, ta không bi quan, không sợ hãi. Ngược lại, sự sống càng mong manh, con người càng phải can đảm nhìn trực diện nó để mang về chiến thắng cho mình. Chuẩn bị đón cái chết trong từng giây phút sống là sự khôn ngoan của những ai biết mình phải chết.

Chúa Giêsu dạy chúng ta thái độ khôn ngoan ấy: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Và: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời… Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21, 34-36).

Thánh Phaolô đưa ra những hướng dẫn để ta sống một đời công chính, nhờ đó, niềm hy vọng đạt tới ơn cứu độ luôn luôn có cơ sở, có nền tảng: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”  (Rm 12, 1-2).

Những cái chết của anh chị em ra đi trước chính là lời nhắc nhở thâm thúy nhất, sâu lắng nhất, nhưng cũng hiện thực nhất, cụ thể nhất, để chúng ta chuẩn bị cho giờ chết của mình.

Người nữ giáo dân vừa chết trong tai nạn giao thông mà chúng ta nhắc đến bên trên, chỉ là một trường hợp trong vô vàn trường hợp đã từng xảy ra trong cuộc đời. Chúng ta cầu nguyện cho bà, cầu nguyện cho tất cả những người đã qua đời, xin Chúa, vì lòng xót thương, hãy trao ban hạnh phúc muôn đời cho tất cả những ai trung thành sống lề luật Chúa.

Nhưng trong khi cầu nguyện cho người đã khuất, chúng ta cũng nhớ đến phận mình. Rồi đây không ai sẽ mãi mãi hiện diện trên cõi đời này. Chúng ta xin Chúa cũng tha thứ những lỗi lầm của chúng ta. Xin Chúa đừng chấp tội, nhưng hãy nhìn vào thiện chí muốn sống đẹp lòng Chúa của chúng ta mà khoan hồng cho những gì chúng ta trót lỗi phạm.

Hãy luôn luôn nhớ: Chết là kết của sống!

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

LÀM VIỆC NHỎ VỚI MỘT TÌNH YÊU LỚN

LÀM VIỆC NHỎ VỚI MỘT TÌNH YÊU LỚN

(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (12, 41-44) trích đọc vào Chúa Nhật 32 thường niên)

Chúa Giê-su quan sát những người bỏ tiền dâng cúng cho đền thờ. Người thấy có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo bỏ vào hòm tiền hai đồng xu nhỏ, nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi thân. Lễ vật của bà tuy bé mọn nhưng gói ghém rất nhiều tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giê-su cho rằng bà goá nầy đã dâng cho Thiên Chúa nhiều hơn tất cả những người khác, vì tuy họ bỏ nhiều tiền nhưng không nhiều tình yêu.

Giá trị của một món quà

Đối với Chúa Giê-su, giá trị của món quà không tuỳ vào giá mua của món quà đó nhưng tuỳ vào mức độ yêu thương mà người cho đặt vào trong món quà.

Nếu có ai đó nài xin ta một số tiền mà ta chẳng muốn cho. Nhưng vì người ấy cứ nài nỉ mãi khiến ta bực mình nên cuối cùng, để tống cổ người đó đi, ta đem cả cọc tiền lớn, bực bội ném cho người ấy và nói: “Tiền đây! Lải nhải hoài!” Chắc chắn người kia, dù nghèo thiếu đến mức nào đi nữa, sẽ quay mặt bỏ đi, mang theo một mối căm hờn.

Trái lại, khi đứa con nhỏ trong nhà muốn mừng kỷ niệm hôn phối ba mẹ mà chẳng có gì để dâng, em lặn lội vào rừng ngắt một bông hoa dại nhỏ bé, đem về dâng lên ba mẹ với tất cả tình yêu thương. Chắc chắn ba mẹ em rất cảm động vì cảm nhận được nhiều yêu thương chứa đựng trong món quà bé nhỏ nầy.
Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa không phải là dâng cho Ngài nhiều món quà lớn nhưng là dâng tình yêu lớn. Dâng cho Thiên Chúa những món quà lớn hay những thành quả to lớn mà thiếu vắng tình yêu, thì lễ vật đó sẽ trở thành rỗng không và chẳng có giá trị gì.

Thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô, từng khẳng định cách mạnh mẽ điều nầy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (I Cr 13, 1-3)
Làm việc nhỏ với một tình yêu lớn

Mẹ Tê-rê-xa Calcutta cảm nhận sâu sắc bài học trên đây của Thánh Phao-lô nên Mẹ không chủ trương làm những công việc to lớn, nhưng thường xuyên làm những việc nhỏ với tình yêu lớn. Trong bức thư gửi cho Đức Cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, Mẹ Tê-rê-xa viết: “Điều đáng kể không phải là số lượng công việc ta làm, nhưng là mức độ tình yêu mà ta đặt vào trong mỗi công việc.” Thế nên, khi tiếp xúc với bất cứ ai, Mẹ Tê-rê-xa đem hết lòng yêu thương người ấy như thể đó là người duy nhất trên đời trong giây phút đó.

Cảm hứng từ bức thư trên đây của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận viết: “Kinh nghiệm đó đã củng cố trong tôi ý niệm là phải sống mỗi ngày, mỗi phút giây của cuộc đời ta như là phút giây cuối cùng…”

Và ngài quyết tâm thực hiện từng công việc nhỏ bé hằng ngày, từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với tình yêu lớn và biến những phút sống hiện tại thành những giây phút đẹp nhất cuộc đời, như ngài viết: “Mỗi chữ, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định… phải là những phút giây đẹp nhất đời ta. Chúng ta phải thương yêu mọi người, chúng ta phải tươi cười với mọi người mà đừng đánh mất một giây phút nào.” (Đức Cố Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận)
Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con cố gắng thực hiện từng công việc bé nhỏ và từng cuộc tiếp xúc hằng ngày với một tình yêu lớn.

Hy vọng khi những hy lễ bé nhỏ nầy được dâng lên cho Chúa mỗi ngày, Chúa cũng sẽ rất hài lòng với lễ vật của chúng con như Ngài đã đánh giá cao lễ mọn của bà góa nghèo năm xưa trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

TIN MỪNG Mác-cô 12, 41-44

Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

Tác giả:  Lm. Inhaxio Trần Ngà

CON ĐƯỜNG HẠT LÚA

CON ĐƯỜNG HẠT LÚA

  ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo.  Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma.  Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất.  Không khí trong hang thật lạnh lẽo.  Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ.  Người sống phải đấu tranh với cái chết.  Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người.  Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ.  Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này.  Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.

  Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ.  Không phải chỉ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm.  Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.  Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”  Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất.  Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm.  Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát.  Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú.  Cả châu Âu đã tin theo Chúa.

image002 Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự.  Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ.  Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo.  Nào là cấm cách bắt bớ.  Nào là đe dọa bạc đãi.  Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh.  Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo.  Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo.  Và nhất là lên án tử hình những người có đạo.  Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc.  Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù.  Nếu không cũng bị xử án tử hình.  Có đấng bị chém đầu.  Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa.  Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo.  Có đấng bị kết án cho voi dày.  Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao.  Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.

 Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm.  Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo.  Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người.  Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú.  Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa.  Nếu đang gặp khó khăn trong đời sống đạo, ta hãy an tâm.  Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá.  Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua.  Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa.  Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bội thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.

 Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.  Amen.

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Mỗi lần em về là gió lộng đường đi,

“Mỗi lần em về là gió lộng đường đi,”

Anh nhìn em bồi hồi trông theo tà áo
Nhẹ gót thắm vào mãi đáy tim tôi
Từ đó nhớ khôn nguôi và chiều chiều thấy đơn côi.”

(Tuấn Khanh – Từ Đó Khôn Nguôi)

(1 Timôthê 5: 13-16)

Trần Ngọc Mười Hai

Lại vẫn bảo: nếu hiểu tự-vựng “Em” khác hẳn ý của người viết nhạc, thì bạn và tôi, ta sẽ thấy khác và rõ hơn. Khác và rõ, là những gì “thắm vào mãi đáy tim tôi” “chiều chiều thấy đơn côi” cứ là thế.

Viết giòng này, bần đạo đây thấy rõ là việc: dùng tự-vựng “Em” thay cho cụm-từ “Tin Vui”/“Tin Mừng” hoặc Phúc Ấm/Lời của Đấng Tối Cao, vv.. có lẽ sẽ có bạn không đồng ý cho lắm hoặc sẽ phản-đối liên-hồi chuyện như trên.

Thế nhưng, với vị Tổng Giám Mục họ Spong tên John ở Mỹ, thì ý-nghĩ này, cũng có cái hay nhưng lại khác. Hay và khác, như câu nhạc ở bên dưới vẫn tiếp-tục hát tiếng “yêu Em”, là những xưng hô mà đôi lúc bạn và tôi, ta cứ hát hoài hát mãi những lời ca như sau:

“Lúc gặp em lòng định nói rồi lại thôi,

Nhưng hồn tôi tựa trời giông đang nổi gió.

Tình nghệ sĩ là thắm cánh môi tươi,

Là gió cuốn mây trôi là thì thầm nói “yêu em”.

(Tuấn Khanh – bđd)

Với Đức Tổng thuộc Giáo-hội “đàng ngoài” bên Anh Giáo, hoặc “đàng trong” bên Công giáo, thì việc trở về với giòng chảy “Lời Chúa” có nhận-định như sau:

“Tác-giả Paul Tillich có lần nói: “Kinh thánh là chủ-đề để ta diễn-nghĩa rồi chuyển-tải mà không một học-thuyết cũng như ngôn-sứ, linh-mục hoặc quyền-lực nào dám yêu cầu cấm vận không cho ai được tiếp-cận với Sách này hết! Đối với tôi, Sách thánh là Sách rất thâm-sâu/huyền-nhiệm chứa-đựng một thứ quyền-uy/sức mạnh rất lạ kỳ.

 Đã từ lâu, Sách này thuộc loại bán chạy nhất mỗi năm, kể từ ngày phát-hành đầu tiên. Không lạ gì, khi mọi người đều nhớ lại lúc nhà xuất bản Gutenberg làm cuộc cách-mạng đầu tiên ra mắt với thế-giới về in ấn, thì chính Sách thánh lại là ấn-phẩm đầu có được bản kẽm, mới sáng-chế.

 Thế-giới hôm nay, hoạ-hoằn lắm mới thấy có văn-chương/ngôn-ngữ hoặc thổ-ngữ nào không đem Sách này ra mà dịch-thuật cho con dân mình đọc. Truyện kể, lời lẽ và các câu văn trong Sách thánh lâu nay đã thẩm-nhập vào các nền văn-minh/văn-hoá khắp trần-gian, thậm chí còn thẩm-thấu đến tận đáy sâu của tiềm-thức của nhiều người.

 Ản-hưởng của Sách thánh cón đánh động nhiều vào các ngành nghệ-thuật văn-hoá của nhiều nước, đặc-biệt là nghệ-thuật phim-ảnh, còn gọi là “Nghệ-thuật thứ 7”, ở Âu Mỹ. Cụ-thể hơn, rất nhiều phim-bộ từng sử-dụng nội-dung hoặc truyện kể lấy từ Sách thánh làm đầu đề hoặc cốt truyện cũng như chủ-đề để mọi người suy nghĩ.

 Đặc-biệt như các bộ phim nổi tiếng thế giới, trong đó có phim “Hoa Huệ Ngoài Đồng” (rút từ trình-thuật Mát-thêu đoạn 6 câu 28), một bộ phim được sản-xuất vào năm 1968 đã giúp cho tài-tử Sidney Poitier đoạt giải Oscar về Tài-tử hay nhất. Phim “Thừa-Hưởng Từ Gió” rút từ sách Châm ngôn đoạn 11 câu 29) là bộ phim cổ-điển nói về cuộc kiện-tụng giữa Bang Tennessee chống lại John Thomas Scopes xảy ra vào năm 1925. Phim này do Spencer Tracy đóng vai Clarence Darrow và Frederic March thủ vai William Jenning Bryan.

 Và, bộ phim mang tự-đề là “Lờ mờ Trong Gương” (rút từ thư thứ nhất Côrinthô đoạn 13 câu 12), một tuyệt-phẩm tạo tên tuổi cho đạo-diễn Ingmar Bergman… Rồi cứ thế, lại có các phim nổi tiếng rút từ truyện Cựu-Ước như: 10 điều Giáo-lệnh, Samson và Đalilah, Đavít và Bétsêđa, Barabbas, và mới đây nhất là bộ phim kể tryện Thương Khó Đức Giêsu do Mel Gibson thực hiện…

 Lời lẽ cũng như tư-tưởng của Sách Thánh xưa nay từng giúp phong-phú-hoá các bài diễn-văn hoặc giảng-thuyết của nhiều đấng bậc vị-vọng. Có vị còn trích-dẫn cốt truyện hoặc câu nói của nhiều nhân-vật trong Sách thánh để diễn-giải mọi hành-xử khác nhau như dấu chỉ của sự an-bình, tự tại. Chí ít, còn gạn lọc và tẩy sạch nền văn-hoá của nhiều nước trong quá-trình hơn 2 ngàn năm nay.

 Ngay cả lịch-sử thế-giới ở Phương Tây vốn đa-dạng là thế, Sách Thánh vẫn để lại nhiều dấu vết của niềm đau, nỗi sợ và những vết đọng đầy những máu hoặc chết chóc; tức: những gì mà mọi người bình-thường không thể nào phản-bác, chối bỏ. Yếu-tố này, lại thường cho phép con người đi vào hệ-thống ý-thức thật rõ nét. Lời ở Sách thánh được nhiều người sử-dụng không chỉ với mục-đích giết-chóc ai khác, mà còn để biện-minh cho hành-tung chém giết lẫn nhau, nữa.

 Và, Sách Thánh vẫn không ngừng được cả những người từng cho rằng mình có niềm tin vào Lời của Chúa để o ép người khác, mà theo các kẻ tin này, thì họ là những người được định-nghĩa rất “trân-trọng” ở các trang giấy như đấng bậc linh-thiêng, thần-thánh…

 Nhưng, cuối cùng thì cũng có người đặt ra những thắc mắc, hỏi rằng: làm sao một cuốn Sách nổi tiếng là “thánh-thiện” được rất nhiều người ở trời Tây trân-quý đến như thế lại có thể là nguồn-gốc của rất nhiều chuyện tàn-ác, xấu-xa, được? Làm sao con người lại có thể sử-dụng Sách này để quay lòng vòng rồi đưa vào một kết-đoạn nào đó? Làm sao Sách Thánh như thế, một lần nữa, lại được coi như nguồn-gốc cuối cùng của sự sống? Hoặc, phải chăng cũng quá trễ, và Sách Thánh lại trở nên mờ-nhoè, lấm tâm nhiều vết nhơ, vết máu?” (X. TGm John S Spong, The Sins of Scripture, HarperCollinsPublisher 2005 tr ix-xvi)

Nhận-định của Đức “Tổng” thuộc Đạo Chúa ở Mỹ, thì như thế. Ca-từ nghệ-sĩ lại như sau:

“Một đời chờ mong nhau em ơi!

Tìm nhau cuối trời, gặp nhau giữa đời.

Này em! Hỡi em người yêu dấu.

Môi hồng tươi thắm biết đâu!

“Dành tặng mình anh”

(Tuấn Khanh – bđd)

Và, cứ thế bạn hoặc tôi, ta lại sẽ hát hoài/hát mãi những lời nối tiếp ở bài ca trên như sau:

“Có nhiều khi lòng quạnh vắng tựa mùa Đông.
Nhưng ngờ đâu một mùa Xuân đang triền tới.
Hồn chới với tình ngỡ đã chia phôi.
Chợt bỗng ngát lên ngôi và đường đời bước chung đôi.”

(Tuấn Khanh – bđd)

Với nhà Đạo, hỏi rằng: có tiếng hát nào như thế không? Thì, có lẽ sẽ có vị cho rằng: trả lời câu này không quan-trọng bằng đặt câu hỏi: hát bằng tiếng/giọng trổi-trang cả những điều thiên-hạ từng nghe và từng hát mãi. Duy có điều, là: nhiều vị vẫn không dám nói hoặc cãi lại chỉ vì lý-do nào đó, như lập-trường của đấng bậc khác, nói về Kinh Sách rất như sau:

“Nhà văn Leon Tolstoy bắt đầu học hỏi Kinh Thánh là từ năm 1879. Lúc đầu, ông nghĩ rằng làm thế chỉ để rọi sáng tâm-thân mình, thôi. Về sau, ông lại triển-khai tâm-tình mình tìm gặp vào những tháng ngày sau khi có dự-định án dịch lại cả 4 sách Tin Mừng và tổng-hợp vào chung một truyện kể, thôi. Công việc này khiến ông mất đến ba năm, nhưng đã biến-đổi con người ông rất nhiều. Về sau, ông gọi đó là “thời tập-trung cô-đọng” và là thời-khắc ông chú-tâm vào các nỗ-lực say mê chuyện tâm-linh, thần-hồn. Nếu sử-dụng ngôn-từ của Sofia Andreyevna, là vợ hiền yêu quí của ông, thì: đây là lúc khiến cho Tolstoy trầm-tĩnh, tập-trung im ắng hơn bao giờ hết.

 Mục-đích của Tolstoy khi ông điều-nghiên Tin Mừng của Đạo Chúa là cốt tìm gặp lại giáo-huấn thanh-khiết hữu-dụng của Đức Kitô, hầu giải-phóng nó khỏi lớp rỉ sét ở ngôn-từ nghi-thức với Kinh sách, để rồi bỏ đi phần tín-lý đầy giáo-điều và tính siêu-nhiên mà Giáo-hội gán-ghép vào đó. Để minh-hoạ phương-án rất riêng-tây này, bạn hiền Ivakin của ông nhớ đến lời lẽ ông từng bảo: “Việc Đức Kitô sống lại đã có ý-nghĩa gì đối với tôi không? Nếu Ngài sống lại thật, thì Thiên-Chúa sẽ chúc phúc Ngài. Vấn-đề quan-trọng với tôi, là: Tôi sẽ làm gì đây? Tôi phải sống thế nào chứ?”

 Dự-án do ông tạo cho chính mình, thật ra là đường-hướng triển-khải tâm-linh của chính ông. Điều đó, xem ra đã củng-cố kết-tinh với một thắng-lợi ông cảm nhận được khi tìm cách phiên-dịch 10 câu đầu trong Tin Mừng của tác-giả Gioan, qua đó ông thấy gần-gũi thiết-thân với câu nói ở “Lời Tựa” khi tác-giả viết: “Lúc Khởi-đầu đã có Lời” và câu tiếp theo lại nhấn mạnh rằng: “Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không có Ngài thì không gì thành sự. Điều đã thành sự nơi Ngài là Sự Sống và sự Sống là sự Sáng cho nhân-loại.”(Ga 1: 1, 3-4)

 Và, tác-giả Leon Tolstoy thấy việc ông sử-dụng “kiến-thức về sự sống” là do “Lời”, được xác-chứng theo triết-lý và khởi-đầu này, đã làm cho dự-án của ông nên tiêu-biểu. Ông đã quảng-diễn ngôn-ngữ ấy, gột bỏ đi một số ngôn-từ khỏi những điều mà Giáo-hội ta xưa nay hàm-ẩn, cốt để bộc-lộ một bản văn thích-hợp với sự-thật linh-đạo cho sâu-sắc hơn và ông thấy mình phát-hiện được điều này trong quá-trình học-hỏi Tin Mừng, cho riêng mình.

 Đặc-biệt hơn, ông lại diễn-ý các truyện kể Kinh thánh nói về việc Đức Giêsu từng làm nhiều sự lạ lùng. Với tác-giả Leon Tolstoy, việc nhân rộng cá và bánh trở-thành bài học sẻ-san mọi thứ cho cộng-đoàn; bởi những người theo chân Đức Giêsu đều học được cung-cách “cho đi” thức ăn, của cải và tiền bạc mình kiếm được.

 Và, truyện kể về người mù được sáng mắt, là ẩn-dụ nhẹ trong đó việc tái-tạo thị-kiến phải hiểu như một thứ “soi sáng tâm-linh”. Và, việc Đức Giêsu chịu cám dỗ thời mới sớm ở hoang-địa mang ý-nghĩa đối-thoại với chính Ngài, kiểu Socrates…” (X. Leon Tolstoy, The Life of Jesus: The Gospel in Brief, Harper Perennial 2011 tr. viii-ix)

 Tìm gặp sự thật ở dụ-ngôn/truyện kể hoặc nơi lời nói cũng như hành-xử của Đức Giêsu, là tìm và gặp bài học vô giá được tác-giả Leon Tolstoy khẳng-định khi ông nói về ẩn-dụ hoặc các sự lạ theo nghĩa bóng chứ không theo nghĩa đen tuyền, u-ám. Thế nên, từ đó ta có quyết-tâm sống Đạo ở đời. Tìm và gặp tư-tưởng làm nền, nơi thi-ca/văn-nghệ mà nghệ-sĩ xưa từng sáng-tác:

“Một đời chờ mong nhau em ơi.

Tìm nhau cuối trời, gặp nhau giữa đời.

Này em! Hỡi em người yêu dấu.

Môi hồng tươi thắm biết đâu!

“Dành tặng mình anh.”

 Có nhiều khi lòng quạnh vắng tựa mùa Đông.
Nhưng ngờ đâu một mùa Xuân đang triền tới.
Hồn chới với tình ngỡ đã chia phôi.
Chợt bỗng ngát lên ngôi

và đường đời bước chung đôi.”

(Tuấn Khanh – bđd)

 Cuối cùng thì, “Đường đời bước chung đôi” còn là ý/lời ở mọi nơi, mọi thời, người người đều muốn sống. Diễn-tả ý-tưởng này bằng thơ-văn/nhận-định và cuộc chuyện trò giữa thày/trò còn như câu truyện kể nhè nhẹ ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Một bữa nọ, hai thầy trò cao tăng ngồi nói chuyện với nhau:

Đệ tử: Thưa thầy, đạo Phật khuyên người ta buông bỏ mọi thứ đúng không?

Sư phụ: Không đúng!

Đệ tử: Rõ ràng có câu “buông bỏ tất cả” đấy thôi?

Sư phụ: “Buông bỏ tất cả” để làm gì?

Đệ tử: Đúng thế, đệ tử cũng thấy rất nghi ngờ! Đệ tử thấy Phật giáo luôn nhìn vấn đề tiêu cực. Nhiều người hỏi đệ tử: “Nếu mọi sự đều buông bỏ thì lấy đâu ra tiền? Quần áo? Mọi người đều không làm việc thì thế giới này sao có thể tồn tại?”

Sư phụ: Mọi sự buông bỏ thì dẫn đến sụp đổ, cái gì cũng không buông bỏ thì cũng dẫn đến sụp đổ.

Đệ tử: Như vậy phải làm thế nào?

Sư phụ: Thay thế và hoán đổi!

Đệ tử: Nhờ thầy chỉ rõ cho con!

Sư phụ: Con có thể kêu một người ăn mày cam tâm cho con số tiền đang nắm chặt trong tay họ không?

Đệ tử: Không thể được.

Sư phụ: Con có thể dùng hòn sỏi đổi lấy số tiền trong tay người ăn mày không?

Đệ tử: Con nghĩ không được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì tiền đáng giá hơn.

Sư phụ: Vậy nếu dùng vàng để đổi thì sao?

Đệ tử: Vậy thì được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì vàng đáng giá hơn.

Sư phụ: Vì thế, cách buông bỏ đơn giản nhất chính là hoán đổi. Nguyên nhân khiến người ta không buông bỏ là vì không giành được thứ tốt hơn. Dùng thức ăn chay thay cho thức ăn mặn, con sẽ buông bỏ được con dao mổ; dùng bố thí thay cho giành giật, con sẽ buông bỏ được lòng tham; dùng tín ngưỡng thay cho hư vô, con sẽ buông bỏ được nỗi trống rỗng; dùng trí tuệ thay cho ngu dốt, con sẽ buông bỏ được cố chấp; dùng chính niệm thay cho tạp niệm, con sẽ buông bỏ được ngông cuồng; dùng nhẫn nại thay cho báo thù, con sẽ buông bỏ được giận dữ; dùng yêu thương thay cho tham lam, con sẽ buông bỏ được đau tim. Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán đổi.” (Theo SecretChina Tinh Vệ biên dịch)

             Theo dõi truyện kể nhẹ đầy nhận-thức sâu-xa rồi, tưởng cũng nên ghi thêm đôi lời khuyên-răn vàng ngọc từ bậc thánh-hiền, sau đây:

“Hãy chuyên-cần đọc Sách Thánh

trong các buổi họp,

chuyên-cần khuyên-nhủ và dạy dỗ.

Đừng thờ ơ với đặc-sủng đang có nơi anh,

đặc-sủng Thiên Chúa đã ban cho anh

nhờ lời ngôn sứ,

khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh.

Anh hãy tha thiết với những điều đó,

chuyên chú vào đó,

để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh.

Anh hãy thận trọng trong cách ăn, nết ở

và trong lời giảng dạy.

Hãy kiên trì trong việc đó.

Vì làm như vậy,

anh sẽ cứu được chính mình,

lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy.”

            (1 Timôthê 5: 13-16)

Tiếp-cận Lời Vàng đều-đặn, bạn và tôi cũng sẽ gặp toàn chuyện vui, trong đời. Rồi từ đó, sống Đạo cách đích-thực qua ẩn-dụ ghi ở Kinh Sách. Dù, mặt ngoài cuộc đời, người người đều đã và đang tiếp-cận với thực-tế ngang qua mọi chuyện.

Chuyện gì thì chuyện, dù tốt/xấu, hay ho hoặc đáng chán, cũng là thực-tế đời người có buồn/vui lẫn lộn.

Kể gì thì kể, tưởng cũng nên kể thêm một truyện kể ngăn ngắn để kết thúc buổi luận/phiếm đường dài “hôm nay” bằng đôi giòng kể ngắn như sau:

“Có một người nông dân muốn mua đất, ông ta nghe nói một người ở vùng khác có đất muốn bán, liền quyết định đến đó hỏi thăm. Người bán đất nói với ông ta rằng: “Chỉ cần giao một nghìn lạng bạc, ta sẽ cho ông thời gian một ngày, bắt đầu tính từ lúc mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn xuống núi, ông có thể dùng bước chân khoanh tròn được bao nhiêu đất, thì số đất đó sẽ chính là của ông, nhưng nếu ông không trở về nơi khởi điểm, thì ngay cả một tấc đất ông cũng sẽ không có được”.

 Người nông dân đó nghĩ thầm: “Nếu như hôm nay ta vất vả một chút, đi nhiều đường hơn một chút, thì chẳng phải có thể đi được vòng rất lớn, theo đó sẽ có được một mảnh đất rất lớn hay sao? Làm ăn như vậy quả thật là rất có lợi!”. Thế là ông ta liền ký kết giao ước cùng người chủ đất đó.

 Mặt trời vừa mới nhô lên, ông ta liền cất bước thật dài đi nhanh về phía trước; đến giữa trưa, bước chân của ông vẫn không dừng lại giây phút nào, cứ mãi đi về phía trước, trong lòng nghĩ: “Hãy ráng chịu đựng một hôm nay, sau này sẽ có thể hưởng thụ hồi báo của vất vả hôm nay mang đến rồi”.

 Ông ta cứ thế tiếp tục đi về phía trước, đến khi mặt trời sắp lặn rồi mới chịu quay trở về, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không về kịp thì một tấc đất cũng chẳng có. Thế là ông ta vội vàng trở về theo đường tắt. Tuy nhiên, mặt trời sắp xuống núi, ông ta đành phải liều mạng mà chạy, cuối cùng chỉ còn thiếu vài bước thì đến vạch khởi điểm, nhưng sức lực đã cạn kiệt, ông ngã nhào xuống nơi đó.”

Và,người kể lại có thêm lời bàn, rất nhận-định, rằng:

 Dục vọng của con người và ranh giới với hiện thực mãi mãi cũng không cách nào vượt qua được, bởi lòng tham là vô đáy. Con người mãi mãi không biết thỏa mãn, đây chính là khuyết điểm lớn nhất trong nhân cách.

Kể và bàn như thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hướng về phía trước hăng say hát nhạc Việt mình, dù đôi lúc thấy nó cũng lạ nhưng vẫn hát. Hát lên rằng:

“Mỗi lần em về là gió lộng đường đi,
Anh nhìn em bồi hồi trông theo tà áo.
Nhẹ gót thắm vào mãi đáy tim tôi.
Từ đó nhớ khôn nguôi và chiều chiều thấy đơn côi.

 Lúc gặp em lòng định nói rồi lại thôi,

Nhưng hồn tôi tựa trời giông đang nổi gió.

Tình nghệ sĩ là thắm cánh môi tươi,

Là gió cuốn mây trôi là thì thầm nói “yêu em”.

(Tuấn Khanh – Từ Đó Khôn Nguôi)

 Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn nghĩ rằng

Tiếng hát hay nhất đời

Là nói tiếng “Yêu Em”

Dù Em đây có là nhà Đạo

Hay trường đời. 

Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua

 “Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua”

(Dẫn từ thơ Hà Huyền Chi)

Mai Tá lược dịch

Đức Piô XI thiết lập lễ Kitô Vua, khởi đầu năm thánh 1925. Đại lễ bắt nguồn gần nửa thế kỷ trước, hồi thập niên 1880, khi mà nhiều Giám mục ở Châu Âu lo âu thấy rõ phong trào tục-hoá nhà Đạo đã nổi lên. May thay, trào lưu phàm tục này đã không lập lại vào các thế kỷ về sau.

Ưu tư lo lắng của các giám mục thời bấy giờ, là: sao ta lại để cho quyền hành trần thế ngày một lấn lướt, tạo thế “hơn hẳn”, chống trả thần quyền, đến như thế? Đặc biệt hơn, các Giám mục ở Pháp và Ý đã ý thức được tầm quan trọng cần thờ kính Đức Giêsu Kitô Vua-Cha của vũ trụ. Và, lòng sùng kính Đức Kitô-Vua từ đó phát triển mạnh, mãi đến hôm nay.

Năm 1922, Đại Hội Thánh Thể ở Rôma, có 69 vị Hồng-y Giáo-chủ đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng hãy cho phép thiết lập đại lễ mừng kính Vua Cha Cao Cả, cho mọi người. Suốt ba năm, đền Vatican tràn ngập những thỉnh nguyện thư, cùng đòi hỏi Giáo hội phải làm việc gì để mừng kính Đức Kitô Vua. Vua trần gian. Vũ trụ. Loài người. Và chung cuộc, thì lễ Đức Kitô Vua đã thành hình và tiếp tục đến ngày hôm nay.

Với Tân Ước, dù Chúa nói đến Vương Quốc Nước Trời, dù Ngài có được tung hô vạn tuế như Vị Vua Cao Cả, Đức Giêsu vẫn quả quyết: Vương quyền của Ngài hoàn toàn khác biệt vương triều của vua chúa trần gian như César, Hêrôđê, hoặc cả đến Đavít, và các Vua Do-thái nữa. Với tín hữu tiên khởi, người người thấm nhuần, ghi tạc tình Vua Tình Yêu chẳng bao giờ thiếu.

Trước năm 324, có rất ít tác phẩm nghệ thuật cũng như văn-bản sử-liệu trình bày Đức Giê-su như vị Vua Cha Cao Cả. Năm đó, hoàng đế Constantine vừa tham gia cộng đoàn dự tòng, đã biến Đạo Chúa thành Đạo uy phong lẫm liệt cho Đế quốc ông trị vì, để tỏ bày lòng yêu thương đức Vua, như một người Cha.

Cũng từ đó, nghệ thuật trong nhà Đạo đã xuất tác các tượng hình, ảnh mẫu diễn tả Đức Giê-su mặc long bào phẩm phục của Vua Chúa, tay cầm quả cầu, tượng trưng cho Vua Trái Đất. Vua Hoàn Cầu.

Thế đứng của Đức Kitô-Vua trông uy nghi, tráng lệ. Và, Đức Maria, Mẹ Ngài cũng trở thành Nữ Vương Thiên Đàng, đầy tình yêu thương của Mẫu Hậu. Điều này cũng dễ hiểu. Chí ít, là vào thời mà con dân Đạo Chúa bị triền miên bách hại, trong nhiều tháng. Từ đó, Đạo Chúa tôn kính Đức Kitô-Vua đã trở thành sức mạnh uy phong, tồn tại cùng với nhân gian, ở trần thế.

Có thể coi đây là thành công lớn của thần quyền, có dân gian. Tuy nhiên, dân gian phàm trần vẫn cần đề cập nhiều đến không gian thần thánh, cao cả hơn. Chốn không gian biểu lộ tính chân phương đích thực của Đức Kitô, Vua Vũ Trụ. Vua oai phong. Hiền từ. Nhân hậu.

Từng thế kỷ và thế kỷ, trôi qua. Cả đế quốc hùng mạnh của Constantine, cũng không tồn tại. Nhưng, các đặc trưng/đặc thù thời vua chúa nơi nhà Đạo, vẫn ở lại mãi với ngôn ngữ và phong cách của Giáo hội, rất hôm nay. Cần thí dụ, ta có thể dẫn chứng khi nói về nơi ăn chốn ở của các vị Giáo hoàng, các Giám mục mà ta có thói quen đặt cho cái tên như “dinh”, như “toà”. Và, phẩm phục đại lễ của các ngài, vẫn mang dáng dấp áo mũ/cân đai rất long trọng. Đắt tiền.

Vấn đề còn lại, là: các tài sản và báu vật lịch sử ấy, đã phần nào đối chọi và mâu thuẫn với điều mà Đức Chúa nói về Ngài. Về phong cách của vị Vua Cha vẫn trị vì cả và thế gian. Nói cho cùng, tính chất vua quan, lãnh chúa của Ngài, đã được ghi vào khuôn khổ của trình thuật Thương khó. Rất thống khổ.

Phúc âm thánh Gio-an hôm nay, được rút từ văn bản nổi tiếng của Tân Ước, trong đó có quả quyết của Chúa về tính Vua-Cha, đối với thần dân, ở cõi thế: “Ngài tự nói điều ấy. Chính ngài nói Tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng Tôi”.

Với thế giới hôm nay, số vua quan nữ hoàng dám nói điều đó với dân đen/quần thần, quả rất ít. Tệ hơn, chẳng vua quan nào yêu dân đến độ sẵn sàng hy sinh cho họ. Chết cho họ. Ngược giòng lịch sử, ta hiểu rằng: khi sự thật về tình yêu Vua-Cha hy sinh như thế, đều mang sắc màu của một Thương Khó. Và, đây mới là sự thật về tính chất vua chúa/quan quyền mà trần gian không thể thấy.

Vua quan/lãnh chúa ở trần gian, bao giờ cũng thấy khó có thể hy sinh, cho một ai. Càng khó hơn, khi họ phải thương yêu thần dân của mình đến độ hy sinh mạng sống của riêng mình, cho dân đen. Nhưng với Đức Kitô, qua tư cách Vua-Cha của mình, Ngài giàu lòng thương mến. Chẳng gây thương tổn, cũng chẳng làm hại bất cứ người nào trong dân mình. Là Vua-Cha vũ trụ, Ngài không đầu hàng thoái thác trước thương đau. Nhưng, vẫn rao truyền tình thương, bất chấp khó khăn. Ngài khuyên răn, bảo vệ thần dân của Ngài. Vẫn luôn mãi.

Là Vua Tình Yêu, luôn chấp nhận những thương cùng khó, Đức Kitô-Vua chẳng bao giờ bỏ mặc dân con chốn điêu tàn lẻ loi, đầy chết chóc. Vua Kitô vẫn bộc lộ lòng thủy chung rất mực của Vua Tình yêu. Vẫn một mực thương yêu trung thành với dân Ngài, cho đến chết. Và, lại là cái chết nhục nhã như tên trộm. Thua kém cả dân đen, hèn hạ.

Theo gương Ngài, ta chớ để quyền uy, sức mạnh của trần thế uy hiếp, dẫn dụ. Chớ nên để mắt mình mờ loà trước mọi hào nhoáng chóng qua, của tiền tài vật chất, khó chối từ. Theo gương Ngài, ta chớ dại mà dấn thân đeo đuổi những mồi chài lợi lộc cùng quyền uy của vua quan/thủ lĩnh nơi gian trần, đang lôi cuốn.

Trái lại, hãy ngước mắt lên mà hướng thượng. Hướng về Đức Kitô, vị Vua-Cha nhân hiền hằng thương yêu dân của mình, hơn mọi hoàng gia/lãnh chúa, chốn nợ đời. Bởi, chỉ mình Đức Kitô-Vua mới dám nói về Sự thật, với lòng thương yêu, trìu mến. Ngài không chỉ nói bằng lời, mà còn nói bằng việc chấp nhận bỏ mình để chứng minh cho sự thật Tình yêu, Ngài phú ban.

Đó là Sự thật rất khách quan. Sự thật, đến với mọi người, nơi trần thế. Sự thật, gửi đến với thần dân, Hội thánh. Sự thật về lòng thương yêu không bến bờ. Yêu thương mọi người. Yêu cả dân đen yếu hèn, hạ cấp. Yêu đến độ bỏ thân mình vì người mình yêu mến. Bỏ áo mão cân đai tài sản, triều đình. Bỏ, để chung sống vực dậy thần dân yếu hèn, đối tượng của tình Vua-Cha.

Trong tinh-thần cảm nghiệm về ý-nghĩa của Vua/Cha, ta ngâm lại lời thơ Vua, rằng:

“Miễn tội, em đừng bỏ phế Vua,

Trẫm muốn tru-di đám ngoại thần.

Cô, dì tỷ, muội chẳng can-ngăn,

Nơi nào em tối niêm phong hết,

Cho hả lòng đây nhớ ái-tình. Hà Huyền Chi- Bỏ Phế Vua)

 Không bỏ phế, nhưng vẫn tôn-trọng và phò Vua Kitô, chủ-tể vũ-trụ. Không bỏ phế, nhưng vẫn tuân-thủ lời khuyên dạy Ngài, chỉ-thị để sống với mọi vua/quan lãnh chúa hết người. Ở đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn   

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Ga 18: 33b-37)

Khi ấy, quan Philatô nói với Đức Giêsu rằng: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Ông Philatô trả lời:”Tôi là người Do-thái sao?Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” Đức Giêsu trả lời:“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi:“Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”