TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA SẼ CÓ ĐƯỢC CUỘC SỐNG DỒI DÀO

TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA SẼ CÓ ĐƯỢC CUỘC SỐNG DỒI DÀO

(CN I Mùa Chay)

Tuyết Mai

Thật thế khi chúng ta sống tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa thì chỉ có Người là đấng duy nhất đã tác tạo ra chúng ta sẽ luôn ban cho chúng ta cuộc sống thật dồi dào và thanh thản trong khả năng rất giới hạn của từng người nếu chúng ta đừng tham lam và đừng ích kỷ.

Bởi do đâu mà chúng ta ra tham lam và ích kỷ như thế? Thưa có phải vì chúng quỷ xúi biểu và dụ dỗ? Bằng chứng thật rõ ràng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã bị thử thách trong suốt 40 ngày đêm trong Sa Mạc và ai còn nhớ Chúa Giêsu đã phải trải qua những thử thách gì trong những ngày ấy?.

Khuyên để cho đừng bị chúng quỷ dụ dỗ thì chúng ta cần phải sống thật khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa cùng anh chị em và khi chúng ta càng khiêm nhường bao nhiêu thì chúng quỷ sẽ nhả chúng ta ra càng nhanh bấy nhiêu vì Khiêm Nhường là chất khử độc chúng và đọc Kinh Mân Côi là hai cách có hiệu quả nhất.

Bước vào 40 ngày Chay Thánh mong hết thảy chúng ta học hỏi gương của Chúa Giêsu, người Con tuyệt đối sống tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Cha Ngài cùng Chúa Thánh Thần là đấng luôn phù trợ cùng an ủi.   Người Việt chúng ta cũng có câu rất hay và rất đúng là “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư” và thường những người con này có tánh ngang tàng xấc xược, tự cao tự đại và tự dựa vào khả năng rất có giới hạn của mình!?.

Ngược lại thì thường những người con yếu đuối từ thể xác hay tinh thần thì cũng chẳng bao giờ dám sống rời xa cha mẹ của mình đâu.   Ấy thế mà cuộc đời của những người con này luôn được bình yên vô sự, dư đủ và thoải mái vì tất cả đều được cha mẹ chăm lo cho dù tuổi đời của các anh chị này có đến là bao nhiêu.

Mùa Chay là mùa nhắc nhở hết thảy con cái Chúa ai sống xa Người và xa Ràn thì đây là lúc cần nên Trở Về bên Chúa vì nếu chúng ta cứ đi xa mãi thì sợ rằng chúng ta sẽ chết trong nanh vuốt của thú dữ (quỷ dữ) cách không toàn thây.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

13 tháng 2, 2016

ĐỨC GIÊSU BỊ CÁM DỖ

ĐỨC GIÊSU BỊ CÁM DỖ

Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa.  Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế nào trong những tháng ngày sắp tới.  Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.

Đức Giêsu là người.  Ngài không biết tất cả.  Ngài phải tìm ý Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34).  Ngài cầu nguyện để biết phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13).  Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22. 44-45; 18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).

Đức Giêsu là người.  Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người.  Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4, 9-10). “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.”  Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào.  Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào.  Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp.  Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp.  Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn vẹn nữa.  Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.

Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm.  Con người có những khuynh chiều thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về mình.  Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về tôi.  Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng không phải chỉ có vậy.  Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi đẹp hơn, tuyệt hơn.  Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý trí hướng thiện.  Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn; chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi.  Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.

Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người khác: “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội” (Dt 4, 15; 2, 17).  Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất chính nơi thân xác Ngài.  Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người: Ngài không phạm tội.  Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội.  Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào.  Phạm tội hay không, là tùy tự do con người, nó không thuộc bản chất con người.

Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria.  Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và không phạm tội “riêng.”  Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài.  Điều này được diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác.  Đức Giêsu đã không bao giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào.  Ngài thuộc trọn về Thiên Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa.  Thiên Chúa đã sinh ra Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn.  Đức Giêsu đã thuộc về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài, nhưng không thể hủy hoại được Ngài.  Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang qua chính cuộc sống của Ngài.  Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn lựa sống của mình.  Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.

LM Giuse Phạm Thanh Liêm

NGƯỜI LÀ BỤI TRO

NGƯỜI LÀ BỤI TRO

GM Giuse Vũ Văn Thiên

MUA CHAY

 

Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro
Một mai người sẽ trở về bụi tro”
(Thánh ca)

Bài thánh ca đã trở thành quen thuộc mỗi khi Mùa Chay về.  Lời ca đơn sơ mà da diết, bi ai mà thiết thực, nhắc chúng ta nhớ về thân phận con người.
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu công giáo, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu.  Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, hết thảy đều nhận mình là thân phận bụi đất, hư vô.  Nghi thức này thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của mình.  Bụi tro xem ra đơn giản là thế mà lại gợi ý suy tư với bao điều sâu sắc.

1- Bụi tro nhắc nhở chúng ta sự mỏng giòn của kiếp người
Tro là phần còn lại của một số chất liệu sau khi đã bị lửa thiêu rụi.  Tiền thân của tro có thể là những đồ vật một thời quý giá, sang trọng, có thể là những bông hoa một thời kiêu sa, rực rỡ.  Thế rồi, với tác động của ngọn lửa, những gì là rực rỡ không còn, những gì là kiêu sa đã mất, còn lại chỉ là nắm tro tàn vô dụng.  Phụng vụ khuyên đốt những cành lá sử dụng trong Chúa nhật lễ Lá năm trước để lấy tro dùng trong nghi thức làm phép và xức tro.  Những cành lá nhắc lại lời tung hô của người dân thành Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành thánh.  Như những cành lá xanh tươi mau khô héo do tác động của thời gian, những lời ca tụng con người dành cho nhau sớm bị lãng quên vì chỉ nhất thời.  Nếu có rất nhiều người tung hô Đức Giêsu khi Người vào thành thánh ngày Chúa nhật lễ Lá, thì cũng có khá đông những cánh tay giơ lên chiều thứ Sáu để đòi lên án tử cho Người.  Khoảng cách cho một cành lá từ lúc xanh tươi đến lúc héo tàn mỏng manh là thế.
Khi tham dự nghi thức hỏa táng một người thân, chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa sự mỏng giòn của thân phận con người.  Chỉ sau vài giờ đồng hồ, ngọn lửa đã biến thân xác con người trở thành tro bụi.  Vẻ đẹp đẽ xinh tươi sẽ không còn; giàu sang phú quý sẽ biến mất.  Những hộp hài cốt đặt để gần nhau trong ngôi “nhà tưởng niệm” cho thấy, sau khi chết, con người chẳng còn chi khác biệt.  Giàu sang, nghèo hèn có cùng một địa chỉ; yêu thương thù ghét cùng một chốn đi về.
Như một đoá hoa vô thường, cuộc đời mỏng manh, nay còn mai mất.  Mỗi ngày qua đi, thân xác con người thay đổi, rồi đến mùa thu cuộc đời, họ trở nên tàn tạ.
Vượt lên thân phận mỏng giòn chóng qua của kiếp con người, đức tin công giáo hướng chúng ta về những giá trị vĩnh cửu.  Quả vậy, nếu thân xác con người như đoá phù dung sớm nở tối tàn, thì linh hồn con người lại trường tồn bất tử.  Nếu cuộc sống thế gian dừng lại khi con người nhắm mắt xuôi tay, thì cuộc sống vĩnh cửu lại khởi đầu lúc con người giã biệt trần thế.  Phủ nhận linh hồn bất tử, con người sẽ bất hạnh, vì sau khi chết, họ trở về với hư vô.  Không tin Thiên Chúa hiện hữu, người ta sẽ sống trong vô vọng, vì không tìm đâu được lý tưởng cuộc đời.

2- Bụi tro nhắc nhở chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng Vĩnh cửu
Tác giả sách Sáng thế nói với chúng ta, thân xác con người được tạo thành từ bùn đất, rồi con người sẽ trở về với đất, vì từ đất mà ra.  “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật” (St 2, 7).  “Con người” chỉ khác với đất là có hơi thở.  Chính Thiên Chúa đã “thổi hồn” cho đất để đất trở nên người.  Đất với người từ đó mà có duyên nợ, luôn gắn liền với nhau.  Con người sống nhờ đất khi thọ hưởng biết bao hoa màu từ đó, rồi cũng chết vì đất khi đổ mồ hôi trán để tồn tại và mưu sinh.  Đất là chỗ đứng chắc chắn cho bước chân người khi họ còn sống; Đất mở rộng vòng tay đưa con người trở về an nghỉ khi họ từ giã cuộc đời.  Hành trình con người khởi đi từ đất, qua một chuỗi những tháng ngày vui tươi đau khổ, hân hoan, thất vọng, rồi con người lại trở về với… đất.  Cách trình bày của tác giả sách Sáng thế cho ta thấy tình thương bao la của Thiên Chúa.  Con người là một tác phẩm do chính Chúa tạo nên.  Ngài như một người thợ thủ công lành nghề, khéo léo nhào nắn đất để tạo nên hình dạng con người.  Với tình yêu thương, Ngài chăm sóc và ban cho con người hơi thở.  Hơi thở ấy chính là hơi thở của Ngài.  Thật kỳ diệu khi được biết sự sống của chúng ta chính là hơi thở của Thiên Chúa.  Nhờ hơi thở của Chúa mà con người trở nên cao cả, tuy được nắn từ bùn đất.  Sau cuộc đời lo toan giữa nhân tình thế thái, con người trước khi về với đất “trút linh hồn”, trả lại “hơi thở” cho Chúa, trong tâm tình biết ơn trìu mến, như người con phó thác trọn vẹn nơi Cha mình.

3- Bụi tro nhắc chúng ta sống tốt cuộc đời tạm này
Khi ý thức được sự mỏng giòn chóng qua của thân phận con người, chúng ta chọn lựa và gắn bó với những giá trị trường tồn vĩnh cửu.  Của cải vật chất chỉ là phương tiện Chúa ban để chúng ta sống xứng với phẩm giá con người và để giúp đỡ anh chị em.  Chúng ta không thể mang theo chúng khi giã biệt cõi đời.  Cánh tay buông thõng của người vừa trút hơi thở cuối cùng cho thấy, con người đến thế gian với hai bàn tay trắng, nay trở về với cát bụi cũng chỉ là tay không.  Thật bất hạnh cho những ai coi tiền bạc của cải như những chiếc “phao cứu hộ” vào lúc cuối đời.
Vì những lợi lộc trần gian mà không thiếu người dùng mọi mưu mô mánh lới.  Vì vinh quang nhất thời mà có người đã coi nhẹ lương tâm.  Bụi tro nhắc chúng ta những vinh quang trần thế cũng chỉ như đoá hoa rực rỡ hôm nay, ngày mai sẽ trở thành tro bụi.  Chỉ có tình Chúa tình người mới lâu bền tồn tại, mãi đến thiên thu.
Nếu bàn bay buông thõng của người vừa nằm xuống chẳng mang theo được gì khi tạm biệt cõi đời, thì những công phúc họ đã thực hiện ở đời này lại theo họ mãi mãi (x. Kh 14, 13).  Vì vậy, trong cuộc đời quá ngắn ngủi này, chúng ta được kêu gọi tận dụng thời gian để sống tình nhân ái với nhau. Hãy thôi những bon chen lừa lọc vì cuộc đời chẳng là mấy.  Hãy dừng những toan tính nhỏ nhen vì chẳng ai sống mãi trên đời.  Thấy rõ cuộc sống chóng qua giúp ta thiện chí sống bao dung quảng đại. “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”.  “Tiếng” đây là lòng nhân hậu, là đạo đức của con người.  Một người sống tốt lành, khi thân xác của họ đã an nghỉ trong lòng đất, cái đức của họ vẫn còn.  Họ vẫn được lưu danh với thời gian.
“Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro
Một mai người sẽ trở về bụi tro”

Lời ca đơn sơ mà da diết, bi ai mà thiết thực, nhắc chúng ta nhớ về thân phận con người, hướng chúng ta về với Đấng Vĩnh Cửu qua những thực hành cụ thể của cuộc sống hôm nay.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

Đừng lo lắng gì cả (Thứ Hai – Mồng Một Tết Nguyên Đán, cầu bình an cho năm mới)

Đừng lo lắng gì cả (Thứ Hai – Mồng Một Tết Nguyên Đán, cầu bình an cho năm mới)

Dongten.net

Lời Chúa: Mt 6, 25-34

Khi ấy Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ rằng:“Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”

Suy nim:

Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Ítraen (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.

Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.

Cầu nguyn:

Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.

Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.

Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.

Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.

Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.

Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.

Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

BÀI HỌC TỪ BỤI TRO

BÀI HỌC TỪ BỤI TRO

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Hoa và rác

Người giúp việc vừa lau chùi bàn ghế trong phòng khách vừa ngắm nghía bình hoa hồng tươi đẹp đang được trân trọng đặt trên mặt bàn bóng láng.

Thấy người giúp việc chăm chú nhìn mình với ánh mắt cảm phục, hoa hồng tỏ ra kiêu hãnh và nói:

– Anh xem trên đời nầy có hoa nào vừa đẹp, vừa sang, vừa thơm ngát như tôi không?

Người giúp việc đáp:

– Sớm muộn gì thì mầy cũng chỉ là rác!

Hoa hồng cảm thấy bị xúc phạm nặng nề trước lời nói đó, nên tỏ ra gay gắt:

– Ta xinh đẹp thế nầy, ta đang toả hương thơm ngát thế nầy, ai cũng quý mến ta; ta được tôn vinh trong phòng khách sang trọng thế nầy, vậy mà nhà ngươi dám xỉ nhục ta, dám gọi ta là rác ư! Nhà ngươi xúc phạm ta quá đáng.

Người giúp việc bồi thêm:

– Mầy sẽ là bụi tro!

Hoa hồng tức tối đáp lại :

– Nhà ngươi là kẻ ăn nói ngang ngược! Nhà ngươi có biết trong Ngày Tình Yêu, tất cả các đôi nam nữ trên thế giới đều chọn ta để đem tặng cho những người bạn tình yêu quý nhất đời của họ hay không? Nhà người có biết là trong ngày đó, ta được các hoàng tử, các công chúa, những chàng công tử tài hoa, các cô thiếu nữ cao sang đài các… nâng niu ta trên tay, ôm ấp ta vào lòng, quý trọng ta đến thế nào không? Thế mà nhà ngươi dám cho rằng ta là bụi tro ư! Thật không có lời nào xúc phạm đến phẩm giá của ta như những lời ngươi vừa nói.

Người giúp việc bồi tiếp :

– Mầy sẽ là phân bón!

Hoa hồng tỏ ra phẫn nộ :

– Ôi ! Trời ơi là Trời ! Có ai ăn nói hỗn hào như ngươi không! Ta là Hoa Hồng, là Nữ Hoàng của các loài hoa. Nhà ngươi xúc phạm đến ta là xúc phạm đến các chủng loại hoa hồng nói riêng, đồng thời xúc phạm cả mọi loài hoa trên đời, vì ta là Hoa Hồng, là Nữ Hoàng của các loài hoa.

Hoa Hồng giận quá! Cơn giận bốc lên ngùn ngụt khiến hoa hồng ngất đi một hồi lâu mới tỉnh.

Thế là từ lúc đó, cơn giận sôi sục trong lòng đoá hoa hồng khiến nó không ăn, không ngủ, không một phút giây bình an… Và thế là nó héo đi nhanh chóng.

Qua ngày hôm sau, chủ nhà thấy hoa hồng đã héo, vứt nó ra hố rác. Thế là hoa hồng kiêu sa, đẹp lộng lẫy, toả hương thơm ngát làm đắm đuối lòng người, bây giờ trở nên rác, đúng như lời người giúp việc đã nói về nó.

Bởi vì rác hoa hồng nằm chung với các thứ rác khác nên bốc mùi hôi, do đó chủ nhà bảo người giúp việc đốt rác đi. Thế là hoa hồng bây giờ trở thành tro! Đúng như lời người giúp việc đã nói về nó.

Mấy ngày sau, chủ nhà lại sai người giúp việc hốt tro trong hố rác trộn chung với các thứ phân chuồng để đem đi bón ruộng. Thế là hoa hồng bây giờ đã trở thành phân bón! Đúng như lời người giúp việc đã nói về nó, mới ngày hôm kia.

Ôi, kiếp hoa hồng là thế, hôm nay là hoa đẹp lộng lẫy kiêu sa toả hương thơm ngát, ngự trị trong phòng khách xa hoa sang trọng, mai sẽ là rác thối, là tro bụi và cuối cùng là phân bón!

Xin ngẫm lại mà xem. Thân xác chúng ta rồi cũng như thế thôi. Dù hôm nay chúng ta rất xinh đẹp được nhiều người mê say quyến luyến; dù hôm nay chúng ta giàu có sang trọng được mọi người kính nể; dù hôm nay chúng ta thông minh, tài trí được người ta tôn trọng… thì mai đây thân xác chúng ta cũng chỉ là rác, là tro bụi và là phân bón thôi.

Nghi thức xức tro trong ngày thứ Tư Lễ Tro nầy nhắc nhở ta luôn nhớ rằng mai đây chúng ta chỉ là bụi tro.

Ý tưởng nầy được thánh vịnh hôm nay nhắc lại : “Hỡi người! Hãy nhớ mình là bụi tro. Mai sau người sẽ trở về bụi tro.”

Bài học bụi tro

Khi biết thân phận mình rồi chỉ là tro bụi, tôi rút được nhiều bài học hay:

Tôi sẽ không tự cao tự đại, không kiêu căng, vì phận mình là tro bụi, là thứ thấp hèn mà tự nâng mình lên, tự cho mình là lớn lao cao cả hơn người khác là chuyện nực cười.

Tôi sẽ không khinh dể, không xem thường người khác, vì mình là tro bụi thì có đáng xá gì mà dám khinh dể người ta!

Tôi sẽ không chê bai, phê phán, chỉ trích người khác vì mình là tro bụi mà dám lên mặt chê bai khích bác người khác thì thật phi lý và điên rồ.

Và khi bị người ta xem thường, khinh dể, tôi sẽ không hờn, không giận và vui lòng chịu đựng vì mai đây mình chỉ là bụi tro; vô số bụi tro vẫn thường bị chà đạp hằng ngày dưới chân con người cũng là chuyện bình thường thôi !

Hơn hết, một khi biết mai đây mình chỉ là bụi tro, tôi sẽ không dại dội đầu tư tất cả thời giờ, công sức, tài năng, trí tuệ… của tôi để chăm lo cho thân xác nầy, để rồi rốt cuộc, thân xác nầy trở thành bụi tro. Trái lại, tôi phải dành nhiều thời giờ hơn, nhiều công sức hơn, nhiều tiền bạc hơn… để đầu tư cho đời sống thiêng liêng của tôi, nhờ đó, một khi thân xác nầy trở về với bụi tro thì linh hồn tôi sẽ được chiếm hữu sự sống hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Đức tin là gia sản quý giá nhất

Đức tin là gia sản quý giá nhất

Vietvatican.net

Thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ 5 ngày 04.02 – OSS_ROM

VATICAN. “Gia tài quý giá nhất mà chúng ta có thể để lại cho các thế hệ mai sau chính là đức tin.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 5, ngày 04.02, tại nhà nguyện thánh Marta. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng chúng ta đừng sợ hãi, vì đằng sau cái chết sự sống vẫn mãi tiếp tục.

Suy nghĩ về cái chết sẽ giúp soi sáng cho cuộc sống hiện tại

Được gợi hứng từ bài đọc một trích sách các Vua thuật lại sự ra đi của vua Đa-vít, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải trải qua những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Suy nghĩ này khiến chúng ta chẳng mấy vui thích. Vì thế, chúng ta thường tránh đi và không muốn nhắc đến. Nhưng cái chết lại là một thực tại hiển nhiên của kiếp sống nhân sinh. Khi biết suy xét đúng đắn về ‘cuộc vượt qua cuối cùng’ này sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Sự chết chính là thực tại mà ai cũng phải đối diện.

Trong những buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ tư hàng tuần, có lần tôi đã gặp một nữ tu lớn tuổi với gương mặt chan chứa niềm vui và bình an, đang ngồi giữa những bệnh nhân và người đau yếu. Tôi hỏi soeur: ‘Năm nay soeur bao nhiêu tuổi rồi?’ Soeur trả lời tôi với một nụ cười rất tươi: ‘Dạ, thưa Đức Thánh Cha, nay con được 83 ạ. Con đang hoàn tất những chặng đường cuối cùng trong cuộc hành trình dương thế này và bắt đầu một cuộc hành trình khác bước đi cùng với Thiên Chúa. Con bị ung thư tuyến tụy, Đức Thánh Cha ạ.’ Và như thế, trong an bình, vị nữ tu này đã sống hết mình trong một cuộc đời hiến dâng. Soeur đã chẳng hề tỏ ra sợ hãi trước cái chết, vì như soeur đã nói ‘con đang hoàn tất cuộc đời này để bước vào một cuộc sống mới với Đức Kitô’. Đó là một sự chuyển tiếp. Và sự chuyển tiếp này rất cần thiết với chúng ta.

Đức tin – gia sản quý giá nhất

Vua Đa-vít đã trị vì Ít-ra-en được 40 năm. Khi thấy mình đã gần đất xa trời, vua truyền dạy Sa-lô-môn con mình phải biết tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, các luật pháp và chỉ thị của Người như đã ghi trong luật Mô-sê. Trong đời mình, vua Đa-vít đã phạm nhiều tội lỗi, nhưng ngài cũng đã biết nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Và ngày hôm nay, mỗi lần nhắc đến ngài, Giáo hội đều dùng tước hiệu ‘thánh vương Đa-vít’. Ngài là tội nhân nhưng cũng là một vị thánh. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, vua đã để lại cho con trai một gia sản quý giá và đẹp đẽ nhất, một gia sản mà ai cũng có thể để lại cho con cái mình, đó chính là đức tin, là lòng tin tưởng.

Khi viết di chúc, người ta thường nói: tôi để lại cái này cho người này, cái kia cho người kia, cái nọ cho người nọ, ….vân vân và vân vân. Điều ấy tốt thôi. Nhưng gia sản quý giá nhất mà một người có thể để lại cho con cháu của mình chính là đức tin. Vua Đa-vít ghi nhớ lời Thiên Chúa hứa và vẫn hằng tin tưởng vào những lời hứa ấy. Cuối cùng vua đã truyền lại lòng tin tưởng ấy cho con trai mình. Thế nên, hãy để lại đức tin cho con cháu như một gia sản thừa kế.

Khi cử hành nghi thức Thanh Tẩy, chủ tế trao nến phục sinh cháy sáng cho các bậc phụ huynh và nói những lời tương tự như thế này: ‘Ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom. Hãy làm bừng sáng nơi con cái của anh chị em và hãy truyền lại ánh sáng ấy cho con cái như một gia sản quý giá.’

Để lại đức tin cho con cháu như một gia sản. Đây là điều mà chính vua Đa-vít đã làm và cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta. Vua đã qua đời cách bình thường và đơn sơ như bao nhiêu người khác, nhưng vua lại biết truyền dạy và để lại cho con thứ gia tài quý giá và quan trọng nhất. Gia tài đó không phải là ngôi vua, là vương quốc nhưng chính là đức tin.

Thiên Chúa trung tín, là người Cha không bao giờ khiến con cái thất vọng

Như vậy thật là hữu ích nếu mỗi người chúng ta cũng hãy tự hỏi mình rằng: ‘Khi ra đi, tôi sẽ để lại gì cho con cháu? Tôi sẽ trao cho những người thừa kế gia sản gì?’

Chúng ta hãy xin Thiên Chúa hai điều. Thứ nhất, xin ơn đừng sợ hãi trước cái chết. Hãy xin ơn để được giống như vị nữ tu mà tôi đã nhắc đến trong buổi tiếp kiến chung – ‘Con đang hoàn tất cuộc hành trình dương thế để bắt đầu một chặng đường mới với Đức Kitô’ – đừng hoảng sợ. Và điều thứ hai, xin ơn để mỗi người chúng ta có thể để lại cho đời, để lại cho con cháu, cho thế hệ mai sau một thứ gia sản quý giá nhất, đó chính là đức tin, là lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa Thành Tín. Vị Thiên Chúa ấy luôn bên cạnh chúng ta. Ngài chính là người Cha không bao giờ khiến cho con cái mình phải thất vọng.”

Vũ Đức Anh Phương, SJ

CHÚA CHE CHỞ VÀ Ở GẦN KỀ

CHÚA CHE CHỞ VÀ Ở GẦN KỀ

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chính Chúa Là Đấng Vẫn Chở Che, Người Luôn Luôn Ở Gần Kề!

Cha Alfonso là Linh Mục cộng tác viên và là bạn thân của Linh Mục Giám Đốc một Cô Nhi Viện ở miền Bắc nước Ý. Cha Alfonso kể lại câu chuyện sau đây.

Nơi Cô nhi viện có Giuliano là thiếu niên 13 tuổi rất hung dữ và cộc cằn. Cậu bé có một niềm vui ác-quỉ là rất thích đập vỡ kính các xe lửa đang chạy trên đường rầy. Cậu lượm đá rồi canh chừng khi xe lửa chạy qua thì ném mạnh vào các kính xe. Cậu như muốn trả thù và trả thù. Dù không biết trả thù ai!

Giuliano không bao giờ chịu làm bài và học bài. Cậu chỉ chấp nhận học duy nhất các bài giáo lý, trong đó có kể chuyện Cuộc Đời Chúa Cứu Thế. Giuliano thường nói với các bạn:

– Tao thích học Phúc Âm vì thấy Đức Chúa GIÊSU cũng bị người ta cư xử tàn tệ như tao!

Đầu tháng 5 năm 2004, Cha Giám Đốc Cô Nhi Viện nói với các thiếu niên:

– Viện sẽ tổ chức một cuộc tĩnh tâm 3 ngày do Cha Alfonso hướng dẫn. Cuộc tĩnh tâm có mục đích chuẩn bị tâm lòng các con lãnh bí tích Giải Tội và Rước Lễ lần đầu. Ai muốn thì ghi tên tham dự.

Và Cha Giám Đốc ngạc nhiên biết bao khi thấy tên của Giuliano cũng nằm trong danh sách. Cha Giám Đốc hóm hỉnh nói với tôi:

– Thật hú hồn! Chúc bạn can đảm! Còn chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi đôi chút!

Nghe Cha Giám Đốc nói, lòng cảm thấy hơi lo lo. Nhưng tôi phó thác tất cả trong bàn tay yêu thương dẫn dắt của Đức Chúa GIÊSU, Vị Thầy Chí Thánh Chí Nhân Chí Ái.

Ngày đầu tiên diễn tiến bình thường. Không có tai nạn nào đáng tiếc xảy ra. Các buổi cầu nguyện không kéo dài lâu. Trái lại các trò chơi thể thao được chú ý nhiều hơn. Giuliano là tướng lãnh dẫn đầu các cuộc chơi. Sang ngày thứ hai có vài chuyện đáng tiếc xảy ra nhưng không lớn lao và trầm trọng cho lắm. Đức Chúa GIÊSU đang ở giữa chúng tôi. Sang ngày thứ ba tôi thử chơi ván bài cuối cùng. Tôi chọn lựa thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. Tôi nhẹ nhàng nói các thiếu niên về Đức Chúa GIÊSU. Tôi dùng lời nói và cách nói thật ngọt ngào. Tôi nói như rót mật vào tai. Tôi nói với trọn tâm lòng của một Linh Mục. Tôi kết thúc buổi nói chuyện như sau:

– Đức Chúa GIÊSU KITÔ yêu thương chúng ta với trọn những ưu và khuyết điểm của chúng ta. Ngài tha thứ và quên đi những lỗi lầm chúng ta đã làm. Ngài ban cho chúng ta một niềm vui mới lạ. Niềm vui chưa từng hưởng nếm.

Tôi để ý thấy Giuliano chăm chú lắng nghe. Cậu thiếu niên ngồi im như uống từng lời tôi nói. Tôi long trọng tuyên bố khởi đầu việc lãnh ơn tha thứ của Đức Chúa GIÊSU qua bí tích Hòa Giải. Tôi nói:

– Bây giờ Cha ngồi tòa giải tội. Ai trong các con sẵn sàng thì bắt đầu trước!

Tôi vui mừng khi thấy Giuliano giơ tay nói lớn tiếng:

– Thưa Cha, con xin xưng tội trước!

Thế là các thiếu niên khác xếp hàng nối đuôi sau Giuliano.

Nơi tòa giải tội, tôi lặng lẽ cầu nguyện. Tôi van xin THIÊN CHÚA Nhân Từ viếng thăm và thay đổi tâm lòng các thiếu niên đã trải qua quá nhiều thử thách: hoặc mồ côi hoặc bị cha mẹ bỏ rơi .. Xưng tội xong Giuliano ghé sát vào tai tôi thầm thì:

– Thưa Cha, Đức Chúa GIÊSU nói với con mấy điều. Ngài không nói bằng lời, nhưng nói với con vài điều. Tuy nhiên, giờ đây con không thể nói cho Cha biết là điều gì!

Tối hôm ấy các thiếu niên tỏ lộ nét vui mừng. Mọi người lên giường ngủ, không gây tiếng động, không lời nói ồn ào. Ngày kế tiếp tất cả trở lại Viện Mồ Côi và chuẩn bị cho cuộc Rước Lễ lần đầu vào sáng hôm sau. Thật là một đại lễ. Các thiếu niên mau mắn lên giường ngủ sớm. Thế nhưng chiếc giường của Giuliano lại trống trơn! Cha Giám Đốc lo lắng giơ tay than trời:

– Thôi rồi, cậu bé lại bỏ trốn một lần nữa!

Riêng tôi, tận thâm tâm không tin chuyện có thể xảy ra. Tôi thầm thì van xin Đức Chúa GIÊSU cứu giúp. Tôi đi một vòng để tìm Giuliano. Tôi đến nhà nguyện. Trong bóng tối tôi trông thấy một khối trắng. Đó là Giuliano đang quì cầu nguyện. Giuliano lại thầm thì với tôi:

– Chúa GIÊSU nói với con mấy điều. Ngài không nói bằng lời, nhưng quả thật Ngài nói với con.

Tôi hỏi:

– Chúa nói gì với con?

Cậu bé đáp:

– Xin Cha đợi một chút để con hỏi Chúa có bằng lòng con nói cho Cha biết không. Chúa nói được. Con có thể cho Cha biết. Chúa nói Ngài sung sướng vì con bằng lòng tiếp rước Ngài ngày mai. Nhưng Ngài, Ngài còn hài lòng hơn con vì được ngự vào lòng con.

Nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy dài, Giuliano cảm động vừa khóc vừa nói:

– Thật là chuyện khó xảy ra. Bởi lẽ con là một đứa trẻ dữ dằn, không ai thương con hết!

Tôi chậm rãi giải thích:

– Chính vì thế mà Đức Chúa GIÊSU yêu thương con nhất, yêu hơn mọi người khác.

… ”Xin Chúa gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Israel, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa gìn giữ bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ đây cho đến mãi muôn đời” (Thánh Vịnh 121(120),3-9).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, n.21, 29 Maggio 2005, trang 29)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

CÓ THỂ LÀ TỘI NHÂN, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC LÀ KẺ HƯ HỎNG

CÓ THỂ LÀ TỘI NHÂN, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC LÀ KẺ HƯ HỎNG

ĐGH Phanxicô

“Chúng ta hãy tha thiết nài xin Thiên Chúa để dẫu chúng ta có yếu đuối phạm tội nhưng đừng bao giờ trở thành những kẻ hư hỏng (corrotti), không cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.”  Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ sáu, ngày 29.01, tại nguyện đường thánh Marta.

Khởi đi từ bài đọc một trích sách Sa-mu-en, thuật lại chuyện vua Đa-vít và bà Bát Se-va, Đức Thánh Cha đã phân biệt giữa tội nhân và kẻ hư hỏng.  Khác với những người hay phạm tội nhưng biết ăn năn, kẻ hư hỏng không còn cảm thấy cần sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.

“Con người có thể hay phạm tội nhưng luôn biết chạy đến với Thiên Chúa để chân thành nài xin sự tha thứ.  Chân thành nài xin chứ không bao giờ nghĩ rằng tự sức mình có thể đạt được sự tha thứ ấy.  Nhưng khi con người bắt đầu trở nên hư hỏng, không còn cảm thấy cần sự tha thứ; thì vấn nạn mới thực sự phát sinh.”

Tôi không cần Chúa

Đây là thái độ mà vua Đa-vít vướng phải khi vua say mê bà Bát Se-va, vợ ông U-ri-gia, một sỹ quan quân đội đang chiến đấu trên tiền tuyến.  Sau khi vua Đa-vít ăn nằm với bà Bát Se-va và biết rằng bà đã có thai, vua đã nghĩ ra những mưu kế để che dấu hành vi ngoại tình của mình.  Vua truyền cho ông U-ri-gia từ chiến trận quay về nhà để nghỉ ngơi và có thời gian gần gũi với vợ.  Nhưng ông U-ri-gia lại nghĩ rằng không nên về với vợ mà nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông.  Kế hoạch không thành, Vua Đa-vít chuốc rượu cho ông U-ri-gia đến say khướt, nhưng âm mưu vẫn thất bại.

Như thế, vua Đa-vít đã rơi vào một tình huống khó khăn.  Nhưng chắc chắn rằng, vua vẫn có thể tự nói với mình: “Ta sẽ giải quyết được việc này.”  Vua đã viết thứ cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi.  Trong thư, vua viết rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.”  Vua Đa-vít nhất định khiến ông U-ri-gia phải chết.  Người lính can trường và trung thành này – trung thành với lề luật, với dân tộc, tổ quốc – đã phải mang lấy án tử bởi chính vị vua mà ông hết mực trung thành.

Tính “an toàn” của sự hư hỏng

Vua Đa-vít là thánh nhân nhưng cũng là tội đồ.  Vua đã sa ngã vì sự thèm muốn và khao khát nhục dục, nhưng Thiên Chúa vẫn rất yếu mến vua.  Vua Đa-vít cảm thấy an tâm, vì quốc gia đang hưng thịnh. Sau khi ngoại tình, với quyền lực của mình, vua đã làm mọi cách để đẩy người tôi trung đến cái chết, khi bỏ nó lại chiến trường nơi mặt trận nặng nhất.  Và cái chết vì gươm đao là chuyện vô cùng bình thường của nhà binh.

Sự kiện này xảy ra trong cuộc đời của vua Đa-vít khiến chúng ta cũng phải xem xét lại đời sống của mình: Liệu tôi có đang chuyển từ tội nhân đến một kẻ hư hỏng không?  Vua Đa-vít đã bước một chân lên nấc thang đầu tiên dẫn đến sự hư hỏng rồi.  Vua có quyền lực.  Vua có sức mạnh.  Và chính vì lý do đó, sự hư hỏng rất dễ xảy ra với chúng ta là những người có quyền lực, cho dù đó là uy quyền trong Giáo hội, tôn giáo hay trong kinh tế, chính trị…  Bởi vì, ma quỷ sẽ khiến chúng ta an tâm và tự nhủ: “Tôi có thể làm được.  Tôi sẽ giải quyết được mọi sự.”

Tội nhân, có thể chấp nhận; nhưng kẻ hư hỏng thì không

Sự hư hỏng – nhờ ân sủng Chúa, vua Đa-vít đã được giải thoát khỏi tình trạng này – đã làm thương tổn tâm hồn chàng thiếu niên anh dũng, người đã đối diện với tên Gô-li át khổng lồ và hạ hắn bằng một dây phóng đá cùng năm hòn đá cuội nhặt dưới suối.  Bởi vậy, hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh với anh chị em một điều thôi:  Đôi khi chúng ta phạm tội hay đời sống của chúng ta quá an toàn, chắc chắn, chúng ta cảm thấy ổn vì có nhiều quyền lực; chính lúc đó sự hư hỏng sẽ bắt đầu.  Một trong những điều tồi tệ nhất mà sự hư hỏng gây ra là khiến người ta không còn cảm thấy cần sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.

Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho Giáo hội, cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, linh mục, các nam nữ tu sĩ và tất cả mọi tín hữu: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con.  Xin cứu vớt chúng con khỏi sự hư hỏng.  Chúng con là tội nhân, nhưng lạy Chúa, xin đừng để chúng con trở thành những kẻ hư hỏng, không cần đến sự tha thứ của Chúa nữa.” Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ân sủng này.”

ĐGH Phanxicô

Chuyển ngữ:  Vũ Đức Anh Phương, SJ

LƯỢNG TỪ BI CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

LƯỢNG TỪ BI CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

 Tuyết Mai

Nghĩ thật kỹ thì ra con người của chúng ta ai cũng sống thật là ích kỷ vì chúng ta làm gì thì cái kết cuộc nó cũng đều phải có sự trao đổi hay thưởng ban từ việc chúng ta làm.   Đó là sự đền bù, là sự trả công đích đáng dù đó là cho một chút khoái cảm, cho sự hưởng thụ của lạc thú để sung sướng và để thỏa mãn cái tấm thân hay chết này chớ chúng ta có làm điều ích lợi gì cho ai đâu, thưa có phải?.

Ngay trong gia đình của chúng ta đây ngoài cha mẹ ra thì có ai tự động, tự nguyện làm một việc gì bao giờ mà không buông lời thở than, không tỏ lộ cái bộ mặt ủ rũ mày châu hay không buông lời cằn nhằn khiếm nhã làm mích lòng người nghe lắm lắm vậy.   Có phải vì lỗi từ nơi cha mẹ ngay từ đầu đã dạy cho con cái cách sống vô trách nhiệm đối với người trong gia đình, họ hàng và chòm xóm láng giềng? … Vì mọi thứ chúng cần hay không cần đều có sẵn để hưởng dùng mà chúng không cần phải động đến móng tay.   Cả khi rất cần nhờ đến chúng giúp làm việc gì thì cha mẹ lại hứa cho tiền, hoặc hứa cho chúng những gì mà chúng thích, v.v…

Do đó thường những đứa trẻ trong gia đình khá giả chúng hỗn hào hơn nhiều so với những con cái con nhà nghèo.   Vì con nhà nghèo thì chúng sớm học hiểu biết tinh thần trách nhiệm của chúng là phải trông em, lo chuyện bếp núc, nấu nướng, giặt dũ, trông sóc gia súc để cha mẹ chúng cần phải ra đồng, ra ruộng hay bán bưng ở ngoài chợ mới có tiền mà mua gạo và mua thức ăn để có mà nuôi bao nhiêu cái miệng ăn.

Nhưng thưa đấy là cuộc sống nơi Trần Gian này dù là người nghèo hay người giầu có thì đều phải tìm cách sống phù hợp cho qua ngày đoạn tháng, tuy cách sống của từng người thì khác xa nhau nhiều lắm.   Điều quan trọng ở đây là chúng ta cần lắm để sống cuộc đời tốt lành từ khi chúng ta còn trẻ, còn có thời gian, còn có cơ hội để Chúa làm việc trên khối óc, trái tim và trên chi thể của chúng ta … Thì đó mới là quan trọng và là thiết yếu cho linh hồn sống đời của chúng ta.

Vả ai nấy trong chúng ta cũng đều hiểu rằng Lòng Chúa Thương Xót đều đón nhận và gọi mời tất cả con cái tội lỗi của Ngài vào; để được Chúa Giêsu nhận chìm tất cả trong trái tim có máu và nước là một đại biển hồ rộng lớn vô đáy cho con cái nào biết chạy đến cầu cứu với Lòng Chúa Thương Xót thì đều được Chúa bảo toàn từ tánh mạng cho đến Linh Hồn sống đời, không bị sa vào Hoả Ngục muôn đời.   Nhưng hẳn chúng ta đâu có ai muốn linh hồn của mình phải bị ở lâu nơi Lửa Luyện Ngục?.

Và đã là con người thì không một ai mà dám tự phụ rằng chúng ta sống tốt đến độ không cần đến Lòng Chúa Thương Xót vì trong mắt Chúa tất cả chúng ta đều là kẻ có tội.   Và thưa tội gì là tội làm buồn lòng Thiên Chúa nhất? Có phải đó là tội vô cảm của con người đối xử với con người hằng ngày đó không?.

Từ sự lãnh đạm và vô cảm của chúng ta đã dễ dàng làm cửa ngỏ cho quỷ dữ chúng vào ngự trị, khống chế và điều khiển mọi suy nghĩ, mọi việc làm và dần chúng lấy mất linh hồn của chúng ta tự lúc nào mà chẳng ai hay ai biết.   Nên chúng ta cần phải luôn thức tỉnh mà cảnh giác, mà đề phòng kẻo sau này cửa lòng của chúng ta đóng chặt đến đỗi chúng ta quay lưng lại với Chúa thì thật quá là muộn màng và phũ phàng thay.

Lạy Chúa của Lòng Thương Xót, xin thương ban cho hết thảy chúng con luôn sống trong sự chuẩn bị, đề phòng, thức tỉnh mà đừng để cho giống như 5 cô trinh nữ dại khờ đã bị Chúa từ chối tiếp rước vì cửa đã đóng hay như nhà phú hộ giầu có nhưng đã vô cảm với cuộc sống khổ nghèo ghẻ chốc của người anh em là Lazarô sống trước nhà ông.   Chỉ vì sự thờ ơ và vô cảm ấy mà Chúa đã phạt ông xuống Hỏa Ngục bị lửa nung đốt đời kiếp kiếp.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

23 tháng 1, 2016

Chút tâm sự về đón nhận tình yêu thương xót Chúa

Chút tâm sự về đón nhận tình yêu thương xót Chúa

  1. Mấy ngày nay, Chúa hay hỏi tôi điều này: “Con có thực sự muốn đón nhận tình yêu thương xót Chúa không?”.

Tôi đã trả lời: “Chúa biết điều đó hơn con. Xin Chúa dạy con. Bởi vì đón nhận tình yêu thương xót Chúa, chính là ơn gọi Chúa dành cho con. Ơn gọi đó là của Chúa và do Chúa. Đó là một bí mật của Chúa về con”.

Và Chúa đã trả lời tôi: “Đón nhận tình yêu thương xót Chúa là một ơn gọi không phải để đáp ứng những sở thích của con, và những tính toán của con, mà là để đáp lại tình yêu thương xót Chúa, một tình yêu xót thương muốn cho con nên tốt”.

  1. Với những soi sáng đó, đột nhiên tôi hiểu: Chúa kêu gọi tôi đón nhận tình yêu thương xót Chúa là để đổi mới tôi và để tôi góp phần đổi mới Hội Thánh của tôi.

Tôi cần được đổi mới. Hội Thánh Việt Nam cũng cần được đổi mới ở một số lãnh vực và ở một số nơi.

Nhận thức đó giúp tôi có một hướng rõ rệt trong năm mới này.

  1. Đấng đổi mới tôi là chính Chúa. Tôi cộng tác vào bằng sự đón nhận ơn Chúa.

Con đường cộng tác được tóm tắt vào Lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38).

Tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ, là những việc tôi thực hiện hằng ngày, hằng giờ, bằng nhiều cách khác nhau.

  1. Càng thực hiện những việc đó, tôi càng thấy rõ: Đổi mới bản thân tôi là một việc đào tạo phải thường xuyên, lúc nào cũng cần, lúc nào cũng mới.

Bởi vì đổi mới nói đây là từ bên trong. Bên trong nội tâm tôi càng ngày càng phải hình thành chân dung của Chúa Giêsu, với những nét căn bản của Người, đó là hiền lành, khiêm nhường, yêu thương, luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha. (x Mt, 11,29. Ga 10, 11. Mc 14, 36).

  1. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Để được như vậy, tôi phải sống mật thiết với Chúa Giêsu, phải ở lại trong Người và Người ở lại trong tôi. (Ga 15,4). Tôi coi đây là cách tốt nhất để đón nhận nhiều tình yêu thương xót Chúa.
  2. Ở đây, tôi xin tâm sự một kinh nghiệm riêng, đó là suốt đời, tôi coi sự sống mật thiết với Chúa Giêsu và sự ở lại trong Người là niềm vui lớn nhất của tôi.
  3. Khi sống những giờ phút đó, tôi cảm thấy rất vui với cái nhìn về mình:Mình là rất bé nhỏ, mình là kẻ hèn mọn, mình là kẻ tội lỗi, mình là kẻ nghèo nàn. Thế mà mình lại được Chúa xót thương.
  4. Tôi rất vui với cái nhìn về Chúa.Người rất xa, mà lại rất gần. Người rất cao sang, mà lại coi sự ở với kẻ bé mọn, là một hạnh phúc. Tôi tin Chúa rất yêu thương tôi. Chúa đã chia sẻ sự sống của Người cho tôi.
  1. Tôi rất vui với cái nhìn về sự Chúa ở trong tôi.Chúa ở trong tôi là Người đến trong lòng tôi, để chờ tôi dâng lên Người tình yêu của tôi. Tình yêu, mà Chúa ưa thích nhất nơi tôi là lời “Xin vâng”,như Đức Mẹ xưa.
  2. Tôi hay diễn tả lời xin vâng đó bằng kinh phó thác theo cha Foucauld: “Lạy Cha, con xin phó thác con cho Cha. Xin Cha làm nơi con những gì Cha muốn. Con đặt hồn con trong tay Cha. Con dâng nó cho Cha với tất cả tình yêu của con. Vì Cha là Cha của con”.
  3. Tôi rất vui với cái nhìn mình được đổi mớido Chúa là tình yêu thương xót ở lại trong tôi. Tôi cảm thấy ngọt ngào được có Chúa ngự trong tôi.
  4. Tuy nhiên, có một điều tôi cũng phải nói ra ở đây, đó là sự tôi được đổi mới như vậy tuy có đem lại cho tôi niềm vui lớn, nhưng cũng đem lại cho tôi nỗi lo không nhỏ. Đó là sự Chúa báo cho tôi biết, sự đổi mới đó đòi tôi phải sẵn sàng chịu nhiều đau khổ và hy sinh. Tôi được chia sẻ sự vinh quang của Chúa Giêsu phục sinh “thì cũng phải thông phần những đau khổ của Người”(Pl 3,10).
  5. Tôi sẽ được thông phần những đau khổ của Chúa Giêsu, đó là điều tôi hết lòng cầu xin Chúa thương giúp tôi. Vì tôi biết mình rất yếu đuối.

Do vậy, tôi sẽ phải bỏ đi những ảo tưởng cho rằng tình yêu thương xót Chúa sẽ chỉ đem lại cho tôi toàn là những hoa hồng, mà không có gai.

  1. Càng ngày, tôi càng xác tín điều này: Điều quan trọng nhất trong việc sống Tin Mừng lòng thương xót Chúa là biết sống theo thánh ý Chúa.
  2. Ở đây, tôi nhớ lại những lời nghiêm khắc của Chúa Giêsu đã phán xưa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao?

Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,21-23).

  1. Những lời Chúa phán trên đây cảnh báo cho tôi phải rất tỉnh thức và cầu nguyện trong Năm Thánh Lòng thương xót Chúa.Đừng ảo tưởng cứ nhân danh mục đích làm vinh danh lòng thương xót Chúa, rồi làm những chuyện lẫy lừng, hoành tráng, coi đó như những phép lạ phi thường. Nhưng trước mặt Chúa không những tôi sẽ chẳng được Chúa công nhận là tốt, mà còn bị Chúa coi như kẻ làm tội ác. Vì sai thánh ý Chúa. Chúa không sai tôi làm những việc đó. Trong năm Thánh này, tôi phải tỉnh thức lắng nghe nhiều cảnh báo của Chúa.
  2. Tôi nghĩ là tôi có thể có những sai lầm, nhưng tôi tin Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót sẽ cứu tôi, vì tôi hết lòng tin tưởng nơi Chúa. Để được thế, tôi cần phải rất khiêm nhường, tuyệt đối trao phó mình cho Chúa. Bằng lòng chết đi cho mình, để được thuộc trọn về Chúa. Chính Người sẽ dùng tôi theo Thánh ý Người trong việc phục vụ Hội Thánh và đồng bào yêu dấu của tôi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp con biết đón nhận tình yêu thương xót Chúa, bằng lời Xin Vâng khiêm nhường, phó thác, tạ ơn và mở lòng mình biết xót thương những người khác. Dù vui, dù buồn, con tin Mẹ vẫn ở bên con.

ĐGM GB Bùi Tuần

CẢM TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

CẢM TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

Tuyết Mai

Ơn Chúa Thánh Thần nếu kể ra thì thật tình không mấy ai có thể kể ra cho hết được bởi vì Người ban ơn cho mỗi người cách đặc biệt tùy theo khả năng của người ấy nữa!. Ta có thể biết được điều này nếu trước kia ta không thể làm được gì hữu ích ngay cả cho chính cá nhân ta mà nay bởi đâu ta lại có thể làm được những điều lạ lùng như thế?. Đặc biệt hơn nữa là những khả năng ấy phải được dùng trước tiên cho sự hữu ích của linh hồn sống đời của chúng ta và của anh chị em ta. Như Chúa muốn chúng ta hết thảy phải có trách nhiệm chung với nhau là cùng đem nhau về Trời chứ không chỉ muốn lên một mình.

Còn khả năng mà làm hại cho chính linh hồn mình hay cho anh chị em mình thì đó là khả năng của sự tối tăm, của ma quỷ chúng đang cố gắng hướng dẫn chúng ta đến gần Hỏa Ngục ngày một hơn. Nên chúng ta phải thật cẩn trọng và đề phòng nhiều hơn nữa để khỏi sa chước cám dỗ và để không mất linh hồn!.

Để nghiệm ra được những ơn mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta điều cần thiết nhất là chúng ta phải luôn có sự liên lạc và liên hệ với Thiên Chúa hay với Mẹ Chúa là Đức Trinh Nữ Maria qua chuỗi Mân Côi của Mẹ. Điều rõ ràng để cảm nhận nhất vẫn là sự Bình An mà Người ban cho chúng ta, từ đó ta sẽ nhận thấy rất rõ ràng là Người muốn chúng ta làm những công việc gì cho Người. Rồi thì Người sẽ ban cho chúng ta khí cụ để chúng ta có thể làm được những gì Người muốn trên khả năng dư thừa mà trước đây chúng ta chưa bao giờ có khả năng để làm.

Cảm tạ Chúa nhất vẫn là sự bình an mà ngày qua ngày chúng ta nhận được từ Thiên Chúa ban cho chúng ta rất nhưng không. Cảm nhận ấy thật rõ ràng hơn nữa khi chúng ta biết dâng lên Người tất cả mọi lo lắng, muộn phiền, buồn giận, và sợ sệt. Biết nhường nhịn, khiêm nhường, thông cảm, hy sinh, bác ái, và tha thứ cho người cách dễ dàng hơn.

Biết phân tích những lời chê bai của người. Tại sao họ lại có thể nói vậy hoặc họ muốn mình đau buồn? Khi ta biết rằng vì họ chưa từng biết cách đối xử với người cách lịch sự bao giờ và chưa từng có một ngày đến trường. Nhờ ơn Chúa ta sẽ tự biết sửa đổi chính mình và sống trong hòa thuận với anh chị em. Biết nhìn nhận cái sai của ta và xin lỗi ngay. Biết cách sửa đổi người trong lời ăn tiếng nói thật nhã nhặn và thật tử tế của ta, mà không làm người xấu hổ hay bị mất mặt cách không cần thiết.

Người được Chúa thay đổi thì từ thường dân cho đến mọi phẩm trật trong Giáo Hội, không ai còn có lòng tự cao tự đại trong họ nữa. Điều này cũng cho ta thấy rất rõ ai có ơn Chúa hay không. Bởi nên giống Chúa Giêsu và bước theo con đường của Chúa đi mà không có lòng khiêm hạ, không có tinh thần sống khó nghèo, sống bác ái, biết thông cảm, dễ tha thứ, hăng hái trong công việc làm hy sinh, hay muốn được phục vụ anh chị em mình, thì không chóng thì chầy cũng làm ô danh Thiên Chúa và bị trục xuất khỏi cộng đoàn cách ngoài y muốn của ta. Nên mới có câu “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu” là vậy, dù là ta theo đạo nào.

Con người trần thế thì không ai xa lạ trong vấn đề muốn cho được nổi nang, giầu có, tiếng tăm, và càng thâu vào ngân hàng nhiều bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu bởi ai cũng có cái túi tham không đáy ấy!. Nhưng với ơn Chúa Thánh Thần thì như một chiếc đũa thần giáng trên đầu chúng ta thì ngay lập tức ta không còn muốn hay giữ những của cải mà nguyên thủy không phải của ta ấy!.

Điều này thì người trần gian khó có ai có thể cắt nghĩa cho được là tại sao một người từ giầu có ăn chơi trác táng nay lại muốn bỏ tất cả mà đi theo Chúa?. Có thể vì sự cầu thay nguyện giúp của ai đó thật mãnh liệt mà Chúa Thánh Thần không thể từ chối lời cầu nguyện ấy chăng như cha mẹ của ta hay chính là của ta rất liên lỷ rất tha thiết?. Như chuyện thay đổi khá đặc biệt cuả Thánh Phaolô trở lại, Thánh Phanxico Assasi khó nghèo của chúng ta và rất nhiều những Thánh nam nữ khác. Hoặc đó là duyên tiền định mà Thiên Chúa muốn chúng ta là … hay trở thành người khá hơn ở ngay giai đoạn đời đó, phải được sửa đổi hay phải được thực thi ấy?.

Điều thay đổi con người toàn diện của chúng ta thật không thể cắt nghĩa cho xuông mà chỉ có thể hiểu rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta được sửa đổi như thế là do Thiên Thần Thiên Chúa muốn cho chúng ta đóng góp với Người một bàn tay?. Bởi người thì đông mà nhân sự và nhân tài thì thiếu!?. Như “lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” chẳng hạn!. Điều này cũng cho chúng ta hiểu rằng sự gì Thiên Chúa muốn, thì Người sẽ làm. Vả có phải đó là điều may mắn lắm thay khi Chúa cần đến chúng ta?. Thiên Chúa luôn muốn trong mọi thời đại phải có những con người dâng hiến trọn vẹn cho Chúa để nhu cầu làm cho thế giới biết Danh Thánh Chúa và tình yêu của Người ngày càng được lan rộng và đi xa tới mãi tận cuối chân trời?.

Con người chúng ta bình thường thì ai cũng yếu đuối và rất làm biếng khi phải làm gì cho ai hay ngay cả làm cho chính mình. Nhưng khi ta được ơn Chúa Thánh Thần tự nhiên con người của ta biến đổi cách lạ lùng, cách ngạc nhiên mà ai cũng có thể nhận biết. Như cười với người nhiều hơn. Vui tươi cách rất tự nhiên, nhiều sinh lực dù thiếu ăn thiếu ngủ, yêu người và hăng say trong những công tác thiện nguyện, luôn nghĩ cách giúp người trong khả năng. Rõ nhất là biết chấp nhận đời dù đời có đối xử với ta không đẹp, v.v….. Luôn biết cảm tạ Thiên Chúa vì biết rằng Người sẽ định liệu tất cả, cho ta những gì là tốt đẹp và thích hợp với ta nhất. Cho ta chịu được những thích ứng thật bất ngờ với người, với đời, và với công việc chưa từng bao giờ biết làm hay ứng xử bao giờ.

Do đó ai có được ơn Chúa Thánh Thần chúng ta phải luôn cảm tạ Người và an tâm với những gì Người ban, nhất là an tâm cho linh hồn sống đời của ta, vì Người luôn gìn giữ và phù trợ cho ta luôn mãi. Chúc tụng Thiên Chúa của chúng ta đến muôn đời, vì không có Người trong cuộc đời thì chúng ta chẳng làm được điều chi cho có hữu ích mà không là thành phần vô dụng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Amen.

** Xin bấm vào mã số để hát theo:
http://www.youtube.com/watch?v=2tZRdg0FdNw
(Tình Yêu Chúa Thánh Thần)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
(01-17-13)

CHẲNG VỊ THÁNH NÀO KHÔNG CÓ MỘT QUÁ KHỨ, CŨNG CHẲNG TỘI NHÂN NÀO KHÔNG CÓ MỘT TƯƠNG LAI

CHẲNG VỊ THÁNH NÀO KHÔNG CÓ MỘT QUÁ KHỨ, CŨNG CHẲNG TỘI NHÂN NÀO KHÔNG CÓ MỘT TƯƠNG LAI

 Vũ Đức Anh Phương, SJ

Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ ba, ngày 19.01, tại nhà nguyện thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ rằng: “Chẳng vị thánh nào không có một quá khứ, cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai.  Thiên Chúa không bao giờ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài mà luôn nhìn sâu vào tận tâm tư cõi lòng của con người.”

Khởi đi từ bài đọc một, kể lại việc Thiên Chúa đã tuyển chọn cậu bé Đa-vít để sau này trở thành vua của Ít-ra-en, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Ngay cả những vị thánh, trong cuộc đời của mình, cũng đã gặp phải những cám dỗ và tội lỗi, giống như cuộc đời của vua Đa-vít vậy.

Thiên Chúa đã gạt bỏ vua Sa-un vì vua có một tâm hồn đóng kín, chiều theo ý dân chúng hơn là vâng phục Thiên Chúa.  Thiên Chúa đã quyết định chọn cho dân Ngài một vị vua khác.

Thiên Chúa đã chọn Đa-vít.  Sự chọn lựa ấy nếu dựa theo tiêu chuẩn của con người sẽ chẳng thể nào hiểu được, vì Đa-vít chỉ là một đứa trẻ và lại còn là đứa con nhỏ nhất của ông Gie-sê.  Nhưng Thiên Chúa đã phán rất rõ ràng với tiên tri Sa-mu-en rằng Ngài không xét theo hình dáng bên ngoài và những tiêu chuẩn theo kiểu người phàm.  Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng.

Chúng ta thường bị chi phối bởi dáng vẻ bề ngoài và tự cho phép chúng ta theo đuổi những dáng vẻ ấy.  Nhưng Thiên Chúa là Đấng biết sự thật và những điều kín ẩn bên trong.  Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng Thiên Chúa không chọn ai trong số họ.  Sa-mu-en cảm thấy khó khăn, bối rối và nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này.  Các con ông có mặt đầy đủ chưa?”  Ông Gie-sê trả lời: Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.”  Trước mắt người đời, đứa trẻ này không được tính, không đáng để quan tâm đến.

Đứa bé chẳng có gì khiến người ta phải lưu ý, nhưng Thiên Chúa đã chọn cậu và truyền cho Sa-mu-en xức dầu tấn phong cậu.  Và Thần Khí Đức Chúa ở với Đa-vít từ ngày đó trở đi.  Trọn cuộc đời của Đa-vít là cuộc đời của một người được Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa tuyển chọn.

Nhưng ngay lúc đó, Thiên Chúa có biến cậu Đa-vít thành một vị thánh không?  Câu trả lời là không.  Mặc dù vua Đa-vít là một thánh vương, điều này là sự thật, nhưng ngài chỉ trở thành thánh sau khi sống một thời gian lâu dài.  Trong cuộc sống đó, ngài cũng phạm tội, cũng vướng mắc bao lỗi lầm.

Vua Đa-vít là một vị thánh và cũng là một tội nhân.  Ngài là người có khả năng lãnh đạo con cái Ít-ra-en thống nhất đất nước, nhưng lại yếu đuối để rơi vào cám dỗ.  Không chỉ phạm tội, ngài còn là kẻ sát nhân.  Để che dấu ham muốn, dục vọng của mình (tội ngoại tình), vua Đa-vít đã mưu sát người khác.  Khi Thiên Chúa sai tiên tri Na-than đến chỉ cho vua thấy tội lỗi mà vua đã phạm – vì quả thực ngài không ý thức hết sự tàn ác, man rợ trong thủ đoạn của mình – vua Đa-vít đã ăn năn thú tội và nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa.  Vua Đa-vít đã không lợi dụng Thiên Chúa cho những tính toán riêng tư của mình.  Khi bị truy đuổi buộc phải chạy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, ngài đã gởi trả lại Hòm Bia Giao Ước, vì không muốn dùng Thiên Chúa như vật thế thân cho mình.  Và sau này, khi bị xúc phạm, ngài cũng khiêm nhường thú nhận: “Tôi đáng bị như vậy.”

Vua Đa-vít cũng thật hào hiệp và trượng nghĩa.  Có thể hạ sát vua Sa-un nhiều lần, nhưng ngài đã không ra tay.  Ngài là một thánh vương và cũng là một đại tội đồ, nhưng đã ăn năn sám hối.  Tôi thực sự được đánh động khi nhìn ngắm cuộc đời của con người này.  Và cuộc đời ấy cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ về chính cuộc sống của mình.  Tất cả chúng ta đã được Thiên Chúa tuyển chọn qua Bí Tích Thánh Tẩy, để được thuộc về Đoàn Dân Chúa, được trở nên những vị thánh.  Tất cả chúng ta đã được thánh hiến nhờ Đức Giêsu Kitô, để trở nên tinh tuyền, thánh thiện.  Khi đọc lại cuộc đời của vua Đa-vít từ khi còn là một chàng trai trẻ cho đến lúc tuổi già, chúng ta nhận thấy ngài đã làm nhiều điều tốt, nhưng cũng có những điều chẳng tốt lành gì.  Điều ấy khiến tôi xác tín rằng, trong hành trình của người Kitô hữu, cuộc hành trình mà Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đảm đương lấy, chẳng vị thánh nào không có một quá khứ và cũng chẳng tội nhân nào không có một tương lai.”

 Vũ Đức Anh Phương, SJ

Nguồn: R. Vatican