Trần Trung Đạo: Tâm bút cùng Trà Kiệu

Trần Trung Đạo: Tâm bút cùng Trà Kiệu

– Tin nổi bật, Bình Luận

Làng Phật Giáo Mã Châu, nơi tôi sinh ra, cách làng Công Giáo Trà Kiệu, nơi Th., bạn tôi, sinh ra, khoảng mười cây số và một con sông. Trong làng tôi, ngoài trừ gia đình người chú họ, sau khi đi làm ăn xa trở về làng cũ, trong hành trang của chú còn có thêm một cây Thánh Giá và bức hình Đức Mẹ, tất cả bà con còn lại đều là Phật Tử. Đoạn đường từ trạm Nam Phước lên đến quận Duy Xuyên chỉ dài hơn năm cây số nhưng đã có đến bốn ngôi chùa. Các ngôi chùa làng rất nhỏ, mái ngói cong, thường xây cạnh những cây đa già. Tuổi thơ tôi lớn lên trong một môi trường Phật Giáo và dưới bóng mát của hồn quê hương đơn sơ chất phác đó.

Phần lớn bạn học các lớp trung học đệ nhất cấp ở trường quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, trong đó có cả Th., và Diệp đều là người Trà Kiệu. Ba của Diệp lái xe Lam ba bánh. Cuối tuần tôi thường ra Chợ Quận đứng chờ xe của bác đi ngang là tôi đi theo lên Trà Kiệu chơi với đám bạn. Từ Mã Châu đi Trà Kiệu không xa nhưng phải qua Cầu Chìm, một chiếc cầu nhỏ bắc ngang một trong những nhánh sông Thu Bồn chảy ra hướng Cửa Đại. Vì được xây quá gần với mặt nước nên mỗi khi trời mưa lớn là xảy ra cảnh nước chảy qua cầu. Đám học sinh bên kia sông buổi sáng đi bộ đến trường nhưng buổi chiều nhiều khi phải đi đò về nhà. Bên chân cầu là một chiếc lô-cốt bằng xi-măng, tàng tích của chế độ Thực Dân còn để lại và cũng là một nhắc nhở của vết thương hằn sâu trên da thịt quê hương tôi, làm nhức nhối bao nhiêu thế hệ đã qua và còn mưng mủ cho đến bây giờ.

Trà Kiệu, với diện tích khoảng một cây số vuông, đẹp một cách hùng vĩ và linh thiêng. Phía Tây Trà Kiệu là rặng núi Kim Sơn chạy dài, hút sâu vào dải Trường Sơn trùng điệp. Phía Nam là di tích thành lũy và hoàng cung của một thời vàng son trong lịch sử Chiêm Thành. Theo sử sách ghi lại, đồng bào Công Giáo Trà Kiệu phần lớn từ miền Bắc di cư vào miền Trung, bắt đầu là người ở Kẻ Chợ Hà Đông vào khoảng năm 1684. Họ sống tập trung nhau để dễ bề giữ đạo và giúp đỡ cho nhau. Trong tôi vẫn còn in lại hình ảnh những bậc tam cấp bằng đá của nhà thờ Trà Kiệu, nơi chúng tôi đã ngồi trong những buổi chiều vàng nhìn xuống xóm nhà của các bạn tôi, được dựng bên những thửa ruộng xanh bao vòng quanh chân núi.

Thế nhưng, không phải ai ở quê tôi cũng đối xử với nhau một cách vô tư, hồn nhiên và hòa đồng như tôi và đám bạn Trà Kiệu của tôi. Không ít người dân Quảng, vốn rất tự hào về truyền thống cách mạng, chống Thực Dân Pháp, Địa Linh Nhân Kiệt, Ngũ Phụng Tề Phi, thường nghĩ về Trà Kiệu như là một làng Công Giáo biệt lập. Càng tự hào với truyền thống chống Thực Dân bao nhiêu thì họ lại càng dễ có thái độ khắt khe, xa cách với đồng bào Trà Kiệu bấy nhiêu. Với những người mang nặng định kiến, hẹp hòi và bảo thủ, đồng bào Trà Kiệu, dù sống trên cùng một quê hương nhưng không cùng chung nhau trọn vẹn một chiều dài lịch sử. Sự xa cách đó không phải tự nhiên mà có, cũng không phải chỉ đơn giản là sự cách biệt lương giáo chung chung mà thôi, nhưng những chia rẽ giữa những người đã chôn khúc nhau trên cùng mảnh đất, bắt đầu bằng máu, đổ xuống trong đêm 1 tháng 9 năm 1885 và chảy dài suốt thời kỳ thực dân đầy thù hận, khổ đau, tang tóc.

Đêm đó nghĩa quân thuộc phong trào Văn Thân tỉnh Quảng Nam với khẩu hiệu Bình Tây Sát Tả đã mở liên tục các cuộc tấn công vào làng Công Giáo Trà Kiệu lúc bấy giờ đặt dưới sự lãnh đạo tinh thần của Linh Mục Bruyere, được gọi bằng tiếng Việt là Cố Nhơn, thuộc Hội Thừa Sai Pháp. Trong làng thời đó chỉ có khoảng 370 thanh niên có thể chiến đấu với vỏn vẹn 5 khẩu súng. Họ phải tự rèn gươm giáo, đúc súng đạn, dành dụm từng chút lương khô trong cuộc chiến tranh tự vệ khó khăn và quyết liệt. Sau lưng là núi, trước mặt là con đường độc nhất dẫn ra tỉnh đã bị bao vây. Họ không có đường lui và cũng không còn đường tiến. Cuộc chiến đấu của họ mang trọn vẹn ý nghĩa của “tự do tôn giáo hay là chết”.

Sau 21 ngày tấn công và chống đỡ đẫm máu giữa người Quảng và người Quảng, giữa người Việt và người Việt, giữa những tín đồ Thiên Chúa Giáo và các đơn vị Văn Thân Bình Tây Sát Tả, đã gây ra rất nhiều thiệt hại, mất mát cho cả hai bên. Máu người dân Quảng đã chảy trên đồi Bửu Châu thiêng liêng, xương người dân Quảng đã phơi trên cố đô Chiêm Thành huyền bí.

Cuối tháng 9 năm 1885, sau gần một tháng tấn công không thành công, các đơn vị Văn Thân rút lui. Đồng bào Công Giáo Trà Kiệu tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra trong những đêm 10 và 11 tháng 9 năm 1885 để che chở cho con cái của Mẹ và giúp đẩy lui quân đội của cả một phong trào Văn Thân rộng lớn của tỉnh Quảng Nam đông gấp trăm lần. Từ đó, hằng năm vào ngày 31 tháng 5, ngày cuối của tháng Hoa, người dân Công Giáo Trà Kiệu tổ chức lễ cung nghinh Đức Mẹ để ghi ơn Mẹ đã cứu giúp Trà Kiệu thoát khỏi bị tận diệt.

Trong cái nhìn của riêng tôi, đồng bào Trà Kiệu thời bấy giờ không có một chọn lựa nào khác. Họ đã phải chiến đấu trong một hoàn cảnh tự vệ, không những để bảo vệ niềm tin Thiên Chúa mà còn vì mạng sống của chính họ và gia đình họ. Nhiều trong số họ đã ngã xuống cho niềm tin mà họ tôn thờ. Nếu họ thua, có thể làng Công Giáo Trà Kiệu không còn hiện diện trên bản đồ như ngày nay nữa. Niềm tin đã giúp Trà Kiệu đứng vững. Ngày 31 tháng 5, trong bình diện tôn giáo, vì thế, phải được hiểu như là ngày của Niềm Tin hơn là một chiến thắng quân sự chống lại Văn Thân. Niềm tin tôn giáo đó vô cùng cao cả và trong sáng. Đồng bào xứ Quảng thời đó đã sống có niềm tin và đã chết vì niềm tin. Những hy sinh của họ xứng đáng được kính trọng và phải được nhìn từ khía cạnh thuần túy tâm linh.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc ít may mắn. Rất hiếm hoi trong mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta có được một thời bình yên và ổn định đủ dài để xây dựng đất nước hay ít ra đủ kết hợp một tiềm năng, như trường hợp Nhật Bản, đủ sức chống chỏi với các áp lực từ bên ngoài. Sau suốt cả ngàn năm Bắc thuộc là Trịnh Nguyễn phân tranh. Khi cuộc nội chiến vừa yên thì các chiến hạm Pháp cũng vừa thả neo dòm ngó ngoài cửa biển. Nói ra có vẻ cải lương nhưng quả thật dân tộc Việt Nam đúng là một dân tộc đã trưởng thành trong khói lửa.

Tôn giáo tại Việt Nam đã chia xẻ trọn vẹn những bất hạnh chung của dân tộc. Phần lớn các tôn giáo lớn được truyền vào Việt Nam cùng lúc với những biến động lịch sử lớn của đất nước. Theo các quy luật kinh tế đã được các nhà kinh tế thuộc mọi trường phái thừa nhận, chủ nghĩa thực dân là một bệnh chứng tất yếu trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Với hệ thống giáo dục lỗi thời và chính sách đối ngoại vô cùng thiếu ngôn ngoan của triều đình nhà Nguyễn cộng với các kỹ thuật chiến tranh cách biệt quá xa về kỹ thuật giữa tây phương và của các quốc gia khu vực Nam Á thời bấy giờ, dù có hay không có sự xuất hiện của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam trong giai đoạn đó thì nước ta vẫn mất, nhà ta vẫn tan.

Chỉ tiếc là chúng ta không có những ông vua sáng suốt như Minh Trị Thiên Hoàng (1852-1912) biết nhìn xa hiểu rộng, kịp thời canh tân đất nước. Chúng ta cũng không có được những ông vua như Rama IV (1851-1868) của Thái đủ khôn ngoan để thấy được xu thế chính trị kinh tế của thời đại, ngõ hầu dung hóa các ngoại lực. Thay vào đó, các vua nhà Nguyễn đã theo đuổi chính sách bế môn tỏa cảng để rồi cuối cùng dẫn đến mất nước. Tiếng súng của Đô Đốc Perry đã đánh thức nước Nhật nhưng tiếng đại bác của viên sĩ quan Pháp, Le Lieur, bắn vào Đà Nẵng năm 1856 không lay tỉnh một triều đại ngủ quên trong cái học từ chương, thi phú cung đình. Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều … chỉ là vài giọt nước tan loãng vào biển hủ nho phong kiến. Tương tự, những lời can gián cương trực của hai danh sĩ Quảng Nam, Phó Sứ Phạm Phú Thứ và Binh Bộ Thượng Thư Lê Đĩnh, chẳng đủ công hiệu để giết hết được loại vi trùng định kiến, hoài nghi, bảo thủ, lo sợ mất quyền, mất nước truyền trong máu từ bao đời trước.

Thế nhưng, nói như thế, cũng không có nghĩa, tôi đang trách tổ tiên ông bà chúng ta trong phong trào Văn Thân, Cần Vương kháng Pháp. Thảm cảnh, trong đó hàng vạn người Việt Nam được trang bị bằng dao mác, tầm vông, đã gục xuống như rơm rạ trước nòng đại bác thực dân, đã làm sục sôi máu hờn căm của những người dân Việt đang đau vì vận nước. Ông bà chúng ta thời đó, ngoài giặc Pháp, chẳng còn một nơi nào hay một ai để trút lòng phẩn uất, lửa căm thù của họ, khác hơn là các giáo sĩ Tây phương và những người theo đạo từ Tây phương truyền đến.

Và để nghĩ cho cùng, chúng ta cũng không thể trách các vua nhà Nguyễn đã bế quan trong bốn bức tường thành. Làm sao các vị đó hiểu được những gì đang xảy ra trên thế giới và cho vận nước khi cả đời vùi mài trong tứ thư ngũ kinh. Làm sao các vị đó có được chọn lựa sáng suốt hơn khi mang trong người dòng máu sợ người ngoài như sợ thú dữ, truyền lại từ suốt ngàn năm lệ thuộc Bắc phương.

Trở lại với Trà Kiệu, đồng bào Công Giáo Trà Kiệu thời bấy giờ đã dù bị bạc đãi, dù chịu đựng trấn áp nhưng đã không vì thế mà bỏ rơi đất nước. Các tín đồ Thiên Chúa Giáo Quảng Nam đã không nghe lời Giám Mục Pellerin làm nội gián cho quân của tướng Rigault De Genouilly khi viên tướng nầy đem quân đánh Đà Nẵng vào ngày 1 tháng 9 năm 1857. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Phạm Văn Sơn: “Viên Trung Tướng nầy [Rigault De Genouilly] còn thất vọng thêm ở chỗ không thấy có giáo dân nổi lên hưởng ứng nên đã kỳ kèo giám mục Pellerin vì trước đây giám mục đã đoan quyết như vậy. Lúc nầy giám mục cũng theo quân đội (Pháp) và có mặt trên chiếc tàu Némésic. Giám mục vừa xấu hổ vừa tức giận nên bỏ về ở nhà tu Pinang tại Mã Lai“.

Hẳn nhiên không phải ở đâu cũng có những người Việt Nam như thế, không phải nơi nào dân tộc ta cũng may mắn có được những người con biết làm ngơ trước vinh hoa để bảo vệ sự sống còn lâu dài của dân tộc như thế. Trong suốt 40 năm chiến đấu trong gian nan tuyệt vọng để ngăn chận bước chân của thực dân Pháp (1847-1887), bao nhiêu mẩu chuyện đầy bẽ bàng chua xót, bao nhiêu việc làm đáng trách của một số người Việt còn ghi lại trong sử sách.

Nhắc lại những điều đáng ca ngợi hay nêu lên đôi điều đáng trách đó, tôi không có ý định đào sâu những vết thương đã một thời lở lói trong lòng dân tộc. Nhưng để chúng ta cùng nhìn về quá khứ một cách khách quan, chân thành, bao dung và trân trọng, để từ đó biết tránh xa những ổ gà, những hầm hố, những vết xe đổ, trên đường đi tới một tương lai tươi sáng cho đời sau. Không ai muốn giết nhau. Không ai muốn tàn sát nhau. Định mệnh lịch sử đã bẫy dân tộc ta vào một căn hầm không lối thoát, trong đó, các thành phần dân tộc vừa là nạn nhân, vừa là nhân chứng, vừa là đồng lõa và nhiều khi cũng vừa là tội phạm. Đọc lại lịch sử Việt Nam các thế kỷ 17, 18 để thấy ông bà chúng ta đáng thương và tội nghiệp biết bao nhiêu. Cả dân tộc, thời bấy giờ, như một bầy cừu non, không hề chuẩn bị, trước nanh vuốt của Thực Dân Pháp.

Tôi chỉ mong có một ngày những người dân Quảng sẽ cùng về lại Trà Kiệu, cùng nhau lau sạch những bậc đá trên đồi Bửu Châu như lau đi những vết thương hằn sâu nhiều thế kỷ. Tôi vẫn mơ có một ngày cùng nhau xây lại đình làng Ngũ Xã Hoàng Châu và các làng mạc chung quanh Trà Kiệu, nơi đã từng là bãi chiến trường, là biên giới của phân ly, hoài nghi, xa cách. Trà Kiệu, Mã Châu, Thi Lai, Hà Mật, Kỳ Lam, Giao Thủy, Đà Nẵng, Hội An….là những phần thân thể đáng yêu và bất khả phân ly của xứ Quảng. Tôi yêu Trà Kiệu như yêu chính ngôi làng Mã Châu nhỏ bé của tôi.

Chiều hôm qua, đọc bài viết công phu của linh mục Trần Quý Thiện về nhà thơ Công Giáo Hàn Mặc Tử, tôi xúc động và hãnh diện khi biết rằng mẹ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, cụ bà Nguyễn Thị Duy, sinh năm 1881, là người Trà Kiệu. Thân phụ của tác giả Đây Thôn Vỹ Dạ nổi tiếng, cụ Vinh Sơn Phaolô Phạm Toản (1882-1926) vì chống Pháp phải thay đổi họ từ Phạm sang họ Nguyễn. Giọt sữa mẹ và hùng khí quê ngoại Quảng Nam đã góp phần tạo nên Hàn Mặc Tử, nhà thơ lớn của Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Chúng ta không thể sửa lại quá khứ, chúng ta không thể làm lại lịch sử, chúng ta không thể xoay ngược bánh xe thời gian, chúng ta cũng không thể nào quên đi quá khứ, nhưng xin hứa với nhau, chúng ta sẽ không sống bằng quá khứ.

Chúng ta sẽ học những bài học đắng cay của cha ông chúng ta một cách nghiêm túc, chân thành và trân trọng. Nhưng không phải học để rồi khóc than thương tiếc, mà để từ đó xây dựng một Việt Nam thương yêu, đoàn kết trong tương lai, kính Chúa nếu là con cái Chúa, kính Phật nếu là đệ tử Phật, tương kính đạo của nhau giữa những người khác đạo, và biết vượt qua mọi khó khăn để gìn giữ căn nhà chung của mẹ Việt Nam.

Các tôn giáo sẽ mãi mãi là những dòng suối của tình thương, những dòng sông của bác ái, hòa vào mạch sống chung của dân tộc, đem lại dòng sinh khí cho quê hương vốn đã bao năm chìm đắm trong hận thù tang tóc. Các vị lãnh đạo tinh thần tôn giáo trong Việt Nam tương lai sẽ là những cột kèo, mái vách gìn giữ cho căn nhà đạo đức Việt Nam mỗi ngày một thêm bền vững. Các ngài sẽ là những bậc thầy đáng kính dạy dỗ cho các thế hệ Việt Nam mai sau được lớn lên trong tình đồng bào ruột thịt, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.

Khoảng cách không phải một sớm một chiều mà xóa hết nhưng vẫn còn đó trong mỗi chúng ta chung một niềm hy vọng. Xin cầu nguyện.

Trần Trung Đạo

http://www.trantrungdao.com/?p=3161

Trong quan tài buồn hồn nghe thêm trống vắng,

“Trong quan tài buồn hồn nghe thêm trống vắng”,
Tóc chưa xanh một lần nhưng tim nghe đã thương thân.
Trong cơn gọi hồn đời nghe xa xôi lắm.
Gót chân đi chưa mòn đường tình nay đã phai dần.

(Lê Hựu Hà – Phiên Khúc Mùa Đông)

(Ga 11: 36/Mt 27: 3-5)

Trần Ngọc Mười Hai

Quan tài buồn? Đã như thế, sao Elvis Phương lại hát: “Hồn nghe thêm trống vắng”? Hát rồi, anh còn thêm lời buồn của tác giả, những là: “Gót chân đi chưa mòn đường tình, nay đã phai dần”.

Vâng. Có thể là như thế. Như thế, tức là bạn và tôi, ta đã đồng ý với ca-từ cùng ý-tứ của người viết lời và nhạc, rất Lê Hựu Hà! Như thế, lại có thể là bạn hoặc tôi, ta chưa nghe câu nào khác, cũng nói về “quan tài buồn”, như câu: “Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ!” Bần đạo đây, cũng không biết câu nào có trước câu nào sau.

Nhưng, có câu nói “trại” mà bần đạo cứ nói đi nói lại với bà chị ruột lâu nay vẫn sống ở Orange County, xứ Bông Kỳ rằng: “Chưa thấy Hoa Kỳ, chưa đổ lệ!” Tội nghiệp. Bà chị của bần đạo thuộc loại chân-phương thứ thiệt cứ tưởng người em rất hay chê Hoa kỳ của chị nên hơi buồn là vì có lần chị cứ hỏi bần-đạo rằng: có nhiều người từng đi đi/về về cũng khá nhiều, mà sao chẳng thấy ai “đổ lệ” hết vậy?

Chỉ đổ lệ xót thương cho thân phận bạn hiền của Đức Giêsu ở truyện Tân Ước cứ hiểu là: hễ thấy quan tài tức ngôi mộ của ai đó bạn bè người thân tự khắc sẽ đổ lệ hơn một lần trong đời, như sau:

“Thấy cô khóc,

và những người Do-thái đi với cô cũng khóc,

Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.

Ngài hỏi:

“Các người để xác anh ấy ở đâu?”

Họ trả lời:

“Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” Đức Giêsu liền khóc.

Người Do-thái mới nói:

“Kìa xem! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!”

(Ga 11: 36)

Đấy. Thấy chưa? Đức Giêsu, dù chưa thấy quan tài đựng xác Lazarô-bạn-hiền, nhưng Ngài vẫn “đổ lệ” mà khóc thương bạn. Có thể, Ngài cũng khóc và cũng thương, như ý/lời trong nhạc-bản ở bên trên, lại hát tiếp:

“Nước mắt ấy đã lau khô rồi.

Đôi môi ấy đã quen tiếng cười.

Cuộc tình lỡ đã phai nhạt rồi.

Người tình cũ đã xa ta rồi.

Tiếc nhớ mấy cũng thêm thừa.

Yêu đương biết nói sao cho vừa.

Cuộc tình đó để em vui đùa.

Đọa đày đó, giờ đã đến mùa.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Bần đạo đây, không mấy chắc người viết nhạc dạo ấy có nghe biết ý-từ “đổ lệ những khóc ròng” ở Tin Mừng chưa, nhưng lời lẽ anh viết không khác ý-từ của câu truyện, do mình viết.

Nhiều tác giả khác cũng nói về hiện-tượng “đổ lệ” của ai đó, khi nghe qua lời kể về tiếng khóc đã nghe thấy, dù chưa giáp mặt quan tài, hay “Bông kỳ” của bầy tôi đây, thế mới lạ. Lạ ở chỗ, như Tân Ước từng ghi-chú rất rõ, như sau:

“Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người,

thấy Người bị kết án thì hối hận.

Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói:

“Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan.”

Nhưng họ đáp: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!”

Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ.”

(Mt 27: 3-5)

Thế nhưng, theo một số nhà chú-giải chuyên nghiên-cứu trình-thuật Tin Mừng lại cho là do cộng-đoàn mang tên Juđa Iscariốt được khai-quật vào năm 2006, đã biện-luận về ý-tứ của Lời Vàng ở trên theo cách khác:

“Lâu nay tôi vẫn ngờ-vực về tính-chất sử-học khi kể về trường-hợp Giuđa Iscariốt trong truyện Tân Ước như một kẻ “bội-phản”. Các ngờ-vực ở trên dựa vào 5 yếu-tố coi như nhu-liệu có thể định-vị được, đó là:

Thứ nhất, đọc Tân Ước nhiều lần cho thật kỹ, ta sẽ thấy rằng ký-ức về người đàn ông mang tên Giuđa hiện-diện trong nội-vi vòng-cung mật-thiết gồm các tông-đồ kề cận Đức Giêsu, lại không phải là quỉ dữ/ác thần và cũng không là kẻ bội-phản nào hết. Tin Mừng thứ tư do tác-giả Gioan ghi, đã qui-chiếu một vị tông-đồ mang tên Giuđa nào đó, chứ không phải Giuđa Iscariốt (đoạn 14 câu 22).

Còn trình-thuật do tác giả Luca ghi, thì trong danh-sách 12 tông-đồ, cộng thêm tên của ông Giuđa Iscariốt là một Giuđa nào khác được định-danh là bào-đệ của tông-đồ Giacôbê thôi (Lc 6: 16). Ông Giuđa này, thay cho ông Tađêo ghi ở danh-sách các tông-đồ do tác-giả Mác-cô thuật ở đoạn 3 câu 14-19; và tác-giả Mátthêu ghi ở đoạn 10 câu 2-4. Cộng thêm vào đó, lại cũng có thánh-thư mang danh-tánh của tác-giả Giuđa nào khác đã viết, lại được tín-hữu thời tiên-khởi đưa thêm vào bộ Tin Mừng ở Tân Ước.

Tác-giả sách này lại cũng mang tên Giuđê, tức cũng được định-vị một cách khác với danh-tánh của Giuđa; và thư này lại gọi ông là “người tôi-tớ của Đức Giêsu và bào-đệ Ngài là ông Giacôbê (Hậu)” (x. Tin Mừng Giuđê 1: 1) Như thế, tức là: các tín-hữu thời tiên-khởi cũng nhớ về một kẻ tin mang danh Giuđa hiện-diện trong nội-vi cung-vòng mật-thiết của Hội thánh vào thời đầu.

Điểm ngờ-vực thứ hai của chúng tôi, đến từ sự-thể bảo rằng: việc bội-phản Thầy mình, là do một thành-viên trong nhóm Mười Hai, nhưng lại không thấy ghi chép trong các cảo-bản do cộng-đoàn tín-hữu thời tiên-khởi cung-cấp. Danh-tánh của ông Giuđa, lần đầu tiên gặp thấy ở trình-thuật các tín-hữu của Đức Kitô do tác-giả Mác-cô được viết vào những năm đầu hồi thập-niên 80s sau Công nguyên.

Trước thời-kỳ này, ta còn có cộng-đoàn Phaolô được biết đến trong những năm tháng kéo dài từ thập-niên 50s đến năm 64, sau Công nguyên. Lại nữa, ta còn có Tin Mừng “Nguồn” với tên gọi là Quelle từng bị thất-truyền lại là nguồn-cội các trình-thuật mà hai tác-giả Mát-thêu và Luca đã rút ra từ đó rồi thêm vào các truyện kể ở trình thuật do tác-giả Mác-cô từng viết sớm hơn khi ấy.

Bản-văn truyện kể do tông-đồ Phaolô viết, ta lại thấy ý-niệm về sự “bội-phản” xuất-hiện trước cả khi Đức Giêsu bị đóng đinh và chỉ dùng như cung-cách định-vị năm tháng ngày-giờ cho bài mình viết chứ không ghi-chú nội dung chi-tiết chút gì hết. Cụm-từ ‘bội-phản’ được đề-cập trong Bữa Tiệc Ly do tông-đồ Phaolô kể, chỉ cốt để nói về chuyện khai-mạc bữa Tiệc Cuối Cùng mà thôi.

Tuy nhiên, khi ghi-chú như thế, tác-giả Phaolô lại đã đưa ra một tự-vựng từng được các dịch-giả bên tiếng Anh hồi thế kỷ thứ 7 sử-dụng và chuyển thành động-từ mang nghĩa “tạo- phản”, nhưng kỳ thực, ý của tông-đồ Phaolô chỉ muốn nói đến việc “chuyển-giao” chứ tuyệt-nhiên không mang mặc một nghĩa ‘tạo-phản’ hoặc ‘phản-tặc’ nào hết.

Cũng nên nhớ: trong toàn-bộ các cảo-bản do tông-đồ Phaolô viết, không thấy có bằng-chứng nào cho thấy rằng: ông từng biết rõ rằng: việc phản-bội ấy đã xảy ra, là do một thành-viên trong Nhóm 12 tông-đồ ra tay làm như thế. Tuy thế, bản dịch tiếng Anh khi viết các truyện kể thời sau đó lại đã chêm thêm ý-nghĩa của việc ‘giao-nộp’ vào trong đó.

Lý-do thứ ba khiến tôi ngờ-vực về tính-cách sử-học của truyện kể về ‘bội-phản’ này, là ở việc: tác-giả Mác-cô lại đã đưa vào trình-thuật do ông ghi, vào khoảng thời-gian từ năm 70 đến 75 sau Công nguyên, qua đó ông có nói rõ việc một người đồ-đệ lại đã nhúng bánh vào chung chén rượu của Đức Giêsu (Mc 14: 20).

Và rồi, tác-giả Mác-cô lại còn kể về việc ‘bội-phản’ này đã xảy ra vào giữa đêm hôm ở vườn Gethsêmani bằng một cái hôn-vào-má Ngài. Đây là lần cuối cùng, ta thấy tên của ông Giuđa được gọi là Iscariôt ở trình-thuật do tác-giả Mác-cô ghi lại.

Lý-do thứ tư khiến tôi ngờ-vực chuyện ‘bội-phản’ nói đây, được dàn-dựng theo cung-cách rất bi-ai/hoành-tráng vào giữa đêm hôm. Chuyện dàn-dựng, được lập nên theo cách rất gọn nhẹ đến độ các tác-giả Tin Mừng đều tin rằng đó là hành động đen tối nhất trong lịch-sử nhân-loại lại đã diễn ra giữa đêm tối đen như mực. Chuyện này trông giống như một nghi-thức phụng-tự nhiều hơn là sự-kiện lịch-sử.

Và lý-do khiến tôi ngờ tính-cách sử-học của bài viết, chính là tên tuổi của kẻ phản-bội được gọi là Giuđa, không là gì khác ngoài lối phát-âm bên tiếng Hy-Lạp của chữ Judah. Trong khi tên của kẻ phản-bội là tên ‘rất riêng’ tại đất nước của người Do-thái. Các lãnh-tụ đảng phái chính-thống ở nước này từng định-danh cho việc thờ-phượng do người Do-thái thực-hiện vào thời-điểm có các Tin Mừng được viết lên, về phong-trào Kitô-giáo ngày càng nổi lên quyết chống-đối mọi địch-thù của mình.

Xem thế thì, cách hay nhất để áp-đặt sự trách-móc/đổ tội cho cái chết của Đức Giêsu là trút-đổ tội này lên Do-thái-giáo ‘chính-thống’ bằng cách nối-kết việc đặt tên kẻ bội-phản với toàn-bộ đất nước Do-thái. Khi yếu-tố kết-hợp nỗ-lực đặc-biệt để miễn lỗi cho thực-dân người La Mã bằng cách mô-tả tính chân-thật của Quan Philatô bằng việc rửa tay sạch rồi nói: “Ta vô-can trong việc tắm máu người này”, thế là việc trách-móc/đổ lỗi đã được bãi bỏ.

Chính người La Mã mới là thủ-phạm giết Đức Kitô, nhưng mãi đến thập niên 80s sau Công nguyên, khi truyện-kể về Sự Thương Khó của Đức Giêsu được viết ra, thì các tác-giả Tin Mừng mới bị thúc-ép phải miễn-lỗi cho công-tố-viện người La Mã, là Quan Philatô và rồi đổ lỗi qui hết mọi tội  cho người Do-thái chính là dân-tộc giết Đức Chúa của mình. Và, đó cũng lại là lúc Giuđa bị gán cho là kẻ ‘bội-phản’ bị/được định-danh là một người trong nhóm Mười Hai từng là đối-tượng kéo dài hàng ngàn-năm sau này từ chủ-trương bài Do-thái qua hành-xử đầy tính bạo-lực bằng vào  việc giết-hại Nhân-vật trọng-đại ở Đạo Chúa.” (xem thêm Tgm John Shelby Spong, The Sins of Scripture, HarperCollins Publishers tr. 199-204)

Lại cũng có một số học-giả chuyên-môn về Kinh Thánh lại đã xác-quyết rất không yếu mềm, rằng:

“Nhiều ngàn năm cho đến nay, các tín-hữu Đức Kitô đều vẽ lên chân-dung của Giuđa Iscariốt hệt như thể ác-thần/sự dữ đã nhập vào người ông. Lại nữa, do động-lực ghét ghen và/hoặc do Satan thúc-đẩy cách sao, ông vẫn bị coi là kẻ bội-phản, thứ người mà triết-gia Dante đặt vào tầng lớp chót cùng nằm dưới đáy hoả ngục.

Tuy nhiên, Tin Mừng của tác-giả Giuđa Iscariốt lại  cho thấy chính tông-đồ Giuđa Iscariốt mới là người cận-kề đáng tin cậy nhất trong nhóm Mười Hai. Bởi, ngang qua ông, Đức Giêsu lại đã bộc-lộ toàn-bộ huyền-nhiệm sâu-sắc nhất cho riêng ông; đồng thời, ông chính là người được Thầy Giêsu có tin-tưởng lắm mới nói trước về cuộc thống-khổ của Ngài sắp diễn ra…” (x. Elaine Pagels & Karen L. King, Reading Judas, The Gospel of Judas and the Shaping of Christianity, Penguin Book 2007 tr. 3-5tt)

Hôm nay, khi được nghe nghệ sĩ đồng thời là người viết nhạc dám hát lên những ca-từ đầy nước mắt này, bần đạo bầy tôi chỉ muốn khóc. Khóc, không vì thương quá bạn hiền của Đức Chúa là Lazarô hoặc tông-đồ Giuđa Iscariốt rất cận-kề Ngài là thế nhưng vẫn bị hiểu lầm, cho bằng còn nhiều người vẫn cứ hát và nói những tiếng giọng ỉ ôi, ôi thôi là sầu buồn.

Đời mình và đời người, quả thật vẫn có các sự/việc rất đáng khóc, nhưng sao vẫn không khóc được mà chỉ hát lên có ba lời trần tình, như sau:

“Tiếc nhớ mấy cũng thêm thừa.

Yêu đương biết nói sao cho vừa.

Cuộc tình đó để em vui đùa.

Đọa đày đó, giờ đã đến mùa.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cũng đừng suy-tư nhiều quá để rồi lạ sẽ khóc; mà hãy cùng nhau đi vào vùng trời “truyện kể” rất dễ nể ngõ hầu nay mai mình sẽ không còn khóc nữa mà chỉ suy-tư nhiều về các sự-kiện tuy dễ-khóc nhưng không buồn, như sau:

“Con người sợ những cái gì mập mờ, không rõ ràng. Khi gặp những cái không biết rõ, họ thường hay tưởng tượng, mà xu hướng thường là nghĩ đến những cái đáng sợ nhất.
Cũng có thể do bản năng tự vệ của con người, họ nghĩ ra như vậy để cảnh báo bản thân trước mối nguy hiểm nào đó.

Chuyện cận tử, thân trung ấm, lúc vừa mới chết thì hồn bay lơ lửng đâu đó, rồi vào đường hầm thấy toàn ánh sáng chóa lòa, gặp lại bà con đã chết từ lâu, kêu réo nhau la ới ới, chuyện đầu thai lại, chuyện tái sinh, chuyện ma quỷ, và còn nhiều thứ lắm lắm…có thật hay không có thật chẳng có ai biết được hết. Tin hay không là chuyện riêng của mỗi người.

Có người còn so sánh sự chết cũng không khác gì giấc ngủ mỗi đêm. Tối ngủ, mình chẳng còn biết gì hết, hổng khác gì như mình đã chết rồi. Sáng ra thức dậy như được tái sanh trở lại, sống thêm một ngày nữa. Mừng hết lớn.

Vậy sợ chết là sợ những gì mình không rõ, những gì bí mật mình chưa biết được.
Người ta sợ chết vì sợ thân xác bê bết máu me, nát bấy, xấu xí đi, sình thúi ghê tởm quá.

Trường hợp những giây phút trước khi phi cơ lâm nạn lao xuống đất chắc hành khách phải hãi hùng kinh hoàng tột độ. Đây là một thí dụ rõ rệt nhất về sự kiện sợ chết.
Có cả trăm câu hỏi được đặt ra nhưng chưa có câu giải đáp nào hết về sự chết. Mọi người cứ tưởng tượng thế nầy thế nọ cho nên thiên hạ vẫn còn lo và vẫn còn sợ chết.

Người đời thường nghĩ rằng hễ chết là hết, là trống không, là rơi vào vực thẩm âm u, là hư vô, tĩnh lặng. Chết rồi thì mình sẽ đi về đâu sau đó, rồi mình sẽ ra sao? Bởi vậy nên ai ai cũng đều sợ chết lắm.

Ai cũng phải có ngày chết hết. Đây là một sự thật. Chạy đâu cho khỏi. Đây là điều chắc chắn 100%, thật rõ ràng và là lẽ công bằng của trời đất..

Nhà chánh trị Benjamin Franklin (1706-1790) có nói một câu để đời: «Trên cõi đời nầy có hai việc không thể tránh khỏi được, đó là cái chết và thuế má.»

Nhận-định thế rồi, người kể hôm nay, lại nói tiếp đôi điều rất “vô thường” bằng một truyện kể khác, như sau:

“Cuộc đời thật vô thường, vậy phải biết trân quý sự sống. Thù hận, tranh đua, phân biệt, cố chấp, ganh tị, suy bì, hơn thua nhau từng tiếng, từng lời, từng chút một rồi cuối cùng cũng phải chết mà thôi.

Đến lúc đó thì ăn năn hối cải, than khóc, kể lể, luyến tiếc… làm chi cho mất công, muộn màng rồi bạn ơi. Tại sao hồi còn sống không biết sống cho hòa thuận, thương yêu nhau, giao hảo nhau trong tình người,biết thông cảm và tha thứ cho nhau?

Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi.

Tuy biết vậy nhưng vẫn lo, vẫn sợ. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút. Bằng mọi giá họ phải níu kéo sự sống lại. Bỡi lý do nầy mà ngày nay khoa học đã sáng chế ra vô số kỹ thuật để kéo dài thêm sự sống… Nào là kỹ nghệ thuốc trường sanh, nào là kỹ nghệ ngâm xác trong khí lỏng liquid nitrogen để chờ ngày tìm ra thuốc trị liệu để tiếp tục…sống v.v…

Người ta sợ chết vì sợ mất người mình thương, sợ xa lìa người thân, bạn bè, xa lìa vợ con, chồng con, sợ không ai nuôi con mình, sợ rồi đây tụi nó sẽ…sống ra sao?, sợ mất đi cái tôi cùa mình, sợ mất hết tài sản của cải mà mình đã thật sự khổ công tạo dựng được trong suốt cả cuộc đời, cũng như sợ chưa thực hiện được những hoài bão mà mình hằng mong ước, và sợ bị lãng quên, v.v… (trích điện-thư của một bạn khác đạo từng gửi trên mạng rất ê hề, nhiều vô kể)

Biện-luận ra sao cũng đặng. Hát và nói thế nào cũng chẳng sao. Duy có điều, là: có kế hoặc hát nhiều cho lắm, ta cũng nên nhớ lại lời vàng của thánh-nhân hiền lành từng dặn dò mọi người bằng một chú thích, như sau:

“Đức Giêsu liền khóc.

Người Do-thái mới nói:

“Kìa xem! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!”

Có vài người trong nhóm họ nói:

“Ông ta đã mở mắt cho người mù,

lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?

(Ga 11: 354- 37) 

Có khóc được, hoặc được khóc như Đức Giêsu khi xưa hay không, thiết tưởng ta vẫn nên ca và hát ý/lời của người viết nhạc từng ê a, ca rằng:

“Tiếc nhớ mấy cũng thêm thừa

Yêu đương biết nói sao cho vừa

Cuộc tình đó để em vui đùa

Đọa đày đó, giờ đã đến mùa.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Hát xong rồi, giờ đây hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ hiên ngang đứng thẳng để nghe tiếp những điều như thế diễn ra bằng các sự kiện trong đời, rất con người.

Trần Ngọc Mười Hai

Thật cũng chẳng hơn ai

Nhưng vẫn cứ phiếm để còn nhớ và thương

Những “quan tài buồn”

Thuộc tầm cỡ rất Giuđa Iscariốt.

Tình đã đến trong những ngày độc dược,

“Tình đã đến trong những ngày độc dược”,

trong những ngày rữa nát mọi tinh hoa

trong những ngày sự sống diễn ra

bằng điên dại dẫm bừa lên sự sống!…

nhìn nhau đi em để thấy những giòng xanh

hạnh phúc trần gian đang lăn từ khóe mắt.

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá lược dịch

Nhìn nhau đi, để thấy được giòng xanh hạnh phúc. Giòng xanh hạnh phúc ấy, có lẽ ta rất dễ thấy nơi dân gian cuộc đời. Một cuộc đời luôn có Chúa, có Mình và Máu Thánh. Trình thuật hôm nay, nói về quà tặng Chúa ban nơi Mình Ngài, bàn tiệc Thánh. Tiệc lòng mến, rất agapè.

Mừng tiệc thánh agapè mỗi tuần, cộng đoàn nơi tôi ở vừa tái cấu trúc nguyện đường cho an toàn, hợp lý. Một trong những điều tôi cảm thấy lạ, là: cửa Nhà Tạm Chúa ngự được làm bằng kính, rất sáng trong. Trong đến nỗi, ánh sáng bên ngoài có thể lọt vào, để lộ hiện nguyên hình chén thánh. Và đây cũng là lần đầu, tôi cảm thấy yếu tố này đã đánh động, thu hút lòng Đạo nơi tôi và chắc cũng là của một số anh em.

Phản ứng của anh em chúng tôi cũng đa dạng, đôi lúc thật lạ lùng. Người cho rằng: làm thế không trang nghiêm, thiếu tôn kính. Kẻ bảo là: lập trường cấu trúc cũng không tệ. Tựu trung, đa số đã bày tỏ sự đồng thuận, là: hãy nên để thế. Để như thế, vì Mình Thánh Chúa là Thực phẩm nuôi sống chúng ta, mỗi ngày. Mỗi ngày, ta nhìn thấy Ngài, rất muốn sẻ san. Ngài là thực phẩm, nên cũng cần mang dáng dấp chào mời, dễ bẻ vụn và phải đổ tràn ra bên ngoài bằng yêu thương, vô bờ bến. Đó, chính là động tác Chúa thực hiện vào Tiệc Thánh, chiều Thứ Năm. Hôm trước ngày khổ nạn. Và, đó cũng là việc ta vẫn làm mỗi tuần, ngày của Chúa.

Ngày của Chúa, nhiều vị thường diễn tả việc dự Tiệc thánh như thói quen nguyện cầu, dâng tiến. Tệ hơn, có người lại coi việc cử hành Tiệc như màn độc diễn của vị chủ tế trên bàn thờ. Giáo dân  tham dự chỉ với tính cách người dự khán, thôi. Nghĩa là, chỉ đến rồi đi. Đi xem lễ. Đến nhà thờ. Nhất nhất, để thực hiện tổng cộng những sáu điều Hội thánh khuyên răn. Không đi không đến e sẽ mắc tội. Và, là tội trọng.

Vốn mang trong người phong thái ấy, nhiều người vẫn hay đến trễ, về sớm. Chỉ đứng xa hoặc loanh quanh ở ngoài, hút thuốc nói chuyện hoặc liên tưởng chuyện làm ăn nào khác. Tuyệt nhiên, không mang dáng dấp tích cực, hợp tác nơi bàn tiệc.

Tiệc Thánh, trước tiên và nhất thiết phải là động thái tích cực của cả cộng đoàn. Bởi, tự bản chất, ý nghĩa của Tiệc là như thế. Chí ít, ta tham dự Tiệc là để thật sự ăn Mình Máu Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu, như được dạy. Nói cho cùng, tham dự Tiệc không là chuyện đơn độc riêng lẻ, nhưng là việc của cả cộng đoàn tình thương dự Tiệc lòng Mến rất đông. Rất tích cực.

Dự Tiệc ngày của Chúa, ta cùng nhau đến vì Thân Mình Ngài. Cùng đến, như những người thân yêu chung tình, cùng ăn cùng uống. Cùng chung sức sống. Đến để bày tỏ lòng biết ơn chân thành, đối với Ngài. Đến, vì “Thánh Thể” thật sự mang ý nghĩa một cảm tạ. Ta đến, không phải vì sợ phạm vào điều khuyên thứ ba Hội thánh luôn răn giữ. Ta đến, không vì sợ tội. Không vì sợ vi phạm giới răn Hội Thánh Chúa, khuyên giữ. Ta đến, cũng chẳng phải là giữ chỉ để giữ. Giữ vì sợ mắc tội. Giữ, nhưng không mảy may thuyết phục. Thành thử, có người cứ đến trễ và về sớm. Cũng chẳng thấy cần phải lưu lại đôi phút để hàn huyên, chia sẻ những tâm tình người đồng Đạo.

Đến dự Tiệc lòng mến, tuyệt nhiên không là đi “xem lễ”, như nhiều người lầm gọi. Bởi, đi xem là xem vị chủ tế độc diễn màn dâng tiến một mình, trên bục cao. Ngược lại, đến dự Tiệc Thánh là việc tham gia vào việc chung. Tham dự và gia nhập tiệc vui rất chung. Ăn chung uống chung, cũng một Mình Máu Rất Thánh của Chúa. Ăn và uống chung, rất công khai. Đầy hưng phấn.

Như Chúa từng bày tỏ:

Bằng vào việc này, mọi người sẽ biết các anh là môn đệ của Thầy, anh em hãy thương yêu nhau” (Yn 13: 35). Và:

“Xin cho chúng nên một để thế gian biết Cha đã gửi Con đến”

(Yn 17: 21-23)

Đến dự Tiệc, mà mang tâm trạng đơn độc lặng thinh, là chưa hiểu ý nghĩa của sự đồng tâm cộng lực,chung lòng mến. Đến dự Tiệc, là cùng mang tâm tưởng thâm sâu đượm tình mật thiết của cộng đoàn kẻ tin. Tiệc Thánh, không là thời điểm ta tác tạo nên cộng đoàn, mà thôi.

Nhưng, là thời gian giúp ta cử hành mừng kính đặc điểm cùng nhau chung phần vui hưởng của cộng đoàn. Thật đáng tiếc: hơn bốn thập niên thời hậu Công Đồng đã trôi qua, mà nhiều vị vẫn còn nhấn mạnh đến yếu tố tu đức cá thể. Chỉ nhắm mục đích tìm sự “rỗi linh hồn”, riêng mình ta thôi.

Vì thế, người dự Tiệc ngày của Chúa vẫn cứ hành xử như khách lạ, vừa đến thăm. Khách đến, thiếu vắng cả nụ cười, tối thiểu. Thiếu tình thương. Thiếu hợp tác, đùm bọc. Cả khi, lời “chúc bình an, tay nắm tay” trao cho nhau, cũng chỉ là động tác lấy lệ. Chỉ như phản xạ tự nhiên, rất quen làm. Khác hẳn tâm tình người dự tiệc mừng ngày sinh, rất thân thương.

Nói rộng hơn, dự Tiệc Thánh không chỉ đến để nhận bánh thánh hiệp thông, rất giản đơn. Mà, để chia sớt và cùng sẻ san một Bánh Thánh là Mình Ngài, một biểu-tượng. Cùng uống chén Máu cứu độ của chính Ngài. Mình và Máu Đức Chúa đã Phục sinh. Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận, không chỉ riêng Mình Đức Kitô thôi, nhưng còn là thân mình của cả cộng đoàn, vẫn được coi như chi thể thân thương đã tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô, đang hiện hữu.

Qua sẻ san Mình và Máu Thánh Chúa, cộng đoàn tình thương mới nhận ra rằng: không chỉ riêng có Đức Kitô đến với ta, mà thôi. Nhưng, là cả Thân Mình Ngài có cộng chung chi thể, là cộng đoàn thân thương ta sống cùng, và sống với. Ở một số cộng đoàn, nhiều vị có thói quen bái gối trước khi đón nhận Bánh Thánh. Nếu đây là cử chỉ thông thường nhằm tỏ lòng tôn kính, tưởng cũng nên bái gối trước cộng đoàn đang xếp hàng đón nhận Thân Mình Chúa vào bên trong mọi người.

Nói tóm lại, hiệp thông nhận đón Mình Máu Chúa, không là riêng mình Đức Kitô đến với ta mà thôi. Mà còn là, cả cộng đoàn tình thương đã ở trong ta. Với ta.

Thành thử, khi nhận Bánh Hằng Sống vào lòng bàn tay và đáp lời “Amen”, ta đã nghiêm chỉnh nhận lời mời cùng nhau trở thành thân mình của Đức Chúa, ta vừa nhận. Thân Mình Ngài, đã bẻ vụn thành tình thương yêu. Máu Thắm của Ngài đã đổ tràn thành hy vọng. Nhờ đó, thế giới hôm nay được cứu thóat khỏi chính con người mình. Khỏi cái “mình” xấu xa, đớn hèn bấy lâu nay. Và từ đó, tìm được sự sống trọn vẹn nơi Đức Kitô.

Có Chúa ở với và ở cùng, khi đón Mình Máu Ngài, ta ngân vang lời thơ từ thi sĩ họ Hàn, rằng:

Ta há miệng cho Nguồn Thơm trào vọt:

Tứ thời Xuân! Tứ thời Xuân non nước!

Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang,

Thiên hạ bình và Trời tuôn ơn phước

Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.

Ta cao ngân giọng vô cùng thanh thoát

Khiến châu thân rung động thể tơ trăng.

(Hàn Mặc Tử – Nguồn Thơm)

Vâng, đúng thế. Nguồn Thơm đã thấm nhập vào châu thân rung động của chính ta. Của cả cộng đoàn. Và mãi mãi, ta sẽ vui vầy Tiệc Thánh. Tiệc mến yêu Mình Máu Chúa, rất agapè.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Hạnh Phúc Gia Đình

Hạnh Phúc Gia Đình

Giuse Thẩm Nguyễn

Gia đình là cơ cầu nền tảng của Giáo Hội và xã hội, vì thế gia đình có một vị trí rất quan trọng trong việc đào luyện và cung cấp cho Giáo Hội và xã hội những thành viên ưu tú trong tương lai.

Ý niệm về gia đình đã bị bóp méo khi mà có sự cho phép hôn nhân giữa hai người cùng phái. Danh từ vợ chồng thân thương đã bị thay thế bằng bên A và bên B trong một hợp đồng sống chung. Gia đình kiểu này không đáp ứng mục đích của gia đình lúc ban đầu là ” hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất…”(ST 1,28). Hai anh đực hay hai chị cái sống với nhau như vợ chồng thì làm sao có con được, có chăng là sự vay mượn, lấp liếm điền vào chỗ trống qua việc nhận con nuôi… mong thỏa mãn nỗi khát khao được làm cha mẹ.

Đó là cái nhìn về gia đình hiện nay mà xã hội chúng ta phải đối diện. Nhưng trong phạm vi chia sẻ cảm nghĩ về gia đình, tôi xin thu hẹp cái nhìn của mình vào gia đình, một gia đình Công Giáo mà thôi.

Tôi đã có dịp tham gia các cuộc hội thảo về gia đình. Buổi hội thảo nào cũng rất hay, cũng hữu ích cho các cặp hôn nhân. Các diễn giả trình bày về tâm lý người nam, tâm lý người nữ, cách giáo dục con cái, nhưng tôi có cảm tưởng là họ thiếu tâm lý Giê-su. Khoa tâm lý chỉ đưa ra cách giải quyết cái ngọn trong khi cội nguồn của hạnh phúc là chính Đấng Tạo Hóa thì bị quên lãng. Người ta chỉ có thể đem áp dụng kiến thức hôn nhân gia đình khi chúng ta có tình yêu nơi Chúa Giê-su. Vì Chúa là tình yêu, cho nên ta không yêu Chúa là Đấng Tạo Hóa thì ta không có khả năng yêu con người, một thụ tạo bằng tình yêu chân thật được. Do vậy mà tham gia hội thảo hoài, học hỏi mãi mà gia đình vẫn không có hạnh phúc?

Có lẽ những lý thuyết về tâm sinh lý, cách cư xử, điều nên làm, việc cần tránh… để có hạnh phúc thì ai cũng biết, nhưng từ cái biết, cái kiến thức đến việc thực hành có vẻ như rất xa. Các nhà tâm lý có câu “Con đường dài nhất của thế giới là con đường 18 inches từ cái đầu đến trái tim của bạn” hay là “ Khả năng biến đổi từ sự hiểu biết đến hành động là một quá trình vô cùng khó khan”. Vâng quả là khó khăn lắm đến nỗi có chuyện ngược đời là một nhà tâm lý kia khi thao thao thuyết giảng về cách bảo vệ hạnh phúc gia đình thì ông ta đang chờ ngày ra tòa ly dị vợ mình.!

Thật ra chúng ta chỉ có khả năng biến đổi, nhất là biến đổi mình để được yêu thương hơn, hạnh phúc hơn nơi Chúa Giê-su.

Là người Công Giáo, chúng ta biết rằng Giáo Hội khuyên chúng ta học hỏi và noi gương mẫu của gia đình Narazeth. Trong các lễ cưới, cha chủ tế thường hay lấy hình ảnh Thánh Gia làm khuôn mẫu cho đôi tân hôn. Vậy gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria, Chúa Giê-su có những bí quyết gì để chúng ta học hỏi.

Trong thời Thánh Giuse chắc là chưa có các nhà chuyên môn về tâm sinh lý, chưa có các chuyên viên về gia đình, chưa có sách học bí quyết sống hạnh phúc gia đình. Vậy thì trong hoàn cảnh đó gia đình Narazeth, tôi nghĩ sẽ không rành về tâm sinh lý, sẽ không đọc sách dạy khôn chuyện gia đình, sẽ không tham gia hội thảo như bây giờ.

Bởi đâu mà gia đình Thánh Gia hạnh phúc và nêu gương mẫu cho chúng ta. Trả lời của tôi cho câu hỏi này không biết đến từ đâu, có thể từ Kinh Thánh, từ lời dạy của Giáo Hội, từ những kinh nghiệm thực tế của cuộc sống? Nhưng tôi cảm nhận được rằng:

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có Chúa Giê-su hiện diện. Chính Chúa là nguồn yêu thương, chính Chúa là cội rễ của mọi nguồn an vui hạnh phúc. Chúng ta không tìm được hạnh phúc nơi gia đình vì gia đình mình vắng bóng Chúa Giê-su.

Vì không có Chúa nên gia đình luôn bất an tựa như con thuyền mong manh tròng trành, nhấp nhô giữa sóng đời. Tính ích kỷ, thói ghen tuông, lòng tham lam đố kỵ làm rạn nứt mối quan hệ gia đình. Sự thiếu cảm thông, thiếu hy sinh, thiếu quan tâm, thiếu tôn trọng đào sâu thêm những rạn nứt càng ngày càng trầm trọng hơn và hậu quả tất yếu là gia đình thành bãi chiến trường: những cuộc khẩu chiến, những thắng, thua, hơn, thiệt, chán nản, ngoại tình, hận thù và tan vỡ.

Khi chúng ta dọn đến một căn nhà mới, người Công Giáo thường mời linh mục đến làm phép nhà rồi sau đó là tiệc mừng. Nhưng làm phép nhà để làm gì? Phải chăng làm phép nhà là mời Chúa vào ở với mình? Khi có Chúa hiện diện, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương, sẽ ngọt ngào trong cách cư xử, sẽ nhận ra nhu cầu của người khác, sẽ biết cho đi hơn là nhận. Không những chúng ta cần Chúa hiện diện trong căn nhà mình đang sống (house), mà chúng ta cũng cần Chúa hiện diện nơi gia đình (home), nơi tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình. Ý thức về sự hiện diện của Chúa giúp chúng ta rất nhiều trong việc biến đổi cách sống mỗi ngày.

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có một gia trưởng là Thánh Giuse, một người công chính. Người công chính là người luôn trung thành thờ phượng Thiên Chúa, luôn tìm kiếm và thực thi theo ý muốn của Thiên Chúa. Khi biết mẹ Maria có thai, không phải là con của mình, Thánh Giuse không điên tiết, ghen tuông, hành động cục cằn thô lỗ, mà ngài âm thầm tìm hiểu sự thật qua cầu nguyện, lắng nghe ý Chúa. Ngài nghĩ tốt về Mẹ Maria, về người bạn trăm năm của mình. Khi được Thiên Thần báo mộng, Thánh Giuse chấp nhận và làm theo ý Chúa. Ngài làm thợ mộc để nuôi vợ là Maria và con là Chúa Giê-su. Ngài kiếm tiền bằng sức lao động của mình và dạy con bằng chính đời sống của mình.

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có người vợ, người mẹ dịu hiền và khiêm nhường là Mẹ Maria, một phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ Maria là một người mẹ can đảm,sẵn sàng chấp nhận hy sinh và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ Maria phục tùng chồng là Thánh Giuse và cậy dựa vào sự bao bọc của chồng. Nơi Mẹ toát ra sư yêu thương ngọt ngào làm cho Thánh Giuse quên hết sự vất vả lao động hằng ngày. Mẹ không than trách, không nhiều lời trước những biến cố trong gia đình.. Mẹ giữ lấy trong lòng những biến cố buồn vui ấy và gói ghém như món quà dâng lên Chúa.

Trong phúc âm, Chúa Giê-su đã nhiều lần nhắc đến việc Ngài đến thế gian để làm theo ý Chúa Cha. “vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38).Trong hôn nhân, Thánh Giuse cũng luôn tìm hiểu và làm theo ý Chúa. Mẹ Maria cũng luôn chấp nhận và làm theo ý Chúa. Trong cuộc sống gia đình, để có được hạnh phúc chúng ta cũng phải tìm kiếm, chấp nhận và làm theo ý Chúa như trong Kinh Lạy Cha “Xin cho ý­­ Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Làm theo ý Chúa thì sẽ đẹp ý chồng, trong ý vợ, được ý con.

Quả thật, Giáo Hội đã rất khôn ngoan khi dạy con cái mình noi theo gương mẫu Thánh Gia để xây dựng hạnh phúc gia đình. Thiên Chúa là cha yêu thương sẽ ban cho chúng ta mái gia đình hạnh phúc nếu chúng ta biết mở lòng đón Chúa ngự vào. Người làm chồng hãy sống như Giuse, người làm vợ hãy sống như Mẹ Maria, người làm con hãy sống như Chúa Giê-su. Hạnh phúc gia đình nằm trong tầm tay, chúng ta chỉ cần giơ tay đón lấy.

Lạy Thánh Gia xin nâng đỡ và bảo vệ hạnh phúc gia đình chúng con. Amen

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

Đỗ Trân Duy

Đối với Kitô hữu, có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình biết Thiên đàng ở đâu, dĩ nhiên là ở trên trời. Tin như vậy là đủ, chẳng ai cắc cớ thắc mắc thiên đàng ở chỗ nào trên trời. Vả lại ai có thẩm quyền trả lời cho một thực thể siêu hình đó. Cuối cùng chỉ những tay vô thần sừng sỏ nêu ra vấn đề này với thâm ý bắt bí tín lý Thiên Chúa giáo. Vấn đề xem ra không đơn giản, vì gần đây chính một số nhà tư tưởng Công Giáo cũng nói về “nơi chốn” của thiên đàng. Vậy chúng ta phải hiểu về chốn thiên đàng như thế nào? Bài viết này không dám trả lời cho vấn đề lớn đó. Đây chỉ là một chú giải nhỏ, phụ theo lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mà thôi.

Thiên đàng hiểu theo truyền thống

Thiên đàng, theo đức tin truyền thống Việt Nam, là một nơi chốn cụ thể và được đồng hóa với cõi trời. Trong kinh “Lạy Cha” câu mở đầu nói rõ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.  Rồi những khóm từ như “Đức Mẹ lên trời”, “lễ Thăng Thiên”, “hoan hô Chúa trên các tầng trời”… tất cả đều xác định thiên đàng là cõi trời. Trong những truyền thống đức tin khác, như của Âu Mỹ, họ không dùng chữ “trời” mà dùng danh xưng “heaven” (thiên đàng). Cũng trong kinh “Lạy Cha”, câu mở đầu là “Our Father who art in heaven.” Theo tiếng Hebrew, heaven có nghĩa là “trên cao” (Catholic Encyclopedia). Tuy heaven không xác định là ở trên trời, nhưng vẫn được hiểu ngầm như vậy. Trong thánh kinh có rất nhiều trình thuật gợi ý như “Hãy nhìn lên thiên đàng mà xem các tầng mây cao hơn ông biết mấy!” (Yob 35:5). Thánh Stêphanô nói, “Này tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (CV 7:56). Thánh Gioan miêu tả cảnh phục sinh: “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ thiên đàng: ‘Hãy lên đây’, và các ngài lên thiên đàng trong đám mây, trước mặt thù địch của các ngài” (KH 11:12). Sách Tông đồ công vụ miêu tả rõ hơn, “Khi Chúa Giêsu được đưa lên cao, các môn đệ nhìn theo Chúa cho đến khi một đám mây che kín mất Ngài” (CV 1:9).
Nếu chúng ta đi tìm lời nói của Đức Giêsu về vấn đề này, chúng ta không thấy có chỗ nào Người nói thiên đàng ở trên trời. Đức Giêsu cũng không đồng hóa Thiên Chúa với thiên đàng (hay trời). Lời cầu nguyện của vua Salômôn chứng tỏ người xưa cũng ý thức như vậy: “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!” (1 Vua 8:27)

Đại chúng cho rằng có thể suy diễn vấn đề trên qua nguyên tắc: thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự, vậy nếu biết Thiên Chúa ở đâu, ta sẽ biết thiên đàng ở đâu. Người ta cũng đã tưởng rằng chỉ có ba câu trả lời cho vấn đề ấy. Thứ nhất, thuở xưa người ta tin Thiên Chúa tạo ra vũ trụ nhưng Chúa là Đấng siêu việt vượt trên vật chất, nên không đồng hóa với vũ trụ. Thiên Chúa ở ngoài vũ trụ. Đến thế kỷ 18, con người khám phá ra vũ trụ vô cùng lớn, lớn đến mức dù ta có di chuyển với tốc độ ánh sáng, qua hằng ngàn năm, cũng chưa tới biên giới của nó. Con người không chấp nhận nổi có chỗ nào gọi là bên trên hay bên ngoài vũ trụ. Vả lại nếu Thiên Chúa ở bên ngoài vũ trụ, vậy vũ trụ càng lớn, Chúa lại càng ở rất xa con người. Làm sao con người có thể gần Thiên Chúa để cầu nguyện.

Câu trả lời thứ hai, người ta đặt Thiên Chúa vào bên trong vũ trụ. Do đó mà có niềm tin thiên đàng ở trên trời, tức là ở bên trong vũ trụ. Nhờ thế mà con người có thể gần với Thiên Chúa. Quan niệm này cũng không ổn, vì nếu ở trong vũ trụ Thiên Chúa phải là một sinh thể của vũ trụ. Có lý nào Thiên Chúa là một phần của vũ trụ mà vũ trụ ấy lại do chính Ngài tạo ra. Những niềm tin sơ thuần cho rằng Thiên Chúa ở bên ngoài hay bên trong vũ trụ đều đẩy trí thức đến ngõ bí vì kết quả vô lý của suy luận.

Câu trả lời thứ ba dựa vào tín lý. Trong lãnh vực này, chúng ta thấy có hai phe. Phe thứ nhất, đại diện là Joseph Campbell, tin rằng con người không thể nào biết được Thiên Chúa là ai. Vì vậy không nên đặt vấn đề sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh kinh cũng nói: “Thiên Chúa vượt xa hơn và vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể tưởng nghĩ về Ngài” (GLCG 2794). Thần học gia Paul Tillich phủ nhận lối diễn tả “hiện hữu của Thiên Chúa”. Ông cho rằng nói như vậy chúng ta đã mặc nhiên cho Thiên Chúa là một phần thực thể của thiên nhiên. Bởi vì “hiện hữu” có nghĩa là đang có và đang biệt lập đứng lơ lửng ở đâu đó ngoài mặt đất. Ông đổi ý niệm “hiện hữu” (exist) bằng ý niệm Thiên Chúa “thường hằng” (God is). Nhóm thứ hai cho rằng Thiên Chúa mang bản chất pantheism, nghĩa là mọi thứ đều ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở khắp mọi nơi (omnipresence) vì Ngài là Đấng vô hạn (immensity) (Council of Lateran, c. “Firmiter”; Vatican Council, Sess. III, c. 1.).  Như vậy vũ trụ ở trong Thiên Chúa. Tóm lại, như chúng ta thấy, với những nhận định trên, câu trả lời về “thiên đàng ở đâu” vẫn còn bỏ ngỏ.

Điểm thời sự không thể tránh

Trong buổi cầu nguyện với quần chúng ngày 21 tháng 7 năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tạo nên vấn đề thời sự. Ngài nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống (state of being) chứ không phải là một nơi chốn (place) theo nhận thức của ngôn ngữ loài người.”  Giáo hoàng nói rõ thêm,“Thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng hay là một địa điểm cụ thể trong những cụm mây, nhưng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần.” (1) Đối với giới truyền thông ngoài Công Giáo, lời tuyên bố này quá bất ngờ vì đi ra ngoài nhận định về thiên đàng của truyền thống.

Mười một năm sau, 2010, dưới triều Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Tòa Thánh cho phát hành cuốn YOUCAT (Youth Catechism – Giáo Lý Công Giáo cho Giới trẻ). Trong tập sách này, hiện thực của thiên đàng được lập lại và chính thức đưa vào mục giáo lý. Theo đó thiên đàng không phải là một nơi chốn mà là một trạng thái sống (a kind of life) trong ý thức về Thiên Chúa hiện diện. Sự hiện diện này không lệ thuộc vào không gian và thời gian (không-thời gian). (2) Như vậy cả hai đức Giáo Hoàng, những vị có thẩm quyền tông truyền, đều quan niệm về “nơi chốn” thiên đàng như nhau.

Sự tiếp nhận

Ngay sau khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phát biểu, không ít người sửng sốt và phản đối. Có người dè dặt cho rằng, “Có lẽ Giáo hoàng có một mạc khải tư nào đó về thiên đàng chăng.” Đa số tín hữu vướng mắc trong  những sự kiện như: Đức Mẹ hồn xác lên thiên đàng (trời), hay: đến ngày tận thế xác chết sống lại, kẻ lành lên thiên đàng… Họ cho rằng vì thể xác là vật chất, nếu không có nơi chốn thì thể xác sẽ tồn tại ở đâu. Ngoài ra những khóm từ gợi hình trong thánh kinh như: mở cửa thiên đàng, tầng trời mở ra, ngự bên hữu Chúa Cha… tất cả đều trình bày theo kinh nghiệm ở trong một nơi chốn.

Mặc dù thánh Phaolô đã giảng thân xác phục sinh là một thân xác thần linh (celestial bodies) không phải là thân xác huyết nhục. (1 Côr 15: 35-44) Thân xác Chúa Giêsu phục sinh là một điển hình. Chúa chợt “xuất hiện” để nói chuyện với hai đệ tử trên đường đến Emmaus, rồi “tan biến” khi tới nơi. Chúa cũng “hiện ra” giữa các môn đệ đang họp trong gian phòng cửa khóa kín, rồi cũng “biến mất” sau khi chúc lành cho họ. Xem thế, thân xác thần linh không cần một nơi chốn cụ thể để trú ngụ. Đa số tín hữu quen trong giới hạn của không gian 4 chiều, nên muốn giới hạn thiên đàng và Thiên Chúa trong không gian 4 chiều. Họ không thể tưởng tượng nổi một thân xác thần linh và một thiên đàng không có nơi chốn. Họ hoang mang đối diện với sự kỳ diệu của thực thể vô không-thời gian mà con người khó diễn tả và trí tưởng tượng phải dừng lại nơi giới hạn của nó.

Đàng khác cũng có rất nhiều người tiếp nhận lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II một cách dễ dàng. Họ cho rằng Giáo Hoàng đưa ra một nhận thức thần học đúng, nhưng tạo ra dao động chỉ vì ngài thiếu phần chú giải đi kèm. Nhận xét này rất chính xác. Chúng ta có thể đặt chú giải cho nhận thức đó qua nhận định về bản thể của thân xác hiển linh. Có lẽ không hình ảnh nào cụ thể hơn là bánh và rượu trong thánh lễ. Nếu thân xác Chúa Giêsu bị giới hạn trong thể chất, và trong không-thời gian, làm sao chúng ta có Mình Máu Chúa Giêsu, trong dạng bánh và rượu, hiện diện cùng lúc ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bàn về thân xác hiển linh của Đức Mẹ, chúng ta cũng biết Đức mẹ đã hiện ra và biến mất rất nhiều lần. Mỗi lần hiện ra chỉ vài người tuyển chọn mới có diễm phúc chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Chẳng hạn lần hiện ra ở Fatima, mặc dù có rất nhiều người đứng tại chỗ Đức Mẹ hiện ra, nhưng chỉ có 3 em nhỏ nhìn thấy Đức Mẹ. Như vậy thân xác Đức Mẹ vừa là hữu hình vừa là vô hình tùy theo liên hệ với từng cá nhân. Nếu xác Đức Mẹ là thể chất vật lý, mọi người đều phải thấy như nhau. Rõ ràng là thân xác phục sinh không bị trói buộc bởi bất cứ một luật lệ vật lý nào. Suy ra mối kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa (thiên đàng) là một trạng thái sự sống riêng tư, chứ không theo bất cứ luật lệ vật lý nào.

Chân lý bao gồm cả đức tin lẫn kiến thức, nên tín hữu chúng ta buộc phải học hỏi tìm hiểu. Ðó là lý do Thánh Phêrô đã dạy, “Hãy nỗ lực bổ sung đức tin với nhân đức, và bổ sung nhân đức với sự hiểu biết” (2 Phê 1:5). Năm 2000, ký giả vô thần Peter Seewald hỏi Hồng y Ratzinger “Thiên đàng ở đâu?” Hồng y trả lời, “Những từ như ‘mây’ và ‘thiên đàng’ chỉ là cách nói mà con người muốn tìm cho Thiên Chúa có một nơi chốn. Đúng ra cách nói ‘Chúa Giêsu lên thiên đàng’ chỉ có nghĩa là không còn nhìn thấy trên mặt đất chứ không phải không còn hiện diện trên mặt đất.” (3) Bởi vậy vẫn có người tuyển chọn có ơn phước nhìn thấy Chúa Giêsu, chẳng hạn thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh Padre Pio…

Quan điểm thần học

Chúng ta hãy bắt đầu bằng một tín lý quen thuộc và đặt tín lý đó vào một tam đoạn luận đơn giản: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Vậy thiên đàng ở khắp mọi nơi.

Như vậy phải chăng giữa thiên đàng và con người không còn ranh giới? Theo thần học, đoạn lý luận trên vô giá trị, bởi vì đã không thấy thiên đàng là ơn phước. Thiên đàng không phải là kết quả của một điều kiện hay của một định luật vật lý. Mặc dù Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nhưng Chúa tỏ lộ vinh quang của Người qua phương cách ơn phước đặc sủng. Theo thần học gia Gerhard Ebeling, “Không phải Thiên Chúa ở đâu, thiên đàng ở đó, mà là thiên đàng ở đâu Thiên Chúa ở đó” (not that God is where heaven is, but rather heaven is where God is). Vì là ơn phúc nên phải có sự kết hợp sống động giữa cá nhân và Thiên Chúa. Cũng không phải ai cũng có mức độ ơn phước giống nhau. Gọi là thiên đàng, hay trời, chỉ là cách biểu đạt bất toàn của ngôn ngữ loài người về trạng thái cá nhân “hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi” (GLCG 1024). Nói cách khác, không hề có một thiên đàng tĩnh, tồn tại bất biến ở nơi nào đó trong vũ trụ.

Tình kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa biểu lộ giáo huấn vô cùng quan trọng về tính tự do của con người. Tính tự do đặt con người ở thế chủ động trước ơn phước của Thiên Chúa. Ta muốn liên kết với Thiên Chúa hay không là tùy ở ta. Bởi vì Thiên Chúa chỉ “hiện diện” ở những nơi đạo đức tốt lành. Thiên Chúa không “hiện diện” ở nơi tội lỗi sa đọa. Đức Giêsu đã nói, “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa (Mat. 5:8). Tuy nhiên lại phải hiểu rằng “hiện diện” không nằm trong bất cứ phạm trù nào thuộc không-thời gian. Lm Phan Đình Cho tóm tắt rằng thiên đàng phải hiểu là một ơn phước mà Thiên Chúa dành cho người tốt lành và hoả ngục là một thái độ con người tự do từ chối ơn phước đó. (4)

Vài sự kiện trong hạnh các thánh có thể làm rõ hơn về ý tưởng thiên đàng là một ơn phước của Thiên Chúa.  Các vị thánh cao trọng như Gioan Thánh Giá (John of the Cross), Têrêsa Lisieux, và thánh Têrêsa  Calcutta đã trải qua một khoảng thời “mất ơn phước vì bị Thiên Chúa bỏ rơi”. Thánh Gioan Thánh Giá gọi kinh nghiệm này là “đêm đen của linh hồn”. Thiên Chúa cố tình không “đến” với họ khiến tâm hồn họ lạc lõng, trống rỗng, tối đen và đau khổ. Thiên Chúa dành riêng cho một số vị đặc sủng ơn thử thách “đêm đen” này. (5) Nhưng đây là một chủ đề khác, chúng ta không muốn đi ra ngoài chủ đề hôm nay.

Trở lại với tín lý “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi”. Thần học dạy rằng chúng ta phải thấy tín lý đó theo hướng nhìn về ơn sáng tạo và ơn cứu độ phổ quát. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi có nghĩa Thiên Chúa nâng đỡ sự hiện hữu của vũ trụ. Bởi vì duy chỉ có Thiên Chúa là Hữu. Không gì có trước Hữu, nên Thiên Chúa là Đấng tự Hữu, Hữu Tuyệt Đối. Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ từ hư vô. Nghĩa là mọi vật từ hư vô nhờ Hữu, qua Hữu mà được thành hữu thể. Vì từ Hữu mà ra, nên mọi hữu thể đều thuộc về Hữu, và hiện tính của Hữu có trong mọi hữu thể. Vì vậy mọi hữu thể đều ở trong Hữu. Nếu Thiên Chúa vắng mặt mọi thứ trở thành hư vô ngay tức khắc.

Nếu cảnh giới thiêng liêng nằm ngoài không-thời gian, thì hiển nhiên thiên đàng không nằm trong vũ trụ vật chất. Vì ngôn ngữ của lời cầu nguyện, bắt buộc chúng ta phải xưng hô với Thiên Chúa như một Đấng ở đối diện, nhưng không phải như vậy. Thánh Augustine đã nói những lời cảm khái, “Chúa ở bên trong và luôn luôn ở cùng tôi.” Thánh Phaolô đã có lần đứng giữa chợ trong thành Athens giảng đạo. Thánh nói, “Họ đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa đâu có ở xa chúng ta. Chúng ta sống và sinh hoạt trong Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta hiện hữu” (CV 17:27). Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói, “Nếu Thiên Chúa là một đối tượng cụ thể có thể thấy được thì người đó không phải là Thiên Chúa.”

Điều mà hai Giáo Hoàng đưa ra đã được các thần học gia nói tới từ thời thánh Augustinô cho tới ngày nay. Thiên đàng là “điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không thể nghĩ tới, lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài” (1cor 2:9). Vì vậy, hiện tại con người chỉ có thể “thấy” Thiên Chúa bằng đức tin mà thôi. Cho nên “thấy qua đức tin” là một trạng thái của sự sống. Cái thấy này khác với cái thấy trọn vẹn “mặt giáp mặt”, trong cõi vĩnh hằng, khi con người có thân xác phục sinh hiển linh. Khi đó con người không những kết hợp với Thiên Chúa, mà còn kết hợp với các thánh và với các thiên thần (GLCG 962). Thời điểm vĩnh hằng đó, đối với kinh nghiệm hạn hẹp của con người tại thế, chỉ có thể hình dung bằng cách đặt toàn bộ vào một nơi chốn. Theo truyền thống, ngôn ngữ loài người gọi “nơi chốn” đó là thiên đàng. Thiên đàng là một huyền nhiệm không thể nói rõ ra được.

Đỗ Trân Duy
————–
(1) Xin đọc “Heaven”, L’Osservatore Romano, Weekly Edition in English. 28 July 1999.
(2) Xin đọc các câu hỏi 52, 123, 158, 242, 285, và 518 về thiên đàng trong YOUCAT. 2011. Ignatius Press, San Francisco
(3) Xin đọc “Where is God?” P. 105, God and the World. 2002. Joseph Ratzinger. Ignatius Press, San Francisco.
(4) Phan Đình Cho. 2000. Câu hỏi 47, Giải đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng. University Press. New York, USA.
(5) Mẹ Têrêsa Calcutta. Come Be My Light. 2007. Brian Kolodiejchuk chủ bút. Nhà xuất bản Doubleday. Đồng thời để hiểu rõ hơn ý nghĩa của “đêm đen” xin tham cứu bài “On A Dark Night” trong sách The Ascent To Truth. 1981. Thomas Merton. Nhà xuất bản Harcourt Brace & Company, San Diego, California.

Cuộc đời

Cuộc đời

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi một trẻ thơ lọt lòng mẹ, người ta nói: em bé “chào đời”. Khi một người trút hơi thở cuối cùng, người ta bảo: người này “tạ thế”. “Chào” là tâm tình của người mới đến. “Tạ” là cử chỉ của người sắp đi xa. Khi chào đời, em bé nào cũng có bàn tay nắm chặt; khi tạ thế, người nào cũng để bàn tay buông xuôi. Bàn tay nắm chặt là bàn tay tự tin, muốn khẳng định mình; bàn tay buông xuôi là bàn tay mệt mỏi, thấy mọi sự đều vô nghĩa. Khoảng thời gian từ lúc chào đời đến khi tạ thế, người ta gọi là cuộc đời. Cuộc đời có khi ngắn, có khi dài. Có những người trường thọ cao niên, sống đến trên một thế kỷ, nhưng cũng có người đoản mệnh duyên đơn, chỉ sống một thời gian rất ngắn. Dù đời ngắn hay dài, đã sống trên đời, con người cần phải biết đối nhân xử thế. Dù trường hay đoản thọ, con người sống phải nhân có nghĩa với người xung quanh. Không chịu học hỏi, khi vào đời sẽ gặp những thất bại cay đắng. Thiếu kinh nghiệm, khi lập nghiệp sẽ phải trả giá khôn lường.

Cuộc đời này cũng được gọi là thế gian. Nơi đó con người, dù muốn hay không, đều bị thảy vào “chợ đời” đầy bon chen tính toán. Cái “chợ đời” này rất mênh mông và oan nghiệt. Vì là “chợ đời”, nên người ta lấy lời lãi, vật chất làm tiêu chuẩn cho mọi mối tương quan. Anh em, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp bỗng trở nên những đối tác, những bạn hàng trong vòng xoay của cơm áo gạo tiền. Vì tiền bạc, tình vợ chồng trở nên phai nhạt đến mức không thể chung sống. Vì đất đai, anh em huynh đệ trở thành kẻ thù đến độ chẳng muốn thấy mặt nhau. Vì cuộc đời nghiệt ngã như vậy, nên càng có tuổi, người ta càng còng lưng xuống. Còng lưng là biểu hiện của đau xương cốt, nhưng cũng là hậu quả của gánh nặng cuộc đời.

Lúc chào đời cũng như lúc tạ thế, người ta đều khóc. Khởi đầu cuộc sống, đứa trẻ khóc trong tiếng cười của cha mẹ và người thân. Kết thúc cuộc đời, người ra đi trong tiếng khóc của gia đình, làng xóm. Khóc là biểu hiện của nỗi buồn, nhưng cũng là dấu hiệu của niềm vui. Có thể tiếng khóc chào đời là vì nhận ra cuộc sống đầy đau khổ. Có thể giọt lệ khi hấp hối là giọt lệ của niềm vui vì đã có một cuộc đời mãn nguyện. Thế rồi, suốt thời gian gọi là cuộc đời ấy, nước mắt với nụ cười đan xen với nhau, xem ra nước mắt nhiều hơn nụ cười. Người có chí khí biết cười trong mọi hoàn cảnh. Sau mỗi lần gục ngã, họ chỗi dậy, tiếp tục bước đi, lấy những thất bại làm bài học kinh nghiệm, lấy những khó khăn luyện rèn ý chí. Lửa thử vàng, gian nan thử đức, qua những thất bại đau khổ, con người như thép đã tôi, trở nên cứng cáp vững vàng. Đã sinh vào cuộc đời, cần phải chấp nhận lao vào gian khó, như miếng thép phải chấp nhận vào lò lửa và rèn giũa để trở nên khí cụ sắc bén, nhờ đó mà trở nên hữu dụng trong đời. Khi tạ thế, có những người mãn nguyện bình an, nhưng cũng có những người trăn trở khó nhắm mắt. Có thể đó là những “món nợ” đời chưa trả, bởi mình đã trót “vay”. Có thể đó là trách nhiệm chưa vuông tròn đối với những gì mình được trao phó. Khi hiện hữu trong cuộc đời này, mỗi người đều có bổn phận phải hoàn thành. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng là lúc được triệu hồi để làm một cuộc thống kê về những điều đã làm hay đã không làm khi sống ở đời.

Đối với người tin Chúa, khoảng giữa từ khi “chào đời” cho đến “tạ thế”, họ còn qua một cuộc “tái sinh”, đó là bí tích Thanh Tẩy. Nhờ nước và Thánh Thần, họ được sinh ra một lần nữa để làm con cái Chúa. Khi được thanh tẩy, họ khởi đầu hành trình Đức Tin. Hành trình này song song với hành trình cuộc đời. Phép Thanh Tẩy cũng cho họ tước vị làm “công dân Nước Trời”, nghĩa là tuy sống dưới trần thế, họ đã thuộc về vương quốc của Chúa Giêsu, trở nên môn đệ của Người. Tuy vậy, nguyên việc được thanh tẩy chưa đủ để họ được bước vào vương quốc vĩnh cửu ấy. Bởi lẽ ai muốn vào Nước Trời phải qua cửa hẹp. Cửa rộng rất thênh thang, dễ vào nhưng lại dẫn tới trầm luân, đau khổ. Cửa hẹp chật chội, khó qua nhưng lại dẫn tới niềm vui, sự sống. Nhờ Đức Tin, người tín hữu sống giữa đời mà không hoàn toàn thuộc về đời, như bông hoa sen từ bùn vươn lên mà thanh thoát chẳng vương mùi bùn. Người tin Chúa sống giữa cõi trần, mà có một trái tim thanh sạch, giữa bon chen mà tâm hồn thanh thản, giữa thung lũng nước mắt mà vẫn có thể nở nụ cười.

Cuộc đời con người, từ khi “chào đời” đến khi “tạ thế” cũng đươc ví như một cuốn sách. Mỗi ngày sống là một trang. Nội dung cuốn sách ghi lại những lời nói việc làm, những tâm tư tình cảm. Ta có thể viết những trang thật đẹp, khi đó là những hành động nghĩa hiệp, cao cả, mang lại niềm vui cho đời, nhưng ta cũng có thể viết những trang rất xấu khi đó là những hành động ích kỷ, gây tai họa cho người xung quanh. Đáng tiếc, trên đời này, người ta học cái xấu thì chăm hơn cái tốt, người ta tiếp thu lối sống láu cá, mưu mô thì dễ hơn tập luyện đạo đức, thân thiện. Giữa chợ đời bon chen, tiếng ồn ào của dối gian luôn mạnh mẽ hơn tiếng nói của công lý, kẻ mạnh luôn chèn ép người yếu thế nghèo nàn. Vì vậy mà cuốn sách cuộc đời còn mang nhiều trang tối tăm nhơ nhuốc.

Con người sinh ra ở đời, có lúc chào đời và có khi tạ thế. Vì vậy, người ta gọi cuộc sống là “chốn khách đày”. Đời chỉ là chốn tạm, người ta đến rồi đi, chẳng phải là nơi vĩnh cửu, cũng không là quê hương mãi mãi. Tuy chỉ là đời tạm, những ai đi qua đều có thể để lại dấu ấn đời mình cho các thế hệ mai sau. Có những người đã để lại cho hậu thế tấm gương tốt đẹp về lòng nhân ái bao dung, hễ nhắc đến tên người ta ngả mũ chào; nhưng lại có những kẻ sống ác đức, các thế hệ sau nhắc đến tên để phỉ nhổ. Có những người suốt đời cống hiến hy sinh, để lại những công trình đem lại ích lợi cho toàn thể nhân loại, nhưng lại có những người để thời gian trôi đi vô ích, không làm được gì ngay cho bản thân và gia đình. Người công giáo tin rằng, lúc tạ thế không phải là chấm dứt, nhưng đó là một cánh cửa mở ra để bước vào cuộc sống mới. Người công giáo cũng tin rằng, những điều tốt đẹp ta làm ở đời này, sẽ đi cùng với ta về đời sau, nơi đó, hạnh phúc sẽ tràn trề, vinh quang sẽ bất diệt và tình yêu tồn tại mãi mãi. “Hổ chết để lại da, người ta chết để lại tiếng”. Điều còn lại khi thân xác đã tiêu tan trong lòng đất, đó là lòng nhân hậu, sự thánh thiện và tình yêu mến ta dành cho mọi người khi còn sống. Những điều này không tiêu tan với thời gian, nhưng muôn đời tồn tại.

Cuộc đời này chỉ là chốn tạm. Nước Trời là quê hương vĩnh cửu, là hạnh phúc Chúa dành cho những ai yêu mến và trung thành với Ngài. Chúa Giêsu cam đoan với chúng ta, Người đi trước để chuẩn bị cho chúng ta chỗ ở trong nhà Cha của Người (x. Ga 14,1-4). Ở nơi quê hương vĩnh cửu này, bàn tay không còn nắm chặt để khẳng định uy quyền, cũng không còn buông xuôi vì ê chề thất vọng, nhưng sẽ giơ cao để ca tụng Chúa, trong tình hiệp thông với các thiên thần và các thánh nam nữ trên trời.

Bàn tay buông xuôi khi lìa đời nhắc bảo ta rằng, con người chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, nhưng mọi sự ta làm đều do ơn Chúa thương ban. Vì thế, nếu thân phận con người còn nhiều tội lỗi, Chúa lại nói với Chúng ta: “Đức tin của con đã cứu con” (x. Mc 5,34). Lòng nhân hậu bao dung của Chúa giúp chúng ta nghị lực để tiếp tục bước đi trong cõi đời đầy gian nan này.

(Nguồn: WHĐ)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

THỨ SÁU TUẦN 7 PS

Th. Ri-ta Ca-xi-a, nữ tu

Ga 21,15-19

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

Chúa Giê-su hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,17)

Suy niệm : Phê-rô, vị tông đồ đã từng bạo miệng nói với Chúa Giê-su trước khi Thầy bị bắt: “Dù có phải chết với Thầy con cũng không chối Thầy,” bây giờ lại lúng túng khi được Chúa Ki-tô phục sinh hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Câu trả lời trải lòng của Phê-rô: “Thầy biết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy” muốn nói lên rằng “Thầy biết rõ con đã chối Thầy, và Thầy cũng biết con vẫn yêu mến Thầy dù con còn nhiều yếu đuối. Chỉ xin cho con biết yêu Chúa với lòng khiêm tốn, sẵn sàng hoán cải mỗi khi vấp ngã, lỗi lầm.

Mời Bạn : Giả như Chúa Giê-su phục sinh hiện ra hỏi bạn, hỏi tôi như đã hỏi Phê-rô: “Con có yêu mến Thầy không?” có lẽ chúng ta còn lúng túng gấp bội. Bởi vì chúng ta không chỉ yếu đuối mà còn vì cuộc đời chúng ta bị bao vây bởi bao mối quan hệ, bị nhấn chìm giữa bao công việc, đến nỗi chúng ta đánh mất ý thức rằng Chúa yêu chúng ta nên đã chết để cứu chuộc ta, Ngài đã sống lại để ban cho chúng ta hạnh phúc sự sống đời đời cũng vì yêu thương ta.

Sống Lời Chúa : Mỗi sáng thức dậy, bạn quì gối và nói với Chúa: Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa là Chúa con, con yêu mến Chúa.

Cầu nguyện : Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh Quyền Năng, con tin Chúa đang sống bên cạnh cuộc đời con, nhưng con chưa dám trao phó đời con cho Chúa, nên quyền năng của Chúa không thể thi thố trong con được. Con xin thờ lạy Chúa, xin giúp con nhận ra quyền năng Chúa trên cuộc đời con, và để con nói: Con cám ơn Chúa, con yêu mến Chúa. Amen.

PhutCauNguyen:

http://phutcaunguyen.net/BDCN/T7PS/T6T7PS.mp3

Xin mở lòng chúng ta ra, thủ thỉ với Chúa qua những lời ca tiếng hát này:

1. Con chỉ là Tạo Vật:

https://www.youtube.com/watch?v=oU7IzmoppRk

2. Lỗi hẹn:

https://www.youtube.com/watch?v=NNDuqphaUGk

3. Phó Thác:

https://www.youtube.com/watch?v=R8j0UCziJjM

4. Biết Chúa, biết con:

https://www.youtube.com/watch?v=ZnPyABeahXc

5. Tình ca vô tận:

https://www.youtube.com/watch?v=X9kmb8ROHr0

6- Bao la tình Chúa – Hiền Thục

https://www.youtube.com/watch?v=y3m10xlaEcw

God bless,

Hai

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của thiên tài MichelAngelo còn lưu giữ nơi nhà Nguyện Sixtine của Ðức Giáo Hoàng, trong nội thành Vatican, là bức tranh mô tả việc Thiên Chúa Cha tạo dựng con người.  Cần phải đích thân chiêm ngắm bức họa nổi tiếng nầy, ta mới cảm nghiệm được trọn cả sức thu hút của nó.  Ðể trình bày ý của mình về việc Thiên Chúa tạo dựng con người như thế nào, thiên tài Michelangelo chọn một biểu tượng, một cử chỉ đặc biệt của Thiên Chúa Cha.  Và toàn bức họa chỉ hướng về một cử chỉ duy nhất nầy mà thôi; đó là cử chỉ Thiên Chúa Cha, được mô tả như một Cụ Già oai phong đưa thẳng cánh tay mặt về phía con người còn non yếu chưa có sự sống, với ngón tay trỏ của bàn tay mặt chạm vào ngón tay trỏ của bàn tay trái của con người, để thông ban sức sống của mình sang cho con người.  Ðây là một cử chỉ thật là hùng dũng, đầy ý nghĩa.  Và nếu tập trung chú ý đến hình dạng của hai ngón tay trỏ nầy, chúng ta cũng có thể quan sát một sự khác biệt.  Ngón tay trỏ của Thiên Chúa đưa thẳng ra, trông có vẻ đầy quyền lực, để nói lên sức sống mạnh mẽ của Thiên Chúa.  Còn ngón tay trỏ của con người thì trông thật yếu ớt, chưa đủ sức chỉ thẳng ra, và được thả cho xệ xuống, để nói lên ý nghĩa con người yếu đuối chưa có sự sống, cần lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa.

Ðó cũng là hình ảnh cho tác động đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trên con người.  Chúa Thánh Thần được diễn tả ở đây như là “ngón tay trỏ quyền năng của Thiên Chúa.”  Trong lời kinh “Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến”, được sáng tác vào thế kỷ thứ 9, thì cách nói “ngón tay trỏ của Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ về Chúa Thánh Thần.

“Chúa là ngón tay hữu Chúa Cha phép tắc, (digitus paternae dextrae)
Mọi ơn phước, mặc thửa lượng Người liệu định phân ban.”

Hành động đầu tiên của Chúa Thánh Thần, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, là trao ban sự sống cho con người.  Không có sức sống ban cho, con người có chi là cao trọng xứng đáng!  Trong kinh tin kính của công đồng Nicêa, chúng ta tuyên xưng: Tôi kính Ðức Chúa Thánh Thần, là Chúa và là Ðấng ban sự sống.”  Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống, là chính sự Sống.  Trên bình diện thần học, chúng ta cần lưu ý thêm là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha ,Con và Thánh Thần, là nguồn mạch sự Sống và cùng trao ban sự sống cho con người.  Nhưng một cách đặc biệt, trong ngôn ngữ chúng ta dùng, thì chúng ta muốn phân biệt mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đều có một sứ mạng riêng, và thường được chúng ta phân biệt nói đến như sau: Thiên Chúa Cha tạo dựng, Thiên Chúa Con cứu chuộc, và Thiên Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa.

Trong những chia sẻ nầy, chúng ta hướng về Chúa Thánh Thần, trong sứ mạng riêng của Ngài, Ðấng ban sự sống, Ðấng ban ơn thánh hóa con người, Ðấng làm cho ơn cứu chuộc đã được Chúa Giêsu thực hiện, được hữu hiệu mỗi ngày một hơn nơi mọi tín hữu.  Tuy sứ mạng được nói riêng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng nói cho cùng thì đều quy về một Thiên Chúa Ba Ngôi, không có sự tách biệt phân rẽ nào cả.

Chúa Thánh Thần là Ngón Tay hữu của Thiên Chúa quyền năng, chạm đến chúng ta để thông truyền cho chúng ta sức sống của Thiên Chúa.  Thật là một điều có ý nghĩa, khi Giáo Hội chọn Thánh Thi cho giờ kinh thứ ba (tức lúc 9 giờ sáng trong ngày, giờ Chúa Thánh Thần Ngự Xuống, trong Biến Cố Hiện Xuống khai sinh giáo hội) là một Thánh Thi dâng lên Chúa Thánh Thần.  Thánh Thi đó như sau:

Lúc nầy đây, lạy Thần Linh cực Thánh, dủ tình thương ngự đến tâm hồn, cùng Chúa Cha và hợp với Chúa Con, tỏa bao la rạng ngời muôn ánh sáng.  Ðể chúng con, trong lòng như ngoài miệng, trót cuộc đời cùng trót cả tấm thân, Bừng cháy lên lửa yêu Chúa vô ngần, mà sưởi ấm tha nhân bằng thương mến.  Xin nhận lời muôn lạy Chúa toàn năng, cậy nhờ Ðức Kitô Con Một Chúa, Ðấng trị vì cùng với Chúa Thánh Thần, tự ngàn xưa tới muôn đời muôn thuở.  Amen.

Còn có lời Kinh đầy ý nghĩa khác được Giáo Hội dùng trong những cử hành long trọng.  Ðó là kinh Veni Creator, Spiritus.  Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, xin hãy ngự đến.

Trong lời kinh nầy, Giáo Hội hướng về Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, Creator.  Và thật vậy, Chúa Thánh Thần đều có mặt và tác động trong hai công cuộc sáng tạo.  Công cuộc sáng tạo lần thứ nhất, sáng tạo vũ trụ và con người, như được nhắc đến nơi những dòng đầu tiên của Sách Sáng Thế; và Ngài hiện diện và tác động trong công cuộc sáng tạo lần thứ hai, được bắt đầu với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, trong cung lòng Mẹ Maria, cho đến khi hoàn tất nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua, chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy dành những phút hồi tâm chiêm ngắm sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo thứ nhất, lúc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người.  Ðó là giây phút quan trọng nhất, được linh ứng cho tác giả sách Sáng Thế để ghi lại nơi những câu đầu tiên của sách Sáng Thế như sau:  Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất.  Ðất thời trống không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang.  Và Thần Khí là là trên mặt nước. (STK 1,1-2).

Câu Kinh Thánh diễn tả sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần nơi công cuộc tạo dựng đầu tiên là câu: “Thần Khí là là trên mặt nước.”  Nguyên ngữ Do Thái được dùng nơi đây là: RUAH, và có thể được chuyển dịch theo hai từ hai nghĩa: là Gió, là Hơi Thở, là Thần Khí, là Thần Khí của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, mạc khải của Cựu Ước về Thiên Chúa Ba Ngôi nói chung và về Chúa Thánh Thần nói riêng, chưa được rõ ràng.  Chúng ta chỉ có được mạc khải rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Chúa Thánh Thần, nhờ qua mạc khải của Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước.  Nhưng những gì được linh ứng để nói ra nơi Cựu Ước, đều có hàm chứa những dấu chỉ, những ý nghĩa cho phép ta hiểu trước về thực tại được mạc khải trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô.  Các nhà chú giải ngày nay, gần như đa số, đều công nhận những câu đầu tiên của Sách Sáng Thế có hàm chứa ý nghĩa nói đến sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng lần thứ nhất.  Vì thế các nhà chú giải và dịch giả Kinh Thánh không dùng từ “Luồng Gió Mạnh” mà dùng từ rõ ràng hơn là Thần Khí, hay Thánh Thần của Thiên Chúa.  Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo.  Ðấng ban sự sống, Ngài hiện diện và tác động để vạn vật vũ trụ nầy được sinh động trong trật tự, được lãnh nhận và phản ánh vinh quang Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi mọi tạo vật.  Ngài đã hiện diện và tác động ở đó trước chúng ta, trước khi chúng ta hiện hữu.  Xin Ngài giúp chúng ta được nhìn thấy ngài và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.

Sáng Danh Cha và Sáng Danh Con, Sáng Danh cả Thánh Linh Thiên Chúa.  Từ muôn đời và chính hiện nay. Và luôn mãi thiên thu vạn đại. Amen.

R. Veritas

RA ĐI THA THỨ

RA ĐI THA THỨ

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.

Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.

Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.

Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

THẦN KHÍ

THẦN KHÍ

Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa?” Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh Phaolô hỏi họ về Chúa Thánh Thần.

***

Bạn thân mến! Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.

Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.

Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.

Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó là dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ của tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?

Thực ra, Chúa Thánh Thần không phải là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?

***

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên con để giúp con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian này, Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

Trong Phúc âm, từ “đám đông” gần như luôn luôn được sử dụng với ngụ ý chê bai, thường xuyên đến mức lúc nào nhắc tới nó thì bạn liên tưởng đến tính từ “vô tâm”.

Đám đông không có tâm trí.  Họ được châm ngòi và thôi thúc bởi bất kỳ loại năng lượng gì đang phổ biến, đang phóng đại, thói thời thượng, đua đòi theo ý thức hệ, hay trong cơn cuồng loạn.  Trong Phúc âm, loại năng lượng này được gọi là “sự kinh ngạc.”  Rất nhiều trường hợp khi Chúa Giê-su nói hoặc làm điều gì gây ngạc nhiên cho đám đông, thì hầu như bao giờ cũng có câu này theo sau: “và đám đông kinh ngạc.”  Hiếm khi đó là một điều hay.

Tại sao?  Có vấn đề gì sai trái hay nguy hiểm về năng-lượng-đám-đông này?

Năng-lượng-đám-đông nguy hiểm bởi vì, trong hầu hết mọi trường hợp, nó không suy nghĩ.  Nó chỉ đơn thuần là dẫn và truyền đi năng lượng chứ không suy xét và chuyển hóa năng lượng.  Một hình ảnh minh họa thích hợp cho năng-lượng-đám-đông, sự kinh ngạc theo nghĩa trong kinh thánh, là sợi dây điện.  Sợi dây điện đơn thuần là để tải năng lượng đi qua.  Nó không phân biệt loại năng lượng đó tốt lành hay có tính hủy diệt.  Nó là vật dẫn thuần túy.  Bất cứ cái gì đi vào thì chính cái đó đi ra.

Các đám đông có xu hướng hành xử giống nhau.  Họ để năng lượng đi qua mình mà không phân biệt và suy xét năng lượng đó tốt hay xấu.  Ví dụ, chúng ta thường nói bị/được cuốn theo vào một loại năng lượng nào đó.  Đôi khi đó là năng lượng tốt, khi đám đông được cuốn theo một loại năng lượng tích cực, giúp xây dựng cộng đồng.  Ví dụ, trong mấy tuần qua, dân chúng trên thế giới cuốn theo cuộc giải cứu những người thợ mỏ bị mắc kẹt dưới hầm mỏ ở Chi-lê, và năng lượng chung đó đã giúp tạo ra một cộng đồng xuyên qua ranh giới các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo và chính trị.  Chúng ta cũng thấy hầu hết các năng-lượng-đám-đông tích cực xung quanh các sự kiện thể thao chẳng hạn như Giải Vô địch Bóng đá Thế giới World Cup, giải Vô địch Bóng chày Thế giới World Series of Baseball, hay nhiều giải quần vợt.

Nhưng hầu hết năng lượng của đám đông mang tính cách tiêu cực, năng lượng của ý thức hệ, của chủ nghĩa nguyên giáo, phân biệt chủng tộc, thói thời thượng, và sự phóng đại.  Năng-lượng-đám-đông là năng lượng thúc đẩy cưỡng bức tập thể.  Đó cũng là năng lượng đằng sau việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.  Vấn đề sáng tỏ khi nhìn đám đông đó trước và trong cuộc đóng đinh trên thập giá. Năm ngày trước khi bị đóng đinh, Chúa Giê-su bước vào thành Jerusalem và đám đông cuồng nhiệt hô vang lời tán tụng, muốn tôn người lên làm vua của họ.  Năm ngày sau, hầu như chẳng có gì thay đổi, cũng cùng đám đông đó la hét: “Đóng đinh hắn vào thập giá!  Đóng đinh hắn vào thập giá!”  Đám đông hay thay đổi vì đám đông không suy nghĩ.  Họ chỉ đơn thuần truyền tải bất cứ năng lượng gì đang bao phủ họ.

Phúc âm kể câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình và bị đám đông nhiệt tình dẫn đến gặp Chúa Giê-su, ở đây chúng ta thấy một minh họa trọn vẹn nhất cho loại năng lượng không suy xét, nguy hiểm của đám đông tương phản với loại năng lượng có suy xét của cá nhân.  Câu chuyện kể đám đông dẫn người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su và yêu cầu Ngài phải đồng ý với họ về mặt luân lý rằng phải ném đá bà ta cho đến chết.  Nhưng Giê-su, với lời thách thức nổi tiếng, bảo họ rằng: “Ai thấy mình không có tội thì ném trước.”  Phản ứng của họ là: “Họ bỏ đi, từng người một, đầu tiên là người lớn tuổi nhất.”  Một đám đông vô tâm, bị cuốn theo cơn bốc đồng về luân lý, đã đem người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su.  Nhưng họ bỏ đi với tư cách cá nhân, từng người một, không còn bị cuốn đi trong cơn bốc đồng kinh ngạc đó nữa.

Tuy nhiên, cần phân biệt hết sức rõ ràng giữa kinh ngạc với ngưỡng mộ (wonder) và thán phục (awe). Ngưỡng mộ và thán phục là phản đề của kinh ngạc.  Trong kinh ngạc, năng lượng chảy xuyên qua bạn. Trong ngưỡng mộ và thán phục, năng lượng làm bạn sững sờ, tê liệt, và giữ chặt bạn lại.  Danh hài George Carlin châm biếm một cách sắc sảo về sự khác biệt này:  Khi giải thích tại sao ông vốn nghi ngờ phần lớn những người “tái sinh”, Carlin đã châm chọc như sau – rất nhiều người biết đến lời nổi tiếng này: “Tôi không tin những người tái sinh vì họ nói quá nhiều.  Khi tôi sinh ra tôi choáng váng tới mức không thể nào nói được gì trong hai năm liền!  Khi một người có một trải nghiệm tâm linh đủ mạnh mẽ để khiến họ im bặt trong vài năm, thì tôi mới tin họ!”

Có một thách thức trong những lời đó: Hãy ý thức về loại năng lượng phát ra từ đám đông.  Hãy ý thức về các thói thời thượng.  Hãy ý thức về mọi thể loại cường điệu.  Hãy ý thức về những người cổ vũ cho cả phe tự do lẫn phe bảo thủ.  Hãy ý thức về bất cứ đám đông nào muốn ném đá một ai đó cho tới chết nhân danh Chúa.

Hãy nghĩ lại tất cả những lần đóng đinh người khác trên thập giá mà bạn đã tham gia, và hãy nhớ lại, sau đó, khi tỉnh táo và nhìn nhận rõ ràng trong một bầu không khí khác, bạn đã tự hỏi mình:  Làm sao mình lại có thể sai lầm đến vậy?  Tàn nhẫn đến vậy?  Ngu dại đến vậy?  Hãy đọc lại những câu chuyện trên báo chí và trên internet về những thanh niên có tâm tốt, đàng hoàng, bị cuốn theo năng lượng đám đông, đã tấn công qua mạng (cyber-bully) một người nào đó đến mức người đó phải tự vẫn.  Hãy suy nghĩ, trong mỗi trường hợp, nhiều người có trách nhiệm cuối cùng đã bỏ đi như thế nào, từng người một, tỉnh táo hơn nhiều và suy xét chính chắn hơn nhiều so với khi họ bị cuốn đi trong năng lượng vô tâm của đám đông.

Sau đó, có lẽ, một cách nhẹ nhàng hơn, bạn hãy bày ra những bức ảnh cũ chụp các kiểu tóc, kiểu áo quần của bạn qua nhiều năm, thì bạn sẽ có tất cả những lời nhắc nhở cần thiết rằng năng lượng của phút giây đó dễ thay đổi và vô tâm đến như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

VỀ TRỜI

VỀ TRỜI

Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj

Lễ Thăng Thiên B

Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

Gia đình Hersten là một gia đình Do Thái thuê Sophie Beranska về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho vì đó bí mật của đời cô!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ hiếu động trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng, cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua… vào ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ…

Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.

Ông và gia đình hết sức bàng hoàng và cảm phục. Sau đó cả gia đình Hersten đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội…

Sophie Beranska sống trách nhiệm của người môn sinh mà Chúa Giêsu khi về Trời đã lệnh truyền cho các môn đệ: “…hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15). Vâng theo lệnh truyền của Thầy, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (Mc 16,20). Sứ mạng ra đi loan báo đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Chúa Giêsu hứa sẽ ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế trong sứ mạng các tông đồ ra đi loan báo (x. Mt 28,20). Sophie Beranska đã loan báo cả cuộc đời…

Kinh Thánh nhấn mạnh: Chúa Giêsu lên trời 40 ngày sau khi Ngài phục sinh (Cv 1,3). Tin Mừng Marco nhấn mạnh tóm lược các sự kiện trước khi Chúa Về Trời, sau khi Ngài Phục sinh bốn sự kiện:

· Sự kiện thứ nhất (x. Mc 16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18).

· Sự kiện thứ hai (x. Mc 16,12-13) tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus mà Tin Mừng Luca kể chi tiết (x. Lc 24,13-35).

· Sự kiện thứ ba (x. Mc 16,14-18) Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43).

· Sự kiện thứ tư (x. Mc 16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Cv 1,9-11).

Thánh Ambrôsiô nối kết giữa sự kiện Chúa Phục sinh và biến cố Thăng Thiên trong đời sống của người tín hữu: “Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta đều là ảo tưởng (x. 1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.

Tin Mừng Marco nhấn mạnh Chúa Giêsu được đưa lên trời (Mc 16,19a), về Trời là trở lại nơi Người đã xuất phát mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (x. Mc 1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Chúa Cha, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Được lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc 16,19b), từ ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành của Thiên Chúa (x. Mc 14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1) như Đức Giêsu trả lời với các thầy Thượng tế: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14,62).

Cho nên, Chúa Thăng Thiên, nghĩa là Ngài được tôn vinh. Chính vì thế Thánh Vịnh đã cất lời ca ngợi sự vinh hiển của Đức Giêsu từ ngàn xưa :

“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!

Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!

Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,

là Vua Cả thống trị khắp địa cầu”

(Tv 47,2-3).

Vì thế, hoan ca chúc tụng Đấng về Trời là “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ nhất” vì Ngài là Đức Chúa hiển trị ở bên hữu Thiên Chúa Cha:

“hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa,

đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!”

…Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,

Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả”

(Tv 47,7.9).

Trời là nơi xuất phát của Ngôi Hai Thiên Chúa, đó là quê hương của mọi người tin vào Ngài phải hướng đến, như Ngài đã gợi mở: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Cho nên, Trời là quê hương mà chúng ta phải hướng về như Thánh Phaolô đã xác tín: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Trời là phần thưởng dành cho những ai tin và bỏ mọi sự theo Chúa Kitô đã hứa : “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Để được về quê Trời, sống theo ý của Thiên Chúa, Đức Giêsu phán: “Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27). Vì thế, với chúng ta như Thánh vịnh khẳng định :

“Tuân theo thánh ý Chúa,

con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể”

(Tv 119,14).

Xin cho chúng con biết sống tinh thần ngóng vọng về Trời dù sống trong hiện tại trần thế, vì:

“Ðức Ki-tô niềm tin của thế giới

Lên cõi trời ngợp vinh hiển cao sang”.

(Thánh Thi Kinh Sáng lễ Thăng Thiên)

Lm. Vinh Sơn scj, Sài gòn