Ngôi Lời Là Ánh Sáng Ở Giữa Thế Gian Và Thế Gian Nhờ Người Mà Có!

Ngôi Lời Là Ánh Sáng Ở Giữa Thế Gian Và Thế Gian Nhờ Người Mà Có!

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Cuộc đời tội lỗi con đã được tẩy rửa trong Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ – RV

 Thầy làm vườn Urbano nói với Cha Giáo Tập Bruno:

– Anh chàng đến xin tu này có dáng điệu trông giống tên côn đồ hơn là kẻ đi tìm kiếm THIÊN CHÚA!

Rồi Thầy ghé tai Cha Bruno thì thầm:

– Cha nên cẩn trọng! Con đang chăm sóc mấy hàng cà chua bên dưới cửa sổ phòng khách. Nếu có gì nguy hiểm, Cha ra hiệu là con đến ngay!

Cha Bruno mỉm cười trả lời:

– Thầy an tâm! Đâu phải ai đến gõ cửa Đan Viện cũng đều phải là Thiên Thần cả! Vã lại, tôi quen việc thẩm định chân giả rồi!

Dầu nghe Cha Giáo Tập nói thế, Thầy làm vườn vẫn còn nghi ngờ. Thầy vặn lại:

– Cha cứ nhìn cái mũi méo xệch của anh ta thì đủ thấy. Sao giống cái tên chuyên nghề đấm đá quá! Do đó ..

Không để Thầy nói hết câu, Cha Bruno cắt ngang:

– Thôi được! Rồi chúng ta sẽ thấy! Vã lại Chúa đâu có phán xét chúng ta theo hình dạng bên ngoài mà theo các việc lành dữ chúng ta làm!

Nói xong, Cha Bruno đứng lên bước đến phòng khách. Nhìn qua cửa sổ, chàng trai quả trông giống một tên cướp! Cha Bruno nhủ thầm:

– Có lẽ Thầy Urbano có lý!

Vừa khi Cha Bruno bước vào, chàng trai giật mình đứng bật dậy như chiếc lò xo và tự giới thiệu cộc lốc:

– Bogdan Grela. Xin chào!

Cha Giáo Tập lịch sự đáp lại:

– Ngợi Khen Đức Chúa GIÊSU KITÔ!

Rồi Cha vui vẻ nói:

– Ơ kìa, anh không biết phải chào như thế nào cho đúng kiểu một tín hữu Công Giáo hay sao?

Sau mấy câu trao đổi, Cha Bruno biết ngay mình đang đối diện với tên đao phủ khét tiếng của nhà tù chính quyền cộng sản vô thần Ba Lan. Chính chàng đã treo cổ Cha Micae, vị Linh Mục bạn thân của Cha Bruno. Nhưng không mấy chốc sau đó, Cha Bruno đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chàng trai bắt đầu nói với Cha Bruno về những ngày sau cùng của Cha Micae.

Cha Micae không giống bất cứ tử tội nào khác. Cha nhìn cái chết với đôi mắt an bình. Cha không coi con như kẻ thù nhưng như người con, hay đúng hơn, đứa con đáng thương. Một buổi chiều, sau khi phát xong bữa ăn tối, con đi thẳng vào phòng giam và hỏi Cha Micae:

– Ông có chuyện gì vui mà cứ mỉm cười với tôi như thế? Ông không biết là trong vòng 10 ngày nữa người ta sẽ treo cổ ông sao?

Cha Micae bình thản trả lời:

– Bị treo cổ đâu phải là một bất hạnh! Bất hạnh thật chính là sống bất hòa với THIÊN CHÚA!

Cơn giận bốc cao, con nói:

– THIÊN CHÚA ư? .. THIÊN CHÚA cóc cần! Nếu không, sao Chúa ông không can thiệp để ông khỏi bị treo cổ?

Cha Micae vẫn nhẫn nhục nói:

– THIÊN CHÚA không cóc cần đâu! Bằng chứng là để cứu chúng ta, Ngài đã bị treo xác trên Thánh Giá mà!

Nói xong câu này, Cha Micae cất tiếng cười vang! Gương mặt an bình, tiếng cười của Cha Micae làm con càng hăng tiết hơn nữa. Con nói:

– Thánh Giá dành cho ông chứ không phải cho tôi!

Cha Micae càng cười to hơn và nói:

– Thánh Giá chính là cho bạn. Nếu Chúa chết, chính vì bạn mà Chúa chết đó! Bởi vì Ngài yêu bạn!

Những cuộc đối thoại với Cha Micae dần dần làm con hồi tỉnh. Con lần lượt kể cho Cha nghe tất cả tội lỗi tầy trời của con: từ tội trộm cắp đến tội cướp của giết người. Cuộc sống ”dã man rừng rú” ấy biến con thành tên đao phủ lý tưởng cho chính quyền cộng sản vô thần Ba Lan!

Sau khi nghe con kể hết tội trạng, Cha Micae hiền từ nói với con:

– Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ sẽ rửa con sạch mọi tội. Con có bằng lòng lãnh bí tích Giải Tội không?

Dĩ nhiên con chấp nhận ngay.

Ngày hôm trước khi bị treo cổ, Cha Micae gọi con vào phòng giam và nói:

– Con có thể tìm cho Cha một ít rượu trắng và bánh mì Giáng Sinh (bánh mì không men truyền thống Ba Lan mùa Giáng Sinh) không? Cha ước ao cử hành Thánh Lễ cuối cùng trong cuộc đời Linh Mục của Cha!

Con đi tìm ngay rượu bánh và đem đến phòng Cha Micae. Trước khi cử hành Thánh Lễ, Cha Micae ban phép giải tội cho con và ôm hôn con. Con hỏi:

– Sao Cha lại có thể hôn con, một tội nhân đáng ghê tởm?

Cha trả lời:

– Nếu Cha không giống con, không phải vì công lao gì của Cha, nhưng hoàn toàn nhờ ơn Chúa gìn giữ. Con cũng như Cha, chúng ta đều được Chúa cứu chuộc nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Chúa!

Trong Thánh Lễ, Cha Micae cũng cho con rước Mình và Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau Thánh Lễ, Cha Micae cho con địa chỉ của Cha và bảo con tìm gặp Cha, làm theo tất cả những gì Cha dạy bảo.

Nghe đến đây, Cha Bruno vô cùng xúc động. Cha nói:

– Cha tiếp nhận con như di chúc tinh thần của Cha Micae. Nhưng con nên nhớ kỹ điều này: cuộc đời tội lỗi con đã được tẩy rửa trong Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Từ nay, Cha khuyên con không được kể ra với bất cứ ai khác, ngoại trừ khi con quỳ trước Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cha cũng khuyên con không được nghĩ tới dĩ vãng, ngoại trừ để dâng lời cảm tạ hồng ân vô biên THIÊN CHÚA Nhân Từ ban cho con.

 (Câu chuyện xảy ra tại một đan viện ở Ba Lan trong thời kỳ đất nước Ba Lan còn sống dưới ách cai trị độc tài của chính quyền cộng sản vô thần).

 … ”Ngôi Lời là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con THIÊN CHÚA. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi THIÊN CHÚA” (Gioan 1,9-13).

 (Maria Winowska ”Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 114-121)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Giá Trị Vô Giá Của Đau Khổ

Giá Trị Vô Giá Của Đau Khổ

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Con xin dâng những đau khổ của con lên Chúa qua tay Mẹ Rất Thánh của Chúa. Xin Chúa tha tội cho con. Xin cho con được trở về với Chúa

(Chứng từ của ông Phaolô Trần Quang Minh sống tại bang California bên Hoa Kỳ về cuộc đời và cái chết lành thánh của bào tỷ thân yêu)

Cách đây không lâu, tôi qua Úc để gặp mặt chị tôi lần cuối, vì bác sĩ nói cuộc sống của chị chỉ còn đếm từng ngày. Chị tôi có một người con bị bệnh thần kinh và một người chồng rượu chè cờ bạc. Mỗi khi say, anh thường chửi la gây gổ làm cho cuộc sống của chị phải đau khổ rất nhiều. Đến một ngày, chị mệt phải vào nhà thương. Bác sĩ cho biết chị bị ung thư gan, gan không còn làm việc, sẽ chết một ngày rất gần. Nghe tin dữ, chị bị tinh thần sụp đổ, Đức Tin lung lay và bắt đầu than thân trách phận.

Trên đoạn đường từ Mỹ sang Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Úc, tôi mỏi mệt và buồn ngủ lắm, nhưng luôn cố gắng thức để cầu nguyện. Tôi nhớ đến đoạn đường xa xôi và khổ cực mà Đức Mẹ đã đi, để viếng thăm Bà thánh Isave. Khi vừa gặp Đức Mẹ thì Bà Isave tràn đầy ơn Thánh Thần. Tôi liền nài van, khẩn cầu Đức Mẹ: ”Xin Đức Mẹ hãy chiếm hữu lòng con để con đem ơn Thánh Thần đến cho chị con”.

Đến Úc, tôi vào ngay nhà thương để gặp chị. Câu nói đầu tiên là chị hỏi tôi: ”Em có bắc mối liên hệ được với Chúa không vậy?”. Tôi nhẹ gật đầu. Chị nói tiếp: ”Đời chị sao cứ khổ miết, khổ miết!”.   Tôi ở lại nhà thương để săn sóc chị vì chị bị căn bệnh ung thư hành hạ quá đau đớn. Chị nói với tôi: ”Trước đây, mỗi khi nghe đến trợ tử là chị chống đến cùng. Bây giờ chị mới thấy nó đúng!”. Có lúc chị tuyệt vọng la lên: ”Sao không có lối thoát vậy?”. Tôi xót xa nhìn chị và âm thầm cầu nguyện.

Mấy hôm sau, giờ phút thuận tiện đến. Trong phòng chỉ còn tôi với chị. Tôi quỳ xuống, cầm tay chị rồi nhìn thẳng vào mắt chị và nói: ”Chị không còn thời gian nữa. Chị phải sửa soạn tâm hồn để trở về với Chúa”. Chị trả lời: ”Chị không biết trở về làm sao? Không biết nói gì với Chúa!”. Tôi nói với chị: ”Dễ lắm! Chị có nhớ dụ ngôn người con hoang đàng không? Phúc Âm không kể nó bỏ đi bao lâu, nhưng chắc phải nhiều năm. Ngày ngày người cha nhìn ra xa xăm trông ngóng. Vì vậy khi nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó. Ông chạy tới ôm lấy nó hôn lấy hôn để. Già đâu còn sức để mà chạy, vậy mà ông đã phải chạy”. Chị tôi nói: ”Tại vì ông quá thương nhớ nó”. Tôi tiếp lời chị: ”Hiện tại ngay bây giờ, Chúa cũng đang trông ngóng chị, đang ước ao được ôm chị vào lòng, hôn lấy hôn để”. Nghe đến đây, nét mặt chị tôi lộ vẽ xúc động.

Tôi liền bảo chị: ”Chị hãy nhớ lại tất cả những khổ cực chị đã chịu để lo cho con, cho thằng Nguyên, những khổ cực chị phải chịu với chồng và nhất là những đau khổ của căn bệnh hiện tại chị đang chịu. Chị phải ‘muốn thật là muốn’ nó đã xảy ra cho chị!”. Ơ Hơ!!! Chị tôi trố mắt kinh ngạc nhìn tôi. Tôi giải thích cho chị nghe: ”Chớ thằng trộm dữ nó đâu có muốn đâu, nhưng nó cũng phải vác thập giá, rồi nó cũng chết, rồi nó rơi xuống hỏa ngục”. Nghe đến ”rớt xuống hỏa ngục” thì tôi thấy chị giật mình hoảng sợ. Tôi lại nói tiếp: ”Còn người trộm lành, đâu phải chỉ nhờ vào câu nói với Chúa: ‘Khi nào lên Trời xin Ngài nhớ đến con’ mà ông ta được vào thiên đàng ngay đâu. Ai có tội cũng phải đền tội. Sở dĩ ông được lên thiên đàng ngay là ở câu ông nói với tên trộm dữ: ‘chúng ta bị như vầy là đáng tội’. Câu nói đó có nghĩa là ông ta đã bằng lòng chịu những đau khổ ông đang chịu để đền tội cho những tội lỗi ông đã phạm. Khi chết mình không còn tự do để lựa chọn nữa. Bây giờ còn sống còn tự do, nếu mình thực lòng bằng lòng chịu khổ, chịu nhục, để đền tội, thì khi chết, những đau khổ mình phải chịu dưới luyện ngục, sẽ được giảm đi rất rất là nhiều lần. Vì vậy người trộm lành không còn cần phải xuống luyện ngục để đền tội nữa, vì ông đã đền tội đủ rồi”.

Rồi hai chị em bắt đầu cầu nguyện. Chị chậm rãi lập lại theo tôi: ”Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ, con xin bằng lòng chịu tất cả những đau khổ đã xảy ra trong cuộc đời con, đau khổ với chồng, với con và nhất là căn bệnh ung thư đang làm cho con phải đau đớn tột cùng, để đền bù những tội lỗi con đã phạm, làm đau lòng Chúa, làm buồn lòng chồng của con, con của con cũng như anh em con. Con xin dâng tất cả những đau khổ của con lên Chúa qua tay Mẹ Rất Thánh của Chúa. Xin Chúa tha tội cho con. Xin cho con được trở về với Chúa”.

Sau đó chị đã đọc Kinh Ăn Năn Tội chậm rãi, sốt sắng. Niềm Vui và Bình An rạng ngời trên khuôn mặt của chị.

Tôi nói tiếp với chị: ”Còn ông Simon đang đứng coi, bị quân dữ bắt vác đỡ Thánh Giá cho Chúa, nhưng khi kê vai vác rồi thì ông vác rất nhiệt tình”. Vậy chúng ta cùng cầu nguyện: ”Lạy Chúa, con xin lỗi Chúa vì từ bấy lâu nay con chỉ muốn Chúa chia sẻ cho con bình an và hạnh phúc của Chúa, còn những lúc đau khổ thì con để Chúa phải cịu một mình. Xin Chúa cho con từ nay được cùng chia sớt đau khổ với Chúa, được cùng vác Thánh Giá với Chúa”.

Lúc đó tôi ước gì mọi người nhìn thấy được khuôn mặt, ánh mắt của chị khi chị cứ lẩm bẩm lập đi lập lại: ”Cho con được cùng chia sớt đau khổ với Chúa, được cùng vác Thánh Giá với Chúa”. Tôi chưa từng thấy ai cầu nguyện một cách thiết tha, chân thành như vậy. Chị nói: ”Cầu nguyện như vầy tốt quá, từ giờ trở đi, cứ theo những ý này mà cầu!”. Tôi liền nói với chị: ”Những đau khổ chị đang chịu đây, nếu mà là chị chịu, thì chẳng giúp ích gì được cho ai, nhưng nếu là Đức Chúa GIÊSU đang chịu, thì lại là một chuyện hoàn toàn khác, sẽ cứu được rất rất là nhiều linh hồn”.

Rồi chị tôi và tôi cùng cầu nguyện như sau: ”Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ, con chỉ là người tội lỗi, hèn hạ, chẳng ra gì, nhưng để chứng tỏ quyền phép của Chúa, không phải Chúa và Mẹ thích dùng những gì hèn hạ nhất, chẳng ra gì nhất, để làm những chuyện lớn lao của Chúa sao? Vậy thì con đây, con xin dâng đời con lên Chúa qua tay Đức Mẹ, từ nay đời con không còn là của con nữa. Con không còn làm chủ cuộc đời con nữa. Con cũng không còn làm theo những gì con muốn nữa. Xin Chúa hãy dùng con để tiếp tục chịu trăm ngàn đau khổ, nhục nhã, xấu hổ một cách vô cùng bất công để đền tội cho nhân loại, để cứu các linh hồn, để làm cho mọi người nhận biết Tình Yêu bao la của Chúa mà trở về cùng Chúa”.

Vài ngày sau, chị kiệt sức. Bác sĩ cũng không hiểu tại sao với liều thuốc morphine tối đa như vậy mà cũng không làm giảm đi chút nào đau đớn của chị. Tôi thấy cứ một chút chị lại yếu ớt đưa tay lên làm dấu Thánh Giá. Và chị đã ra đi trong vòng tay yêu thương của Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA.

 … ”Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mátthêu 10,37-42).

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

ƠN THA THỨ – LÒNG THƯƠNG XÓT

ƠN THA THỨ – LÒNG THƯƠNG XÓT

Tác giả:  Lm. Trần Việt Hùng

Chúng ta đều là tội nhân. Ai trong chúng ta cũng cần đến lòng Chúa thương xót thứ tha. Chúa Giêsu đến trần gian để kêu gọi người tội lỗi, chứ không phải gọi người công chính. Truyện kể: Có một bà thánh thiện, chiều tối đi dạo quanh làng xóm một vòng, trước khi lên giường đi ngủ. Bầu trời quang đãng, các ngôi sao chập chờn và ánh trăng lưỡi liềm tuyệt đẹp. Bà cảm động sâu thẳm khi nhìn ngắm bầu trời. Bà ngưỡng mộ sự vĩ đại và huyền diệu của Tạo Hóa và các loài thụ tạo của Ngài. Với thân phận con người yếu đuối, bà qùy gối và cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa tốt lành và tuyệt mỹ vô song, xin đừng bao giờ để con phạm lỗi với Chúa, dù là một hành vi nhỏ nhất. Và bà đã nghe một giọng nói dịu dàng trong tâm: Hỡi con, nếu Cha chấp nhận nguyện vọng đó đối với mọi người, làm sao Cha có thể bày tỏ lòng thương xót và sự tha thứ vô bờ của Cha, điều này là một trong những cách thế rõ ràng nhất Cha để mọi người biết và cảm nghiệm tình yêu của Cha?

Trái tim yêu thương của Chúa là nguồn suối ân sủng không bao giờ khô cạn. Thiên Chúa luôn yêu thương Dân mà Chúa đã chọn, cho dù đã bao lần Dân bỏ Chúa chạy theo thờ lạy bụt thần dân ngoại. Chúa phạt họ đó, rồi Chúa lại thứ tha. Tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài (Tv 130, 3-4). Con người yếu đuối vì thân xác nặng nề, ước muốn thấp hèn và có khuynh hướng trở về với bản năng thú tính. Ưa thích những cảm giác mới lạ, những tư tưởng phàm tục và đòi hỏi thỏa mãn những khát vọng lạc thú. Con đường dốc rất dễ xuôi theo. Càng nhẹ bước, chúng ta càng lạc xa. Mọi sự trong cuộc sống đều theo kiểu trước lạ, sau quen. Quen riết rồi nghiền. Sống giữa một xã hội tục hóa, tiêu thụ, hưởng thụ và mọi thứ tạm bợ chóng qua. Sứ réo gọi chạy đua với cuộc sống làm cho chúng ta quay cuồng trôi chảy theo dòng. Cảm giác về tội lỗi không còn bén nhậy. Lương tâm không còn bị áy náy về sự sai trái và lỗi tội. Đây là điều chúng ta cần để tâm suy xét.

Tại sao chúng ta phải xin tha lỗi mình và tha thứ cho tha nhân? Chúng ta nhớ rằng sống là sống chung với người khác, nên chúng ta cần giúp nhau để nên hoàn thiện. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Colossê đã khuyên dạy: Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Col 3, 13). Sự tha thứ rất cần thiết để mọi người sống chung được hài hòa và hợp nhất. Nhân gian thường nói: Quá tam ba bận. Ba lần lỗi là tối đa rồi đó, đừng lỗi phạm nữa, nếu phạm thì khó mà tha. Đối với Chúa Giêsu giầu lòng thương xót thì sự tha thứ không có giới hạn: Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? ” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”(Mt 18, 21-22).

Như thế, trong bất cứ hoàn cảnh lỗi phạm nào, chúng ta vẫn có thể nhận được ơn tha thứ. Con người có thể không tha cho nhau, nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội rất quý báu, mời gọi chúng ta chạy đến với lòng nhân hậu của Chúa để nhận lãnh ơn tha thứ. Chúa có uy quyền tẩy xóa mọi lỗi lầm và đổi mới chữa lành con người cả hồn lẫn xác. Khi chữa bệnh cho người bị bại liệt, Chúa Giêsu đã phán: Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội. Bấy giờ Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà! (Mt 9, 6). Hoặc Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.”( Lc 7, 48). Quyền năng của Thiên Chúa vô biên, nhưng Ngài vẫn tôn trọng quyền tự do của con người. Chúa ban ân sủng một cách nhưng không, nhưng Chúa cần sự cộng tác của chúng ta. Mọi người cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Chúa mời gọi chúng ta thực hành việc bác ái này để xây dựng tình người. Chúa phán: Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em (Mt 6, 15).

Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự tha thứ. Chúa nài xin Chúa Cha tha cho chính những kẻ đã gây khổ đau, phản bội, chống đối và hành xử Chúa. Trên cây thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã thân thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lk 23, 34). Chúa Giêsu bênh đỡ những người đã làm hại Chúa. Chúa đã tha thứ cho họ và nại lý do rằng họ không biết việc họ làm. Phần chúng ta, có nhiều lần vô tình hoặc vô ý gây nên lỗi lầm phạm đến anh chị em. Cũng có rất nhiều lần chúng ta hiểu lầm và gây ra biết bao phiền não cho người khác. Chúng ta cũng có thể gây thương đau cho người thân yêu vì sự nghi ngờ, nhẹ dạ và cả nghe. Đôi khi chúng ta cũng đã cố ý phạm tội chia rẽ, gây đổ vỡ, thù óan, phản bội và xúc phạm đến tha nhân. Những tội lỗi này làm cho lòng của chúng ta ra trĩu nặng, u buồn, ai oán và sầu đau. Chúng ta có thể chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa để xưng thú, giãi bầy và xin ơn tha thứ: Lạy Chúa, tội con thật nặng nề, vì danh Ngài, xin lượng thứ cho con (Tv 25,11).

Đôi khi chúng ta có thể tha thứ cho anh chị em, nhưng lại khó quên. Tha rồi đó, nhưng mỗi lần nghĩ đến hay nhớ lại, lòng chúng ta lại quặn đau và xôi sục. Chúng ta nhớ rằng qua Bí tích Hòa Giải, khi chân thành sám hối và xưng thú tội đã phạm, chúng ta lãnh nhận hồng ân tha thứ và được tẩy sạch các tội lỗi. Chúa tha và Chúa quên luôn. Trong cuộc sống va chạm hằng ngày, vì sự nhỏ nhen, ích kỷ và kiêu căng, chúng ta rất thường xúc phạm đến anh chị em. Chúng ta luôn có thể làm hòa và tha thứ cho nhau: Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em (Mc 11, 25). Đây là liều thuốc rất hiệu nghiệm giúp chúng ta tìm được sự bình an đích thực trong tâm hồn.

Chúa Giêsu đã trao quyền tháo cởi và cầm buộc cho Giáo Hội qua các thánh Tông đồ và những người kế vị: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”(Ga 20, 23). Giáo Hội đã ủy quyền tha tội cho các linh mục là những thừa tác viên sống động để có thể giúp mọi người giao hòa cùng Thiên Chúa và tha nhân. Biết rằng các linh mục cũng là con người và là tội nhân. Các linh mục cũng yếu đuối phạm lỗi lầm như mọi người. Giáo Hội tin tưởng trao ban năng quyền cho các linh mục để tiếp tục phân phát ân sủng của Chúa qua các Bí tích. Các linh mục cũng cần ơn tha thứ và được tha thứ qua Bí tích Hòa Giải. Vì cũng là tội nhân, nên các linh mục cảm thông được những lầm lỗi, thiếu xót, yếu đuối và những cám dỗ thường xuyên trong đời sống. Nơi tòa cáo giải, các linh mục chia sẻ đồng phận với tội nhân và cùng sám hối cho chính tội lỗi của mình.

Chúa Giêsu hiến dâng hy tế trên thánh giá để đền thay tội lỗi cho nhân loại. Chúa phán: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội (Mt 26, 27). Máu châu báu của Chúa Giêsu đã đổ ra để chuộc tội cho chúng ta. Năm Thánh Lòng Thương Xót là thời gian đặc biệt, chúng ta hãy tìm đến lòng từ bi nhân hậu của Chúa để xin ơn tha thứ. Xin Chúa tha thứ cho chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ đã xúc phạm đến chúng con. Xin nguồn ân sủng của Chúa tràn đổ vào tâm hồn để chúng con tìm được sự bình an đích thực.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York

Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Chuyện Phiếm đọc trong tuần Giáng Sinh (25/12/2015)

“Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!”

Một hạt mưa lẻ loi.

Một hạt mưa trong đêm tối mưa bay dài.

Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Một giọt mưa, hạt nước mắt.

Hạt nước mắt hiếm hoi trong đời này!”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Ngô Đình Vận – Tình Khúc Chiến Trường)

 (Rm 11: 30-32)

 Trần Ngọc Mười Hai

Ừ thì, bạn muốn gửi gì thì cứ gửi. Gửi từ giọt mưa, nước mắt cho tới đốm lửa lạc loài hoặc bài hát hoặc thơ/văn đầy đủ nghĩa về bất cứ chuyện gì, như: chuyện thông-dịch, biên dịch và phiên-dịch được bàn nhiều, thời buổi này.

Nói gì thì nói, hễ bạn và tôi, ta lại cứ nói về những là thông-dịch, biên-dịch hoặc đơn-giản như phiên-dịch, thì: chỉ mỗi chữ “dịch” thôi, ta cũng có thể viết tràng giang đại hải thật nhiều trang giấy, cũng không chừng. Và, một khi đã nói hoặc viết về “dịch và thuật” thì có lẽ cũng phải nói đến chữ “thông”, ở cụm từ “thông-dịch”, tức: dịch cho thông, cho suốt, rất hoàn-thành trọng-trách của nguời luôn thông và dịch.

Nhưng, có vị này/khác lại cứ bảo: một khi ta đã gọi việc thông-ngôn/dịch-thuật bằng cụm-từ “thông-dịch” nghe qua đã thấy hơi bị lạc lõng chốn ngàn xưa.

Quả cũng đúng! Hồi thập-niên 1970, thì có thể là như thế. Nhưng ngày nay, có lẽ là “không thể” thế được. Chi bằng, ta cứ dịch động-từ bên tiếng Anh “to translate” hoặc động-từ “traduire” tiếng Pháp thành biên-dịch hoặc phiên-dịch nghe thanh-tao, dễ đọc.

Và, một khi đã “dịch” rồi, thì thông thường là ta cứ biên và cứ phiên-âm đến cõi vô-tận. Bởi, biên, là ghi và chép trên giấy trắng mực đen. Còn, phiên là biến âm-thanh, âm-vận để diễn-nghĩa thành âm, thành tự, có như thế mới là “thông” và “dịch”.

Dài dòng thế rồi, nay mời bạn đọc hãy cùng bầy tôi đây, ta đi vào vùng trời tìm hiểu ý-nghĩa của cụm-từ tiếng Anh có chữ “A year of Mercy”, được nhiều học-giả/học thiệt người Việt gọi là “Năm Lòng Thương Xót”, hoặc “Năm thánh Lòng Chúa Xót Thương”, vv… nghe cũng gần cận đến độ thân quen

Có vị lại diễn-tả cụm-từ này theo tâm-tư người Việt ở nhà vẫn cứ gọi “Jubilee Year of Mercy” là “Năm Đại xá Từ-bi” (25 năm một lần) hoặc “Năm Toàn-xá Thiện-hạnh” (50 năm một lần) tựa hồ người thường ở huyện vẫn gọi 25 năm kỷ niệm ngày thành-hôn là Ngân khánh, và 50 năm kim khánh có hôn nhau, (í quên hôn nhân)… Và “Mercy” có nghĩa là: Từ Bi, Hỷ xả, kiểu đạo Bụt.

Có đấng bậc lại chủ-trương diễn-giải dài hơn thế, cốt phân-biệt rõ ràng rằng: nếu bạn dịch chữ “Mercy” thành “Lòng thương xót” hoặc “Lòng Chúa xót thương”, hẳn người nghe sẽ nghĩ về Chúa nhật thứ hai sau Phục Sinh, cũng có chủ-đề như thế. Còn, diễn-giải lòng từ-bi/hỷ xả của Bề Trên thì nghe qua vẫn thấy có sự đóng góp sống đời thực-tiễn của mọi người.

Nói gì thì nói, hễ cứ tranh-cãi/biện-luận những chữ là chữ, thì: rồi ra ta cũng sẽ kéo dài câu chuyện chữ-nghĩa của người Việt đến thiên-thu, không dứt bỏ. Chi bằng, nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào với ca-từ nhạc-bản ở trên, rồi hát thêm đôi lới rằng:

“Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Hơi thở này nồng nàn,

ta yêu nhau đắm say (a à à)

 Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Những gì còn sống sót trên đời.

Như hơi ấm tuyệt vời.

Như hơi ấm tuyệt vời.

Ta ôm em và tan loãng trong không gian

và tan loãng trong không gian lưu đày…

 Gửi tới em! Gửi tới em! Gửi tới em!

Em có nghe xào xạc.

Tiếng lá bay xào xạc.

Tiếng gió đêm buồn buồn.

Lang thang trên muôn vàn đỉnh cây.

Hạnh-phúc nào không tả-tơi,

không đắng cay?”

(Phạm Duy/Ngô Đình Vận – bđd)

Vâng. Bạn có muốn hát những là “Gửi tới Em” như được cất lên trong buổi nhạc thính phòng “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 7.11.2015, thì cũng là hát đề rồi sẽ chuyển tải những gì mà người anh em của mình cũng đã hát nhiều điều hơn thế, chỉ để nói lên thứ tình-tự yêu-thương của em, của anh với ai đó, thôi.

Vâng. Người mình muốn viết gì thì viết, nghệ-sĩ mình có viết nhạc hoặc làm thơ, cũng sẽ còn viết nhiều hơn thế. Về tình trang-lứa hoặc tình cha/tình mẹ, cùng tình-tự của mọi người ở đời thường dành cho nhau, đến với nhau.

Tình người đối với nhau và cho nhau, là tình rất lớn phản-ánh “từ” hoặc “về” một tình-tự rất “xót thương” của Chúa và cho Chúa. Nói khác đi, đó là thứ tình đời đầy trắc ẩn, luôn hàm-ẩn lòng tử-bi/hỷ xả như Đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo đã trần-tình khi ra tông-sắc đặc-biệt này:

“Năm Thánh là một lúc ưu tiên để Giáo Hội chỉ lựa chọn điều đẹp lòng Thiên Chúa nhất: đó là tha thứ cho các con cái Ngài, thương xót chúng, để đến lượt chúng, chúng cũng có thể tha thứ cho các anh em khác và chiếu toả rạng ngời như các ánh đuốc lòng xót thương của Thiên Chúa trong thế giới này. Việc canh tân các cơ quan và cấu trúc của Giáo Hội cũng là một phương thế dẫn đưa chúng ta tới kinh nghiệm sinh động làm sống lại lòng thương xót của Thiên Chúa.”

 Đức Phanxicô nói với tín hữu và khách hành-hương tham-dự buổi triều-yết sáng thứ tư hàng tuần, hôm rồi. Hẳn mọi người đều biết, hôm trước đó, Đức Phanxicô đã chủ sự thánh lễ và nghi-thức “Mở Cửa” trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, sau khi đã mở cửa nhà thờ Bangui, thủ đô nước Trung Phi hạ tuần tháng 11/2015.

Trong huấn-từ, Đức Phanxicô yêu cầu mọi người hãy suy tư về ý nghĩa và lý do Giáo Hội cử hành Năm Thánh đặc-biệt này. Ngài nói thêm:

 “Giáo Hội cần thời điểm đặc-biệt này. Tôi không nói lúc này là thời-điểm tốt cho Giáo Hội. Tôi nói: Giáo Hội cần thời-khắc đặc-biệt như thế này nhất là trong thời đại có đổi thay sâu rộng của chúng ta Giáo Hội được mời gọi đóng góp đặc-biệt từ phần của mình, bằng các dấu chỉ hiện diện gần gũi Chúa. Và Năm Thánh là một thời gian thuận tiện cho tất cả chúng ta, để khi chiêm ngưỡng Chúa vì đã xót thương nên Ngài vượt mọi giới-hạn con người và tỏa sáng lên lỗi tội đầy tăm tối tăm, và ta vẫn có thể trở thành chứng nhân xác tín và hữu hiệu hơn…

 Năm Thánh Lòng Thương Xót đây là đặc-sủng Chúa ban cho Giáo Hội để ta học hỏi, lựa chọn “làm vừa lòng Ngài! Đó là tha thứ con cái của Ngài, thương xót chúng, để rồi đến lượt chúng, chúng cũng biết thứ tha anh em khác, bằng việc chiếu sáng mọi sự như ánh sáng của lòng từ bi trên khắp thế giới.

 Năm Thánh là “dịp thuận” cho Giáo Hội, để ta chọn làm hài lòng Chúa, mà không nhượng bộ chước cám dỗ. Không gì quan trọng hơn việc chọn làm Chúa hài lòng bằng sự thương xót, bằng tình yêu, sự hiền dịu, vòng tay ôm mơn trớn, ủi an của Ngài!” (trích nguồn: TTXCGVN)

Và, đấng bậc chủ-quản giáo-phận nọ ở Melbourne , lại cũng có đôi giòng chảy xuyên suốt cốt thêm thắt một chút tình người vào tông-sắc “Năm thánh Từ Bi” như sau:

“Thực-thi năm thánh có truyền-thống lâu đời qua tập-tục của các vị theo Do-thái-giáo, thời rất cổ. Đọc sách Lêvi Cựu Ước, mọi người sẽ thấy: khi bắt đầu năm thứ 50 vào mỗi thế-kỷ, người đi Đạo lại sẽ mừng kính năm toàn-xá hỷ-xả ban cho những người nào quyết thực-thi một số việc lành như Giáo hội dạy.

Các việc lành thực-hiện trong năm thánh gồm những việc, như: giải-phóng tù-nhân khỏi cảnh đoạ-đày, đem ánh sáng đến với người mù loà và sự tự-do cho người bị áp-bức. Như Đức Giêsu khi xưa từng đi đây đó chữa lành cho người bệnh và thứ tha cho những người bị tội-lỗi dồn ép…

Năm 2015 đây, Đức Phanxicô tuyên bố thành-lập năm thánh đặc-biệt bắt đầu từ ngày 8 tháng 12 cũng để kỷ niệm 50 năm ngày bế mạc Công đồng Vatican 2. Làm sáng-tỏ sự-kiện này, Đức Phanxicô nói Công-đồng này từng đánh dấu sự-kiện Thánh Thần Chúa đã thực-sự thổi hơi vào Giáo hội để các Giám-mục nghị-phụ thấy được nhu-cầu nói về việc Thiên-Chúa đối-thoại với chúng dân thời-đại họ sống bằng phương cách dễ tiếp-nhận hơn. (Tông-sắc “Misericordiae Vultus” đoạn 4)

Đức Phanxicô nhớ lại ngày khai mạc Công Đồng Vatican 2, thánh Giáo hoàng Gioan 23 có nói về “thang thuốc từ-bi” và lòng ước ao của Giáo-hội những muốn chứng-tỏ lòng mình như người mẹ hiền đối với mọi bệnh-nhân bằng lòng thương xót, sự tử-tế và ân-cần từng đối với mọi người.”

Và Đức Phanxicô cũng nhắc lại lời Đức Phaolô 6 có nói khi kết-thúc Công-đồng Vatican 2 rằng: Công-đồng từng được gợi hứng từ câu truyện về người Samaritanô nhân-hiền đã chứng tỏ lòng xót xa của ông ta đối với người lữ hành bị đột-kích trên đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô.

Và Đức Phaolô 6 có nói: giáo-huấn của Công-đồng Vatican 2 hướng đến việc phục-vụ nhân-loại, phục-vụ mọi người, trong mọi hoàn-cảnh, tình-huống những đau yếu, có nhu-cầu rất thiết-thực.” (cũng trong Tông-sắc “Misericordiae Vultus” đoạn 4)

 Nói tóm lại, mừng năm thánh Từ Bi, ta ước-ao sẽ đi vào cuộc đời mà tỏ bày lòng từ bi với mọi người. Đi vào đời, để mang sự dịu-hiền, tử tế của Chúa đến với mọi người. Để rồi, kẻ tin lẫn kẻ chưa tin sẽ thấy đây là dấu-hiệu của Vương Quốc Nước Trời đã hiện-diện bên trong làn khói mù của lòng người. Đó là lý-do và cũng là ước-vọng của “Tin báo hỷ” đang đến với ta.” (Gm Paul Bird, CSsR – A Year of Mercy, The Majellan Family số tháng 10-12/2015, tr. 11-16)

Cũng chuyện “từ-bi/hỷ xả” ở ngoài đời, của người đời thường có nét vẻ diễn-tả tuy đơn-điệu nhưng dễ hiểu và dễ thấm vào lòng người như truyện kể ở bên dưới:

 “Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe Roll Royce sang trọng dừng lại. Người tài xế tiến lại người giữ cổng và nói: xin anh giúp một tay cho người đàn bà này xuống xe vì bà ta yếu quá không đi được nữa.

 Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu và nói với người giữ cổng nghĩa trang:

-Từ hai năm qua, mỗi tuần, tôi là người đã gửi cho anh 5 đô-la để mua hoa và đặt trên mộ con trai tôi, nhưng nay các bác sĩ bảo rằng, tôi không còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đến đây để chào từ biệt và cảm ơn anh đã mua hoa giùm tôi.

 Thế nhưng, người đàn bà không ngờ rằng người giữ cổng nghĩa trang trả lời như sau:

-Thưa bà, tôi lấy làm tiếc rằng bà đã làm công việc ấy!

 Người đàn bà cảm thấy như bị ai đó vả vào mặt. Nhưng bà vẫn còn đủ bình tĩnh hỏi lại người thanh niên:

-Tại sao lại lấy làm tiếc về cử chỉ đẹp như thế?

 Người thanh niên giải thích:

-Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì những người chết như con trai bà, chẳng bao giờ còn thấy được một cánh hoa nào nữa!

 Bị chạm tự ái, người đàn bà liền cao giọng:

-Anh có biết anh đã làm tổn thương tôi không?

 Người thanh niên bình tĩnh trả lời:

-Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi chỉ muốn nói với bà rằng có rất nhiều người đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là hội viên của một tổ chức chuyên đi thăm những người già lão, các bệnh nhân trong viện dưỡng lão, các bệnh viện. Chính họ mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta, họ có thể nhìn thấy và ngửi được cánh hoa ấy.

Nghe thế, người đàn bà ngồi bất động trên chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế mở máy. Vài tháng sau người đàn bà trở lại nghĩa trang. Nhưng lần này không cần ai giúp đỡ, bà tự động bước xuống xe với một dáng vẻ vui tươi nhanh nhẹn hơn, và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, một nụ cười rạng rỡ, bà nói với người thanh niên giữ cổng:
-Chú đã có lý, tôi mang hoa đến cho những người già lão, bệnh tật. Quả thật, điều đó đã làm cho họ được hạnh phúc. Nhưng người thực sự hạnh phúc chính là tôi. Các bác sỹ không biết được bí quyết làm tôi khỏe mạnh lại. Nhưng tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy, tôi đã tìm ra lẽ sống.

Lời bàn của người Kể truyện, lại như sau:

“Giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình”. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Thượng đế “cho thì có phúc hơn là nhận lãnh” Bởi vì, trao ban cho người tức là trao ban cho mình. Một ngạn ngữ Anh cũng nói một cách tương tự: “điều tôi tiêu đi là tôi có, điều tôi giữ lại là tôi mất, điều tôi cho đi là tôi được”.

 Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương thì con người mới thực sự triển nở, và tìm gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới biết vui sống, và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.”

             Nói thế, tức bảo rằng: có mừng và có kính Lòng Từ Bi/Thương Xót bằng hình-thức nào đi nữa, cũng là cơ-hội để bạn và tôi, ta lại sẽ thực-hiện hành-động yêu-thương/tha-thứ hết mọi sự cho mọi người.

Từ-bi/Thương-xót như thế, là để đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta về với Lời Vàng của bậc hiền-nhân rất thánh, từng nhủ-khuyên như sau:

“Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa,

nhưng nay anh em đã được thương xót,

vì họ không vâng phục;

họ cũng thế:

nay họ không vâng phục Thiên Chúa,

vì Ngài thương xót anh em,

nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót.

Quả thế,

Thiên Chúa đã giam hãm mọi người

trong tội không vâng phục,

để thương xót mọi người.

Ca tụng thánh ý nhiệm mầu.”

(Rôma 11: 30-32)

Nghe khuyên và nhủ thế rồi, nay ta lại sẽ trở về với giòng thi-ca/âm-nhạc mà hát những tình-tự từ-bi/hỷ-xả như từng hát ở bên trên, bằng những lời ca vang, rằng:

“Em có nghe xào xạc.

Tiếng lá bay xào xạc.

Tiếng gió đêm buồn buồn.

Lang thang trên muôn vàn đỉnh cây.

 Hạnh-phúc nào không tả-tơi,

không đắng cay?”

(Phạm Duy/Ngô Đình Vận – bđd)

Hát như thế, tức tự nhủ lòng mình, rằng: đời người sẽ còn đó nỗi buồn, nếu không ai thấy được lòng từ-bi/thương-xót hiện-diện ở trong mình và nơi mọi người.

Để minh-hoạ cho ý-tưởng này, đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể về tình thương-yêu hiền-dịu cả trong tờ giấy bạc được xếp thành hình tam giác như quà tặng cho nhau, đầy ý-nghĩa, như sau:

“Truyện rằng:

 Vài năm trước, mỗi ngày đi làm, Jim đều được ông Jake, một người hàng xóm đã cao tuổi đưa cho một tờ tiền mặt 5 đôla. Ông nhờ Jim ghé qua một quán cà phê trên đường để mua hộ ông một gói cà phê có giá 4 đôla.

 Thói quen này của ông Jake đã duy trì đến mấy năm nay rồi. Và để đáp trả lòng tốt của Jim, ông Jake sẽ nhận làm cỏ, tỉa cây trong vườn nhà anh ấy.

 Sau một thời gian lâu, bà chủ quán cà phê cũng đã quen với Jim. Bà ngày nào cũng chuẩn bị một gói cà phê và một đồng đô la tiền lẻ để trả lại.

 Đôi lúc, Jim cũng rất tò mò và hỏi ông Jake: 

-Cà phê có hạn sử dụng rất lâu, tại sao ông không mua một lần nhiều nhiều một chút?

Ông Jake lắc đầu và cười nói: 

-Không, tôi thích như thế này hơn, mỗi ngày một gói cà phê mới tốt.

 Có một lần, Jim vội vã tới nhà bạn để tụ tập cùng bạn bè nên anh liền mua cà phê ở tạm một cửa hàng khác. Không ngờ, ông Jake khi nhận được cà phê dù còn chưa mở ra đã nói: 

-Đây không phải loại cà phê mà tôi muốn.

 Jim cảm thấy bất ngờ, anh liền thử mấy lần sau đều mua ở nơi khác, nhưng dù cà phê đã được đóng gói y như vậy, mà ông Jake chỉ liếc mắt qua đã phát hiện ra rồi. Từ đó, Jim không còn thử ông nữa.

 Mấy năm sau, sức khỏe của ông Jake đã không còn được tốt như trước đây. Nhưng hàng ngày ông vẫn đều nhờ Jim mua cho mình một gói cà phê. Mỗi lần khi đưa 5 đôla cho Jim, hai ánh mắt của ông lại chất chứa đầy sự chờ mong.

 Cho đến một hôm, khi Jim lại sang nhà ông Jake mua cà phê giúp ông. Ông Jake sức khỏe suy yếu nằm trên giường bệnh đưa tay ra, rồi nhẹ nhàng cầm tờ một đôla và hỏi Jim: 

-Thời gian lâu như vậy, chẳng lẽ cậu không biết gì sao?”

Jim nhìn ông lão hàng xóm và lắc đầu.

Ông lão nói tiếp: 

-Tôi luôn luôn muốn mua cà phê ở cửa hàng đó, là vì người bán cà phê cho cậu là Elina.”
Giọng nói của ông Jake trầm xuống rất nhiều: 

-Bà ấy là người mà tôi yêu nhất. Năm đó, mẹ của bà ấy chê tôi là một kẻ nghèo nàn, nên đã chia rẽ chúng tôi…Tôi cũng chỉ có thể đau lòng mà rời đi. Nhiều năm sau này, vợ tôi bị bệnh qua đời, các con cũng đã trưởng thành có gia đình.

 Tôi đã quay trở lại nơi đó tìm hiểu và biết bà ấy bán cà phê ở cửa hàng đó. Bà ấy cũng đã sớm mất chồng. Cả hai người chúng tôi đều không quên ước định của tình yêu đầu năm xưa. Nhưng tôi không muốn quấy rầy đến cuộc sống bình yên của bà ấy, nên lặng lẽ sống ở đây. Cũng từ đó, tôi nhờ cậu mua cà phê hộ tôi.”

 Jim đứng im lặng nhìn ông lão hàng xóm rồi bất chợt hỏi với vẻ khó hiểu: 

-Chẳng lẽ, ông chưa từng đến thăm bà ấy sao?”

Ông Jake lắc đầu.

-Năm đó, lúc chúng tôi yêu nhau thường không có cách để gặp mặt nên đã đặt ra một ám hiệu. Đó là lấy tờ một đô la gấp thành một hình tam giác, để trong một bì thư, rồi nhờ người gửi thư đưa đến đối phương, ngụ ý nói rằng mình vẫn bình an. Cho nên, mỗi lần nhờ cậu mua cà phê, tôi đều gấp tờ tiền thành một hình tam giác. Còn Elina, mỗi lần trả lại tôi tờ một đô la, bà ấy cũng đều gấp thành một hình tam giác.

 Cứ như thế, dù chúng tôi không gặp lại nhau nhưng đều biết người kia vẫn bình an, khỏe mạnh… Bây giờ, tôi sắp phải đi gặp thượng đế rồi, nhưng nếu Elina không nhận được tin tức của tôi, bà ấy hẳn sẽ rất lo lắng. Dưới giường của tôi có một chiếc hòm, bên trong đều là những tờ tiền tôi đã gấp thành hình tam giác rồi. Xin cậu hãy giúp tôi tiếp tục mua cà phê …Tôi xin nhờ cậu…”

 Ông Jake nói xong, liền nhắm mắt lại và ra đi. Không ngờ, trong đám tang của ông Jake, Jim đã mang đến một chiếc hòm khác. Trong chiếc hòm ấy, toàn là những gói cà phê đã được đóng sẵn và còn có rất nhiều những tờ tiền một đôla được gấp sẵn thành hình tam giác.

 Vào nửa năm trước, bà Elina đã bị bệnh nặng mà qua đời. Trước khi rời đi, bà đã giao chiếc hòm này cho Jim để nhờ Jim thay thế mình chuyển lời nhắn bình an đến ông Jake….

 Đây hẳn là một tình yêu đích thực! Có thể quý trọng tất cả những người bên cạnh mình, thì đó chính là một loại hạnh phúc! (Mai Trà biên dịch)

Nghe kể thế rồi, việc còn lại với bạn và với tôi, là: thực-hiện hiệu-lệnh của Đức Chúa khi xưa vẫn từng bảo:

“Anh em hãy ra đi

và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,

làm phép rửa cho họ

nhân danh Cha, Con và Chúa Thánh Thần,

dạy bảo họ tuân giữ

mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

Và đây,

Thầy ở cùng anh em

mọi ngày cho đến tận thế.”

(Mt 28: 19-20)

Ra đi mà thực-hiện tính từ-bi, hiền-dịu trong cuộc sống đầy thương xót. Rất nhiều năm. Nhiều tháng, suốt đời mình. Đó chính là lệnh-truyền của Đức Chúa với mọi người, mọi thời chứ không chỉ trong mỗi năm thánh Từ bi hay thương xót.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết-tâm để đời,

rất không rời

lòng người.

Ôi phép lạ, ôi nhiệm màu,

Suy Tư Tin Mừng Lễ Giáng Sinh (25/12/2015)

Tin Mừng (Lc 2: 1-14)

Thời ấy, hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria . Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ:

Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.

Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

*    *   *   *

 “Ôi phép lạ, ôi nhiệm màu,”

Vườn tiên sáng láng như lòng người thương.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

Có người bạn, thuộc nhóm Hiện Xuống kể cho tôi nghe câu chuyện của anh Minh Duy, một giáo dân hiền từ đến nhà thờ dự lễ Giáng Sinh Ban Ngày. Biết là anh rất bận. Bận làm ăn. Bận sinh sống. Nên, đến được nhà thờ dự lễ như thế đã là quý lắm rồi. Bởi thế nên, cha xứ vẫn để nguyên bộ áo lễ, tiến đến bên anh, bắt tay chào hỏi rất thân tình, kèm theo đó là nụ cười khả ái ngày Chúa Giáng Trần.

Mào đầu câu chuyện, cha xứ hỏi han vài câu xã giao: “Này bác, tôi thấy bác nên gia nhập đoàn quân thiện nguyện của Đức Kitô, mới phải!” Giáo dân hiền từ nghe thế, bèn đáp: “Dạ thưa, con chiên đây vẫn có mặt ở nơi đó, đã từ lâu!” Vị chủ chăn sửng sốt, lại nói tiếp: “Ủa, nếu bác có gia nhập, thì sao vị chỉ huy trưởng này chẳng bao giờ thấy bác tình diện cả vậy?”  “Dạ thưa, vì chiên con gia nhập đội người nhái, lúc lặn lúc nhô, chứ đâu dám lặn luôn, bị chửi chết!”

Trong cuộc đời, nếu ta hành xử giống người giáo dân hiền từ ở trên, đã thấy mình gia-nhập đạo quân thiện-nguyện rồi, thì hôm nay ta đang tháp tùng Đức Kitô trong công-tác “nhô mình lên”, mà vào đời. Câu chuyện Chúa Giáng Trần/vào đời được người đầu-tiên biết đến, không do môi miệng người đi nhà thờ truyền lại. Mà, từ đám chăn chiên ở Palestin vào thế kỷ đầu, luôn có nhiệm vụ phải trông chừng đàn thú hiền suốt ngày đêm. Chúng vẫn sợ đám cướp cạn và đàn sói rình rập, chực cướp mồi.

Công việc của kẻ chăn tuy chậm nhẹ, nhưng không cho phép kẻ chăn có thì giờ ghé đền thờ, mà dự lễ. Kẻ chăn chiên buồn, chỉ biết nguyện cầu tại chỗ suốt đồng hoang cỏ dại. Nhờ có thế, mà lũ đám mọn hèn mới hiện diện đúng thời đúng buổi. Có hiện-diện ở hiện trường như thế, mới nhận ra được thông điệp Giáng Sinh, đầu thế kỷ.

Nhiều lúc, tín hữu Đạo Chúa có cảm nhận là họ biết được chương trình hành động của Chúa rất rõ, hơn cả Ngài nữa. Đây chính là bẫy cạm ta phải cẩn thận mà xa lánh. Và, Giáng Sinh hôm nay, là dịp thuận để ta có thể làm được việc ấy.

Nhìn vào quá trình lịch sử, quả là xưa nay chẳng ai tiên đoán được phương cách Chúa gửi Đấng Cứu Độ toàn năng đến với con người. Cũng chẳng ai biết rõ vào ngày “N” và giờ “G” nào, Chúa thân hành giáp mặt trần gian. Chẳng ai đoán biết trước sự việc Nhập thể, mà Chúa đã bày tỏ cho đám kẻ chăn, không nhà cửa. Nhóm người trẻ này chuyên sống bụi sống bờ, không xứng đáng.

Và, cũng chẳng ai mường tượng được nhân chứng đầu của sự kiện Nhập Thể, lại là đám trẻ vô học, rất “bụi đời”. Dân thường ở huyện, cũng đã chực chầu những mong được đón chào Vị Thiên Sai từ nơi cao đến lật đổ đám cường quyền La Mã. Giới trung lưu quyền thế, biết nhẫn nhục hơn, đã cố đợi chờ ngày kiệu rước vua quan từ trời cao ngự đến.

Nghịch lý hơn, tình Thương yêu Chúa lại đã chấp nhận mặc lấy xương thịt người phàm, là xương thịt của chính ta. Và, Ngài đã đến với ta như kẻ nghèo hèn, bé mọn. Ngài đến, chỉ như Hài Nhi bé bỏng, không có gì để tự vệ.

Nhưng, chính Hài Nhi ấy là Chúa chúng ta. Ngài xuất hiện, không như mọi người tưởng. Không như quan niệm của người phàm. Ngài thực hiện lời hứa đã thiết lập với tiền nhân, theo phương cách đầy kinh ngạc.

Và, Lễ Giáng Sinh đem đến cho ta ảnh hình êm ả, dịu hiền của Đức Chúa thân thương, bé nhỏ của Hài Nhi Chúa cần bú mớm, dưỡng dục, được ôm chặt vào lòng.

Áp-dụng ảnh hình Chúa Giáng Trần vào với niềm tin người đi Đạo, cũng không sai. Nếu Giáng Sinh với ta, mang ý nghĩa cụ thể, thì đây không là lễ hội uy nghi, nhộn nhịp chỉ để vui.

Giáng Sinh cũng không là cơ hội để ta lấp đầy khoảng trống thời gian được nghỉ lễ, mà là cơ-hội để ta ăn mừng, mỗi khi làm điều hợp lý, yêu thương, rất an lành.

Lễ Giáng Sinh còn là lý do để ta tụ tập ở đây, mỗi tuần. Tề-tựu chung vui Tiệc Thánh Thể. Tụ họp như thế, ta sẽ được Chúa dưỡng dục, cách sinh động. Có bú mớm thức ăn. Có ôm chặt vào lòng. Ôm ta, để đem ta vào với cung lòng thương yêu của Đức Chúa. Dù ngắn ngủi, sự việc này cũng giúp ta thêm lòng quả cảm, thêm sức mạnh mà giáp mặt với loài sói dữ, với đám cướp cạn đang chực rình vồ, vào ngày tháng quan trọng chính cuộc đời của ta.

Nay, ta hãy ra đi mà đón chào. Đón và chào mừng, ngõ hầu ta tới đúng chỗ, đúng thời đúng buổi để Chúa có thể nhìn ra ta, mà đón nhận. Và, đem ta vào cung lòng Ngài. 

Trong tâm tình đó, nay mời mọi người ngâm lại lời thơ trên, mà rằng:

“Ôi phép lạ, ôi nhiệm màu,”

Vườn tiên sáng láng như lòng người thương.”‘

Bởi lẽ, dù có là phép lạ nhiệm mầu đi nữa, tất cả sẽ là và vẫn là “sáng láng như lòng người thương”, mà thôi.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch.

NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN

NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN

Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui.  Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm.  Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương.  Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ.  Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa.  Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần.  Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc.  Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.

NIEM VUI

Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.

Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường.  Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi.  Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa.  Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa.”  Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi.”  Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.

Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.

Thánh Thần là tình yêu.  Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ.  Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt.  Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán.  Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại.  Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.

Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.

Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình.  Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa.  Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền.”  Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân.  Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng.  Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu.  Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.

Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.

Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ.  Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc.  Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth.  Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ.  Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người.  Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.

Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ.  Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ.  Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.

Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế.  Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời,

“Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời,”

Người hẹn cùng tôi: “Ngày về khi đất nước yên vui”.
Quỳ lại Mẹ MARIA, lòng Mẹ từ bi bao la.
Tấu khúc nhạc lên xin ơn trên ban cho nhà Nam .”

(Nguyễn Văn Đông – Mùa Sao Sáng)

(Cv 17: 11-12 )

Trần Ngọc Mười Hai

Đành rằng, khi viết giòng nhạc này, có thể người viết cũng từng nghe biết hoặc tin tưởng chuyện trăng sao soi sáng đêm đen dày đặc ngày Đức Giêsu giáng hạ làm người, nữa đấy.

Đành rằng, người thường ở huyện, chí ít là huyện nhà rất Việt-Nam chẳng bao giờ đặt vấn-đề về sao sáng dẫn lối chỉ đường cho ba bốn vua/quan/đạo-sĩ ở đâu đó, kéo đến xứ sở nhỏ bé của Do-thái để mừng chúc với dâng quà cho Hài-nhi Chúa rất Giêsu.

Đành rằng, các bổn đạo và kẻ tin vào sự việc Đức Chúa giáng-hạ-làm-người vẫn cứ tin và tưởng những chuyện sao băng/sao xẹt soi-sáng thôn-làng Bê Lem là chuyện rất “thật như đếm”. Nhưng, cũng nên thêm một lần để kể về các sự-kiện loanh quanh việc Thiên-Chúa Giáng-hạ, có đúng lịch sử hay không, cũng chưa biết.

Nhưng trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên nghe thêm đôi ca-từ rất quen tai cứ nghe hoài nghe mãi ở trên đài hoặc dĩa nhựa, vi-tính rất trữ-tình như sau:

“Từ mùa Đông trước qua mùa Đông tiếp theo sau này.
Người bạn còn đi mà niềm tin vẫn thắm trên môi.
Giặc tràn về quê hương tôi, giặc diệt niềm tin Kitô.
Lớp lớp đàn chiên quyết sáng danh Chúa trên trời cao.

Đêm nay tôi nhớ người chưa trở lại, chênh chếch mùa sao lạc loài.
Ôi những mùa sao lẻ đôi.
Cho tôi thương nhớ mùa sao ngày nào, thương những mùa sao hồng đào.
Ôi những mùa sao cách xa.

Một mùa Đông giá hang Bê-Lem Chúa sinh ra đời.
Một trời đầy sao nghìn hào quang chiếu sáng ngôi cao.
Lạy Mẹ Đồng Trinh ban ơn, người Việt càng thương nhau hơn.
Đất nước này đây sáng đức tin Chúa trên trời cao.”

(Nguyễn Văn Đông – bđd)

Nghe thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta đi vào phần biện-giải về những chuyện có nên hay không nên tin vào dụ-ngôn/truyện kể ở Sách thánh, để còn học hỏi thêm nhiều điều về sau. Cả về chuyện Hài-nhi Giêsu sinh ra trong “Hang Bê-Lêm” được “Ba bốn Vua/quan lãnh-chúa hoặc đạo-sĩ” ghé viếng, thực hư thế nào, hay chỉ mỗi thế này, mà thôi:

“Nếu hỏi rằng truyện Đức Giêsu sinh ra làm người có dính gì tới lịch-sử nhân-loại không? Thì xin trả lời rất ngắn gọn, như thế này:

 Bằng vào cụm từ “Đức Giêsu Lịch Sử”, tôi có ý nói đến một người từng lữ-hành trên các đường đất gồ ghề đầy cát bụi, ở Galilê. Đức Giêsu lại cũng rong ruổi đường trường, từng ăn uống với nhiều người; và, Ngài lại đã giảng-dạy nhiều điều về Vương Quốc Nước Trời, nữa.

 Cuối cùng, Ngài đã bị bắt và đem đi xử tử, đó là điều mà các nhà nghiên-cứu lâu nay từng xác-quyết một chứng-thực về Ngài, theo sử-tính.

 Tuy nhiên, có một số truyện mà nhiều người từng nghe/biết về Đức Giêsu, lại thấy không có chút ánh sáng nào soi-rọi để ta có thể coi Ngài như Nhân-vật Lịch-sử trổi bật, hết.

 

Tôi muốn qui-chiếu các truyện về thời thơ-ấu và việc sinh-hạ Hài Nhi mà ta vẫn nghe biết vào mỗi dịp lễ trong đó có nhân-vật chính là Đức Maria và ông Giuse lại đã đặt Hài Nhi Giêsu nằm trong máng đựng cỏ dành cho bò lừa ăn. Hiện-trường diễn-tiến việc Đức Giêsu xuất hiện với đời thường còn có các mục-đồng chăn cừu, thêm các nhà thông-thái từ phương Đông đến, và cả đến thiên-thần tả/hữu vẫn ở quanh Ngài.

 Truyện Đức Giêsu sinh hạ làm người, là một dụ-ngôn giả-tưởng mang tính-chất rất tôn-giáo, nếu ta muốn gọi thế cho gọn nhẹ. Riêng tôi, sẽ tìm cách trưng-dẫn các dấu-chỉ cho thấy điều này không có ý bảo rằng: những chuyện như thế không phải là không có giá trị.

 Nhưng, điều tôi muốn nói ở đây, chỉ có ý bảo là: ta không nên hiểu các truyện kể như thế theo “từng chữ” có tính lịch-sử, đã minh xác. Đúng hơn, ta chỉ nên coi đó như khúc nhạc dạo đầu cho toàn-bộ vở nhạc-kịch diễn-tấu trên sân-khấu Broadway, NewYork mà thôi.

 Nhạc dạo đầu, bao giờ cũng bắt kịp chủ-đề được trình-tấu mà các nghệ-sĩ diễn-tả cách trọn-vẹn ở tuồng kịch. Và ở đây, hai tác-giả Mát-thêu và Luca, lại đưa ra hai phiên-bản dị-biệt trong truyện Đức Giêsu chào đời. Bởi thế nên, nhạc “dạo đầu” bao giờ cũng khác nhau, ở nhiều chỗ.” (Xem Gs John Dominic Crossan, Giêsu Hỡi Ngài là Ai? Chương 2 nxb Phương Đông 2016)

Bần-đạo nay nhân dịp nghe lại vài nhạc-bản Giáng-sinh rất đời, bèn thấy hoảng. Hoảng, vì thấy nghệ-sĩ ngoài đời cứ đặt nặng vào giòng chảy ướt-át, uỷ-mị rồi lôi kéo người nghe bằng những lời thêm thắt cho hấp-dẫn mà quên đi khía-cạnh chính-đáng, rất thật/hư. Rồi từ đó, đã vội kết tội, là: người Đạo Chúa cũng tin vào những chuyện dân-gian, thần-thoại không có thật.

Người ngoài Đạo, lâu nay cứ bị mang tiếng là dị-đoan/mê-tín nhiều quá sức, nên đôi lúc cũng muốn quay ngược trở lại tố-cáo người Công-giáo cũng như vậy.

Hôm nay, bần đạo đây vốn thuộc giới thấp hèn còn ngu dốt nhiều về nhiều chuyện, không dám múa bút bon-chen chuyện cãi vã/đấu-tranh ở đời thường về chuyện tin rất mê, như mê-tín hoặc chuyện đoan chắc những chuyện di-kỳ, được gọi là dị-đoan. Nhưng, chỉ muốn ngồi buồn kể chuyện cho đám “trẻ người non dạ” có đầu óc tinh-thông khoa-học, không còn thiết-tha chuyện thần-học tu-đức nữa.

Vốn là dân ngu-muội nhiều thứ chuyện, nên bần-dạo vẫn phải chạy vạy tìm đến các đấng-bậc tinh-thông rất nhiều chuyện để giúp đỡ hầu suy-tư cho phải lẽ, đúng cách. Bởi thế nên, cũng cứ xin bạn bè người thân đọc những giòng này cứ là tha cho bần-đạo, thật biết ơn.

Nói xa nói gần, chi bằng nói thật về những tâm-tưởng của một số vị từng khuyến-cáo chức-sắc kẻ tin hãy cẩn-thận kẻo cũng bị mang tiếng là dị-đoan mê-tín rất nhiều điều.

Số là, cách nay không lâu bần-đạo đây được một bạn chí-thân “quẳng” cho cuốn sách nói về những chuyện bí-nhiệm nơi đạo-giáo xuất từ xứ miền Babylon, bên đó, có đầu đề là “Babylon Mystery Religion” cũng rất ngắn, nhưng lời lẽ lại chắc nịch như đinh đóng cột, như một với một là hai.

Nay không dám nói dài, nói dai và nói dở. Chỉ dám trích/dịch đôi ba đoạn để bầu bạn khắp nơi có cơ-hội giết thì-giờ rảnh-rỗi không biết làm gì, bèn nghĩ quanh nghĩ quẩn, thế thôi.

Rào đón thế rồi, nay lại mạo muội xin phép bà con cho bần-đạo được trích và dịch đoạn văn rất “nổi cộm” ít thấy trên thị-trường chữ-nghĩa, rất như sau:

“Đạo-giáo huyền-nhiệm của Babylon, lâu nay được mô-tả một cách đầy biểu-tượng ở sách Khải-huyền là sách cuối của Tân Ước có những giòng như sau: ‘tôi thấy một người đàn bà, ngồi trên một Con Thú đỏ thẫm, con Thú ấy mang đầy những danh-hiệu xúc-phạm đến Thiên Chúa, và có bảy đầu mười sừng. Người đàn bà mặc áo đỏ tía và đỏ thẫm, trang sức toàn bằng vàng, đá quý và ngọc trai, tay cầm một chén vàng đầy những thứ ghê tởm và ô uế, tức là sự gian dâm của nó. Trên trán nó, có viết một tên mang ý nghĩa huyền bí: ” Babylon vĩ đại, mẹ đẻ ra các gái điếm và các thứ ghê tởm trên trần gian.” (Kh 17: 2-6)

 Khi Kinh-thánh dùng ngôn-ngữ biểu-tượng chẳng hạn như, ở đây là cụm-từ “người đàn-bà”, thì ta hiểu rằng tự-vựng ấy biểu-trưng cho Hội-thánh của chúng ta. Ở một số các đoạn sách khác như Êph 5: 27, Kh 19: 7, 8, Hội-thánh thực của ta, lại rất giống các nàng trinh-nữ, các cô dâu không tì-tích, hoặc phụ-nữ không một vết nhơ.

 Còn,  sách Khải-huyền đây, lại đưa ra ảnh-hình phản-chống, đối-chọi lại Hội-thánh thực-thụ khi nói đến “người đàn bà” ở trong Sách, là nói về người nữ-phụ nhơ-uế/không trong-sạch, một gái điếm.

 Và, nếu là điều đúng đắn để gán-ghép lối biểu-trưng này cho một hệ-thống nào đó của Giáo-hội, thì rõ-ràng là tác-giả Gioan Tin Mừng muốn nói đến một Giáo-hội ô-uế từng ngã-gục, mà thôi. Và, Sách thánh gọi đó là Đạo huyền-nhiệm của Babylon .

 Khi tác-giả Gioan Tin Mừng viết lên sách KHải-huyền, thì Babylon, một thành-phố, khi ấy đã bị tàn-phá chỉ còn là đống gạch vụn, như các ngôn-sứ ở Sách Cựu Ước đã nói tiên-tri về một Babylon rất đạo-giáo. Và, cho dẫu thành-phố Babylon từng bị huỷ-diệt đi nữa, thì các ý-niệm và tập-tục trong Đạo phát-xuất từ Babylon vẫn tiếp-tục tồn-tại và được truyền-lan sang nhiều nước trên thế-giới như một đạo-giáo tốt đẹp.

 Thành ra, vấn-đề là hỏi rằng: đạo-giáo xuất tự Babylon , là đạo nào? Đạo đây, khởi đầu ra sao? Với thời hiện-đại, sự việc như thế có nghĩa gì với người thời-đại? Việc ấy có gắn chặt vào với những gì được mô-tả ở sách Khải-huyền do tác-giả nọ được gán cho ông Gioan Tin Mừng không?

 Ngược trở về với quá-khứ, chỉ ít lâu sau ngày “Đại Hồng Thủy” xảy đến, thì mọi người đã bắt đầu chuyển từ các vùng đất phía Đông và rồi đi về vùng đồng bằng được gọi là “vùng đất Shinar , rồi định-cư tại đó.’ (Stk 11:2). Và cũng chính trên phần đất Shinar này, thành-phố Babylon được dựng-xây, sau trở thành đất nước Babylonia hoặc về sau còn gọi là Miền Tiểu Á…

 Dựa trên các kết-luận rút từ nhiều nguồn thông-tin dẫn đến ta ở lịch-sử, truyền-thuyết và huyền-thoại, tác-giả Alexander Hislop đã ghi xuống từng chi-tiết cách-thức đạo-giáo của Babylon đã triển-khai ngang qua nhiều truyền-thống dân-gian trong đó có kể về thần Nimrod, về người vợ phàm-nhân của ông là Semiramis và người con trai của họ là phân nửa thần có tên là Tammuz…

 Người mẹ của thần Tammuz có lẽ cũng đã nghe được lời tiên-tri đoán trước việc Đấng Thiên-Sai được sinh-hạ từ một nữ-phụ (Stk 3: 15), bởi sự thật về chuyện này được mọi người biết từ thời nguyên-sơ. Nên, bà mẹ Tammuz cho rằng con trai bà được thụ-thai một cách siêu-nhiên và con của bà từng là hạt-nhân chính-yếu đã được hứa ban, sẽ trở thành “Đấng Cứu Chuộc”. Và đạo-giáo này cứ thế lan rộng, đến độ người người thời bấy giờ không chỉ phụng-thờ Người Con là Đấng Cứu-độ thôi, mà cả người mẹ sinh hạ ra ngài nữa…

 Kịp đến lúc, Đạo Chúa đã đến phải giáp mặt với đạo “ngoài luồng” của Babylon theo nhiều hình-thức nhau do Đế-quốc La Mã thiết-lập. Kitô-hữu thời Giáo-hội tiên-khởi đã chối-bỏ bất cứ thứ gì có liên-quan đến tập-tục và niềm tin của đạo. Từ đó, dẫn đến nhiều cuộc quẫn-bức, bách-hại những ai tin-tưởng vào Đạo của Chúa. Nhiều tín-hữu bị kết-án tử và bị ném cho thú dữ ăn thịt, hoặc đốt xác làm đuốc sống và/hoặc nhiều cách dã-man khác, cho đến chết.

 Kể từ khi, hoàng-đế La Mã tuyên-bố hồi-hướng trở về với Đạo Chúa, mọi cuộc bách-hại được lệnh chấm dứt. Các giám-mục được tôn-trọng và kính-nể. Giáo-hội bắt đầu được chính-thức công-nhận và ban cho quyền-lực trải rộng trên khắp thế-giới. Nhưng, để được như thế, Đạo Chúa đã phải giá rất đắt và cũng phải nhượng-bộ rất nhiều thứ với ngoại-giáo. Và cuối cùng, thay vì Giáo-hội tách rời khỏi thế-giới trần-tục, lại trở nên thành-phần của thế-giới ấy…

 Cũng từ ngày đó trở đi, đã có sự lẫn lộn/hoà trộn giữa Đạo của Chúa và ngoại-giáo cũng rất nhiều, chí ít là tại Rôma. Và cũng từ đó, đạo của ta trở-thành Giáo-hội Công-giáo La Mã. Dĩ nhiên, có rất nhiều điều chứng-tỏ người đi Đạo của ta rất thánh-thiện, và sốt-sắng đạo-hạnh, nhưng ta cũng không thể nào bài-bác hoặc chối-bỏ gốc-gác mang tính-cách rất dân ngoại, có từ thời này…” (Xem Ralph Woodrow, Babylon-Source of Falso Religion, Ralph Woodrow Evangelistic Association 1966, 1981 edition tr. 7-12)

            Trích và dịch các đoạn văn ấy rồi, nay xin thay-đổi bầu khí bằng cách mời bạn và mời tôi ta lại ngâm nga hát nhạc đời có những ca-từ về Đạo-giáo cũng như sau:

   “Một mùa sao sáng

ôi mùa sao chói chang muôn đời.
Vạn lời truyền rao

nghìn hào quang chiếu sáng ngôi cao.
Lạy Mẹ Đồng Trinh ban ơn,

người Việt cùng thương nhau hơn.
Đất nước này đây

sáng đức tin Chúa trên trời cao.”

(Nguyễn Văn Đông – bđd)

 Thế đó là chuyện Đạo ở trong đời. Chuyện Đạo ở đây, có thể là chuyện đạo-đức, đạo-hạnh và có lẽ cũng rất cương-thường đạo-lý của đời người, dành cho người đời.

Lại có câu chuyện không mang tính đạo-mạo hoặc đạo nghĩa của đạo-giáo nào hết, nhưng vẫn là chuyện rất đạo cốt để giúp mọi người sống tốt đạo làm người, như sau:

“Lúc còn là một thiếu niên, một lần, tôi được cha dẫn đi xem xiếc. Khi nhập vào hàng người đang xếp dài trước quầy vé, tôi chú ý đến một gia đình đứng ngay trước chúng tôi. Họ có đến những 8 đứa trẻ mà đứa lớn nhất có lẽ chưa đến 12 tuổi. Nhìn dáng vẻ những đứa bé ấy có thể đoán được gia đình chúng không giàu có.

Quần áo chúng không phải loại đắt tiền nhưng sạch sẽ và tươm tất. Và đó là những đứa trẻ biết cách cư xử. Cứ nhìn cái cách từng 2 đứa một nắm tay nhau xếp hàng sau bố mẹ chúng thì rõ. Chúng nói huyên thuyên một cách đầy phấn khích về những chú hề, những con voi và những trò xiếc khác mà chúng sẽ được xem tối nay. Rõ ràng chúng chưa từng đến rạp xiếc bao giờ. Buổi tối ngày hôm nay thật sự rất đặc biệt với cả 8 đứa trẻ ấy.

Cha mẹ chúng đang đứng ở đầu hàng với vẻ mặt hãnh diện nhất mà họ có thể. Người phụ nữ nắm lấy tay chồng, nhìn ông một cách dịu dàng. Ngay lúc ấy, người bán vé ngẩng lên và hỏi người đàn ông số vé ông ta cần. Người đàn ông trả lời đầy hứng khởi: “Cho tôi 8 vé trẻ con, 2 vé người lớn để tôi có thể dẫn cả nhà mình vào xem xiếc.”

Nhưng, khi người bán vé báo giá của 10 chiếc vé, bàn tay người vợ đột ngột rời khỏi tay chồng, đầu bà ta gục xuống. Mặt người đàn ông hơi tái đi. Ông ta tiến lại quầy vé gần hơn và hỏi : “Anh nói giá bao nhiêu?”

Người bán vé bình thản lập lại giá của 10 chiếc vé, nhưng người đàn ông không có đủ tiền. Làm sao ông ta có thể quay lại và bảo với 8 đứa con của mình rằng ông ấy không đủ tiền để dẫn chúng vào xem xiếc?

Chứng kiến tất cả những gì xảy ra, cha tôi lặng lẽ lấy từ trong túi ra tờ 20 đô và thả xuống đất. Sau đó, ông cúi xuống nhặt lên và vỗ vai người đàn ông, nói rất tự nhiên: “Xin lỗi, thưa ông, cái này vừa rơi ra từ túi ông”.

Người đàn ông hiểu những gì đang diễn ra. Ông không cầu xin của bố thí nhưng rõ ràng ông có thể đoán đây là sự giúp đỡ trong một tình huống ngặt nghèo. Bối rối trong giây lát rồi ông ấy nhìn thẳng vào mắt cha tôi, chụp lấy tay cha bằng cả hai bàn tay như muốn vắt kiệt tờ 20 đô, một giọt nước mắt rơi lặng lẽ xuống má, đôi môi mấp máy một cách khó khăn:

-Cảm ơn, cảm ơn ông rất nhiều. Điều này thật sự ý nghĩa với gia đình tôi lúc này.

 Sau khi nhìn cả gia đình người đàn ông khuất sau cánh cổng rạp xiếc, tôi và cha đón xe buýt về nhà, đơn giản bởi vì số tiền còn lại trong túi cha không đủ để mua vé cho hai cha con. Thật sự thì chúng tôi cũng chẳng dư dả gì! Nhưng tôi không hề giận cha. Những gì cha đã làm lúc đó đáng giá hơn cả ngàn buổi xem xiếc.” (truyện kể về đạo làm người trên mạng vi-tính, cũng rất đạo)

 Sống theo lẽ đạo làm người ở đời, không hẳn là “chuyện nhỏ” dễ làm hoặc dễ nhớ để làm. Làm cho người và cho chính mình. Trong đời người, cũng có những lúc, những thời mà người đời thường vẫn cứ quên sót. Quên chuyện chính, mà chỉ nghĩ chuyện phụ.

Cũng hệt thế, có những lúc, những buổi mình và người cứ đọc Kinh Sách hay kinh kệ, chỉ lấy lệ, cốt cho qua. Hoặc, đọc rất nhiều nhưng chỉ theo thói quen tốt và lành. Cũng có lúc người mình kể về chuyện Đạo rất hay mà chẳng hiểu được ý người viết dụ-ngôn/truyện kể muốn nói gì, huống chi là Lời Chúa, rất dễ hiểu.

Sống theo lẽ Đạo của người đi Đạo, nhiều lúc cũng không khác mấy. Sống và giữ Đạo, chừng như người và mình vẫn chỉ như sống sao đó để chứng-tỏ là mình thuộc Đạo gốc, đạo “ròng” mà quên mất rằng mình chỉ đi Đạo lòng vòng, có thế thôi.

Nói xa nói gần chi bằng nói rất thật bằng câu ca, truyện kể cũng đáng nể, để khỏi quên. Nói và kể bằng những lời hoặc câu chuyện kể rất “tếu”.

“Truyện rằng:

Có ông thói bói không mù nhưng chuyên nói những chuyện rất thật, trên đời cho một người đàn ông đến hội ý với ông ta rằng:

-Nửa phần đầu của cuộc đời, ông sẽ phải khổ tâm rất nhiều vì thiếu tiền bạc/của cải hoặc những gì mình ước-muốn, nhưng sau đó, ông sẽ đỡ hơn nhiều.

-Ơ kìa, tại sao thế? Có phải vì tôi sẽ kiếm ra được nhiều tiền và giữ mãi của cải mình kiếm được, không thầy?

-Không phải thế đâu! Chỉ vì, ông sẽ quen với việc ấy thôi….”

             Cũng có thể, nhiều người nghe kể như thế, sẽ không đồng ý cho lắm. Bởi, trên thực-tế, làm gì có thầy bói mù hay bói “mu rùa” nào lại tuyên-bố với thân-chủ mình những chuyện như thế.

Cũng có thể, đó chỉ là truyện kể để bầu bạn nghe cho vui, rồi minh-hoạ cho những điều mình chứng-xác với người khác hoặc quyết-tâm với chính mình.

Cũng có thể, đây chỉ là chuyện đời thường chỉ để dẫn đưa bạn và tôi đi vào với lời vàng do bậc thánh-hiền xưa nay, từng xác-quyết về việc tiếp-cận Lời Chúa, như sau:

“Những người Do-thái ở đây cởi mở

hơn những người ở Thessalônikê:

họ đón nhận lời Chúa với lòng nhiệt tâm,

ngày ngày tra cứu Sách Thánh

để xem có đúng như vậy không.

Và nhiều người trong nhóm họ tin theo;

về phía người Hy-lạp,

cũng có nhiều phụ nữ thượng lưu

và nhiều đàn ông cũng tin theo như thế.”

(Cv 17: 11-12)

Xác-quyết thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hiên ngang hước thẳng về phía trước. Để rồi, quyết sẽ làm như lời dặn ở trên. Hiên-ngang thực-hiện điều tốt-lành ngang qua lời ca, tiếng hát vẫn nhủ rằng:

“Một mùa sao sáng

ôi mùa sao chói chang muôn đời.
Vạn lời truyền rao

nghìn hào quang chiếu sáng ngôi cao.
Lạy Mẹ Đồng Trinh ban ơn,

người Việt cùng thương nhau hơn.
Đất nước này đây

sáng đức tin Chúa trên trời cao.”

(Nguyễn Văn Đông – bđd)

Nghệ-sĩ đời, mà còn viết và hát được như thế, sao ta lại không làm như thế? Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta hãy hát những lời tương-tự, để rồi “Người Việt cùng thương nhau hơn, sáng đức tin Chúa trên trời cao!”

“Sáng đây”, không chỉ mỗi đức tin rất trừu-tượng hay tưởng-tượng. Mà, còn sáng cả tâm-tình thương-yêu nhau, hơn bao giờ hết. Rất Giáng Sinh.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn mừng Giáng Sinh

Trong tâm-tình sáng láng

Nhiều hơn sao.

Anh có ngờ đâu trong những đêm

Tin Mừng (Lc 1: 39-45)

Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:

Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”

 *      *     *

“Anh có ngờ đâu trong những đêm”

Trăng ngà giãi bóng mặt hồ êm.

Anh đi thơ thẩn như ngây dại

Hứng lấy hương nồng trong áo em.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

Những đêm trời tối giống đêm nay, lại cũng có một người thơ thẩn không ở hồ êm, mà lại thẩn thơ chốn chợ đời, nhiều truyện kể.

              Tin Mừng hôm nay, lại cũng kể về một sự kiện rất hệ trọng, là: Đức Chúa nay quyết đến ở cùng và ở mãi với chúng ta, vốn dĩ chỉ là người phàm, khó chung sống.

Kể truyện Chúa-ở-cùng-loài-người vào nghi-thức phụng-vụ tuần cuối Mùa Vọng, người kể hôm nay lại nhớ về câu chuyện na ná vẫn xảy đến với nhiều người, chí ít là với chú bé tên David ở đâu đó, giống Úc Châu, như sau:

“Tôi chạy vội ra cửa hàng doanh-thương định mua vét vài món quà Giáng sinh cho con cho cháu. Nhìn quanh, xem người người tấp nập đổ xô mua mua bán bán. Và, trong một thoáng rất nhanh, tơi tự trách mình sao không nhanh chân lẹ tay để giờ này cứ phải đứng đây chờ với đợi, sốt ruột quá.

Cuối cùng, tôi đến khu bán đồ chơi và lẩm bẩm một mình không biết bọn trẻ nhà mình chúng có ưa các món tôi mua cho chúng không.

Bất chợt mắt tôi quay về phía chú bé kia đang ôm chặt con búp bê. Ra chiều ưng ý lắm. Một tay cầm búp bê, tay kia chú bé mon men vuốt nhẹ lên tóc đồ chơi. Sau, tôi thấy chú bé quay người, hỏi: “Dì ơi, Dì có chắc là mình không còn tiền để mua búp bê nữa không?”

Người đàn bà khẽ trả lời: “David à, Emily không có chơi búp bê nữa đâu, con”. Tôi thấy người phụ nữ lảng qua phía khác, lựa đồ đạc cần thiết hơn. Cậu bé cứ lẽo đẽo đi theo. Tay vẫn ghì chặt lấy búp bê chưa trả tiền.

Thấy David đứng thờ thẫn, tôi đến gần hỏi xem hai dì cháu định mua búp bê cho ai vậy. Cậu bé trả lời:

-Mỗi lần đến Giáng Sinh, là chị của cháu đều thích mua búp bê.

Tôi bảo:

-Cứ từ từ cháu ạ, rồi thì Ông Già Noel cũng đem búp bê đến cho chị của cháu thôi.

Bé nói:

-Không có đâu, Ông Noel không sao đến được chỗ của chị cháu đâu. Cháu phải đem búp bê cho Mẹ để Mẹ đi đến chỗ đó mà đưa cho Emily. Chỉ có cách ấy thôi.

Tôi hỏi:

-Thế chị cháu ở mãi đâu mà ông Noel không đến được, chắc là xa lắm hay sao, hả cháu?”

David rơm rớm nước mắt:

-Chị cháu đi về chỗ Chúa Giêsu đang ở đó, Bác ạ. Ba cháu nói Mẹ cũng sắp đi đến chỗ Emily và Chúa Giêsu hôm này thôi.”

Nghe xong, tim tôi chừng như ngừng đập. David tiếp:

-Cháu có nói với Ba là làm thế nào thì làm để Mẹ đừng có vội đi, phải chờ cháu mua được búp bê cho Emily đã. Cháu vẫn muốn Mẹ mang búp bê tới cho Emily của cháu cơ.”

            Thấy cậu bé không để ý nhìn, tơi vội đưa tay vào ví, lấy một ít tiền và bảo:

-David, cháu có biết đếm không?”

Mắt bé sáng rực một niềm phấn khởi. Và nói:

-Đấy, cháu biết thế nào Chúa Giêsu cũng cho tiền để mua búp bê cho Emily mà, chắc chắn là như thế.

Tôi dúi tiền vào tay bé rồi cả hai cùng đếm. Đếm xong, David lại nói:

-Đúng là Chúa Giêsu cho cháu đủ tiền để mua búp bê mà.”

Vài phút sau, Dì của David quay trở lại. Thấy vậy, tôi vội đẩy xe chở đồ đi nơi khác, tránh thắc mắc của hai người. Trong bụng, tơi không khỏi suy nghĩ về bé David và thấy rằng hôm nay mình kết thúc chuyến mua sắm trong tình huống khác hẳn lúc ban đầu.

            Về đến nhà, nhớ lại câu chuyện được đăng trên báo mấy hôm trước đó về trường hợp một người uống rượu phóng xe đụng phải xe khác làm chết một bé gái và mẹ của em đang thoi thóp trên giường bệnh phải dùng ống dưỡng khí, trợ thở.

Hai ngày trước Lễ, theo dõi báo/đài tôi thấy gia đình người đàn bà đang trong cơn hôn mê ấy quyết định tắt máy trợ thở. Và hôm trước ngày Chúa Giáng trần, báo chí có đề cập đến tang lễ của Julia Norris cùng con gái bà, là Emily, được cử hành vào ngày lễ phó tế Stêphanô, tử vì đạo. Tên người chồng và cha của hai mẹ con người đàn bà bạc mệnh là Michael và tên người con nhỏ đồng thời em trai của Emily, là David.

Vào đêm Lễ, gia đình tôi tụ tập nơi bàn tiệc mà không ai trong chúng tôi ăn hết được các món trên bàn. Tay cầm món quà đắt giá mà chẳng người nào cần thiết. Và, bia rượu thì uống quá mức nhu cầu. Suy cho kỹ, tôi thấy “chúng ta vô tình để mất đi ý nghĩa nòng cốt của ngày Chúa Giáng hạ làm người”.

Sự kiện Đức Chúa-cùng-ở-với-chúng-ta xảy đến rất giản đơn. Cũng chỉ như hài nhi đang cần tình thương yêu đùm bọc. Thế mà, nhân danh ngày Lễ hội, chúng ta lại phung phí bạc tiền quá sức tưởng tượng. Ăn uống thì cũng vượt quá mức độ cần thiết. Lại còn say sưa chè chén một cách lố bịch.

Tôi buồn bã rời bàn tiệc để về phòng riêng, viết vội tấm thiệp chúc Tết gửi cho mọi thành viên trong gia đình nhỏ của tôi. Tôi kể cho mọi người biết sẽ chẳng khi nào tôi có thể nói: “Tôi muốn gia đình biết cho rằng tôi vẫn thương yêu hết mọi người.”

Đọc thiệp tôi viết, chắc mọi người sẽ nghĩ rằng tôi bị chứng mát thần kinh nặng. Tuy vậy, qua hình ảnh chú bé David và búp bê kia, Đức Chúa đã ghé thăm hồn tôi vào tuần lễ cuối của Mùa Vọng. Và, Giáng sinh mai ngày sẽ chẳng bao giờ giống như Giáng sinh năm ấy.

Nghe kể truyện bé Đavít và thiệp vui ngày lễ, hẳn ta lại nhớ câu thơ còn ngâm giở rằng:

“Độ ấy xuân về em lớn lên,

Thấy anh, em đã biết làm duyên.

Yêu dấu lòng anh ôm hận riêng.”

(Hàn Mặc Tử – Âm Thầm)

 Nhà thơ âm thầm nghĩ về những đêm “trăng ngà giãi bóng mặt hồ êm”, nhưng nhà Đạo lại nghĩ về những bạn trẻ nhỏ vẫn âm thầm hướng về người mẹ hiền đã khuất không còn nhìn thấy bé. Chí ít là thấy Chúa Hài Đồng ở mọi chốn, rất riêng tây.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch.

THEO GƯƠNG MẸ MARIA, SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

THEO GƯƠNG MẸ MARIA, SỐNG TÂM TÌNH MÙA VỌNG

 Mùa Vọng là thời gian để chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.  Trong thời gian này, Giáo Hội đã cho chúng ta chiêm ngưỡng những mẫu gương sống động của các nhân vật trong Kinh thánh như: Tiên tri Isaia, Gioan tẩy giả, cũng như qua cách sống và những tâm tình của các ngài trao gởi lại, thì đó cũng là những bài học rất quý giá để chúng ta sống tốt đẹp hơn trong thời gian mùa Vọng.

DUC ME

Thật thiếu sót, nếu chúng ta không kể đến Mẹ Maria trong thời gian mong đợi Con Chúa giáng trần.  Bởi vì Mẹ Maria cũng đã từng sống tâm tình mùa Vọng như bao người khác.  Thế nhưng, hơn ai hết, kinh nghiệm sống tâm tình mùa Vọng nơi Mẹ Maria vẫn luôn là tiếng gọi thúc giục lòng ta hãy thành tâm chiêm ngưỡng cách sống mùa Vọng nơi Mẹ.  Nhờ vậy chúng ta sẽ có những tâm tình xứng hợp trong khi chúng ta hướng về ngày Chúa đến trong trần gian.

1/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa Vọng bằng đời sống thánh thiện:

Vì ý thức Đấng Thiên Sai muôn dân mong đợi là Đấng thánh, nên thời gian sống tâm tình mong đợi con Thiên Chúa nơi Mẹ Maria, đã được dệt bằng những chuỗi ngày vô tận của sự thánh thiện.  Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn sẽ được đón nhận niềm vui ơn cứu độ cách tròn đầy.  Mẹ sống thánh thiện, vì Mẹ xác tín những tâm hồn thánh thiện là những tâm hồn luôn làm đẹp lòng Chúa là Đấng Thánh.  Và Ngài rất vui khi được hiện diện với những tâm hồn như thế.

Về điểm này, chúng ta hãy suy nghĩ lại những hành động của Chúa Giêsu khi Ngài tiến về Giêrusalem để thực hiện cuộc thanh tẩy Đền thờ.  Vì phía sau hành động thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta phải tự thanh tẩy đền thờ tâm hồn chính mình, nhờ vậy Thiên Chúa là Đấng thánh mới vui thích ngự trong những tâm hồn trong sạch như Ngài.

Hơn ai hết, cách sống tâm tình mùa Vọng của Mẹ Maria đã để lại dấu ấn không thể ngờ và không thể phai mờ.  Không thể ngờ vì qua sự chuẩn bị tích cực để mong đợi Đấng Cứu Độ nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã đoái nhìn đến cách sống thành tâm tuyệt vời ấy.  Vì thế, một điều bất ngờ xảy ra nơi Mẹ là Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ, Người Nữ Thánh Thiện được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã chọn cung lòng thanh khiết của Mẹ để trao gởi Người Con Yêu Dấu của Ngài là Đấng Thánh, và qua trung gian Mẹ Maria Thiên Chúa đã trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người.  Đó là một điều bất ngờ đối với Mẹ Maria.  Thế nhưng, qua sự bất ngờ này thì Mẹ Maria đã thể hiện một dấu ấn không thể phai mờ.  Vì từ giây phút bất ngờ khi được Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, cũng từ giây phút ấy, Mẹ Maria đã khiêm tốn chỉ cho chúng ta con đường để chúng ta gặp Chúa, để Chúa đến với chúng ta.  Con đường Mẹ chỉ dạy chúng ta đó là hãy trở lại kinh nghiệm của chuỗi ngày vô tận sống thánh thiện nơi Mẹ.  Vì chuỗi ngày thời gian sống thánh thiện của Mẹ, đã hình thành nên bài thánh ca muôn thuở để mời gọi mọi người hãy can đảm sống tâm tình mùa vọng bằng đời sống thánh thiện như Mẹ Maria, Trinh Nữ Thánh Thiện.

2/ Mẹ Maria sống tâm tình mùa Vọng bằng đời sống khiêm nhường:

Khiêm nhường là cách sống Mẹ rất ưa thích.  Mẹ thích sống khiêm nhường, bởi vì nhờ những tâm tình ấy mà Mẹ thật sự trở nên một người con bé nhỏ của Thiên Chúa, luôn phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, luôn sống theo những gì Chúa đã dạy.

Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thưa hai tiếng xin vâng ý Chúa trong ngày truyền tin, để từ giây phút ấy mẹ đã trở nên Thánh mẫu của Đấng Tối Cao.

Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên Mẹ sẵn sàng thi hành lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Lúc vui, lúc buồn, lúc bối rối, lúc lo sợ, lúc an bình…… Nhờ việc hạ mình sống theo Lời Chúa mà Mẹ Maria được gọi là người có phúc.  Mẹ có phúc vì Mẹ là người luôn “lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc: 11, 28).

Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.  Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã khiêm nhường tự hạ mang lấy thân phận con người, và trong thân phận con người Ngài đã mang lấy thân phận nô lệ để phục vụ sự sống cho muôn người.

Vì Mẹ thích sống khiêm nhường, nên qua đời sống gương mẫu tuyệt vời ấy, Mẹ muốn nhắc nhở chúng ta: Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường, Ngài rất thích những ai sống khiêm nhường.  Chỉ có những tâm hồn sống khiêm nhường như Chúa mới có thể gặp được Chúa và được Chúa đến viếng thăm cư ngụ trong tâm hồn người ấy.  Vì Thiên Chúa bản chất là khiêm nhường, nên Ngài không bao giờ đến với những ai kiêu căng, cậy dựa chức quyền, cậy dựa vào sức mạnh của trần thế để bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Thiên Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường.  Về điểm này chính Mẹ Maria đã nhắc nhở cũng như đã cảnh cáo những ai sống ngược lại với cách sống khiêm nhường của Chúa, khi Mẹ nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.  Chúa hạ bệ những ai quyền thế, người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc: 1, 51-52).

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng.  Thiết nghĩ, chúng ta nên thay đổi cách sống để cùng với Mẹ Maria sống những tâm tình Mùa Vọng.  Vì đối với Chúa, những cố gắng quyết tâm chân thành sống phút giây hiện tại, cũng có thể biến chuyển đời sống chúng ta trong tương lai.  Hơn nữa, sống tâm tình mùa Vọng không chỉ dừng lại bởi thời gian được ấn định trong năm phụng vụ.  Nhưng tâm tình hướng về Con Thiên Chúa đến trần gian, đến trong cõi lòng chúng ta phải được thực hiện trong từng phút giây của nhịp sống.

Như vậy, khi khám phá hình ảnh sống mùa Vọng nơi Đức Maria qua đời sống thánh thiện và khiêm tốn, thì đó cũng là lúc Mẹ chỉ cho chúng ta con đường hoàn hảo nhất, đẹp lòng Chúa nhất để Chúa đến với chúng ta.

Nếu chúng ta thật lòng sống thánh thiện như Mẹ mà không bị giằng co bởi những thú vui giả tạo mau qua của thế gian, chắc chắn đó là con đường hoàn hảo nhất để Chúa là Đấng Thánh giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.  Nếu như chúng ta thật lòng sống khiêm nhường như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, mà không lo sợ phải thiệt thòi bởi những thứ ham muốn của sức mạnh trần thế, chắc chắn đó là con đường đẹp lòng Chúa nhất để Chúa giáng sinh trong cõi lòng chúng ta.

Lạy Mẹ Maria!  Ước gì những tâm tình sống mùa Vọng nơi Mẹ sẽ là hành trang luôn đồng hành trong cách sống đức tin chúng con.  Nhờ đó chúng con cũng được đón nhận nguồn ơn cứu độ như Mẹ.  Lạy Mẹ Maria, xin cho niềm vui giáng sinh sắp đến được khơi dậy bằng ước muốn sống thánh thiện và khiêm nhường trong từng phút giây hiện tại của đời sống chúng con.  Amen.

LM Giuse Nguyễn Minh Chánh

langthangchieutim gởi

CHÚA VỊ CỨU TINH SẼ ĐẾN CỨU ĐỘ CHÚNG TA

CHÚA VỊ CỨU TINH SẼ ĐẾN CỨU ĐỘ CHÚNG TA

(CN III Mùa Vọng)

  Tuyết Mai

Thật phải khi Thiên Chúa vị Cứu Tinh của chúng ta đến trần gian, tất cả mọi chỗ mọi nơi trên địa cầu phải nhảy mừng, hân hoan và ca hát không ngừng. Để chào đón một Thiên Chúa vô cùng toàn năng, thống trị toàn cõi địa cầu, sẽ giáng trần mặc xác loài người như chúng ta và để cứu độ chúng ta. Thưa Ngài sẽ cứu độ chúng ta như thế nào?.

Ngài sẽ làm cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Ngài sẽ mở mắt cho người mù được nhìn thấy; mở tai cho người điếc được nghe; người què được nhảy nhót; người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn rên siết nữa.

Thế thì còn gì bằng mà toàn cõi địa cầu không phủ phục dưới bàn thờ Thiên Chúa mà cảm tạ Người. Vì Thiên Chúa đã dõi mắt trông chừng chúng ta.  Vì Thiên Chúa Người có đang lắng nghe tiếng chúng ta khẩn cầu với lòng thành khẩn, thông cảm cho sự yếu đuối mỏng dòn của con người chúng ta.  Thiên Chúa Người thương yêu chúng ta, muốn được hiểu chúng ta tường tận hơn nên không gì bằng đã cho người Con duy nhất của mình xuống trần, mặc xác phàm để cảm thông và hiểu thế nào để trở thành một con người thật sự như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.

Vâng, một Hài Nhi phải xuống trần học cách làm con người.  Ngài phải được sinh ra thật bình thường như một con trẻ, có hình hài, có đầy đủ đầu mình và tứ chi. Cũng phải có cha mẹ là người trần gian nhưng cả hai rất khiết trinh vì đã dâng hiến trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Thế cho nên hai người đã được Thiên Chúa Cha tuyển chọn trong vô số những người thanh niên và thanh nữ để xứng đáng làm dưỡng phụ và dưỡng mẫu của Chúa Con Giêsu trên thế gian này.

Quả Ngài là một Thiên Chúa thật siêu phàm vì Ngài đã hy sinh chính mình cho nhân loại. Hy sinh đến nỗi Chúa đã chọn chỗ sinh ra đời của mình ở một nơi tận cùng nhất, bần hèn nhất, hôi hám nhất của trần gian. Một hang bò lừa ư?. Nằm trong máng cỏ trên được lót rơm ư?. Quần áo của một một thiên tử con Vua Trên Trời lại chỉ là tấm vải quấn người thôi ư!?. Sao Chúa lại làm thế?.

Chúa đã có ý dạy chúng con điều gì?. Có phải Chúa dạy chúng ta một bài học rất đơn giản là con người khi sinh ra trên trần gian này cũng không khác nào khi nằm xuống?. Là một sự tuần hoàn của nguyên thủy được trở về với nguyên thủy?. Con người khi được sinh ra trong trần truồng thì khi Chúa gọi ra đi cũng thật trần truồng.

Vâng, một thiên tử con Vua Trời lại phải học cách để làm người. Để được như vậy Ngài phải được sinh ra là một hài nhi chứ. Ngài cũng phải được bú mớm từ dòng sữa tươi mát và rất lành thánh của người Mẹ là Đức Maria khiết trinh của chúng ta.

Ngài phải được lớn lên trong sự giáo dục của cha mẹ thánh. Ngài cũng phải tập cách suy nghĩ của con người. Ngài học cảm nhận được cái nóng, lạnh, đói, đau, khổ và cái cảnh nghèo thiếu thốn ra sao. Ngài cũng phải sống chung với tất cả con người nghèo mà Ngài cho là bạn rất thân thiết của Ngài, ngày qua ngày như chúng ta đây vậy. Rất phải khi Thiên Chúa Cha đã nghĩ ra cách hoàn hảo nhất để dạy dỗ con người, sửa phạt con người là đem chính thân xác của con mình làm gương sáng cho nhân loại tội lỗi noi theo.

Khi nói đến gương sáng chúng ta tất cả không thể phủ nhận rằng gương sáng ngời của gia đình Thánh Gia. Một người cha trần thế rất thánh thiện, công thẳng, hiền hòa, bác ái và rất nhân hậu. Ngài là người ít nói nhưng làm nhiều. Hòa khí trong gia đình Ngài đã sống thật hòa thuận. Đúng lắm với thứ bậc làm cha và làm chồng của mình.

Luôn thương yêu, nhường nhịn người bạn đời của mình và biết thông cảm. Còn nói về Đức Mẹ thánh thiện của chúng ta thì không khỏi cảm phục và yêu kính Mẹ. Mẹ can đảm để Xin Vâng với thiên chức được làm Mẹ Chúa Trời trong tương lai vì lợi ích của nhân loại tuy dù Mẹ hiểu rằng những cái khổ trước mặt mà Mẹ phải chịu đựng.

Thiên Chúa Cha Người thương Mẹ đến độ Người đã chọn Mẹ và tác tạo Mẹ cách riêng để Mẹ không vướng tội tổ tông truyền vì Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cơ mà. Mẹ rất xứng đáng làm Mẹ Chúa Trời. Mẹ xứng đáng làm Mẹ của Hội Thánh và Mẹ rất tuyệt vời để làm Mẹ của nhân loại.

Trong mùa đông lạnh giá này phúc thay cho toàn thể nhân loại chúng ta được Con Chúa Giáng Trần. Ngài giáng Ân Phúc cho chúng ta để trẻ con không cha không mẹ bị bỏ rơi có nơi trú ngụ và được no ấm.   Để các em lạc loài sống đầu đường xó chợ khắp nơi tìm nguồn an ủi nơi hang Bêlem.   Để những người cô đơn chưa đôi chưa cặp biết chờ đợi ý Chúa.   Để gia đình những ai đang xào xáo bất hòa biết nhịn nhục, chịu đựng, và yêu thương nhau hơn.  Để người bệnh tật được giảm đau và biết sống trông cậy vào Chúa.   Để người già cả biết sống trong chờ đợi trong an bình và để toàn cõi địa cầu biết Đấng Toàn Năng Con Thiên Chúa đang dần đến với chúng ta.

Lạy Chúa, Ngài xuống trần mà chẳng có ý định đem theo mình một thứ gì từ trời cả.  Ngôi báu cũng không, danh vọng tiền tài cũng không, tất cả mọi thứ Ngài để lại ở trên Trời.   Ngài chỉ đem theo duy nhất trái tim tràn đầy yêu thương là món quà trân quý nhất của Ngài ban tặng cho nhân loại chúng con mà thôi. Do đó chúng con xin được học nơi Ngài từ cách sống đơn sơ chân chất và thật thà. Đem chính thân xác mình và tình yêu Thiên Chúa đến cùng khắp anh chị em nơi bốn phương trời và hoan hỉ loan báo cho cùng khắp thiên hạ là Con một Thiên Chúa sắp Giáng Sinh. Amen.

 Tuyết Mai

Y Tá của Chúa

11 tháng 12, 2015

NGƯỜI NỮ CHIẾN THẮNG CON RẮN

NGƯỜI NỮ CHIẾN THẮNG CON RẮN

Sự tích Lễ mừng Đức Bà Guadalupe ngày 12/12

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Trong chuyến viếng thăm mục vụ Mêhicô lần thứ hai, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) nâng thổ dân Juan Diego (1474-1548) lên hàng Á Thánh vào Chúa Nhật 6-5-1990.  Hôm ấy, Đức Thánh Cha âu yếm gọi tân chân phước là “người tâm phúc của Đức Bà dịu hiền Tepeyac.”  (Thổ dân Juan Diego được Đức Mẹ Maria (Đức Bà Guadalupe) hiện ra 5 lần vào năm 1531).

NGUOI NU CHIEN THANG

12 năm sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sang thủ đô Mêhicô lần thứ năm và chủ sự lễ tôn phong hiển thánh cho chân phước thổ dân Juan Diego vào ngày 31-7-2002.

Xin lược thuật 5 lần Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria hiện ra cùng thổ dân Juan Diego trên đồi Tepeyac.  Lần đầu vào sáng thứ bảy 9-12-1531 và lần cuối vào chiều thứ ba 12-12-1531.  Trong lần hiện ra sau cùng, Đức Mẹ Maria tỏ lộ danh thánh là “Đức Bà Guadalupe.”  “Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa “Người Nữ Chiến Thắng con rắn.”

Các cuộc hiện ra được thổ dân Antonio Valeriano (1520-1605) kể lại tỉ mỉ.  Thổ dân Antonio Valeriano sống đồng thời với thổ dân Juan Diego.  Vào năm 1531, thổ dân Juan Diego 57 tuổi và thuộc về nhóm thổ dân thiểu số rất ít người.  Trước đó 7 năm, ông Juan Diego lãnh bí tích Rửa Tội cùng với người vợ hiền là bà Maria Lucia.  Bà Maria Lucia qua đời năm 1529.

LẦN HIỆN RA THỨ NHẤT

Hôm đó là sáng thứ bảy 9-12-1531, ông Juan Diego đến nhà thờ Thánh Giá ở Tlatelolco để tham dự buổi học giáo lý.  Khi đến gần đồi Tepeyac, ông nghe tiếng líu lo êm ái, tiếng ríu rít nhẹ nhàng, với các cung trầm bổng tuyệt vời của muôn ngàn chim sẻ, như tiếng nhạc réo rắt vọng xuống từ trời cao.  Thổ dân Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ.  Ông dồn dập tự hỏi: “Liệu mình có xứng đáng với những gì đang nghe không?  Hay mình đang mơ?  Mình đã tỉnh hẳn chưa?  Mình đang ở nơi nào đây?  Có lẽ mình đang ở địa đàng, nơi cõi trần hạnh phúc mà các bậc tiên tổ đã nói tới chăng?  Hay là mình đã vào thiên đàng rồi?”  Còn đang đảo mắt nhìn chung quanh, bỗng tiếng hót im bặt và ông nghe một tiếng nói xa xôi, vọng xuống từ trên cao và gọi rõ tên ông:
– Juan Diego, Juan Diego bé nhỏ!

Juan Diego không hề cảm thấy sợ hãi, trái lại, ông sung sướng tiến nhanh về hướng đồi cao.  Khi leo lên tới đỉnh, Juan Diego trông thấy một Bà đang đứng đó.  Bà ra hiệu mời Juan Diego tiến lại gần Bà.  Khi đến trước mặt Bà, Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ và kinh ngạc trước vẻ đẹp siêu thoát của Bà.  Áo Bà long lanh các tia sáng mặt trời.  Tảng đá nơi Bà đặt chân như toàn bằng đá quí và mặt đất chung quanh Bà tỏa sáng như cầu vòng.

Thổ dân Juan Diego kính cẩn quì xuống và cảm động lắng nghe lời Bà nói cách êm ái dịu dàng:
– Hỡi Juan bé nhỏ, người con nhỏ bé nhất trong các con Mẹ, con đang đi đâu đấy?
Juan Diego trả lời:
– Thưa Bà, con phải đến Nhà Bà ở Messico-Tlatelolco để tiếp tục học về các mầu nhiệm của Thiên Chúa do các linh mục dạy.  Các linh mục là các thừa tác viên thánh của Chúa chúng ta.

Bà Đẹp liền bày tỏ cùng Juan Diego ước muốn của Bà:
– Con hãy cẩn trọng ghi khắc nơi lòng con rằng con là người bé mọn nhất trong các con của Mẹ, và Mẹ chính là Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa thật, Đấng là suối nguồn sự sống, là Đấng Tạo Dựng muôn loài.  Ngài là Chủ Tể trên trời và dưới đất.  Mẹ hết sức mong ước người ta xây cất nơi đây một đền thánh, hầu Mẹ có thể minh chứng và trao ban cho mọi người tình thương của Mẹ, lòng cảm thông, sự trợ giúp và che chở của Mẹ.  Bởi vì, Mẹ là Mẹ Từ Bi của các con, Mẹ của riêng con, cũng như của toàn dân sống trên phần đất này và của tất cả những ai thành khẩn kêu cầu cùng Mẹ với trọn lòng tin tưởng.  Mẹ nghe rõ tiếng kêu than ai oán của họ.  Mẹ muốn trao ban cho mọi người phương thuốc chữa trị các nỗi đau đớn, các khó khăn cùng các sầu khổ buồn phiền.  Và để có thể thực hiện các nguyện ước khoan nhân của Mẹ, con hãy đi tới tòa Giám Mục Mêhicô và thưa với Đức Giám Mục rằng, chính Mẹ sai con tới và Mẹ ước ao người ta xây cho Mẹ một đền thánh trên ngọn đồi này.  Con hãy kể lại tỉ mỉ cho Đức Giám Mục tất cả những gì con thấy và nghe.  Con hãy tin chắc rằng, Mẹ sẽ nhớ ơn con, Mẹ sẽ ban thưởng cho con.  Mẹ sẽ làm cho con được hạnh phúc và con, con sẽ xứng đáng với phần thưởng, dành cho các cố gắng và các nhọc mệt con hy sinh để chu toàn sứ mệnh Mẹ trao phó.  Đấy nhé, con đã nghe rõ mệnh lệnh của Mẹ, hỡi con Mẹ, đứa con nhỏ bé nhất trong tất cả các con Mẹ.  Bây giờ con hãy đi và dùng trọn sức lực để thi hành công tác.

Thổ dân Juan Diego kính cẩn cúi mình nói:
– Thưa Bà, con sẽ đi ngay và thực hiện lệnh Bà truyền.  Giờ đây đứa đầy tớ khiêm hạ của Bà xin được phép lui gót.

Ông Juan Diego mau mắn xuống khỏi đồi và trực chỉ thành phố Mêhicô.  Vào thành, ông đi thẳng đến tòa Giám Mục.  Vị Giám Mục sở tại lúc bấy giờ là Đức Cha Juan de Zumárraga thuộc dòng Anh Em hèn mọn thánh Phanxicô.  Juan Diego xin gặp Đức Cha và thưa với ngài về sứ điệp của Bà Đẹp Thiên Quốc.  Nhưng Đức Cha không tin lời ông nói.  Juan Diego buồn bã ra về, lòng thất vọng vì nhiệm vụ giao phó không hoàn thành.

LẦN HIỆN RA THỨ HAI

Cùng ngày thứ bảy 9-12-1531, thổ dân Juan Diego quay trở lại đồi Tepeyac.  Khi lên tới đỉnh đồi, Juan Diego trông thấy Bà Đẹp Thiên Quốc đang đứng chờ mình.  Ông quỳ sụp xuống và nói:
– Thưa Bà, con đã mang sứ điệp của Bà đến cho Đức Giám Mục.  Ngài ưu ái lắng nghe con nói, nhưng ngài không tin lời con.  Có lẽ ngài nghĩ là con bịa chuyện.  Vì vậy, con tha thiết xin Bà, xin Bà hãy trao phó nhiệm vụ này cho một người khác quan trọng hơn.  Có thế, Đức Giám Mục mới tin.  Bởi vì con chỉ là người chót bét, một sợi dây mỏng manh, một chiếc thang bằng gỗ, một cái đuôi, một mảnh giấy.  Con thuộc về một nhóm dân cùng đinh, nghèo khổ, vậy mà Bà lại sai con đến một nơi quá cao xa đối với con, đến một chỗ mà con không bao giờ dám đặt chân tới.  Xin Bà tha thứ cho con, nếu con làm phật ý Bà, nếu con làm Bà nổi giận.  Hỡi Bà là Bà Chủ của con!

Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria trả lời:
– Hỡi người con bé nhỏ nhất của Mẹ, hãy lắng nghe lời Mẹ nói đây.  Mẹ biết rõ là có nhiều tôi tớ khác của Mẹ có thể thi hành mệnh lệnh Mẹ truyền.  Tuy nhiên, Mẹ rất cần đến sự giúp đỡ của con.  Vậy thì, Mẹ truyền cho con trở lại tòa Giám Mục một lần nữa.  Ngày mai, con đến tòa Giám Mục và thưa với Đức Cha rằng con đến nhân danh Mẹ và xin ngài xây cất một đền thờ theo ý hướng của Mẹ.  Con lập lại với ngài lần nữa rằng chính Mẹ là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, chính Mẹ đã đích thân sai con đến với ngài.

Thổ dân Juan Diego khiêm tốn thưa:
– Thưa Bà, con không hề muốn làm phiền lòng Bà, con sẽ trung tín thi hành nhiệm vụ Bà trao phó.  Con không quản ngại đường xa cũng không lưu ý việc Đức Giám Mục không tin lời con nói.  Ngày mai, con sẽ mang đến cho Bà câu trả lời của Đức Giám Mục.  Bây giờ xin Bà cho phép con ra đi. Trong khi chờ đợi, xin Bà nghỉ ngơi!

Sáng hôm sau, Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego rời nhà thật sớm đi tới Tlatelolco để tham dự các buổi cử hành phụng vụ.  Trong lòng, ông cương quyết tìm mọi cách gặp cho bằng được Đức Giám Mục.  Thánh Lễ kết thúc, thổ dân Juan Diego phải nài nỉ mãi người ta mới cho ông được hầu chuyện với vị Giám Mục.  Ông quì gối trước mặt Đức Giám Mục, vừa khóc ông vừa lập lại lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc.  Ông khẩn khoản xin Đức Giám Mục tin lời ông.  Ông tha thiết xin ngài chấp thuận thi hành ước nguyện của Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm.

Với mục đích kiểm chứng thực hư, Đức Cha Juan de Zumárraga đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi. Thổ dân Juan Diego kiên nhẫn trả lời rõ ràng từng câu một, thật chính xác.  Sau khi tỉ mỉ tra vấn, Đức Giám Mục truyền cho ông Juan Diego phải xin Bà Đẹp Thiên Quốc tỏ lộ một “dấu chỉ.”  Mặt khác, ngài còn cẩn thận sai vài người giúp việc nơi tòa Giám Mục hãy đi theo ông Juan Diego xa xa, và theo dõi mọi hành động của ông.  Thế nhưng, khi đến chân đồi Tepeyac thì những người này không còn trông thấy bóng dáng thổ dân Juan Diego đâu nữa.

LẦN HIỆN RA THỨ BA

Cùng ngày Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego lên đồi trình bày với Đức Mẹ về câu trả lời của Đức Giám Mục.  Nghe xong, Đức Mẹ liền nói:
– Hỡi con bé nhỏ của Mẹ, con đã thi hành tốt đẹp lệnh truyền của Mẹ.  Được rồi. Ngày mai con hãy trở lại đây để đón nhận “dấu chỉ” mà vị Giám Mục xin.  Như thế, ngài sẽ tin lời Mẹ, sẽ không hoài nghi cũng không còn ngờ vực con nữa.  Phần con, con luôn ghi nhớ rằng Mẹ sẽ trả công bội hậu cho con vì tất cả khó nhọc con dành để phục vụ Mẹ.  Giờ đây con hãy chạy nhanh về đi.  Ngày mai Mẹ đợi con cũng nơi ngọn đồi này!

Ngày hôm sau, thứ hai 11-12-1531, thổ dân Juan Diego không đến nơi hẹn với Đức Trinh Nữ.  Lý do vì chiều Chúa Nhật hôm trước, khi về đến nhà, ông Juan Diego trông thấy người chú Juan Bernardino lâm bệnh nặng.  Ông Juan Diego vội vã chạy đi tìm thầy thuốc đến chữa bệnh cho chú.  Thầy thuốc đến ngay.  Nhưng cơn bệnh đã đến hồi trầm trọng, vô phương cứu chữa.  Biết thế, ông chú liền xin Juan Diego đi mời linh mục đến, để ông được lãnh nhận các phép Bí Tích sau cùng và dọn mình chết lành.

LẦN HIỆN RA THỨ TƯ VÀ THỨ NĂM

Sáng tinh sương ngày thứ ba 12-12-1531, ông Juan Diego nhanh nhẹn đi đến Tlatecolco để mời linh mục cho chú.  Ông cẩn thận chọn một con đường khác, đi vòng quanh ngọn đồi về hướng đông, để có thể vào ngay thành phố Mêhicô, và khỏi bị Bà Đẹp Thiên Quốc giữ lại nói chuyện!  Tuy nhiên, ông Juan Diego rất đỗi ngạc nhiên khi trông thấy Bà Đẹp từ trên đồi đi xuống.  Khi đến gần, Bà hỏi ông Juan Diego:
– Có chuyện gì xảy ra vậy con?  Con đang đi đâu đó?

Thổ dân Juan Diego cảm thấy vừa sợ hãi vừa xấu hổ thẹn thùng.  Ông nghiêng mình thưa:
– Con hy vọng Bà hài lòng!  Sáng nay Bà có cảm thấy dễ chịu không? Sức khoẻ Bà như thế nào?  Con biết Bà sẽ phật ý.  Nhưng xin Bà hiểu cho rằng, chú con bị bệnh nặng vì bị lây bệnh dịch hạch.  Con đi mời linh mục đến giải tội cho chú con.  Xin Bà thứ lỗi cho con.  Xin Bà vui lòng chờ đợi con.  Con không đánh lừa Bà đâu.  Ngày mai con sẽ đến đây thật sớm để gặp Bà!

Sau khi lặng lẽ nghe ông Juan Diego bào chữa một hơi dài, Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria nhân từ dịu dàng trả lời:
– Con hãy lắng nghe và hiểu cho kỹ, hỡi đứa con bé nhỏ nhất của Mẹ.  Con đừng xao xuyến trong lòng.  Con đừng lo lắng về bệnh tình của chú con cũng như về bất cứ điều gì không may sẽ xảy ra.  Mẹ đang có mặt nơi đây, không như là Người Mẹ của con sao?  Con không tìm thấy an nghỉ dưới bóng rợp mát của Mẹ sao?  Mẹ không phải là sức khỏe của con sao?  Con không được Mẹ ấp ủ sao?  Hãy nói cho Mẹ biết con đang cần gì?  Con chớ nên âu lo và buồn phiền, ngay cả bệnh tình trầm trọng của chú con.  Bởi vì chú con chưa chết bây giờ đâu.  Con hãy tin tưởng vững chắc rằng, ngay chính lúc này đây, chú con sẽ được khỏi bệnh!

Lắng nghe những lời nói dịu dàng của Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, thổ dân Juan Diego cảm thấy lòng tràn ngập niềm an ủi.  Ông mau mắn leo lên đồi cao, theo lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc. Ông hái những đóa hồng Tây-Ban-Nha nở tươi, thơm phức, tuyệt đẹp, ngoại lệ, vì lúc bấy giờ là tháng 12.  Thổ dân Juan Diego nhanh nhẹn hái hết và bỏ vào chiếc áo choàng, đan bằng sợi cây xương rồng.  Giờ đây ông trở thành vị sứ giả đáng tin cậy.  Ông hăng hái trở lại con đường tiến thẳng vào thành phố Mêhicô.

Ông Juan Diego vào tòa Giám Mục, quì gối trước mặt Đức Cha Juan de Zumárraga.  Thổ dân Juan Diego lập lại sứ điệp của Đức Mẹ Maria rồi từ từ mở chiếc áo choàng, mà cho đến lúc ấy, ông vẫn còn giữ chặt trước ngực.  Vừa khi những đóa hồng tươi rơi xuống đất, tức khắc, xuất hiện trên chiếc áo choàng hình ảnh thật đẹp của Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Vị Giám Mục cùng tất cả những người hiện diện liền sấp mình xuống đất, tôn kính hình ảnh lạ được Đức Mẹ Maria in trên áo choàng.  Vị Giám Mục thật ân hận vì không tin ngay lời thổ dân Juan Diego nói.  Ngài muốn giữ chiếc áo choàng lạ nơi nhà nguyện riêng của ngài ở tòa Giám Mục.  Ngày hôm sau, Đức Giám Mục cùng với một đoàn người đông đảo, đi hành hương kính viếng nơi Đức Mẹ đã hiện ra trên đồi Tepeyac.

Về phần thổ dân Juan Diego, ngoài hồng phúc được tận mắt trông thấy Đức Mẹ Maria, ông còn cảm thấy thật sung sướng vì chứng kiến phép lạ đầu tiên thực hiện theo lời hứa của Đức Mẹ.  Đó là cuộc khỏi bệnh lạ lùng của người chú Juan Bernardino.  Chính với người chú này – ông Juan Bernardino – mà trong lần hiện ra thứ năm, cũng là lần sau cùng, Đức Mẹ tỏ lộ danh thánh:
–  Đức Bà Guadalupe.

“Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa ”Người Nữ Chiến Thắng con rắn.”

Chiếc áo choàng với hình Đức Mẹ Maria được rước từ nhà nguyện riêng của Đức Giám Mục ra Nhà Thờ Chính Tòa và được trưng bày cho các tín hữu đến kính viếng.  Hơn 2 tuần sau, ngày 26-12-1531, chiếc áo choàng lạ lại được rước tới nhà nguyện nhỏ đầu tiên do chính các thổ dân xây cất dâng kính Đức Bà Guadalupe trên đồi Tepeyac.

Trong vòng 17 năm trời, tức cho đến ngày nhắm mắt từ trần vào năm 1548, thổ dân Juan Diego sống cạnh đền thánh tí hon này, làm người canh giữ đền thánh.  Nhưng nhất là, ông trở thành người đầy tớ đơn sơ khiêm hạ, trở thành vị chứng nhân và tông đồ nhiệt thành của Đức Bà Guadalupe.

Cuộc hiện ra của Đức Bà Guadalupe với thổ dân Juan Diego đã ghi dấu ấn sâu đậm nơi cuộc sống người dân Mêhicô.  Đức Bà Guadalupe trở thành biểu tượng sức mạnh của kẻ bé nhỏ, yếu đuối và là niềm hy vọng của tất cả những ai đang lo âu sầu khổ.

Hình ảnh Đức Mẹ Maria in trên áo choàng vẫn còn trông thấy rõ ràng mãi cho đến ngày nay, sau 480 năm.  Chiếc áo choàng hiện được tôn kính nơi đền thánh trên đồi Tepeyac.  Đền thánh mang tên Đức Bà Guadalupe.

Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe là Trung Tâm Thánh Mẫu lớn nhất thế giới.  Mỗi năm có khoảng 20 triệu tín hữu đến hành hương.

Đức Mẹ Guadalupe được tuyên xưng bổn mạng nước Mêhicô vào năm 1737, bổn mạng toàn Mỹ Châu vào năm 1910 và bổn mạng nước Phi-Luật-Tân vào năm 1935.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(CSD 1009, ”Contesto Storia e Significato della Apparizione Guadalupe”, 13-7-2002)

Lời kinh đêm cùng nhã nhạc dâng lên

Lời kinh đêm cùng nhã nhạc dâng lên
Đêm huyền diệu và lòng người trinh trắng
Có ai đó hái từ trời thanh vắng
Vô vàn sao rụng xuống – bản tình ca

Đêm nhòa sương như hai nghìn năm xưa
Vang vọng tiếng tôn vinh từ cao thẳm
Những ánh mắt nhòa tan vào mê đắm
Những lời ca bay vút tới vô biên

Là tâm hồn nhân loại rất mọn hèn
Hòa với cả đất trời đang thổn thức
Cả vũ trụ bao lâu rồi rạo rực
Bao lâu rồi thương nhớ một Ngôi Hai
Bao lâu rồi khao khát một đêm nay

Máu Chí Thánh chảy trong tim trần thế
Ôi khôn xiết linh thiêng giờ Nhập Thể
Khắp càn khôn quỳ gối xuống nguyện cầu
Từng hạt kinh là bảo ngọc trân châu

Rải trên lối Đấng Muôn Trùng kính ái
Hát, hát nữa, hỡi trần gian điên dại!
Dâng, dâng lên ngàn triệu nỗi mê say
Dâng, dâng lên làm Lễ Vật Đêm Nay…

(Vâng, đã có một mùa đông như thế
Bây giờ và mai sau tôi vẫn kể
Mỗi khi trời lành lạnh tiết Noel
Rằng đã từng mầu nhiệm bàn tay em…)

Thế Luân
http://dongten.net/noidung/56154