CHĂM LO CHO LINH HỒN MÌNH

CHĂM LO CHO LINH HỒN MÌNH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Lợi ích gì nếu được cả thế gian mà phải đau khổ vì mất linh hồn mình?

Chúa Giêsu đã dạy chúng ta như thế, và tôi ngờ rằng chúng ta thường không nắm bắt được trọn vẹn ý nghĩa của lời này.  Chúng ta thường hiểu những lời của Chúa Giêsu như thế này: Có gì tốt khi ai đó được giàu có, danh tiếng, khoái lạc, và vinh quang rồi chết đi và xuống hỏa ngục?  Có gì tốt nơi vinh quang và khoái lạc trần gian, nếu chúng ta lỡ mất sự sống đời đời?

Đúng, lời dạy của Chúa Giêsu chắc chắn có ý như thế, nhưng có những bài học quan trọng khác nữa trong lời dạy này, chỉ cho chúng ta biết về sức khỏe và hạnh phúc ngay ở đời này.  Chúng ta đánh mất linh hồn mình như thế nào?  “Đánh mất linh hồn” ngay trong thế gian này nghĩa là gì?  Linh hồn là gì, và làm sao có thể mất linh hồn?

Do bởi linh hồn là vô hình và thiêng liêng, nên không thể họa ra được.  Chúng ta phải dùng các khái niệm mơ hồ để cố hiểu được linh hồn.  Các triết gia, từ thời Aristotle, đã có khuynh hướng định nghĩa linh hồn như một nguyên tắc đôi trong mọi đời sống.  Với họ, linh hồn vừa là nguyên tắc sự sống và năng lượng trong chúng ta, vừa là nguyên tắc của sự kết dính thấm nhập.  Về căn bản, linh hồn là hai sự: Là ngọn lửa bên trong, cho chúng ta sự sống và sinh lực, và linh hồn cũng là chất keo kết dính chúng ta lại với nhau.  Trong khi điều này có vẻ mơ hồ, nhưng không phải thế, bởi chúng ta đã được cảm nghiệm mắt thấy tai nghe về ý nghĩa của linh hồn.

Nếu có bao giờ bạn ở bên một người hấp hối, bạn biết chính xác lúc nào linh hồn rời bỏ thân xác.  Bạn biết khoảnh khắc đó, không phải bởi bạn thấy có sự gì đó thoát ra khỏi thân xác người đó, nhưng đúng hơn là một phút trước, bạn thấy một con người, đầy đấu tranh và đau đớn, có sinh lực và ngọn lửa trong mình, rồi một phút sau, thân xác đó hoàn toàn trơ ra, hoàn toàn không có sinh lực và sự sống.  Không còn sinh khí nữa.  Thân xác đó trở thành một xác chết.  Cũng vậy, dù già nua hay bệnh tật, thì cho đến trước giây phút cái chết, thân xác đó vẫn là một cấu thành hợp nhất.  Nhưng ngay giây phút cái chết, thân xác đó không còn là một cơ thể, nhưng chỉ là một loạt sinh hóa bắt đầu phân rã.  Một khi linh hồn ra đi, thì mọi sự sống và kết dính cũng ra đi.  Thân xác không còn bất kỳ sinh khí nào cũng như không còn gắn kết với nhau nữa.

Và bởi linh hồn là một nguyên tắc đôi, làm cho chúng ta hai sự, thì cũng có hai con đường song song tương ứng của việc mất linh hồn.  Chúng ta có thể khiến cho sức sống của chúng ta chết đi, hay chúng ta có thể trở nên xa cách tách rời, trong cả hai trường hợp, chúng ta đều đánh mất linh hồn mình.

Nếu thật như thế, thì điều này gợi lên một chất vấn khác về cách chúng ta làm sao để chăm lo cho linh hồn mình.  Thức ăn bổ dưỡng cho linh hồn là gì?  Ví dụ như, tôi đang xem truyền hình, điều gì tốt cho linh hồn tôi?  Một kênh tôn giáo?  Kênh thể thao?  Một bộ phim hài vô nghĩa?  Kênh về thiên nhiên?  Một talk-show đả phá tôn giáo nào đó?  Điều gì là lành mạnh cho linh hồn tôi?

Đây là một câu hỏi chính đáng, nhưng cũng là một câu hỏi gài bẫy.  Chúng ta mất linh hồn theo một cách đối lập hẳn, và do đó việc chăm lo cho linh hồn như một thuật giả kim tinh xảo, phải biết lúc nào thêm lửa lúc nào cho nguội bớt.  Xác định những gì là lành mạnh cho linh hồn tôi, dựa nhiều vào những gì tôi đang phải đấu tranh ngay lúc đó.  Tôi có đang đánh mất linh hồn, vì tôi đang mất đi sức sống, năng lượng, hi vọng, và lòng nhân từ trong đời?  Tôi có đang ngày càng cay đắng, khắc nghiệt, cằn cỗi, trở nên một con người đau đớn hay không?  Hay ngược lại, tôi có đầy sinh lực nhưng lại quá đầy, đến nỗi tôi đang rời xa, phung phí, đánh mất ý thức về bản thân mình hay không?  Tôi có đang bị tê liệt hay tan rã dần hay không?  Cả hai đều là mất linh hồn.  Trong dạng thứ nhất, linh hồn cần thêm lửa, một sự gì đó thổi bùng sinh khí trở lại.  Trong dạng sau, linh hồn đã có quá nhiều lửa, cần phải dịu bớt và thêm chất kết dính.

Sự căng thẳng này giữa nguyên tắc của sinh lực và nguyên tắc kết dính, bên trong linh hồn con người, cũng là một trong những căng thẳng điển hình giữa tự do và bảo thủ.  Nói một cách tối giản, nhưng dễ hiểu, sự thật là những người theo chủ nghĩa tự do có khuynh hướng bảo vệ và thúc đẩy cho nguyên tắc sinh lực, còn người theo chủ nghĩa bảo thủ lại có khuynh hướng bảo vệ và thúc đẩy cho nguyên tắc chung hiệp, chất keo kết dính.  Cả hai đều đúng, cả hai đều cần thiết, và cả hai đều cần phải tôn trọng bản chất của người kia, bởi linh hồn là một nguyên tắc đôi, và cả hai nguyên tắc đều cần được bảo vệ.

Sau khi chết, chúng ta có thể vào thiên đàng hay hỏa ngục.  Đây cũng là một cách nói về việc đánh mất hay cứu được linh hồn mình.  Nhưng thần học Kitô giáo dạy chúng ta rằng, thiên đàng và hỏa ngục đã có ngay lúc này.  Ngay ở đây, trong đời này, chúng ta có thể làm suy yếu hay hủy hoại sự sống Thiên Chúa ban trong chúng ta, bằng cách làm tê liệt hay tan rã sự sống đó.  Chúng ta có thể đánh mất linh hồn mình bằng việc không có đủ lửa mến hay không đủ kết dính chung hiệp.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Cuối tháng 4 / 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh.

Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có gì lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đã nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

“Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu.

Tôi mò mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn.

Ðiều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ rằng mình sống như thế cũng là đủ rồi. Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn.

Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc.

Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ?

Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào.

Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu.

Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu.

Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi.

Thằng Michael phàn nàn về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi.

Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình. Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng.

Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó… Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được.

Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này.

Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.

Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại”.

Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại.

Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất.

Ðiều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc.

Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy… trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn xuống.

S.,T.

Anh giơ tay ra!

Anh giơ tay ra!

Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn đuợc mở rộng đến vô cùng
và trái tim đuợc lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đua chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

ƠN CHỮA LÀNH

ƠN CHỮA LÀNH

Tác giả:  Lm. Trần Việt Hùng

LÒNG THƯƠNG XÓT.

Bác sĩ tâm lý Blenton chia sẻ rằng ông đã học hỏi Kinh Thánh mỗi ngày, các bệnh nhân của ông quá ngạc nhiên. Ông nói Kinh Thánh là sách giáo khoa vĩ đại nhất được góp nhặt để trình bày về các phẩm hạnh của con người. Nếu có đủ số người học hỏi, thấm nhuần và khởi sự sống lời Kinh Thánh thì hầu hết các bác sĩ tâm lý sẽ thất nghiệp. Cho thí dụ, ông nói về dụ ngôn ‘người con phung phá’ và những ai thật sự tin vào cốt lõi của câu truyện về lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa vĩ đại vô biên hơn bất cứ lỗi lầm nào mà chúng ta có thể lỗi phạm, thì tất cả các bệnh nhân và tâm bệnh đang mang cảm giác tội lỗi, đều có thể được chữa lành và bước đi một cách tự do.

Tổ tiên của loài người là ông Adong và bà Evà. Ông bà tổ tiên đã đi lạc hướng từ thuở ban đầu. Tội lỗi đã nhập vào thế gian bởi sự bất tuân phục của ông bà. Cho nên tất cả chúng sinh đều mang thân phận nặng nề yếu đuối và tâm linh dễ hướng về đường xấu. Sự hoàn hảo của loài người từ lúc ban sơ không còn trọn vẹn. Con cái loài người đã phải chịu đau khổ, bệnh tật và chết chóc. Vì yêu thương, ngay sau khi tổ tiên phạm tội, Thiên Chúa đã hứa sẽ cứu vớt con người khỏi ách của sự dữ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”(Stk 3, 15). Tội lỗi như một thứ vi khuẩn lây lan khắp cả. Con người hoàn toàn bị lệ thuộc vào xác thịt vật chất của luật tự nhiên và môi trường sống chung quanh. Trí khôn phải lần mò tìm kiếm ý nghĩa của đời sống tâm linh và tri thức. Thân xác tro bụi yếu đuối phải đối diện với các thứ bệnh tật, đau yếu, già nua và chết chóc.

Thiên Chúa ban cho con người có trí khôn, khả năng và tài trí để phấn đấu và chinh phục thiên nhiên, nhưng vẫn còn quá nhiều giới hạn. Quyền năng của Thiên Chúa là tuyệt đối. Vì Lòng Xót Thương, Thiên Chúa đã can thiệp để giúp con người vượt lên trên những sắp đặt tuần tự của luật tự nhiên. Tiên tri Giêrêmia đã diễn tả sự chữa lành của Thiên Chúa: Nhưng, Ta sẽ mang lại cho nó một phương thuốc điều trị, sẽ chữa lành, sẽ tỏ cho chúng thấy một cảnh thái bình và một nền an ninh lâu dài. (Giêr 33, 6). Tác giả thánh vịnh trình bày sự chữa lành cả tinh thần lẫn thể xác: Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi (Tv 103, 3). Thiên Chúa yêu thương băng bó những tâm hồn dập nát đau thương: Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành (Tv 147, 3) và Lòng Thương Xót vô bờ của Thiên Chúa còn được thể hiện: Người chăm nom khi liệt giường liệt chiếu, lúc bệnh hoạn, Người chữa cho lành (Tv 41, 4).

Khi ra rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tỏ lòng từ bi nhân hậu với tất cả những người cùng khốn, khổ đau và bơ vơ lạc lõng: Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân (Mt 4, 23). Chúa đã dong duổi khắp các làng mạc, núi đồi, ruộng đồng, bãi biển và các hang cùng ngõ hẻm để kiếm tìm và đưa về những con chiên bị xa lạc, chữa lành những kẻ đau yếu tật nguyền, xua trừ ma quỷ, cho kẻ chết sống lại và làm các dấu lạ để minh chứng quyền năng của Ngài: Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm (Ga 6, 2). Chúa đã kêu mời những người thấp cổ bé miệng, những kẻ đơn sơ thất học, kẻ tội lỗi, gái điếm, những người thu thuế và những người bị xã hội loại trừ. Chúa đã khai mở, dẫn dắt và chữa lành cả tâm hồn lẫn thể xác.

Khi chữa lành bệnh họan tật nguyền về thân xác, Chúa ban ơn bình an trong tâm hồn. Trong rất nhiều trường hợp, Chúa đã cứu nhiều người khỏi vòng xấu xa tội lỗi và tuôn đổ ân sủng canh tân tâm hồn, như câu truyện của người đàn bà ngoại tình bị bắt qủa tang, người đàn bà xa lạc ra múc nước tại giếng, người đàn bà tội lỗi xức dầu thơm chân Chúa, ông Giakêu trưởng ban thu thuế và ông Matthêô thu thuế… Chúa nhìn thấu tận đáy tâm hồn và lòng tin yêu của họ. Chúa đã cứu chữa. Niềm tin vào Chúa là động lực mạnh mẽ giúp người ta thóat khỏi những ràng buộc của tội lỗi và bệnh họan. Người đàn bà bị bệnh lọan huyết đã âm thầm sờ vào gấu áo của Chúa với lòng tin được chữa lành: Đức Giêsu nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an.”(Lc 8, 48).

Rất nhiều người hằng ngày nghe Chúa giảng dạy, tuy nhiên, tâm hồn bị đóng kín. Có nhiều luật sĩ, biệt phái, trưởng lão và cả các thượng tế đền thờ đã ra mặt chống đối, bắt bẻ, ngăn cản và hằn học thù ghét. Họ đã không gặp gỡ được Chúa, mà họ còn gây khó khăn cho việc rao giảng Tin mừng Nước Trời. Chính họ đã bị mất cơ hội nhận lãnh ân sủng. Chúa đã luôn tỏ lòng thương xót đối với những kẻ khiêm cung biết chạy đến với Chúa xin ơn chữa lành: Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (Mc 6, 5). Chữa lành là một ân sủng ngoại thường do quyền năng của Chúa. Chúa không cần thời gian, các phương tiện khoa học hay thuốc thang, Chúa chỉ cần lòng tin và sự phó thác của chúng ta vào tình yêu của Chúa.

Khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa trao ban quyền chữa lành: Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân (Lc 9, 2). Chúa ban cho các tông đồ quyền năng một cách nhưng không. Các tông đồ vui mừng vì làm cho danh Chúa được rạng sáng. Đây là quyền năng từ trên ban cho con người vượt ngoài luật tự nhiên. Các phép lạ là dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến gần: Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8). Dõi theo bước chân của Chúa, các tông đồ đã ra đi khắp nơi mang tin vui và thực hiện các dấu lạ kèm theo: Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi (Lc 9, 6).

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chọn một Logo (Huy hiệu) với Motto (Châm ngôn), Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Logo là tác phẩm của linh mục Dòng Tên người Slovenia cha Marko Ivan Rupnik. Diễn tả hình ảnh Chúa Kitô vác trên vai một con người yếu đuối lầm lạc, Ngài là Mục Tử Nhân Lành đã chạm vào da thịt của con người để chia sẻ tình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Chúa Kitô, Mục Tử đầy Lòng Thương Xót, đang mang trên mình cả nhân loại. Trong hình Logo có hai khuôn mặt cận kề với ba con mắt, con mắt của Chúa nhìn nhân loại bằng con mắt của Adam và nhân loại nhìn bằng con mắt Chúa Kitô. Mắt Chúa và mắt nhân loại hòa quyện vào nhau. Mọi người sẽ khám phá ra trong Chúa Kitô, một Ađam mới, bản tính nhân loại của Ngài và tương lai hướng về phía trước, suy niệm, trong sự chiêm ngắm của Ngài, tình yêu của Chúa Cha.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại đã ban chính Con Một để hy sinh chuộc tội cho mọi người. Chúa còn muốn chia sẻ những đặc sủng cho các tông đồ, môn đệ, tư tế và các thừa tác viên sống động để bày tỏ tình Lòng Thương Xót của Chúa cho loài người. Để canh tân lòng người và bộ mặt trái đất, Chúa Thánh Thần đã ban cho con người những ơn cần thiết: Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ (1 Cor 12, 9-10). Tất cả các ơn huệ được trao ban để sinh ích lợi chung trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.

Để xứng đáng lãnh nhận ơn chữa lành hồn xác, mỗi người chúng ta hãy tin tưởng, siêng năng đọc kinh cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, tham dự các giờ kinh phụng vụ, làm việc bác ái, lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Hòa giải, Thánh Thể và Xức Dầu. Lạy Chúa, xin củng cố lòng tin của chúng con. Xin Chúa chữa lành và băng bó thân tâm chúng con thoát khỏi mọi khổ đau, tội lỗi và tật nguyền. Chúng con kính lạy Lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York

LÀM SAO ĐỂ XỨNG ĐÁNG HƯỞNG LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA ?

LÀM SAO ĐỂ XỨNG ĐÁNG HƯỞNG LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA ?

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

Hỏi : xin cha giải thich rõ về  thương xót  của Chúa, và phải làm gì để xứng đáng được Chúa thương xót?

Trả lời :

Khi công bố  Năm Thánh Lòng Thương xót Chúa cho toàn thể Giáo Hội , Đức Thánh Cha Phanxicô đã mong muốn cho mọi người chúng ta suy niêm sâu xa thêm về lòng thương xót của Chúa dành cho hết mọi người chúng ta, để từ đó thêm biết yêu mến Chúa hơn để đáp lại lòng thương xót của Người.

Thật vậy, chỉ vì thương xót mà Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Cứu Thế Giêsu, Đấng cũng vì yêu thương con người mà đã hạ mình xuống trần gian làm Con Người để  “hy sinh hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” ( Mt 20:28)

Nghĩa là Thiên Chúa tuyệt đối không có lợi lộc gì mà phải tạo dựng và cứu chuộc con người. Người tạo dựng và cứu chuộc con người chỉ vì thương xót vô vị lợi mà thôi. Người thương xót vì bản tính của Người là yêu thương, và vô cùng nhân hậu. Chúa Giê-su Kitô chính là hiện thân của lòng thương xót vô vị lợi đó. Chúa đến trần gian , vác thập giá quá nặng và chết thê thẩm trên đó cùng chỉ vì yêu thương nhân loại tội lỗi, nên đã vui lòng chịu mọi khốn khó để đền tội thay cho con người. Khi bị treo trên thập giá, Chúa đã không thốt ra một lời oán trách những kẻ đã hành hạ, xỉ nhục và đóng đanh Người. Trái lại, Chúa còn cầu xin và tha thứ cho chúng nữa: “ Lậy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” ( Lc 23: 34)

Chúng đánh cho nhừ tử, lấy vòng gai đội lên đầu , lột hết quần áo ra và đóng đanh chân tay vào thập giá như vậy mà Chúa còn bênh vực cho chúng là chúng không biết việc mình thì quả thật là quá yêu thương , tha thứ không bờ bến,

Thử hỏi : còn tình thương và lòng thương xót nào cao cả và lớn hơn tình thương của người đã hiến mạng sống mình vì bạn hữu.” ( Ga 15:13)

Chúa coi tất cả mọi người chúng ta là bạn hữu nghĩa thiết của Người, mặc dù chúng ta là người tội lỗi và không  hề có công trạng và lợi lộc gì cho Chúa khiến Người phải cầu cận chúng ta như vậy. Đó là điều chúng ta phải tin chắc để không bao giờ có thể nghĩ là Chúa được lợi lộc gì khi yêu thương và chết thay cho nhân loại.

Phải xác tín điều này thì mới thấy lòng thương xót của Chúa dành cho loài người chúng ta sâu thẳm biết chừng nào. Và chắc chắn chúng ta không thể đền đáp lại cách cân xứng tình yêu và lòng thương xót ( love and mercy) ấy của Thiên Chúa thể hiện cụ thể nơi Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu khổ nạn thập giá cách nay trên 2000 năm để hòa giải con người với Thiên Chúa Cha và cho chúng ta hy vọng được cứu rỗi để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc bất diệt mai sau.

Phải nói là có hy vọng thôi chứ không bảo đảm chắc 100%, không phải vì công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô chưa  dủ cho ta được cứu rỗi, mà vì con người còn có ý muốn tự do ( free will) mà Thiên Chúa đã ban tặng và tôn trọng cho

Con người  xử dụng. Nghĩa là nếu ta dùng tự do này để sống theo đường lối của Chúa và bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” ( Ga 14 : 6) thì chắc chắn ta sẽ được cứu rỗi để sống đời đời với Chúa trên cõi vĩnh hằng. Ngược lại, nêu ai dũng tự do để khước từ Thiên Chúa và tình thương của Người, để sống theo ý muốn riêng của mình, đầu hàng ma quỉ và thỏa hiệp với thế gian vô luân vô đạo, thì Chúa sẽ không can thiệp, ngăn cản , nhưng kẻ đó sẽ phải chịu mọi hậu quả của việc tự do lựa chọn này.

Cụ thể, những kẻ đang làm những sự dữ như giết người, giết thai nhi rồi đem bán các cơ phận của thai nhi như những món hàng thương mại mà bọn Planned Parenthood ( tổ chức chuyên  giúp phá thai hợp pháp ở Mỹ)  đang làm ở Mỹ, bọn quá khich Hồi Giáo ( ISIS) đang chắt đầu con tin, hiếp dâm phụ nữ và trẻ em, bắt cóc và thủ tiêu những Kitô hữu thiểu số ở Trung Đông, cùng bọn buôn bán phụ nữ và trẻ nữ để cung cấp cho bọn ma cô tú bà hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn…thì làm sao chúng có thể được hưởng lòng thương xót của Chúa và được cứu rỗi để vào Nước Trời,  nếu chúng không kíp sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, gian ác nói trên.

Lại nữa, những kẻ tham quyền cố vị, cố bám lấy quyền lực cai trị để vơ vét của cải, tiền bạc trong khi duy trì sự bất công, bóc lột  thống khổ, nghèo đói  cho đa số người dân chẳng may rơi váo vòng cai trị độc ác của chúng thì làm sao bọn này có thể được cứu rỗi nếu chúng không kíp ăn năn và từ bỏ tham vọng cai trị gian ác của chúng ?

Thiên Chúa là tình yêu và giầu lòng thương xót. Nhưng chắc chắn tình yêu và lòng thương xót này không thể bao che cho những kẻ làm những sự dữ trên đây.

Mặt khác, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô sẽ trở nên hoàn toàn vô ích cho những ai cứ dùng tự do của mình để làm những sự dữ mà không hề biết sám hối và từ bỏ cách sống tội lỗi của họ.

Tội lỗi là một thực thể không ai có thể phủ nhận được ở trần gian này. Tội là cản trở duy nhất cho con người đến cùng Thiên Chúa là Đấng gớm ghét mọi tội lỗi, vì nó xúc phạm nặng nề đến bản chất tốt lành, thương xót và thánh thiện của Người.

Cũng vì tôi của con người mà Chúa Kitô đã phải chịu mọi khốn khó, vác thập giấ quá nặng và chết thê thảm trên đó để đền tội thay cho nhân loại.

Nhưng công nghiệp cứu chuộc vô giá này của Chúa cùng với lòng thương xót vô biên của Chúa Cha vẫn trở nên vô ích cho những ai không cố gắng xa tránh tội lỗi,  từ  bỏ  ma  quỉ, là kẻ thù luôn cám dỗ cho con người phạm tội mất lòng Chúa và mất hy vọng được cứu rỗi. Nghĩa là lòng thương xót của Thiên Chúa và công nghiệp cực trọng của Chúa Kiitô không thể bao che hay dung thứ  cho con người cứ ngoan cố phạm tội, cứ làm sự dữ, cứ chạy theo quyến rũ của ma quỉ và thế gian.

Nói khác đi, không thể  lấy cớ là Chúa thương xót, tha thứ hết nên không cần phải làm gì nữa về phía con người. Chúa thương xót và giầu lòng tha thứ : đúng. Nhưng con người vẫn cần phải tỏ thiện chí muốn sống theo đường lối của Chúa qua quyết tâm từ bỏ tội lỗi đến từ ma quỉ và thế gian. Nếu không có quyết tâm này thì Chúa không thể cứu ai được, dù Chúa là tình thường và Chúa Kitô đã chết để đền tộ thay cho con người . Chính vì con người còn có tự do như đã nói ở trên, nên ai dùng tự do này để yêu mến Chúa trên hết mọi sự và thành tâm xa tránh tội lỗi thì sẽ được chúc phúc và cứu độ. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đã than trách dân Do Thái xưa kia trong thời Cựu Ước như sau:

” Suốt bốn mươi  năm dòng giống này làm Ta chán ngán

Ta đã nói: đây là dân tâm hồn lầm lạc

Chúng nào biết đến đường lối của Ta”

Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng:

Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta.” ( Tv 95: 10-11)

Thiên Chúa  than trách vì dân Do Thái đã mau quên ơn Người đã, qua tay ông Mô Sê,  giải phóng cho họ khỏi ách nô lệ bên Ai Cập, trở về quê hương để vào Đất Hứa tràn đầy “ sữa và mật ong”. Nhưng trong khi chờ đơi để được chiếm hữu Đất Hứa, họ đã quay lưng lại với Thiên Chúa và phạm nhiều tội khiến Chúa phải than trách họ như trên. Nếu Chúa không cần sự cộng tác và vâng phục của họ, thì Chúa đã không trách mắng họ như thế.

Cũng vì lý do đó mà Ông Mô-sê đã đưa ra lời khuyên dạy sau đây cho dân Do Thái khi họ đang sống trong hoang địa xưa kia:

“ Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn : hoặc được chúc phúc hay bị nguyền rủa,  Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA..( Đnl 11: 26-28)

Khi Chúa Giê su đến trần gian rao giảng Tin Mừng Cứu độ, Chúa cũng nói với các môn đệ Người như sau:

“ không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả dâu, mà chỉ ai hành ý muốn cùa Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi. “ ( Mt 7: 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa là tuân giữ và thực thi Mười Điều Răn của Chúa, tóm gọn trong hai diều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu người  để chứng minh lòng yêu mến Chúa thật sự hầu được chúc phúc, như Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ xưa:

“ Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy,” (Ga)

Nói rõ hơn, không thể viện cớ Chúa thương xót để tự do làm những điều trái nghịch với lòng thương xót của Chúa , thì chắc chắn sẽ không đẹp lòng Chúa và xứng đáng được hưởng lòng thương xót ấy.

Dụ ngôn :  “ Người Cha nhân hậu  ” trong Tin Mừng Thánh Luca cho ta thấy là người cha mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con đi hoang trở về. Nhưng ông cũng thầm nói với con là cha tha cho con lần này và mong con đừng đi hoang thêm lần nào nữa. Hãy ở yên trong nhà cha để được yêu thương và hạnh phúc.

Đó là lý do tại sao sau khi tha thứ cho một phụ nữ ngoại tình bị bọn biệt phái dẫn đến để xin Chúa Giêsu ném đá, Chúa đã nói với chị kia như sau:

“ Tôi cũng vậy, Tôi  không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” ( Ga 8: 11)

Như thế đủ cho ta thấy là Chúa đầy lòng yêu thương tha thứ, nhưng ta không được lợi dụng lòng thương xót nhân từ của Chúa để đi hàng hai là nửa muốn yêu mến Chúa,  nửa đi theo thế gian và ma quỉ với mọi sự sang trọng, vui thú chúng tinh quái bày ra để lôi kéo ta vào con đường hư mất đời đời.

Ai có thái độ sống như vậy thì hãy nghe lời cảnh cáo nghiêm khắc sau đây của Chúa Kitô ghi  trong Sách Khải Huyền:

“ Ta biết các việc người làm. Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lanh. Phải chi ngươi nóng hẳn hay lạnh hẳn đi. Nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa người ra khỏi miêng Ta.” ( Kh 3: 15-16) )

Nếu Chúa không cần sự cộng tác của con người vào ơn cứu độ, và để mặc cho ai muốn sống sao cũng được, thì Chúa đã không nói những lời ngăm đe trên đây.

Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương xót” mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã chính thức mở ra trong toàn Giáo Hội từ ngày 8 tháng 12 vừa qua.

Mục đích của Năm Thánh này là mời gọi mọi người tín hữu chúng ta suy niệm thêm về lòng thương xót bao la của Thiên Chúa thể hiện cụ thể nơi Chúa Giê su-Kitô, Đấng đã đến trần gian để chịu mọi khốn khó đau khổ và chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc cho muộn người khỏi chết đời đời vì tội. Suy niệm thêm để thêm lòng yêu mến Chúa,  hay trở về để đón nhận lòng thương xót tha thứ của Chúa, nếu đang đi hoang, xa lìa tình thương của Chúa.

Ngoài ra, mọi người tín hữu chúng ta cũng được mong đợi thực thi lòng thương xót của Chúa đối với anh chị em đang bất hòa với mình ở trong gia đình và trong tương giáo với người khác bên ngoài gia đình. Đây là thời điểm thích hợp để làm hòa và tha thứ cho nhau như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta.

Nhưng phải hiểu rõ là lòng thương xót của Chúa Cha và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô không bao giờ là cái bình phong cho ai ẩn núp để cứ sống theo những đòi hỏi bất chính của bản năng, những lôi kéo mạnh mẽ của ma quỉ và những mời mọc của thế gian vô luân vô đạo.

Nếu không có quyêt tâm sống phù hợp với lòng thương xót của Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, thì chắc chắn Chúa sẽ không thể cứu ai được như đã nói ở trên,

Tóm lại, Thiên Chúa nhân từ và hay thương xót.  Công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là quả đủ cho con người được cứu rỗi để sống hạnh phúc vĩnh cứu với Chúa trên Nước Trời mai sau. Nhưng tình thương và công nghiệp ấy không tự động áp dụng cho hết mọi người mà không cần đòi hỏi ai phải làm gì thêm để được hưởng lòng thương xót và công nghiệp ấy. Làm gì thêm có nghĩa là cộng tác với ơn Chúa để sống theo đường lối của Người mà đoạn tuyệt với tội lỗi xuất phát từ bản năng yếu đuối, đến từ ma quỉ và thế gian không tin có Chúa và hạnh phúc Nước Trời.

Năm Thánh Lòng thương xót được mở ra để mời gọi mọi người tín hữu trong Giáo Hội đón nhận lòng thương xót của Chúa và mang lòng thương xót ấy đến với người khác, đặc biệt là những người đang bất hòa với mình.

Xin Chúa của tình thương và giầu lòng thương xót giúp chúng ta sống xứng đáng với lòng thương xót của Người. Amen.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

KINH NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

KINH NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

WHĐ (07.05.2015) – Đức Thánh Cha Phanxicô đã soạn một bản kinh để giúp các tín hữu cầu nguyện trong Năm Thánh Lòng Thương Xót (từ 08-12-2015 đến 20-11-2016).  Trong lời kinh, Đức Thánh Cha nài xin Chúa làm cho Năm Thánh Lòng Thương Xót trở nên một năm hồng ân để Hội Thánh “thêm lòng nhiệt thành mang Tin Mừng đến với người nghèo, loan báo tự do cho những người bị giam cầm và áp bức, và cho người mù lại được nhìn thấy”.

Sau đây là toàn văn kinh nguyện này:  (bản dịch tiếng Việt đã được các Đức giám mục Việt Nam

chấp thuận trong Hội nghị Thường niên kỳ II năm 2015 tại Toà Giám mục giáo phận Xuân Lộc)

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa dạy chúng con phải có lòng thương xót như Cha trên trời,

và ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha.

Year-of-Mercy-LOGO

 

Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Chúa

và chúng con sẽ được cứu độ.

Ánh mắt đầy yêu thương của Chúa đã giải thoát ông Zakêu

và thánh Matthêu khỏi ách nô lệ bạc tiền;

làm cho người đàn bà ngoại tình và thánh Mađalêna

không còn tìm hạnh phúc nơi loài thụ tạo;

cho thánh Phêrô khóc lóc ăn năn sau khi chối Chúa,

và hứa ban thiên đàng cho kẻ trộm có lòng hối cải.

 Xin cho chúng con được nghe

những lời Chúa đã nói với người phụ nữ Samaria,

như thể Chúa đang nói với mỗi người chúng con:

“Nếu con nhận ra hồng ân của Thiên Chúa!”

Chúa chính là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình,

Đấng biểu lộ quyền năng của Ngài

trước hết bằng sự tha thứ và lòng thương xót:

 Xin làm cho Hội Thánh

phản chiếu gương mặt hữu hình của Chúa trên trái đất này.

Chúa là Đấng phục sinh vinh hiển.

Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa

cũng mặc lấy sự yếu đuối

để có thể cảm thông với những người mê muội lầm lạc,

xin làm cho tất cả những ai tiếp cận với các ngài

đều cảm thấy họ đang được Thiên Chúa

quan tâm, yêu mến và thứ tha.

 Xin sai Thần Khí Chúa đến

xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con,

để Năm Thánh Lòng Thương Xót này

trở thành năm hồng ân của Chúa cho chúng con;

và để Hội Thánh Chúa, với lòng hăng say mới,

có thể mang Tin Mừng đến cho người nghèo,

công bố sự tự do cho các tù nhân và những người bị áp bức,

trả lại ánh sáng cho kẻ mù lòa.

 Lạy Chúa Giêsu,

nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ của lòng thương xót,

xin ban cho chúng con những ơn chúng con đang cầu xin.

Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha

và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

 Đức giáo hoàng Phanxicô

Người Vô Thần Có Vào Thiên Đàng?

Người Vô Thần Có Vào Thiên Đàng?

 TRẦM THIÊN THU

ĐGH Phanxicô tạo một đợt “bão tố” đối với sự tranh luận về tôn giáo sau một bài giảng nói về người vô thần. Trong bài giảng này, ngài nhấn mạnh rằng vấn đề không phải là gia nhập tôn giáo, nhưng là “chúng ta làm điều tốt”:

 Thiên Chúa đã cứu độ tất cả chúng ta bằng Máu Thánh của Đức Kitô: Tất cả chúng ta, không chỉ người Công giáo. Mọi người. Kể cả người vô thần ư? Ngay cả người vô thần. Mọi người!… Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm điều tốt. Và tôi nghĩ rằng mệnh lệnh này đối với mọi người làm điều tốt là con đường tốt đẹp dẫn tới hòa bình. Nếu mỗi chúng ta làm phần việc riêng mình, nếu chúng ta làm điều tốt cho người khác, nếu chúng ta gặp nhau ở đó, tức là làm điều tốt, và chúng ta đi chậm, nhẹ nhàng, từng chút một, chúng ta sẽ tạo nên văn hóa của sự gặp gỡ: chúng ta cần điều đó rất nhiều. Chúng ta phải gặp nhau trong việc làm điều tốt. “Nhưng tôi không tin, vì tôi là người vô thần! Còn làm điều tốt: chúng ta sẽ gặp nhau ở đó”.

Sau bài giảng gây tranh luận đó, các hàng tít trên các tờ báo lớn và chủ yếu như báo New York Times đã kêu lên với chữ “tin quan trọng” theo Đức giáo hoàng, thậm chí người vô thần cũng có thể vào Thiên đàng: tất cả chúng ta, kể cả người vô thần, sẽ “gặp nhau ở đó [Thiên đàng]”, với điều kiện là làm điều tốt. Đây là một số ví dụ mà nhiều hàng tít lớn trên các tờ báo uy tín: “Thiên đàng dành cho người vô thần? Đức giáo hoàng tạo sự tranh luận”; “ĐGH Phanxicô có là tín đồ dị giáo? Không, nhưng ngài gợi lên các vấn đề”; “ĐGH Phanxicô nói: Ngay cả người vô thần cũng có thể vào Thiên đàng”.

Theo dòng tranh luận sôi nổi, LM Thomas Rosica, phát ngôn viên Tòa Thánh, đã “thanh minh” về câu nói của Đức giáo hoàng khi nói rằng Đức giáo hoàng bị hiểu lầm, rằng “họ không thể được cứu độ, biết Giáo hội được Đức Kitô thiết lập và cần ơn cứu độ, sẽ từ chối gia nhập Giáo hội hoặc vẫn ở trong Giáo hội”. Điều này làm cho nhiều nhà bình luận nói rằng sự “bào chữa” này của phát ngôn viên Tòa Thánh trái ngược với thực chất của điều giáo hoàng đã nói. Richard Dawkins, khoa học gia nổi tiếng và là người vô thần thẳng thắn, đã phản hồi: “Người vô thần lên Thiên đàng ư? Không. Xin lỗi thế giới, giáo hoàng bất khả ngộ đã hiểu sai. Vatican bước vào đó bằng sự sốt sắng”.

Đây không là lần đầu tiên ĐGH Phanxicô nói bằng cách nói tích cực đối với người vô thần. Trong cuộc gặp gỡ đại kết với các vị lãnh đạo các tôn giáo khác chỉ vài ngày sau khi đắc cử giáo hoàng, ĐGH Phanxicô đã nói rằng người vô thần và tín hữu có thể là “đồng minh quý giá” (precious allies) trong nỗ lực “bảo vệ nhân phẩm, xây dựng sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc và cẩn thận bảo vệ công cuộc sáng tạo”.

Một chương về vô thần trong cuốn sách đầu tiên của ĐGH Phanxicô

Trong cuốn sách của ĐGH Phanxicô xuất bản lần đầu tiên, cuốn “On Heaven and Earth: Pope Francis on Faith, Family and the Church in the Twenty-First Century” (Trên trời và dưới đất: ĐGH Phanxicô nói về Đức Tin, Gia đình và Giáo hội trong thế kỷ XXI), có một chương dành riêng cho chủ đề vô thần. Sách này gồm nhiều bài thảo luận giữa ĐHY Bergoglio (nay là ĐGH Phanxicô), kể cả giáo sĩ Do Thái giáo Abraham Skorka, người Argentine, về nhiều chủ đề thuộc đức tin và tôn giáo.

Sự nhấn mạnh của chương này là tôn trọng và tha thứ cho người vô thần. ĐHY Bergoglio (nay là ĐGH Phanxicô) cho biết: “Khi tôi nói chuyện với người vô thần… tôi không đưa ra vấn đề về Thiên Chúa là điểm khởi đầu, trừ trường hợp họ đưa ra trước… Tôi không gạ gẫm họ vào đạo, hoặc từ bỏ chủ nghĩa vô thần; tôi tôn trọng họ và tôi chứng tỏ chính tôi là gì… Tôi cũng không nói đời họ bị kết án, vì tôi tin rằng tôi không có quyền phán xét về sự chân thật của người đó” (trang 11).

Mặt khác, giáo sĩ Do Thái giáo Skorka đã kết án cả người vô thần và tín hữu về “sự kiêu ngạo” của họ, thay vì ngầm khen họ là “người theo thuyết bất khả tri” (không thể biết, agnostic) – thuật ngữ này diễn tả những người nói rằng họ không chắc rằng có Thiên Chúa hiện hữu. Khi người vô thần phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, những người theo thuyết bất khả tri nói rằng không thể xác định sự hiện hữu của Thiên Chúa. Giáo sĩ Skorka nói: “Người theo thuyết bất khả tri nghĩ mình chưa có câu trả lời, nhưng một người vô thần 100% tin rằng Thiên Chúa không hiện hữu. Đó là sự kiêu ngạo tương tự dẫn tới chút nào đó chân nhận Thiên Chúa hiện hữu, cũng như chiếc ghế tôi đang ngồi đây. Những người theo tôn giáo là những người có niềm tin, nhưng họ lại không biết chắc Ngài hiện hữu…”.

Hơn nữa, giáo sĩ Skorka nói: “Mặc dù riêng tôi tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng là kiêu ngạo khi nói rằng Ngài hiện hữu như thể chỉ là sự chắc chắn nào đó trong cuộc sống. Tôi không ngẫu nhiên xác nhận sự hiện hữu của Ngài vì tôi cần sống sự khiêm nhường tương tự mà tôi đòi hỏi ở người vô thần”.

Về cơ bản, giáo sĩ Skorka nói rằng chúng ta nên “khiêm nhường” khi giải quyết với người vô thần bằng cách không khăng khăng cho rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Sự thật ở đây là ĐHY Bergoglio thực sự không mâu thuẫn với giáo sĩ Skorka về các câu nói trên đây, và thực sự, chương sách kết thúc bằng lời biện hộ của giáo sĩ Skorka về “sự khiêm nhường” trong thái độ của người theo thuyết bất khả tri.

Người vô thần có vào Nước Trời?

Nhiều người, kể cả người Công giáo đúng nghĩa, vẫn phản ứng ủng hộ bài giảng của ĐGH Phanxicô, khen ngài tha thứ cho người “không có đức tin”. Đó là tốt và đáng để chúng ta tôn trọng những người theo các tôn giáo khác, nhiều người quên rằng người vô thần từ chối Thiên Chúa. Làm sao một người từ chối Thiên Chúa có thể vào Thiên đàng chứ? Hoàn toàn trái ngược. Cuối cùng, Thiên đàng là Nước Trời của Thiên Chúa. Thiên đàng là nơi đời đời theo Chúa, tận hưởng vĩnh phúc.

Làm sao một người từ chối Thiên Chúa có thể vào Thiên đàng chứ? Người vô thần từ chối Thiên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng là từ chối Nước Trời – họ từ chối tận hưởng vĩnh phúc, vì họ không tin điều đó. Vì chúng ta có ý chí tự do – một tặng phẩm Thiên Chúa không thể lấy đi khỏi chúng ta – Thiên Chúa không thể ép họ vào Nước Trời vì họ từ chối Ngài cho đến hơi thở cuối cùng.

Tại sao không nói về bằng chứng hiện hữu của Thiên Chúa?

Từ chối Thiên Chúa và vô thần là liều mạng vào lửa đời đời – trừ phi người vô thần sám hối trước khi chết. Người vô thần là người có linh hồn với nguy cơ vào hỏa ngục. Nếu chúng ta gặp ai đó sắp đâm đầu vào vách đá, rõ ràng là sẽ chết, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta có “tôn trọng” họ mà để mặc họ liều mạng? Hay là chúng ta sẽ kêu cứu, la lớn, bảo anh ta dừng lại và đi đường khác?

Tại sao ĐHY Bergoglio nói về việc tha thứ cho người vô thần, và dành hẳn một chương về người vô thần? Chúng ta không nên nói với người vô thần về bằng chứng Thiên Chúa hiện hữu chăng? Thánh Thomas Aquinas, Thánh Anselm và nhiều Giáo phụ có bằng chứng hợp lý và mạnh mẽ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không thích hợp chút nào để đưa ra bằng chứng Thiên Chúa hiện hữu. Thay vì vậy, có vẻ ngày nay nên nhấn mạnh sự tha thứ và chấp nhận những người không có niềm tin. Thay vì nhấn mạnh sự tha thứ và tôn trọng người vô thần, chúng ta không nên chia sẻ với họ về niềm vui và bình an nhờ tin vào Thiên Chúa, và số phận bi đát đang chờ những người từ chối Thiên Chúa đến cuối đời chăng? Sự thật đau lòng, nhưng vẫn cần nói về điều tốt của người vô thần.

Chứng thực mặc nhiên của thuyết vô thần/thuyết bất khả tri

Trong cuốn sách này, ĐHY Bergoglio không sửa đổi hoặc biện hộ lý thuyết về “sự không chắc chắn” của giáo sĩ Skorka. Chúng ta nhớ lại lời của giáo sĩ Skorka: Mặc dù riêng tôi tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng là kiêu ngạo khi nói rằng Ngài hiện hữu như thể chỉ là sự chắc chắn nào đó trong cuộc sống”.

Câu nói này chứng thực “thuyết bất khả tri” (không biết Thiên Chúa hiện hữu hay không). ĐHY Bergoglio nói: “…Theo cảm nghiệm về Thiên Chúa, luôn có câu hỏi không được trả lời, một cơ hội ngụp lặn trong Đức Tin… chúng ta có thể nói Thiên Chúa là ai, có thể nói về các thuộc tính của Ngài, nhưng không thể nói Ngài là cái gì… Tôi cũng nói rõ đó là kiêu ngạo, các lý thuyết đó không chỉ cố gắng xác định bằng sự chắc chắn và sự chính xác về các thuộc tính của Thiên Chúa, mà còn làm ra vẻ nói Ngài là ai”.

Chúa Giêsu ở đâu trong cuộc đối thoại?

Nếu tôi là ĐHY Bergoglio, đối thoại với giáo sĩ Skorka, làm sao tôi trả lời sự chứng thực của thuyết bất khả tri? Tôi sẽ trả lời bằng cách nói rằng Chúa Giêsu là bằng chứng tối hậu về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Cuộc đời của Ngài, việc làm của Ngài, và nhất là sự phục sinh của Ngài là bằng chứng vượt qua sự nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô là bằng chứng thật, cụ thể, có tính lịch sử, không thể từ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Có lần Tông đồ Philipphê đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14:8). Chúa Giêsu nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (Ga 14:9-10).

Thay vì nói với người vô thần: “Là người vô thần cũng được, bạn vẫn vào Thiên đàng nếu bạn làm điều tốt”, thiết nghĩ chúng ta nên nói về mối nguy cơ của việc sống vô thần, bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và Thần tính của Chúa Giêsu. Họ có thể tranh cãi với chúng ta, la hét chúng ta, ghét chúng ta vì thách đố quan điểm của họ – nhưng nếu nói về “sự thật đau lòng”, và mặc dù như vậy, cũng cứ nên nói ra – chỉ vì muốn tốt cho họ.

PAOLO REYES

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU

PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU

(CN Thường Niên, Năm C)

Tuyết Mai

Ai cũng biết rằng Chúa Giêsu của chúng ta Ngài đâu cần Phép Rửa nhưng vì Ngài được sinh ra trong Thế Gian, mặc xác phàm nên Ngài cũng phải chịu Phép Rửa như bao người và để làm gương cho muôn người.

Người đời chúng ta thường khi nghe nói đến danh từ “rửa” thì liền nghĩ đến ngay đến sự rửa ráy cho sạch những gì dơ bẩn bám trên thân thể, quần áo, vật dụng, nhà cửa, v.v… thưa có phải? Và có phải người thường của chúng ta ai cũng thích, cũng chuộng sự sạch sẽ thơm tho nhất là vấn đề cá nhân vì ngay cả chính chúng ta cũng không chịu nổi cái mùi hôi của chính mình hay không?.

Đấy là chúng ta nói về vấn đề thân xác rất dơ bẩn và hay chết của chúng ta, sẽ đến một ngày nào đó thật bất ngờ thì nó cũng sẽ bị ra thối tha và rữa tan vào lòng đất lạnh nhưng điều đáng nói ở đây là Linh Hồn chúng ta nó sẽ sống muôn đời chẳng bao giờ chết được và tùy vào Linh Hồn ấy có luôn giữ được sạch trong hay để cho quá dơ bẩn?.

Mà nói đến một Linh Hồn sạch sẽ và một Linh Hồn dơ bẩn là như thế nào, thiết nghĩ ai trong chúng ta cũng hiểu được điều đó cả … Ấy là khi chúng ta còn sống trên cõi đời tạm bợ này đối với một Linh Hồn sạch sẽ thì nó luôn có sự yêu thương, khiêm nhường, tôn trọng người, bác ái, hy sinh và tha thứ cho nhau vô điều kiện.

Còn ngược lại những Linh Hồn luôn sống trong tham lam, kiêu ngạo, ganh tị, khinh rẻ và bạc đãi người anh em, thù ghét và gieo họa cho người thì Linh Hồn ấy hẳn rất dơ bẩn.   Như viên ngọc quý Chúa ban chúng ta lại coi thường và vứt nó vào xó nhà.   Lâu ngày chầy tháng, nó bị bụi trần chúng đóng bám đến độ nó trở thành một cục đá rất xấu xí và rất nặng nề không thể nào chùi rửa được nữa.

Ai trong chúng ta cũng đều nhận được Phép Rửa từ ở tuổi sơ sinh cho đến ở tuổi gần mãn đời cũng được Thiên Chúa yêu thương đồng đều nhưng mỗi Linh Hồn thì không đồng đều nhau là do tự ý chúng ta đã chọn cách sống tốt lành hay xấu xa tội lỗi trong suốt thời gian chúng ta còn sống trên cõi đời rất vô thường này.

Nên Phép Rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hằng năm là cố gắng sống đẹp lòng Chúa qua thanh tẩy cuộc đời và tâm hồn của mình bằng cách tìm đến Tòa Giải Tội để hòa giải cùng với Chúa ít là một năm một lần.   Giảm bớt sự sống kiêu ngạo, tham lam, gian dối, lừa lọc, và hãm hại người.   Mà tăng lòng sốt mến yêu kính Chúa hơn, yêu tha nhân hơn qua mọi việc chúng ta làm cách hy sinh để bảo đảm linh hồn của chúng ta sau khi lìa trần thì <Nó> sẽ được đích thân Thiên Chúa đón nhận và đem về Nơi có sự sống hạnh phúc muôn đời trên Thiên Đàng.

Nơi có Thiên Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ Maria, cùng toàn thể các đạo binh, các thánh và tất cả anh chị em trên Trời.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

8 tháng 1, 2016

HỎA NGỤC

Hoả ngục khủng khiếp làm sao???

Trầm luân vĩnh viễn…. tự… vào…không…. ra

…………..

Giờ đây thống hối tội qua

Sống sao xứng đáng con CHA trên Trời

Mai sau hưởng phúc cao vời

   Vì nay mến CHÚA, yêu người không thôi .

Thập điều giữ trọn chẳng rời

Lời CHÚA ghi khắc, tâm thời vui liên

Bình minh…Thánh lễ trước tiên

Sau viếng Thánh Thể tiếp liền …bên CHA

Tu thân, tích đức…. trổ hoa

Đơn sơ, phó thác, hiền hoà, yêu thương

Thứ tha, từ bỏ, khiêm nhường

Nguyện cầu, kiên nhẫn, thiện lương hơn người

Thanh tẩy, Thánh hóa CHÚA ơi!

Cho con cảm tạ muôn đời Hồng Ân.

hnkimnga

 

HỎA NGỤC

Lm. Đoàn Quang, CMC

1- Lời Kinh Thánh:

*”Chúa Giêsu thường nói đến “hoả ngục” (Gehenna), đến “lửa không bao giờ tắt” ( xem Mt 5,22.29;13, 42.50; Mc 9,43-48), dành cho những ai, cho đến lúc chết, vẫn từ chối tin và trở lại, và đó là nơi cả hồn lẫn xác có thể bị hư  mất” ( xem Mt 10,28).

*Chúa Giêsu đã dùng những lời nghiêm khắc, rằng “Ngài sẽ sai các thiên thần tới để lượm tất cả những kẻ làm điều gian ác  (…), và quẳng chúng vào lò lửa bừng bừng”  (Mt 13,4142).

*Ngài sẽ tuyên án: “Hỡi những kẻ vô phúc, hãy đi khỏi mặt Ta vào nơi lửa muôn đời”  (Mt 25,41).

*Mt 5,29  Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.

*Mt 5,30  Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

*Mc 9,45 Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi;

thà cụt một chân mà được vào cõi sống

còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục.

*Mc 9,48 nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.

*Mt 16,26  Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

2- Giáo lý Giáo hội Công giáo:

“Chết trong tội trọng mà không sám hối và không đón nhận tình thương đầy từ bi của Thiên Chúa, thì sẽ mãi mãi lìa xa Chúa do sự tự do lựa chọn của mình. Danh từ “Hoả ngục” được dùng để chỉ tình trạng ly khai mãi mãi khỏi mối hiệp thông với Thiên Chúa và với các thánh trên trời. (số 1033)

“Giáo huấn của Giáo Hội khẳng định có địa ngục và tính vĩnh viễn của địa ngục. Linh hồn của những người chết trong tình trạng mang tội trọng, sẽ lập tức phải xuống hoả ngục, “lửa vĩnh viễn” ( xem DS 76; 409; 411; 801; 858; 1002; 1351; 1575; SPF 12). Hình phạt chính của hoả ngục là bị muôn đời xa cách Thiên Chúa, chỉ nơi Ngài, con người mới có thể có sự sống và hạnh phúc: đó là những mục tiêu của con người khi được tạo thành và con người hằng khát vọng. (số 1035)

“Những khẳng định của Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội về hoả ngục là  một lời kêu gọi tới trách nhiệm của con người trong việc sử dụng tự do của mình, hướng về số phận muôn đời của mình. Đó cũng là  lời kêu gọi khẩn thiết hãy hối cải: “Các người hãy vào qua cửa hẹp. Vì rộng rãi thênh thang là đường đưa tới hư mất, và nhiều người đi con đường này. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì dẫn tới sự sống, nhưng ít người tìm ra nó  (Mt 7,1314):

Không biết ngày giờ nào, chúng ta phải luôn tỉnh thức như lời khuyến cáo của Chúa, để khi chấm dứt dòng đời độc nhất của cuộc sống trần gian, chúng ta đáng được nhận vào dự tiệc cưới với Ngài và được kể vào số những người được Thiên Chúa chúc phúc, thay vì bị gạt ra do lệnh của Thiên Chúa để xuống chỗ lửa muôn đời, như những đầy tớ xấu nết và lười biếng, đó là chốn tối tăm bên ngoài, nơi có những tiếng khóc lóc và nghiến răng  ( LG 48). (số 1036)

“Thiên Chúa không tiền định cho một người nào phải xuống hoả ngục  (xem DS 397; 1567); điều này cần phải có một sự chủ ý xoay lưng lại với Thiên Chúa (một tội trọng) và cố chấp ở trong tình trạng này tới cùng.

Trong phụng vụ Thánh Thể và trong các lời cầu nguyện hằng ngày của các tín hữu, Giáo Hội khẩn xin lòng từ bi của Thiên Chúa, Đấng muốn “không một ai phải diệt vong, nhưng muốn mọi người đi tới sám hối”  (2 Pr 3,9):

Đây là lễ vật mà chúng con, những đày tớ Cha và tất cả gia đình Cha dâng lên Cha: xin Cha nhận lễ vật này theo lòng nhân hậu của Cha. Cúi xin Cha bảo đảm cho đời sống chúng con được bình an! Xin cứu vớt chúng con khỏi bị án phạt, và xin nhận chúng con vào số các kẻ được chọn của Cha ( MR, Lễ quy Rôma 88).(số 1037).

3- Lời Các Thánh

(1001 Danh Ngôn Các Thánh, Y Phan, CMC)

  1. Ôi, có phải vì Chúa yêu con mà Chúa đã dựng

nên Hỏa ngục không, đề ép con bám lấy Chúa.

Thánh Augustinô

  1. Tất cả mọi đau đớn khốn khổ ở thế gian này chỉ

là hình ảnh mờ nhạt của án phạt Hỏa ngục mà thôi.

Thánh Gioan Kim Khẩu

  1. Trong Hỏa ngục, kẻ tội lỗi dầu có chịu gấp đôi

tất cả những hình phạt khác nhưng vẫn còn nhẹ nếu so

với hình phạt không được thấy Mặt Chúa.

Thánh Brunô

  1. Nếu những kẻ trong Hỏa ngục được diện kiến

Nhan Thánh Chúa, thì Hỏa ngục không còn là Hỏa ngục

nữa, mà sẽ trở thành thiên đàng ngay lập tức.

Thánh Augustinô

  1. Linh hồn người ta vừa ra khỏi xác sẽ nhận ra

ngay Chúa là Đấng Tạo Thành, nên nó nong nả đến trình

diện trước mặt Chúa. Khi ấy, khốn thay cho những linh

hồn nào đang mang trọng tội. Nó sẽ nhận lấy án phạt là

lời quở trách của Chúa, mà vào chốn Hỏa ngục đời đời.

Thánh Antôniô

  1. Hình phạt của các tội nhân trong Hỏa ngục rất

kinh khủng, rất nhiều và rất gay gắt, lại không hề được

một chút an ủi và nỗi đau khổ càng cứ tăng mãi cho

đến đời đời.

Thánh Rôbertô Bellarminô

  1. Ôi, nếu kẻ có tội biết Hỏa ngục là gì như chúng

tôi đã được xem thấy, hẳn họ không còn dám phạm tội

nữa kẻo phải sa xuống chốn khốn nạn ấy.

Chân phước Giaxinta

*Thánh nữ Faustina, người được THIÊN CHÚA cho thiên thần dẫn đi xem hỏa ngục, đã nói:

“Các linh hồn phải vào hỏa ngục, hầu hết là những kẻ không tin có hỏa ngục”.

Trong sách Nhật Ký Lòng Thương xót Chúa, số 741, Thánh nữ viết: Hôm nay, tôi được một thiên thần dẫn xuống các hang hốc trong hỏa ngục. Đó là nơi cực hình ghê rợn; rộng toang hoác và rùng rợn biết bao! Tôi đã thấy các thứ khổ hình: khổ hình thứ nhất tạo nên hỏa ngục chính là việc mất Thiên Chúa; khổ hình thứ hai là lương tâm cắn rứt triền miên; khổ hình thứ ba là thảm cảnh ấy không bao giờ thay đổi; khổ hình thứ bốn là lửa nung xuyên thấu nhưng không hủy diệt linh hồn – đây là một cực hình kinh khủng, một thứ lửa hoàn toàn thiêng liêng, do cơn nghĩa nộ của Thiên Chúa đốt lên; khổ hình thứ năm là cảnh tăm tối triền miên và mùi ngột ngạt hãi hùng, và mặc dù giữa tối tăm, nhưng ma quỉ và các kẻ dữ lại nhìn thấy nhau và mọi thứ độc dữ của kẻ khác cũng như của chính mình; khổ hình thứ sáu là cứ phải ở chung với Satan; khổ hình thứ bảy là nỗi tuyệt vọng cùng cực; căm hận Thiên Chúa, những lời tà độc, nguyền rủa và lộng ngôn.

Mọi kẻ bị trầm luân đều phải chịu những cực hình trên, nhưng chưa phải là hết. Còn có những hình khổ đặc biệt dành riêng cho từng linh hồn. Đây là những hình khổ về giác quan. Từng linh hồn phải chịu những hình khổ kinh khủng không sao tả được, liên quan đến cách họ đã phạm tội. Có những hang hốc và hố sâu cực hình, ở đó hình thức đau khổ này khác với hình thức đau khổ kia.

Đáng lẽ tôi đã chết ngay lập tức khi vừa thấy những cực hình ấy nếu như quyền toàn năng Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Các tội nhân biết họ sẽ bị gia hình mãi mãi muôn kiếp, tại những giác quan họ đã dùng để phạm tội.

Tôi viết điều này theo lệnh truyền của Thiên Chúa để không còn linh hồn nào có thể viện cớ rằng hỏa ngục không hiện hữu, hoặc chưa có ai đã từng vào trong ấy, và do đó, không ai có thể tả ra như thế nào.

          Tôi, nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã xuống vực thẳm hỏa ngục để có thể nói cho các linh hồn biết về hỏa ngục và chứng minh sự hiện hữu của nó. Tôi không thể nói về hỏa ngục hiện giờ; nhưng tôi đã nhận được lệnh truyền từ nơi Chúa để ghi lại về hỏa ngục. Các ma quỉ hết sức căm hận, nhưng chúng phải lụy phục tôi theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Những điều tôi đã viết ra chỉ là một bóng mờ nhạt nhòa so với những gì tôi đã nhìn thấy.

Nhưng tôi xin lưu ý một điều: hầu hết các linh hồn trong hỏa ngục là những linh hồn đã không tin có hỏa ngục.

Khi tôi đến đó, tôi hầu như không thể trở lại bình thường sau khi thấy cảnh hãi hùng. Trong đó, các linh hồn chịu đau khổ kinh khủng biết bao! Vì vậy, tôi càng cầu nguyện tha thiết xin cho các tội nhân hoán cải. Tôi không ngừng khẩn nài Lòng Thương Xót Chúa cho họ. Lạy Chúa Giêsu của con, con thà chịu khổ cực khốn khó cho đến tận thế giữa những đau khổ ghê rợn nhất còn hơn là xúc phạm đến Chúa, dù chỉ một tội nhỏ mọn nhất”.

*Trong sách Tiếng Gọi Tình yêu kể về Sơ Josepha Menendez, nữ tu Dòng Thánh Tâm Chúa, đã được đưa xuống Hỏa ngục. Sơ đã tả lại theo lệnh Bề trên rằng” không lời lẽ nào tả hết được cảnh kinh hoàng, mùi hôi thối, khổ sở muôn đời”.

Một linh hồn thú nhận: Khổ cực nhất của chúng tôi là “không còn khả năng yêu thương, nếu còn yêu thương thì không còn hỏa ngục. Chỉ có hận thù, giận ghét, ganh tị, tuyệt vọng. Trễ quá rồi. Muôn đời đền tội, mãi mãi trong ngục tù. Chúng tôi khát mong cho các linh hồn bị hư mất.

Quỉ có cách cám dỗ, gây chiến ngày đêm: – kích thích dục vọng, – kích thích kiêu ngạo, – làm cho thờ ơ phần rỗi, – không để cho bình an. Quỉ tướng nói: “Đừng để chúng bình an một giây phút nào”.

Đứa trẻ 15 tuổi phải sa hỏa ngục, nó nguyền rủa cha mẹ, vì đã không dạy nó đường lành, dạy tránh hỏa ngục. Nó đã đọc sách báo xấu, phạm tội xác thịt…

Có tu sĩ nguyền rủa mình vì đã coi thường ơn gọi tu trì.

Có giáo dân nguyền rủa mình vì đã xưng tội chẳng nên…chẳng ăn năn dốc lòng chừa…

*Sơ Josepha còn viết: Bệnh hoạn là ơn trọng đại Chúa ban để tẩy luyện linh hồn.

4- Lời quỉ thú nhận:

*Một linh mục ? trong lúc trừ quỷ đã hỏi quỷ: “Mày ở trong hỏa ngục bao lâu rồi?” Thằng quỷ trong thân xác người bị quỷ ám, đập tay xuống bàn, nổi giận la lớn: “Lúc nào cũng là lúc bắt đầu”.

5- Chứng tích:

  1. Ông Gaston de Segur, nhà trí thức đạo đức Công Giáo người Nga, , đã viết cuốn sách nói về Hỏa Ngục. Ông viết chuyện xảy ra tại Moscou vào năm 1812: Cậu tôi, Rostopchine, lúc ấy là thống đốc quân sự tại Moscou. Cậu thân với tướng Orloff, một người tài giỏi, nhưng lại khô đạo.

Một buổi tối, Orloff và Victor nói chuyện về tôn giáo và Hỏa Ngục. Orloff khiêu khích trước:

– “Không rõ bên kia nấm mồ, có cái gì khác hiện hữu không?”. Tướng Victor đáp liền:

– “Được rồi. Nếu quả thực có cái gì đó, thì một người trong hai ta, ai chết trước, sẽ hiện về báo cho người kia biết. Anh đồng ý không?”. Tử tước Orloff gật đầu “Đồng ý”. Rồi ông giơ tay bắt tay bạn, như cử chỉ giao kèo: phải trung tín giữ lời đã hứa.

Sau đó một tháng, tướng Victor ra trận chiến với quân của Napoléon nước Pháp, vừa tuyên chiến với nước Nga. 3 tuần sau, vào sáng sớm tinh sương, tướng Victor đi  do thám địa điểm của địch. Bỗng ông bị một viên đạn bắn xuyên bụng. Ông gục ngã và chết ngay tại chỗ. Chính lúc đó, linh hồn ông ra trước tòa Chúa.

Orloff đang ở Moscou, không hay biết gì về thảm họa xảy đến cho bạn mình. Vậy mà, cùng ngay buổi sáng hôm ấy, mặc dầu đã thức giấc, nhưng tử tước Orloff vẫn còn nằm rán lại trong giường. Bỗng chốc, ông trông thấy chiếc màn che giường động đậy, rồi, chỉ cách đó hai bước, xuất hiện rõ ràng gương mặt tái mét của người quá cố. Tướng Victor, một tay đặt trên ngực, dõng dạc tuyên bố: “Quả thật có Hỏa Ngục và tôi đang bị trầm luân trong ấy!”.

Nói xong, người quá cố biến mất. Tử tước Orloff nhảy ra khỏi giường, mình mặc nguyên bộ đồ ngủ, chân mang dép ngủ, đầu tóc bù xù, đôi mắt thất thần, gương mặt nhợt nhạt. Ông đâm đầu chạy một mạch đến nhà cậu tôi, kể lại cho cậu nghe câu chuyện vừa xảy ra.

10 ngày sau, quân lực Nga hoàng gởi điện cho cậu tôi, báo tin tướng Victor đã tử nạn, vào đúng y buổi sáng mà Orloff đã trông thấy ông hiện về.

2- Câu chuyện thứ hai được ghi trong sử liệu của thánh Francesco De Gieronimo (1642-1716), một linh mục dòng Tên, sinh tại Taranto, nhưng hoạt động tông đồ và qua đời tại Napoli, miền Nam nước Ý.

Ngài thường giảng các tuần đại phúc. Mục đích của thánh nhân là mời gọi mọi người hồi tâm thống hối, trở về cùng Thiên Chúa và sống ngay chính.

Một hôm, thánh Gieronimo giảng trước đám đông, kéo đến nghe ngài nơi quảng trường thành phố Napoli. Gần đó, trong căn nhà có cửa sổ nhìn xuống quảng trường, có một phụ nữ trắc nết sinh sống. Với chủ đích quấy phá và lấn át tiếng nói của vị thánh, bà cất tiếng la hét ầm ĩ và múa máy lung tung. Mọi lời khuyến cáo bà im đi, đều vô hiệu. Thánh Geronimo đành bỏ dở buổi giảng thuyết hôm ấy.

Ngày hôm sau, thánh nhân trở lại chỗ cũ. Ngạc nhiên vì thấy cửa sổ phòng bà kia đóng kín mít, thánh nhân hỏi lý do tại sao. Người ta cho ngài biết, bà ta đã bất ngờ qua đời trong đêm. Thánh nhân liền nói: “Chúng ta hãy đi xem bà”. Một số đông đi theo ngài và trông thấy xác bà còn nằm sóng soài dưới đất .. Như được linh hứng, thánh nhân cất tiếng hỏi:

– “Hỡi Catarina, nhân danh Chúa, hãy nói cho mọi người đang có mặt đây biết, bà đang ở đâu”. Tức khắc, đôi mắt người quá cố hé mở, đôi môi động đậy. Rồi bằng một giọng khàn khàn, khủng khiếp, bà trả lời:

– “Ở trong Hỏa Ngục .. Tôi bị trầm luân trong Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp!”.

Mọi người hiện diện toát mồ hôi lạnh, dựng tóc gáy!. Lúc xuống cầu thang, thánh Geronimo lẩm nhẩm lập lại:

– “Trong Hỏa Ngục mãi mãi .. Ôi Thiên Chúa công minh, đáng sợ biết là chừng nào!”.

Đa số những người chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó, không muốn trở về nhà, trước khi xét mình kỹ lưỡng, thành tâm thống hối và sốt sắng lãnh nhận bí tích Giải Tội.

(Dom Giuseppe Tomaselli, ”Y A-T-IL UN ENFER?”, Tequi, 1965, trang 24-28).

KẺ SA HỎA NGỤC, KHÔNG TẠI NHIỀU TỘI, NHƯNG TẠI KHÔNG ĂN NĂN, KHÔNG TIN CẬY VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA GIÊSU.

(Trích sách Jesus Appeals to The World, Alba House xb)

*Ngày 15-12-1935, Chúa Giêsu dạy Sơ Consolata Betrone viết những điều này cho các linh hồn :

“Consolata , điều rất thường xảy ra là các linh hồn tốt lành, đạo đức  và cả những linh hồn đã tận hiến cho Cha cũng thường làm khổ Trái Tim Cha tới cùng  vì những câu nói hờ hững như:  “Ai biết tôi có được rỗi linh hồn hay không?

Hãy mớ sách Phúc âm ra và đọc những lời hứa này. Cha hứa cho chiên Cha: “Cha sẽ cho chúng được sống đời đời. Chúng sẽ không bị hư mất đời đời. Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha” (Ga 10, 28).

Consolata con có hiểu không? Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha.  Đọc thêm nữa:

“Những ai Cha Cha đã ban cho Cha thì quí hơn tất cả, và không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha Cha “(Ga 10, 29).

Consolata con có hiểu không? Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha.

Trong cõi đời đời, chúng không hư mất…vì Cha ban cho chúng sự sống đời đời. Cha nói những lời này cho ai? Cho tất cả các con chiên, cho tất cả các linh hồn. (1 Tm 2, 4: Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lí).

Vậy tại sao còn có lời nhục mạ:   “Ai biết tôi có được rỗi linh hồn hay không?

Cha đã ban lời bảo đảm trong Phúc âm  rằng “Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha, và rằng “Cha ban cho chúng sự sống đời đời. Vì vậy các linh hồn không thể hư mất. Hãy tin Cha đi, Consolata.

Các linh hồn phải sa Hỏa ngục chỉ là những linh hồn thực sự muốn vào đó mà thôi (into hell go only those who really wish to go there). Vì Không ai có thể cướp các linh hồn khỏi tay Cha.

Vì có tự do, linh hồn có thể chạy thoát khỏi Cha, có thể phản bội Cha, có thể từ chối Cha, bằng ý muốn riêng của mình, để chạy đến với Satan.

Ôi, thay vì đả thương Trái Tim Cha bằng những bất tín, con có thể nói thêm ít tư tưởng về Thiên đàng đang chờ con.

Cha đã không dựng nên con để vào Hỏa ngục , nhưng dựng nên con để hưởng Thiên đàng, không là bạn với quỉ dữ, nhưng là an hưởng với Cha đời đời trong Tình yêu.

Consolata , con thấy đó:  Các linh hồn phải sa Hỏa ngục chỉ là những linh hồn thực sự muốn vào đó mà thôi.

Điên khùng chừng nào sự sợ hãi bị luận phạt.

Sau khi đổ hết Máu mình ra để cứu chuộc các linh hồn, sau khi bao bọc các linh hồn bằng hết ơn này tới ơn khác trong suốt cuộc sống của các con, thử hỏi Cha có cho phép Satan, kẻ thù xấu xa nhất của Cha, cướp giựt các linh hồn khỏi tay Cha vào phút cuối cùng cuộc đời nó không, ngay vào lúc Cha sắp lượm kết quả của công ơn Cứu chuộc, và do đó, vào lúc linh hồn này sắp được hưởng Tình yêu Cha muôn đời? Cha có thể làm như thế sao? Khi trong Phúc âm Cha đã hứa ban cho linh hồn sự sống đời đời và “không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha”.

Consolata, làm sao có thể tin rằng sự quái gở ấy sẽ xảy ra được? 

Con biết đó, hình phạt cuối cùng chỉ có thể tìm thấy nơi những linh hồn cố ý muốn đi vào Hỏa ngục , và đó là tại gan lì cố chấp từ chối lòng Thiên Chúa, vì không bao giờ Cha từ chối ban ơn tha thứ cho bất cứ linh hồn nào (anyone).

Cha ban ơn thông cảm vô cùng cho mọi người, vì Máu Cha đổ ra cho mọi người, cho mọi người.

Không, không phải vì vô số tội mà linh hồn bị kết án, vì Cha ban ơn tha thứ cho mọi kẻ có lòng ăn năn, nhưng bởi vì sự gan lì, cố chấp không muốn được tha thứ, nó muốn bị hư mất.

Trên thập giá, tên trộm Dismas, chỉ với một cử chỉ đức tin vào Cha, mà nhiều, nhiều tội lỗi của hắn, trong chốc lát đã được xóa bỏ, và quả thực, ngay hôm được tha thứ đó, hắn được vào Nước Thiên đàng và nên một vị Thánh.  Đó là sự chiến thắng của lòng Thương xót và lòng Tin cậy vào Cha .

Consolata, không đâu, Cha Cha đã ban cho Cha các linh hồn thì cao trọng hơn, quyền thế hơn tất cá các quỉ dữ. Không ai có thể cướp giựt chúng khỏi tay Cha Cha.

Ô, Consolata, hãy trông cậy nơi Cha, hãy tin tưởng nơi Cha.  Con phải tin tưởng mù quáng rằng: Cha sẽ hoàn tất những lời hứa trọng đại Cha đã hứa với con.  Cha nhân lành, nhân lành và Thương xót vô biên, vô lượng. ” Cha không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống” (Ez 33,11).

*“Hãy tôn vinh Thiên Chúa với lòng trông cậy của con, hãy thề hứa với Cha rằng:  nếu con luôn luôn tin cậy, thì dù linh hồn con có gặp bất cứ tình cảnh nào, Thiên đàng sẽ được mở ra cho con.

Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có lợi gì? Lấy gì đổi lại cho cân bằng? (Mt 16,26)

Lm. Đoàn Quang, CMC

Anh chi Thu & Mai goi

Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau lễ Chúa Chịu Phép Rửa Năm C 10/01/2016

 “Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa,”
Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì,
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế,
Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ.”

(Trịnh Công Sơn – Bên Đời Hiu Quạnh)

(Mc 14: 22)

 Trần Ngọc Mười Hai

            Có những lúc và những lần, bần đạo bầy tôi đây thấy “lòng mình thật yên bình”, lại rất vui. Vui nhất, là khi cảm-nhận câu nói: ‘tất cả là Ân-huệ’, tức: câu châm-ngôn áp-dụng cho mọi trường-hợp, khi mọi việc đi vào ổn định, chẳng còn  kêu ca, than phiền điều gì hết.

“Lòng mình thật bình yên”, ‘ tất cả đều là Ân huệ’, dù có điều chưa toại-nguyện. Chí ít là những lúc “chợt nghe quê quán tôi xưa”, mà nghệ sĩ mình vẫn lan-man, tản mạn đôi ca từ, rằng:

“Rồi một lần kia khăn gói đi xa.

Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà.

Lòng thật bình yên mà sao buồn thế.

Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ.

Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua.

Đường về tình tôi có nắng rất la đà.

Đường thật lặng yên lòng không gì nhớ.

Giật mình nhìn quanh ồ phố xa lạ.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

“Phố xá (ồ rất) xa lạ”, rồi đến: “con đường đầy quạnh hiu”… Ấy đấy, là tâm-tình của ai đó giống như tôi/như bạn bỗng chốc “giật mình nhìn quanh quất”, rất đời người.

Vào chốn “đời người”, hẳn bạn và tôi, ta lại cũng nhận ra rằng: sự việc ở trong đời, người người lại vẫn có cái nhìn, thật rất khác. Khác, từ cách ăn/cách nói, cho chí các hành-vi xử-sự giống hệt phương-cách giải-quyết các vấn-đề riêng-tư, đặc-biệt như truyện kể bên dưới:

“Tiệm ăn nọ, một hôm, có thực-khách gọi bồi bàn đem cho mình tách cà phê để nhâm nhi, cho đỡ buồn. Nhưng chợt thấy con ruồi đang vùng vẫy bơi lội, hòng thoát nạn.

Truyện kể chỉ có thế, không thêm bớt. Thế nhưng, người kể lại đưa ra câu hỏi để coi xem ở đâu đó trên mạng vi-tính, đã thấy nhiều người gom góp một phản-ứng, rất như sau:

Trước nhất, là người Nhật. Người Nhật thường rất lễ độ, không đụng tới tách cà-phê, cứ lẳng lặng ra quầy trả tiền và kín đáo rời khỏi tiệm.

Người Anh lạnh lùng chỉ cho chủ tiệm coi con ruồi đang phấn-đấu cho sự sống còn, rồi thôi.

Người Mỹ, gọi điện cho luật-sư riêng, ra chỉ-thị lập thủ-tục kiện chủ tiệm, đòi bồi thường 2 triệu đô vì thiệt-hại tinh-thần.

Người Đức đề-nghị chủ tiệm thi-hành kỷ-luật với nhân-viên phạm lỗi.

Với người Ý, thì mọi chuyện sẽ ổn-thỏa, nếu chủ tiệm bỏ vụ tính tiền càphê và bữa ăn.

Ả-rập vua dầu lửa, thì: rút ngân-phiếu mua lại cửa tiệm, đóng cửa sa-thải hết nhân-viên.

Người Thụy-Điển: cảnh-cáo chủ tiệm không tôn-trọng sinh mạng, hạnh-phúc của  sinh-vật.

Người Mễ vớt con ruồi lên khỏi tách, rồi tỉnh bơ uống cạn chỗ cà-phê chưa kịp uống.

Người Hoa: uống ừng-ực tách càphê xong hỏi chủ tiệm cách dẫn-dụ ruồi bay vào bếp.

Người Do-thái dụ bán ruồi cho người Hoa, bán tách càphê cho người Mễ, kiện nhà chủ cùng nghiệp-đoàn ăn uống về tội kỳ-thị người Do-thái. Chính phủ Do-thái chỉ-thị cho đội dù đặc-nhiệm đổ bộ vùng đất Gaza và một phần lãnh-thổ Ai-cập dọc biên thùy Palestine, vận động Do-thái tố chính-phủ Mỹ làm tay sai Hồi-giáo, bán đứng Do-thái, nhân câu chuyện ruồi hạ cánh xuống tách càphê với ý-đồ rõ rệt…

Còn người Việt thì sao?

Người Việt mình, vốn kế-thừa văn hóa Trung-quốc từ nhiều năm trước, nên sẽ bày tỏ tùy từng trường-hợp. Nếu chủ tiệm là đồng hương, ông sẽ om sòm la-lối, rồi hạch sách đủ điều đến phát sợ. Nhưng, nếu chủ tiệm là người Mỹ gốc Hoa kỳ, bèn nín khe hơi đâu mà rách việc…”

Truyện kể, tiếng là để minh-họa điều gì đó, chứ không để thóa-mạ người Do-thái hay sắc-tộc nào, thời hôm nay. Thời buổi hôm nay, làm gì có những chuyện đại-loại kể về người Do-thái hoặc ai đó về ẩm-thực, vè cách ăn lẫn lối uống rất văn-minh, đầy tình người.

Người Do-thái mọi nơi và mọi thời vẫn văn-minh, lịch-sự về nhiều thứ, chí ít là chuyện ăn uống, tư-duy mọi chốn, hết mọi thời.

Thời của Chúa, ai cũng thấy Đức Giêsu và môn-đồ Ngài vẫn chung vui với mọi người cả khi ăn uống, lẫn lúc nguyện-cầu và suy-tư. Tin Mừng Nhất Lãm và cả ở Tin Mừng từ tác-giả Gioan từng mô-tả các bữa ăn, tiệc tùng, hoặc cưới hỏi có Đức Chúa tham-dự. Chẳng hạn như truyện kể lại Đức Giêsu hôm ấy kêu mời ông Zakêu xuống khỏi cây cao, cùng vào dự tiệc.

Lại có trường-hợp Tin Mừng kể lại chuyện Đức Giêsu thực-khách đã đến chung vui với  nhiều nhóm/hội đoàn thể khác nhau, giảng-giải cho họ biết chuyện ăn uống, ứng-xử với thực-khách ở quanh vùng. Ngài sử-dụng thức ăn như đề-tài thảo-luận và giảng-dạy, cốt để mọi người nhớ đến mà hiểu ý Ngài, mỗi khi làm như thế. Đặc biệt hơn cả, là truyện 5 chiếc bánh và 2 con cá, hàm ngụ một dụ-ngôn đầy tâm-tình giúp giùm, đùm bọc.

Nói tóm lại, ở Tin Mừng, chuyện chung vui cùng bàn ăn/uống vẫn được coi là việc cần-thiết phải làm để sống vui sống trọn vẹn phận làm người. Đằng khác, những việc như thế lại cũng được dùng làm dấu-chỉ để mọi người thực-hiện động-tác bác-ái, hoặc bàn-luận tính-cách biểu-tượng cho nhiệm-tích thánh-thiêng về sự sống vĩnh-cửu.

Rất nhiều lần, Đấng Thánh Hiền-lành trong Đạo vẫn khuyên-răn dân con đi Đạo hãy cùng nhau ăn uống và tưởng nhớ ý-nghĩa rất hằng sống trong thức ăn, như sau:

“Cũng đang bữa ăn,

Đức Giêsu cầm lấy bánh,

dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra,

trao cho các ông và nói:

“Anh em hãy cầm lấy,

đây là mình Thầy.”

(Mc 14:22)

Vâng. Ăn và uống, xưa nay, vẫn là triết-lý sống trong đời. Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn. Dù, có ăn/uống trong tình-huống nào đi nữa, người người ở mọi nơi có coi chuyện ăn/uống là lạc thú đến thế nào đi nữa, trong cõi đời, vẫn nên cùng ăn/cùng uống với mọi người.

Với người Do-thái, ăn và uống còn là đạo-lý của mọi người, trong đời. Ăn/uống đơn-độc một mình, không thể là cung-cách vui-tươi đầy ý-nghĩa của người đi Đạo. Đức Giêsu là người Do-thái, nên Ngài cũng không thoát khỏi tục-lệ của đất nước, dân tộc Ngài. Quả thật, Ngài vẫn vào chốn hoang-vu để nguyện-cầu một mình, nhưng Ngài chẳng bao giờ ăn độc, hoặc uống một mình bao giờ hết.

Tiệc Tạ-từ chiều hôm ấy, tuyệt-nhiên không là buổi “độc ẩm” dành cho tử tội ở khám-đường trước khi ra pháp-trường, nhưng vẫn là và lại là bữa Tiệc-Lòng-Mến rất sẻ san. San và sẻ Thân Mình Ngài, một đặc-trưng của Thiên-Chúa-là-Tình-yêu ban cho con người, ở mọi thời. Đó, có thể là Tiệc thân-thương gia-đình giữa bạn bè/người thân, hoặc tiệc tùng bầu bạn dành cho mọi người là những kẻ kế-thừa Vương Quốc Nước Trời, ở mọi nơi. Mọi thời.

Nói khác đi, ăn và uống vẫn là tình-huống qua đó bầu bạn/người thân sẻ-san cho nhau niềm thương-yêu chân-chất/tươi vui trong hiện-tại, để người người lại sẽ cùng sống với nhau trong tương-lai, mai ngày đầy thương-mến.

Đó, cũng là ý-tưởng-làm-nền, từng được đấng bậc mô-phạm ở Úc là tác-giả Michael McGirr, Khoa-trưởng thần-học “Niềm Tin và Mục vụ” thuộc trường St Kevin ở Melbourne, Úc Châu đã có bài viết rất như sau:

“Thân gửi Đại-tá Sanders rất quí mến,

Hy-vọng, thư tôi viết cho ông, hôm nay, sẽ không là giòng chảy đường-đột, bất lịch-sự nhưng chỉ là cung-cách để nói lên rằng: tôi thật lấy làm ngỡ-ngàng khi biết: ông đã sống thọ đến 90 tuổi đời, không kém. Dù, ông là người thành-lập thương-hiệu KFC với món gà quay ngon nổi tiếng thế-giới nhưng tôi chắc rằng ông cũng từng đi đâu đó tìm chỗ ăn uống, thôi.

Thật cũng lạ, ông đây vốn dĩ là người nổi-tiếng về lối gọn-gàng râu/tóc, áo/quần bảnh-bao, ăn mặc lịch-sự không ai sánh tày, vậy mà ông lại đi chọn cái nghề kiến-tạo nên một đế-quốc nổi đình nổi đám với món gà quay mỡ màng, thơm phức. Lẽ đáng, ông phải là chuyên-gia giặt ủi rất đặc-thù về nghề “hấp tẩy nỉ sẹc” tuyệt trần, mới đúng…

 Năm 1955, cửa hàng bé nhỏ do ông làm chủ, từng tồn-tại suốt 120 năm cạnh con lộ tẻ ở Kentucky, nay bị chính-quyền có kế-hoạch cắt xén để mở xa-lộ xuyên tiểu-bang, đã cắt gọn mọi chuyện, thế nên doanh-thương buôn bán hàng ăn đã xuống cấp đến mức-độ thê-thảm và cuối cùng doanh-nghiệp của ông bị phá-sản.

 Vậy nên, ông bèn tạo vị-thế gọi là “gà nòi băng lộ”, đem nhà hàng của mình dời về địa-điểm có tuyến đường mới mở; và từ đó, ý-tưởng lập tiệm KFC đã khởi-phát, rất mau. Hiện nay, hàng ngàn địa-điểm kinh-doanh như thế đã khởi-sắc rất nhiều nơi. Có nơi, còn có cả mặt bằng đậu xe thoải-mái, luôn được nới rộng. Có nơi, ông còn để cho xe chạy đến đi thẳng vào khu đặt và nhận hàng ăn chỉ trong vòng vài phút phù du, đầy đủ cả. Và từ đó, món ăn nhanh hợp khẩu-vị lại bộc-phát không ngừng.

 Điều này, dẫn tôi về lại trọng-điểm của bức thư tâm-tình, thế này đây: KFC vừa mới cho ra lò một lô các đại-lý bán lẻ ngay ở góc đường dầy đặc xe cộ qua lại, nơi tôi sinh sống. Trước mặt, lại xuất-hiện một tiệm bán thịt nướng “souvlaki” ngon miệng, mở ra cùng một địa điểm như của ông, nhưng khiêm-tốn cốt để thực-khách đừng quên món gia-bảo này.

 Tiệm thịt nướng xiên “souvlaki” này, nay bày-biện ghế bàn tràn lan trên vỉa hè đường phố tấp-nập người qua lại, để bà con thực-khách có thể dừng-chân-đứng-lại vừa ăn vừa đấu láo cho vui đời, cả về đêm. Chắc ông cũng thấy nhiều tài-xế Taxi vừa lái xe vừa chuyện trò inh-ỏi cả vào thời-khắc ngắn-ngủi, khác với ý-tưởng lái xe đến tận nơi đặt hàng và bốc hàng trong phút chốc, khiến thực-khách lại cứ bị cô-đơn khi ăn ở trên xe. Bên ngoài cửa tiệm, lại có bảng hiệu ghi giòng chữ: “Quí vị sẽ không bị wi-fi quấy rầy chút nào!”                   

Thịt nướng có que xiên “souvlaki” đã đạt vị-thế khá đáng kể trong lịch-sử ăn uống bên ngoài nhà. Nói về lịch-sử, tôi thấy: cuối bài anh-hùng-ca “Illiad” của Homer, có đề-cao/tuyên-dương Con Ngựa Thành Troie, thì ở đây cũng có tiệm thịt nướng “souvlaki” đã đột-ngột xuất-hiện, rất hiện-tượng. Cho đến nay, người Hy-Lạp đã đóng đô tại đó suốt mười năm liền, tại chỗ. Người thành Troie, lại cũng bị nhồi nhét bên trong bức tường thành đến ngột-ngạt.

Cuối cùng thì, nhiều vị hẳn còn nhớ: câu chuyện về anh-hùng thần-thoại Hy-Lạp Achilles từng chiến-đấu với Hector, con vua Priam Thành Troie, hôm đó chính tay Achilles đã giết chết Hector rồi còn kéo xác anh ta chạy quanh thành-phố để chọc tức dân thành này, cho bõ ghét.

Thế rồi, một chuyện lạ-lùng lại đã xảy ra, cũng rất ngộ. Vua Priam đã tự mình rời khỏi ngai vàng, bước xuống đảm-trách vai-trò ít quen-thuộc, đơn-giản là ông lại chỉ nhận trọng-trách của người cha, mà thôi. Ông không còn muốn sống đời vua/quan nữa, mà chỉ muốn đơn-giảm làm người bình-thường bước đến lều của Achilles đầy quyền-năng, cốt để nhặt xác người con yêu quí của ông, mà thôi. Ông nghĩ, mình sẽ bị đối-phương giết chết ngay tức thời. Nhưng, Priam đã không kịp nghĩ về sự-kiện: trọn cả thế-giới, nay mỏi mệt với mọi cuộc xung-đột và chinh-chiến, nên không còn muốn gây hấn với ai nữa.

Tâm can con người, nay chán-chường vị-thế của bậc đại-trượng-phu cũng như cung-cách xì-sụp/quì mọp của người dưới trướng nữa. Ai nấy đều nhận thấy cần phải có thái-độ khác trước; và từ đó, tính khiêm-nhu/hạ mình để phá vỡ mọi bế-tắc ở chính-trường. Chính Homer đã tạo công ăn việc làm cho mọi người, từ nhiều thế-kỷ trước cả thời Đức Kitô nữa.

Từ đó đến nay, con người mới hiểu được nhân-loại nên đã giúp mình sống tốt đẹp và sinh-động cách đích-thực hơn.

Và, phần chủ-chốt trong thiên-hùng-ca “Illiad” lại là một trong các phần cốt-lõi của nền văn-chương thi-tứ qua đó Achilles đã tặng Priam món thịt trừu nướng “souvlaki” cắt từng mảnh nhỏ xiên que nhọn, ăn với bánh mì. Chính tôi đây, thỉnh thoảng cũng tìm mua một gói thịt nướng xiên bán trên xe “van” từ sở về, vốn là món thịt nướng xiên có từ 3000 năm trước. Dĩ nhiên, Archilles không nhắc-nhở gì đến nước sốt hành/tỏi bỏ thêm vào đó.

Ngày nay, mọi người chúng ta đều có thời-khắc “dừng-chân-đứng-lại” trên đường đời, hầu thưởng-thức món thịt nướng xiên “souvlaki”, một món ăn có đặc-thù tính bằng cơ-hội ta ngồi cùng bàn với nhau mà thưởng thức, và xem hôm ấy có ai cùng ngồi bàn với mình hơn là có gì trên bàn, để cùng ăn.

Điểm sáng trong ngày của tôi, là chuyện: thông thường thì: ân-huệ ta sẻ san cho nhau theo cách của gia-đình tụ-tập vào bữa chiều. Và, giờ phút cuối trong ngày, lại là thời-khắc tuyệt-vời để ta cảm ơn. Và, trong các bữa ăn như thế, lại cũng có nhiều sự việc rất “ân-huệ” như thời-khắc để ta san-sẻ, dù lớn nhỏ, những gì xảy đến với ta cả nơi bàn tiệc lẫn bàn nhựa/bàn gỗ ta làm việc hoặc bàn-luận, cũng giản-đơn.

Có lần, tôi bắt gặp một nữ-phụ tay cầm khay/dĩa đựng món gà quay thơm phức ở tiệm KFC nọ; và chị này đã làm dấu thánh-giá trước khi dùng bữa ngon, hôm ấy. Tôi biết chắc là: chị đã dâng lời cảm-tạ vì được bữa ăn ngon, hơn có được bí-kíp quay/nướng cùng nêm/nếm gia-vị và thêm rau sống vào trong đó. Và tôi nghĩ: cuối cùng ra, đó chính là vấn-đề. Vấn-đề ân-huệ mình cảm-nghiệm, không quên kèm theo sau lời cảm-tạ vì đã có được của ăn,thức uống tuyệt vời đến là thế.

Kính thư,

Michael McGirr

(X. A Letter to Colonel Sanders, Australian Catholics số Giáng Sinh 2015, tr. 16) 

 Tất cả là như thế. Như thế, tức để khẳng-định rằng: mọi sự trên đời, đều là ân-huệ tình thương ta cảm-nhận, vào nhiều lúc. Ân-huệ, có thể là của ăn/thức uống từng ngày mình vẫn dung nhưng quên rằng: mọi thứ trên đời đều do Ơn Trên ban tặng.

Tất cả là ân huệ, vẫn là điều dẫn đ,ưa ta đi vào với thời-khắc vui tươi có yêu-thương, giùm giúp theo tính-cách bầu bạn/thân thương rất gia-đình. Ân-huệ nào, cũng là ân là huệ đầy tình người, tình Chúa gìn giữ ta trong Tình thương vĩnh cửu, rất triển-nở.

Trải-nghiệm thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào vườn truyện kể rất dễ nể, để còn nhớ. Nhớ rằng, mọi chuyện vui trong đời người, đều xuất từ ân-huệ Trời ban, để ta thưởng-lãm suốt đời mình.

Vườn truyện hôm nay có câu truyện, những kể rằng:

“Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau rất nhiều chuyện và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt về đủ thứ trong đời, cả chuyện công ăn việc làm, thực-phẩm lẫn công-danh.

Trong một lúc mất bình tĩnh, một người đã tát vào mặt người bạn mình. Người bị tát thấy rất đau, nhưng không nói gì. Anh chỉ lặng lẽ viết lên cát rằng: “Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát vào mặt tôi.”

Họ tiếp tục bước đi cho tới khi nhìn thấy một ốc đảo, nơi họ quyết định sẽ dừng chân và tắm mát. Người bạn vừa bị tát do sơ ý bị trượt chân xuống bãi lầy và ngày càng lún sâu xuống. Nhưng người bạn kia đã kịp thời cứu anh.

Ngay sau khi hồi phục, người bạn suýt chết đuối khắc lên tảng đá dòng chữ: “Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi.” Người bạn kia, hết sức ngạc nhiên bèn hỏi: “Tại sao khi tớ làm cậu đau, cậu lại viết lên cát còn bây giờ lại là một tảng đá?”

Và câu trả lời anh nhận được là: “Khi ai đó làm chúng ta đau đớn, chúng ta nên viết điều đó lên cát nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn. Nhưng “Khi chúng ta nhận được điều tốt đẹp từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi.”

Hãy học cách viết những nỗi đau lên cát và khắc tạc những niềm vui và hạnh phúc bạn tận hưởng trong cuộc đời lên tảng đá để mãi không phai.”

Nói thế, tức bảo rằng: học ăn, học nói, học gói, học mở, tất cả đều phải học. Học bây giờ và học mai sau, suốt đời mình. Học cả chuyện ăn và nói, rồi ra ta sẽ thấy mình chin chắn, trưởng-thành trong mọi sự.

Thế đó, là giòng chảy tư-tưởng, ta truyền cho nhau để học, cả một đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ học và học mãi

Cả chuyện ăn, chuyện nói

Lẫn mở gói

suốt đời mình.

Chiều xưa khúc nhạc nóng ran lên,

Suy Tư Tin Mừng tuần sau lễ Chúa Chịu Phép Rửa năm C 10/01/2016

 Tin Mừng (Lc 3: 15-16, 21-22)

 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mêsia! Ông Gio-an trả lời mọi người rằng:

Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.

Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.

    *    *    *

“Chiều xưa khúc nhạc nóng ran lên,”

Không có ai đi để lỗi thuyền.

Nguồn thơ ứa mãi hai hàng lệ,

Tờ giấy hoa tiên cũng ướt mèm.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

Thơ với nhạc, cứ ứa mãi hai giòng lệ dễ nóng ran. Để đến nỗi, “giấy hoa tiên cũng ướt mèm.” Ướt, như đời con trẻ, vẫn cứ buồn.

Những ngày như hôm nay, rất nhiều bậc cha mẹ trẻ vẫn thường thắc mắc: sao ta lại cứ lo tìm cha tìm thầy cho con cái mình rửa tội, thế nhỉ? Có người còn đề nghị: nên triển hạn ngày thanh tẩy cho đến khi con cái triển nở, lớn lên thành người lớn. Để chúng có cơ hội mà chọn lựa. Dù lập trường này xem ra có phần hấp dẫn, nhưng vấn đề là: những lý do xảy đến tiếp sau đó, lại không mang tính nhất quán, rất mông lung.

Nhìn vào cuộc sống, có bậc cha mẹ trẻ nào từng thắc mắc: sao cứ bắt con cái ăn rau trái, rồi lại học đọc học viết, học làm tính, rồi còn bắt chúng sống theo kiểu con nhà lành, đến là mệt? Cha mẹ bắt như thế, vì biết rằng dinh dưỡng, học hành cùng sống đạo đức chức năng đều là những chuyện cần thiết, để trưởng thành, thật chín chắn.

Chừng như không nói nhưng ai cũng hiểu, là: ngay từ thuở thiếu thời, trẻ nhỏ vẫn có nhu cầu về cả thể xác, tinh thần lẫn đạo đức, giáo dục. Tất cả những thứ ấy, dù không nhất quán ta cũng không thể loại trừ, nếu muốn cho con cái có được đặc tính tốt để sau này sống với thế gian, mang nhiều hình thái.

Thanh tẩy, không phải là tẩy não. Là người lớn, ta có thể tự ý “rồi đến rồi đi, bao tháng năm”, dù có biết “tạ ơn đời, tạ ơn trời” vì đã cho ta một niềm tin-yêu, mà thực hành. Tuy nhiên, lúc khôn lớn, mà lại không kiến tạo cho mình một nền tảng tu đúc hoặc không căn bản để bám rễ mà chọn lựa định mức thần linh cho chính mình, xem ra nhiều phần dễ hạn chế tự do hơn là thăng tiến nó.

Theo nền văn hoá ta vẫn có, thì việc thanh tẩy cho con trẻ mà do cha mẹ mong muốn là điều rất nên làm. Phúc Âm ta nghe đọc hôm nay, sẽ cho thấy chính Chúa cũng chấp nhận để thánh Gioan thanh tẩy cho Ngài, trên sông Giođan, là điều rất đúng, và cũng nên làm.

Người thời nay nghe kể về sự việc diễn tiến tuy thấy có vẻ lạ kỳ vì thời nay, ta thường chấp nhận nhận rằng ta chỉ có một qui ước độc nhất là chối bỏ mọi qui ước có sẵn. Và, dường như ngày nay người người chỉ muốn làm một điều là chối bỏ những điều mà người đời trước từng làm, thôi.

Tuy thế, ta vẫn mang nặng một chủ trương cho rằng Thiên Chúa luôn làm điều “đáng làm”. Điều đó, thần-học Kinh-thánh gọi là “làm những chuyện đúng đắn”, rất thích hợp. Chẳng hạn như, ta tin rằng Thiên Chúa quyết định rằng Ngài đã mặc lấy thân phận loài người như Ngài đã làm. Theo cách thế Ngài từng làm nơi chốn Ngài quyết định làm, là chuyện đúng đắn, hợp lý.

Các thế kỷ về trước, người ta không ngừng tranh cãi lẫn biện luận rằng nếu Ngôi Lời đến với thế gian theo cung cách của người nữ, hoặc Ngài đến với hành tinh khác, vào kỷ nguyên khác, thì thế gian này sẽ ra sao? Câu trả lời, là: dù đây là vấn đề cũng khá ngộ nghĩnh để bàn cãi, nhưng vẫn không là chuyện đúng đắn, hợp lý Chúa đã làm, và muốn làm.

Cùng một thể với việc Chúa làm một cách đúng đắn/hợp lý, Đức Giêsu cũng đã làm chuyện đúng đắn khi Ngài để cho thánh Gioan tẩy rửa ngài. Tẩy rửa khỏi mọi ân hận, dù Ngài chẳng có gì để ân hận.

Đức Giêsu không chỉ chấp nhận thanh tẩy chỉ vì mọi người trông chờ Ngài làm thế, để thực hiện nghĩa vụ, cần làm. Kinh nghiệm tẩy rửa của Đức Giêsu khởi sự như một chấp nhận mình có lỗi và như thế bày tỏ rằng ơn thanh tẩy trước tiên là tình thương yêu của Cha.

Cho đến nay, nghi tiết tẩy rửa của chúng ta vẫn giữ lại hai thực tại tốt lành. Khi nhận ơn thanh tẩy, ta nhận thức cả tội nguyên tổ lẫn ân huệ dành cho tổ tiên. Ân huệ Chúa ban đến với ta một cách sống động dù ta vẫn biết là ta từng xa lánh tình yêu Ngài ban phát.

Ơn thanh tẩy cho Đức Giêsu và mọi cuộc thanh tẩy xảy ra từ đó, là khoảnh khắc ta cùng giữ lại với nhau và cho nhau Tình yêu cao cả của Thiên Chúa. Tình yêu Ngài gọi mời mỗi người chúng ta qua tên gọi để ta trở thành con cái Ngài. Ân huệ gọi mời của tình yêu, bất chấp thực tại yếu mềm và mỏng dòn của con người chúng ta.

Còn gì đúng đắn và hợp lý hơn cho việc chào đón bất cứ ai vào với thế giới của cộng đoàn gồm những kẻ tin, rất yếu mềm. Để, xác chứng rằng họ đã là thành viên của cộng đoàn yêu thương ấy. Và, để nhắc nhở họ rằng tội nguyên tổ không thể là điểm kết-thúc. Bởi, mọi người chúng ta, một khi đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì Tình yêu của Thiên Chúa là Cha luôn là và luôn hiện-diện trong ta.

Cầu mong sao, Tiệc Thánh hôm nay ta mừng kính xứng đáng với Tình yêu thánh thiêng đổ xuống trên ta. Cầu và mong sao Tình yêu chúa ban, sẽ đem đến cho ta lòng quả cảm. Và hãnh diện. Để ta có thể làm điều đúng đắn, hợp lẽ cho các thế hệ mai ngày, đang tiếp đến.

Cũng cầu và cũng mong sao, Ơn Thanh Tẩy Chúa mở tầm mắt tinh-thần của ta, để ta không còn những thắc mắc vẩn vơ, như một số bậc cha mẹ trẻ vẫn vơ vẩn, nhiều thắc mắc._

Trong tâm tình ấy, nay ta lại mời mọi người ngâm mãi lời thơ buồn, những hát rằng:

“Nguồn thơ ứa mãi hai hàng lệ,

Tờ giấy hoa tiên cũng ướt mèm.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn Ở Đây)

Nguồn thơ trên tờ giấy hay trên đâu đó, mãi mãi không là nỗi “Buồn Ở Đây”, trong nhà Đạo.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch.

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

Sau đây là tên mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là ông Phê-rô, rồi đến ôngAn-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Giê-bê-đê và ông Gio-an em của ông; ông Phi-lip-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô ; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế ; ôngGia-cô-bê con An-phê và ông Ta-đê-ô ; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, chính là kẻ nộp Người

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

“Sau đây là tên mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là ông Phê-rô, rồi đến ôngAn-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Giê-bê-đê và ông Gio-an em của ông; ông Phi-lip-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô ; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế ; ôngGia-cô-bê con An-phê và ông Ta-đê-ô ; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, chính là kẻ nộp Người”. (Mt 10,2-4)

1- Simon Peter (Phêrô): Chúa Giêsu gọi ngài là đá, còn được gọi là Simon con Giôna. Ông là một ngư phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee. Đã bị đóng đinh ngược trên thập giá. Theo lời truyền của giáo hội thì ngài đã nói với những người lý hình rằng, ngài cảm thấy không xứng đáng chết cùng một thể thức giống như Chúa Giêsu, cách Thầy mình đã chết.

2- Andrew (Anrê): Em của Phêrô, ngư phủ thành Bethsaida. Ngài bị đóng đinh trên thập giá hình chữ X ở Patras, Greece, sau khi bị bảy người lính đánh đòn nhừ tử. Người ta dùng những sợi dây trói thân xác ngài vào thập giá cốt ý kéo dài sự đau đớn của ngài. Những môn đệ của ngài thuật lại rằng, khi ngài bị dẫn đến trước thập giá, ngài đã kính cẩn chào thập giá và nói những lời này: “Tôi đã từng ước mong và dự đoán sẽ có giờ vui mừng này. Thánh giá đã được tận hiến nhờ thân xác của Chúa Kitô treo trên đó”. Ngài tiếp tục rao giảng cho những tên lý hình trong hai ngày cho đến khi tàn hơi.

3- James the Great (Giacôbê Cả): con ông Giê-bê-đê, là anh em với thánh Gioan. Là người chài lưới khi Chúa Giêsu gọi ngài làm môn đệ hiến trọn đời cho sứ mạng rao giảng tin mừng. Là người lãnh đạo can trường của Giáo hội, Giacôbê đã bị chặt đầu ở Giêrusalem. Người lính Rôma có nhiệm vụ canh gác Ngài đã kinh ngạc chứng kiến thánh nhân bảo vệ niềm tin trước toà án. Sau này, người lính này cùng đi với Giacôbê tới nơi xử hình. Bị thuyết phục bởi niềm tin, chính ông đã tuyên xưng niềm tin mới với quan toà, và quỳ xuống bên cạnh thánh Giacôbê chấp nhận bị chặt đầu vì là người Kitô hữu.

4- John (Gioan): con ông Giê-bê-đê, được Chúa Giêsu gọi là Môn đệ yêu dấu. Đối diện với cái chết tử đạo khi bị nấu trong nồi dầu sôi trong cuộc bách hại tôn giáo ở Rôma. Nhưng lạ thay, ngài được cứu thoát khỏi cái chết. Thánh Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải Huyền chứa đầy những lời tiên tri. Thánh Gioan được trả tự do, và trở về làm Giám mục ở Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài chết vì già yếu. Ngài duy nhất là tông đồ đã chết một cách bình an.

5- Philip (Philiphê): người thành Bethsaida xứ Galilee, bị đóng đinh.

6- Bartholomew (Batôômêô): con trai của Talemai. Ngài làm chứng cho Chúa ở Thổ Nhĩ Kỳ. Batôômêô tử vì đạo vì đã giảng đạo ở Armenia, nơi mà ngài bị quất bằng roi cho tới chết.

7- Thomas (Tôma): vị thánh duy nhất không tin Chúa Phục sinh, và sau đó đã tin vì đã được thọc tay vào vết thương nơi cạnh sườn của Chúa. Ngài chết vì bị đâm bởi lưỡi đòng ở Ấn độ, trong một chuyến đi truyền giáo nhằm thiết lập hội thánh tại tiểu lục địa này.

8- Matthew (Mát-thêu): người thu thuế, con trai của Alphaeus. Tử đạo ở Ethiopia, chết vì vết thương của lưỡi gươm.

9- James (Giacôbê): con ông Alphaeus. Là người lãnh đạo hội thánh ở Giêrusalem, bị quăng hơn một trăm feet xuống đất từ hướng Đông Nam trên đỉnh của Đền thờ, sau khi ngài không chịu từ chối niềm tin vào Chúa Kitô. Khi người ta khám phá ra là ngài vẫn còn sống mặc dù bị quăng xuống đất từ trên cao, những kẻ thù của ngài đã đánh ngài tới chết bằng cây gậy của người thợ hồ vải. Đỉnh đền thờ này cũng là nơi mà ma quỷ trước kia đã đưa Chúa Giêsu lên để cám dỗ Ngài.

10- Thaddaeus (Tađêô): trong Phúc âm Luca gọi là Giuđa, con của Giacôbê. Bị đóng đinh.

11- Simon: người Canaan, bị đóng đinh.

12- Judas Iscariot (Giuđa “kẻ bội phản”): người đã nộp Chúa Giêsu cho người Do Thái, sau đó hối hận và đi treo cổ tự tử.

13- Mathias (Mátthia): thay thế môn đệ Giuđa phản bội, bị ném đá và bị chặt đầu.

14- Thánh Paul (Phaolô): trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, sau khi bị Chúa cho té ngựa trên đường đi Đamát bách hại dân Chúa. Phaolô đã tán thành việc ném đá ông Têphanô. Ngài bị tra tấn và sau đó bị chặt đầu bởi hoàng đế Nerô ở Rôma. Thánh Phaolô đã bị giam trong tù một thời gian dài, nhờ đó mà ngài đã có thời gian viết các thư gởi cho các tín hữu của các hội thánh, mà ngài đã thiết lập khắp nơi. Những thư này đã dạy những giáo điều làm nền tảng của Kitô giáo, và các thư này chiếm phần lớn trong sách Tân Ước.

15- Têphanô Vị tông đồ tử vì đạo đầu tiên. Ngài bị ném đá cho tới chết vì bị cho là nói phạm thượng.

16- Mark (Maccô): tác giả sách Tin Mừng. Qua đời ở Alexandria, Ai cập, sau khi bị ngựa kéo trên đường cho tới chết.

17- Luke (Luca): tác giả sách Tin Mừng. Bị treo cổ ở Greece sau cuộc rao giảng cho người ngoại.

Những cái chết của các tông đồ Chúa Kitô nhắc nhở chúng ta rằng, những đau khổ và thử thách của chúng ta thì nhỏ bé so với những sự bách hại lớn lao và sự đối sử tàn nhẫn mà các tông đồ xưa đã phải chịu trong việc bảo vệ niềm tin. Lời Chúa Giêsu đã nói: ”Vì danh Thầy, người ta sẽ ghét bỏ các con, nhưng những ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát:. (Mt 10:22).

Mỗi người Chúa ban cho sức mạnh đủ để chịu những thử thách như lời Chúa nói: Ơn Thầy sẽ đủ cho con. Hãy vững niềm tin vào Chúa.