ĐỂ THẤY CHÚA HIỂN LINH TA CẦN CÚI XUỐNG THẬT THẤP

ĐỂ THẤY CHÚA HIỂN LINH TA CẦN CÚI XUỐNG THẬT THẤP

(CN Lễ Hiển Linh)

Tuyết Mai

Con người đời thường của chúng ta thích đứng ngẩng đầu cho thật cao để tương xứng với nghề nghiệp và chức vụ của mình nên vô tình hay cố ý đã làm cho xương cốt chúng ta nó cứng đơ ở vị trí như thế.   Bởi đứng thật cao thì chẳng bao giờ nhìn thấy được ai cả, trừ hai con mắt của anh chị em mình.   Chúng ta thời nay càng ngày càng có nhiều người thống khổ và hoạn nạn.   Họ thường ở dưới chân của mình chứ có đâu được ở ngang tầm mắt của mình mà thấy, thưa có phải?.

Thật dễ hiểu thay khi Chúa Hài Đồng Giêsu của chúng ta, sinh ra và được đặt nằm trong máng cỏ, cơ hàn và lạnh lẽo.   Chúa của chúng ta Ngài là hình ảnh của biết bao nhiêu anh chị em nghèo khổ từ trẻ sơ sinh cho đến già nua bệnh tật, sống chung quanh chúng ta.   Ra đường có mấy ai chịu nhìn xuống để thấy cuộc đời cần rất nhiều sự chia sẻ của chúng ta đâu!?.   Ngay trong gia đình là người thân cận nhất của chúng ta mà chúng ta cũng chỉ nhìn ngang bằng chứ không chịu nhìn thấp xuống để có sự cảm thông, hay biết khi nào người thân rất cần sự chăm sóc của mình.

Nếu như cuộc đời chúng ta cứ nhìn thẳng trước mặt để tìm sự tiến thân hay tiến chức thì thú thật chúng ta chẳng bao giờ nhìn thấy Chúa Hiển Linh được đâu.   Hiển danh, hiển lộc, hiển tiền, hiển gian dối, hiển hiện sự khinh khi đối với người, hiển hiện cho nhau sự ghen ghét và thù hằn thì chẳng bao lâu con người sẽ đi theo cái bóng hiển hiện của sự dữ là ma quỷ và mất linh hồn đời đời của chúng ta.

Chúa Giêsu sinh ra đời làm người thiết tưởng Ngài không kỳ thị một ai nhưng là để Cứu Chuộc nhân loại.   Bằng chứng là ba nhà chiêm tinh gia thuộc thành phần giầu có quý phái cũng đã được Chúa soi sáng, báo tin cho họ biết là có một Đấng Tối Cao từ Trời mà xuống thế, sẽ sinh hạ đâu đó nơi thành Bê-lem.   Rồi mục đồng nghèo khổ làm nghề chăn thú vật cho người giầu có, cũng được Chúa báo để đến xem Chúa Hiển Linh.

Chúa Hiển Linh là để chiếu sáng những đức tính thần thiêng, thánh thiện và rất con người của Ngài, là Yêu Thương nhân loại.   Qua sự ra đời (theo Thánh Ý Thiên Chúa muốn) trong khốn khó, trong nghèo nàn của Ngài.   Bởi vì chương trình của Thiên Chúa là muốn Chúa Giêsu được cùng chia sẻ sự nghèo khổ ấy cho con người bần hèn nhất trong xã hội nhân loại.   Vì có phải Thiên Chúa dạy cho con người biết sự giầu sang của thế gian, không đem lại cho con người hạnh phúc đích thực, nên Ngài không muốn dạy cho con cái của Ngài đi sai đường như thế.

Quả chương trình của Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha sắp xếp cho từ đầu đến cuối là sự thể phải theo thứ tự như thế!.   Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là tấm gương soi sáng cho toàn thể nhân loại.   Tấm gương ấy sáng ngời và chiếu soi cho những ai muốn sống theo Ngài.   Tấm gương ấy sẽ rọi chiếu những điều tốt lành, thánh thiện và yêu thương.   Càng soi vào tấm kiếng trong vắt ấy, Chúa sẽ cho chúng ta thấy hình ảnh của Chúa và biến chúng ta ngày một giống Chúa hơn.

Quả nếu tâm hồn chúng ta có Chúa, chúng ta sẽ hiểu biết mà nhận ra Thiên Chúa của chúng ta, đang nằm thật thấp trong máng cỏ hôi hám, không giống Thiên Chúa của loài người trông đợi!.   Vâng, xin toàn thể nhân loại con người là những thành phần bất xứng hãy đến với Chúa với tấm lòng giản dị và rất chân tình.   Hãy có cuộc sống thật khiêm nhường.   Hãy yêu thương nhau như Chúa luôn yêu thương chúng ta.

Hãy mở tấm lòng để Chúa có thể ngự trị trong con người của chúng ta!.   Hãy xa tránh những cạm bẫy của thế gian và sống cuộc đời thánh thiện để Chúa sẽ mở mắt cho chúng ta thấy sự Chúa Hiển Linh và hình ảnh trung thực nhất của Chúa là những anh chị em khốn cùng đang sống chung quanh chúng ta đây.

Khi chúng ta chịu cong người xuống thật thấp, để thấy được những anh chị em đang sống thống khổ và đói khát nằm đầy dẫy bên vệ đường.   Họ ghẻ lở, bệnh tật và tật nguyền, đang rất cần chúng ta giúp đỡ.   Bắt chước Chúa Giêsu sống trong khiêm nhường và trong yêu thương.   Đối xử tốt với hết thảy mọi người chỉ cách ấy chúng ta mới nhận biết Chúa Hiển Linh và ngài luôn ở cạnh bên chúng ta mọi ngày cho đến khi Chúa gọi chúng ta ra khỏi đời này để về với Chúa.   Hưởng mọi phúc vinh trên Quê Trời Nơi có Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=lxTduer6YyM

(Chúa Là Ai Con Không Thấy Quen)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

31 tháng 12, 2015

———————————————————————

CHÚA LÀ AI CON KHÔNG THẤY QUEN

(Thơ và Nhạc của Tuyết Mai 6/13/10)

Lạy Chúa!

Ngày ngày trên bước đường con đi,

Sao con chẳng bao giờ gặp được Chúa?

Chúa là ai? Con chẳng thấy trông quen?

Toàn những con người con không thể làm quen hay thân được.

Bà Chu bên cạnh nhà, ồn ào, từ sáng sớm.

Ông Xã Xệ sát bên, lời qua tiếng lại, chẳng kém gì bà ta.

Mấy đứa con trai bà, thẹo đầy mặt, trông phát ghê sợ.

Mấy đứa con gái ông Xã Xệ, xem cách ăn mặc,

Cũng biết thuộc gái ăn chơi của thời đại,

Luôn có mặt trong những quán bia ôm.

Bà Gô bán bánh mì đầu ngõ,

Đố ai ăn quịt, mà ra về được an toàn.

Còn những đứa bạn gọi là thân nhất,

Cũng tốt với con tùy bữa tuỳ ngày.

Đại khái chẳng ai trong xóm con thấy chơi được,

Hà huống chi con lại muốn kết thân.

Còn ông Sò mang tiếng giầu nhất phố,

Cũng nổi tiếng là keo kiệt.

Bà vợ thì nổi tiếng là ngồi lê đôi mách chẳng ai sánh bằng.

Ăn hàng ghi sổ, từ quán ngoài cửa chợ, cho đến vào chợ trong.

Từ sáng sớm đến hoàng hôn, không cần ăn cơm nhà.

Không chuyện của ai mà bà ta không được biết.

Lạy Chúa,

Thế Chúa là ai con không được rõ?

Có phải anh mù, chị điếc, thằng câm, con thường gặp ở chợ?

Xin ăn từng bữa, kiếm miếng cơm thừa, cũng chẳng có ai cho?

Có phải những con người tanh hôi ghẻ lở?

Ở góc chợ đời, bị bao kẻ khinh ghét đuổi xua?

Có phải những con người lang thang trên hè phố?

Điên điên khùng khùng, vì cuộc đời cay nghiệt,

Chẳng biết đi về đâu?

Có phải những tiếng khóc của trẻ thơ,

Văng vẳng khắp nơi trên đường phố,

Tìm bú mớm từ giòng sữa ấm của mẹ,

Nhưng nó sẽ chẳng bao giờ được cho?

Cùng với tất cả những ai không nhà cửa,

Người thân, bất hạnh, khuyết tật,

Bệnh hoạn, điên loạn, nghèo đói,

Bị mọi người và xã hội ruồng bỏ,

Khinh chê, và bị bỏ quên trên khắp mọi nẻo đường,

Khắp mọi nơi trên tòan thế giới?

Lạy Chúa,

Có phải tất cả, họ là anh chị em của chúng con,

Là hình ảnh của Chúa đó không?

Nếu phải, thì lậy Chúa, con sẽ phải làm sao?

Vâng, thưa lạy Chúa!

Con sẽ cố gắng tìm đến và giúp từng người một con gặp được,

Trên mỗi bước đường của con, bây giờ,

Cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi và giới hạn của con. Amen.

Y Tá Của Chúa

Tuyết Mai

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

Ngôi Lời đã thành người

Dòng Tên Việt Nam

Lễ Giáng sinh là lễ hội của mọi người trên mặt đất
vì Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ phận người của chúng ta.
Ngài đã đến với thế giới này như nhà của Ngài (cc. 9. 11).
Chỉ cần nhận biết, tin vào Ngài, đưa Ngài vào nhà (cc. 10-12)
là chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa.
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài để chờ.
Có ai mở cửa cho Ngài không? (Kh 3, 20).

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
http://dongten.net/noidung/8528

ĐÊM ĐÔNG CHÚA SINH RA ĐỜI

ĐÊM ĐÔNG CHÚA SINH RA ĐỜI

(Lễ Giáng Sinh)

Tuyết Mai

Quả thật hôm nay là ngày trọng đại của toàn thể nhân loại con người. Chúa đã đến cùng chúng ta. Nào tất cả trên trời và dưới đất hãy cất lên những tiếng tù và, chiêng, trống cùng đủ loại đàn, cộng tiếng ca thanh trong và vút cao, để hát chào mừng Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh xuống trần. Ôi một ngày trọng đại chưa từng có trong lịch sử của loài người. Nay Đấng ấy là Con Một Thiên Chúa đã chọn ngày này mà giáng trần là Món Quà cao quý và cao trọng nhất mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng ta.

Ngài thật là Đấng uy hùng và thống trị của cả vũ trụ nhưng Ngài lại chọn sinh hạ xuống trần một cách thật độc đáo và một cách không ai hay biết, chỉ những ai mà được Ngài cho biết mà thôi. Ngài xuống trần chỉ được báo cho những người có tâm hồn bình dị, nghèo khổ, chân chất và rất bình thường là mấy em mục đồng. Con Chúa Đấng vô cùng quyền năng ấy đã bị con người trần gian từ chối không cho trú thân.

Một Đấng vô cùng quyền năng và vô song ấy đã sinh hạ trong một hang lừa thật hôi hám và thật bất xứng cho Ngài. Còn thật tệ thay là ngay cả chiếc nôi Ngài nằm là máng cỏ của chúng bò lừa, sự ấm êm không ngoài những cọng cỏ khô được gom lại.

Còn sự đau khổ nào cho bằng khi dưỡng phụ và dưỡng mẫu của Chúa Con Giêsu không thể trao ban cho Ngài một chỗ nương thân có thể tươm tất hơn thế. Sự đau khổ ấy các ngài chỉ biết giữ trong lòng và phó mặc tất cả cho Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần định liệu và cùng sắp đặt. Sự xuống trần của Chúa Giêsu Hài Đồng hẳn có nguyên do và là Thánh Ý Chúa Cha muốn như vậy. Vì có phải sự nghèo hèn ấy đã phát sinh ra biết bao nhiêu bài học mà Thiên Chúa muốn dạy và muốn chia sẻ thật nhiều cho con cái của Người? Mà hằng bao nhiêu thế kỷ qua đã có biết bao nhiêu con người nghèo khổ sống cùng khắp thế giới?.

Sự an ủi ấy thật là bao la và thật to tát cho cùng khắp mọi thành phần nghèo khổ trong xã hội. Từ trẻ sơ sinh bị vất ra ngoài đường cho đến các em nhỏ không nơi nương tựa, không một người thân, không cơm áo, không một vật dính thân rồi đến người bệnh tật, tật nguyền, trần truồng và rách rưới vì bị đời chối bỏ.

Ngày Chúa Giáng Trần tùy từng người, tùy mọi thành phần của xã hội mà Chúa đã trao ban cho nhân loại một Hạnh Phúc thật vô biên là Chính bản thân của Ngài. Sự Sinh Hạ của Ngài là một Hồng Ân thật cao cả đối với nhân loại con người. Mà từ khắp mọi nơi, mọi ngả đường, mọi nhà đều cảm thấy và cảm nhận được sự ấm cúng của sự hạnh phúc ấy. Chúa đến Trần Gian là cho tất cả nhân loại một Ý Nghĩa thật sâu sắc, đậm mầu tình yêu thương của một Thiên Chúa.

Người người tìm đến nhau để cho nhau sự ấm áp. Sao Chúa không chọn chào đời ở những mùa khác trong năm mà lại chọn giáng trần trong mùa đông lạnh đầy tuyết phủ này?. Có phải vì mùa đông con người thường tìm đến nhau nhiều hơn chăng?. Chẳng phải để tấm thân hay chết được ấm áp bên cạnh lò sưởi cho những tiếng tí tách trong đêm nhưng là để tìm một hạnh phúc thật của một gia đình.

Ít nhất hạnh phúc ấy cũng được chia sẻ từ người cha, người mẹ và đứa con duy nhất. Vì nhìn trong máng cỏ chúng ta thấy ai trong đó?. Thưa có phải là Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu Hài Đồng đấy sao?. Vâng, ý nghĩa Chúa muốn nhắn nhủ cho nhân loại hạnh phúc có nghĩa là tất cả những gì chúng ta có thể trao ban cho nhau dù cả hai cha mẹ có cuộc sống thiếu thốn và thật khó nghèo.

Ý nghĩa của Hạnh phúc đích thực ở đây Chúa muốn dạy cho con người chúng ta là chỉ cần cho nhau trái tim biết yêu thương chứ không phải là đồng tiền và nhất là lại không phải là những món quà vô tri vô giác. Như gia đình Thánh Gia tuy không có tiền và cuộc sống của các ngài thì cũng rày đây mai đó. Không nơi nào là nhà cố định cả. Nhưng chắc hẳn không ai trên Trần Gian này lại có được Hạnh Phúc như thế. Có phải định nghĩa của một mái ấm gia đình đúng nghĩa là hình ảnh cho nhân loại ấn tượng nhất là trong đêm Giáng Sinh hay không?. Vì nhà nhà ai cũng có muốn chưng một Hang Đá với Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong máng cỏ bên cạnh Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.

Những hình ảnh khác cũng cần phải có để tôn vinh và hát khen chào mừng Chúa Giêsu chào đời là các Thiên Thần, ba vua và các em mục đồng. Vì Chúa Giêsu sinh hạ nơi thế trần, chính Ngài là Hạnh Phúc đích thật vì Ngài ban cho chúng ta Bình An, Tình Yêu và một tâm hồn biết sống chia sẻ. Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:

https://www.youtube.com/watch?v=GqgQl9ZyqmA

(Giêsu Hài Đồng)

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

23 tháng 12, 2015

Chiều nay có mùa thu đi về

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau lễ Hiển Linh Năm C 03/01/2016

 “Chiều nay có mùa thu đi về”
Buồn vương mây ngàn giăng khắp lối
Mùa thu bơ vơ đến bên trời
Ru tóc em suối nguồn
Gọi hồn hong gió thu buồn.

(Từ Công Phụng – Mùa Thu Mây Ngàn)

(Rm 2: 1-2)

            Trần Ngọc Mười Hai

             Lại một lần nữa, bần đạo xin thú thật với bạn bè người thân rằng thì là: đề-tài “mùa thu” từng là nguồn-hứng cho cả người viết nhạc lẫn bần đạo bầy tôi đây. Thu, bao giờ cũng “vương mây ngàn”, “bơ vơ đến bên trời” và “gọi hồn hong gió thu buồn.”

Lại nữa, cứ nói đến thu, nghệ sĩ nhà mình sẽ còn hát điệu buồn những là xa nhau, như sau:

“Ngày mai chúng mình xa nhau rồi

Cầm tay em nhìn sao không nói

Chiều nay mưa bay khắp phố nhỏ

Mưa ướt đôi vai mềm

Bùn lầy lấm gót chân em.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Vâng. Thơ nhạc thì như thế. Thế còn, truyện kể thì ra sao?

Vâng. Một câu hỏi “hóc búa” như thế có ma nào dám trả lời. Thôi thì, thay vì trả lời trả cả vốn, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thử truyện kể nhè nhẹ như một trò chơi, một trò chơi quá tuyệt vời, rất sau đây:

“Năm ấy, con gái lớn của tôi, Tina được 9 tuổi. Một hôm, tôi chở con gái về thăm bà nội. Tôi nhớ rằng, giai-đoạn ấy tôi đi đến quyết định rằng việc mở tài khoản tình cảm giữa cha con chúng tôi là hết sức quan-trọng. Thế là, trước chuyến đi ấy, tôi cứ băn-khoăn mãi với ý-nghĩa; “Mình có thể làm gì trong vòng 30 phút để ký gửi vào tài-khoản tình-cảm của con gái?”

Bạn biết không, để làm được điều này, cần phải có một chút can đảm. Một đứa trẻ 9 tuổi chắc-chắn đã hình-thành nhận-định của riêng mình về những hành-vi mà nó trông-đợi ở người khác. Tôi không phải là người hay nói chuyện trong lúc lái xe.

Thỉnh-thoảng, tôi cũng có nhận-xét này nọ về cảnh-vật hai bên đường, nhưng thường thì tôi chỉ im-lặng điều-khiển “vô-lăng”. Vì thế, quả là tôi phải hoay hoay một lúc mới nghĩ ra cách và tôi ngỏ ý với con gái về một trò chơi giữa hai cha con.

 Khi chúng tôi vừa lái xe ra khỏ nhà, tôi bèn hỏi: “Này con gái, sao bố con mình không cùng tham-gia một trò chơi nhỉ? Điều chúng ta cần làm rất đơn-giản, chỉ cần nói: “Bố ơi, con rất vui bởi vì…” hoặc: “Bố thích điều con làm bởi vì…” Từ “Bởi vì” rất quan-trọng, nó trả lời câu hỏi tại sao người khác yêu mến chúng ta. Đồng ý chứ? Bố bắt đầu trước nhé?”

Tôi là người bắt đầu trước. Tôi nói một điều gì đó về con gái. Cô bé ngẫm nghĩ một chút rồi bắt đầu nói một cái gì đó về tôi. Nhưng, sau ba bốn câu như vậy, tôi bắt đầu “cạn vốn” không nghĩ ra được điều gì để nói. Quả là một sự thật gây sốc đối với tôi. Tôi yêu con gái mình là thế, vậy mà tôi khó có thể nhớ ra việc làm hoặc nét tính-cách nào ở nó làm tôi yêu thích. Tôi chau mày cố tìm ra một cái gì để nói. Tina làm điều này dễ dàng hơn.

Sau khoảng năm, sáu câu trôi chảy, nó bắt đầu ngập-ngừng, với giọng nói ngắt quãng. Tôi chắc rằng nó đang cân nhắc mọi chuyện về bố nó, ôn lại những gì mà tôi đã nói hoặc đã làm. Nó biết ơn những việc tôi làm, những buổi đi dạo trong công-viên với tôi, những buổi tập bóng rổ ngoài sân và cái cách mà tôi đánh thức con bé dậy vào mỗi buổi sáng. Nó có thể nhìn thấy tất cả những điều tốt đẹp ấy trong tôi.

Tôi thì phải loay hoay để nghĩ ra những điều cần nói. Và, khi tôi phóng chiếu tầm mắt nhìn lại những sự việc xung quanh cô con gái bé nhỏ của mình, quan-sát lại những điều mà nó thường làm trong gia-đình, tôi bắt đầu thấy một điều khác. Tôi thấy cảnh nó ôm hôn cha mẹ, nhớ lại những câu nói hồn-nhiên của nó và cả những lời cảm ơn nữa. Tôi biết rằng Tina học giỏi ở trường và cung-cách của nó rất lễ-độ. Tôi bảo con rằng: tôi thích nhất là khi Tina đi học về và lao đến ôm cha mẹ.

Khi cha con tôi bắt đầu đi sâu vào chi-tiết và xem xét lại mọi chuyện thì chúng tôi không thể dừng được nữa. Chuyến đi chỉ kéo dài nửa tiếng mà chúng tôi đã nói được 22 hoặc 23 điều; đến đây, thì tôi phải ngừng lại vì không thể nghĩ ra được thêm một điều nào nữa.

Thú thật, tôi có cảm-giác lẫn-lộn trong trò chơi này. Một mặt tôi rất vui, nhưng không tránh khỏi cảm-giác thất-vọng. Điều đáng mừng là Tina có thể biết nhiều điều về bố nó như thế (nó vẫn muốn tiếp-tục cuộc chơi), tôi thất vọng vì thấy mình không thể tìm ra những điều gì đẹp đẽ tốt-lành trong con bé nữa. Nhưng, dù sao điều quan-trọng nhất vẫn là, suốt dọc đường hai cha con có cơ-hội chuyện-trò rôm-rả. Tôi nghĩ trò chơi mở đầu cho cách nói chuyện mà trước đây chưa bao giờ tôi trao-đổi với con.

Khi chúng tôi đến nơi, Tina nhảy ngay xuống xe, chạy như bay vào nhà và đó là lúc mà trái tim tôi như muốn vỡ oà ra vì cảm-động. Vừa chạy nó vừa la lên: “Bà nội ơi, nội ơi. Bố biết bao nhiêu điều tốt về cháu. Cháu không biết là bố biết nhiều điều tốt về cháu đến thế.” (Trích sách “Sống Mạnh Mẽ” do Stephen R. Covery biên-soạn, Trần Đăng Khoa – Uông Xuân Vy dịch)

             Lại cũng xin thú thật với bạn đọc và bạn nghe đọc trên “sách nói” về nhiều thứ, cả chuyện phiếm lẫn truyện kể nhẹ-nhàng, rất giản-đơn.

Thú thật, là vừa xưng thú vừa nói thật những điều mà mình ít khi để ý đến. Thú thật, là thật tình tình xưng thú về kiến-thức rất hạn hẹp của mình. Thú rất thật, là: càng viết nhiều càng thấy mình chẳng biết gì nhiều, cả những điều căn-bản mà người đọc hoặc người nghe đọc truyện kể lại biết nhiều hơn người viết.

Thú thật thêm nữa, là bần đạo đây, tiếng là viết và lách những 10 cuốn chuyện phiếm trong thời gian gần 10 năm nói khoác, không có sách, mà thật ra chỉ là trích và dịch những tư-tưởng của người khác, kể cả và nhất là người nhà Đạo rất “im hơi lặng tiếng”. Thú thật, cũng rất thật như người kể truyện ở trên đôi khi cũng “thú thật” những sự thật ít khi dám xưng thú.

Và hôm nay, bần đạo đây lại cũng xin phép với bạn đọc và bạn nghe sách báo đọc bằng tai/miệng rằng: chỉ dám xin bầu bè miễn thứ cho cái tội biết quá ít, nhưng lại dịch quá nhiều. Thôi thì, đã xin phép thế rồi, nay bần đạo bèn đánh bạo ngẩng đầu nhìn về đằng trước tìm xem có đề tài gì để trích và để dịch hầu cống-hiến bạn đọc và bạn nghe đọc, hầu giết thì giờ để cho vui.

Thế thì, mời bạn và mời tôi ta đi thẳng vào bài báo xuất-hiện trên tờ The Cathokic Weekly ở Sydney hôm 20/12/2015 có đầu đề bảo rằng: “Theo toà-thánh Vaticăng, thì: Người Công-giáo không nên tìm cách khiến người Do-thái-giáo trở lại đạo”.

Đi thẳng vào bài báo, là đi vào phần tìm-hiểu rất như sau:

“Tài-liệu vừa mới phát-hành của Toà-thánh Vaticăng dạy rằng: Người Công giáo chúng ta không nên bắt-buộc người theo Do-thái-giáo phải về với Đạo mình, cho nhất-quán. Đây, là sứ-điệp của Uỷ-ban Giáo-Hoàng về Tương-quan Đạo-giáo đối với người theo Do-thái-giáo đã được Toà thánh làm sáng-tỏ qua sứ-điệp của Công-đồng Vaticăng 2 trong một tài-liệu có tên là “Nostra Aetate”. Tài-liệu mới, của Toà thánh được phổ-biến, để mừng kỷ-niệm 50 năm ngày kết-thúc Công đồng Vaticăng 2 này…

 Tài-liệu, nay nhấn mạnh điểm này, là: niềm tin của người Đạo Chúa có gốc-gác từ Do-thái-giáo, từng xác-nhận rằng Thiên-Chúa lần đầu tiên mặc-khải về chính Ngài, là dành cho người theo Do-thái-giáo. Và tài-liệu đây cũng nói: “Chính vì thế, Hội-thánh buộc phải quan-niệm việc giảng rao Tin Mừng là dành cho người theo Do-thái-giáo, tức: những người chỉ tin vào một Thiên-Chúa độc-nhất theo cung-cách khác với điều mà những người thuộc tín-ngưỡng khác, và những người thuộc thế-giới khác với ta, từng quan-niệm.”

Tài-liệu, còn nói thêm: dù người Do-thái-giáo không tin Đức Kitô là Đấng Cứu-chuộc toàn vũ-trụ, họ vẫn có phần trong việc cứu-rỗi nhân-trần, do quà-tặng và lời mời gọi của Thiên-Chúa là lời mời không thể thu-hồi lại được. Thế nên, làm sao điều như thế lại nằm ở huyền-nhiệm vô-phương dò-thấu trong kế-hoạch cứu-rỗi của Thiên-Chúa, được.

Bằng lời lẽ cụ-thể, điều này có nghĩa là: Hội-thánh Công-giáo không hành-xử cũng chẳng hỗ-trợ bất cứ sứ-vụ đặc biệt theo bất cứ cơ-chế nào trực chỉ về phía những người theo Do-thái-giáo, nào hết.

Tài-liệu, nay khuyến-khích người Đạo Chúa hãy biết “làm chứng-nhân cho niềm tin của họ trong Đức Giêsu Kitô đối với người Do-thái-giáo, nhưng theo cách ‘khiêm-hạ và bằng thái-độ nhạy-cảm’ biết chắc chắn rằng người theo Do-thái-giáo lại cũng là chứng-nhân cho Lời của Thiên-Chúa.

 Tài-liệu nói ở đây, lại cũng dạy rằng: người Công-giáo chúng ta sẽ hiểu được ý-nghĩa của Lò Thiêu Sự Sống là thế nào với người Do và phải đấu-tranh chống bất cứ dấu hiệu của thành-kiến chống lại người Do-thái-giáo. Người đi Đạo Chúa không bao giờ đu7o5c phép tỏ ra mình là người chuyên bài bác người Do-thái, đặc-biệt vì Đạo Chúa bắt nguồn từ Do-thái-giáo…(X. The Catholic Weekly 20/12/15 tr. 27 trích tin/bài từ CATHOLICCULTURE.ORG)       

             Trích và dịch như thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn hoa âm-nhạc có những ca-từ đầy tình-tự đọng lắng tâm-tư của người cùng một cảm-nghiệm những hát rằng:

“Thu nay mây ngàn còn giăng mãi bên trời,
Mùa thu lưu luyến bóng dáng anh đi.
Đêm nay bên thềm cầm tay em khẽ nói:
Ngày mai anh đi rồi,
Anh có buồn gì không?

Buồn không hỡi người đã đi rồi.
Tìm đâu những ngày vui êm ấm?
Người đi theo năm tháng không cùng,
Thương mắt em hay buồn,
Nhìn mùa thu chết bên song.

(Từ Công Phụng – bđd)

Kể ra thì, bạn và tôi có hát những câu ca da-diết đến là như: “Buồn không, hỡi người đã đi rồi?” “Tìm đâu những ngày vui êm ấm?” cũng là để dẫn đưa nhau vào với giòng chảy suy-tư đầy tư-lự, vẫn nhủ rằng: đời mình/đời người vẫn đầy ắp nhiều suy-tư về Đạo và về đời, như lời kể của cô-giáo ở trường tiểu-học nọ có bé nọ tên “Nho” lại cứ muốn thuật lại từng chữ cho mẹ mình nghe, hay như phim Hàn-quốc sau đây:

“Chú bé 9 tuổi tên Nho được mẹ hiền gặn hỏi xem bé học được những gì ở nhà trường, môn giáo lý. Nghe mẹ hỏi, bé tíu tít nói vội vàng:

 -Mẹ, cô ở trường có kể cho tụi con nghe rất nhiều chuyện Chúa làm. Sao con thấy chuyện nào cũng đẹp như phim tập, đó mẹ. Cô bảo thế này: Chúa cứu dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của lính Ai Cập chuyên hà-hiếp dân lành Do Thái. Chúa cứu họ bằng cách cho ông MôSê, xuất hiện ngay sau lưng địch, mà địch không hay.

 Kế đó, ông Môsê đem dân Do Thái tới Biển Đỏ an toàn xa lộ, không ai bị đói. Thế rồi, ông lại truyền cho các kỹ sư bắc một cây cầu thiệt to, cao ơi là cao, đặt ngay phía trên đỉnh đầu của mọi người. Và rồi, dân Do Thái ai cũng qua được cầu, mà không bị gì hết. Kế đến, ông dùng di-động gọi về cho tổng hành dinh, kêu máy bay yểm trợ.

 Thế là, họ gửi máy bay đến um sùm trời đất, bắn phá tơi bời. Và, cầu bị sập ngay lập tức. Làm chết đám lính Ai Cập. Bọn lính chết sạch, không ai kịp trăn trối với vợ con. Trong khi đó, dân Do Thái cứ ung dung sống an nhàn, thảnh thơi. Mẹ thấy có khủng khiếp không!

 Bà mẹ ngắt lời:

-Này con, con kể có đúng như cô con dạy không đó?

-Con nói thiệt đấy. Đúng rồi đó, mẹ. Con chỉ thêm có chút xíu cho nó giống phim Hàn Quốc, thôi. Chứ, kể dài như cô ở trường, mẹ nghe chỉ có nước ngủ gục, chứ ai mà tin những điều cô kể!…

 Lời chú bé thuật lại, nghe cũng giống như lời “cụ đạo” nào đó đứng bục cứ đem các truyện tiếu lâm chay/mặn ra mà xào xáo tuy không giống như lời chú bé tên Nho nói ở trên, nhưng cũng là lời kể khá là “hư cấu” ở đâu đó, rất Do-thái-giáo (?).

Quá đáng chăng, nếu cứ gán tội cho người theo Do-thái-giáo những “hư cấu” và/hoặc xấu xa rất không thật? Hư-cấu chăng, hay chỉ là hư-hao, hư-hại một uy-tín mà lâu nay ta cứ gán bừa cho người đồng Đạo tôn-thờ cùng một Chúa Trời, ở cõi này? Hư hay không hư, người Do-thái cũng đâu phải thế. Không tin, cứ mời bạn/mời tôi ta vào lại vường hoa Lời vang bậc thánh-hiền có những đoạn quả-quyết rất chắc nịch như sau:

“Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa

mà bạn xét đoán,

thì bạn cũng không thể tự bào chữa được.

Vì khi bạn xét đoán người khác,

mà bạn cũng làm như họ,

thì bạn tự kết án chính mình rồi.”

(Rm 2: 1-2)

Dẫn-chứng ở đây, đôi điều này, không phải để bảo nhau: ta đừng xét-đoán hoặc phê bình người nào khác, dù người ấy có là Công-giáo, Tin-Lành hay Do-thái-giáo. Mà là, hãy nhìn lại xem Đạo mình, người mình đặt nặng cuộc sống của chính mình vào điều gì, mà thôi.

Dẫn-chứng hay không chứng-thực vào làm chứng gì đi nữa, cũng chỉ để tôi và bạn, ta mời nhau đi vào một hành-trình sống đạo trong đó có những đòi hỏi khá gắt gao của cả một đạo-giáo chung đụng với mọi người ở thế-trần. Đòi hỏi ấy không gì ngoài chuyện thương yêu và tha thứ.

Để minh-hoạ cho đòi hỏi cốt-lõi của Đạo Chúa hay đạo từ-bi làm người, cũng nên mời nhau đi vào vùng trời truyện kể để dẫn chứng cho điều mình cần suy-tư thực-hiện trong cuộc sống rất đời thường. Truyện kể bao giờ cũng nhè nhẹ đi vào tâm-can của mỗi người và mọi, như sau:

“Một hôm, một cậu học sinh 14 tuổi đang trên đường trở về nhà sau giờ tan học thì nhìn thấy bên trong hiệu sách ven đường có một cuốn sách mà cậu rất yêu thích nhưng trên người cậu lại không mang đủ tiền để mua cuốn sách đó. Thế là, cậu liều đem cuốn sách giấu vào trong ngực, không ngờ bị ông chủ hiệu sách bắt gặp.

 Ông chủ bực tức đưa ngay cậu bé vào trong một căn phòng kín. Sau đó, gọi mấy nhân viên bảo vệ tới và xét hỏi. Cậu bé sợ hãi, nước mắt giàn rụa chảy đầy khuôn mặt. Một lát sau, họ hỏi cậu bé số điện thoại của gia đình, bố mẹ và gọi điện tới thông báo cho gia đình.

 Chỉ ít phút sau, cha của cậu bé chạy tới. Cậu cúi đầu im lặng và chờ đợi sự trách phạt từ cha.

 “Tôi nghĩ, đây nhất định là một sự hiểu lầm!” Người cha nói: “Bởi vì tôi rất hiểu con trai mình. Cháu là một cậu bé hiểu chuyện. Nhất định đây là cuốn sách mà cháu rất yêu thích, nhưng lại không mang đủ tiền để mua nó cho nên mới làm như vậy. Ông xem như thế này có được không nhé, tôi sẽ trả số tiền gấp 3 lần để mua cuốn sách kia và chuyện này coi như xong!”

 Sau đó, người cha lấy ra đủ số tiền trả cho chủ hiệu sách. Cậu bé sợ hãi và lấm lét nhìn cha, người cha cũng nhìn con trai nhưng trong ánh mắt ấy không hề có sự trách mắng mà chỉ có chan chứa yêu thương…

 Hai cha con cậu bé rời khỏi hiệu sách, người cha dừng bước rồi nâng khuôn mặt đầy xấu hổ và cảm động của con trai lên rồi nói: “Con trai! Cả đời này con nhất định sẽ phạm phải không nhiều thì ít lỗi lầm. Hãy tiếp thu rồi quên nó đi! Đừng để nó lưu lại bóng mờ trong lòng con, hãy cố gắng học tập và sống chỉ cần lần sau đừng phạm lại tội lỗi ấy nữa thì con vẫn là một người con khiến cha mẹ kiêu hãnh, tự hào!”

 Nói xong lời này, người cha liền đặt cuốn sách vào tay con trai. Cậu bé không nhịn được liền oà khóc và sà vào lòng cha. Hãy cố gắng giữ bình tĩnh, đừng đánh mắng khi trẻ phạm lỗi. Bởi vì như vậy sẽ dễ dàng gây ra cho trẻ một tâm lý oán hận. Nếu có thể dùng nhiều hơn một chút tha thứ và giảm đi một chút trách mắng thì đó chính là cách xử sự của bậc cha mẹ có trí tuệ.” (Theo NTDTV / ĐKNMai Trà biên dịch)

            Phiếm-luận hôm nay và mai ngày, bao giờ cũng là thời-khắc để bạn và để tôi, ta thư-giãn lắng đọng lòng mình vào với những giây phút kể lể cho nhau đôi ba ý-tưởng làm nền cho cuộc sống rất thường-tình, ở đời.

Phiếm và luận, lúc nào và bao giờ cũng chỉ gồm những kể và kể. Kể cho nhiều, cho hay đó mới là mục-tiêu và là cung-cách để tôi và bạn, ta cùng nhau khuyến-khích mọi người đi vào cuộc sống tuy ồn-ào, náo-động, nhưng rất vui. Vui với người và với mình, suốt mọi ngày trong đời. Ở chợ đời.

            Trần Ngọc Mười Hai

            Vẫn cứ kể hoài kể mãi

            Câu chuyện phiếm rất Đạo

            ở trong đời.

            Với mọi người.

Đêm nay xuống một bài thơ trắng,

Suy Tư Tin Mừng tuần sau lễ Hiển Linh năm C 03/01/2016

 Tin Mừng (Mt 2: 1-12)

Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi:

 “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”

Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời:

“Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.”

Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng:

“Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”

Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

*   *   *

“Đêm nay xuống một bài thơ trắng,”

Cầu nguyện cho đời, nở ái ân”

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá lược dịch.

Thơ trắng lâu rồi đã giáng hạ, xuống với đêm đen. Nhưng, đêm đen cuộc đời nào mấy ai nhận ra thơ. Thơ cuộc đời. Thơ trong Đạo. Thơ của Đức Chúa vẫn hiển hiện với dân con, ngày lễ hội. Vẫn cứ hỏi rằng: con dân nhà Đạo đã mấy ai nhận ra Thơ Trắng, ngày Chúa Hiển Linh?

Từ lâu, nhiều nhà khoa-học trong Đạo cảm-nhận được Thơ Trắng, đã cố gắng giải-thích hiện-tượng “vì sao lạ” trong Tin Mừng. “Vì sao lạ” tuyệt-vời ấy, đã dẫn dắt 3 đạo-sĩ phương Đông đến Bêlem thờ lạy Chúa Hài Nhi. Là, nhà khoa-học Đạo Chúa, các nhân-sĩ ấy muốn đem đến cho chúng dân một học-thuyết nền-tảng nhằm giãi bày với mọi người, rằng: vì sao tuyệt-vời, xuất-hiện cùng ngày Đức Chúa giáng-trần, là vì sao rực sáng, rất thiên-văn.

Dù có thuần-phục về phương-pháp các nhân-sĩ khoa-học sử-dụng, tôi vẫn luôn tự hỏi: làm sao các cụ cứ mải bận tâm chuyện trăng sao mây nước, như thế nhỉ? “Vì sao lạ”, nói ở Tin Mừng đâu có mang ý-nghĩa của một thiên-văn, rất thực-nghiệm? Thánh Mát-thêu chỉ muốn viết về nền thần-học tu-đức nhằm chứng-tỏ rằng: thiên-đường trời cao vẫn ở trên. Chốn trời cao bên trên ấy, đã dẫn đường chỉ lối cho dân con trần-thế bằng các biến-cố rất hiện-thực. Những biến-cố gần gũi với người trần-gian. Còn, sao lạ trên trời vẫn là Thơ trắng hiển-hiện với người trần-gian, đã từ lâu.

Nghiên-cứu kỹ, ta hẳn sẽ thấy: ảnh-hưởng của trăng sao, tinh-tú vẫn xuất-hiện đậm nét trong các trình-thuật Cựu-Ước, như: sách Đệ Nhị Luật, Dân số, Tiên-tri Ysaya và Thánh-vịnh. Toàn-bộ trình-thuật về lễ-hội Hiển-Linh đã mang tính-chất biểu-tưởng, tuyệt-nhiên không dính-dự về khoa-học.

Truyện kể về “sao lạ dẫn đường” đã được sử-gia Hippolitus thuật ghi vào đầu thế-kỷ thứ 3, khi nguồn sử thánh-thiêng vẫn còn rất mới. Lúc ấy, sử-gia Hippolitus  cũng đã đề-cập đến con số 12 tròn-trịa cốt tính đúng ngày giờ xảy đến sau sự-kiện Chúa giáng trần. 12, là số liệu biểu-tượng vang vọng tính nhân-hiền của Thiên-Chúa, lúc Ngài tạo-dựng các chi-tộc thuộc giòng họ Israel .

Và, 12 cũng là số-liệu thần-thiêng được Thầy Chí Thánh sử-dụng để gầy nhóm môn-đồ đại-diện, do Ngài chọn.

Cụ thể hơn, truyện kể về “sao lạ dẫn đưa đạo sĩ ghé thăm Đấng Hài-Đồng” cũng rập khuôn ăn khớp với các ảnh-hình được thánh Mát-thêu đề cập ở những chương kế tiếp. Ở ba chương đầu, thánh Mát-thêu cho thấy hiện-tượng kỳ lạ thường xảy đến, rất miên-trường nơi chương đầu, ta thấy thánh Giuse nhận thông-điệp sứ-thần Chúa mang đến, trong giấc mộng lành. Chương hai, “Lời Thơ” viết về các đạo-sĩ theo vết sao tìm đến với Hài Nhi rất thánh, Đức Giêsu. Kịp đến chương ba, lại giải bày trời cao nay rộng mở. Và, Thiên-Chúa tỏ-bày thánh-ý của Ngài ngang qua việc thanh-tẩy Đức Kitô, Con của Ngài.

Nhìn từ góc cạnh chuẩn-mực cho bất kỳ sử-liệu nào, trình-thuật nay mở đầu cho linh-đạo về nhân-vật thần-thiêng, ít nghe đến. Nói cách khác, tiểu-sử về Đấng Nhân Hiền rất thánh ghi ở đây, cốt chứng-tỏ: sự Hiển-Linh thần thánh, qua đó Thiên-Chúa biểu-lộ vinh-quang của Ngài với thế-giới nhân-trần. Và, vinh-quang ấy nay thành hiện-thực.

Thế nên, hãy thử tìm-hiểu xem vinh-quang Đức Chúa tỏ bày cho những ai? Ở đâu? Khi nào?

Trường-hợp đầu, thánh Giuse là người được vinh-dự nhận-đón sứ-điệp từ Trên, trong giấc mộng lành. Thứ đến, là trường-hợp các nhà thiên-văn ngoài Đạo cũng được mặc-khải cho biết về sự Hiển-linh khác thường, ít khi thấy. Các nhà thiên-văn ở trên đã đại-diện cho nhân-gian trần-thế, chốn thân-quên.

Ở nơi này, thế-giới nối-kết với mọi thứ quyền-bính, vẫn hành-xử với trần-gian. Qua người ở chốn gian-trần, và ở đây quyền-năng phàm-trần được thể-hiện nơi Hêrôđê đã trở-thành sức mạnh đối đầu với vinh-quang Chúa Hiển-linh. Quyền-năng trần-thế lại còn ngăn-chặn tính nhân-hiền, biểu-hiện nơi hình-hài bé nhỏ Chúa Hài Đồng.

Cuối cùng, là trường-hợp đám dân con chân-chất Do-thái, tức các con dân được chọn đã biết tìm đến với vị hiền-nhân ngôn-sứ, thánh Gioan Tẩy Giả.

Ba chương Tin Mừng thánh Mát-thêu, vinh-quang Đức Chúa như vòng quay tròn trịa, đã công-khai hiển-hiện nơi bản thân Đức Kitô. Và, tính công-khai hiển-hiện ấy nay phổ-cập đã đến với nhiều người. Cũng từ đó, vinh-quang Hiển-linh rất thánh nơi Ngài đã biến-cải nhiều cuộc sống, nơi người phàm. Cụ thể là, cuộc sống của thánh Giuse, thái-độ của các đạo-sĩ chiêm-tinh và hoạt-động của thánh Gioan Tẩy Giả.

Còn hơn nữa, cả những người từng nghe lời Ngài giảng-dạy, bảo ban trong hành-trình cuộc sống nơi nhà Đạo. Tất cả đều nhất nhất không quay về với lề-lối sống xa xưa, như ngày trước.

Mà, Hiển-Linh tuyệt nhiên không là phó-bản của một hiện-tượng “Sao chổi”, vừa đổi ngôi. Hiển-linh, là lễ-hội rất thánh nhân đó, ta mừng kính vinh quang của Đức Chúa đã cải-biến cuộc sống, cải-biến tâm-can rất nhiều người.

Hiển-linh, là lễ hội tràn đầy cơ-hội giúp biến-cải cuộc sống của mọi người. Và, cảm-hóa tâm-can của mỗi người. Hiển-linh, còn là dịp giúp ta chấp-nhận mình sẽ phải chết đi cho chính mình. Chết, để không còn sơ-xuất lỗi phạm nữa. Chết vì Hiển-linh, giúp ta tái-sinh trong vinh-quang của Đức Chúa; để rồi, vinh-quang chói-ngời của Ngài sẽ bừng sáng lên mãi trong ta. Bừng sáng, ngay tại bản-chất và ngang qua cuộc sống của mọi người.

Cầu mong sao, lễ Hiển-linh hôm nay giúp ta nhớ lại ngày Đức Chúa tỏ lộ vinh-quang cao cả của Ngài cho ta. Tỏ lộ, không chỉ riêng cho mình ta mà thôi. Cầu mong sao, lễ Hiển-Linh còn là dịp nhắc nhở rằng: ta được mời gọi để ra đi loan báo cho mọi người biết rằng: chính vinh-quang Thiên-Chúa đang hiển-hiện một cách linh-hoạt với mọi người, nơi mỗi người.

Cầu mong cho ta có được quyết tâm ra đi loan-truyền vinh-quang ấy bằng niềm tin tưởng vào lễ-hội Hiển-linh. Loan-truyền niềm tin, bằng chính cuộc đời ta đang sống. Sống hiên-ngang, vui tươi trong tâm-thức kiến-tạo nên một thế-giới mới tràn-đầy vinh-quang rực-sáng những yêu-thương, cứu-độ đổ xuống với mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch.

Giáng Sinh: Chúa thấy dân Người trên trần gian!

Giáng Sinh: Chúa thấy dân Người trên trần gian!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Đêm qua Noel về…dân Chúa đang hưởng một mùa Giáng Sinh an lành và thánh thiện. An lành vì ai ai cũng thanh thản tìm về nơi Hang đá, hòa mình trong bầu không khí mùa đông; và thánh thiện vì mỗi người nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đang đến với cõi lòng mình. Một niềm hạnh phúc đến từ trời cao. Nơi ấy, Chúa thấy, đến và yêu dân của Người!

Từ thuở hồng hoang trên thiên quốc, Thiên Chúa đã thấy dân Người đang lầm than hư mất. Vì tình yêu và tín thành, Thiên Chúa đã hứa ban chính Con một của Người để cứu độ nhân trần. Đêm Giáng Sinh là lúc Người Con ấy được trao ban cho nhân loại. Hài Nhi được hạ sinh ra trong máng cỏ. Thiên Chúa đã đến viếng thăm dân Người. Chúa thấy, đến và cứu lấy dân Người trên trần gian. Nơi Chúa Giáng Sinh, khoảng cảnh trời đất không còn xa cách, dân với Người gần gũi nhau hơn. Từ đây, Người tái lập cảnh địa đàng cho con người chung phần hạnh phúc. Hóa ra, Hang đá là nơi giao duyên đất trời, hội ngộ dân Người để cùng cất cao tiếng hát:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

Vì thương nên Chúa thấy con người, thấy bạn và thấy tôi; vì xót nên Con Một hạ sinh nơi máng cỏ để chung chia kiếp người. Thiên Chúa có quyền chọn nơi xa hoa lộng lẫy cho Hài Nhi giáng sinh. Nhưng Chúa có những cách thế mà con người chẳng thể hiểu nổi! Chúa đến với dân Người trong âm thầm lặng lẽ, trong cảnh màn trời chiếu đất. Nơi đó chỉ dành cho những ai dám mở cửa nhà mình để đến với Hang Đá, để cúi xuống mà thờ lạy Con Một Đấng Tối Cao.

Thấy được ánh mắt của Hài Nhi Giêsu và đụng chạm được chính Ngôi Lời mặc lấy xác phàm là phần phúc dành cho con người. Bởi hồng phúc Giáng Sinh là ta được thấy Chúa đang hiện diện với dân người, trong bạn và trong tôi. Chúng ta có thể ẫm bồng Hài Nhi Giêsu trên đôi tay của mình, trong máng cỏ tâm hồn của ta. Người không còn xa lạ; Người đến nhà mình trên trần gian và ước mong những ai tin yêu Người thì được ơn giải thoát.

Mùa Noel sẽ qua đi, nhưng Chúa vẫn luôn thấy dân Người trên trần gian. Người không muốn xa cách con người. Chính tình yêu và lòng thương xót của Người cứ muốn hạ sinh trong lòng chúng ta. Để từ đó, chúng ta có thể thấy Thiên Chúa trên Nước Trời. Nơi đó, ta thấy Chúa và Chúa nhìn ta trong hạnh phúc chứa chan. Đó là khát khao và cùng đích của chúng ta; đó cũng là ước mong của Thiên Chúa, vì Người thấy dân trên trần gian cần được cứu độ!

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chúng con đã thấy Chúa đến ở giữa dân Người, ở trong lòng chúng con. Từ đây chúng con hy vọng nền hòa bình cho thế giới, niềm hạnh phúc cho người dân và tình thương sẽ phủ đầy mặt đất. Để trên trần gian, chúng con có thể thấy Chúa và Chúa thấy chúng con là những con người đang rất cần ơn cứu độ. Xin Chúa đến và ở lại trong chúng con bây giờ và lúc này!

Chúc mừng sinh nhật của Chúa Giêsu!

Giáng sinh 2015

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

HÀI NHI GIÊSU TẶNG QUÀ CHO THẾ GIỚI

HÀI NHI GIÊSU TẶNG QUÀ CHO THẾ GIỚI

Tuyết Mai

Chúng ta loài người làm được gì nên tốt đẹp cho ai hay cho Chúa để được Thiên Chúa ghé mắt dõi nhìn? Thưa rằng không mà ngàn lần cũng không vì con người nhân loại chúng ta chẳng làm gì nên trò trống để đáng cho Thiên Chúa ghé mắt cả, mà không là tôi tớ chỉ giỏi lắm là làm tròn bổn phận của một tôi tớ, thưa có phải?. Ấy thế mà vì Thiên Chúa Người đã yêu thương cha ông của chúng ta, nên Người đã giữ lời giao kết đó là ban cho Thế Gian một Chúa sẽ ở cùng chúng ta.

Mùa Đông Chúa Giáng Sinh cũng là cái dịp để nhân loại chúng ta cảm ơn cha ông của chúng ta chứ nhỉ! Vì nhờ các ngài ăn ở cách ngay lành, tín trung với Thiên Chúa nên Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Con Giáng Sinh nơi Trần Gian này mà ngay cả các ngài cũng đã không có cơ hội may mắn Đón Chúa Giáng Sinh như chúng ta. Người Việt ta có câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” Nhưng trong trường hợp này là đời cha ăn ở quá thánh thiện ngay lành để đời con đời cháu được hưởng lộc như nguồn suối nước không bao giờ cạn vơi.

Cả là một sự Mầu Nhiệm về Chúa Giêsu Giáng Sinh đã muôn đời không thể có một ai đủ chữ nghĩa mà cắt nghĩa cho được ngoài sự biết cảm nhận tình yêu Thiên Chúa quá bao la, bao dung, độ lượng và đã luôn yêu thương con người. Có ai thường hỏi tại sao Con trẻ Giêsu lại chọn giáng sinh trong một đêm buốt giá, trong một hang đá lạnh lẽo hôi tanh mà chung quanh chỉ có vài nhân vật đến để thờ bái lạy Ngài đó là ba nhà Đạo Sĩ cùng các trẻ mục đồng.

Con người của chúng ta thì chỉ có được bộ óc rất giới hạn thì sự Mầu Nhiệm cao cả ấy, chúng ta chỉ duy có thể làm cách đúng đắn nhất là hết thảy hãy Đến Hang Đá mà bái lạy, cảm tạ và tôn vinh Hài Nhi Giêsu. Vâng, ngoài sự bái lạy, chúc khen và chúc tụng danh Chúa chúng ta hãy nên sống Cho Đi cách rộng rãi, chia sẻ nhiều hơn để mọi người cùng được sưởi ấm và Hài Nhi Giêsu cũng cảm thấy được ấm áp lây và để cho Ngài cảm thấy sự có mặt của Ngài trên Trần Gian này không là uổng công.

Chúa Giêsu Chào Đời cũng là kết thúc của nguyên một năm mà ai nấy, muôn nhà trên toàn khắp thế giới đều được Thiên Chúa chúc phúc, ban ơn Bình An, tuôn đổ mưa Hồng Ân cùng tưới gội bao ơn lành. Thế thì chúng ta sẽ mua quà gì tặng cho Chúa đây?. Quà gì mà Chúa Con Giêsu sẽ vui lòng đón nhận mà không trả lại?. Quà gì sẽ làm cho Con Trẻ Giêsu cảm thấy ấm áp trong suốt mùa Đông giá lạnh này?. Thưa chắc rằng tận trong thâm tâm của mỗi người chúng ta đều biết đó là món quà gì rất đáng để tặng cho Chúa.

Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì những Hồng Ân Chúa ban cho đời ta, ở những gì chúng ta không thấy nhưng luôn có đó! Và vì những thứ, những điều chúng ta đang có và đang sở hữu do chính bàn tay khó nhọc và mồ hôi nước mắt mới có. Cảm tạ Người vì có được hạnh phúc gia đình, cơm no áo ấm, vui vẻ thuận hòa gần giống như gia đình Thánh Gia vậy. Có nghĩa cuộc đời trần thế thì luôn là những lo toan, phiền toái, bôn ba, bộn bề nhưng được sống trong tình yêu Thiên Chúa thì đó là món quà quý giá nhất được Chúa tặng cho.

Cảm tạ Thiên Chúa biết bao cho những gì Người luôn ban xuống cho gia đình chúng ta nhất là được hằng ngày dùng đủ. Luôn có thời giờ dành riêng cho Chúa, có giờ dành cho anh chị em đang rất cần chúng ta chia sẻ và mở rộng vòng tay nhân ái. “Hân hoan trên các tầng Trời, muôn hào quang tỏa xuống rạng ngời … Trên Hài Đồng Giêsu con một Chúa Thiên Thượng. Hân hoan về đây toàn dân cùng chào kính Chúa Con giáng trần”. Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe để hát:

YouTube player

(Giêsu Hài Đồng)

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

24-12-2015

GIA ĐÌNH LÀ KIỆT TÁC CỦA THIÊN CHÚA

GIA ĐÌNH LÀ KIỆT TÁC CỦA THIÊN CHÚA

Suy Niệm Lễ Kính Thánh Gia

(Lc 2, 41-52)

Tác giả:  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, và Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa kết thúc với đề tài “Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới”. Mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh cũng là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống.

Gia đình là tác phẩm tuyệt đẹp của Thiên Chúa

Quả thật, Gia đình là điều đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa đã dựng nên. Người dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Người ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu của Người. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết.

Gia đình tan vỡ do Tội Nguyên Tổ

Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.

Thiên Chúa cứu vớt trong tình thương

Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi gia đình. Vì gia đình được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa trong tình yêu. Nếu Thiên Chúa không yêu thương chúng ta thì Ngài không tạo dựng nên chúng ta. Ngài không dựa vào những gì chúng ta làm, hay thành quả chúng ta có được, Ngài chỉ nhờ vào công nghiệp của Con Ngài là Đức Giêsu giáng thế. Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến. Không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa. Ngài yêu chúng ta hơn cả chúng ta yêu chúng ta. Muốn cứu vớt gia đình nhân loại, Thiên Chúa đã chọn một gia đình để đến cứu vớt! Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thiết lập.

Noi gương Thánh Gia sống Năm Thánh Lòng thương Xót

Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách đối nhân xử thế trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ, kèm theo phần phúc là sống lầu dài (x. Hc 3, 3-7. 14-17a). Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.

Gia đình ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và sự thương cảm lẫn nhau trong cách sống trong gia đình nói riêng và gia đình nhân loại cả thể nói chung. Chúng ta thấy ai bị thương một cơ phận nào đó, không phải chỉ một cơ phận mà thôi, nhưng là cả con người bị. Không ai là không bị đau thương về thể lý, tinh thần, tình cảm…dẫn đến hậu quả cũng khác nhau. Tất cả đều chịu ảnh hưởng, và những vết thương đó càng đau khổ khi người thân của chúng ta đau khổ, nhất là những người trong gia đình. Bởi vậy, rất cần sự cảm thông. Nhiều nơi không quan tâm đến tương quan giữa người với người nữa. Nhưng gia đình vẫn là nơi có thể mang lại an ủi, và có thể hàn gắn vết thương.

Có nhiều loại vết thương rất lớn và sâu do thiếu thốn nhu cần cần thiết, thiếu tiền bạc, thiếu giáo dục. Những chính sách không ủng hộ gia đình, kỳ thị tôn giáo, văn hoá, hành hạ trẻ em, bạo động trong gia đình, chiến tranh, xung khắc giữa các chủng tộc, biến đổi khí hậu. Tất cả đều hằn sâu những thương tích.

Đó là những lý do khiến Đức Giêsu Kitô phải thân hành xuống thế để rao giảng, để chữa lành những vết thương, kèm theo nhưng dấu lạ. Người đi vào trong các làng mạc và chữa lành mọi bệnh tật (x. Mt 10, 7-8).

Người không chỉ cứu chúng ta khỏi sự yếu đuối, nhưng Ngài muốn trở nên như chúng ta để cảm nghiệm được những đau khổ, sự thất lạc, vô gia cư, sỉ nhục khi ở trên thánh giá, chết và an táng trong một ngôi mộ không phải của mình. Người mang lấy vào thân những đau khổ của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, Ngài sống lại vẫn còn vết thương.

Gia đình nào trong chúng ta cũng cần được Chúa thương xót, thì chúng ta phải xót thương nhau trong gia đình. Chúa Giêsu Kitô, người mang thương tích và cầu nguyện với Chúa Cha. Khi sống lại, chan tay và hình hài của Ngài vẫn còn những vết sẹo, những dấu ấn.

Nguyện xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta trở thành những ngôn sứ loan báo Niềm Vui Phúc Âm về gia đình, về tình yêu gia đình, trở thành những ngôn sứ như môn đệ của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta ơn được xứng đáng với con tim thanh khiết, không cảm thấy bị vấp phạm vì Tin Mừng.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU –

LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU – Ga 1, 1-18

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu.”  Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau.  Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài.  Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa.  Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại.  Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta.  Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim.  Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.

Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến.  Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh.  Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta.  Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng.  Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn.  Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng.  Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.

THIEN CHUA

Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường.  Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường.  Tình yêu hạ mình vì người yêu.  Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu.  Từ trời xuống đất.  Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người.  Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người.  Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người.  Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò.  Nhường không gian cho con người ăn nói.  Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.

Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm.  Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước.  Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa.  Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi.  Đi tìm con người trước khi con người quay về.  Cuộc đi tìm thật vất vả.  Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.

Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh.  Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình.  Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục.  Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.

Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp.  Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ.  Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa.  Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người.  Trở nên một với con người.  Chấp nhận hết những gì của con người.  Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn.  Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.

Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ.  Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.  Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa.  Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối.  Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta.  Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta.  Để cho thế giới bớt tối tăm.  Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.

 ĐTGM Ngô Quang Kiệt

HÀI ĐỒNG GIÊSU CHÀO ĐỜI BỞI ĐỨC MARIA

HÀI ĐỒNG GIÊSU CHÀO ĐỜI BỞI ĐỨC MARIA

Tuyết Mai

Năm nào đến Mùa Giáng Sinh toàn cõi địa cầu, khắp nơi khắp chỗ, nhộn nhịp, rộn rã một niềm vui thật khó tả. Không khí nhất là về đêm trong mọi nhà thờ, mọi nhà và khắp những nơi shopping sắm sửa, được trang hoàng bằng rất nhiều hình ảnh thật ngoạn mắt và thật tươi vui, ròn rã với những tiếng cười nói của tất cả mọi người già trẻ lớn bé.

Đâu đâu cũng được nghe cất lên những tiếng hát như là Jingle bell, jingle bell, jingle all the way … của từ radio họ phát ra hay từ CD. Hạnh phúc nhất cho nhà nào có đầy đủ ông bà cha mẹ và anh chị em. Dịp này là dịp để cho tất cả mọi người trong gia đình được tụ họp. Những ai ở xa nay có dịp được trở về đoàn tụ với nhau. Những ai hằng ngày vì công ăn việc làm không có thời giờ cho nhau thì đây cũng là dịp để mọi người tỏ cho nhau tình thân ái đậm đà trong những gói quà, trong những món ăn được trổ tài mà hằng ngày không ai có thời giờ để nấu nướng và để trổ tài nội trợ của mình.

Chua Giang Sinh

Lái xe về đêm từ nhà thờ cho đến mọi nhà, được thắp đèn sáng trưng lên đủ mọi ánh đèn chớp chớp lên, đủ mọi mầu sắc thật là đẹp thật tráng lệ. Trong dịp Lễ Giáng Sinh này đi đến đâu chúng ta cũng thật hãnh diện là người Kitô giáo vì khắp mọi nơi trên toàn cõi địa cầu đều đón chào Vị Cứu Tinh của chúng ta đến với nhân loại và để Cứu Độ chúng ta.

Mọi sự bên ngoài đối chúng ta là hình ảnh, là dấu hiệu, là biểu tượng mang cho người ngoại giáo họ biết rằng Đức Chúa Giêsu Hài Nhi Con một Thiên Chúa Giáng Trần.  Tất cả là hình ảnh vui mừng chào đón Vị Cứu Tinh của nhân loại chúng ta. Đó là điều vinh hạnh cho cả vũ trụ. Đó là điều mà chúng ta phải loan báo cho toàn khắp địa cầu được biết.

Nhưng cũng có người cho là có lý hơn khi trong nhà thờ không được trang hoàng lộng lẫy vì Chúa Giêsu sanh ra trong cảnh cơ hàn, đơn chiếc và cùng khổ. Đàng nào thì cũng đúng và có lý cả vì bên ngoài thì lộng lẫy tượng trưng cho sao lấp lánh trên nền trời cùng những tinh tú chúng nhảy mừng vì Thiên Chúa giáng thế.

Còn cảnh bên trong nhà thờ không sao lấp lánh trên cây hay quà cáp dưới cây cũng là hình ảnh đúng đắn để diễn tả một cảnh thực của Chúa Giêsu sinh hạ trong hang Bê-lem nằm đơn chiếc trong máng cỏ.   Tấm thân ngọc ngà của Ngài được quấn với miếng vải thật thô sơ mà chẳng phải là lụa là hay gấm vóc chi.

Chung quanh Ngài là sự hiện diện của dưỡng phụ và dưỡng mẫu, ba vua, vài mục đồng cùng gia súc phủ phục bên Ngài. Thiên Thần cũng được hiện diện để chúc tụng Ngài. Vâng, trong không khí tĩnh mịch như thế mà ánh đèn chớp chớp lòe loẹt cũng tạo cho không khí mất đi ý nghĩa của một đêm tĩnh mịch.

Nói cho cùng thì đêm Chúa Giáng Sinh là một đêm thật huyền diệu và thật diệu kỳ không thể phủ nhận được rằng bao nhiêu tâm hồn thế nhân được Chúa Con Giêsu sưởi ấm. Vì có phải con người ai cũng được sinh ra làm con trẻ?. Có con trẻ được sống trong nhung lụa giầu có nhưng cũng có con trẻ được sinh ra trong gia đình trung lưu.   Có con trẻ được sinh ra không cha hay không mẹ và cũng có biết bao nhiêu con trẻ được sinh ra bị bỏ rơi trong bờ ruộng, cống rãnh, thùng rác của thành phố và những nơi chỗ chúng ta còn không được biết.

Nhưng sự giầu hay nghèo đó cũng đem cho tất cả chúng ta mọi người một niềm hy vọng, được thông cảm, được sưởi ấm và được Chúa hiểu hết tình cảnh của chúng ta. Vì Chúa đến thế gian là để mang Bình An và Yêu Thương của Ngài cho nhân loại chúng ta mà.  Nên trong mùa đông giá rét này hy vọng tất cả chúng ta người giầu có thì biết san sẻ cho người nghèo. Người nghèo thì biết chia sẻ cho người túng thiếu hơn để tất cả mọi người cùng chung vui, đón mừng Chúa đến để mang lại Hạnh Phúc cho chúng ta.

Để mọi người hiểu được rằng Tình Yêu Thiên Chúa mới là quan trọng và là món quà quý giá nhất trên trần gian mà Chúa Con Giêsu Hài Đồng muốn dạy cho chúng ta và ban tặng cho tất cả chúng ta. Có Tình Yêu Thiên Chúa là chúng ta có tất cả vì tình yêu của Ngài mới thật sự mang lại cho chúng ta Hạnh Phúc đích thực trong cuộc sống, đích thực trong tâm hồn.

Nếu chúng ta hết thảy biết mang hình ảnh con Chúa Giáng Trần luôn trong tâm hồn và trong lòng của chúng ta thì bảo đảm chúng ta sẽ luôn có hạnh phúc. Vì cùng đích của sự sống muôn đời của chúng ta mới là quan trọng và mới là thiết yếu. Chúng ta thử tưởng tượng mà xem, một Thái Tử cao trọng và sáng ngời trên Thiên Quốc thế mà xuống trần chỉ mang cho mình một xác phàm không hơn không kém. Còn chúng ta đây cả thảy là phường tội lỗi, có gì xứng đáng để dâng cho Chúa đâu!?.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:

https://www.youtube.com/watch?v=Cn4qDCuqcos

(Giáng Sinh Nhiệm Mầu)

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

22 tháng 12, 2015

MỘT TRẺ SƠ SINH BỌC TÃ, NẰM TRONG MÁNG CỎ

MỘT TRẺ SƠ SINH BỌC TÃ, NẰM TRONG MÁNG CỎ

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày nay, nói đến Noel là cả người giáo lẫn lương đều nghĩ ngay tới hang đá, máng cỏ, đèn sao, nghĩ  tới các nhân vật trong hang đá là Chúa Hài Đồng Giêsu, Thánh Giuse, Mẹ Maria, các Thiên thần, các mục đồng và chiên bò lừa.  Hang đá gợi nhớ cảnh giáng sinh nghèo khó của Con Thiên Chúa làm người.  Chính Thiên Thần loan báo cho các mục đồng: ‘‘Anh em cứ dấu này mà nhận ra Đấng Cứu Thế: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 12).  Đấng Kitô là Đức Chúa, thật khiêm nhường hạ sinh trong máng cỏ bò lừa ngoài đồng vắng giá rét đêm đông.  Ngài là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền kiểm tra dân số (2 Sm 24, 10) nhưng đã cùng với cha mẹ tuân lệnh hoàng đế Augúttô đi khai dân số (Lc 2, 5).  Ngài là Thiên Chúa, không chọn sinh ra trong cung điện cao sang nhưng lại sinh ra “trong máng cỏ”, ngoài đồng vắng “vì hai ông bà không tìm được chỗ trọ” (Lc 2, 7).

Thánh Phanxicô Assisi đã làm máng cỏ đầu tiên vào năm 1223.  Từ Rôma về Assidi để mừng lễ Noel, ngài nói với các thầy: “để thể hiện nỗi cơ cực và khổ đau của Chúa ngay từ lúc còn thơ để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy làm một hang đá giống như thật với cỏ khô, rồi chúng ta dẫn một con lừa và một con bò vào để cho giống với con bò con lừa đã chầu quanh Chúa Hài Đồng năm xưa.”  Từ đó mỗi dịp Noel về là khắp nơi trên thế giới đều làm hang đá, máng cỏ.

Bên Hang Đá, thinh lặng chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu giang đôi tay chúc lành; Máng Cỏ Bêlem tỏ bày nhiều ý nghĩa.

  1. Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa yếu đuối

Hài nhi nằm trong máng cỏ biểu thị sự yếu đuối của Thiên Chúa.  Một sự yếu đuối mà Người đã tự ý chọn lựa.  Thiên Chúa trong hình hài một bé thơ.  Một Thiên Chúa yếu đuối.  Trí khôn con người không thể nào hiểu và chấp nhận nổi.  Mọi lý luận đều bất lực trước nghịch lý thần linh này.  Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được. Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình.  Thiên Chúa Đấng cứu độ đã mạc khải qua các ngôn sứ giờ đây ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong Máng Cỏ.  Chúng ta hãy từ bỏ ngôn ngữ của lý tính ở đây và thinh lặng để cho con tim thán phục.  May chi ngôn ngữ tình yêu có thể bập bẹ đuợc điều gì đó chăng?  Quả thực, sự yếu đuối của Thiên Chúa là sự yếu đuối của tình yêu.  Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ dưới những hình thức khác nhau, như lòng thương xót, lòng trắc ẩn và sự âu yếm.  Một Thiên Chúa uy quyền trong sự yếu đuối của tình thương…Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ lên ngôi trên thập giá.  Thành công cuối cùng của Chúa Cứu Thế là sự phục sinh nằm bên kia cái chết, và con đường dẫn tới đó phải khởi đi từ Máng Cỏ đến Núi Sọ (Lm Nguyễn Hồng Giáo).

Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng.  Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi.  Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên.  Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau.

Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:

– Mày không biết xấu hổ hay sao?  Mày đến thăm Chúa Hài Nhi mà không mang theo gì cả ư?

Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.  Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.

Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài Nhi bằng đôi bàn tay trắng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh.  Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh.  Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:

– Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.

Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa.  Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện.  Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.  Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.

  1. Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Tình Yêu

Trong đêm Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2, 11).  Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 12).

Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.  Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi.  Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh.  Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.

Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.  Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ.  Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó.  Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi hài nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.  Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9, 5).

Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ.  Đó là một Hài Nhi mới sinh.  Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta.  Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa.  Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta.  Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài.  Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé.  Ngài không muốn điều gì khác nơi ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài.  Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu.  Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.

  1. Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Cứu Độ

Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai.  Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên.  Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người.  Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.

Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao.  Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn.  Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác.  Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt.  Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.

Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.

Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới.  Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo.  Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới.  Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.

Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.  Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội.  Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14)

Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.  Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.  Máng Cỏ luôn làm cho con người thổn thức bùi ngùi xúc động, vì đối diện với một Tình Yêu khiêm tốn.  Máng Cỏ mang ý nghĩa của thập giá và hướng về mầu nhiệm Thánh Thể.  Qua Hài Nhi Giêsu trong Máng Cỏ Bêlem, chúng ta hiểu được phần nào tâm tình của Thiên Chúa muốn ngỏ với loài người.  Qua Máng Cỏ Bêlem, Thiên Chúa trở nên thật gần gũi và đáng yêu.  Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa “tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).  Tình yêu thương ấy là ánh sáng soi đường và là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn chúng ta.  Niềm vui giáng sinh không nhất thiết phải đến từ những bữa tiệc thịnh soạn hay khung cảnh huy hoàng lộng lẫy bên ngoài.  Niềm vui giáng sinh đến từ nội tâm khi chiêm ngắm Máng Cỏ Bêlem.  Noel này, bạn hãy dừng lại nơi hang đá máng cỏ, dành thời gian thinh lặng để ngắm nhìn và suy niệm, bạn sẽ khám phá thật nhiều sự kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và ở cùng chúng ta.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Hoa hậu 22 tuổi hướng về Chúa!

Hoa hậu 22 tuổi hướng về Chúa!

Marta An Nguyễn chuyển dịch

Nói chuyện về Đức Giáo hoàng, về Thánh sử Luca, về triết gia Platon với Hoa hậu Thụy Sĩ là chuyện khá kỳ lạ. Vào đầu buổi phỏng vấn, cô Lauriane Sallin e sợ nói, “tôi không phải là chuyên gia về tôn giáo”. Nhưng lời e sợ này được thấy nhanh là không có căn cứ: cô gái Thụy Sĩ có khả năng trải rộng suy nghĩ nhất quán của mình về Chúa, đức tin công giáo và các liên hệ luân lý theo đó – và cả thẩm mỹ nữa.

Nói chuyện về Đức Giáo hoàng, về Thánh sử Luca, về triết gia Platon với Hoa hậu Thụy Sĩ là chuyện khá kỳ lạ. Vào đầu buổi phỏng vấn, cô Lauriane Sallin e sợ nói, “tôi không phải là chuyên gia về tôn giáo”. Nhưng lời e sợ này được thấy nhanh là không có căn cứ: cô gái Thụy Sĩ có khả năng trải rộng suy nghĩ nhất quán của mình về Chúa, đức tin công giáo và các liên hệ luân lý theo đó – và cả thẩm mỹ nữa.
Ngày 7 tháng 11 vừa qua, tại thành phố Bâle, cô được bầu làm tân Hoa hậu Thụy Sĩ. Cô trả lời không che giấu ngay cả hoài nghi và những câu hỏi tò mò. Nếu các câu hỏi về hiện sinh luôn ở trong lòng cô thì đức tin là kết quả của một suy nghĩ phát triển dần qua các thử thách trong đời mà cô gặp, nhất là sau cái chết của người chị cả Gặlle vào mùa xuân vừa qua vì bị ung thư óc.

Cô đã trả lời báo chí về các vấn đề tôn giáo mà cô quan tâm. Cô thấy điều gì hấp dẫn ở đó?

Lauriane Sallin: Về mặt văn hóa, tôn giáo là sợi chỉ mà người ta có thể lần theo đó, qua các thời kỳ, để tiếp cận được với các bối cảnh khác nhau của tư tưởng. Về mặt cá nhân hơn, từ lâu tôi đã tự đặt cho mình các câu hỏi về cuộc hiện sinh. Đã có một thời gian tôi cảm thấy mình đơn độc với loại chất vấn này, và rồi khi đọc sách vở, tôi khám phá ra nhân loại đã không ngừng đối diện với các thực tế này. Và ngay lập tức, tôi cảm thấy mình được bảo bọc che chở.

Những câu hỏi hiện sinh… Những câu hỏi nào?

Đặc biệt là câu hỏi về hạnh phúc và trong suốt thời gian chị tôi bệnh. Dù gặp tất cả những chuyện này, con người có thể có hạnh phúc không? Tôi đã đi qua nhiều giai đoạn khác nhau. Một vài tư tưởng gia cho rằng khái niệm hạnh phúc là không có. Nhưng nếu như vậy thì tại sao người ta sống? Tôi nghĩ hạnh phúc là điều có thể, nhưng phải biết chính xác thế nào là hạnh phúc. Cá nhân tôi, tôi tiếp cận với một vài nguyên tắc đầu tiên của đức tin kitô: sự tôn trọng, tình yêu cho người thân cận – không phải là người cách tôi 6 000 cây số, nhưng người ở bên cạnh tôi.

“Đứng trước cái chết của chị tôi,

tôi không thể cứ ở trong tình trạng tức thời.”

Như thế cô liên hệ vấn đề hạnh phúc với mệnh lệnh phúc âm “hãy thương nhau”?

Đúng. Tôi không thể nào hạnh phúc nếu tôi chỉ nghĩ đến tôi. Trong nhãn quan này, vấn đề tha thứ là chính yếu. Vào dịp lễ Phục Sinh, tôi đi lễ khi tôi còn rất đang giận một người. Lần đầu tiên trong đời, tôi đọc Kinh Lạy Cha mà tôi suy nghĩ từng chữ. “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ con”. Trong hoàn cảnh này, tôi nhận ra tôi có chọn lựa. Tôi có thể nuôi hận thù và làm cho người kia không sống được. Nhưng đó là một việc làm vô tận, oán oán trùng trùng. Người ta có thể ghét ai và ghét suốt đời. Tôi chọn thái độ tha thứ: tôi không muốn mình là người hận thù.

 “Lần đầu tiên trong đời, tôi đọc Kinh Lạy Cha mà tôi suy nghĩ từng chữ tôi đọc”

Như vậy đức tin công giáo là một tiến trình phát triển dần dần?

Trong gia đình tôi, mọi người đều tin nhưng mỗi người mỗi cách. Chúa nhật nào cha tôi cũng đi lễ nhưng chúng tôi không nói với nhau nhiều về chuyện này. Đối với tôi, đức tin không phải là chuyện vì cha mẹ bắt, nhưng đó là một cái gì rất riêng tư. Nó thuộc về tôi. Nó được xây dựng dần dần qua các sách vở tôi đọc, từ các triết gia Aristote, Descartes đến Phúc Âm Thánh Luca. Tôi muốn tìm hiểu Phúc Âm này. Vì thế tôi phải đọc kỹ, nó đòi hỏi tôi phải cố gắng, nhưng đó là cách duy nhất để nắm được ý nghĩa của Phúc Âm.

Tôi cũng nhận ra, tôn giáo giúp tôi có một độ lùi về các sự việc trong một thế giới mà con người thường xuyên phải sống trong tức thời. Có một ngày, một người bạn nói một câu làm tôi chấn động: “Trong mỗi người, có một phần của Nước Chúa trong đó”. Đứng trước cái chết của chị tôi, đích xác là tôi không thể sống tức thời, trong những chuyện mình sống từng giây – vì người sống từng giây là chị tôi, chị sắp chết. Phải nhìn cái gì xa hơn và tư tưởng nhỏ này đã giúp tôi rất nhiều.

Cô không phẫn nộ chống Chúa? Làm sao cô hòa giải được cuộc hiện sinh với cái chết của chị cô?

Tôi không có cảm tưởng Chúa dính gì trong việc chị tôi chết. Mình phải biết mình đang nói chuyện với một Chúa nào. Với tôi, Chúa là khả thể. Chúa là Đấng giúp mình vượt lên. Tôi không hình dung một Thiên Chúa lại đi phạt. Nếu có Chúa, Chúa vượt lên hình phạt.

Thiên Chúa là Đấng giúp chúng ta vượt lên.

Ông biết đó, luật chơi thì rõ ràng: chúng ta sống và như thế thì chúng ta phải chết. Thảm kịch lớn không phải ở đó, nó ở trong ảo ảnh mà mình tự khắc cho mình, để mình tin chắc, mình không chết ở tuổi 24. Chị tôi bị bệnh từ khi chị 14 tuổi. Tôi nói việc này với người lớn và tôi thấy họ bối rối hơn tôi. Họ sợ không dám nói đến chuyện này. Một đứa trẻ, nó nhìn thẳng mọi sự trước mặt. Nó có thể khổ nhưng nó không che cái sợ này bằng cách tránh trong các khái niệm sai. Thế giới này cho rằng tốt hơn nên chết ở nhà già. Như thế là sai!

Bệnh tật là dự phần vào sự sống. Chị tôi đau, tôi không đặt câu hỏi đó là lỗi của ai. Chỉ là mình phải cố gắng sống cho đến giây phút cuối cùng.

Cô có cầu nguyện được không?

Được, nhưng một cách khá đặc biệt. Tôi cầu nguyện khi có chuyện gì khó khăn. Chúa là Đấng giúp chúng ta vượt lên. Từa tựa như trong phim Star Wars, mình có một nội thần lực (cười). Đó là cái nhìn lạc quan. Có những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn trong cuộc sống nhưng một “tình trạng tốt nhất” (Optimum) là điều có thể có được. Để được như vậy, tôi cần được giúp đỡ, vì thế tôi cầu nguyện.

Cô có cầu nguyện để được là Hoa hậu Thụy Sĩ không?

Không.

Cô tự giác với đức tin công giáo của mình. Cô nhìn Giáo hội bây giờ như thế nào?

Tôi nghĩ nếu Giáo hội không nói một cách cụ thể những gì xảy ra trong thế giới ngày nay thì Giáo hội không còn tính hữu ích của mình. Trong nghĩa này, Đức Phanxicô là một may mắn cho Giáo hội. Tôi đã đọc Thông điệp “Chúc tụng Chúa” và tôi thấy khái niệm môi sinh toàn diện là cực kỳ hấp dẫn. Đức Phanxicô vượt quá cương vị mà bình thường người ta chỉ định cho một giáo hoàng. Đó là một người có suy nghĩ tự do, không tìm cách làm vừa lòng mọi người. Ngài nhìn những gì đang xảy ra trên thế giới và ngài cố gắng làm một cái gì.

Có một dễ dãi chắc chắn khi tự cho là bất khả tri.

Đôi khi người ta nghĩ một Giáo hội bất biến và thụ động. Đức Phanxicô năng động, ngài làm nhúc nhích mọi sự. Nhờ ngài mà Giáo hội suy nghĩ lại về cương vị của gia đình theo tình trạng ngày nay, chứ không phải như một vài người muốn nó phải là. Khi người ta nghe nói về gia đình tái tạo, về kết hợp đồng tính ở Thượng Hội Đồng thì người ta nghĩ rằng, mọi sự đang nhúc nhích.

Còn về vấn đề hôn nhân, tôi đọc và biết khái niệm của Giáo hội đã tiến triển theo dòng lịch sử. Tôi nghĩ đã có một thời mà hôn nhân đến sau khi sinh con. Và người ta đã chính thức hóa theo đó. Lịch sử dạy cho chúng ta nhiều chuyện.

Bởi vì cô vừa nói đến lịch sử, bây giờ chúng ta trở lại với lịch sử. Từ khởi đầu Kitô giáo, thẩm mỹ đóng một vai trò nền tảng trong Giáo hội. Cô có thấy một liên kết giữa cái đẹp và Chúa không?

Rõ ràng là có. Cái đẹp và sự hài hòa giữa các hình thể, nó luôn lôi cuốn và làm dịu mắt. Cũng như tôi đặt câu hỏi về hạnh phúc, tôi cũng tìm để hiểu cái đẹp là gì. Để nắm được ý nghĩa, phải vượt lên sự tạo hình. Theo tôi, nét đẹp là con đường tiến đến sự hài hòa, tiến đến “tình trạng tốt nhất” (Optimum) như tôi vừa nói ở trên. Nó phải hướng về đó.

Như thế một cô Hoa hậu Thụy Sĩ là như thế nào?

Đó là một cái gì toàn diện, vượt lên sự tạo hình. Thân thể của tôi là một trụ đỡ. Tôi cố gắng là một chút gì như bức phúng dụ để đưa mọi người đi xa hơn.

Về cái gì?

(Im lặng) Tôi muốn chuyển tải sự tự do suy nghĩ. Phải suy nghĩ. Rất nhiều người dính chặt hoặc chống đối cái gì đó chỉ vì nguyên tắc, họ không thể nào giải thích rõ lý do. Trong lãnh vực mà tôi quan tâm, có một sự dễ dãi chắc chắn để tự cho mình theo thuyết bất khả tri. Đó là vòng ảnh hưởng hiện đại ngăn không cho chúng ta biện minh: lúc mà người ta không tin ở Chúa, người ta không cần giải thích.

Như thế đức tin kitô là một loại “lật đổ”?

Gần như vậy. Và nó còn làm tôi thích mười lần hơn: tôi có tinh thần phản biện. Cùng một lúc, tôi cởi mở với việc có một ngày nhận thấy Chúa không tồn tại. Cởi mở đến đó. Tôi không có một sự thật độc quyền, có thể một người vô thần họ có lý của họ. Phận sự của tôi là không được ngừng suy nghĩ.

Lauriane Sallin

Tân Hoa hậu Thụy Sĩ 22 tuổi, người vùng Belfaux, ở hạt Fribourg. Cô học lịch sử nghệ thuật và tiếng Pháp ở Đại học Fribourg. Ngày 7 tháng 11-2015, cô được bầu là người đẹp nhất nước Thụy Sĩ. Một chức vị mà cô tặng ngay cho chị cả Gaelle của cô vừa chết vì ung thư óc mùa xuân vừa qua. Trong cương vị Hoa hậu Thụy Sĩ, cô là người trung gian cho tổ chức Corelina, một hiệp hội giúp các em bé bị bệnh tim.

Marta An Nguyễn chuyển dịch