XIN ĐỂ THÊM MỘT THỜI HẠN

XIN ĐỂ THÊM MỘT THỜI HẠN

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Nhìn lên trần nhà đầy mạng nhện đeo bám, càng tối càng không thấy, nhưng khi nhìn gần, nhìn có ánh sáng soi chiếu sẽ thấy rõ cả những nhện con, những mạng lưới chằng chịt.  Tâm hồn con người cũng như thế, sống trong bóng tối thì không thấy mình tội lỗi, trái lại khi sống trong ánh sáng lại biết mình là tội nhân.

Môisen, có một lần lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ: bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi.  Trước Thiên Chúa thánh thiện, Môisen thấy mình nhỏ bé, tội lỗi (Xh. 3, 1-5).

Phêrô, trước mẻ cá lạ lùng cũng thấy mình yếu hèn, bất xứng, liền nói với Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi (Lc 5, 8).

Trước Thiên Chúa là Đấng Thánh, Chí Thánh, Ngàn Trùng Chí Thánh, con người chỉ là tội nhân cần đến lòng thương xót của Người.  Vì thế mỗi người luôn cần đến sám hối và hoán cải.

Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể câu chuyện: Nhân sự kiện hai vụ án Philatô giết người vô tội và tháp Silôa đổ xuống đè chết 18 người, Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13:3-5).

Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiên nhân để lại.  Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại.  Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó.  Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân.  Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp.  Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ.  Thấy thế Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ.  Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng.  Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất.  Vụ này cũng như vụ việc cầu Văn Thánh rạn nứt hay các công trình xây cất hiện nay bị xuống cấp mau chóng là do bớt xén vật liệu, làm dối làm ẩu.

Những tai họa đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác.  Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo.  Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn.  Lúc sống yên lành là lúc cần hoán cải.  Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn.  Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang.  Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái. Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả.  Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai.  Thế nhưng họ lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm.  Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?  Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.

Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ.  Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn.  Bỗng dưng có tiếng gõ cửa.  Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya.  Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẩy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân.  Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẻ trao cho hành khách.  Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ.  Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm.  Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn.  Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa.  Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang.  Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân.  Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngủ trên tuyết.  Nghe đến đây ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ.  Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.  Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nỗi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ.  Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm sẽ mãi mãi không được tha thứ.

Đó cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn cây vả.  Mục đích cây vả là sinh trái.  Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt.  Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.  Chúa mời gọi thời gian sám hối hoán cải.  Lời mời gọi sám hối không chỉ là lời mời gọi xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt.  Bởi đó, việc sám hối liên hệ ràng buộc mọi người.  Ai cũng phải làm lành lánh dữ.  Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng cỏn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.

Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình.  Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.

Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy.”  Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.  Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.  Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa.”  Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh: “Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái.”  Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi.”  Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi: đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.  Ðức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.

Mùa chay là mùa ân sủng.  Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái.  Mỗi Mùa Chay, Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức.  Mỗi người không biết mình sẽ ra đi về với Chúa khi nào.  Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.  Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa.  Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó?

LM Giuse Nguyễn Hữu An

TÂM SỰ MÙA CHAY

TÂM SỰ MÙA CHAY

 Trầm Thiên Thu

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng tự vấn: “Tôi là ai mà còn trần gian quá?”  Vâng, tôi chẳng là gì, chỉ là hư vô, có chăng chỉ là một “hạt bụi” nhỏ nhất mà tôi đã làm xốn mắt Thiên Chúa!

Gói thuốc lá nằm trên bàn viết trước mặt tôi.  Những đầu ngón tay ám vàng.  Đã bao lần hứa với lòng mình và người thân mà tôi vẫn chưa dứt bỏ hẳn được, dù vẫn biết “hút thuốc có hại cho sức khỏe.”

Chiều xuống mang đầy sắc tím – sắc màu sám hối.  Chợt nhớ câu: “Hãy xé lòng, đừng xé áo” (Ge 2:13).  Tiếng Chúa hóa thành tiếng lòng cứ mãi thôi thúc tôi không nguôi.  Tôi không thể không trở về gặp chính mình trước khi gặp Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá.

Nếu ăn chay là kiêng thịt và nhịn đói thì quá dễ, vì tôi thường xuyên làm việc đó, dù có thể chỉ miễn cưỡng làm theo hoàn cảnh “ép” tôi làm một cách vô thức.

Nếu ăn chay là “giữ miệng,” tôi cũng không phải chiến đấu nhiều, vì cả ngày tôi chỉ “trò chuyện” với cây bút và trang giấy.  Vả lại, tôi thường chẳng muốn tranh chấp gì với bất kỳ ai – dù là điều nhỏ.

Nếu ăn chay là giao hòa với tha nhân trước khi giao hòa với Thiên Chúa, đồng thời biết rộng lượng hơn.  Điều này cũng chẳng khó đối với tôi.  Biết phận mình thế nào, tôi không phiền gì ai – dù nhìn bề ngoài “nghiêm”, và thường “bị” người ta cho tôi là… “khó tính”!

Nếu ăn chay là hãm dẹp bớt đam mê thì đối với tôi lại nan giải.  Thế mới hay “khi ta mạnh lại là lúc ta yếu.”  Tôi cứ tự biện hộ và chiều chuộng mình vô cớ nên hút thuốc lá nhiều đến nỗi đã trở thành thói quen, hút theo phản xạ – vui cũng hút, buồn cũng hút, no cũng hút, đói cũng hút, rảnh cũng hút, bận cũng hút, ngày cũng hút, đêm cũng hút, hút theo kiểu nói “điếu này vừa hạ rộng, điếu kia đã động quan” – hút quá nhiều và trở thành cố tật!

Ngày xưa, tôi có dạy lớp tình thương.  Thấy họ có loại “cao dán cai thuốc” và tôi đã xin họ.  Họ nói loại này dán vào bất kỳ nơi nào trên cơ thể, mỗi ngày một miếng, dùng bảy ngày thì sẽ “sợ” thuốc lá – nghĩa là khi hút thuốc hoặc ngửi mùi thuốc thì “người cai” sẽ cảm thấy khó chịu hoặc buồn nôn gì đó.  Sau một tuần “cai nghiện”, tôi càng thèm (vì “nhịn” lâu), tôi mua MỘT điếu duy nhất và… thử hút xem sao. Rít một hơi, rồi hai hơi, ba hơi… không thấy phản ứng gì, thế là tôi “an tâm” hút tiếp vô tư.  Thật tồi tệ! Bỏ một thói quen (dù nhỏ) cũng không dễ chút nào.

Một lần nữa Mùa Chay lại về.  Tôi mở lại “trang lòng” mình để gột rửa.  Con người tưởng là mạnh mẽ mà quá yếu đuối.  Thật đúng như Đại đế Napoléon đã nói: “Chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.”  Với Ơn Chúa, tôi hy vọng có thể dứt bỏ thêm một vài tật xấu riêng nào đó để có thể “giữ chay” theo đúng Tôn Ý Thiên Chúa.  Thoát khỏi “xiềng xích” của một thói xấu nào đó, dù chỉ là thói xấu bình thường, dù không hề vi phạm Luật Chúa và Luật Giáo hội, người ta cũng vẫn cảm thấy “nhẹ mình.”

Xin tẩy rửa tâm hồn con, lạy Chúa, Đấng thương con trọn vẹn từ thuở hồng hoang đến muôn đời, xin cho con cùng CHẾT và được SỐNG LẠI với Ngài.  Con thâm tín rằng tội lỗi con dù có thắm như son và đỏ như máu, ân tình Ngài vẫn tẩy sạch con nên trắng ngần như bông, như tuyết.  Con thật hạnh phúc vì có một “Thiên Chúa là tình yêu” (Ga 4:8).

 Trầm Thiên Thu

******************************

Chúa bị đóng đinh và sống lại,

Xin dạy chúng con đương đầu với những đấu tranh hằng ngày,

để chúng con sống trọn vẹn hơn.

 

Chúa đã đón nhận những thất bại trong đời người,

như nỗi đau khổ trên thập giá,

với lòng khiêm tốn và nhẫn nại,

xin cho chúng con biết đón nhận

những nhọc nhằn và đấu tranh mỗi ngày

như những dịp để lớn lên và giống Chúa hơn.

 Xin cho chúng con biết đương đầu với những thử thách đó

với lòng kiên nhẫn và bạo dạn,

vì được Chúa nâng đỡ.

 Xin cho chúng con hiểu rằng

chúng con chỉ sống trọn vẹn

khi chấp nhận từ bỏ mình luôn luôn,

với những thèm muốn ích kỷ.

Vì chỉ khi chết với Chúa,

chúng con mới sống lại với Chúa.

 Từ nay, xin cho chúng con đừng bao giờ đau khổ và khóc than

đến mức quên mừng rỡ vì Chúa đã sống lại !

Chúa là mặt trời rực rỡ của tình yêu Chúa Cha,

Chúa là hi vọng hạnh phúc muôn đời,

Chúa là ngọn lửa tình yêu sáng rực.

Ước gì niềm vui của Chúa Giêsu là sức mạnh của chúng ta

Và liên kết chúng ta trong sự bình an, hiệp nhất và tình thương.  Amen.

 Hiền Hòa chuyển dịch

CHÚA KHÔNG ƯA NHỮNG MÊ TÍN DỊ ĐOAN

CHÚA KHÔNG ƯA NHỮNG MÊ TÍN DỊ ĐOAN

(Sống Mùa Chay)

Tuyết Mai

Từ khi Chúa Giêsu đi Rao Giảng Tin Mừng về Nước Trời thì không một lúc nào mà chúng ta nghe thấy Chúa Giêsu lại giảng Nước Trời là điều giả dối, không có thật hay tin vào chính Ngài là tin vào mê tín dị đoan mà không ngược lại là những hành vi tin vào mê tín dị đoan là do chúng ma quỷ xúi biểu chúng ta làm vậy.

Bởi nếu chúng ta tin vào mê tín dị đoan có nghĩa là chúng ta không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng quyền năng vô song có thể làm nên tất cả, hủy diệt tất cả và những điều thuộc về chúng quỷ Satan.   Mà hiện nay nhà thờ Satan đã dần mọc lên cách công khai để chiêu dụ nhiều người nhẹ dạ đến theo thờ chúng.

Chúng ta con cái Chúa hãy thành thật và tự kiểm điểm những hành vi bất xứng của mình với Thiên Chúa xem là chúng ta thường ngày đã tin vào những mê tín dị đoan đến bao nhiêu phần trăm và tin tuyệt đối vào Thiên Chúa bao nhiêu phần trăm? Và số còn lại đi hai hàng là bao nhiêu phần trăm?.

Bao nhiêu người hiện đang tin vào bói toán, Tử Vi, coi Phong Thủy hay thỉnh thoảng chơi Cầu Cơ vào ban đêm chỉ để muốn biết rằng khi nào thì chúng ta bỗng chốc giầu có mà không cần dùng đến tài năng, khả năng cùng sức khoẻ mà Chúa đã ban cho … Qua mua vé số, đánh đề, cờ bạc và mọi hình thức của đỏ đen?.

Ai còn nhớ Chúa đã dẹp tan hình thức cờ bạc, đổi tiền, gian xảo ở nơi thờ phượng Chúa như là Đền Thờ theo nghĩa xác thực đã được diễn tả trong Phúc Âm? Nhưng có phải nghĩa bóng thì Nơi thờ phượng Chúa là ngay trong tâm hồn của chúng ta?.   Vì Chúa dạy Đền Thờ của Chúa là ở ngay chính trong tâm hồn và thân xác không phạm tội của chúng ta.

Nên Mùa Chay là mùa chúng ta hãy cố gắng dành thời giờ mà liên kết với Thiên Chúa với Đức Maria nhiều hơn, đến Tòa Giải Tội để xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cùng ăn năn hối cải để được Chúa thương mà cứu vớt linh hồn của chúng ta, nhất là trong giờ lâm tử, trong phút thập tử nhất sinh, chết bất đắc kỳ tử.

Vì chả ai mãi sống đời ở Trần Gian này mà hằng ngày chúng ta cứ phải bám vào những của chóng qua ấy.   Những của mà khi thân xác chúng ta không còn thì của ấy sẽ vào tay người khác tiêu xài, vung vãi, phung phí và rồi nó cứ thế hết vào tay người này đến tay người khác.   Bởi thế mà Hỏa Ngục có vô số kể con người khi còn sống vì tham lam tích góp của cải đã phải mất linh hồn sống đời rất quý và rất vô giá … Thì quả thật là vô phúc lắm thay!!!.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

19 tháng 2, 2016

CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

(CN II Mùa Chay, Năm C)

Tuyết Mai

Ôi loài người tội lỗi của chúng ta thì sao có thể tưởng tượng được những hình ảnh chợt biến đổi, biến dạng của Chúa Giêsu qua một hình ảnh tuyệt vời mà trên Thế Gian chưa từng có ai có được diễm phúc để thấy được.   Mà chỉ có Chúa muốn cho ai thấy thì người ấy mới thấy được mà thôi dù rằng thấy bằng con mắt thịt như ba tông đồ của Chúa là Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm của ngày hôm nay.   Hay bằng con mắt Đức Tin mà Thiên Chúa đã biến đổi được tâm hồn của rất nhiều người trong chúng ta.

Và đấy mới thật sự là hạnh phúc Thiên Chúa dành ban cho loài người vì Người đã quá đỗi yêu thương nhân loại mà củng cố thêm Niềm Tin cùng Hy Vọng tràn đầy cho chúng ta thấy được hình ảnh cùng dung mạo sáng ngời qua Chúa Giêsu; thật sự là Con Thiên Chúa.   Từ đó chúng ta có thể hình dung thêm được Nước Trời.   Hình dung thêm được cuộc sống ở Đời Sau trên Thiên Quốc luôn là sáng láng, thánh thiện, trọn lành, đẹp đẽ, tuyệt Mỹ và không hạnh phúc gì bằng.

Quả Chúa Giêsu đã hé mở một tia ánh sáng rực rỡ, sáng ngời, trong luồng ánh sáng đã làm cho ba ông tông đồ không bị chói lòa cái nhìn của con mắt thịt.   Nhưng các ông đã cảm nhận được một thứ ánh sáng rất dịu êm mà tâm hồn cứ muốn được mãi đắm chìm trong luồng ánh sáng ấy.   Do đó mà các ông đã không biết mình đã nói gì?.   Nhưng khi luồng ánh sáng ấy đã biến đi và nghe tiếng Chúa Giêsu nói thì các ông mới hoàn hồn và tỉnh lại giây phút của hiện tại.   Vâng lời Chúa Giêsu các ông đã giữ kín trong lòng và đã không thuật lại điều thấy ấy cho ai hay biết.

Còn chúng ta là con người tội lỗi nhưng đã biết ăn năn, hối cải và Trở Lại cùng Thiên Chúa thì được Người biến đổi ở dạng nào? Có phải Người chọn mạc khải cho chúng ta thấy được qua Con Mắt Đức Tin hay không? Hẳn là phải thế vì chúng ta đã cảm nhận được sự thay đổi nên tốt lành trong ánh mắt nhìn, biết cảm thương, biết chia sẻ cho anh chị em khổ nghèo đang sống lang thang không cửa không nhà, không người thân thương để cảm thông và để an ủi họ!? … Từ tấm bánh, quần áo, thuốc men và những lời an ủi hay khích lệ thật lòng từ trái tim nhân ái.

Ở mọi thời đại đã cho chúng ta thấy hình ảnh Cỏ lùng nhiều hơn Lúa nhưng Thiên Chúa Người vẫn luôn có hy vọng trên chúng ta vì nếu không thì Thế Gian này đã bị sụp đổ và bị nổ tung từ lâu lắm rồi.    Nhưng chỉ cần một tấm lòng mở rộng như cậu bé tốt lành kia đã đem 2 con cá và 5 ổ bánh mì lại cho Chúa để Chúa Giêsu có thể làm phép lạ mà nuôi 5000 ngàn đàn ông, chưa kể số đàn bà và con nít.   Đã thế các tông đồ lại còn lượm lại được 12 thúng đầy những khúc bánh mì vụn.

Hay chuyện của bà góa nghèo có tấm lòng vàng đã bỏ hết 2 đồng xu mà bà có vào thùng tiền, được Chúa Giêsu khen thưởng vì là số tiền có thể nuôi bà sống được 1 ngày nhưng hẳn bà tin rằng Thiên Chúa sẽ luôn luôn nuôi cho bà được đầy đủ.   Do thế mà bà luôn sống trong sự tin tưởng, phó thác trong bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa là Đấng tối cao và là duy nhất.

Bài Phúc Âm của tuần này Thiên Chúa đã hé mở cho chúng ta thấy một chút quyền uy, lạ lùng, chói ngời và sáng tỏa như phép lạ mà Chúa muốn biến đổi trong tâm hồn tăm tối của chúng ta.   Là có mắt nhìn hướng về những điều thiện cùng việc làm tốt lành để làm cho gia đình chúng ta thay đổi.   Giúp xã hội nên tốt lành và như một cây nến cùng những cây nến khác từ từ biến thành cây đuốc sáng, bùng to lên như lửa trại hay trở thành ngọn Hải Đăng chiếu rọi vào bóng đêm mà nhiều người đang đắm chìm trong biển đời tội lỗi biết đâu là bến bờ của Yêu Thương mà quay trở về để tìm lại được sự sống sung mãn cùng người Mục Tử là Chúa Giêsu và Ràn của Ngài là Nước Trời, Nơi có sự sống muôn muôn đời bên ba ngôi Thiên Chúa.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

21 tháng 2, 2016

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Kitô. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Thánh Lễ Tiệc Ly chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh.

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

  1. Mùa Chay là gì ? Mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày, bắt đầu và kết thúc vào ngày nào ?

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Kitô. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Thánh Lễ Tiệc Ly chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh.

  1. Kinh Thánh cho ta biết con số 40 ám chỉ những biến cố lớn nào ?

Con số 40 ( ám chỉ ) gợi nhớ 40 năm dân Do Thái Vượt Qua trong sa mạc tiến về Đất Hứa (Ds 14, 33; 32, 13), lụt Hồng Thủy kéo dài 40 đêm ngày (St 7) và cuộc chay tịnh 40 đêm ngày của Chúa Kitô trong rừng vắng trước khi rao giảng ơn cứu độ (Mt 4, 2; Lc 4, 1 – 2).Các Giáo Phụ cũng coi thời gian giữ chay tương tự thời gian bốn mươi ngày ông Môsê ở trên núi Xinai (Xh 34, 28), hoặc 40 ngày ông Êlia chạy trốn ở núi Khorép (1V 19, )…

  1. Mùa Chay có mấy đặc tính ?

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng Lễ Vượt Qua của Đức Kitô, và nhất là nhớ lại hoặc dọn mình lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy.

Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị các tín hữu cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng sự nhiệt thành nghe Lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày.

  1. Mùa Chay mang ý nghĩa gì ?

Mùa Chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh kêu gọi mọi người quay về với Chúa, thanh tẩy tâm hồn, từ bỏ các tật xấu, hy sinh hãm mình và làm việc bác ái.

Mùa Chay cũng là thời gian huấn luyện Đức Tin của các Kitô hữu cho thêm vững mạnh, và sâu xa hơn khi nhớ lại Bí Tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận.

Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị cho anh chị em Dự Tòng đón nhận sự sống thiêng liêng nhờ việc sống tinh thần của Bí Tích Thánh Tẩy.

  1. Chủ đề Sứ Điệp Mùa Chay năm 2014 của Đức Thánh Cha là gì ?

Chủ đề của Sứ điệp trích từ thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô: “Người đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta được giàu có nhờ cái nghèo của Người” (x. 2 Cr 8,9).

  1. Vì sao ĐTC chọn chủ đề này?

Vì đây là chủ đề yêu thích của Đức Thánh Cha Phanxicô; ngay từ khi khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng, ngàiđã luôn nhấn mạnh đến chiều kích này của đời sống Kitô hữu.

  1. Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là gì ?

Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là: sám hối, ăn chay hãm mình, cầu nguyện và làm các việc bác ái.

  1. Sám hối là gì ?

Sám hối là can đảm và khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm mình đã phạm.

  1. Việc chay tịnh giúp con người ra sao ?

Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì chính lúc không sử dụng lương thực Chúa ban, con người mới cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình. Hơn nữa, ăn chay là muốn bày tỏ cùng Thiên Chúa rằng: Nếu không có Người, chúng ta không thể làm gì được; và qua việc thực lòng nhìn nhận tính cách hư vô của mình, con người khẩn cầu Chúa tha thứ.

  1. Theo luật HT, đến tuổi nào thì buộc phải giữ chay và kiêng thịt ?

Theo luật Hội Thánh, mọi người từ tuổi thành niên (tức là 18 tuổi trọn; GL 97) cho đến khi bắt đầu 60 tuổi thì buộc phải giữ chay (GL 125 ). Còn luật kiêng thịt buộc những người từ 14 tuổi trọn trở lên.

  1. Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào những ngày nào ?

Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào hai ngày Thứ Tư Lễ Tro và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (x. GL 125). Việc chay tịnh của Hội Thánh vào hai ngày này nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi và đó cũng là một sự chuẩn bị để mừng lễ Phục Sinh.

  1. Phụng Vụ ngày thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho tín hữu những gì ?

Phụng Vụ ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho tín hữu ý thức về thân phận thụ tạo tội lỗi của mình. Khi nhận tro rắc lên đầu, tín hữu được nhắc nhớ: “hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”.

  1. Tại sao CN thứ VI Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật Lễ Lá ?

Chúa Nhật bắt đầu Tuần Thánh gọi là Chúa Nhật Lễ Lá, vì có cuộc kiệu lá để kỷ niệm việc Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành Thánh Giêrusalem để hoàn tất Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Tục lệ này khởi đầu tại Giêrusalem vào cuối thế kỷ thứ IV.

  1. Nghi thức làm phép lá và rước lá nhắc nhở chúng ta điều gì ?

Nghi thức làm phép lá và rước lá nêu cao vương quyền của Đức Kitô, đồng thời để giúp chúng ta sống lại cảnh tượng Chúa Kitô khải hoàn tiến vào Giêrusalem. Người muốn tỏ uy quyền và vinh quang của Người để chúng ta bền vững, tin tưởng và trung thành với Người.

  1. Tuần Thánh là gì ?

Tuần Thánh là tuần lễ chủ yếu của Năm Phụng Vụ, bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Chúa Nhật Phục Sinh.

  1. Trong tuần Thánh, GH cử hành những cuộc tưởng niệm nào ?

Trong Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành cách đặc biệt hơn các biến cố trong những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tuần lễ này, Tam Nhật Vượt Qua là những ngày quan trọng nhất.

  1. Hằng năm, người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để làm gì ?

Hằng năm người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để tưởng nhớ lại biến cố Vượt Qua Biển Đỏ mà ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và nhắc nhở họ phải sống xứng đáng là dân riêng của Chúa.

  1. Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua với mục đích nào ?

Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua để cho ta thấy trước và sống trước những thực tại của ngày cánh chung, ngày mà Chúa Kitô sẽ tập hợp tất cả chúng ta lại trong Nước của Cha Người. Mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu đã khơi mào và bảo đảm cho ta được hưởng ngày hồng phúc ấy.

Hơn nữa, Hội Thánh dùng Tam Nhật Vượt Qua để đón nhận những con cái mới được sinh ra trong ân sủng, để giao hòa những hối nhân và canh tân đời sống những người đã được thanh tẩy.

  1. Tam Nhật Vượt Qua có ý nghĩa gì đối với Kitô hữu ?

Tham dự Tam Nhật Vượt Qua, tín hữu được sống với Đức Kitô trong bữa Tiệc Ly, theo Người lên Núi Sọ, bước vào chốn an nghỉ của Người và chiêm ngắm Người Phục Sinh vinh hiển.

  1. Tại sao Tam Nhật Vượt Qua lại là trung tâm điểm của Phụng Vụ Kitô giáo ?

Tam Nhật Vượt Qua là trung tâm điểm của Phụng Vụ Kitô giáo, bởi vì tất cả nền Phụng Vụ của Hội Thánh đều phát xuất từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô: khổ nạn, chịu chết và phục sinh. Chúa Phục Sinh là ngày lễ Mẹ của mọi Chúa Nhật trong năm; Thánh Lễ nào cũng đều tưởng niệm và tái diễn công cuộc Vượt Qua của Đức Kitô.

  1. Trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh cử hành những nghi thức long trọng nào ?

Thánh Lễ Truyền Dầu được cử hành vào ban sáng do Đức Giám Mục Giáo Phận chủ tế cùng với Linh Mục đoàn để làm phép dầu Bệnh Nhân, dầu Dự Tòng và để thánh hiến Dầu Thánh.Thánh Lễ tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu được cử hành ban chiều để nhắc nhớ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Thánh Lễ này khai mạc Tam Nhật Vượt Qua.

  1. Phụng Vụ chiều thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh tưởng niệm những biến cố gì liên quan đến Chúa Giêsu ?

Trước hết là tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, việc Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục (x. Mt 26, 26-29), cũng như nghi thức rửa chân, biểu tượng tình yêu phục vụ của Đức Kitô (x.Ga 13,1 -20).

  1. Khi cử hành nghi thức rửa chân, Hội Thánh muốn nhắc chúng ta điều gì ?

Chính vì yêu thương mà Chúa Giêsu đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ, như đầy tớ rửa chân cho chủ. Qua nghi thức này, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta phải noi gương Đức Kitô trong tinh thần phục vụ: “Phục vụ vì yêu thương”.

  1. Kinh Thánh cho ta biết tâm trạng của Chúa Giêsu trong vườn Ghếtxêmani thế nào ?

Trong vườn Ghếtsêmani, Chúa Giêsu cảm thấy sợ sệt, buồn rầu và xao xuyến. Người đã xin Chúa Cha cho khỏi qua giờ đau khổ, khỏi phải uống chén này. Tuy nhiên, dầu sợ hãi, Người cũng sẵn sàng chết, nếu đó là Thánh ý Chúa Cha: “nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39; Mc 14, 35 – 36; Lc 22, 42 – 44).

  1. Chén mà Chúa Giêsu xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống ám chỉ điều gì ?

Chén ở đây ám chỉ những thử thách và những đau khổ mà Đức Giêsu sắp phải chịu. Đó chính là cuộc thương khó của Ngài.

  1. Trọng tâm của việc cử hành chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh là gì ? Tại sao ?

Trọng tâm của việc cử hành chiều thứ Sáu Tuần Thánh là nghi thức suy tôn và kính thờ Thánh Giá, vì nhờ Thánh Giá mà ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

  1. Trên Thập Giá, Đức Giêsu đã nói những lời nào ?

Lời thứ nhất: Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha xin Người tha cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34);
Lời thứ hai:Đức Giêsu chấp nhận lời xin của tên trộm bị đóng đanh cùng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc, 23, 43);

Lời thứ ba: Đức Giêsu trao gửi Thánh Gioan cho Đức Mẹ: “Thưa Bà, đây là Con Bà” (Ga 19, 26);

Lời thứ tư:Đức Giêsu trao gửi Đức Mẹ cho Thánh Gioan: “Đây là Mẹ của anh” (Ga 19, 27);

Lời thứ năm: Đức Giêsu than thở với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con !” (Mt 27, 46);

Lời thứ sáu:Đức Giêsu phó thác linh hồn cho Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 46);

Lời thứ bảy: Đức Giêsu kêu khát và sau khi uống chút giấm chua, Đức Giêsu nói: “Thế là mọi sự đã hoàn tất”. Rồi Người tắt thở. (Ga 19, 30).

  1. Khi chết trên Thập Giá, Đức Kitô muốn nói với chúng ta điều gì ?

Đức Kitô muốn nói rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13).

  1. Tại sao gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc ?

Chúng ta gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc vì qua hy lễ của Đức Kitô, tình yêu Thiên Chúa giải thoát loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. (Rm 5, 8).

  1. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chết trên Thập Giá, chúng ta phải có những thái độ nào ?

Suy tôn:vì Chúa đã chiến thắng sự chết;

Kính phục:vì Chúa đã hy sinh chịu chết;

Cảm mến:vì Chúa đã dùng cái chết để tỏ lòng yêu thương ta;

Tri ân:vì Chúa đã chịu chết để chuộc tội cho ta;

Ngưỡng mộ: vì Chúa muốn chúng ta noi theo Người: “Ai muốn theo Ta, thì hãy bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”.

Vì thế, chúng ta hãy giục lòng ăn năn tội và quyết tâm sống mỗi ngày một đẹp lòng Chúa Giêsu hơn.

  1. Ngày thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh muốn chúng ta làm gì ?

Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh mời gọi chúng ta cùng với Mẹ Maria cầu nguyện bên Mồ Chúa, cùng Người suy ngắm các đau khổ, cái chết và việc mai táng của Chúa Giêsu trong niềm hy vọng và tin tưởng.

  1. Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, Linh Mục ghim năm hạt hợp hương mang ý nghĩa gì ?

Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, năm hạt hợp hương chính là biểu tuợng của năm dấu đanh Chúa Giêsu (dấu đanh trên cổ tay trái, dấu đanh trên cổ tay phải dấu đanh trên cổ chân trái, dấu đanh trên cổ chân phải, và dấu đanh bên cạnh sườn Chúa Giêsu).

  1. Dấu Thánh Giá mang ý nghĩa gì ?

Thánh Giá là dấu chỉ của sự cứu độ. Khi làm dấu Thánh Giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô và bày tỏ niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta.
Baoconggiao.com

PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ
PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA
?

  • Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải thích cầu nguyện là gì ? Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình và vác thập giá theo Ta.” Như vậy cầu xin Chúa cho khòi bệnh tật và mọi gian nan khốn khó ở đời thì có trái với lời dạy trên của Chúa và có tội hay không ?

Trả lời: Trước hết, xin giải thích cầu nguyện là gì.

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa để tâm sự hay nói chuyện với Chúa trong thân tình Cha con khi vui cũng như lúc buồn, khi gặp gian nan khốn khó hay lúc được những điều vui thỏa vừa ý.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê su cũng nói : “đối với tôi, cầu nguyện là một sự hướng lòng lên, một cái nhìn đơn sơ hướng lên trời. Đó là tiếng kêu của lòng tri ân và của tình yêu trong cơn thử thách cũng như trong lúc hưởng niềm vui.”(St Therese of Licieux, Autobiography C. 25p)

Như thế cầu nguyện là tâm tình thân mật với Chúa trong niềm tin có Chúa là Cha nhân từ luôn lắng nghe mọi lời cầu nguyện, cầu xin của con cái loài người và hằng ban muôn ơn lành cho chúng ta, những người có đức tin và ngay cả cho những người chưa có đức tin, chưa biết Chúa và yêu mến Người, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đã nói với các mộn đệ xưa như sau:

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5:44- 45)

Vậy chúng ta phải cầu nguyện cách nào cho đẹp lòng Chúa ?

Căn cứ vào kinh Lậy Cha mà Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ xưa, chúng ta có thể rút ra được những chỉ dẫn sau đây:

Trước hết, Chúa nói cho chúng ta biết:

1- Chúng ta có một CHA ở trên trời

2- Vì thế, chúng ta phải nguyện xin trước hết cho danh CHA cả sáng, cho Vương Quốc của Cha được lan rộng và nhất là cho thánh Ý Cha được thực hiện dưới đât cũng như trên trời.

3- Sau cùng, chúng ta xin CHA ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn áo mặc, để sống, hạnh phúc ở đời này.

Như vậy, cầu xin cho được an vui, mạnh khỏe, có công ăn việc làm và khỏi bệnh tật là điều đẹp lòng Chúa, vì là con người, chúng ta phải cần những nhu cầu ấy bao lâu còn sống trên trần thế này.

Trong tinh thần cầu nguyện trên đây, chúng ta đọc thấy nhan nhản trong Kinh Thánh những lời cầu nguyện có nội dung ca ngợi, cảm tạ và cầu xin Chúa thương cứu giúp như sau:.

a- Cầu xin Ca ngợi (prayer of praises):

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa
Câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi
Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
Xin các bạn nghèo hãy nghe tôi nói mà vui lên
Hãy cùng tôi ngượi khen ĐỨC CHÚA
Ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34 :2-4)

  1. Cầu nguyện tạ ơn (Prayer of Thanksgivíng)

Chúc tụng Chúa vì Người nghe tiếng tôi khẩn nguyện
Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi
Lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người
Tôi đã được Người thương trợ giúp
Nên lòng tôi vui mừng hoan hỉ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người” (Tv 28:6-7)

c- Cầu nguyện xin ơn (prayer of petitions)

Lậy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho con,vì gân cốt rã rời
Toàn thân con rã rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ ?
Lậy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con
Cứu độ con, vì Ngài nhân hậu” (Tv 6:2-5)

Trong khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu cũng đã chữa lành cho biết bao người bệnh tật như đui, mù, què, câm điếc, phong cùi … cũng như làm phép lạ biến bánh ra nhiều để cho hàng ngàn người đói ăn no nê. Điều này cho thấy, Chúa đã quan tâm đến nhu cầu thể lý của con người, ngoài nhu cầu thiêng liêng là cần được cứu rỗi. Vầ để thỏa mãn những nhu cầu đó, Chúa Giếsu đã dạy câc Tông Đồ phải cầu xin với Chúa Cha nhân danh Người như sau:

“Thật, Thầy bảo thật anh em
Anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em
Vỉ danh Thầy” (Ga 16:23)

Phải cầu xin Chúa CHA vì Người là nguồn ban phát mọi ơn lành và, phúc lộc tối cần cho con người sống vui và hạnh phúc ở đời này và nhất là được cứu rỗi để sống đời đời trên Thiên Quốc mai sau.

Như thế, cầu nguyện là một nhu cầu tối cần thiết cho những ai có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giầu tình thương và vô cùng nhân hậu. Phải cầu xin Người vì chúng ta thiều thốn mọi sự, và nhất là không có đủ sức để đứng vững trước mọi thù địch đe dọa niềm tin có Thiên Chúa và hy vọng được sống hạnh phúc với Người, ngay từ đời này trước khi được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người trên Nước trời mai sau.Cầu nguyện ví được như hơi thở của thân xác. Không có hơi thở thì không thân xác nào có thể sống được. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Không có Thầy, nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp, thì ta không thể đứng vững và thăng tiến trong đời sống tin, cậy, mến, cũng như được an vui, mạnh khỏe khỏe và may lành trong trần thế. này.

Nhưng khi Chúa nói : “Ai muốn theo Thầy,phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24), chúng ta phải hiểu thế nào ?

Trước hết, nói đến thập giá là nói đến sự đau khổ mà bản chất con người không ai muốn chấp nhận. Nhưng đau khổ thập giá lại là phuơng tiện cứu độ hữu hiệu nhất mà Chúa Giêsu đã vui lòng chấp nhận để đền tội thay cho cả nhân loại trong chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. Vì thế, muốn dự phần vinh quang phục sinh với Chúa Kitô, tức là được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Thiên Quốc thì chúng ta cũng phải chia sẻ phần nào sự đau khổ của Người.

Tuy nhiên, nói chia sẻ đau khổ với Chúa, hay vác thập giá theo Người không có nghĩa là phải xin Chúa trao cho thập giá để vác, nhiều khốn khó để chịu. mà chủ yếu là phải vui lòng chấp nhận những thánh giá mà Chúa muốn gửi đến hay tha phép cho xảy ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói rõ hơn, khi gặp phải những gian nan khốn khó mà mình không mong muốn, nhưng không tránh được như bệnh tật, nghèo khó, thất nghiệp, bất công v.v. thi phải coi đó như những khổ giá mà Chúa muốn chia sẻ để cho ta được dự phần đau khổ với Chúa hầu được thông phần vinh quang với Người. Nhưng cầu xin Chúa giúp cho có sức chịu đựng và vượt qua những khó khăn, đau khổ này lại là điều phải lẽ và đẹp lòng Chúa vì Người nhân nhậu và vui thích đuợc ban ơn cho ta. Nói khác đi. Chúa không cấm chúng ta cầu xin Chúa cho mình hay cho người thân được khòi bênh tật, được có công ăn việc làm tốt, đươc thành đạt trong học hành v.v. Mặt khác, Chúa cũng không mong muốn chúng ta “anh hùng” xin Người gửi những đau khổ tinh thần và thể xác cho ta chịu để lập công.

Chính Chúa Giê su cũng không tự nguyện vác thập giá xưa kia. Khi đối diện với đau khổ này trong đêm Người bị nộp vì Giuđa phẩn bội, Chúa Giêsu đã thống thiết cầu xin cùng Chúa Cha như sau: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo Ý Cha” (Lc 22:42)

Lời cầu nguyện trên đây của Chúa Giêsu chính là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta bắt chước mỗi khi chúng ta muốn xin Chúa bất cứ ơn gì cho mình và cho người khác.Và cách cầu nguyên này chắc chắn đẹp lòng Chúa nhất vì chúng ta không xin theo ý riêng mình mà xin theo ý CHA trên trời như Chúa Giêsu đã xin..

Tóm lại, cầu xin Chúa ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn, áo mặc, sức khóe và bình an là điều tự nhiên không có gì sai trái, hay thiếu đạo đức. Điều quan trọng là phải xin cho được vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự mà thôi.

 

 

MẠC KHẢI NÓI VỀ HỎA NGỤC:

MẠC KHẢI NÓI VỀ HỎA NGỤC:

41/ Với nữ tu Agreda:

“Nếu ở Thiên đàng, Mẹ còn có thể phải đau khổ, Mẹ đau đớn nhường nào khi thấy biết bao linh hồn phải hư mất! Trong khi cuộc đời qua đi quá mau chóng như vậy, mà con cái Giáo hội cứ tự vướng mắc vào dò bẫy ma quỉ, mê theo cuộc sống kiêu sa, ve vuốt dục vọng xác thịt, tự lên án phạt mình đời đời, mặc dầu được Chúa ban cho mọi thứ ân sủng. Có lẽ họ ngờ rằng được chết một cách tự nhiên, dứt bỏ được cuộc đời như loài thú là sung sướng rồi. Nhưng không đâu, còn hỏa ngục nữa, hỏa ngục đời đời sẽ ngốn nuốt họ. Tự lao mình vào đó thật ngu dại tội lỗi chừng nào!

Hỡi phàm nhân lầm lạc, các con cứ nghĩ đi đâu? Các con làm gì thế? Các con có biết thế nào là nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền, là thông phần đời đời vào sự sống và vinh quang của Người không? Các con tìm gì để thay vào hạnh phúc vô cùng ấy được? Các con sẽ không thể tìm được một hạnh phúc nào khác đâu. Ai đã làm tâm trí các con mờ đục và mê loạn như thế? Các con cũng phải suy nghĩ cho kỹ rằng lao nhọc ngắn, mà hạnh phúc hay tai họa vĩnh cửu sẽ vô cùng”.

42/ Với 3 em nhỏ Fatima:

Ngày 13/7/1917 Đức Mẹ hiện ra với 3 em. Luxia tả:

“Sau khi đến đồi Cova da Iria gần chỗ cây sồi, nơi nhiều người đang lần hạt, chúng con lại thấy chớp sáng và sau đó Đức Mẹ hiện đến.

– Bà muốn con làm gì?

– Ta muốn các con tới đây ngày 13 tháng tới. Ta muốn các con tiếp tục lần hạt hằng ngày tôn kính Đức Mẹ Mân côi, để xin hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh vì chỉ có Đức Mẹ có thể giúp.

– Hãy hi sinh cầu cho các tội nhân và lặp lại mỗi khi hi sinh: “Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa, để cầu cho tội nhân thống hối và đền tạ Trái Tim Vô nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”.

Nói xong,  Đức Mẹ mở rộng tay ra như đã làm trong 2 lần trước. Những tia sáng thấu qua trái đất và chúng con thấy một biển lửa. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị dìm vào đó như những cục than hồng, cháy đen hay đỏ rực đang ngoi ngóp, phập phồng, có lúc bị tung lên với những ngọn khói đen kịt, rồi văng trở lại biển lửa kinh khiếp, rên siết, thống khổ và thất vọng. Điều đó làm chúng con kinh hãi và run sợ. (Chắc vì thế mà chúng con khóc thét lên, như những người chung quanh con sau này cho con biết). Quỉ dữ có thể phân biệt vì chúng coi hung dữ, tàn bạo như những quái vật khủng khiếp chưa từng thấy, cháy đen hay đỏ rực như than trong lò. Kinh sợ và hốt hoảng, chúng con ngước nhìn xin Đức Mẹ cứu giúp. Đức Mẹ nhân từ, buồn sầu nhắn nhủ:

– Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn phải rơi vào. Để cứu họ, Chúa muốn thiết lập trên thế giới sự tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”.

– Đức Mẹ dạy sau kinh Sáng Danh của mỗi chục kinh Kính mừng, sẽ đọc thêm lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót (của) Chúa hơn”.

43/ Với nữ tu Giosepha:

Trong cuốn Tiếng Gọi Tình Yêu, Chúa cho chị xuống hỏa ngục, chị viết lại rằng:

“Tôi bị đẩy vào một cái hang có lửa đỏ rực, và dường như tôi bị ép giữa 2 khối lửa, và có dùi sắt nung đỏ xuyên thấu khắp mình tôi…một mùi hôi thối nồng nực khiến người ta phải ngột ngạt gớm ghê, nôn mửa, bay tỏa khắp nơi như mùi thịt thối đốt chung với sinh diêm và hắc ín. Tiếng gào thét inh ỏi…

Chị Giosepha ghi lại một phiên họp của quỉ. Quỉ chúa phán:

Theo ý tao:

Với hạng người này, tụi bay làm chúng ơ hờ, rồi cuối cùng hướng theo lòng ác.

Với hạng người kia, chúng bay cám dỗ chúng bằng tính tham lam, tích trữ bạc vàng, tiền của.

Với hạng khác, tụi bay cho chúng cái mồi dâm dục, để chúng mù quáng trong cái thú hư đốn nhảy nhót khêu gợi, phim ảnh đồi trụy, sách báo tục tĩu, nhậu nhẹt say sưa, chơi bời dâm đãng…”

44/ Với nữ tu Faustina:

Thánh nữ Faustina, tông đồ Lòng Thương xót Chúa, viết năm 1936: ” Tôi được Thiên thần dẫn vào một vực sâu thẳm trong hỏa ngục. Đó là nơi cực hình lớn lao. Nó mênh mông và đáng sợ chừng nào! Những thứ hình phạt tôi đã thấy trong hỏa ngục là:

1/ Hình phạt mất Chúa,

2/ Lương tâm cắn rứt đời đời,

3/ Tình trạng mỗi người không bao giờ thay đổi,

4/ Lửa đốt linh hồn, nhưng không diệt nó- đó là sự đau đớn kinh khủng, vì đó là lửa hoàn toàn thiêng liêng, bởi cơn giận của Chúa,

5/ Tối tăm triền miên và mùi khói ngạt thở dữ dằn, và mặc dù tối tăm, nhưng quỉ dữ và các linh hồn bị phạt vẫn nhìn thấy nhau và thấy các kẻ dữ, cả phía quỉ lẫn phía kẻ bị phạt,

6/ Lũ quỉ Satan còn mãi mãi,

 7/ Sự thất vọng kinh khủng, sự gớm ghét Chúa, những lời độc ác, tục tĩu, và  phạm thượng.

Trên đây là những hình khổ đau đớn mọi người bị phạt phải chịu.

Ngoài ra, còn có những hình khổ riêng cho mỗi thứ tội. Đó là những hình khổ về các giác quan. Mỗi linh hồn phải chịu những đau khổ dữ tợn, không thể tả, liên quan đến những cách mà họ đã phạm tội. Có những hang hầm  và những ngục tù khác nhau để giam phạt. Tôi chắc phải chết ngay khi nhìn thấy những nơi cực hình này, nếu Thiên Chúa Toàn năng không nâng đỡ tôi.

Hãy cho tội nhân biết, họ sẽ chịu cực hình đến muôn đời muôn kiếp, trong những giác quan họ đã dùng để phạm tội.

Tôi viết ra những điều này theo lệnh của Chúa, để không còn linh hồn nào chữa mình rằng không có hỏa ngục, hoặc không có ai ở trong hoả ngục bao giờ, và không có ai nói hỏa ngục là thế nào.

+Tôi, Sơ Faustina , theo lệnh Chúa, đã được thăm  các vực sâu hỏa ngục để tôi có thể nói lại cho các linh hồn, và làm chứng hỏa ngục có thật. Hiện nay, tôi không nói về hỏa ngục, nhưng tôi được lệnh của Chúa phải viết lại. Các quỉ dữ đầy lòng giận ghét tôi, nhưng chúng phải vâng nghe  tôi, khi tôi vâng lệnh Chúa . Những điều tôi đã viết chỉ là bóng mờ nhạt những gì tôi đã thấy. Nhưng tôi để ý một điều: Hầu hết những linh hồn phải sa hỏa ngục đã không tin có hỏa ngục.

Sau khi tôi đã ra khỏi  đó, tôi thấy khó quên những sợ hãi, vì tôi quá  kinh khiếp. Các linh hồn trong đó đau đớn ghê rợn chừng nào!

Do đó, tôi cầu nguyện sốt sắng hơn cho các tội nhân ăn năn cải thiện, tôi nài xin không ngừng Lòng Thương Xót Chúa xuống trên các linh hồn ấy. Ôi, Chúa Giêsu, con thà chịu đau khổ cho đến tận thế, giữa những đau khổ lớn lao nhất, hơn là xúc phạm đến Chúa dù một lỗi nhỏ mọn nhất”.

(Trích Diary Divine Mercy in my Soul, St. Faustina, Stockbridge, Ma, 2001, pp. 296-297)

Theo thánh nữ Faustina tả ở trên, Hỏa ngục có 2 hình khổ : Thất khổ và giác khổ. Thất khổ là “mất Chúa”, “giác khổ” là giác quan nào phạm tội thì giác quan ấy phải đau đớn. Cường độ đau đớn là  không thể tả. Trường độ là đời đời, đúng như Chúa Giêsu nói: dòi bọ không chết, vì tiếng lương tâm cắn rứt mãi, vì đã cứng lòng, không nghe theo ơn Chúa. Lửa đốt linh hồn linh thiêng trong quyền phép Thiên Chúa…

             45/ Với Linh mục người Ấn độ

27-11-2006 (Source: FOSS/web Phinomenon)

Chúa Nhật ngày 14.4.1985 là Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa?, Linh Mục Tom Maniyangat đang trên đường đi tới một Nhà Thờ truyền giáo ở phía Bắc của Kerala, nước India (Ấn) để dâng Thánh Lễ, và ngài đã bị chết vì tai nạn xe.  Xe của ngài đụng thẳng đầu một xe jeep.  Ngài được chở vội tới nhà thương cách chỗ xảy ra tai nạn khoảng 70 cây số, nhưng ngài đã qua đời trên đường chở tới nhà thương.

Linh Hồn cha Tom lìa khỏi xác, nên cha cảm nghiệm được là ngài đã chết.  Ngài nhìn thấy thi thể ngài, và người ta đang chở ngài tới nhà thương.  Cha nghe được tiếng người ta khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện cho cha.

Rồi cha gặp Thiên Thần Bản Mệnh.  Thiên Thần nói với cha: “Tôi sẽ dẫn Linh Mục lên Trời.  Chúa muốn gặp và nói chuyện với Linh Mục”.  Thiên Thần cũng nói với cha rằng, trên đường đi, ngài cũng muốn cho cha thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục nữa.  Dưới đây là những gì cha Tom Maniyangat kể về Hỏa Ngục và Luyện Ngục:

Hỏa Ngục

“Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi xuống chứng kiến Hoả Ngục.  Đó là một quang cảnh thật ghê sợ.  Tôi thấy Satan và các quỉ dữ, thấy những ngọn lửa không hề tắt với sức nóng 2,000 độ Fahrenheit, thấy dòi bọ lúc nhúc, thấy người ta rên la và đánh đập nhau, thấy những người khác đang bị bày quỉ dữ tra tấn hành hạ.

“Tôi được nói cho biết có bảy “cấp bậc” hoặc bảy tầng đau khổ trong Địa Ngục.  Những người “phạm hết tội trọng này đến tội trọng khác” khi sống trên dương thế, phải chịu sức nóng ghê gớm nhất.  Thân hình họ trông rất xấu xí và rất ghê rợn.  Họ là con người nhưng lại giống như những con quái vật: những thứ trông xấu xí và đáng sợ.  Thiên Thần cho tôi biết tất cả những đau khổ này là do các tội trọng không hối cải.

Cho nên, tôi hiểu có bảy cấp bậc đau khổ, căn cứ theo số tội trọng và loại tội trọng đã phạm trên dương thế.  Tôi được thấy một số người mà tôi quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tánh của họ.

Những tội khiến họ bị trầm luân phần lớn là do phá thai, dâm dục, thù hận, không tha thứ và tội phạm thánh.

Thiên Thần nói với tôi rằng, nếu họ sám hối, họ sẽ tránh được Hoả Ngục mà chỉ phải vào Luyện Ngục thôi.  Tôi cũng hiểu rằng, một số người sám hối tội lỗi có thể được thanh luyện trên trái đất qua những đau khổ họ phải chịu.  Bằng cách này, họ có thể tránh được Luyện Ngục và bay thẳng lên Thiên Đàng.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong Hoả Ngục gồm có cả Giám mục, Linh Mục, một vài người tôi không thể ngờ.  Nhiều người trong số họ ở trong Hoả Ngục, vì họ đã hướng dẫn lạc đường cho người khác bởi những lời dậy sai lầm và bởi gương xấu của họ.

……. 

Khi người ta di chuyển thi thể của tôi tới nhà xác, Linh Hồn tôi liền nhập vào xác tôi.  Tôi cảm thấy rất đau đớn vì nhiều thương tích và các xương bị gẫy.  Tôi bắt đầu rên, và rồi các người chung quanh tôi đã hết sức sợ hãi, họ hốt hoảng vừa chạy vừa la.

 Một người trong số họ đến gặp bác sĩ và nói: “Thi thể cha đang rên rỉ!” Bác sĩ vội chạy tới và khám nghiệm thân thể tôi.  Ông thấy tôi còn sống, cho nên ông nói: “Cha vẫn còn sống.  Đúng là một phép lạ! Hãy mau chở ngài tới nhà thương…”

NHỜ CHÚA CHÚNG TA SẼ GẶT HÁI TỐT TRONG LỜI NÓI

NHỜ CHÚA CHÚNG TA SẼ GẶT HÁI TỐT TRONG LỜI NÓI

(Sống Mùa Chay)

Tuyết Mai

Khi chúng ta có chủ đích là sống trong yêu thương, trong tình yêu Thiên Chúa thì mọi lời nói chúng ta thốt ra hẳn chúng phải được phát xuất từ trong trái tim nhân ái.   Chúng ta cần phải cẩn trọng nhất là những lời nói thô lỗ, cần được giảm ở mức tối thiểu hay không bao giờ nên thốt ra khi nói với con cái và người thân trong gia đình.

Chúng ta cần được hiểu rằng những lời nói thiếu suy nghĩ ấy chúng sau này sẽ trở lại với chúng ta không thiếu một chữ ấy là chưa kể đến những lời nói nặng đau theo thời gian sẽ làm chúng con cái trở nên nhát đảm hay ngược lại là chúng sẽ trở nên dữ giằn, ăn nói mất dạy, cục cằn thô lỗ và lòng thì đầy hận thù.

Thử tưởng tượng mà xem khi chúng ta mang danh nghĩa là con cái Chúa thế mà lại đi đối xử với nhau trong gia đình còn hơn là người mà chúng ta gây thù oán với.   Vả không ai trong chúng ta ngu dại gì mà lại đi dùng những lời lẽ thô tục mà nói với người ngoài bởi lẽ rất có thể nó lấy tánh mạng của chúng ta cách nhanh chóng mà không ai kịp có lời trăn trối.

Rốt cục thì chỉ trong gia đình là bị ảnh hưởng nặng nề, sâu đậm trên vợ trên con cái mà thôi.   Thử hỏi cha mẹ nào mà không muốn cho tương lai chúng con cái trở nên tốt lành, nhân hậu và là người dễ thương, dễ mến mà chúng ta cha mẹ lại không làm gương tốt lành và nhân hậu thì cho hỏi chúng con cái phải được học từ ai và từ đâu?.   Hoặc chúng ta cha mẹ cảm thấy bất lực khi con cái chúng khó dạy, ngang tàng xấc xược, là thành phần bất trị của xã hội thì chúng ta đổ thừa cho ai đây?.

Nhân Mùa Chay mong ước hết thảy chúng ta không là “Một con sâu làm rầu nồi canh” Mà là sự cố gắng của một con Én có thể làm nên mùa Xuân qua lời hót đẹp đẽ rộn ràng của nó.   Hay chỉ cần một cành Mai, cành Huệ, cành Lan hay cành Cúc tươi thắm … Thì cũng đủ, thưa có phải?.

Thưa nếu chỉ có một chút bấy nhiêu mà chúng ta đã không làm tròn trách nhiệm cùng bổn phận được thì thử hỏi khi Thiên Chúa Người đòi hỏi ở chúng ta phải yêu thương nhau, chia sẻ cho người khổ nghèo có cùng một Cha chung trên Trời … Thì liệu chúng ta có thực thi được hay không?.

Ai trong chúng ta cũng học biết rằng Thiên Chúa Người rất chán ghét những con người sống đạo đức giả là vì chuyện gia đình của họ thì luôn rối beng, xào xáo, om xòm, tan vỡ vì họ luôn sống ích kỷ với nhau, không có chỗ cho Thiên Chúa ngự trị trong căn nhà tâm hồn của họ.   Tuy nhà biệt thự của họ cũng có bàn thờ Chúa Mẹ thật to, thật đắt tiền nhưng Chúa Mẹ thì rất cô đơn và lạnh lẽo.   Những con người này chỉ vì họ muốn có tiếng tăm nên đã lợi dụng danh Chúa mà trục lợi của người.

Trong suốt Mùa Chay, Thiên Chúa Người mời gọi hết thảy con cái của Người hãy Trở Về sống bên Chúa để được Người băng bó cho vết thương lòng, thương yêu, đùm bọc và dạy dỗ để chúng ta ngày một nên giống Chúa hơn.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

18 tháng 2, 2016

ĐỨc Giêsu HIỂN DUNG

ĐỨc Giêsu HIỂN DUNG

(Luca 9,28b-36 – CN II MC – C)

 Lm FX Vũ Phan Long, OFM 

1.- Ngữ cảnh

Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian Đức Giêsu hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Người đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở Mc 9,2-8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:

1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28);

2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35):

  1. a) Lý do (cc. 29-32),
  2. b) Cuộc đối thoại (cc. 33-35);

3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).

3.- Vài điểm chú giải

– dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ “được biến hình” (metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.

– có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là “hai nhân vật, hai người đàn ông” (andres dyo), ta có thể nghĩ đến “hai người đàn ông y phục sáng chói” trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc “hai người đàn ông mặc áo trắng” trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).

– Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).

– ngủ mê mệt (32): Dịch sát là “bị đè nặng trong giấc ngủ” (bebarêmenoi hypnô).

– vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ “vinh quang” ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).

– thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.  

– đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? Có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là “từ đám mây có tiếng phán ra”. Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là “sự hiện diện của Thiên Chúa”) của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.

– Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các “Bài ca về Người Tôi Trung” (Is 42,1; 49,7).

– trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.

4.-Ý nghĩa của bản văn

Khung cảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. Mc 9,11-13; Mt 17,10-13).

Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ “vác thập giá” và thị kiến về “vinh quang” được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển Dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.

* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)

Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào “khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy” (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu “vác thập giá mà theo” Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định “đem theo” ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục Sinh.

Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là “cầu nguyện”. Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.

* Cuộc Hiển Dung (29-35)

Đang khi Người cầu nguyện, thì “dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong McMt (x. Mc 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.

Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục Sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.

Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với Dân Người đến chỗ hoàn tất.

Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ôliu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều…” (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước  sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết “dựng ba cái lều” vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì” (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển Dung trong chương trình cứu độ phổ quát.

Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: “Chính Người, anh em hãy nghe lời!”). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi Tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế.  Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel và những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.

Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với Mc (Mc 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông “nín thinh”. Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ (“Trong những ngày ấy”).

* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)

Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.

+ Kết luận

Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thất bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là “chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để “cầu nguyện” (c. 28). Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
  2. Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu “đổi khác” (c. 29). Tác giả không nói là “biến hình” như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng ta hiểu, trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trình cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
  3. Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
  4. Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
  5. Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu. Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng Lời Chúaạt động và bằng lời nói của Người, Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lời Chúa 24,17).

Lm FX Vũ Phan Long, OFM

Sự tha thứ khó khăn

Sự tha thứ khó khăn

Linh mục Paul O’Sullivan, O. P

Do thời thế chính trị biến động, một người kia không may đã giết chết một quan chức cấp cao, đối nghịch với ông ta.

Vì bị chính đồng đội trở mặt tố cáo, nên người ấy đã bị bắt giữ và bị kết án tử hình. Ông ta thành tâm sám hối tội lỗi của mình, nhưng nhất quyết không tha thứ cho kẻ tố cáo hèn hạ. Linh mục tuyên úy nhà tù ra sức khuyên giục ông xưng tội . Phạm nhân đáp lại: “Không thể được , bởi vì con hối hận về các tội lỗi của con, nhưng con không sao tha thứ được cho người bạn tráo trở kia. Như thế thì xưng tội chỉ tổ phạm sự thánh mà thôi.”

Một nữ tu tốt lành dòng Nữ Tử Bác Ái đã làm cho phạm nhân phải cảm động trước tấm lòng nhân ái và tế nhị của chị. Chị cũng ra sức khuyên giục ông xưng tội, nhưng luống công.

Chiều tối trước ngày tội nhân thụ án tử hình, nữ tu ấy lại hết sức cố gắng để thuyết phục ông.

Chị nữ tu hỏi:

– Ông có biết tôi là ai không ?

Phạm nhân đáp:

– Chị là thiên thần từ trời xuống.

Chị nữ tu lắc đầu:

Tôi không phải là thiên thần từ trời xuống, nhưng là em gái của nạn nhân đã bị ông giết hại. Tôi đã tha thứ cho ông, tôi đã ăn chay, đã cầu nguyện và đã làm tất cả những gì có thể làm được để cứu lấy linh hồn của ông.”

Hết sức ngạc nhiên, phạm nhân đáng thương ấy đã phục xuống, giàn giụa trong nước mắt và hôn kính bàn chân của chị dòng.

-Quả thật , quả thật chị là thiên thần của Chúa, thực sự là một thiên thần . Tận đáy lòng tôi, tôi xin tha thứ cho người bạn tráo trở của tôi và xin chị cũng hãy tha thứ cho tôi.

-Thật vậy hành vi tha thứ của nữ tu ấy là một hành vi thật anh hùng.

Như chúng tôi đã nói, nhiều khi chỉ một hành vi mà thôi đủ chứng minh sự thánh thiện, anh hùng.

Sự dâng cúng của bà góa nghèo đã được Chúa Giê-Su đánh giá cao. Chúa phán: “Bà ấy đã cho đi nhiều hơn tất cả những người khác.” Bà góa chỉ dâng cúng một đồng xèng, nhưng bà đã cho với tất cả tâm hồn.

Lời khẩn cầu của người trộm lành trên thập giá đã xin được ơn tha thứ cho toàn bộ tội lỗi của mình.

Lời cầu nguyện của người thu thuế thật ngắn gọn: “ Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tôi lỗi” nhưng đã làm cho linh hồn của ông trở nên tinh sạch như tuyết.

Linh mục Paul O’Sullivan, O. P

Trích sách: “ Con Đường Nên Thánh Dễ Dàng” của Linh mục Paul O’Sullivan, O. P