NGẪM NGHĨ VỀ MỘT MÙA CHAY NỮA

NGẪM NGHĨ VỀ MỘT MÙA CHAY NỮA

Thiên Ân

Khi nói đến Mùa Chay, người ta thường hay đề cập đến những từ như ăn chay, giữ chay, hoán cải, trở về, cầu nguyện, sám hối, bố thí, chia sẻ bác ái cho người nghèo kèm theo.  Nhưng tất cả những điều đó chỉ là những phương thế để dẫn đến một mục đích tối hậu là “đói khát Thiên Chúa.”

Là người giáo dân, khi nghe cụm từ “đói khát Thiên Chúa,” tôi thấy thật lạ tai!  Tôi thầm nghĩ chỉ có các tu sĩ, linh mục và những ai muốn làm… thánh sống, mới có khát khao ấy, chứ còn mình – với tâm hồn lạnh tanh, làm sao có tâm trạng đó được!

MUA CHAY

Tuy nhiên, sau một thời gian ngẫm nghĩ cặn kẽ, với nhiều Mùa Chay tiếp nối, nhờ ơn Chúa, tôi chợt khám phá ra, khao khát Thiên Chúa phải trở nên mẫu số chung và là lẽ sống của mọi Kitô hữu.  Câu chuyện sau đây đã giúp tôi tỉnh ngộ:

Thuở xưa, vua Salomon nổi tiếng thông minh, đã đưa ra một câu đố cho quan cận thần: Tìm đâu ra một chiếc vòng mà khi nhìn nó, người hạnh phúc hóa ra u buồn; người đau khổ nhìn nó thì lại thấy niềm vui?

Nghe vua nói thế, quan sa sầm nét mặt, vì biết đó là một bài toán khó có lời giải đáp vẹn toàn.  Quan lên đường chu du khắp năm châu bốn bể mong tìm ra chiếc vòng kỳ diệu.  Lang thang từ các làng mạc đến chốn thị thành nhiều tháng ngày, cực nhọc trăm bề, mà vẫn vô vọng, chưa tìm ra lời giải đáp nào cho nhà vua, khi kì hạn đã gần hết.

Bỗng một hôm, khi đến một làng, ông gặp một ông lão ngồi bán đồ linh tinh ở ven làng.  Ông lão ngồi bán nhưng như không bán, ông cứ đưa mắt nhìn xa xôi, rồi nhắm mắt trầm tư trong tư thế thiền!

Quan ghé vào tai ông lão hỏi nhỏ:

– Ông ơi!  Ông có bán chiếc vòng nào, khi nhìn nó, người vui hóa buồn; người buồn hóa vui không ông?

Lão ông không nói gì, lẳng lặng mở chiếc túi vải đeo bên mình ra và lấy một chiếc vòng bên trên có hàng chữ: “điều đó rồi cũng qua đi,” rồi trao cho ông quan.

Thì ra là như vậy, tất cả mọi sự ở trên đời này rồi cũng trôi qua.  Dẫu là sướng vui hay vất vả, đau khổ, tất cả rồi cũng sẽ tan bay.  Chỉ có Thiên Chúa mới chính là suối nguồn hạnh phúc chân chính và vĩnh cửu.

Bằng cách này hay cách khác, hành động của mọi người đều nhằm mưu cầu hạnh phúc đời này và cả đời sau, như niềm tin đa số tín hữu.  Mùa Chay cho ta cơ hội để tái định hướng hạnh phúc mà mình đang tìm kiếm.  Đây là mùa sống chậm, để sống đậm chiều kích tâm linh, nâng cao chất lượng nội tâm.  Mùa Chay cũng là thời gian phục hồi, bồi dưỡng tâm hồn.  Là lúc “thuận tiện,” là “giờ cứu độ” để ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Phục Sinh và kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh.

Hành trình hoán cải và canh tân trong Mùa Chay gồm các bước sau:

–       Ý thức tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa

–       Hối hận tội mình đã phạm: ray rứt, đau buồn (nhưng không mặc cảm tội lỗi)

–       Gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm

–       Quyết tâm thú nhận tội – đón nhận Bí tích Hòa giải

–       Thực sự sửa đổi đời sống (thường ta hay quên bước này)

Thế nên, tâm trạng đói khát Thiên Chúa không thể chỉ là tâm trạng của riêng giới nào, mà phải là tâm trạng của con cái Chúa, thái độ của những ai muốn đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu Kitô.

Lạy Chúa,
Bước vào Mùa Chay thánh này, con mang theo gì?
Nếu không phải là những hành lý nặng nề của con,
Với tâm tư nặng trĩu những lo toan, gánh bổn phận hàng ngày
Cơn mê bã lợi thú, danh vọng phù hoa đang bủa vây
Chúa ơi!  Chúng giăng bẫy rình rập con tứ phía
và kiềm hãm con tiến bước đến bên lòng Chúa khoan nhân.

Con vẫn biết: chúng chỉ là phù vân và sẽ qua đi
Nhưng thú-lợi-danh mạnh mẽ lôi kéo con từng giờ
Và vẻ bề ngoài của chúng thật hấp dẫn, êm ái!
Trong quá khứ, con đã không đủ sức để vượt thắng chúng.
Con đã sa lưới kẻ thù, vấp ngã thê thảm, té đau từ trên cao.

Chúa ơi!  Chẳng lẽ Mùa Chay này cũng sẽ trôi qua vô vị
và con lại tiếp tục ra đi với hai bàn tay lấm lem?

Tâm hồn con đang tan nát, rã rời,
như kẻ dở sống, dở chết,
khi kẻ nội thù như sư tử đang rình rập, chờ dịp cấu xé con.

Giờ đây, con chỉ có thể trông mong Chúa xót thương
Và cậy dựa vào quyền năng của Chúa.
Con không dựa dẫm vào người đời,
vì họ không thể giúp con tránh xa tội.

Chúa ơi!  Xin cứu giúp con người đầy yếu đuối của con.
Xin ban ơn hoán cải, để con cương quyết dứt bỏ tội lỗi,
Can đảm khước từ bóng tối
Và vui sống như con cái của sự sáng
Xin đừng để cho bất cứ điều gì chiếm hữu lòng con,
ngoại trừ một mình Chúa.
Hãy cho con không ngừng đói khát Chúa,
Hạnh phúc đích thực và trường tồn của đời con!

Thiên Ân

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm C 20/3/2016

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm C 20/3/2016

Tin Mừng (Lc 19: 28-40)

 Nói những lời ấy xong, Đức Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem. Khi đến gần làng Bếtphaghê và làng Bêtania, bên triền núi gọi là núi Ôliu, Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi. Nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh cởi lừa người ta ra”, thì cứ nói: “Chúa có việc cần dùng! Hai người được sai liền ra đi và thấy y như Người đã nói. Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ nói với các ông: “Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra?” Hai ông đáp: “Chúa có việc cần dùng.”

Các ông dắt lừa về cho Đức Giêsu, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và giúp Người cỡi lên. Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường. Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ôliu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!

Trong đám đông, có vài người thuộc nhóm Pharisêu nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!” Người đáp: “Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”

“Dáng em thu nhỏ trong lời nguyện,”

                            “Phơ phất hồn thiêng, cánh bướm ma.”

                                                (Dân từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Thu nhỏ trong lời nguyện hoặc phơ phất hồn thiêng, vẫn là và sẽ là lối sống của nhiều người.

Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc, như bài “How Great Thou Art”, nghe chưa được chuẩn cho lắm, chí ít là tiểu khúc, câu 3. Như tác giả dẫn ý: Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau vẫn cứ là Con Một Hiền lành theo cõi chết ôm trọn tội người, trọn ý Cha.

Vâng, tiểu khúc trên, dù mang cả một truyền thống ý nghĩa, vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như hành động chuộc tội, do Cha muốn. Nhận định như vậy, tức bảo là: khổ đau và sự chết của Đức Giêsu là giá chuộc mạng mà Ngài đã trả cho bọn xấu để ta chia sẻ sự sống với Cha, như chọn lựa cái chết của Đức Giêsu phải được coi như hành động duy nhất làm Cha nguôi giận về tội người. Chính vì thế, mà Cha vẫn tiếp tục thương yêu loài người như khi trước.

Nghe nhạc ướt át như thế, đôi lúc làm ta sợ, vì thế nên kiểm xem lời ca ý nhạc có chuẩn hợp với thần-học không. Một đằng, thần học khẳng định rằng: tình thương yêu đặc biệt Chúa ban, rất cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, ngang qua mọi thăng trầm của cuộc sống, khi vui lúc buồn.

Đằng khác, khi hát, ta kể nhiều về nỗi khó khăn, buồn phiền mà Đức Giêsu gánh chịu. Xem thế, há chẳng phải ta chủ trương: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao dung, vẫn đẩy Người Con Thân Yêu vào nỗi chết, có tủi nhục? Há ta coi đây như phương cách duy nhất khiến Ngài hài lòng, sao?

Áp dụng vào xử án, đôi lúc cũng nên hỏi: quan án có để cho đương can vô tội chết lặng trong lỗi phạm? Và như thế, Đức Chúa, vị Quan Án Tối Cao, có quyền bính gì trên sự dữ/ác thần, chăng? Đây là cách duy nhất để Ngài kiểm nghiệm sự hy sinh cao cả của Con Yêu Dấu của Ngài, sao?

Các vấn nạn ấy, gây ảnh hưởng lên đời sống đức tin của người đi Đạo. Đôi lúc, điều này làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay thường được nhắc nhớ, rằng: Chúa trên cao vẫn thương mọi người, dù cho con người có lầm lỡ, lỗi phạm nhiều điều.

Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, trong nhiều trường hợp, việc ấy không do họ. Mà, do người khác đối xử không theo lẽ Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người”. Rất lạ kỳ, buồn bã.

Người khác đây, vẫn là người biết nhiều, hiểu nhiều. Nhưng, đứng ở góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình cho rằng: Đức Kitô là nạn nhân của thánh ý Cha. Khi Ngài chấp nhận khổ đau, và nỗi chết. Hiểu như thế, tức cho rằng: Cha vẫn muốn có hy sinh, vẫn muốn chuộc mạng, để đổi chác lấy tội con người, hòng tha thứ?

Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ nhận rằng: mình là nạn nhân của Chúa, không chừng. Nếu Cha muốn Đức Kitô phải khổ và chết, thì phía ta, sao lại buồn khi lĩnh nhận thánh giá tưởng-chừng-như-là-quá-nặng?

Suy tư theo chiều hướng này, sẽ thêm nghi ngờ, là bài Thương khó thánh Mác-cô ghi lại, có thể đã nhấn mạnh tính miễn cưỡng của Chúa khi Ngài chấp nhận khổ ải. Quả là, thánh sử có nhắc việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo, túi cơm. Làm bạn với bọn phản phé. Làm thầy những người chối bỏ sự thật, bỏ của chạy lấy người… Nhưng không thể hiểu như thế.

Không thể theo khuynh hướng này. Bằng không, sẽ có người ngờ: thánh Mar-cô ám chỉ Chúa hoảng sợ trước cái chết ô nhục, gần kề. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng “Lạy Cha”, tức là Ngài kêu lên lời ai oán để cứu mình khỏi cơn buồn phiền, sao?

Cuối cùng, hiểu theo chiều hướng này, sẽ có người nghĩ rằng: Đức Kitô nhận “làm theo ý Cha”, nhưng phút cuối, vẫn thấy như mình bị bỏ rơi trên thập giá? Không. Đó không phải là thần học.

Suy cho kỹ, hiểu theo các chiều hướng này, chắc chắn có sai sót. Đọc kỹ, đoạn Chúa chấp nhận thánh ý Cha tại Vườn Âu Sầu, thay vì hiểu theo hướng xấu, đổ riệt mọi lỗi cho Cha, có lẽ nên coi đây như một khẳng định. Khẳng định rằng: Đức Kitô một lòng chung thuỷ với đường lối Ngài tuân theo, trong hành xử với Cha.

Với con người. Ngài vẫn một mực tuân phục Cha. Tuân phục đến chết. Vẫn thương yêu con người, và yêu thương đến hơi thở cuối cùng.

Có thế, Đức Kitô mới trấn át giới chức đạo-đời, thời bấy giờ. Ngài qui chiếu khẳng định nòng cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được, ngoài chuyện ra tay ám hại Ngài. Xem thế, qua việc chấp nhận cái chết trong tuân phục, Ngài hy sinh đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người thấy:Ngài thương yêu loài người đến cùng.

Điều này cho thấy: Chúa đã sống thực. Sống tư cách rất “người”. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền lực đen tối sự dữ/ác dẫn đến nỗi chết về thể xác, chết rất nhục.

Hôm nay, có kinh qua thống khổ của thập giá; và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá phải trả, khi giáp mặt thực trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời. Vương Quốc bình an và công chính.

Tuần thánh năm nay, ta cử hành tuyên xưng mầu nhiệm sống xứng hợp Đạo. Bằng vào cử hành tưởng niệm sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Chúa, ta cầu mong được chuyển thể từ tâm trạng sai lầm -nghĩ mình là nạn nhân do Chúa muốn ta hy sinh, đau khổ- để tiến tới trở thành kẻ có ý thức chọn lựa. Chọn, lối sống mẫu mực yêu thương của Chúa, Đấng suốt đời trung thành, thuỷ chung. Trung thành trong thuần phục. Thuỷ chung trong thương mến.

Cầu và mong, cho ta biết trân quý sự sống vì có trân quý ta mới thực sự từ bỏ thái độ tiêu cực của những người luôn nghi kỵ, chống đối. Chống Vương Quốc Nước trời, ở trần gian. Cầu và mong, ta dõi bước chân mềm của Chúa.

Biết rập khuôn bắt chước lối sống thuỷ chung, trong hành xử giữa Cha và Con. Dù, sự việc có xảy đến thế nào, và đường đời có gian nan đi nữa có Đức Kitô là mẫu mực cho sự thủy chung/tuân phục, thì dù gặp muôn vàn khổ ải đến cùng cực, ta vẫn cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang lên mà chúc tụng.

Chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn kẻ tin đang sầu buồn, than khóc ngày Chúa chịu khổ nạn. Bởi, với người dõi bước theo Chúa, sẽ chẳng có gì là tang tóc, đáng để ta than khóc cả. Mà, tất cả vẫn là yêu thương và đồng cảm.

Đạo Chúa là Đường dẫn ta đi vào đời, lắm gian nan nhưng không là tang chế, với ta.

Lm Richard Leonard, sj biên soạn – 

Mai Tá lược dịch.

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thánh năm C 20/03/2016

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thánh năm C 20/03/2016

“Hầy hô! Hây hồ! Ta đi vô vườn dừa,”

“Hầy hô! Hây hồ!

Nhịp nhàng khoan thai bước khẽ

Đi trong mưa nhè nhẹ.

Hầy hô! Hây hồ! Hây hố!”

(Phạm Duy – Ngày mùa êm ru)

(1 Thessalônikê 5: 12-19)

 Trần Ngọc Mười Hai

 

Ít khi nào, bần đạo bầy tôi đây lại trích-dẫn hoặc trích-dịch những bài ca nghe rất “êm ru ngày mùa” như bài ở trên do nghệ-sĩ họ Phạm, sáng tác. Bài ca này, cứ hát đi hát lại mãi câu “Hầy hô!” với lại “Hây hồ!” suốt, chỉ mỗi nghe qua đã thấy oải.

Ấy là thế đấy! Có nghe đi/nghe lại cũng chỉ bấy nhiêu câu, rất ngày mùa như sau:

“Hầy hô! Hây hồ! Hấy hô!

Gà chuồng le te gáy rõ

Ta nghe ta đợi chờ…

 Hầy hô! Hây hồ! Hấy hô!

Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ,

Ôi êm ru ngày mùa…

 Hầy hô! Hây hồ! Hây hô hấy hô ngày mùa!

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Ngày mùa có “êm ru” đến độ ca đi/hát mãi có mỗi câu như thế cũng chẳng thấy gì là êm và ru hết!

Thế nhưng, đời người có nhiều thứ cũng “êm-ru-bà-rù” nhưng lại ngán như cơm nếp nát, chẳng ai muốn ăn. Thật thế ư? Vâng. Không tin, xin quí chư huynh/chư đệ hay tỷ/muội ở ngoài đời hãy giúp giùm tìm hiểu thực/hư thế nào, rồi sẽ rõ.

Hôm nay, bầy tôi đây, chỉ muốn bàn chuyện nhà Đạo rất Công-giáo, thôi. Bàn chuyện đạo của người Công-giáo nhiều lúc suy đi/nghĩ lại, thấy cũng nản. Nản, nhưng vẫn xin bạn và tôi, ta cứ hạ hồi tính chuyện thích thú, còn bây giờ: hãy bàn chuyện gì có dính đến Đức Giáo Tông/Giáo-chủ, để xem sao. Hy-vọng sẽ êm ru không “bà rù” chút nào hết.

Chuyện Đức Giáo Tông với truyền-thông, có nhiều điều xem ra cứ bàn đi bàn lại, mãi không chán. Đúng thế, bạn ạ. Hết bàn rồi tán, lại còn tản-mạn những tin tức …mình về Đức Giáo Tông nhà Đạo mình, tưởng cũng được vài ba trang giấy, những viết và lách cho trọn một đời.

Chuyện Đức Giáo Tông, có gì mà ghê gớm thế?

Thôi thì, bạn và tôi, ta cứ từ từ tìm cách moi đầu/moi óc ra mà bàn suốt, rất như sau. Nhưng, trước hết và trên hết, là chuyện liên-quan đến hai ba vị Giáo chủ, đấy các cụ ạ.

Trước hết và trên hết, lại là chuyện mới xem ra, qua phỏng-vấn Đức Phanxicô ở đâu đó, trên máy bay hoặc với báo/đài của nước Ý xem ra cũng rất Đại-lợi, bởi bên cạnh đó lại có những chuyện bên lề, rất đáng bàn như sau:

“Trang mạng “ Vatican Insider” của Ý cho biết: trong vòng 24 tiếng đồng-hồ sau khi công-bố phỏng-vấn, đã có hơn trăm bài báo và bình luận được đăng trên truyền-hình Trung Quốc. Trong bài xã-luận, Giám-đốc báo “Global Times”, nhật-báo tiếng Anh được xem như báo bán chính-thức của đảng Cộng-sản, cho rằng “thiện-chí của Đức Giáo hoàng góp phần làm dịu các quan-hệ giữa Trung-Quốc và Vatican.”

 Báo Nhân-Dân khen ngợi sự khuyến-khích đối-thoại và kiến-tạo hoà-bình của Đức Phanxicô. Báo này có nhắc lại việc góp phần của Toà thánh trong quan-hệ ngoại-giao giữa Cuba và Hoa Kỳ. Báo này còn khẳng-định việc “xích lại gần nhau” giữa Trung Quốc và Vatican là điều mà nhiều người dân Trung quốc mong muốn”, nhưng cũng chận lại các người “chống-đối sợ rằng Vatican hy-sinh quyền-lực của họ.”

 Một số người Công-giáo Trung quốc lo sợ kết-quả của việc “xích lại gần nhau” về ngoại-giao của Toàn thánh Vatican và Bắc Kinh là quá sớm, với cái giá phải trả là hy-sinh một số sự/việc, bắt đầu là việc tự-do tổ-chức Giáo-hội Trung quốc…” (Nguồn: cath.ch, Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển-dịch, phanxico.vn)

 Có phản-ứng hay không phản-ứng, các sự-kiện mang tính chính-trị được lồng vào địa-hạt tôn-giáo, là chuyện “dài nhân dân tự-vệ” ở thời trước. Có tìm và hiểu hay không hiểu và tìm, thì các hệ-lụy rút từ công-bố chính-thức, mới là chuyện của ta và người, bàn đến hôm nay.

Chuyện của ta hôm nay, chỉ là “chuyện bên lề” gồm các tin (rất) tức ở nhiều nơi và của nhiều người. Tin (rất) tức …mình, lại vẫn là chuyện để ta ngồi buồn… bèn có đôi giòng chảy lai rai cho đỡ …ngứa cái miệng.

Và hôm nay, xin bạn và tôi, ta có đọc những giòng này hay không, cũng xin hai chữ bình-an, rồi đi vào sự việc rất “Đạo”, sau này. Nhưng, trước khi đi vào chi-tiết, cũng nên về lại với bài ca và nốt nhạc ghi trên, mà hát cho “êm ru ngày mùa” của Giáo-hội, là: hội của những người sống Đạo trong đời. Vậy, hãy cứ hát những lời rằng:

“Hầy hô! Hây hồ! Hây hô

Gà chuồng le te gáy rõ

Ta nghe đợi chờ…

 Hầy hô! Hây Hồ! Hây hô!

Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ

Ôi êm ru ngày mùa…

 Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Cứ ngoảnh lại mà nhìn quanh ta đi, sẽ thấy rất nhiều “sự” xảy ra không như mình tưởng hoặc nghĩ. Tức, những thứ và những sự rất “kể lể” như truyện kể ở bên dưới để “minh-hoạ” một lập-trường-sống vẫn nghe và vẫn nhìn theo cách con nhà có Đạo, ở đời thường, như sau:

“Truyện rằng:

“Cô vốn là một người con gái xinh đẹp. “Vệ tinh” xung quanh cô nhiều không kể xiết, nhưng cô bỏ ngoài tai tất cả để chọn anh – một công nhân làm việc ở nhà máy, thu nhập còn không đủ cho 3 bữa ăn hàng ngày. Cô chấp nhận từ bỏ cả gia đình, thậm chí là công việc đầy tương lai của mình để cưới anh.

Sau khi kết hôn, anh và cô mượn được nhà kho của một người bạn, họ sắp xếp lại thành một tổ ấm giản dị. Mùa đông đến, căn nhà kho trống trải hút gió lại càng trở nên lạnh giá. Khi ấy chưa đủ tiền mua chăn, cô thường bị giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh. Những lúc đó, anh chỉ biết ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi ấm cho cô.

Một ngày cô trở về nhà với vẻ mặt thất thần nhợt nhạt, anh lo lắng hỏi cô có phải bị bệnh rồi không? Cô chỉ mỉm cười nói: “Em hơi mệt thôi!” rồi hân hoan rút từ trong túi ra một tờ bạc nhét vào tay anh: “Chúng mình có tiền rồi anh ạ, mình đi mua một chiếc chăn thật ấm để đắp nhé.” Anh sững người ngạc nhiên nhìn tờ tiền trong tay cô, giọng run run: “Làm sao em lại có nhiều tiền vậy?” Cô vui vẻ kể lại cho anh tiền là do cô kiếm được khi đi phát tờ rơi. Cô phải đứng từ sáng đến tối mới được trả ngần ấy tiền. Nói rồi cô vội vàng kéo anh ra khỏi nhà, không cho anh hỏi thêm điều gì nữa. Họ mua môt cái chăn vừa tầm tiền. Từ đó, giữa đêm cô không còn bị giật mình thức giấc nữa.

Vài năm sau, anh tìm được công việc tốt hơn, rồi kiếm được nhiều tiền, tự mở công ty. Không bao lâu anh đã xây cho cô một ngôi nhà khang trang, mua ô tô cùng rất nhiều đồ dùng đắt tiền khác. Anh nói muốn dành cho cô một cuộc sống ấm no đầy đủ bù đắp lại những tháng ngày khó khăn vất vả trước đây. Cuộc sống bỗng vụt thay đổi khiến cô có phần bàng hoàng chưa kịp thích nghi với điều kiện mới.

Ngày chuyển nhà, anh bảo những đồ đạc cũ trong căn nhà kho của họ trước đây anh đều muốn vứt đi không giữ lại bất cứ cái gì. Nhưng cô khăng khăng nói muốn giữ lại cái chăn để đắp. Và rồi một thời gian dài nữa họ vẫn dùng cái chăn cũ ấy, giờ đây nó đã trở nên xù xì cũ kĩ, còn bị rách khá nhiều chỗ. Anh không ngừng phàn nàn với cô: “Thôi bỏ cái chăn cũ này đi em, mình có thể mua một cái chăn mới ấm áp và tốt hơn rất nhiều. Em xem cả nhà mình toàn những đồ đắt tiền, nhìn cái chăn cũ này trong nhà trông thật chướng mắt”. Nhưng cô vẫn cố chấp nhất quyết giữ lại cái chăn cũ ấy, vì chỉ khi đắp nó cô mới cảm thấy ấm áp và được che chở.

Một hôm, anh về nhà mang theo một cái chăn mới và nhất quyết bảo cô bỏ cái chăn cũ đi. Lần này dù không nỡ nhưng cô vẫn nghe theo lời anh. Từ đó, hàng đêm cô ngủ không còn ngon giấc nữa, trong lòng cô lúc nào cũng cảm thấy thấp thỏm lo lắng khiến cô lại không ngừng giật mình giữa đêm. Và mỗi lần tỉnh dậy như thế, hai mắt cô lại đầm đìa nước. Anh vốn không biết rằng để mua được cái chăn đó cô đã phải đi bán máu lấy tiền chứ không phải đi phát tờ rơi như cô nói với anh. Lần đầu tiên bán máu, biết bao đau đớn, cũng chỉ vì muốn có cái chăn này. Vậy mà anh lại nỡ vất bỏ nó. Cô dần cảm thấy anh không còn yêu cô như xưa nữa.

Một ngày anh có việc gấp phải ra ngoài, quên mang theo máy tính xách tay quen thuộc. Trên màn hình của anh vẫn hiện lên trang blog anh viết hàng ngày. Và cô bất chợt đọc được dòng chữ anh hình như mới viết không lâu.

“Ngày hôm ấy em từ đâu về khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt khiến cho tôi lo lắng vô cùng. Rồi em nói em đi phát tờ rơi để mua chăn cho hai đứa. Tối hôm đó chúng tôi nằm ngủ ấm áp trong chiếc chăn mới, thấy em nằm cuộn tròn trong lòng tôi say trong giấc ngủ, tôi thương em biết bao. Đã bao đêm rồi em không được ngủ ngon đến vậy. Và rồi tình cờ tôi nhìn thấy trên tay em có một vết sưng nhỏ, dường như bị kim tiêm đâm vậy. Tôi bỗng hiểu ra tất cả. Hóa ra em nói dối tôi em đi phát tờ rơi, thực ra em đã đi bán máu để có tiền mua chăn, chỉ vì một cái chăn mà em đã phải khổ sở đau đớn đến vậy. Đêm đó tôi đã khóc vì thương em và cũng thầm hứa sẽ cố gắng làm việc, phấn đấu trở thành một người thành đạt, để có thể bù đắp lại những ngày tháng khốn khó này cho em. Và giờ đây tôi đã thực hiện được lời thề đó. Hôm qua tôi quyết định đến trạm hiến máu, tôi chỉ muốn cảm nhận một chút nỗi đau em từng trải qua. Khi chiếc kim tiêm đâm vào mạch máu, một cảm giác nhói buốt lan dọc khắp cơ thể. Nhưng tôi không thấy đau, ngược lại, rất hạnh phúc. Tôi lấy tiền bán máu và đi mua chiếc chăn mới này. Tôi muốn nó là món quà bất ngờ dành cho em…”

Nước mắt cô đã ướt đẫm tự độ nào. Hóa ra tình yêu của anh dành cho cô vẫn sâu đậm và lớn lao đến vậy. Mùa đông năm nay anh đã đổi máu của mình tặng cho cô chiếc chăn ấm, có lẽ đó cũng sẽ là chiếc chăn ấm áp nhất cô có trong đời…(Sưu tầm)

             Nên chăng áp dụng câu truyện trên vào trường hợp của các đấng bậc vị vọng trong đạo?

Phải chăng, các cặp vợ chồng ngày nay vẫn sống đẹp như cặp phối-ngẫu trong truyện kể trên? Áp-dụng trường-hợp hành-xử của đấng bậc chốn chóp bu nhà Đạo, cũng thế ư? Cũng thế là thế nào? Phải chăng sự việc cũng đơn-sơ/chân-chất như nhiều người tưởng?

Thôi thì, trước khi trả lời câu hỏi này, tưởng cũng nên về với vườn hoa thơm phức những lời vang đầy khuyến-dụ mà người đời gọi là Kinh Sách rất thánh, có những giòng như sau:

“Thưa anh chị em,

chúng tôi xin anh chị em hãy quý trọng

những ai đang vất vả vì anh chị em,

để lãnh đạo anh chị em nhân danh Chúa

và khuyên bảo anh em.

Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy,

vì công việc họ làm.

Hãy sống hoà thuận với nhau…

hãy khuyên bảo người vô kỷ luật,

khích lệ kẻ nhút nhát,

nâng đỡ người yếu đuối,

và kiên nhẫn với mọi người.

Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi

và cầu nguyện không ngừng.

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.

Anh em hãy làm như vậy,

đó là điều Thiên Chúa muốn…”

(1 Thessalônikê 5: 12-19)

 Chiếu lời vàng ở trên, nhiều bạn lại đến hỏi bần-đạo: phải chăng, đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo, đã từng thực-hiện lời dặn như thế, chứ?

Hỏi những câu tương-tự, thì ai mà trả lời cho thoả-đáng, chứ! Vâng. Thay vì trả lời/trả vốn cho đúng cách/đúng sự thực, thiết tưởng ta cứ đi vào với lời bình (rất) luận hoặc nhận-định rất chuẩn của giới truyền-thông/báo chí, để rồi có lập-trường/nhân-sinh sao cho phải lẽ.

Vâng. Đúng như thế. Thôi thì, mời bạn và mời tôi, ta thử xét lời bàn của sử gia Vatican là Alberto Melloni từng phát-biểu về chuyến gặp mặt giữa hai đấng bậc chóp bu Công-giáo và Chính-thống Nga, sau đây:

“Alberto Melloni, một sử-gia chuyên về Vatican lại cũng biểu-lộ cho thấy, là: cuộc họp thượng-đỉnh ở Cuba hàm-ẩn ý-nghĩa của thứ địa-lý chính-trị, bởi lẽ cuộc họp mặt này lại diễn ra ngay vào lúc các nhà ngoại-giao tầm cỡ của Hoa-kỳ và châu Âu đang cùng nhau hợp-tác tính chuyện cách ly nước Nga khỏi vòng cương-toả của nước lớn. Giáo-hội Nga lại chặt-chẽ đặt mình cùng hàng với chính-phủ của nước này. Ông Melloni nói thêm: cuộc họp cấp cao với Giáo-hoàng Công-giáo chắc chắn phải có sự đồng-thuận của ông Putin. Chấp-thuận gặp gỡ, cho phép tổng thống nước Nga có được cung-cách khác-biệt mà ông có thể dùng đến hầu tránh khỏi mọi ly-gián. Với Putin, thì gặp gỡ như thế rất có lợi, bởi đây là thứ chính trị tùy thuộc địa lý/địa-hình của các nước.

 Riêng Giáo Hoàng Phanxicô đã chứng tỏ mình là con người đầy tham-vọng, một diễn-viên ngoại-giao trên chính trường thế-giới. Ông giúp các nhà môi-giới bán-buôn có được sự hoà-giải giữa Hoa-kỳ và Cuba , và nhất thứ là ông lại đạt được sự tôn-kính từ ông Castro, tổng-thống Cuba . Đổi lại, ông Castro giúp giàn xếp các kế-hoạch gặp gỡ vào tuần tới.

 Giáo Hoàng Phanxicô cũng thẳng-thắn tiến về phía trước để hoàn-thành một mục-đích khác mà lâu nay Vatican hằng trông ngóng, đó là việc tái-tạo các bang-giao quốc tế với Trung-Quốc. Giáo-hoàng Phanxicô từng cho biết ao-ước của ông muốn trở-thành vị Giáo-hoàng đầu tiên sang thăm nước Trung Hoa lục địa.

 Tuần này, Giáo hoàng Phanxicô sẽ dùng cuộc phỏng-vấn với tờ Asia Times, một ấn-bản bằng tiếng Anh phát-hành tại Hồng Kông để chuyển-tải lời chúc mừng Năm mới Âm-lịch đến nước này và đưa ra lời trấn-an vốn dĩ bảo rằng: một nước Trung Hoa đang lớn mạnh không có nghĩa là đe-doạ cho ai hết.

 Vị Giáo-hoàng này đã nói trong cuộc phỏng-vấn rằng: “Với tôi, Trung Quốc lâu nay vẫn là trọng-điểm của sự cao cả. Là một đất nước vĩ-đại; và hơn cả quốc-gia nữa, mà là một nền văn-hoá vĩ-đại có sự khôn-ngoan hiểu-biết rất vô-tận.” (X. Elisabetta Povoledo, Pope Francis set for historic meeting with leader of Russian Orthodox Chursh , New York Times 06/02/2016)

Xem xét thế rồi, nay ta cũng nên có giòng chảy lịch-sử về vai trò chóp bu trong Đạo, theo tầm nhìn của một số học-giả chuyên ngành, như sau:

“Khi đế quốc La Mã chinh-phục toàn thế-giới lúc ấy, giới ngoại-đạo đã triển-khai từ xứ miền Babylon lan rộng đến nhiều nước khác nhau và từ đó, hệ-thống đạo-giáo của La Mã cũng từ đó xuất-hiện với nhiều người. Điều này bao gồm cả ý-niệm cùng vai-trò của vị Trưởng-tế cao-cấp nhất mà người Âu Châu dùng cụm từ “Pontiff” là dựa vào tên tuổi của Pontifex Maximus. Thế nên, giới ngoại-đạo Babylon, lúc đầu được thể-hiện dưới triều vua Nimrod, sau này kết-hợp dưới quyền-uy thế-lực của một đấng trị vì là Julius Caesar. Khi ấy, vào năm 3 trước Công nguyên, là lúc Hoàng đế Julius Caesar đã chính-thức được coi là “Pontifex Maximus” của đạo-giáo bí-ẩn, nay thiết-lập tại Rôma.

Có điều lạ, là: vào thời Đức Giêsu đang rao giảng, người nghe Ngài giảng có mang đồng tiền kẽm khắc hình Hoàng đế Augustus Caesar (27-14 trước Công nguyên) đến cho Đức Giêsu coi, và Ngài hỏi: “Tiền này khắc hình ai thế? Và họ trả lời: hình Hoàng-đế Caesar…” (Mt 22: 17-22)

Các hoàng-đế La Mã (trong đó có cả Constantine thời sau này) đã tiếp tục duy-trì chức-năng của Trưởng-tế Pontifex Maximus mãi đến niên-biểu 376 khi Gratian vì các lý-do tôn-giáo đã từ chối nó. Ông ta coi danh-xưng và chức-năng này mang tính “ngẫu-thần” rất báng-bổ. Mãi cho đến khi ấy, Giám mục thành La Mã được nâng quyền-bính chính-trị và thanh-thế. Kết quả là, vào năm 378, Đức Giáo-hoàng Demasus, Giám-mục thành La Mã được bầu là Trưởng-tế tối cao, tức: Pontifex Maximus, là vị thượng-tế cao-cấp nhất của các quyền-lực thần-bí được chính-thức công-nhận.

Cũng từ đó, Rôma (tức: La Mã) đã được coi là thành-trì quan-trọng nhất trên thế-giới, và tín-hữu Đạo Chúa lại đã coi vị Giám-mục thành La Mã như “Giám-mục của các giám-mục” làm đầu Hội-thánh. Điều này gây ra tình-huống có một không hai trên thế-giới. Và, một người duy-nhất được coi là “Đấng làm đầu” của mọi tín-hữu cả Đạo Chúa lẫn giới ngoại-đạo. Đến khi ấy và vào các năm tiếp theo sau, giòng chảy ngoại-đạo và Đạo Chúa đã đan xen và cùng chảy với nhau và vào nhau tạo những gì được gọi là Hội thánh Công-giáo La Mã, dưới sự lãnh-đạo của vị Trưởng-tế cao-cấp nhất, mà ngày nay ta gọi là Đức Giáo Hoàng, hay Giáo-Chủ…” (X. Alexander Hislop, The Two Babylons, New York: Loizeaux Brothers 1959, tr. 207)

            Nói thế tức bảo rằng: các tôn-giáo đều có gốc-nguồn từ ngoại-giáo ư? Có quá đáng lắm không? Có lẽ là không. Bởi đó là lịch sử hoặc dã-sử về các đạo-giáo cũng như Công giáo La Mã mình. Bởi, Đạo Chúa đâu do Đức Giêsu thiết-lập, nhưng lại xuất-phát từ Do-thái-giáo, rất Babylon . Babylon xưa, là nguồn-cội của nhiều Đạo đã biến-hoá và phát-triển khắp thế-giới theo chiều ngang/dọc và có thể cả chiều cao, cũng không chừng!

Có thể nói: dù muốn dù không, người người không thể chối bỏ lịch-sử ngàn năm văn-vật rất Babylon . Chí ít là chuyện Đạo và đặc-biệt là chuyện giữ Đạo và sống Đạo. Vấn-đề có thành hay không là hỏi rằng: dù ở hoàn-cảnh/môi-trường nào đi nữa, người ta –tức ta và người – đã và sẽ sống Đạo ra sao? Đạo ấy từ đâu đến? Do Ai? Và của Ai?

Hôm nay, nói thế không phải để chê-trách, cãi cọ chuyện này nọ, nhưng chỉ bảo nhau bằng ca-tư rất “êm ru” ở bài hát rất bên trên, rằng:

“Hầy hô! Hây Hồ! Hây hô!

Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ

Ôi êm ru ngày mùa…

 Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

Hầy hô! Hây hồ! Hây hô…

(Phạm Duy – bđd)

Nhớ và hát thế rồi, hẳn tôi và bạn cũng sẽ không quên lời nhắc nhở của bậc thánh-hiền vẫn cương-quyết nhắc hoài và nhắc mãi những câu như:

“Hãy sống hoà thuận với nhau…

hãy khuyên bảo người vô kỷ luật,

khích lệ kẻ nhút nhát,

nâng đỡ người yếu đuối,

và kiên nhẫn với mọi người.

Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi

và cầu nguyện không ngừng.

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.

Anh em hãy làm như vậy,

đó là điều Thiên Chúa muốn…”

(1 Thessalônikê 5: 12-19)

 Sống vui mừng, hoà-thuận mãi với mọi người. Hẳn, đó là lời khuyên và bàn rất muôn thuở.

 Trần Ngọc Mười Hai

Nay chả dám khuyên

Chả dám bàn với những ai

ngoài chính mình mình, mà thôi.

KHÔNG CẦN BIẾT EM LÀ AI

KHÔNG CẦN BIẾT EM LÀ AI

Xã hội càng văn minh, phụ nữ càng được giải thoát, và ngược lại.  Ðó là thước đo mức tiến bộ nhân loại.  Ngày xưa, ngay trong dân Chúa, số phận phụ nữ cũng không khá hơn các dân khác.  Câu truyện ném đá người phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình.

Theo Kinh thánh, trong vụ án ngoại tình, cả hai đồng phạm đều phải đưa ra ném đá (Lv 20:10; Ðnl 22:22).  Thế nhưng, những nhà lãnh đạo Do thái đã cố tình coi thường luật này.  Họ chỉ bắt người phụ nữ, mà không tố cáo người đàn ông tòng phạm.  Các người lãnh đạo đã dùng người phụ nữ này như một chiếc bẫy lừa Ðức Giêsu.  Nếu Người không đồng ý ném đá, họ sẽ tố cáo Người vi phạm luật Môsê.  Nếu Người không đồng ý, chưa chắc họ đã nghe theo Người, trái lại có thể họ vịn vào cớ đó để lên án và ném đá cả Chúa lẫn người phụ nữ ngoại tình.  Nếu Người khuyến khích họ xử tử nàng, họ sẽ báo cáo cho quân Rôma biết Người chống lại lệnh cấm người Do thái thi hành án tử hình (Ga 18:31).  Nếu thế, còn đâu hình ảnh nhân hậu của Người trong lòng dân?  Những người lãnh đạo Do thái thâm độc thật!

CHUA VE TREN DAT

Bên ngoài, họ có vẻ là những người tha thiết với Luật Môsê và bảo vệ công lý.  Nhưng thực ra, họ muốn thử thách đức nhân hậu và lòng bác ái của Người.  Làm sao vừa giữ vững công lý vừa duy trì được lòng nhân ái đối với mọi người?  Thật là một bài toán hóc búa.  Vậy mà, Người đã tìm thấy đáp số rất tài tình.  Chỉ cần một câu hỏi gọn nhẹ, nhưng xoáy sâu vô nội tâm, Người đã có thể phá tan hàng rào pháp lý và đám đông dầy đặc đang thét gào chung quanh.  Tất cả lời tố cáo đều im bặt trước câu thách đố: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7).  Một tiếng sét xé ngang bầu trời ồn ào hôm đó và đâm thấu tận tim đen đám đông.  Tất cả đã từ từ rút đi sau một giây hồi tâm.  Như thế, Chúa vừa cứu được người phụ nữ ngoại tình, vừa làm cho đám đông, nhất là giới lãnh đạo, trở về với sự thật lòng mình.  Họ lần lượt ra đi như một lời thú tội.  Thế là họ mắc vào bẫy chính mình đã giương lên.  Còn Chúa, Người chẳng cần giương bẫy, nhưng đã bắt được cả hai con chim.
Khi trở thành nạn nhân của những mưu thâm chước độc, con người biến thành phương tiện cho con người.  Người phụ nữ ngoại tình chỉ là một phương tiện được dùng để tố cáo và lên án Ðức Giêsu mà thôi.  Người không bao giờ xử dụng con người làm phương tiện cho mình.  Trái lại, không những lấy con người làm trung tâm cho sứ mệnh của mình, Người còn tự biến mình thành “con đường” (Ga 14:6) cho con người đến với Chúa Cha.  Người đã hy sinh tất cả cho con người.  Con người trở thành mục đích cho toàn thể công trình sáng tạo và cứu độ.  Thật thế, vì là “hình ảnh Thiên Chúa” (St 1:27), con người được Thiên Chúa đặt ở “trung tâm và tột đỉnh mọi loài thụ tạo.” Chúa đã thấy tất cả phẩm giá lớn lao đó nơi người phụ nữ ngoại tình, dù tội nàng có lớn tới đâu.  Trái lại, những nhà lãnh đạo Do thái đã đồng hóa con người với tội lỗi, nên nàng không còn lý do hiện hữu trên cõi đời này nữa.  Tội nhân không còn cơ hội để làm lại cuộc đời.

Trong suốt thời gian căng thẳng giữa rừng người khát máu, Chúa Giêsu luôn bình tĩnh và sáng suốt để tìm đường thoát hiểm cho người phụ nữ nạn nhân và cho chính mình.  Người giúp đỡ cô, nhưng không hề bênh vực cho tội ngoại tình của cô.  Bằng chứng, sau khi “tòa án nhân dân” đã giải tán, Người không quên căn dặn: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11).  Còn lời nào cương nghị và đầy nhân ái hơn?

Chính vì thế, tội nhân đã tìm đến với Ðức Giêsu để tìm một cơ hội lớn trở về với Thiên Chúa.  Không còn con đường nào khác!  Không những phẩm giá họ được nhìn nhận, nhưng họ còn được đưa vào mối tương quan với Thiên Chúa.  Vì được dựng nên “giống hình ảnh Thiên Chúa,” (St 1:27) nên “tự bản chất, con người hiện hữu trong tương quan chủ yếu và sâu xa nhất với Thiên Chúa.”  Như thế, trước sức mạnh tình yêu, tội lỗi không thể hủy diệt bản chất đó của con người.  Tình yêu nối lại mối dây thân tình sâu xa giữa con người với Thiên Chúa.  Tình yêu đó chỉ có thể tìm thấy nơi Con Người Ðức Giêsu trên Thánh Giá.

Tình yêu mạnh hơn sự chết.  Không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng hành động, Ðức Giêsu đã cứu con người không những thoát khỏi đám đông khát máu, nhưng khỏi bàn tay ác thần hung bạo.  Người giải thoát không những thể xác khỏi cái chết đời này, nhưng cả linh hồn khỏi cái chết đời sau.  Chính vì Người đã chết, toàn thể nhân loại được cứu sống và đi sâu vào tình yêu Chúa Cha.  Cái chết trên thập giá trở thành cần thiết cho sự sống nhân loại.  Khi cứu sống nhân loại, Người không nhìn vào tội ác họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng nhìn vào chính con người với tất cả giá trị cao cả của họ nơi Thiên Chúa.  Chính vì hạnh phúc và phẩm giá con Thiên Chúa của họ, nên Chúa đã chấp nhận tất cả.
Khi thấy nhân loại phạm tội, Người đã không tra cứu sách luật hay Kinh thánh.  Trái lại, Người nhìn sâu vào lòng nhân từ của Chúa Cha và hình ảnh của Cha nơi nạn nhân, để đem lại một chiều kích mới mẻ và toàn triệt cho lề luật.  Con người đã không có được cái nhìn như thế, nên mới dễ bạo động.  Chính Người cũng đã trở thành nạn nhân của đám đông bạo động.

Ðám đông thời ấy và đám đông thời nay có khác nhau không?  Giả sử, đứng giữa “tòa án nhân dân,” Chúa Giêsu cũng đặt vấn đề tương tự như thế, liệu có ai dừng tay và bỏ đi không?  Dầu sao đám đông thời Chúa Giêsu vẫn còn lương tâm và biết nhìn nhận sự thật.  Ðám đông ngày xưa vẫn can đảm hơn đám đông ngày nay.  Còn ngày nay, biết bao người đã chết oan vì lương tâm không còn hoạt động nơi đám đông.  Chẳng hạn, biết bao nạn nhân vô tội đã gục ngã trong những vụ cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc Việt.  Sự thật thuộc về đám đông chuyên môn “lấy thịt đè người.”  Dù biết mình sai, họ vẫn không có can đảm nhìn nhận sự thật và không dám rút lui vì sợ bẽ mặt.  Trái lại, họ còn dựa vào sức mạnh vũ khí, nhà tù, quyền lực để áp đảo tiếng nói lương tâm và chà đạp sự thật.
Cuộc đấu tố ngày xưa ở Bắc Việt và những cuộc bắt bớ các nhà tranh đấu cho dân chủ trong nước hiện nay có khác việc lên án phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay không?  Có khác chăng là phụ nữ ngoại tình có tội thật, còn những người bị đấu tố và các nhà đấu tranh cho nhân quyền ở trong nước có tội gì?  Phải chăng hành động theo tiếng lương tâm là một thứ tội?
Ai dám bênh vực họ đây?  Ngày xưa, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ bênh vực và tìm cách giải thoát phụ nữ ngoại tình, mặc dù biết nàng là người có tội.  Hôm nay, Nhiệm Thể hay Hiền Thê của Người là Giáo Hội không đủ can đảm bênh vực cả những người vô tội hay sao?  Phật Giáo Thống Nhất có những vị lãnh đạo cao cấp như Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ dám hy sinh cả đời để tranh đấu cho tự do tôn giáo.  Còn Giáo Hội Công Giáo Việt nam, Hàng Giáo Phẩm đang ở đâu?
Lạy Chúa, từ trước tới nay, con đã làm gì khi anh em xúc phạm đến con?  Con luôn muốn công lý phải được thi hành.  Lúc nào con cũng có đủ lý do biện hộ cho việc phục thù của con.  Chắc chắn hôm nay Tin Mừng đòi hỏi con phải cúi xuống tĩnh niệm, trước khi đụng đến tha nhân.   Xin cho con luôn sẵn sàng dành cho anh em một cơ hội.   Xin hãy mở trái tim con ra để mọi người thấy tình yêu Chúa đang sôi sục trong con.  Amen!

 Đỗ Lực

BIỂN MÙA NÀY LẶNG SÓNG

BIỂN MÙA NÀY LẶNG SÓNG

Tìm đến biển vào một ngày cuối xuân, dường như cái nắng nhẹ vàng đang nhuộm màu biển cả, làm làn nước ấy thêm xanh.  Nhưng lạ một nỗi, sóng biển hôm nay đã bớt rì rào, và có lúc lắng lặng.

BIEN

Người ta thường tìm đến biển để cảm được một chút nào đó sự bé nhỏ của phận người.  Quả thật không sai.  Khi đứng trước biển bao la kia, con người chỉ còn là một chấm phết, chẳng đủ lớn lao để có thể góp phần vào bức tranh kỳ vĩ xanh một màu mang tên biển cả.  Nhỏ bé vô cùng!

Có người lại tìm đến biển để mong bắt gặp một cõi bình yên.  Giữa biển chiều vắng, thả bộ thong dong, nghe làn gió mát, để hồn phiêu diêu theo từng nhịp sóng vỗ bờ; bình yên.  Hay đơn giản chỉ là nhìn ngắm, trông về phía xa ngoài khơi nơi những con tàu ẩn hiện, nơi ngọn hải đăng chốc chốc vụt sáng rồi tắt đi, nơi đôi mắt chẳng còn nhìn thấy bờ; bình yên đơn giản là thế.  Nhưng liệu biển đất trời kia có thể mang bình yên vào hồn người đang mong ngóng?

Thật ra, sóng biển kia chỉ vỗ theo nhịp sóng trong lòng kẻ ngắm nhìn.  Hãy để ý mà xem, khi lòng người xô bồ nhộn nhịp, họ chẳng thể đụng chạm được cái nhẹ êm của biển, dù chỉ với những con sóng lăn tăn.  Còn nếu lòng tịnh lắng, sóng biển kia dù vồn vã xô nhau vẫn chỉ là những cú vỗ êm đềm.  Vậy ra, biển của trời đất kia lặng hay nổi sóng chẳng phải vì tự nó vốn thế, nhưng vì sóng trong lòng người đang lắng hay đang mãi xô bờ, từ đó hòa điệu với nhịp vỗ của tự nhiên.

Và biển mùa này lặng sóng.  Thật ra sóng biển cả vẫn vỗ, nhưng sóng lòng đang lắng để có thể khắc khoải trong một mùa thánh thiêng, mùa sám hối, mùa trở về.

Nói cho cùng, nếu biển của đất trời lặng sóng, nó sẽ chẳng còn là biển.  Nhưng còn lòng người, nó vẫn mãi là nơi mà ta gọi là tâm hồn, và tâm hồn ấy sẽ tĩnh hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn, nếu những cơn sóng ở đó tan đi.  Bạn mệt mỏi và quay quắt với bài vở, công việc, bạc tiền; sóng lên.  Bạn ngập chìm trong cảm giác cay đắng của thất bại, của tổn thương; bạn tức tối, hận thù, kiệt sức vì mãi tranh giành, để tìm chỗ đứng; lòng bạn nổi sóng.  Bạn yêu, bạn ghét, bạn nhớ thương đợi chờ trong những mối tình nhân loại; lòng bạn yên được sao?  Đôi khi sự giả trá và cả những đổ vỡ bất công nơi môi trường bạn sống cũng khiến lòng bạn sóng lên.

Mùa Chay đã qua nửa chặng đường, bạn có muốn lòng mình lắng một chút với những con sóng thế gian?  Mời bạn ngồi xuống, ngồi trước biển lòng bạn trong cõi riêng tư, và nghe những tiếng sóng vỗ vào hồn.  Chúng sẽ lặng đi trong cõi tĩnh mịch của riêng bạn.  Chính khi để những cơn sóng ngủ yên là khi bạn trở về.  Và lúc đó bạn sẽ nghe rõ tiếng tình yêu Thiên Chúa đang ngỏ cùng bạn, từ muôn thuở.

Mùa Chay 2016,

Nguyễn Minh Vương, S.J.

HAI CON NGƯỜI

HAI CON NGƯỜI

TRM THIÊN THU

 

Trong mỗi chúng ta đều có hai con người – hai bộ mặt. Một con người luôn hướng thiện với lương tâm tốt, nhân chi sơ tính bổn thiện, đó là tiếng nói động viên của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thin như Cha trên tri (Mt 5:48). Một con người theo hướng ác với lương tâm lệch lạc, đó là tiếng nói xúi giục của ma quỷ: “Chng chết chóc gì đâu! (St 3:4). Hai con người, nhưng chỉ một cuộc đời. Vì thế, với hai con người đó, chúng ta gọi là “hai nửa cuộc đời”.

Hai con người hoặc hai “nửa” đó luôn giằng co khiến chúng ta phải thực sự can đảm và dứt khoát mới có thể hành động đúng. Khó thật! Thánh Phaolô đã phải than thở: “Điu tôi mun, thì tôi không làm, nhưng điu tôi ghét, thì tôi li c làm (Rm 7:15).

Mỗi chúng ta có hai con người nên mỗi chúng ta cũng có hai bộ mặt và hai tính cách: Hiền và dữ, tươi cười và nhăn nhó, đẹp và xấu, mềm và cứng, đen và trắng,…

Trình thuật Lc 15:11-32 là dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (trước đây gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”). Đây là dụ ngôn điển hình nhất trong ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót, và là dụ ngôn rất thực tế – hai dụ ngôn kia là “Con Chiên Bị Mất” (Lc 15:4-7; Mt 18: 12 -14) và “Đồng Bạc Bị Mất” (Lc 15:8-10).

Trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” có hai người con, một BƯỚNG BỈNH và một NGOAN NGOÃN. Đó là hình ảnh “hai con người” trong chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thường chỉ “nhắm” vào tội của người con thứ mà “làm ngơ” tội của người con trưởng (con cả).

Một hôm, khi thấy các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường ti li và ăn ung vi chúng (Lc 15:2). Có thể chúng ta không nói ra, nhưng có lẽ chúng ta cũng đã từng “liếc mắt sắc như dao cau” hoặc dè bỉu, hoặc có các động thái tương tự câu nói đó của họ.

Nghe họ rỉ tai nhau như vậy, Chúa Giêsu kể một hơi dài với ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót. Một trong ba dụ ngôn (Lc 15:11-32) là câu chuyện “rất quen” như thế này…

Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha: “Thưa cha, xin cho con phn tài sn con được hưởng. Và người cha đã chia ca ci cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư go tha, mà ta đây li chết đói! Thôi, ta đng lên, đi v cùng cha và thưa vi người: Thưa cha, con tht đc ti vi Tri và vi cha, chng còn đáng gi là con cha na. Xin coi con như mt người làm công cho cha vy. Thế ri anh ta đng lên đi v cùng cha.

Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con tht đc ti vi Tri và vi cha, chng còn đáng gi là con cha na. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đp nht ra đây mc cho cu, x nhn vào ngón tay, x dép vào chân cu, ri đi bt con bê đã v béo làm tht đ chúng ta m tic ăn mng! Vì con ta đây đã chết mà nay sng li, đã mt mà nay li tìm thy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cu đã v, và cha cu đã làm tht con bê béo, vì gp li cu y mnh kho. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm tri con hu h cha, và chng khi nào trái lnh, thế mà chưa bao gi cha cho ly được mt con dê con đ con ăn mng vi bn bè. Còn thng con ca cha đó, sau khi đã nut hết ca ci ca cha vi bn điếm, nay tr v, thì cha li giết bê béo ăn mng!.

Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng vi cha, tt c nhng gì ca cha đu là ca con. Nhưng chúng ta phi ăn mng, phi vui v, vì em con đây đã chết mà nay li sng, đã mt mà nay li tìm thy.

Vâng, chẳng cần đọc lại hoặc nghe lại vì chắc hẳn tất cả chúng ta đã “thuộc lòng” dụ ngôn này rồi, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều. Người cha không dùng quyền mà ép nó. Thiên Chúa hoàn toàn cho chúng ta tự do, không hề bắt buộc, thế nên chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc tự biện hộ với bất cứ lý do gì – nghĩa là chúng ta không thể việc cớ “tại, vì, bởi, nếu, giá mà…”.

B MT TH NHT: NGƯỜI CON TH

Bản chất con người luôn muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nghĩa là chúng ta muốn nổi dậy, thích tự do, không muốn bị gò bó. Người con thứ là “bản chất xấu” trong chúng ta. Lúc nào nó cũng tìm dịp để nổi dậy, sơ hở một chút là nó vùng lên ngay. Nó biết “đi hoang” là sai trái, nhưng nó có nhiều lý do để chống chế, tự biện hộ, và tự cho là mình hành động đúng. Trong khi đó, thằng quỷ kiêu ngạo lại cứ rỉ rả bên tai: “Chng chết chóc gì đâu mà s! (St 3:4). Thế là chúng ta cứ “vô tư” mà phạm tội!

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào, cám dỗ nào cũng đẹp, không ngọt ngào và không đẹp thì làm sao lôi cuốn? Cũng như quảng cáo nào cũng bắt mắt, bùi tai, mua và dùng rồi mới biết là… bị lừa! Những người đi lừa người khác luôn khéo nói, như thế mới có thể chiếm dụng tài sản của người khác, như thế nhiều người mới mắc lừa.

Miệng ăn, núi lở. Tiền rừng cũng hết, bạc biển cũng cạn. Sau khi ăn chơi phung phí và trác táng, không còn một xu dính túi, người con thứ mới nhận thấy mình… sai, vì sống khổ sở quá, đến nỗi thèm cám heo cũng không ai cho mà ăn. Đắn đo, nghĩ tới nghĩ lui, hết cách, bị triệt buộc, chỉ còn “đường binh” cuối là trở về với cha mà thôi.

Sự trở về nghe chừng đơn giản, ngắn gọn, nhưng thực ra không hề dễ dàng, cam go lắm. Trước khi cất bước trở về, người con thứ phải chiến đấu với chính mình rất dữ dội, giằng xé nát lòng, suy nghĩ nát óc. Đi xa về mà te tua tơi tả thì ai mà coi được! Phải “mặt dày” lắm mới có thể trở về. Một sự giằng co nữa là ngại với cha, xấu hổ lắm, không biết cha có nhận mình về hay lại đuổi đi. Gay go thật!

Vì ở bước đường cùng, người con thứ phải quyết trở về để tìm đường sống, bất đắc dĩ phải làm vậy thôi. Nó không dám mong gì hơn, chỉ dám hy vọng mong manh là cha sẽ nhận nó như đầy tớ hoặc người làm công thôi. Nhưng thật bất ngờ, người cha không chỉ tha thứ tội lỗi cho nó mà còn phục hồi cương vị làm con yêu dấu và mở tiệc liên hoan y như nó là quan trạng vinh quy bái tổ vậy. Nước mắt vẫn chảy xuôi. Tình phụ tử kỳ diệu thật!

B MT TH NHÌ: NGƯỜI CON TRƯỞNG

Người con trưởng là con cả hoặc anh hai. Chúng ta tưởng đứa con này khôn ngoan, lễ phép, nhưng không phải vậy, có thể có “khôn” nhưng chưa “ngoan”. Tại sao? Nó đã nhẫn tâm phủ nhận tình huynh đệ, tình máu mủ ruột rà, lại còn kiêu ngạo khi tự nhận mình là đứa con hiếu thảo, đồng thời so đo và đố kỵ: “Cha coi, đã bao nhiêu năm tri con hu h cha, và chng khi nào trái lnh, thế mà chưa bao gi cha cho ly được mt con dê con đ con ăn mng vi bn bè. Còn thng con ca cha đó, sau khi đã nut hết ca ci ca cha vi bn điếm, nay tr v thì cha li giết bê béo ăn mng!. Rõ ràng anh ta ở bên cha nhưng không hề thật lòng yêu thương cha, chỉ nhắm tới gia tài. Vì thế, khi thấy thằng em “trời đánh” trở về và được cha mở tiệc mừng, thằng anh ghen tức, sợ phần gia tài còn lại sẽ bị thằng em “ăn chia”.

Không chỉ ghen tương và đố kỵ, thằng anh còn mặc nhiên coi thường tình phụ tử, nó ở gần cha mà lòng lại xa cha. Nhìn người con trưởng, chúng ta thấy nó có vẻ bình thường và là đứa con ngoan ngoãn, nhưng thực ra nó nhiều tội lắm! Loại “con người” này cũng vẫn thường xuất hiện ở trong mỗi chúng ta. Có thể chúng ta không nói ra bằng lời, nhưng qua các động thái, chúng ta vẫn ngầm cho mình là người đạo đức hơn người khác: Tưới cây trong khu nhà thờ, quét nhà thờ, tham gia hội đoàn Legio, huynh đoàn Đa-minh, hội Con Đức Mẹ, hội Phạt Tạ Thánh Tâm, hội Cầu Nguyện, cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, ca đoàn, giúp lễ, đọc sách thánh, làm việc từ thiện,… Tham gia như vậy cũng rất tốt, nhưng hãy coi chừng: Đừng chỉ chú trọng bề nổi mà thiếu chiều sâu. Hãy hoạt động để sáng danh Chúa thực sự chứ đừng “đánh bóng” chính mình!

Điều MUỐN và điều CẦN không giống nhau. Có rất nhiều điều chúng ta ước muốn lắm, nhưng trong số đó vẫn có những điều thực sự không cần thiết. Ví dụ, chúng ta mua quần này, áo nọ, giày nọ, dép kia, thay đổi điện thoại đời mới, máy chụp hình,… Thế nhưng có những thứ đó hoàn toàn là lãng phí, chỉ là đua đòi, chứ thực sự chưa hoặc không cần thiết. Chúng ta thường bị ảo giác trước vẻ hào nhoáng của các vật, bị chúng làm lóa mắt, do đó mà chúng ta sẵn sàng “vung tay quá trán” và hoang phí. Đó là chúng ta bị những ham muốn lừa dối. Về lĩnh vực tâm linh cũng tương tự!

Cuộc đời như sân khấu vậy, người ta hóa trang đủ kiểu khiến người khác khó nhận biết. Các sản phẩm ngày nay cũng khó nhận ra cái nào thật hoặc giả, hàng hiệu hoặc hàng nhái. Trong cuộc sống tâm linh cũng vậy, chúng ta vẫn có nhiều loại “mặt nạ”. Phải thực sự can đảm mới đủ sức lột mặt nạ để có thể luôn luôn cứ là chính mình!

Trong chúng ta cũng có hai “con người” như hai người cầu nguyện tại Đền Thờ – người thu thuế và người Pha-ri-sêu (x. Lc 18:9-14). Ước gì chúng ta “mặc lấy” con người của người-thu-thuế-khiêm-nhường, nhưng “cởi bỏ” con người của người-Pha-ri-sêu-kiêu-ngạo.

Mùa Chay, chúng ta hãy cùng nhau “lột xác” theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em phi ci b con người cũ vi nếp sng xưa, là con người phi hư nát vì b nhng ham mun la di, anh em phi đ Thn Khí đi mi tâm trí anh em, và phi mc ly con người mi, là con người đã được sáng to theo hình nh Thiên Chúa đ tht s sng công chính và thánh thin (Ep 4:22-14).

Ly Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin cho con biết Chúa và biết con, đ con sng đúng theo Thánh Ý Ngài và nhân t vi tha nhân; xin giúp con can đm chết cho ti li đ được sng li vinh quang vi Đc Kitô Giêsu. Amen.

TRM THIÊN THU

Tin Tưởng Vào Tình Thương Của Chúa

Tin Tưởng Vào Tình Thương Của Chúa

Ngọc Nga sưu tầm

Một thương gia nọ rất giàu có và nổi tiếng là hay kiêu hãnh. Một hôm, trong cuộc giao tranh vì tiền bạc, ông ta lỡ tay sát hại thù địch. Lần đầu tiên bàn tay nhà thương gia bị dính máu và từ ngày đó mối ân hận trở nên như khối đá đè nặng tâm hồn ông. Hình ảnh người thù địch bị sát hại oan ức luôn theo đuổi ông như hình với bóng, làm ông ta ban đêm thao thức mất ngủ, ban ngày mất an bình không làm được gì nữa. Cuối cùng, ông quyết định tìm đến một linh mục để xưng thú tội mình với hy vọng tìm lại được sự an bình cho tâm hồn. Vị linh mục khuyên bảo ông thực lòng ăn năn sám hối và cương quyết đền bù tội phạm. Ông ta về nhà bán hết mọi tài sản bố thí cho kẻ nghèo khó rồi rút lui vào rừng vắng cầu nguyện, ăn chay, phạt xác để đền tội. Thế nhưng, người ấy vẫn không thể nào tìm được chút an bình cho tâm hồn.

Một hôm, trong đêm tối, người thương gia nằm mơ thấy Chúa Giêsu đến và phán bảo:

– Hỡi con, con còn một điều nữa vẫn chưa dâng hiến hết cho Cha.

Run sợ, người ấy thưa:

– Lạy Chúa, con đâu còn gì để dâng hiến Chúa nữa. Con đã dâng hiến cho Chúa tất cả rồi, nào là tiền bạc, của cải, nhà cửa, vợ con và mọi thứ thú vui thế trần. Cả đời sống con nữa, con cũng đã dâng hiến cho Chúa hết rồi, con chỉ còn tấm thân xơ xác này đây thôi. Nếu Chúa thấy con còn gì có thể dâng hiến Chúa nữa thì xin Chúa hãy phán bảo, con xin sẵn sàng hiến dâng Chúa ngay.

Với cặp mắt đầy nhân từ, tha thứ, Ngài phán:

– Hỡi con yêu dấu. Ta biết, con vẫn còn một tài sản riêng của con nữa chưa hiến dâng cho Ta, con hãy trao cho Ta các tội lỗi của con. Ta muốn nhận tất cả mọi tội lỗi của con. Nếu con vẫn còn muốn giữ lại những tội lỗi ấy thì làm sao Ta có thể tẩy rửa hết để ban tặng cho con niềm vui sướng, an bình và ơn tha thứ của Ta được.

* * *

Mỗi người chúng ta thử đặt mình dưới chân Chúa và để cho lời nói của Ngài vang dội trong tâm hồn chúng ta. Lời của Chúa là lời đầy an ủi và khích lệ biết bao, nhất là những khi chúng ta nhận ra con người xấu xa và những tội phạm của mình. Ðối với những người thành tâm thống hối và quyết tâm cải tà qui chính, lời của Chúa không phải là lời tuyên án tử hình, nhưng là lời tha thứ, là lời ân xá của tình thương vô biên không đạt giới hạn. Chính vì thế mà Ngài đã tự hạ mình và tự nguyện sống hòa mình giữa loài người để cảm thông những yếu hèn của chúng ta và để cùng đồng hành với mỗi người. Chính vì biết nhân loại cần được tha thứ nên Ngài đã tự hiến mình để chuộc lại những gì đã hư mất. Vì thế, càng tiếp xúc với thực tại sứt mẻ của mình, chúng ta càng cảm thấy cần được Ngài giơ tay chữa lành và nâng chúng ta dậy khỏi những bùn lầy của tội lỗi. Ðó cũng là lúc chúng ta làm cho Chúa hài lòng, vì chúng ta nhìn nhận Ngài thực sự là Thiên Chúa toàn năng và đầy lòng nhân từ xót thương.

Khi Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên biển cả yên lặng, Ngài nằm ngủ trong thuyền nhưng các môn đệ đâu có ý thức được sự hiện diện của Ngài giữa các ông. Ðến khi sóng to gió lớn nổi lên làm thuyền họ suýt bị chìm, lúc đó họ mới tới đánh thức Ngài dậy và cầu xin để được Ngài cứu vớt.

Cũng vậy, đối với những người còn có lòng tin tưởng vào tình thương của Chúa, thì sự ý thức được tội lỗi của mình không phải là lý do để thất vọng hoặc để trốn chạy xa Chúa. Trái lại, đó là thời điểm của ơn thánh, là tiếng Chúa gọi để chỗi dậy trở về với tình thương tha thứ của Ngài, đó là lúc chúng ta có thể tuyên xưng một cách chân thực rằng:

Lạy Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con, là nơi con nương tựa và con sẽ không bao giờ phải hổ ngươi thất vọng.

Con đặt hết tin tưởng vào Lời Chúa, cho dù tội lỗi của con đỏ như gấc và đen như mực, nhưng chỉ cần một cái nhìn xót thương của Chúa thôi, chỉ cần một giọt máu của Chúa thôi, cũng đủ để thanh tẩy con trở nên trắng hơn.

Lạy Chúa,

Con trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.

Veritas

Ngọc Nga sưu tầm

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng.”  Cách gọi này không được chính xác.  Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta.  Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng.  Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa.  Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ.  Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài.  Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời.  Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí.  Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con.  Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ.  Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng.  Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân.  Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu.  Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về.  Nó không hề nghĩ đến cha mẹ.  Nó không hề nghĩ đến tình thương.  Nó chỉ nghĩ đến cái bụng.  Về nhà để được ăn no.  Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn.  Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ.  Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con.  Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi.  Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ.  Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha.  “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy.”  Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con.  Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ.  Thế mà cha đã nhìn thấy con trước.  Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim.  Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu.  Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha.  Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù lòa.  Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã lòa rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương.”  Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con.  Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương.  Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới.  Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con.  Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con.”  Lại một cử chỉ lạ lùng.  Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con.  Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa.  Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà.  Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức.  Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già?  Vì trong tim nó thiếu tình yêu.  Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống.  Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân.  Ông chạy bằng trái tim.  Ông bay bằng tình yêu.  Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để.”  Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con.  Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó.  Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.  Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn.  Ông thật là người cha phung phí.  Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về.  Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi.  Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về.  Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho!  Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương.  Yêu thương quá độ.  Yêu thương đến vô lý.  Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương?  Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu.  Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình.  Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con.”  Nó muốn vun quén riêng tư.  Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ,” đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao.  Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha.  Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ.  Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi.  Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu.  Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án.  Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn.  Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em.  Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về.  Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về.  Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

BÍCH-VÂN-THIÊN

BÍCH-VÂN-THIÊN

Lang Thang Chiều Tím

“Bích-Vân-Thiên” là một trong những tiểu thuyết của nữ văn sĩ Quỳnh Dao.  Chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người phụ nữ Bích, Vân và một người chồng chung tên Thiên.  Vì người vợ không thể sinh con nối dõi tông đường cho chồng, nên nàng đành chấp nhận người em kết nghĩa như người vợ lẽ cho chồng.  Dù là tự nguyện, nhưng những ích kỷ ghen tương của kiếp nhân sinh đã khiến họ nhận ra rằng, cả ba không thể cùng hạnh phúc chung dưới một mái nhà.  Một người chấp nhận ra đi để hai người ở lại hạnh phúc hơn.
Những tưởng chuyện tình thơ mộng sầu muộn chỉ có trong tiểu thuyết, qua sự tưởng tượng phong phú của nhà văn.  Nhưng đâu ai biết rằng cuộc sống muôn màu sắc cũng đang dệt nên một chuyện tình tay ba đẹp lãng mạn như một bài thơ, trắc trở với những cảnh đời éo le, với phần kết vẫn còn dang dở.   “Bích-Vân-Thiên” của đời thực là một chuyện tình tay ba giữa Thu Bích, người con gái vô tư hồn nhiên, duyên dáng như viên ngọc xanh biếc giữa đời, và một Đình Vân thư sinh trắng trẻo nho nhã với cặp kiếng cận, như một áng mây lững lờ quyện lấy viên ngọc bích trong trời thu.  Hiện diện giữa họ là một Thiên Chúa vô hình lúc ẩn, lúc hiện, lúc hiền hòa yêu thương, lúc thinh thặng đến lạnh lùng.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình sùng tín đạo Phật có lòng thờ kính ông bà tổ tiên, Vân đến với Bích khi chẳng biết Thiên Chúa là ai.  Đúng rồi, Thiên là Trời, là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, dạy cho con người những điều hay lẽ phải.  Thiên Chúa của Đạo Công Giáo cũng là Ông Trời thân thiện gần gũi của dân tộc Việt Nam đấy mà, người quen cả chứ có phải ai xa lạ đâu.  Nhưng ngược với sự suy nghĩ đơn giản của Vân, người con gái mà anh đem lòng yêu mến ở đảo, trước biến cố 30 tháng Tư năm 1975 là một đệ tử đã từng được nuôi dưỡng bởi câu kinh ê a mỗi sáng chiều trong nhà dòng các Sơ.  Nàng mong muốn vợ chồng sẽ cùng chia sẻ và đồng hành bên nhau trong đời sống tự nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng.
Bản chất vốn dĩ hiền lành và chân thật, mang trong tâm hồn phần nào vẻ đẹp của Đấng Chân Thiện Mỹ, Vân tự ý tìm hiểu Thiên Chúa của Bích là ai.  Khởi đầu Vân cảm thấy khó hiểu, chuyện một Thiên Chúa từ bỏ vương quyền cao sang để sinh ra làm người trong máng cỏ nghèo nàn, rồi lại lang thang bồng bế nhau đi tị nạn xứ người.  Cũng là kiếp tị nạn cả thôi, nghe sao đồng cảm quá, giống như cảnh đời của Vân-Bích đang vất vưởng ở đảo chờ ngày định cư.  Lạ thay, càng tìm hiểu anh lại càng thấy mến thương một Thiên Chúa với tình yêu bao la dành cho con người hay phản bội chóng quên, một Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để rồi cuối cùng bị chết thảm thương nhục nhã trên cây thập giá.

Sau những tháng ngày học hỏi tìm hiểu về Đạo Thiên Chúa, năm 1984 Vân cúi đầu nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội trong nỗi ưu phiền của người cha già ở phương xa, mà sau này khi đại gia đình được đoàn tụ, ông thường hay trách cứ: “Anh con theo Đạo để lấy vợ thì ba không buồn, nhưng con theo Đạo thì ba rất buồn vì con quá sùng tín.  Con là một đứa con bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ mà theo Đạo vợ.”  Trái tim Vân tan nát, anh chỉ biết cúi đầu im lặng mỗi khi nghe lời phiền trách của người cha yêu dấu.  Cha Vân đâu ngờ rằng đứa con trai này chịu phép rửa tội bằng con tim thổn thức của tuổi trẻ đi tìm chân lý, bằng nỗi khát khao nhiệt tình của người vừa tìm ra được lẽ sống đời mình, chứ không phải rửa tội chỉ để lấy vợ, như người đời thường nói: “Con quỳ lạy Chúa trên cao, con lấy được vợ con thôi nhà thờ.”

Từ đó Thiên Chúa luôn luôn hiện diện giữa Bích-Vân trong mọi biến cố buồn vui, thăng trầm của cuộc sống.  Cuộc tình nhẹ nhàng êm đềm như một bài thơ qua dòng thời gian lững lờ trôi.  Mối tình tay ba “Bích-Vân-Thiên” được triển nở khi Bích-Vân chính thức nên một trong Thiên Chúa qua bí tích Hôn Phối vào tháng 12 năm 1985.  Hạnh phúc gia đình thêm viên mãn với sự góp mặt của hai thiên thần nhỏ, một trai một gái.  Hơn 30 năm trôi dạt xứ người, phồn hoa phú quý nơi xứ sở giàu có văn minh chỉ làm Vân tăng thêm lời tạ ơn.  Đức tin của Vân ngày càng lớn dần theo thời gian cùng với tình yêu anh dành cho cả hai, Thiên Chúa và Bích.   Không chỉ giữ riêng đức tin cho mình, với tình yêu mãnh liệt mà anh cảm nhận được từ Thiên Chúa, anh mạnh dạn chia sẻ đức tin đó cho người cha và anh em trong gia đình mình.  Gương sống và hạt giống đức tin đã sinh hoa kết trái nơi người em gái mà lần này với sự đồng thuận của người cha: “Con đã quyết định theo Đạo Công Giáo thì theo cho đến nơi đến chốn.” Người anh kế và cậu em trai cũng một lòng tin kính Chúa mặc dầu chưa chính thức vào Đạo, nhưng bản thân họ đã tự nhận mình là Kitô hữu.  Vân không chỉ ngừng lại nơi đây, anh tích cực chia sẻ đức tin đó cho những người nghèo khó bệnh tật, cho những người già yếu trong viện dưỡng lão, cho ban Giáo Lý Dự Tòng, ban Tĩnh Tâm Linh Thao, phong trào Cursillo, cho các sinh hoạt mục vụ khác của giáo xứ, và là cánh chim đầu đàn cho phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Thung Lũng Hoa Vàng.  Với cây đàn guitar, với giọng hát sôi nổi trầm ấm, với những lời nguyện chân thành bộc phát từ trái tim cháy bỏng, đức tin mạnh mẽ của anh đã sưởi ấm bao cõi lòng băng giá vì vắng bóng niềm tin.  Trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào, Bích-Vân cùng sát cánh, chia sẻ và hổ trợ cho nhau như hai người bạn thiêng liêng tâm đầu ý hợp.

Ấp ủ trong tim lời mời gọi thầm thì nhưng tha thiết yêu thương của Thiên Chúa, Bích-Vân mơ ước dành trọn cuộc đời còn lại để ra đi phục vụ tha nhân.  Nhưng cuộc đời không như là mơ, dẫu giấc mơ đó thật là cao quý!  Làm chứng cho đức tin của mình bằng cuộc sống tông đồ nhiệt thành hình như chưa đủ.  Thiên Chúa muốn đức tin của Bích-Vân và gia đình phải được thử thách tôi luyện, chứng nhân của Ngài phải đổ máu trong một bi kịch oan nghiệt trớ trêu.  Trong một buổi sáng định mệnh ngày 3 tháng 3 năm 2011, khi bệnh tình trở nặng vì những ảnh hưởng nguy hại của các thuốc an thần, anh cần phải được khẩn cấp nhập viện.  Tổng đài 911 đã nhận được thông báo để cấp cứu…  Xe cứu thương và xe cảnh sát đã tới.  Nhưng than ôi, trong khoảnh khắc tích tắc, một viên đạn oan nghiệt từ một người cảnh sát không quen biết, không thù oán đã kết thúc cuộc đời anh.  Anh ra đi đột ngột không hiểu tại sao mình lại bị giết ngay trong chính ngôi nhà của mình, nơi vừa được một vị linh mục làm phép nhà cách đó ba hôm, nơi mà hai vợ chồng mơ ước sẽ làm nhà tĩnh tâm, là nơi hội họp cầu nguyện cho anh chị em… Cuối cùng anh đã trở về bên Giêsu, Đấng mà anh được rước vào lòng mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể.  Anh đã vĩnh viễn trở về với Đấng Tạo Hóa, Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng mà suốt cả cuộc đời anh khát khao tìm kiếm, và cũng chính vì Ngài mà anh mang tội bất hiếu.
Từ khi bị bịnh, anh đã chuẩn bị sẵn sàng để ra đi, cho dù là cách nào, vào bất cứ lúc nào.  Nhưng thực tế cái chết tức tưởi oan ức của anh đã gây đau khổ, khó chấp nhận cho những người thân còn ở lại.  Đức tin của người vợ, hai con đang chập chững bước vào đời, hai bên cha mẹ già, anh em đạo cũ, đạo mới, chưa theo đạo bị thử thách dữ dội.  Trong giây phút mà sự dữ lên ngôi, thần chết tưởng như chiến thắng, cái ác cười ngạo nghễ trên sự thiện, người ta khó lòng mà giải thích được tại sao một người đạo đức, sống tốt lành thánh thiện như anh lại có một cái kết thúc bi thảm như vậy.  Người đời sẽ chẳng bao giờ giải thích được, trừ phi họ nhìn lên cây thập giá, nơi Chúa Giêsu Kitô chịu chết treo ô nhục trên đồi Canvê.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh bi ai trùm kín một màu tang tóc buồn bã, không phải là đích đến của những Kitô hữu.  Đàng sau ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Chúa Nhật Phục Sinh chiến thắng khải hoàn.  Nhưng trong cơn sầu khổ tuyệt vọng, lệ nhòa mi mắt thì bóng dáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh xa vời mờ nhạt quá.

Giữa những tiếng xì xầm của thế gian, tiếng cười đắc chí đắc thắng của thần dữ, người thiếu phụ gục xuống trước nỗi mất mát quá tang thương này.  Chị rút vào thanh vắng một thời gian dài, xa lánh phần lớn bạn bè người thân quen.  Chị tránh những ánh mắt thương hại tội nghiệp, né những câu hỏi han tò mò, ngại ngùng khi phải nghe những lời an ủi nhiệt tình nhưng vô duyên lạc điệu:  “Thôi đừng khóc, đừng buồn nữa, hãy chấp nhận thánh giá Chúa gởi đến, như thế Chúa và anh mới vui.”  Không, Bích không muốn che dấu nỗi buồn vô tận của mình.  Bích càng bối rối hơn khi nghe người ta đổ tội cho Thiên Chúa.  Vô lý quá, làm sao mà một “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”  (Ga 3,16), lại có thể gởi những sự dữ đến cho con cái của mình được.  Sự dữ đâu đến từ Thiên Chúa!  Ngài tôn trọng sự tự do chọn lựa của người cảnh sát vô cảm kia, cũng như Ngài đã từng tôn trọng sự tự do lựa chọn của Bích-Vân vậy.
Trong bóng tối cô đơn trước cây thánh giá, với cõi lòng tan nát, Bích muốn để những tiếng rên xiết quằn quại trong cõi lòng của mình được tự do òa vỡ.  Chị kiệt sức gục đầu lên vai Chúa để mặc cho dòng nước mắt thỏa sức tuôn rơi.  Chúa không bảo chị thôi đừng khóc, bớt buồn, mà chị lờ mờ thấy Chúa lau nước mắt cho mình, cùng buồn, cùng khóc với mình.  Chị để mặc cho Chúa vuốt ve, an ủi trái tim đang gào thét lên nỗi thương nhớ.  Chúa xót xa băng bó vết thương tâm hồn bê bết máu, xoa dịu nỗi buồn gặm nhấm tâm can.  Trong cõi một mình vắng lặng, Bích cố gắng tìm lại Lời Chúa, Ý Chúa, và hình ảnh Thiên Chúa ngày xưa của mình đang ở đâu trong biến cố này.  Bích cũng đang tập làm quen dần với cảnh đời mất chồng nơi xứ lạ.

Hơn hai năm sau, khi cơn đau vẫn chưa nguôi trong trái tim mới chớm lành của người goá phụ, Bích lại tiếp tục nhận được thất bại khác.  Chị đã thua trong vụ kiện người cảnh sát bắn chồng chị.  Bích kiện không phải vì tiền, vì chẳng có đồng tiền nào có thể đánh đổi được sinh mạng của anh.  Kiện để chân lý được sáng tỏ, để tránh cho người dân thấp cổ bé miệng sau này khỏi lâm vào hoàn cảnh oan ức như anh.  Kiện để những người cầm súng đại diện cho pháp luật ở một xứ sở tự do phải ý thức hơn về những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm.  Nhưng thương thay, tiếng nói yếu ớt của một sắc dân tị nạn thiểu số, tại một nơi mà đa phần là da trắng, tiếng bào chữa của một văn phòng luật sư bé nhỏ, làm sao có thể thắng được với một tập đoàn luật sư hùng hậu của thành phố, của quận hạt.  Chân lý một lần nữa lại đứng về phía kẻ mạnh.  Thần dữ lại một lần nữa vỗ tay cười hả hê, khoái trá chờ ngày người vợ và hai con đang tuổi nổi loạn từ bỏ đức tin, trút cơn giận lên Thiên Chúa chẳng chút nhân từ.  Chuyện tình ba người “Bích-Vân-Thiên” chắc rằng sẽ tan rã từ đây….

Dù không còn cảm giác với tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa, nhưng Bích cũng ráng đến nhà thờ mỗi ngày theo thói quen, đến nhóm cầu nguyện hàng tuần dù không cảm nhận được gì.  Sự thinh lặng của Ngài trong những giây phút cầu nguyện, trong các khóa tĩnh tâm dài ngày càng làm cho chị thêm khó hiểu.  Mỗi lần nhìn lên cây thánh giá, Bích không bao giờ dám hỏi Chúa tại sao những sự dữ lại xảy đến với gia đình mình.  Người Con Một của Ngài cũng có tội tình gì đâu sao phải chết treo trên thập giá?  Nhìn vào quan tòa xét xử Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nhìn vào đôi tay Người Con Một Thiên Chúa đang bị trói chặt lại trước những tiếng la hét đòi xử tử, như chân lý và tình yêu bị trói buộc trước sự dữ, chị không muốn tiếp tục vụ kiện nữa.  Chúa Giêsu có thắng đâu trước quan tòa ngày hôm ấy!  Ngài đã thua thảm bại trước một tên tướng cướp giết người khét tiếng, đã thất bại chua cay trước những vị kinh sư Pharisêu đại diện cho tôn giáo của dân tộc mình.  Cũng như viên đạn bắn anh không phải xuất phát từ một tên cướp, mà là từ một nòng súng của người thi hành pháp luật dành cho một người dân vô tội.  Cay đắng quá!  Trò mà làm sao hơn được thầy!  Chén đắng đã hai lần nhấp thử, chị phần nào cảm nhận được nỗi thống khổ tột cùng của Chúa Giêsu trong vườn Gethsemane.  Cũng như Giêsu ngày xưa, Bích xuôi tay chấp nhận mình thua để khép lại vụ kiện, chị không muốn kháng án lên toà trên, không muốn vết thương lòng lại bị khơi ra khuấy động lên, chị muốn sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, thấm thía mầu nhiệm thập giá… Từng ngày, từng ngày, trong tâm hồn chị vẫn vang lên lời nguyện xin tha thiết: “Chúa ơi, xin cứu con!  Chúa cho phép sự việc xảy ra như thế này thì sinh ích gì cho con?  Con xin tạ ơn Chúa mặc dù giờ này con chưa hiểu, nhưng con tin vào Ý Muốn Tốt Lành của Chúa vì Chúa đã nói mọi đau khổ đều sinh ích cho những ai yêu mến Chúa.”

Qua những tháng ngày đau khổ đến tê dại không còn cảm giác, qua những lúc ngã lên gục xuống, thầm khóc đến không còn nước mắt, qua những cay đắng khi nhận được tin thất bại của vụ kiện, người goá phụ từ từ cảm nhận được những nâng đỡ ủi an kín đáo của Người Cha Nhân Từ đang ẩn mặt đâu đó trong lúc này.   Gia đình, bạn bè, cộng đoàn Đức Tin, các Bí tích, Lời Chúa, Thánh Vịnh, và những bài Thánh Ca đong đầy yêu thương là những điểm tựa nương của Bích trong lúc sầu khổ lao đao: “Lạy Chúa, khi con nói: “Này chân con lảo đảo”, tình thương Ngài đã đỡ nâng con” (TV 94, 18), “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (TV 147, 3), “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:4-5).  Bích không trách Thiên Chúa đã cất anh về sớm, trong cõi lòng sâu thẳm chị chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chị một người chồng tốt lành, một người cha gương mẫu cho các con, một người bạn thiêng liêng thánh thiện đã cùng đồng hành với chị trong suốt hai mươi lăm năm hôn phối, mà anh chị vừa long trọng lập lại lời thề hứa ba tháng trước ngày anh đi về cõi vĩnh hằng.  Bích tạ ơn cho những gì đã có, chứ không trách móc về những gì đã mất.  Chị biết, anh vui khi được ở bên chị và anh cũng hạnh phúc khi được xum vầy cùng Thiên Chúa, Đấng mà anh hằng khát khao được diện kiến.  Chị tin rằng hình ảnh của chị và hai con luôn ở trong tim anh, và anh sẽ tiếp tục cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho ba mẹ con.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, thế mà đã năm năm trôi qua kể từ ngày Vân về với Thiên Chúa.  Trên bia mộ đá nơi anh an nghỉ, có hình của cả ba “Bích-Vân-Thiên”, với một bên còn trống để dành chỗ cho Bích, với lời ca Hallelujah của ngày Chúa Nhật Phục Sinh khải hoàn trong vinh quang.  Thiên Chúa chưa bao giờ vắng bóng trong cuộc tình của Bích-Vân.  Trong những tháng năm đầu, trên mộ Vân không lúc nào thiếu vắng hoa tươi do Bích mang lại.  Bạn bè kẻ khen người chê trước hành động lãng mạn không thiết thực đó, lãng phí cả thời gian và tiền bạc.  Nhưng Bích có cần gì đâu, chị làm theo tiếng nói con tim.  Sự chết không chia rẽ được tình yêu của anh chị.  Mỗi lần viếng nghĩa trang nơi anh an nghỉ, chị cảm nhận được tình yêu ba người “Bích-Vân-Thiên” quyện lẫn vào nhau trong gió, trong mây để chỉ còn là một.  Chẳng còn thế giới vô hình hay hữu hình nữa, cũng chẳng còn ranh giới sự sống hay sự chết.  Bích đến không để khóc than, chị đến để trái tim chị được sưởi ấm, đến để cảm nhận tình yêu chung thủy của ba người được thăng hoa.  Bó hoa tươi trên mộ anh là ngôn ngữ tình yêu nói thay cho con tim chị.  Anh yêu nhạc, chị thích hoa, cả hai cùng say mê vẻ đẹp chân thiện mỹ, Bích-Vân đang cùng hát lên bản Tình Ca Tạ Ơn bên Thiên Chúa – Hallelujah!

Năm năm với biết bao ân sủng tuôn đổ từ trời cao đủ để làm sống dậy tin yêu hy vọng trong Bích.  Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự mất mát và thất bại đã làm tươi mới lại con người Bích, chị trở lại với con người hồn nhiên yêu đời như những ngày trước có anh đi bên cạnh.  Nụ cười rạng rỡ lại trở về trên khuôn mặt nhân hậu duyên dáng của chị.  Không những thế, chị được mời gọi để làm chứng cho những mảnh đời bất hạnh, những tâm tư giận hờn Thiên Chúa vì những khổ đau bịnh tật, hay những mất mát chia lìa đớn đau, những con chiên tự tách mình ra khỏi đàn vì mải mê oán than…. Chị đến để mang câu trả lời cho những câu hỏi không lối đáp, tại sao Thiên Chúa lại để sự này xảy đến với tôi, với gia đình tôi?  Tại sao Ngài không nhận lời?  Tại sao Ngài không ngăn cản sự dữ xảy ra?  Tại sao Ngài không cất đi căn bịnh hiểm nghèo cho tôi, cho người thân của tôi?  Tại sao và tại sao?  Chị đến không để nói, để thuyết phục hay hùng biện, chị chỉ nhẹ nhàng kể về câu chuyện tình của đời chị… và Thiên Chúa sẽ làm việc với những tâm hồn tan nát đó.

Tác phẩm “Bích-Vân-Thiên” của nữ văn sĩ Quỳnh Dao được khép lại khi trang sách cuối cùng được lật qua.  Trong đầu người đọc chỉ còn lưu lại thoang thoáng vài nét về một cốt chuyện hay, một tình yêu lai láng sầu muộn chỉ có trên tiểu thuyết.  Còn “Bích-Vân-Thiên” trong đời thường, không chỉ là tên của ba người trong một cuộc tình ghép lại, mà còn là tựa đề của cuốn sách mang niềm hy vọng – cuốn sách chứng nhân đức tin – đang được tiếp tục lật từng trang mỗi ngày.  Ba nhân vật chính “Bích-Vân-Thiên” vẫn luôn nắm tay cùng đồng hành với nhau.  Đình Vân đã đi xong quãng đường của mình.  Chặng đường của Thu Bích vẫn còn dài đăng đẳng trước mắt nhưng Bích không đi lẻ loi một mình.  “Vân-Thiên” vẫn luôn cùng đồng hành với Bích và chờ ngày đoàn tụ để đóng lại cuốn sách chứng nhân đức tin “Bích-Vân-Thiên”.

Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho thiên tình sử tay ba “Bích-Vân-Thiên” được đẹp mãi đến trang sách cuối cùng.  Mong rằng trong ngày sau hết cả ba sẽ được tái ngộ để cùng nhau kết hợp nên một mối tình tuy ba nhưng chỉ là một.

Lang Thang Chiều Tím

Kỷ niệm năm năm ngày giỗ anh Phêrô Lê Đình Vân, 03/03/2011 – 03/03/2016

Cái nhìn nội tâm,

Cái nhìn nội tâm,

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.

Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.

Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.

Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.

Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.

Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.

Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
    2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
    3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?

Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô

Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô
(Lc 16, 19-31)

19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!25 Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27 “Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!29 Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.30 Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.31 Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

***

Câu chuyện về ông nhà giàu và người nghèo, tên là La-da-rô, mà Đức Giê-su kể cho chúng ta nghe trong bài Tin Mừng, rất quen thuộc đối với chúng ta. Nhưng có một chi tiết quan trọng, có thể chúng ta đã không để ý, đó là câu chuyện này là một dụ ngôn : « Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây ».

Dụ ngôn là một chuyện kể phát xuất từ thực tế cuộc sống (hạt giống, nắm men, tiệc cưới, người cha có hai người con, con chiên đi lạc hay đồng bạc bị mất…), nhưng lại chất chứa những chi tiết lạ lùng để mặc khải cho chúng ta, không phải trực tiếp nhưng theo ngôn ngữ ẩn dụ, về Thiên Chúa, về tình yêu và lòng thương xót của Người, về Nước của Người, về cách thức chúng ta đón nhận và sống với Người ngang qua tương quan của chúng ta với tha nhân và với những thực tại thuộc về đời này.

Theo bối cảnh, dường như Đức Giê-su kể dụ ngôn « Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô » cho những người Pha-ri-sêu : « Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc… » (c. 14), nhưng vấn đế mà dụ ngôn nêu ra lại đụng chạm đến mọi người chúng ta ở chiều sâu. Vậy, Chúa muốn nói với chúng ta điều gì, hay đúng hơn chất vấn chúng ta về vấn đề gì, khi kể dụ ngôn này ?

 Thời gian và vĩnh cửu

Trước hết, đó là sự khác nhau giữa thời gian và vĩnh cửu, hay nói dễ hiểu hơn là sự khác nhau giữa đời này và đời sau. Đời này thì có giờ, có tháng, có năm ; đời sau thì không có giờ, có tháng, có năm, nghĩa là lúc nào cũng là hiện tại, không có thủy không có chung ; đời này thì chóng qua, đời sau thì tồn tại mãi mãi ; đời này thì có thay đổi, đời sau thì không có thay đổi.

Chính vì thế, trong dụ ngôn, tổ phụ Abraham nói với ông nhà giàu sau khi đã chết, nghĩa là đã bước vào đời sau :

Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

(c. 26)

Trong khi đó, ở đời này, giữa bàn tiệc của ông nhà giàu và người nghèo trước cổng đâu có phải là vực thẳm. Hai bên có thể đi qua đi lại dễ dàng ! Ý nghĩa này cần phải đánh động chúng ta. Bởi vì đời sau sẽ không thể thay đổi được, nhưng một cách nghịch lí, lại luôn luôn mới (x. Tv 136), nên chúng ta được mời gọi thay đổi, nghĩa là hoán cải ngay bây giờ, đặc biệt là trong cách chúng ta sử dụng của cải cũng như tất cả « những sự khác » (Linh Thao, số 23), theo hướng phục vụ và chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo, những người thiếu may mắn và bất hạnh, và với cả những anh em, chị em nhỏ bé, yếu kém hay đau yếu bên cạnh chúng ta nữa, trong gia đình hay trong cộng đoàn. Hơn nữa, đời này thì rất chóng qua, còn đời sau thì kéo dài mãi mãi.

 Người nghèo và người giàu

Dụ ngôn còn muốn nói với chúng ta điều thứ hai, đó là những người giàu có ở đời này, sẽ bị lưu đày ở đời sau ; còn những người nghèo khó, sẽ được an ủi. Vấn đề của ông nhà giàu không phải là vì ông giàu có, ông có nhiều của cải, nhưng là ông quá gắn bó với của cải, đến nỗi ông không muốn chia sẻ, không quan tâm đến những người thiếu thốn hơn đang ở trước cổng nhà mình. Ông làm tôi cho của cải, thay vì làm tôi Thiên Chúa.

Trước khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su đã nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13). Điều này không có nghĩa là tiền của tự nó là xấu, và chúng ta phải từ bỏ, hay phải càng có ít càng tốt. Nếu hiểu như thế, chúng ta sẽ “tự lên án” mình, vì chúng ta không thể sống mà không có tiền của, nhất là trong cuộc sống và cách thức làm việc hiện đại hôm nay, càng ngày càng đòi hỏi những chi phí rất lớn và những phương tiện đắt tiền. Tiền Của trở nên xấu trong mức độ, chúng ta coi nó như thần linh, thay thế hay đối lập với Thiên Chúa (trong bản văn Hi lạp, đó là chữ “Mamon” viết hoa). Trong khi nó chỉ là phương tiện.

Làm việc để có tiền có của, qua đó mua sắp những phương tiện là điều cần thiết trong cuộc sống. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự tai hại của một cuộc sống “làm tôi tiền của”, nghĩa là chỉ chạy theo tiền của, chỉ chạy theo việc mua sắm các phương tiện, chỉ lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất của mình. Lúc đó, người ta không còn làm chủ tiền của nữa, nhưng bị tiền của làm chủ, và hậu quả là gây đỗ vỡ những tương quan làm cho chúng ta sống hạnh phúc, đó là tình thương và sự liên đới. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ sống bằng tiền của, bằng phương tiện, bằng việc thỏa mãn nhu cầu, nhưng còn sống bằng tương quan đón nhận, tin tưởng, bao dung, tha thứ, và nhất là hiệp thông, tình bạn và tình thương mà Lời Chúa đem lại cho chúng ta. Thiếu tình thương, thì dù có tiền của, đời sống của chúng ta cũng trở thành chết chóc, thậm chí trở thành địa ngục.

Đời này thì thay đổi được, còn đời sau thì không. Chúng ta hãy thay đổi trong cách chúng ta tìm kiếm và sử dụng của cải, để trở nên nghèo khó trong tâm hồn, và như thế sẽ được Chúa ban tặng Nước Trời mãi mãi ở đời sau.

 Lời Chúa và các bí tích

Điều thứ ba chúng ta cần lưu ý trong dụ ngôn, đó là ông Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là Kinh Thánh, là đủ để cho người đang sống hoán cải, thay đổi cách sống của mình ; và không cần phải chứng kiến những điều lạ lùng, như người chết hiện về. Bởi vì, hiện về thì hiện về có một lần ; nhưng thay đổi cách sống là thay đổi suốt đời ; thế mà, sự thay đổi bền vững lại phát xuất từ sự biến đổi của con tim, nhờ tác động của Lời Chúa trong Kinh Thánh, chứ không phải từ những hiện tượng ngoạn mục ở bên ngoài. Những hiện tượng lạ lùng, chỉ là dấu chỉ mời gọi thôi, chứ không tự động đem lại cho chúng ta sự thay đổi sâu xa và bền vững.

Đời này thì thay đổi được, đời sau thì không ; đời này thì chóng qua, đời sau thì vĩnh cửu. Xin cho chúng ta không cần trông cậy vào những điều lạ lùng hay ngoại thường, nhưng hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa và các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Vì nếu chúng ta hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa và các bí tích, chúng ta sẽ nhận ra rằng, đó là những điều lạ lùng nhất, ngoại thường nhất, có sức mạnh hoán cải chúng ta, biến đổi chúng ta thành con của Chúa và thành anh chị em của nhau, làm cho chúng ta biết chia sẻ cách quảng đại. Vì qua Lời Chúa và bí tích Thánh Thể, Chúa chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Chúa cách quảng đại, và khi lãnh nhận sự sống của Chúa và nhận ra rằng, mọi sự chúng ta có là ân huệ Chúa ban, chúng ta được thúc đẩy để chia sẻ cho người khác cách quảng đại.

Như thế, dụ ngôn về ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô, mà Đức Giê-su kể cho chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, chất vấn chúng ta thật mạnh mẽ về tương quan của chúng ta với người khác và với những thực tại thuộc về đời này. Xin cho chúng ta, nhờ Lời Chúa, Mình và Máu Thánh của Chúa, làm cho chúng ta thay đổi và hoán cải ngay bây giờ trong cách chúng ta liên đới với những những người chung quanh, nhất là người nghèo khổ và bất hạnh, và với cả những anh em, chị em nhỏ bé, yếu kém hay đau yếu bên cạnh chúng ta nữa.

* * *

Dụ ngôn « Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô » chất vấn chúng ta, nhưng đó chưa phải là sứ điệp chính yếu của dụ ngôn. Sứ điệp chính yếu của dụ ngôn, đó là Thiên Chúa trao ban sự sống viên mãn một cách quảng đại và nhưng không cho « người nghèo ». Chính vì thế mà Người nghèo được nêu tên đích danh « La-da-rô », còn người giầu thì không. Nhưng « người nghèo » là ai ? Đó là những người nghèo thật sự : những em bé bị giết hại ngay từ khởi đầu của sự sống, những em bé bị bỏ rơi, những em bé sinh ra tật nguyền hay mang những căn bệnh hiểm nghèo hay nan y, những người khuyết tật, những người sinh ra và lớn lên trong cùng khổ, trong những hoàn cảnh không xứng đáng với nhân phẩm, trong điều kiện xã hội thấp kém và thua thiệt…

« Người nghèo » còn là mẫu người mà chúng ta được mời gọi trở nên. Vậy, dù là chúng ta là ai, chúng ta được mời gọi sống như người nghèo, theo khuôn mẫu của Đức Giê-su, để đón nhận mọi sự từ lòng tốt của Thiên Chúa, ở đời này và đời sau, như chính Đức Giê-su đã nói trong Tám Mối phúc thật :

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
(Mt 5, 3)

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc