ĐỜI SỐNG CẦN CÓ CHÚA

ĐỜI SỐNG CẦN CÓ CHÚA

Cố Lm. GB. HỒNG PHÚC ( 1921 – 1999 )

Sau Ngôn Sứ Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo Dân Chúa, nay đến Ngôn Sứ Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.

Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong số đó chính vị Ngôn Sứ là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho Dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai, vậy mà nay họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, vị Ngôn Sứ nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi tộc Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Ngài. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.

Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên nên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin Mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên Thập Giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôm chầm cả nhân loại.

Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.

Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” ( 9, 2 ), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê ( 5, 1 ), bờ biển Phênicia ( 7, 24-31 ) hay gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hermon ( 8, 27 ). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông Đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm Tông Đồ của mình ( 6, 30 ), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài trỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó” ( 1, 35 ). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.

Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.

Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.

Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống Tông Đồ là một đời sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để ra những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.

Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day… Trước khi khai mạc Công ĐồNG Vaticanô II, ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.

“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…

Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,

Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.

Cố Lm. GB. HỒNG PHÚC ( 1921 – 1999 )

Bạn lòng thân mến,

“Bạn lòng thân mến,”

đây giây phút thần tiên

Nghe chan chứa hương đời.

Nhạc lời êm ái tôi ca ấm vành môi,

Mong sao đến bên người.”

(Nhạc: Hoàng Trọng/Lời: Hồ Đình Phương – Bạn Lòng)

Trần Ngọc Mười Hai

(Lc 6: 36-38)

Lời nhắn gọi như trên, mà lại nghe được từ loa phóng thanh hơi bị lớn tiếng vẫn không hay bằng những tâm tình tỉ-tê trên ipod, ipad hoặc iphone, đấy chứ nhỉ? Chưa đâu. Bắt đầu bài hát chỉ là lời nhắn hoặc tiếng gọi mời mà thôi. Trứ-danh hơn, phải nghe câu tiếp mới thật trời ơi…sao lại như thế, đến thế này:

“Bạn là trăng sáng,

Trong đêm tối hồn tôi,

Soi lên bao ánh tươi.

Bạn là hoa thắm,

trên hoang vắng tình tôi,

vun lên một mùa mới!

Gặp nhau năm ấy,

trao câu hát làm tin,

Đem cung phím gieo tình.

cùng yêu sông núi,

yêu duyên nước trời xanh,

yêu hương lúa thơm lành.

Đời ta chung hướng,

bao nhiêu ý chờ mong,

Xay đắp nên mái tranh.

Để cùng vui sống,

Say sưa đón bình minh,

Chứa chan mộng ngày xanh.”

(Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Quả có thế. Chẳng cần ới gọi gì nhiều. Sơ sơ chỉ vài ba lời nhắn thôi, người nghe hát hay nghe được lời nhủ này, cũng sẽ thấy tuyệt vời trên mức tuyệt diệu. Ai đời, sống vui, sống mạnh chỉ những là: “Say sưa đón bình minh”, “Chứa chan mộng ngày xanh”, “Xay đắp nên mái tranh”.

Thế còn, đắp xây mái nhà thần-học của Hội rất thánh là Nước Trời thì thế nào?

Để trả lời thật vắn gọn, thì đây, xin mời bạn và mời tôi ta nghe thử những lời nhắn rất nhè nhẹ của đấng bậc chủ quản cả một Giáo hội/hội rất giáo điều, như sau:

“(Anh chị em) hãy cởi mở đối với chiều-kích xã-hội và Giáo-hội rộng lớn hơn, mời gọi cả những người có dịp tiếp-xúc với đoàn sủng của anh chị em, tuy không thường xuyên tham-dự các sinh-hoạt của nhóm…

Thật là đẹp, khi giúp đỡ cả những người gặp khó khăn và vất vả nhiều hơn trong việc sống đức tin của họ, giúp họ tiếp xúc với Mẹ Giáo-hội…

Tôi khuyến khích anh chị em hãy ‘luôn đi xa hơn!’ trung-thành với đoàn-sủng của mình! Hãy giữ cho lòng nhiệt-thành, ngọn lửa của Chúa Thánh Linh luôn thúc-đẩy các tín-hữu Chúa tìm đến những người ở xa, ra khỏi cuộc sống tiện-nghi, thoải-mái của mình và có can-đảm đi tới mọi khu ngoại-ô đang cần đến ánh sáng Tin Mừng” (Phong trào Cursillo trích Lời Đức Phanxicô kêu gọi trong buổi tiếp 7,000 thành viên Châu Âu hôm 30/4/2015, Lm Trần Đức Anh, OP dịch)

Vâng. Rất đúng như thế. Nếu không đi xa, ra ngoài khuôn khổ đạo-giáo/nhà thờ, thì làm sao nghe được những ‘lời nhắn’ không từ iphone, ipad hoặc ipod, mà từ loa phóng thanh hồi đó những lời lẽ rất như sau:

“Tôi đang còn ghi nhớ sớm nào,

trời đẹp màu nắng.

Ta cùng hòa nhịp đồng tâm trong câu:

“Ôi không gì êm ấm cho bằng,

Tinh bạn vừa kết tâm đầu,

Rồi hẹn đừng có xa nhau.

Bạn lòng thân mến,

đây tôi hiến bài ca.

mong ai hát vui hòa.

Bạn là xuân thắm,

Cho tôi đón nhiều hoa,

gieo hương mái tranh nhà.

Rồi ta chung ngắm,

Đôi chim lướt trời xa,

Say sưa muôn tiếng ca.

Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa,

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Vâng. Rất như thế, một lời vừa nhận-định đúng múc, vừa nhắn nhủ rất dễ thương như thấy nhiều trong cuộc đời ở ngoài, nhiều hơn trong “nhà thờ”. Bạn không tin ư? Thế thì, xin mời bạn và mời tôi, ta cứ tiếp tục ‘đi xa’ hơn nữa, rồi sẽ thấy sẽ nghe được những lời lẽ như thế vầy:

“Có phải Ngài muốn đưa người khác đi vào sứ-vụ của Ngài? Phải công-nhận là: việc dùng cụm-từ “sứ-vụ” cốt để mô-tả những gì Đức Giêsu từng thực-hiện, bởi: việc Ngài làm, mang nhiều ý-nghĩa hơn lối sống riêng-tư của Ngài.

Dĩ nhiên, ý của tôi không phải bảo: ta nên hiểu cụm-từ “sứ-vụ” là toàn-bộ công-trình Ngài quyết làm; chẳng hạn như hành-trình kéo dài nhiều tháng/ngày của ông Phaolô xuyên vùng Địa Trung Hải, cũng là những điều nói về việc rao-giảng Tin Mừng của các tín-hữu thời sau này.

Nhưng đối với riêng tôi, rõ ràng là: Đức Giêsu có tầm-nhìn tuyệt-vời về Vương-Quốc-Nước-Trời ở đây, dưới đất này; và Ngài đã sống-thực tầm nhìn ấy.

Cũng thế, những gì còn rõ hơn nữa, đối với tôi, là việc Ngài trợ-lực rất nhiều người khác để tất cả sẽ tham-gia/can dự một cách năng-động trong sứ-vụ này, với Ngài.

Hẳn bà con còn nhớ, chính ông Gioan Tẩy Giả cũng đã lập nên cộng-đoàn gồm những người được tẩy rửa, để rồi họ sẽ lan-truyền xuyên-suốt đất/miền người Do-thái ngõ hầu kỳ-vọng Thiên-Chúa có hành-động trả thù giùm cho họ.

Tôi vẫn nghĩ: Đức Giêsu khi xưa cũng thiết-lập phong-trào nào đó, nhưng Ngài vẫn đính kèm một sứ-điệp rất khác từ một Thiên-Chúa, cũng khác lạ. Ta có thể gọi sự việc này là tình thân-thương kết bạn nhiều hỗ-trợ và đỡ-nâng,.

Đức Giêsu thực-thi “tiệc bàn rộng mở” và Ngài cũng đã chữa-lành miễn phí rất nhiều người. Theo tôi, sứ-vụ của Ngài đặt nền-tảng thế này: Ngài mời gọi mọi người mặc vào mình lối sống có thách-thức, nhưng đầy trợ-lực.

Trọng-tâm cuộc vận-động do Ngài thành-lập từ đầu là cùng tham-gia “tiệc bàn rộng mở” và Ngài còn chữa-lành miễn phí cho nhiều người. Phối-hợp việc sẻ-san chất-lượng ăn uống bằng chất-liệu thiêng-liêng để chữa-lành như thế, còn thấy rõ nơi cốt-lõi của sứ-vụ Đức Giêsu thực-hiện.

Tiến-trình này, còn đưa vào thứ linh-đạo khác biệt hẳn về nền-tảng. Sự việc này, nhằm mục-tiêu đưa các bản-thể gộp chung vào cộng-đoàn vốn trải-nghiệm tình thương-yêu Chúa đặt nơi bạn đồng-hành cùng một cảm-tính, không chỉ ngang qua mỗi động-thái đồng-hành ấy, mà thôi.

Ngài không theo hệ-cấp trên/dưới nối kết chủ-nhân với người trung-gian/môi giới; cũng chẳng kết-hợp với người ở thế đứng trung-lập trong xã-hội vốn tạo cơ-cấu Đạo/đời ở Địa Trung Hải. Đức Giêsu sống-thực quan-hệ rộng mở và trực-tiếp với Thiên-Chúa và Ngài mời gọi mọi người hãy hành-xử giống như Ngài.

Vương-Quốc-Nước-Trời không là chương-trình dành cho người đơn chiếc, tách-biệt nhưng là đường lối sống đại-đồng có trợ-lực người tham-gia/can-dự để họ có thể tiếp-cận trực tiếp với Thiên Chúa, thay vì trở-thành thứ gì đó thay cho thách-thức này.

Tiếp theo đây là đoạn Tin Mừng từng đề-cập đến sứ-vụ này:

“[Đức Giêsu] bảo các ông: Anh em hãy ra đi. Này, Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.”

“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình-an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình-an, thì bình-an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình-an đó sẽ trở lại với anh em. Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. [Với tác-giả Luca thì như thế; còn tác-giả Mát-thêu lại gọi đó là thực-phẩm] Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.

“Vào bất cứ thành nào được người ta tiếp đón, hãy cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa-lành người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều-Đại Thiên-Chúa đã đến gần các ông.”

Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em hãy ra quảng-trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên, các ông nên biết điều này: Triều-Đại Thiên-Chúa đã gần kề.” (Lc 10: 2-11, cộng thêm một đôi điều để nhấn mạnh)

Ở đây, một số câu hỏi cần đặt ra để ta tra-vấn đoạn này. Trước nhất, hỏi rằng: Ai là người được Đức Giêsu sai lên đường thực-hiện sứ-vụ như thế? Trình-thuật tác-giả Thomas ghi, chỉ nói: họ là những người “dấn bước theo” Ngài, thôi. Còn, trình-thuật Tin Mừng Nguồn (tức Quelle) lại qui về “70 tông-đồ khác”.

Trong khi đó, trình-thuật tác-giả Mác-cô qui về nhóm “Mười Hai”. Nên, câu trả lời của tôi ở đây, cho vấn-nạn này là: các vị được Đức Giêsu sai đi, không thuộc nhóm/hội gần-cận với Ngài và chẳng phải môn-đồ đặc-biệt.

Nhưng, có thể là, một số các vị lại không là người từng tự-ý từ-bỏ hết mọi sự, mà là thừa-sai vừa để mất tất cả mọi thứ. Các vị này được định-danh là người tách-bạch nghèo đói khỏi niềm tuyệt-vọng.

Ở nơi đó, đã thấy ló rạng tiến-trình thành-thị-hoá do người La Mã áp-đặt nặng-nề lên những người nhà quê chân-chất, ở thôn làng. Không phải mọi nông-gia đều ra như tuyệt-vọng hết, nhưng cuộc sống của họ lại đã trở-nên bấp-bênh, bất ổn.

Theo tôi, Đức Giêsu đã tạo hệ-thống chữa-lành mang tính khải-huyền sẻ-san cho mọi người hệt như ông Gioan cũng đã tạo hệ-thống các kỳ-vọng được san sẻ.

Điểm đặc-trưng/đặc-thù tôi đưa ra để bàn về chuyện này, là cụm-từ “vốn dĩ là người…” Kịp khi tác-giả Mác-cô kể truyện, ông đã đặt vào miệng Đức Giêsu lệnh-bài sai nhóm Mười Hai ra đi từng hai người một.

Ở đây, ta nên hỏi: sao lại thế? Nhìn về đoạn trước, khi hướng về truyện kể mang tính biểu-trưng để ta được học nhiều điều hơn nữa. Học kỹ-lưỡng các chương/đoạn nói về Phục Sinh –như truyện “Trên đường Emmaus” chẳng hạn, ta nhận ra được ý-nghĩa làm nền cho việc thực-hiện thừa-sai theo phương-cách đi từng cặp “hai người một”.

Truyện kể hai đồ-đệ dấn bước theo chân Đức Giêsu đi từ Giêrusalem đến Emmaus vào Chúa Nhật Phục Sinh hôm ấy, thì: một vị mang tên Cleopas, là nam-nhân. Còn vị kia, không được nêu danh-tánh, nhưng ta vẫn đoán được vị ấy là nữ-phụ.

Tuy thế, cũng nên nhớ rằng: thừa-tác-viên nữ này chưa từng được Kinh Sách định-danh gọi là vợ của đồ-đệ mang tên Cleopas, bao giờ hết. Nên, ta phải hiểu câu “Hãy đi từng cặp hai người một” theo nghĩa nào, ở đây?

Tác-giả Phaolô, khi bàn về sinh hoạt mục-vụ của ông ở “thư thứ nhất gửi giáo-đoàn Côrinthô”, ông lại viết: “Phải chăng tôi không có quyền đem theo một chị/em tín-hữu như tông-đồ khác, như anh em của Chúa và như ông Kê-pha sao?” (ICor 9: 5)

Tiếng Hy-Lạp, nghĩa đen của cụm từ “chị-vợ” dịch sang Anh-ngữ lại trở-thành “là vợ và cũng là kẻ tin”. Ông Phaolô, trên thực-tế, không lập gia-đình với ai hết. Thế nên, theo tôi thì, khi định-danh bằng cụm-từ “chị-vợ”, ta không nên qui về người phối-ngẫu trong hôn-nhân, mà chỉ là thừa-tác-viên nữ từng tháp-tùng các nam thừa-tác-viên như ta thường thấy thế-giới bên ngoài làm thế.

Nữ-phụ đi cùng đồ-đệ Cléopas ấy, chắc-hẳn không là ai khác ngoài bà vợ của ông. Thế nhưng, hỏi rằng: Sao phải đi từng cặp hai người một như thế? Câu trả lời, hẳn sẽ rõ là: có làm thế mới, bảo-vệ được nữ thừa-tác-viên về mặt xã-hội, vốn dĩ là người từng lữ-hành ở thế-giới do nam-nhân chuyên cầm-cân-nẩy-mực, chuyên khuynh-loát theo cung-cách rất bạo-lực.

Theo tôi, đó là chủ-đích ban đầu của Đức Giêsu khi Ngài sai-phái mục-tử “đi-từng-cặp-hai-người-một” cốt để cho nữ-giới cũng được phép làm công-tác mục-vụ, như nam-nhân.

Sinh-hoạt mục-vụ “đi-từng-cặp” như thế có nghĩa rất rõ ở điểm: nó không chỉ giúp ta hiểu được ý của Đức Giêsu, nhưng còn cho phép nữ-giới có vai-trò đáng kể nơi Đạo Chúa, ở thời hiện-đại.

Đoạn trên, giúp ta có cái nhìn thận-trọng hơn qua lời dặn: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép [đó là lời dặn-dò các giới-chức]. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” Đây là hình-ảnh về những gì mà ngày nay ta thường gọi là “qui-định về sắc-phục” đặt ra cho cuộc vận-động Vương-Quốc-Nước-Trời. (X. John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1999, tr.88-89)

Thế đấy! Ra đi với người ở ngoài, ngoài Đạo/ngoài đời là như thế. Không sắc-phục lộng-lẫy, cũng không phận-biệt gái/trai, già/trẻ. Ra đi, trong tư-thế thoải-mái, dễ chịu như những người không còn gì để sợ mất. Nhưng, là giúp người khác không sợ mất mát gì. Bởi, người đời vẫn cứ bảo-ban và nhắn-nhủ những lời như:

“Bạn lòng thân mến

đây tôi hiến bài ca

mong ai hát vui hòa

Bạn là xuân thắm

Cho tôi đón nhiều hoa

gieo hương mái tranh nhà

Rồi ta chung ngắm

Đôi chim lướt trời xa

Say sưa muôn tiếng ca

Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Nay dâng đẹp tình thơ” qua điệu nhạc, là như thế. Như thế, tức: vẫn đẹp một cuộc đời giống như lời kể ở cốt truyện nhè nhẹ như sau:

Tại một quán ăn ở Thượng Hải, có một cô hầu bàn phụ trách mang thức ăn lên cho chúng tôi, nhìn cô ấy trẻ trung tựa như một chiếc lá non.

Khi cô ấy bê cá hấp lên, đĩa cá bị nghiêng. Nước sốt cá tanh nồng rớt xuống, rơi xuống chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Theo bản năng tôi nhảy dựng lên, nộ khí xung lên, khuôn mặt trở nên sầm xuống.

Thế nhưng, khi tôi chưa kịp làm gì, con gái yêu của tôi bỗng đứng dậy, nhanh chóng đi tới bên cạnh cô gái hầu bàn, nở một nụ cười dịu dàng tươi tắn, vỗ vào vai của cô bé và nói: “chuyện nhỏ thôi, không sao đâu”

Nữ hầu bàn vô cùng ngạc nhiên, luống cuống kiểm tra chiếc cặp da của tôi, nói với giọng lúng túng: “Tôi… để tôi đi lấy khăn lau … ”

Không thể ngờ rằng, con gái tôi bỗng nói: “Không sao, mang về nhà rửa là sạch rồi. Chị đi làm việc của chị đi, thật mà, không sao đâu, không cần phải đặt nặng trong tâm đâu ạ.”

Khẩu khí của con gái tôi thật là nhẹ nhàng, cho dù người làm sai là cô hầu bàn. Tôi trừng mắt nhìn con gái, cảm thấy bản thân mình như một quả khí cầu, bơm đầy khí trong đó, muốn phát nổ nhưng không nổ được, thật là khốn khổ.

Con gái bình tĩnh nói với tôi, dưới ánh đèn sáng lung linh của quán ăn, tôi nhìn thấy rất rõ, con mắt của nó mở to, long lanh như được mạ một lớp nước mắt.

Tối hôm đó, sau khi quay trở về khách sạn, khi hai mẹ con nằm lên giường, nó mới dốc bầu tâm sự:

Con gái tôi phải đi học ở London 3 năm. Để huấn luyện tính tự lập cho nó, tôi và chồng không cho nó về nhà vào kỳ nghỉ, chúng tôi muốn nó tự lập kế hoạch để đi du lịch, đồng thời cũng muốn nó thử trải nghiệm tự đi làm ở Anh Quốc.

Con gái tôi hoạt bát nhanh nhẹn, khi ở nhà, mười đầu ngón tay không phải chạm vào nước, những công việc từ nhỏ tới lớn cũng không đến lượt nó làm. Vậy mà khi rơi vào cuộc sống lạ lẫm tại Anh Quốc, nó lại phải đi làm bồi bàn để thể nghiệm cuộc sống.

Ngày đầu tiên đi làm, nó đã gặp phải rắc rối.

Con gái tôi bị điều đến rửa cốc rượu trong nhà bếp. Ở đó có những chiếc cốc thủy tinh cao chân trong suốt, mỏng như cánh ve, chỉ cần dùng một chút lực nhỏ là có thể khiến chiếc cốc bị vỡ, biến thành một đống vụn thủy tinh.

Con gái tôi thận trọng dè dặt, như bước đi trên băng, không dễ dàng gì mà rửa sạch hết một đống lớn cốc rượu. Vừa mới thả lỏng không chú ý, nó nghiêng người một chút, va vào một chiếc cốc, chiếc cốc liền rơi xuống đất, “xoảng, xoảng” liên tục những âm thanh vang lên. Chiếc cốc hoàn toàn biến thành đống thủy tinh vụn lấp lánh trên mặt đất.

“Mẹ ơi, vào thời khắc đó, con có cảm giác bị rơi xuống địa ngục.” giọng nói của con gái tôi vẫn còn đọng lại sự hồi hộp lo lắng.

“Thế nhưng, mẹ có biết người quản lý ca trực đó phản ứng thế nào không? Cô ấy không hề vội vàng mà bình tĩnh đi tới, kéo con lên và nói: Em gái, em không sao chứ?”

Sau đó, cô ấy quay đầu lại nói với những người khác: Các bạn mau đến giúp cô gái này dọn dẹp sạch đống thủy tinh nhé!

Đối với con, ngay đến cả một chữ nửa câu trách móc cũng không có!”

Lại một lần nữa, khi con rót rượu, không cẩn thận làm đổ rượu vang nho lên chiếc váy trắng của khách, khiến cho chiếc váy trở nên loang lổ.

Cứ tưởng vị khách đó sẽ nổi trận lôi đình, nhưng không ngờ cô ấy lại an ủi con: “không sao đâu, rượu ấy mà, không khó giặt.”

Vừa nói, vừa đứng lên, nhẹ nhàng vỗ vào vai con, từ từ đi vào phòng vệ sinh, không nói toang lên, cũng không làm ầm ĩ, khiến con tròn mắt như con chim yến nhỏ vì quá đỗi ngạc nhiên.

Giọng nói của con gái tôi, mang đầy tình cảm: “Mẹ à, bởi vì người khác có thể tha thứ lỗi lầm của con trước đây, nên mẹ hãy coi những người phạm sai lầm kia như con gái của mẹ, mà tha thứ cho họ nhé!”

Lúc này, không khí trở nên tĩnh lặng như màn đêm, tròng mắt của tôi ướt đẫm lệ…

Tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình. Như tác giả nổi tiếng Andrew Matthews từng viết: “Bạn tha thứ cho mọi người vì chính lợi ích thiết thân của bạn. Nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc hơn.”

Bạn thân mến, chúng ta cảm động khi người khác cảm động, điều đó khiến chúng ta có thể thay đổi hành vi và lời nói của chính mình, hãy để những thiện ý này lưu truyền mãi về sau … như thế, mỗi ngày của chúng ta sẽ đều là hạnh phúc và may mắn!” (Theo NTDTV)

Nghe truyện kể nhè nhẹ như thế rồi, nay lại xin bạn, xin tôi ta hãy về với vườn nho đầy Lời Nhắn rất thanh tao, nhè nhẹ ở Kinh Sách, như sau:

“Anh chị em hãy có lòng nhân từ,

như Cha anh chị em là Đấng nhân từ.

Anh em đừng xét đoán,

thì anh chị em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.

Anh chị em đừng lên án,

thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án.

Anh chị em hãy tha thứ,

thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.

Anh chị em hãy cho,

thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.

Người sẽ đong cho anh chị em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn,

mà đổ vào vạt áo anh chị em.

Vì anh chị em đong bằng đấu nào,

thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh chị em bằng đấu ấy.”

(Lc 6: 36-38)

Nghe Đấng Thánh Nhân-hiền trong Đạo bảo thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta lại nghe hát thêm một lần nữa, những lời êm ả, nhè nhẹ như câu ca vẫn nghe thấy:

“Bạn lòng thân mến,

đây tôi hiến bài ca,

mong ai hát vui hòa.

Bạn là xuân thắm,

Cho tôi đón nhiều hoa,

gieo hương mái tranh nhà.

Rồi ta chung ngắm,

Đôi chim lướt trời xa,

Say sưa muôn tiếng ca.

Để hồn vui nhớ,

câu mơ ước ngày xưa,

Nay dâng đẹp tình thơ.”

(Hoàng Trọng/Hồ Đình Phương – bđd)

Có hát lời ‘dâng hiến một bài ca’ thôi, cũng rất đủ. Bởi, cứ hát như thế mãi rồi ra cũng có ngày bạn và tôi, ta thực hiện được những lời nhắn ở trong Đạo, lẫn ngoài đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn nghe những lời

Từng nhắn và nhủ cũng rất nhiều.

Nhưng, nhớ và thực hiện

Vẫn chẳng được bao nhiêu.

Thế mới chết!

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo,

“Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo,”

Ta trói thân vào nợ nước mây.

Ai biết thương nhau từ thuở trước,

Bây giờ gặp nhau trong phút giây.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mai Tá, lược dịch

“Ai biết thương nhau từ thuở trước, nên vẫn trói thân vào nợ nước mây”, lời thơ đời nhiều lúc cũng xứng-hợp với tâm-tình nhà Đạo, vào những ngày có Chúa tỏ bày sự thật tình thương yêu với nhiều người, dù thiếu thốn. Tình nhà Đạo hôm nay, lại được diễn-bày một lần nữa bằng nhiều thứ cả truyện kể dân gian, lẫn trình thuật.

Về truyện kể, mới đây tôi được mời đến ăn tối ở nhà người bà con, thân thuộc. Gia đình lúc ấy đang ở trong tình huống lúng túng với cô con gái tuổi mới 13, mà tinh khí đã thất thường. Trước mặt khách quan, mà cô bé vẫn tỏ thái độ bất cần đời, nổi loạn. Cô không thích món rau trộn mẹ cô làm. Nên, mặt mày cô ủ rũ, nhất quyết tuyệt thực, để phản đối. Tự nhiên, món rau trộn trở thành đầu giây mối nhợ cho một mâu thuẫn, nghịch thường giữa hai thế hệ, mẹ và con.

Bà mẹ cố nhỏ nhẹ thuyết phục con gái yêu bằng những lời lẽ, rất ôn tồn: “Con à, phí của giời như thế, tội chết! Con biết không, trên thế giới còn rất nhiều người thèm được ăn cọng rau con bỏ đi, đấy. Họ mà ăn được đĩa sà-lát này, chắc sẽ nhớ ơn suốt đời”. Nghe thế, chẳng nói chẳng rằng, cô bé vụt dậy, bỏ đi nơi khác.

Hồi sau trở lại, cầm chiếc phong bì lớn với cây bút nét đậm, cô đổ luôn đĩa rau vào phong bì, dán lại rồi vùng vằng nói: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi gói rau thúi cho đứa chó chết nào đây? Địa chỉ đâu?” Chứng kiến cảnh ‘hỡi ôi’ ấy, tôi thấy, ở đời làm cha làm mẹ không phải chuyện dễ. Sống độc thân như tôi, có khi thế mà lại hay. Nhưng, tất cả vẫn là: thông cảm, hoà hoãn, và kết hợp.

Phúc âm hôm nay cho thấy, khi biến 5 chiếc bánh và 2 con cá nuôi đủ 5 ngàn người, Đức Kitô nói thêm: “Mấy ông hãy thu nhặt các vụn vặt, còn thừa. Đừng bỏ phí.” Nghe Ngài nói, chắc người phương Tây chúng ta cũng chẳng bao giờ mường tượng nổi cái cảnh bụng đói cồn cào mà người dân ở các nước chậm phát triển đang gặp, hằng ngày.

Có chứng kiến cảnh người nghèo đói chết dọc đường, các nước Âu Mỹ mới biết họ đang phung phí của ăn thức uống, đến chừng nào. Có lẽ, phải là thân thuộc người nhà đang chết dần chết mòn vì đói, hẳn mọi người mới thấy quý cuống rau, hột gạo. Và, dân tộc nào một khi đã kinh qua cảnh kinh tế suy thoái, chiến tranh điêu tàn, mới thấu hiểu ý nghĩa của câu nói: “Đừng bỏ phí!”.

Ngày nay, những ai có kinh nghiệm về đói-nghèo, đều đã cảnh giác trước những tình huống phung phí, đổ bỏ. Trong khi đó, ngược lại, vẫn có nhiều người tìm cách quên đi những tháng ngày cồn cào, thời bĩ cực. Họ chỉ biết quan tâm đến chuyện ‘khoan khoái’, hưởng thụ. Với người sống ở các nước đã phát triển, như cô bé tuổi 13 vừa kể, đói và khát chỉ là chuyện trong sách vở, quá khứ. Con người ngày nay đã quen đi các thảm cảnh xưa cũ, đang ‘ăn vào’ thân xác của mình, để rồi cứ thế béo phì, dư mỡ.

Có người còn cho rằng: câu truyện Phúc âm về 5000 người được nuôi béo, đủ ăn, hoàn toàn có tính cách tượng trưng, giả tưởng. Chẳng cần tranh cãi, câu truyện Tin Mừng hôm nay qui chiếu về Thân Mình Đức Kitô, nơi đó chúng ta đang được Đức Chúa nuôi dưỡng bằng tình thương yêu, linh đạo. Tin Mừng của Chúa còn soi dọi về bữa tiệc lòng mến viên mãn, kéo dài. Ở nơi đó, không còn ai bụng đói, chết thèm. Dù chỉ cuống rau, hột gạo hoặc giọt nước trong lành.

Tin Mừng của Chúa đòi chúng ta nhìn vào thế giới hôm nay, với nhãn giới Vương quốc Nước Trời; ở đó, vị Chúa tể Tình thương vẫn san sẻ, quyết rời bỏ chốn ngai vàng bệ cao, ngõ hầu những người bụng cồn dạ đói, mới có được sự đỡ nâng, no đầy. Và, lúc ấy, các người giàu sang, phung phí lâu nay chẳng đoái hoài gì chuyện sẻ san, nuôi sống kẻ khác, sẽ bị án phạt, chúc dữ.

Có một yếu tố được gọi là sự ‘lầm-lỡ ân-tình’. Chính nhờ yếu tố này, chúng ta biết được những gì ta chịu làm, hoặc vẫn không muốn làm, ngõ hầu đem Vương quốc Nước Trời về với thế-giới-có-quá-nhiều-thức-ăn-thừa-mứa.

Nếu biết rằng, trên thế giới, mỗi ngày bình quân có đến 29,000 người đã và đang chết một cách lãng phí, chỉ vì thiếu thức ăn, nước uống; và từ đó, là bệnh tật do thiếu thốn, do thái độ cố ý quên lãng nơi những người dư ăn, dư mặc là chúng ta; thì thử hỏi: phải chăng đây là một đáp trả có lý lẽ, hẳn hòi?

Vấn đề đặt ra hôm nay, là: có một khoảnh khắc trầm lặng, lành mạnh nào đó khơi dậy cuộc sống của chúng ta, về một chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong mọi sự việc. Chuyển đổi các thứ tự ưu tiên trong hành động, để rồi dẫn đến kêu gọi phải có thay đổi trong quyết định đối xử với nước nghèo, người nghèo?

Cụ thể hơn, cần có một thay đổi về hệ cấp ưu tiên trong hành xử; ưu tiên cao, từ nay, không còn tùy vào số lượng và kết quả của súng ống bom đạn nữa, mà là số lượng các bé lê lết thân gầy, những bụng cồn, dạ đói, đang chết khát.

Tôi vẫn tự hỏi: Đức Chúa nghĩ gì khi Ngài nghe người các nước giàu sang biện luận rằng: sở dĩ họ không chia sớt thức ăn, của cải cho người nghèo đói, là vì tại đây vẫn còn các nhà độc tài, tự cao tự mãn, chuyên ăn trên ngồi chốc, không lo cho con dân của mình; thậm chí, vẫn cứ vơ vét tiền tài, vật chất đem chôn giấu tại các ngân hàng úp mở ở Thụy sỹ -hay đâu đó- hoặc vẫn bỏ tiền ra quyết xây dựng thật nhiều vũ khí hạt nhân, qui ước. Và, muôn ngàn lý do khác khả dĩ biện minh cho thái độ ơ hờ, quên lãng.

Dù có phải đối đầu với những vấn đề phức tạp như thế, chúng ta vẫn còn khá nhiều phương thế thực tiễn hầu cứu sống người đói kém, nghèo hèn. Bởi, người nghèo đói có được cứu sống, đỡ nâng tăng cường sinh lực, thì một ngày no đó, mới có khả năng lo cho đất nước, dân tộc của chính mình.

Với câu nói xấc xược của cô bé tuổi 13: “Vậy chứ, bà muốn tôi gửi mớ rau thúi cho đứa nào đây?” tôi đã có câu trả lời: “Này cháu, hãy viết chính tên mình vào bì thư mà gửi. Bởi, chính sự dư dật thừa mứa lâu nay đã biến cháu thành người có nhiều nhu cầu nhất thế giới đó.”

Cầu mong Tiệc thánh hôm nay giúp ta làm được đôi chuyện cho trái đất này, như ta sẽ làm ở nơi cao, chốn vĩnh hằng, muôn thuở. Bởi, Vương quốc Nước Trời chính là chốn có nhiều người bụng đói, môi miệng khát thèm dù chỉ một giọt nước trong lành. Bởi, nơi đó, mọi người không kể đói no giàu nghèo, đều được đón tiếp, ăn uống thỏa thuê. Bởi, những gì ‘dư thừa còn sót’ đã được các đấng công chính thu nhặt lại, chẳng bỏ phí. Và, ở nơi đó, chẳng có gì để vứt bỏ, phung phí.

Quả là, trần gian còn đó nỗi buồn. Buồn, vì vẫn còn nghịch lý, trớ trêu. Trớ trêu, vì lý lẽ rất nghịch là bởi người đời sống với nhau rất gần, kéo dài nhiều năm tháng, nhưng vẫn chẳng tìm đâu ra nỗi niềm hân hoan, trao đổi. Người người vẫn cứ quan hệ đối trao, nhưng nào có được sự cảm thông, kết hợp. Chí ít, là thông cảm thắm thiết tình mẹ con, chồng vợ.

Nỗi buồn trần gian cứ mãi miên trường, không dứt. Và, trớ trêu vẫn chỉ chấm dứt, khi những người con trâng tráo, xấc xược biết thông cảm, hiểu được mẹ hiền. Nghịch lý cuộc đời sẽ chỉ kết thúc, một khi kẻ giàu người sang biết san sẻ tiền tài, vật chất với dân hèn mạt kiếp, đang cồn cào đói khát hiệp thông, chia sớt.

Chia của ăn thức uống, sớt tình thương yêu, vỗ về, khi ấy, Nước Trời đã trở thành hiện thực. Vương quốc Đức Kitô đã nên ngời sáng. Đấy mới là nhu cầu ‘ắt và đủ’ trong cuộc sống, người đời.

Bằng động-thái san sẻ tình thương-yêu qua bánh/cá, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Ai biết thương nhau từ thuở trước,

Bây giờ gặp nhau trong phút giây.”

(Nguyễn Bính – Hành Phương Nam)

Thương nhau từ thuở trước, là thương và san sẻ cho nhau những gì những gì người còn thiếu thốn. Sẻ và san tất cả, để mỗi người và mọi người sẽ còn nhớ mãi tình Chúa yêu thương hết muôn người. Thương yêu mọi người, Ngài luôn tỏ bày trong mọi tình-huống có sẻ san, giùm giúp rất đùm bọc, ở trong đời. Với mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn – Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng ((Ga 6: 1-15)

Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ ở Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêriat. Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái.

Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói:”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian! ” Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG

TÌM KIẾM LƯƠNG THỰC THIÊNG LIÊNG

(Suy niệm Tin Mừng thánh Mác-cô (6, 30-34)

Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.

Ông Delia kể tiếp: “Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”

Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Vì em cũng chẳng biết tên của mình nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)

Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan… nên em không thể thành người. Tuy có hình hài con người nhưng em lại mang tính cách của loài chó hoang.

Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.

Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giê-su (Mt 4,4).

Khao khát lương thực tinh thần

Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả khó nhọc, các Tông Đồ tụ họp quanh Chúa Giê-su và kể cho Ngài biết thành quả các ông vừa đạt được. Bấy giờ đám đông dân chúng tuôn đến đông đúc, kẻ tới người lui tấp nập, khiến các môn đệ không còn giờ nghỉ ngơi và ăn uống. Chạnh lòng thương các Tông Đồ vất vả nhiều mà chẳng được nghỉ ngơi, Chúa Giê-su bảo các ngài hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút.

Kế đó, Chúa Giê-su và các môn đệ xuống thuyền tìm chỗ nghỉ ngơi. Đoàn dân chúng đoán biết địa điểm mà Chúa Giê-su và các môn đệ sẽ tới, nên họ vội vã chạy đến nơi ấy trước Chúa Giê-su.

Thế là khi vừa bước lên bờ, Chúa Giê-su lại gặp đông đảo những người mà Ngài mới từ giã họ để lánh qua đây.

Trước đám đông dân chúng đổ xô đến với mình như đoàn chiên không có người chăn dắt, Chúa Giê-su chạnh lòng thương xót họ và ban cho họ thứ lương thực thiêng liêng tối cần thiết là những lời dạy dỗ khôn ngoan. (Mc 6,34)

Hôm nay, chúng ta không phải vất vả tìm kiếm Chúa Giê-su để được đón nhận Lời khôn ngoan của Ngài như đám đông người Do-thái được thuật lại trên đây, vì chúng ta có Lời Chúa ở bên cạnh chúng ta, có Chúa Giê-su là hiện thân của Sự Khôn Ngoan đang sống giữa chúng ta.

Vấn đề quan trọng là chúng ta có mở tâm  hồn ra để đón nhận, có bỏ công sức để khai thác “Kho Tàng” vô giá này hay không.

Khai thác kho tàng trong tầm tay

Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp mặc dù tổ tiên họ sở hữu một kho báu vĩ đại nằm ngay dưới chân mình. Đó là nguồn dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.

Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng đen” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có.

Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giê-su, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.

* * *

Muốn bắt được cá lớn, người ta phải dong buồm ra khơi vì không ai có thể câu được cá lớn ven bờ. Muốn tìm được trầm hương, người ta phải lặn lội vào rừng sâu đầy gian nan hiểm trở… Vậy muốn tìm được kho báu, chúng ta phải chấp nhận gian lao thử thách.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con sẵn sàng hy sinh thời giờ và công sức để tìm kiếm và khai thác “Kho báu” trong Tin Mừng của Chúa, nhờ đó chúng con  được trở nên giàu có trong đời sống thiêng liêng, được hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng thánh Mác-cô 6, 30-34

30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.31 Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa.32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”

Tác giả: Lm. Inhaxio Trần Ngà

NGHỈ NGƠI

NGHỈ NGƠI

Lm. Louis M. Nhiên, CMC

Sống trong một xã hội đa dạng, người ta có nhiều thái độ, quan niệm cái nhìn khác nhau về vấn đề làm việc.

Một cha xứ mới được chuyển đến thay thế cha xứ cũ đã trông coi một giáo xứ trong nhiều năm.  Trong phiên họp, cha xứ mới ngỏ ý với Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Tài Chánh của giáo xứ là nên thuê một người lo cắt cỏ chăm sóc vườn tược chung quanh nhà thờ.  Một vị trong Hội đồng tỏ vẻ khó chịu nói:  “Xin cha nhớ cho rằng, cha xứ cũ chính ngài đã tự tay cắt cỏ chăm sóc vườn tược, không thuê ai cả.” Cha xứ mới mỉm cười trả lời:  “Tôi biết điều đó, và tôi đã hỏi cha xứ cũ rồi, nhưng ngài trả lời là bây giờ ngài không còn muốn cắt cỏ chăm sóc vườn tược nữa.”

Chuyện khác kể rằng một công ty nọ chẳng may thuê phải một người thư ký lười biếng, suốt ngày chỉ lang bang cho hết giờ.  Ông chủ tức giận khó chịu bảo: “Trong một tháng trời mà anh làm việc không tới được một giờ đồng hồ.  Anh thử nghĩ xem công ty có lợi được một cái gì khi thuê mướn anh làm việc không?” Anh thư ký trả lời:  “Dạ thưa ông chủ có chứ.  Vì khi tôi đi nghỉ hè, thì không một ai trong công ty phải làm thêm gánh đỡ công việc của tôi.”

Chúng ta không rõ thái độ và quan niệm của các tông đồ ra sao đối với vấn đề hoạt động làm việc, nhưng qua bài tin mừng hôm nay Chúa nhắc nhở các ngài: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”, đã bảo cho hay rằng, giữa những công việc vất vả bận rộn của cuộc sống, các tông đồ cũng như chúng ta có bổn phận và trách nhiệm dành thời giờ nghỉ ngơi.  Có lẽ điều này nghe hơi lạ nhưng là một sự thật.  Sự thật này đã được ghi lại trong chương đầu của sách Sáng thế ký, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh:  Thiên Chúa làm việc trong 6 ngày và ngày thứ 7 ngài nghỉ ngơi.

Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta như là những con ong luôn bận rộn suốt thời gian.  Xe chạy thỉnh thoảng cần dừng lại để đổ xăng và nghỉ cho máy mát.  Chiếc cung giương mãi cũng sẽ có ngày đứt dây.  Thân xác con người cần nghỉ, cần ngủ, ai thử thức một hai đêm sẽ biết kết quả liền.

Hơn nữa, chúng ta cần dành thời giờ nghỉ ngơi là vì sống ở đất nước này, càng ngày càng thấy các công ty vì phải cạnh tranh và muốn kiếm lời nên đòi gia tăng mức sản xuất trong khi đó lại cắt giảm số nhân viên, nên các người làm việc đã bị áp lực bị stress, bị pressure do công việc đòi hỏi rất nhiều.

Ngoài thời giờ dành ra nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè, dành cho Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi dành thời giờ để suy nghĩ về giá trị đích thực của cuộc sống?  Phải chăng giá trị con người hệ tại sự có:  Càng có nhiều của cải tiền bạc vật chất, con người càng có giá trị nhiều, hay ở tại sự thanh thản bình an của tâm hồn?

Theo tài liệu nghiên cứu, trung bình một người Mỹ hàng ngày đối diện với 560 quảng cáo, và hầu hết các quảng cáo này đều muốn gây ảnh hưởng làm cho con người không thỏa mãn với những gì mình đã đang có và mời gọi con người ham muốn những cái mới hơn, lớn hơn, tốt hơn, tiện lợi hơn.  Chúng ta đang sống trong xã hội đó, dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng, muốn có nhà to hơn, lớn hơn, đẹp hơn, một nhà một Tivi chưa đủ, bây giờ mỗi phòng cần một cái, rồi nào là iPhone, iPad, iPod…  Muốn có nhiều sự phải có nhiều tiền để mà iPaid…, và muốn có nhiều tiền phải đi làm nhiều.  Đơn giản là như thế.  Tuy nhiên, câu hỏi mỗi người chúng ta cần đặt ra cho mình là bao giờ thì mới đủ, mới làm chúng ta hài lòng thỏa mãn, bao giờ chúng ta mới có một cuộc sống đơn giản, mới được sống thanh thản an bình hạnh phúc?

Cha ông đã bảo:  “Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn?” Có nghĩa là: Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ.  Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhàn?

Phillip Parham thuật câu chuyện về một thương gia giàu có khó chịu mất bình an khi thấy một ngư phủ đang ngồi nhàn hạ biếng nhác bên cạnh thuyền của ông.  Ông hỏi:  “Tại sao anh không ra ngoài khơi đánh cá?” Ngư phủ đáp:  “Vì tôi đã đánh đủ số cá cho ngày hôm nay?” Thương gia hỏi:  “Tại sao anh lại không bắt nhiều cá hơn số mình cần?” Ngư phủ hỏi lại:  “Tôi sẽ dùng chúng để làm gì?”

Vị thương gia trả lời:  “Anh có thể kiếm thêm tiền và mua được thuyền tốt hơn, lớn hơn để có thể đi ra ngoài khơi xa hơn, bắt nhiều cá hơn và kiếm thêm tiền.  Chẳng bao lâu anh sẽ có cả một đoàn thuyền và giàu có như tôi.” Ngư phủ hỏi:  “Rồi tôi biết làm gì với sự giàu có đó?”

Vị thương gia nói:  “Lúc đó anh có thể ngồi xuống vui hưởng cuộc đời.”

Ngư phủ đáp trong lúc đôi mắt bình thản nhìn ra biển cả:  “Thế ông nghĩ tôi đang làm gì bây giờ?”

Khi tạo dựng nên con người và cho vào đời, Thiên Chúa trao cho mỗi người một sứ mệnh.  Không ai có sứ mạng quan trọng như của Chúa Giêsu, nhưng Ngài biết những điều quan trọng không thể thành đạt được nếu không có tâm hồn an bình trong thinh lặng yên tĩnh nghỉ ngơi cầu nguyện:  “Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.” Mỗi người chúng ta có trách nhiệm và bổn phận dành thời giờ nghỉ ngơi suy nghĩ tìm ra sứ mệnh của mình và điều cần để ý đó là đời sống này quá ngắn ngủi, hãy sống cuộc sống này đầy ý nghĩa.

Lm. Louis M. Nhiên, CMC

LÀM VIỆC VÀ CẦU NGUYỆN

LÀM VIỆC VÀ CẦU NGUYỆN

LM GB Văn Hào

Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi.  Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình.  Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”  Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn.  Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình.  Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.

Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được mọi người yêu mến và nể phục.  Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể.  Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện.  Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?” Cụ già chất phác và chân chất trả lời  “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả.  Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi.”  Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng nội tâm của cõi lòng.  Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.

Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện.  Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện.  Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha.  Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.

Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy.  Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông.  Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập.  Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa.  Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người.  Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ.  Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình.  Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.

Bác học Ampère đã nói: “Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện.” Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa.  Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện.  Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song.  Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế.  Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyên Chúa nói với chúng ta hôm nay “Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.

Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình.  Vị ẩn sĩ đó trả lời “Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối.  Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch.”  Anh thương gia hỏi lại “Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?”  Vị ẩn sĩ nói tiếp: “Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng.”  Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi.  Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai.  Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa.  Chính Đức Giêsu đã nói “Không có thầy, anh em không làm được gì.”

Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng.  Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế.  Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương.  Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.  Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu.  Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên.  Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác.  Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên.  Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.

Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay.  Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa.  Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình.  Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn.  Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi.  Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối sống tục hóa.  Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.

Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.

Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa.  Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta.  Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần.”  Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi.  Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”

LM GB Văn Hào

ÁNG HƯƠNG LÒNG

ÁNG HƯƠNG LÒNG

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.

Có nhiều thứ trầm hương, hương dâng trong đền thờ Phật, trong đền thờ Chúa.  Kho tàng văn chương tu đức Ðông Phương, có câu chuyện kể về hương trầm như sau:
Làng kia có ngôi chùa.  Dân trong làng đem tượng Phật của mình đến để trong chùa.  Ngày rằm, người ta đến dâng hương Ðức Phật.  Trong số các tín nữ đến chùa có bà quê nghèo không tiền mua nhang.  Trong số các tín nữ ấy, có bà mang theo hương quả.  Bà để ý thấy bà quê kia không bao giờ mang hương lạy Phật.  Dần dần bà đem lòng khó chịu.
Cứ khi đốt nhang lên tượng Phật của bà, bà quê kia liền lạy theo.  Với cái khó chịu, bà nghĩ rằng bà quê kia keo kiệt, chỉ chờ người khác dâng nhang là lạy ké.  Bà đâm lòng ghét bỏ.  Suy nghĩ mãi, lần sau đến chùa, bà mang theo kế hoạch.  Trước khi đốt nhang, bà lấy tàu lá đu đủ làm thành ống dẫn hương đổ lên mặt Ðức Phật, đầu kia bà lấy cái phễu gắn vào.  Bà chỉ lạy nhang cho bay vào cái phễu để lên mặt Ðức Phật của bà, không cho hương thoát sang tượng Phật bà kia.  Lạy xong, nhìn lên, bà thấy sao mặt  Ðức Phật của bà mặt mày đen đủi, hai lỗ mũi đen kịt khói.  Còn tượng Phật của bà quê kia vẫn cứ đẹp đẽ sáng ngời.
Trong kho tàng tu đức nhà Ðạo, sách tiên tri Isaia viết:
“Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có lợi gì cho Ta?  Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo nữa.  Khi các ngươi đến trước mặt Ta ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta?  Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những tế lễ vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.  Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác.  Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó làm khổ Ta.  Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi.  Khi ngươi giơ tay các ngươi lên thì Ta quay mặt đi.  Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời vì tay các ngươi vấy đầy máu.  Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy hãm dẹp khỏi mặt Ta các tư tưởng xấu xa” (Is. 1:10-20)

Trầm hương dâng Phật hay Chúa phải là nén hương lòng.  Của lễ nào vào đền thánh phải siêu thoát từ con tim.  Hôm nay có nhiều thứ hương trầm, nhiều thứ của lễ lắm.
Ðầu tháng hoa, nếu ba cộng đoàn hợp nhau rước kiệu, kiệu nào đi trước?  Nhóm mình hay nhóm kia?  Kiệu Ðức Mẹ Lộ Ðức hay La Vang, Fatima hay Hằng Cứu Giúp?
Sự cạnh tranh, thiếu siêu nhiên dường như nó bàng bạc khắp nơi.  Có đông người, nhiều của lễ là có so sánh.  So sánh thì có hơn thua.  Hãnh diện thì cũng có không hãnh diện.  Thành công thì cũng có kém thành công.  Tiếng khen thường nằm cạnh tiếng chê, cho dù tiếng chê ấy không nói ra.  Nó âm thầm mà khó chịu.

Một con người ba khuôn mặt.

Vì sao trong việc thờ phượng, người ta lại cạnh tranh như thế?
Có lẽ cái thiếu thức tỉnh của cuộc sống đưa đến nỗi xấu xa ấy.  Mỗi người đều sống với ba khuôn mặt này: Kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Con người kinh tế: Ai cũng cần của ăn, áo mặc, nhà ở.  Nghèo thì khổ.  Nghèo không thể tiến thân.  Muốn có nhiều tiền, phải cạnh tranh.  Tôi không khá hơn, người kia sẽ chiếm mất, lấn át tôi.  Hai tiệm ăn gần nhau, muốn tiệm mình có nhiều khách, tiền vào nhiều hơn, phải cạnh tranh.  Chiếm được khách bên kia là ưu tư của mình.  Bất cứ gì đụng tới vật chất, tiền bạc, kinh tế đều chạm tới cạnh tranh.
Con người chính trị: Nếu tôi không mạnh, người khác sẽ xâm lăng.  Kẻ có quyền là người có miếng.  Tôi phải quen biết người có thế lực để cậy nhờ.  Tôi cần có thế lực để gây ảnh hưởng.  Nếu tôi không cai trị người, người sẽ cai trị tôi.  Xã hội nào cũng mạnh được yếu thua.  Cá lớn nuốt cá bé. Quyền lực đến từ nhu cầu sống còn, nó nằm sâu trong bản tính con người.  Ai cũng muốn quyền lực.
Con người tôn giáo: Tôn giáo đi tìm thế giới siêu nhiên, đưa con người đến những liên quan tới Trời.  Tôn giáo mời gọi con người đến giá trị chân thật của lương tâm.  Hiểu như thế, tiếng gọi của tôn giáo nào cũng đẹp, niềm tin tôn giáo nào cũng đáng mến và con người tôn giáo nào cũng đáng yêu.

Ba khuôn mặt trong đền thờ.

Ai cũng đều mang cả ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo trong một con người.  Khi con người tôn giáo bước vào đền thờ, bước vào chung với cả hai khuôn mặt kia: Kinh tế và chính trị.  Họ vừa buôn bán ngoài đường phố ban sáng, vừa âm mưu một ý định chính trị ban trưa, chiều nay bước vào đền thờ dâng hương, không thể để con người chính trị và kinh tế ở nhà.  Chiều nay bước vào đền thờ, họ bước vào với cả ba khuôn mặt.  Từ đó nảy sinh một cách vô ý thức là tôn giáo, kinh tế và chính trị lẫn lộn với nhau.  Rồi tôn giáo bị sự canh tranh của hai con người kia điều khiển, xúi đẩy.
Người ta đem cạnh tranh trong kinh tế vào tôn giáo.  Ðem cạnh tranh trong quyền lực vào tôn giáo.  Cho nên xứ đạo mình phải tổ chức linh đình hơn xứ đạo kia.  Tìm cách lôi kéo người khác vào phong trào mình để phong trào này đông hơn phong trào nọ.  Ðạo mình phải nổi hơn đạo khác.  Ðền thờ này thiêng hơn đền thờ kia.  Từ đó, tượng Ðức Phật bị dơ do lòng con người dâng những áng hương hẹp hòi nhỏ mọn.  Từ đó, tượng Chúa kêu than thành tiếng: “Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta.  Ta nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Thực tế cho thấy, thu xếp sao cho các ca đoàn trong giáo xứ hát chung với nhau trong một lễ trọng đã là khó rồi!  Nhỏ như vậy, đã vương khói u ám, thì những công trình liên họ đạo, liên địa phận còn khó như thế nào.  “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.”  Không có tấm lòng siêu thoát, tất cả thờ phượng tôn giáo chỉ là những làn khói đen chứ không còn là hương trầm.  Số phận của những con người làm nên nó đã được nhắc đến trong ngôn sứ Isaia: “Khi các ngươi giơ tay lên thì Ta quay mặt đi.  Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời.  Vì tay các ngươi vấy đầy máu.”

* * *

Thay vì con người tôn giáo phải hướng dẫn con người tiền bạc và con người quyền thế, hôm nay, dường như con người tôn giáo đang thu nhỏ lại trước hai con người kia.  Từ đó, hương khói trong đền thánh không còn là áng hương lòng, nó là u uất của những làn khói đen vì cạnh tranh nhau.
Cạnh tranh trong tôn giáo làm cho đời sống tâm linh nhỏ nhoi.  Khi cuộc sống tâm linh nghèo nàn, tâm hồn ấy không còn bình an nội tại và niềm vui nữa.  Chung quanh cuộc đời sẽ bị giằng co bằng cạnh tranh, họ băn khoăn làm sao hơn người.  Cạnh tranh dẫn đến lo âu.  Cạnh tranh dẫn đến buồn vì sợ người khác nổi hơn mình.  Trong khi thánh Phaolô nói rõ “hoa trái của Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal. 5:22).
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn. Của lễ dâng Chúa trong sự cạnh tranh, bấy giờ trở thành thờ cúng ngẫu tượng.

Chính vì thế tiên tri Isaia đã nói bằng ngôn ngữ rất mạnh.  Thiên Chúa ghê tởm những của lễ đó.  Thiên Chúa nhàm chán chịu đựng.  Thiên Chúa khổ tâm.
Thấy mình không vui vì người khác được ca ngợi, thấy mơ hồ sự ghen tị, thèm muốn cạnh tranh trong việc tông đồ, lúc đó, ta cần đọc lại những lời này:
“Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những lễ tế vô ích nữa.  Ta ghê tởm mùi hương.  Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác.  Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi.  Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta.  Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.

NỘI TÂM

NỘI TÂM
Nội tâm sâu thẳm như bầu trời bao la. Nội tâm là cốt lõi. Làm sao chúng ta có thể đụng chạm tới đáy cùng của nội tâm. Nghe kể câu truyện: Có một người đàn bà khôn ngoan, trong khi đi du ngoạn nơi vùng đồi núi, đã nhặt được một viên ngọc qúi bên dòng suối. Hôm sau, bà ta gặp một người bộ hành đang đói khát và bà đã mở túi chia sẻ thức ăn cho ông ta. Người bộ hành đói khổ nhìn thấy viên ngọc quí và đã hỏi xin bà. Bà cho ông viên ngọc, không chút do dự. Ông cầm lấy và rời đi rất vui mừng, vì vừa nhận được một kho tàng quí báu. Ông biết viên ngọc này có giá trị lớn để ông có một cuộc sống bảo đảm trong tương lai. Nhưng vài ngày sau, ông trở lại và trả viên ngọc quí cho người đàn bà khôn ngoan này. Ông nói: Tôi đã suy nghĩ và tôi biết viên ngọc này rất có giá trị, nhưng tôi muốn trả lại, với hy vọng bà có thể cho tôi cái gì đó quí hơn: Bà hãy cho tôi cái gì đó trong nội tâm của bà, điều mà bà có thể cho đi viên ngọc quí này.’
Mầu nhiệm của sự sống con người kết nối cả nội tâm lẫn ngoại hình. Chúng ta thường suy xét và đánh giá con người qua những hình thức lộ diện bên ngoài. Mặt nổi của đời sống giống như một tảng băng nổi, với chín phần chìm sâu dưới nước. Nội tâm như là phần chìm. Con người khác nhau nhiều ở chính cuộc sống nội tâm này. Chúng ta có thể suy nghĩ rằng người sống nội tâm là người hay lo âu, trầm tư và ít nói. Người sống nội tâm cũng có thể hay suy tư về các vấn đề như sự hiện hữu của vũ trụ và con người, về ý nghĩa cuộc đời, về sự sống, sự đau khổ và sự chết… Nhưng không luôn hẳn là như thế, người sống nội tâm là người học biết chính mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan để tìm về nguồn chân, thiện, mỹ.
Không ai có thể đo lường đời sống nội tâm. Tục ngữ ca dao có câu: ‘Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người (nham hiểm) sâu thẳm ai đo cho cùng’. Đúng vậy, không ai đo được lòng người. Người ta có thể đo lường mọi cơ động lưu hành trong ngoài thân xác, nhưng sẽ dừng lại trước thế giới của lương tâm, lý trí, ý chí, trí khôn và linh hồn. Mỗi con người là một thụ tạo linh thiêng huyền bí. Thường chúng ta rất ngại để lắng đọng tâm hồn nhìn vào sự linh thiêng của chính mình. Chúng ta hướng ngoại nhiều hơn là hướng nội. Chúng ta chạy đua với cuộc sống bon chen ồn ào. Tìm vui sống với phần nổi của hiện hữu hơn là đời sống nội tâm.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao người đàn bà khôn ngoan dám cho đi viên ngọc quí? Bà biết giá trị của viên ngọc chứ. Bà cất nó trong túi sách. Bà dám cho đi viên ngọc mà không hối tiếc. Như thế, đối với bà, viên ngọc chỉ là một tặng vật có thể làm vui thỏa ước muốn của lòng người. Nhưng bà có niềm vui lớn lao hơn ngự trị trong thâm tâm của bà. Bà cho mà không do dự. Bà có một thái độ vượt trên giá trị của kho tàng của cải vật chất. Niềm vui của bà là tinh thần tự do và không bị ràng buộc vào những nhu cầu thể chất. Bà đang thực hành một đời sống nội tâm cao.
Ai trong chúng ta cũng có đời sống nội tâm riêng tư và ẩn dấu. Người ta thường nói rằng cây tốt thì sinh trái tốt. Nội tâm tốt sẽ phát sinh công việc tốt và lời nói tốt. Lòng đầy miệng mới nói ra. Nếu chúng ta gieo trồng những hạt giống xấu trong thâm tâm, thì ắt sẽ sinh ra những trái đắng đót cộc cằn. Nét đẹp của con người phát xuất từ nội tâm. Người ta nói: ‘Cái nết đánh chết cái đẹp là thế.’ Có nhiều biểu tỏ của đời sống nội tâm nơi con người như lòng từ tâm, an tâm, đại tâm hoặc cũng có thể ngược lại là nhẫn tâm, vô tâm, ác tâm và tiểu tâm…
Tâm thường đi với tính. Cha ông nói: ‘Cha mẹ sinh con, trời sinh tính’. Tính khí thì mỗi người mỗi khác. Con người cần được tu tâm luyện tính cho thuần để đối nhân xử thế. Tu tâm là cần phải trở về với chính mình để biết mình. Có khi nào bạn đã ngồi thật lâu trong khoảng thinh lặng để trở về nhận biết chính mình chưa? Chúng ta có thể thử. Hãy tránh xa chỗ ồn ào đô hội và tìm một nơi thật thanh tịnh để lắng đọng tâm hồn. Nhắm mắt và thở hít đều đặn. Thả hồn đi sâu vào tâm trí và sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta sẽ đụng chạm vào khoảng không bao la huyền nhiệm. Để hồn đắm chìm trong sự kết hợp với Đấng Vô Hình đang hiện diện nơi tâm hồn và vũ trụ muôn loài.
Có nhiều bài hát đạo có lời tha thiết khẩn nài ‘Chúa Ở Nơi Đâu?’ Theo giáo lý công giáo, trả lời Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy tại sao chúng ta lại hỏi Chúa ở nơi đâu? Lời tự thuật của thánh Augustinô cho chúng ta một kinh nghiệm của đời sống nội tâm sâu xa: “Con yêu Chúa quá muộn màng, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa, vừa mới mãi, con yêu Chúa qúa muộn. Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy, con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài. Con thật xấu, khi cứ mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con, mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa. Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và xóa tan sự mù lòa của con. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm sự bình an nơi Chúa.”
Trở về với nội tâm là trở về với Chúa. Có biết bao lần chúng ta cầu nguyện mà lòng trí sao lãng lang thang khắp chốn. Chúng ta hát to gào thét làm như Chúa bị nặng tai. Đôi khi chúng ta giống như các tiên tri giả thờ thần Baal la hét, xé áo và rạch mình, khẩn nài các thần minh nhận của lễ hiến dâng. Chúng ta cần có đời sống nội tâm kết hợp sâu xa với Chúa. Cầu nguyện chính là những tâm tình kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm, “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7b).
Lạy Chúa, đã bao lần chúng con mải mê tìm kiếm Chúa bên ngoài. Chúng con đã không gặp được Chúa, vì hồn chúng con trống rỗng. Chúa luôn ẩn ngự trong tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con nhận biết Chúa luôn hiện diện trong chúng con. Chúa chính là nơi chúng con nương tựa và là chỗ chúng con ẩn thân. Chúng con cảm tạ tình yêu Chúa mãi muôn ngàn đời.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

http://dongten.net/noidung/2674

CĂN TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ CỦA THẦY GIÊSU

CĂN TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ CỦA THẦY GIÊSU

Am 7, 12-15; Ep 1, 3-14; Mc 6, 7-13

Hẳn nhiên, ai cũng biết rằng phàm là người thì cần phải có cơm ăn, áo mặc và những dụng cụ để phòng thân. Cơm, áo, gạo, tiền … là những mối lo âu thiết thực nhất hay nói đúng hơn đó là nỗi sợ của con người. Đơn giản dễ hiểu đó là thực chất nếu như con người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiện nghi cơ bản cho cuộc sống thì con người không sống được cũng như chẳng làm được gì.

Ta thấy vật chất, tiền bạc … rất gần và rất cần cho con người cũng như những người gọi là môn đệ đi theo Chúa. Cần và cần nhiều nữa là khác thế nhưng hôm nay ta bắt gặp hình ảnh hay nói cách khác là lời mời gọi hay nói đúng hơn là lệnh truyền của Thầy Giêsu : Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo (Mc 6, 8.9).

Người môn đệ sống như thế nói thẳng ra là “chết chắc” vì chẳng có cái gì gọi là phòng thân cả. Sống như thế nghĩa là sống chỉ biết ngày hôm nay, ngày mai có ngày mai lo !

Thoạt đầu, khi nghe những lời ấy ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy sốc thế nhưng Nước Thiên Chúa là như vậy đó ! Nước Thiên Chúa là Nước không phải thuộc thế gian để người người lo phòng thủ, lo vun vén cho mình được càng nhiều càng tốt.

Nói hơi lý thuyết một chút, lời mời gọi của Thầy Giêsu gởi các môn đệ quả là chí lý, là có căn cơ, có cơ sở chứ không phải là lời mời gọi vu vơ. Căn tính của người môn đệ, của thành viên Nước Thiên Chúa, của công dân Nước Trời là như vậy. Nước Trời, Nước Thiên Chúa dành cho những tâm hồn đơn sơ, bé mọn và mãi luôn tín thác vào Thiên Chúa. Người đó sẽ không hề phải phụ thuộc vào thế gian, không phải quỵ lụy thế gian cũng như không hề có ý định hay ý định vun vén thế gian vào lòng mình.

Thật ra, thật giằng co khi con người sống ở giữa thế gian mà lại mời gọi họ từ bỏ những gì thuộc về họ, thuộc về thế gian. Đơn giản dễ hiểu là con người cần tiền, cần vật chất, cần quyền, cần danh để sống giữa cuộc đời. Nay lại bảo phải từ bỏ e rằng khó.

Chính khi nghe lại lời mời gọi này, ta lại bắt gặp hình ảnh của ta về căn tính người môn đệ chân chính của Chúa.

Nếu như cuộc sống của ta, ta cảm thấy bình an, ta cảm thấy đủ với những gì ta đang có thì ta thật hạnh phúc bởi lẽ ta đã thấy đủ. Khi ta tạm gọi là “dừng cuộc chơi” nghĩa là khi ta ý thức được chuyện không phải thủ cái gì cho đời ta cả.

Chắc có lẽ, chính có ta mới lượng giá được căn tính người môn đệ có ở trong ta như thế nào ?

Có khi ta biện minh rằng ta cần cái này cái kia cho cuộc sống để rồi ta chạy đi tìm, đi sắm, đi trang bị. Nực cười là ta quá lo lắng để ta đi tìm những cái để thủ cho đời ta mà những thứ đó chính ta tự nghĩ ra.

Giản đơn nhất để thấy điều đó là thi thoảng ta chịu khó dọn cái phòng của ta. Thật ngạc nhiên khi ta thấy cứ ngày mỗi ngày cái phòng của ta chật lại và đường đi hẹp lại vì ta vun vén quá nhiều. Ta không chỉ lo cho ngày mai mà lo cả lo cho ngày mốt, ngày kia, ngày kìa nữa … có những thứ mà ta cố sắm nhưng chẳng bao giờ xài đến, chẳng bao giờ đụng đến cả.

Hay là, ta thử dừng lại để ta dọn lòng ta thử. Khi dọn lòng, ta sẽ thấy lòng ta vẫn còn đó bề bộn, vẫn còn bừa bãi bởi những thứ làm cho ta nặng nề không thanh thoát đủ để bước lên đường rao giảng Tin Mừng như Chúa mời gọi. Có khi lòng ta còn nặng nề bởi sự sân hận, bởi sự ganh ghét anh chị em đồng loại.

Có lẽ, hài nhất và thực tế nhất đó chính là chuyện Chúa bảo là anh em không được mặc hai áo. Hai áo ở đây ta có thể hiểu được cả về cái áo vật chất và cả cái áo tâm hồn của ta.

Chúa đã trang bị, Chúa đã cho ta cái áo thật tinh tuyền nhưng rồi ta lại tự trang bị cho ta những cái áo giáp. Những cái mà ta tìm, ta trang bị xem ra không phù hợp với cái y phục tiệc cưới Nước Trời mà Chủ tiệc cưới mời gọi. Những cái áo mà ta trang bị nó được thêu dệt nên bởi sự giả tạo, sự giả dối của ta nhằm che mắt thiên hạ cũng như mắt Chúa. Thế nhưng, duy chỉ mình Chúa mới là người nhìn thấy suốt lòng ta, thấu suốt những chiếc áo của đời ta.

Về chiếc áo vật chất theo cách hiểu bình thường như Chúa nói đó. Chúa mời gọi mỗi người hãy sống hết lòng đơn giản, đừng trang bị cho mình hai áo cũng như những chiếc áo lụa là gấm vóc … Hãy mặc lấy cho mình một chiếc áo thôi, còn mọi chuyện khác Chúa sẽ quan phòng và Chúa sẽ an bài.

Nhắc đến chuyện này, tôi cũng cảm thấy ngượng về chính bản thân mình. Có khi tôi cũng tự nghĩ rằng mình sống giản đơn, ít quần áo nhưng xem ra còn nhiều hơn bậc thầy của mình mấy bậc.

Tôi có một người thầy, phải nói rằng Thầy là mẫu gương cho sự thanh thoát, nhẹ nhàng từ “cấu hình” cho đến “hình thể”. Cấu hình của Thầy thật mỏng manh, mảnh mai… nhìn vào Thầy, ai ai cũng thấy được một sự hãm mình về chuyện ăn uống. Và thật là như thế ! Thầy giản đơn từ cách ăn cho đến kiểu mặc. Nhìn tới nhìn lui, Thầy chỉ có đúng 3 bộ đồ trong người chứ không tìm thấy hơn nữa.

Quả chăng, Thầy chính là người gần nhất để tôi soi rọi đời mình. Nhìn Thầy, có khi chợt nhận ra rằng mình còn vun vén hơn Thầy của mình nhiều.

Và hôm nay, bắt gặp trang Tin Mừng mà Thầy Giêsu nói về căn tính người môn đệ, tôi không còn giật mình nữa mà giật bắn cả mình và thót cả tim khi nhìn lại bản thân mình về vật chất. Có khi đã được nghe nhiều, nói nhiều, dạy nhiều nhưng những bài học đó cũng như lời mời gọi của Thầy bị tôi bỏ ngoài tai. Chính vì bỏ ngoài tai lời của Thầy Giêsu nên tôi cứ mãi miết lo lắng cho mình về sự đời. Nhưng, nhìn thực tế, Chúa có để cho ai phải đói, phải không có cơm ăn áo mặc đâu mà ta lại cứ mãi lăn tăn. Chính vì ham hố, chính vì thiếu niềm tin vào Thầy Giêsu để rồi ta cứ lăn tăn đi tìm, trang bị cho mình những thứ phù du, nay còn mai mất.

Ta sẽ mang theo được gì khi đi đến mộ phần ?

Cũng nghe nhiều nhưng mới đây, nghe một bác dược sĩ già đam mê âm nhạc đã diễn tả lòng mình qua ca khúc quen thuộc của cố nhạc sĩ họ Trịnh :

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày”

Tất cả cũng trở về cát bụi, tất cả cũng chỉ là phù vân để rồi ta cứ mãi chạy đi tìm và lấp đầy lòng ta cát bụi và phù vân.

Tạ ơn Chúa vì ngày hôm nay Chúa lại nhắc nhớ ta về thân phận con người, cách riêng về căn tính của người môn đệ.

Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta rũ bỏ tất cả những gì là vướng bận ta không trở thành người môn đệ chân chính. Xin cho ta có một tâm hồn trẻ bé để luôn luôn tín thác đời ta trong tay Chúa vậy.

Tác giả: Huệ Minh

THẾ GIỚI ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?

THẾ GIỚI ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Câu hỏi đặt ra không liên quan gì đến vấn đề chính trị, kinh tế,  quân sự  của thế giới , mà chủ yếu là suy tư về vấn đề luân lý và đạo đức ( moral & ethics) của thế giới hôm nay mà thôi

Thật vậy, những ai quan tâm đến luân lý , đạo đức thì phải ngao ngán trước thực  trạng suy đồi  nghiêm trọng về  cả hai mặt này  của thế giới hôm nay, đặc biệt là ở những quốc gia có truyền thống Kitô Giáo, như Ý , Đức, Pháp , Tây Ban Nha, Ái Nhĩ Lan ( Ireland) Anh Quốc,  Canada  và Hoa Kỳ. Đây là những quốc gia có đông người theo Kitô Giáo  ( Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo) nhưng nay lại sống phản Kitô giáo ( anti-Christianity) cách rõ nét  khi cho phép những thực hành vô luân vô đạo như  làm ngơ cho sách báo, phim ảnh  khiêu dâm  được tự do lưu hành, cho  li dị, phá thai và hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)

Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng xấu hổ cho những ai thành tâm muốn sống cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo và hãnh diện là tín hữu Kitô.(Christians)

Sở dĩ thế, vì  con người khác thú vật  nhờ  có đời sống tâm linh, có ý thức luân lý ,đạo đức,  khác biệt  với loài vật  chỉ có bản năng và hoàn toàn vô tri.Và đó là lý do tại sao vấn đề luân lý, vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra  riêng cho con người mà thôi.

Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, người ta phải đau buồn vì  các quốc gia  có truyền thống Kitô Giáo nói trên đang tiến nhanh, tiến mạnh   trên đường suy thoái đạo đức và luân lý,  khi họ làm ngơ –hay tệ hại hơn nữa-  là cho phép những thực hành  mà tự bản chất là phi luân, vô đạo,  như cho phép kỹ nghệ dâm ô ( pornography) tự do tung hoành, gây tác hại tinh thần cho giới trẻ và người lớn,  cho  phá  thai, li dị , và nay là  hôn nhân đồng tinh,  (same sex marriage) như một thách đố có tác dụng phá đổ nền tảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.

Gia đình -từ ngàn xưa-  là nên tảng của mọi xã hội con người, là hy vọng của mọi dân tộc, – và cách riêng- là  tương lai  của Giáo Hội. Gia đình chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi có người làm cha, làm mẹ, làm chồng làm vợ. Con cải phải có cha có mẹ thì mới  thực sự cảm nhận mình là con cái.

Vậy mà nền tảng gia đinh dựa trên những tương giao căn bản cần thiết nói trên đang bị các xã hội bệnh hoạn  trên đây phá đổ, khi họ cho  định nghĩa lại ý nghĩa và mục đích của hôn nhân để  cho phép hôn nhân đồng tính.

Điều này, trước hết,  hoàn toàn đi ngược lại mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ mệnh lệnh phải sinh sôi nẩy nở cho thật  nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. ( St 1: 28).

Đây là nên tảng luân lý, đạo đức và là mục đích của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ từ khi có con người trên mặt đát này.

Vậy mà nay các  xã hội bệnh hoạn  nói trên cho phép  hai người nam hay hai người nữ kết hôn, và gọi đó là hôn nhân như hôn nhân của một người nam và một người nữ từ xưa đến nay, thì làm sao chu toàn được mục đích nói trên của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa;  nếu các quốc gia có truyền thông Kito Giáo nói  trên  còn tin có Thiên Chúa là  Đấng tối cao, đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình  ?

Nếu tin có Thiên Chúa thì phải thi hành những gì Ngài mong muốn cho con người sống và làm để được chúc phúc ngay từ ở đời này trước khi được cứu độ để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.

Do đó, cho muc đích sống theo đường lối của Thiên Chúa, con người phải sống một đời sống luân lý và đạo đức, để phân biệt mình với những kẻ vô thần ( atheists), không tin có Thiên Chúa và luân lý phổ quát ( universal moral).

Liên can đến vấn đề hôn nhân đồng tính, nếu cha mẹ của những người đang tán thành hôn nhân đồng tính, cũng  là những người đồng tính,  thì làm sao sinh ra được họ,  để giờ đây họ nhắm mắt bịt tai  công nhận hôn nhân giữa hai người đồng tính ? cha mẹ của họ phải là một người nam và một người nữ kết hôn đúng nghĩa với nhau thì mới sinh ra họ, và xã hội con người ở khắp nơi mới tồn tại cho đến ngày nay.

Nay vì muốn chiều theo ý muốn ngang trái của một thiểu số người sinh ra với khuynh hướng bất thường về phái tính ( abnormally sexual tendency), người ta đã tán thành và cho phép hôn nhân đồng tính như một định chế tương đương với hôn nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, như thực trạng của xã hội loài người từ xưa đến nay.

Chúng ta không lên án những người sinh ra với khuynh hướng khác thường nói trên. Nhưng chúng ta không thể công nhận  việc công khai  sống chung của họ là  hôn nhân,  như đại đa số những người bình thường  khác , đã kết hôn cho mục đích duy trì nòi giống, và chu toàn trách nhiệm của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa,  là Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và đã se kết họ trong giao ước  hôn nhân để công tác với Chúa trong chương trình sáng tạo nhằm  có đông con người sinh ra trong trần thế này.

Chúa Kitô , khi xuống trần gian làm Con Người, cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ thật là Đức Trinh Nữ Maria, thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và có cha nuôi là Thánh Cả Giuse. Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse chắc chắn là những  người bình thường về mọi mặt như mọi con người khác.  Hai ông bà kết hôn vì phong tục tập quán của xã hội Do Thái và cũng vì thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa chọn cho Con Một của mình là Chúa Giê su- Kitô  sinh r a bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng trước mặt người đời, Mẹ Maria không thể có con mà không có chồng. Vì thế, Thánh Giuse đã được chọn để đóng vai người chồng của Mẹ Maria trước mặt người đời. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, hai ông bà đều là những người yêu mến đức đồng trinh và muốn tôn vinh Thiên Chúa với đời sống khiết tịnh vẹn toàn của mình.

Thánh gia thất Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh Giuse  là khuôn  mẫu cho mọi gia đình nhân loại. Gương mẫu cho mọi con cái , cho những người làm cha ,làm  chồng, làm  vợ  và làm  mẹ .Đây là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai được ơn gọi sống bậc hôn nhân để làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ để nuôi dạy con cái  là kết quả và là muc đích của hôn nhân thánh thiện theo kế hoạch của Thiên Chúa, được Chúa Giê su nâng lên hàng bí tích với lời dạy sau đây:

Để trả lời những người Biệt phái đến hỏi Chúa Giê su xem người ta có được phép li dị không , Chúa đáp: Các ông không đọc thấy điều này sao ? “Thuở ban đầu, Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : vì thế người  ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt . Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân li.” ( Mt 19: 4-6)

Trên đây là giáo huấn của Chúa Giê su mà Giáo Hội có bổn phận truyền dạy cho con cái mình  tôn trọng và thi hành để được cứu rỗi.Giáo huấn này không ai được phép  cắt nghĩa cách khác và thay đổi vì bất cứ lý do nào.

Mới đây, trong dịp tiếp kiến các Giám mục của Công Hòa Đô-mi-nícan  ngày 28 tháng 5 vừa qua , Đức Thánh Cha Phanxi cô đã nói với các giám mục như sau:

Chúng ta hãy tiếp tục phô bày vẻ đẹp của hôn nhân Kitô giáo : kết hôn trong Chúa là một hành động của đức tin và đức ái: qua đó người phối nhẫu với tự do ưng thuận, trở thành phương tiện chuyên chở  phép lành và ơn phúc của Thiên Chúa cho Giáo Hội và xã hội. ( Let us continue to present  the beauty of Christian matrimony : to marry in the Lord is an act of faith and love, in which the spouses- through their free consent , become a means of passing on the blessing and grace of God for the Church and society. ( L ‘Osservatore Romano , number 23, Friday , June 5, 2015)

Như thế, hôn nhân Kitô giáo không thể là hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ có khuynh hướng đồng tính được, mà phải là hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người có nam có nữ;  và cũng là truyền thống đã có từ bao thế hệ  qua trong mọi nền văn hóa, phong hóa của mọi dân tộc trên thế giới từ xưa đến nay.

Đây là vấn đề có liên quan mật thiết đến luân lý và đạo đức, là nền tảng của đời sống con người,  chứ không phải là vấn đề tôn trọng quyền sống của cá nhân  ai  như người ta đang nại ra để cho phép hôn nhân đồng tính.

Đó là vấn đề luân lý, đạo đức, vì luân lý phổ quát dạy mọi người là phái tính ( sexuality) chỉ tự nhiên giữa một người nam và một người nữ tự do kết hôn với nhau theo truyền thống và phong hóa của mọi dân tộc.

Dó đó, hai người nam hay hai người  nữ mà có liên hệ phái tính với nhau thì đây là điều trái tự nhiên ( unnatural) và vô luân ( immoral)

Tác giả Sách Lê vi đã lên án sự  phối hợp phái tính trái tự nhiên nói trên như sau:

khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm…” ( Lê vi 20: 13)

Như vậy, công nhận cho hai người đàn ông hay hai đàn bà kết hôn có nghĩa công nhận sự vô luân về phái tính;  hay nói khác đi, công nhận sự chung đụng xác thit giữa hai người nam hay hai người nữ  là  điều cũng tự nhiên như sự chung đụng của một người nam và một người nữ kết hôn trong mọi gia đình nhân loại từ xưa đến nay ?

Nếu thế thì những việc vô luân khác như thủ dâm ( masturbation) loạn dâm =loạn luân ( incest)  ấu dâm   ( child prostitution) và thú dâm (sodomy), thông dâm ( fornification)  ngoại tình ( adultery)…  đều không còn là những hành vi vô luân nữa, vì chúng đều xuát phát từ những khuynh hướng hay ước muốn vô trật tự và vô luân  ( inordinate, immoral))  của con người !, tương tự như huynh hướng đồng tính bất thường  mà người ta đang cho phép người có khuynh hướng này kết hôn, tức là công nhận việc ăn nằm của họ là không có gì ngăn trở về luân lý !!!

Đây rõ rệt là một suy thoái nghiêm trọng về luân lý hôn nhân, và luân lý phổ quát ( universal moral)  của các xã hội bệnh hoạn nói trên. Chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận loại  hôn nhân đồng tính này ,  vì nó vừa sai trái nặng về mặt  luân lý – và nghiêm trọng hơn nữa- là đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa về  ý nghĩa và mục đích của bí tích  hôn phối mà Giaó Hội có bổn phận bảo vệ và thi hành không chút nhân nhượng.

Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng đồng tính, nhưng không thể cho phép họ sống chung như vợ chồng được, vì việc sống chung này là điều trái tự nhiên và vô luân. Do đó, những ai đang sống trong tình trạng này thì không được đến  với hai  bí tích hòa giải và Thánh Thể, mặc dù họ vẫn có thể đến nhà thờ để cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ cùng với các giáo dân khác.

Sau hết, một điểm thắc mắc không thể bỏ qua là những đứa trẻ được các cặp hôn nhân đồng tình này nhận làm con nuôi, thì chúng sẽ nghĩ gì về việc chúng chỉ có hai bà mẹ hay hai người cha trong gia đình? Và gương xấu này sẽ tác hại  ra sao khi các trẻ đó lớn lên với hai người cha  hay hai người mẹ??? Nếu chúng cũng là những đứa trẻ sinh ra với khuynh hường tính dục khác thường như người nuôi dạy chúng, thì không nói làm chi. Những nếu chúng- mà đa số chắc chắn như vậy-  là những trẻ sinh ra với mọi khuynh hướng bình thường,  thì việc sống chung với những người bất bình thường kia  sẽ là một tai hại lớn cho chúng về mặt tình thần, tình cảm và luân lý. Như thế, những kẻ cho phép hôn nhân đồng tính sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về  những tai hại tinh thần, tình cảm và ý thức luân lý của các trẻ được nuôi dạy trong môi trường đồng tính.

Vây những kẻ đang nhắm mắt công nhân hôn nhân đồng tình sẽ trả lời thế nào về nan đề  nói trên, liên quan đến   các trẻ em được các người đồng tính nhận nuôi dạy trong các gia đình bất bình thường của họ ?

Tóm lại, định nghĩa lại hôn nhân để công nhận hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ là một suy thoái nặng nề về luân lý và đạo đức cần phải  quan tâm và lên tiếng trước thực trạng đáng buồn của thế giới tục hóa hiện nay.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở

“Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở”
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở.
Nhưng biết bao giờ,
Tôi mới được nói thẳng,
Những điều tôi ước mơ?”

(Thơ: Thích Nhất Hạnh – Phạm Duy phổ nhạc: Tâm Ca 1)

(Thư Galát 4: 18-20)

Tâm ca ư? Phải chăng là bài ca tâm-tình hát bằng cả con tim, đấy chứ gì! Vâng. Tim nào mà chẳng bảo: “Tôi vẫn sống”, “vẫn ăn” và “vẫn thở” hệt như lời của Lm Tiến Lộc, DCCT đã đàn hát trong đêm văn-nghệ bỏ túi nhân chuyến viếng thăm Gia-đình An Phong hôm 9.5.2015, chứ? Lời hát nào mà chẳng: “nói những điều tôi ước mơ” cũng rất nhiều!

Thế còn, những lời dưới đây thì sao:

“Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá.
Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Vâng. Tâm ca hay ca hát những tâm-tình của người nghệ sĩ từng hát ca hay viết nhạc vẫn là như thế. Còn, tâm-tình đầy ý-tứ lẫn ý-từ rất thi-phú của người thường ở đời thì sao? Thôi thì, xin mời bạn mời tôi, ta nghe thêm một lời kể về chuyện đời cũng đáng nể, như sau:

“Truyện, là truyện về hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos ở trời Tây, như sau.

Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.

Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..

Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.

Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.

Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.

Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.” (trích truyện kể do bạn bè gửi để kể cho nhau nghe đôi điều về cuộc đời, của con người.)

Truyện kể hoặc lời ca tiếng hát ở đời, lâu nay vẫn như thế. Nhưng, nếu kể về những chuyện nhà Đạo ở đây đó mà người nhà trời lâu nay vẫn gọi là chuyện thần-thông biến-hoá rất triết/thần thì, ôi thôi vẫn dài dòng vô số kể. Kể làm sao cho hết. Nói làm sao cho thông được chuyện thần-thông như thế được!

Thôi thì, hôm nay, bần đạo lại dám mời tôi/mời bạn ta đi vào khung trời mở rộng rất triết-thần để kể cho những những vấn-đề nghe rồi lại suy-tư/nghĩ ngợi đến nhức óc, rối bời một thời ở nhà Đạo cũng rất bạo. Truyện lan man, tản mạn không chỉ mỗi lý-luận hoặc tranh-luận đến đỏ mặt tía tai rất nhiều ngày, như những thứ và những sự được truyền-thông loan tải, như sau:

Truyện kể hôm nay gồm những mảng thông-tin lai rai, dài dài về nhiều thứ, trong đó có cả những những và những sự về cái-gọi-là “Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở”, ở cuộc đời đi Đạo, sau đây:

“Hôm 22/5/2015, truyền thông/báo đài đủ các loại có loan tải một tin tức từ châu Á, đã bảo rằng: “Trung Quốc lâu nay vẫn cứ bảo rằng: Tôn-giáo phải được tự-do không nên để mình bị ảnh-hưởng bởi các thế-lực bên ngoài. Đó là lời phát-biểu của vị Chủ Tịch Nước này yêu cầu các nhóm-hội/đoàn-thể các tôn-giáo hãy tuyên-thệ trung-thành với nhà nước.

Nói thế có nghĩa: tôn-giáo các loại phải nằm trong vòng ‘ảnh-hưởng’ của các bàn tay thuộc xã-hội chủ-nghĩa ở trong nước.

Được biết, Trung Quốc lâu nay vẫn nằm dưới sự thống-trị của Đáng Cộng-sản vô-thần và Bắc Kinh vẫn muốn tìm cách không-chế các tôn-giáo khác nhau để họ không thể phát-triển rộng rãi. Chính vì thế mà vị Chủ-tịch nước này, lại cứ tỏ-bày bằng lời lẽ cứng-rắn như sau:

“Chúng ta phải quản-lý tôn-giáo sự-vụ sao cho phù-hợp với luật-lệ của nước nhà ngõ hầu gắn bó với các nguyên-tắc độc-lập mà quản-lý các nhóm hội/đoàn-thể tôn-giáo theo sự đồng thuận của chúng ta… Mọi phần-tử trong nước cần phải cố-gắng không ngừng để tháp-nhập tôn-giáo vào với xã-hội vốn tuân theo chủ-nghĩa xã-hội, và như thế công-tác tôn-giáo vận của Đảng ta phải nắm vững là sẽ chiến-thắng trong chiếm-đoạt đầu óc cũng tâm-can của quần-chúng cho lợi-ích của Đảng…”(xem Sheila Liaugminas, MercatorNet 22/5/2015)

Vâng. Đối với các cụ và các vị còn sống dưới chế-độ Cộng-sản, thì ý-nghĩa của câu hát “Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở”, vẫn là như thế. Như thế, tức bảo rằng: mọi chuyện Đạo/đời đều phải tập-trung làm sao cho Đảng và nhà nước vẫn cứ ăn, cứ thở và cứ sống mãi trong lòng người, rất dân tộc.

Vâng. Với các vị và các cụ sống ở đời không cần nhờ cũng chẳng ỷ vào Đảng này đảng nọ, lại sẽ khác. Khác thế nào, ư? Đây, lại xin mời bà con mình nghe thêm đôi điều từ một “mảng” không-gian và thời gian, cũng rất khác, ở trời Tây, như sau:

“Các Giám-mục phải sống nhạy bén với Giáo-hội, tức tỏ ra quả-cảm trong việc phản-bác các ý-đồ mang tính-chất vănminh/văn-hoá xúc-phạm đến phẩm-cách con người. Đồng thời tin-tưởng vào các giáo-dân để họ có thể làm tròn trách-vụ được Chúa gọi mời thực-thi cho thế-giới. Trên đây, là lời phát-biểu của Đức Giáo-Tông Phanxicô nói với các Giám-mục nước Ý hôm 18/5/2015 vào lúc khai-mạc buổi họp toàn-thể hàng năm ở Vaticăng.

Nhạy-bén với Giáo-hội còn có nghĩa: tự-tạo cho mình động-thái từ-bi, khiêm-tốn, biết xót thương  cùng sự khôn-ngoan rất cụ-thể của Đức Kitô. Một phần của tính bén nhạy đối với Giáo-hội, còn là củng-cố vai-trò rất thiết-yếu của người giáo-dân những muốn nhận-lãnh trách-nhiệm được giao cho họ. Trên thực-tế, các giáo-dân từng được đào-tạo thành Kitô-hữu thực-thụ không cần sự lèo-lái của Giám-mục hoặc “Đức ông” hoặc hàng giáo-sĩ để thực-thi trọng-trách vốn dĩ trao cho họ ở bất cứ lãnh-vực nào cũng thế, như: chính-trị, kinh-tế, xã-hội đến luật-lệ. Thay vào đó, họ chỉ cần các Giám-quản mang tính-chất Mục-tử mà thôi.

Vào thời-điểm giai-đoạn lịch-sử khi mọi người chúng ta cứ bị thông-tin chuyên gây nản-chí, nản lòng vẫn vây quanh, hoặc hoàn-cảnh quốc-tế cũng như nội-địa khiến ta thấy sầu buồn/khổ-nãovốn dĩ không hỗ-trợ ơn gọi làm giáo-dân nhất là vào lúc cả giáo-dân lẫn các vị chủ-quản giáo-phậ phải đi người lại cơn nước ròng đang chảy xiết…” (xem Cindy Wooden, Call it as you see it, leave laity to do their job, pope tells bishops, The Catholic Weekly, 24/5/2015, tr 9, 29)

Vâng. Tôi đây với tư-cách là giáo-dân ở địa-phận nhà “vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở” như bao giờ. Nhưng hỏi rằng, lối sống ấy có là sống theo qui-cách như Đức Giáo Tông Phanxicô vừa nói hay không. Đó mới là vấn đề.

Vấn-đề của thành-viên “Nước Trời” ngày hôm nay, có thể là như thế, tức trong tình-trạng ba chìm bẩy nổi dù vẫn thở.

Vấn-đề của nhà Đạo hôm nay, vẫn cứ thế, tức như thể động-thái của ông cụ Vũ Như Cẫn, tức vẫn như cũ, suốt từ ngày Công Đồng Vatican kết thúc đến 50 năm sau.

Vấn-đề như của ông Vũ Như Cẫn nơi giáo-dân ở huyện nhà và huyện nào đó ở các nơi vẫn là chuyện cần đặt lại, không cần phải mở thêm một Công Đồng Vatican thứ 3 hoiặc thứ 4 nữa mà làm gì.

Vấn-đề của giáo-dân hay giáo-sĩ dưới sức đè nén của hàng giáo sĩ lẫn giáo-phẩm vẫn còn đó nỗi buồn ,rất thiên thu. Buồn như câu hát của nhà thơ và người viết nhạc vẫn từng bảo:

“Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Vâng. Không phải thế đâu. Không phải “Biết bao giờ” tôi mới được “nói những điều tôi ước mơ, ước mớ” như các nghệ-sĩ/thơ văn vẫn cứ nghĩ và cứ làm…

Vâng. Không phải thế đâu. Không phải “Biết bao giờ, tôi hay bạn mới nói được những điều mình mơ ước như thế đâu! Bằng chứng ư? Thì đây, một ý-nghĩ cùng tư-tưởng của người dân bình thường ở huyện đã từng viết và nói lên ước mơ nhỏ của mình qua câu truyện kể như sau:

“Truyện rằng:

Vợ của anh  đã qua đời được 4 năm, anh  không có cách nào có thể chăm sóc được cha mẹ nên cả thấy chán nản và mệt mỏi.

Một buổi tối khi anh trở về nhà, vì quá mệt mỏi nên anh chỉ chào hỏi đứa con ngắn gọn và không muốn ăn cơm, cởi xong bộ complet liệng lên giường nằm. Đúng lúc đó, ầm một tiếng, tô mì tôm làm dơ hết mền và ga trải giường, hóa ra trong mền có một tô mì tôm. “Cái thằng ranh con này”, anh ta liền vớ một chiếc móc quần áo chạy ra ngoài đánh cho đứa con trai đang ngồi chơi một trận

Đứa con trai vừa khóc vừa nói:
– Cơm sáng đã ăn hết rồi, đến tối con chưa thấy cha về, thấy đói bụng nên đi tìm đồ ăn, con tìm thấy mì tôm trong tủ bếp, muốn nấu mì tôm ăn nhưng cha dặn không được tùy tiện dùng bếp gas nên con lấy nước nóng từ trong vòi tắm pha mì tôm: con pha một tô ăn, còn một tô để phần cha. Sợ mì tôm bị nguội nên con mang vào giường ủ trong mền đợi cha về ăn cho nóng. Con mải chơi đồ chơi mới mượn được của bạn nên khi cha về đã quên không nói với cha.

Anh không muốn đứa con thấy mình khóc nên vội vã vào nhà vệ sinh, mở vòi nước và khóc. Khi đã ổn định tinh thần, anh mở cửa phòng con trai và nhìn thấy đứa con trai trong bộ quần áo ngủ, nước mắt giàn giụa và tay đang cầm bức hình của mẹ nó.

Từ đó trở đi, anh chăm sóc con trai tận tâm hơn, chu đáo hơn. Khi con trai mới vào học cấp I, anh đánh con một trận nữa. Hôm đó, thầy giáo gọi điện về nhà báo con anh không đi học. Anh lập tức xin nghỉ về nhà, chạy đi tìm con khắp nơi. Sau vài tiếng đồng hồ đi tìm anh đến một cửa hàng bán văn phòng phẩm nhìn thấy đứa con đang đứng trước một tiệm đồ chơi điện tử, thế là anh tức giận đánh con, đứa con không một lời giải thích, chỉ nói: “Con xin lỗi”.

Một năm sau, anh nhận được điện thoại từ bưu điện, nói con trai anh đã bỏ một loạt các bức thư không viết địa chỉ vào hộp thư. Cuối năm là lúc bưu điện bận rộn nhất nên điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho họ. Anh lập tức đến bưu điện, mang những bức thư đó về ném trước mặt con trai nói:

– Sao mày lại làm những trò tai quái thế này hả?
Thằng bé vừa khóc vừa trả lời:
– Đây là những bức thư con gửi cho mẹ.
Mắt người cha cay cay hỏi con:
– Tại sao một lúc gửi nhiều thư như vậy?
Đứa con nói:
– Trước đây con còn thấp nên không bỏ thư vào hộp thư được, bây giờ con lớn có thể bỏ thư vào được rồi nên con mang gửi hết những bức thư con viết từ trước đến giờ.
Người cha nghe xong, tâm trạng rối bời không biết nói gì với con. Một lát sau người cha nói:
– Mẹ con giờ ở trên thiên đàng, sau này con viết thư xong, hãy đốt nó đi thì có thể gửi thư cho mẹ được đấy.
Đợi đứa con ngủ, anh mở những bức thư đó xem đứa con muốn nói gì với mẹ, trong đó có một bức thư khiến anh vô cùng xúc động.
“Mẹ thân yêu của con: Con nhớ mẹ lắm! Mẹ ơi, hôm nay ở trường con có một tiết mục mẹ cùng con biểu diễn, nhưng vì con không có mẹ nên con không tham gia. Con cũng không nói cho cha biết vì sợ cha sẽ nhớ mẹ. Thế là cha đi khắp nơi tìm con, nhưng con muốn cha nhìn thấy con giống như đang đi chơi nên con đã cố ý đứng trước một tiệm đồ chơi điện tử. Tuy cha đã rầy con nhưng con đã kiên quyết không nói cho cha biết vì sao. Mẹ ơi, con ngày nào cũng thấy cha đứng trước ảnh mẹ ngắm rất lâu, con nghĩ cha cũng như con rất nhớ mẹ!

Mẹ ơi, con đã sắp quên giọng nói của mẹ rồi, con xin mẹ trong giấc mơ của con hãy để con được gặp mẹ một lần được không, để con nhìn thấy khuôn mặt của mẹ, nghe thấy giọng nói của mẹ, được không mẹ?
Con nghe mọi người ta nói nếu ôm bức ảnh của người mình nhớ vào lòng rồi đi ngủ thì sẽ mơ thấy người đó, nhưng mà mẹ ơi, vì sao con tối nào cũng làm như thế mà trong giấc mơ của con vẫn không gặp được mẹ?”
Đọc xong bức thư, người cha òa khóc Anh không ngừng tự trách mình: phải làm sao mới có thể lấp được khoảng trống mà người vợ để lại đây?

Chúng ta là những người cha người mẹ khi đã mang cuộc sống của đứa con đến với thế giới này có nghĩa là gánh trên vai trách nhiệm vô cùng to lớn. Khi đã là một người mẹ, không nên tăng ca quá nhiều; khi đã là một người cha, không nên uống quá nhiều rượu, đừng nên hút nhiều thuốc, phải chăm sóc tốt cho bản thân mới có thể yêu thương con hết lòng; tuyệt đối đừng nên vì muốn kiếm nhiều tiền mà hủy hoại sức khỏe của mình. Không có sức khỏe thì những danh lợi kia có nghĩa lý gì. Và cũng đừng nghĩ rằng đợi đến khi cha mẹ có nhiều tiền thì sẽ như thế này như thế kia: Nào ai biết sau này chuyện gì sẽ xảy ra, có thể sau một giây mọi chuyện đã khác?!

Những người cha người mẹ xin đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà dễ dàng ly hôn. Vì đau thương lớn nhất sau sự đổ vỡ đó không ai hết mà chính là thuộc về đứa con. Bạn đã kết hôn hay chưa kết hôn thì hãy nhớ một điều, xin hãy quý trọng “nó”. (Truyện kể lại cũng được trích từ mạng vi-tính rất vi-sinh)

Xin “những người cha người mẹ đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà dễ-dàng ly-hôn…” Đó, có thể là câu nói của người đời sống ở đời người. Với nhà Đạo, lại cũng có những câu rất tương tự của bậc thánh-hiền, bấy lâu nay cũng kêu gọi một lời tương-tự, rằng:

“Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều tốt,

miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp,

chứ không phải chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em.19

Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi,

mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa

cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em,20

tôi ước ao được có mặt giữa anh em lúc này,

để lựa lời nói sao cho thích hợp,

vì tôi thấy khó xử với anh em quá!

(Thư Galát 4: 18-20)

“Lựa lời nói sao cho thích-hợp”, lời khuyên răn và cũng là lời kêu gọi gửi đến mọi người rất hôm nay. Bởi, lời nói chính là nguyên-do của mọi thứ chuyện trong đời. Kể cả những lời thơ và ý-nhạc được nhà thơ cũng như người viết nhạc, cùng nhau hợp tác nhau trong bài hát ở trên, cứ hát hoài hát mãi, rất như sau:

“Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá.
Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn, mời tôi , ta lại nghĩ-suy những điều được trích-dẫn vẫn ở trên và ở trong mọi giòng chảy thơ văn, nơi đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn hát

Những lời ca tương-tự

ở cuộc sống rất đời thường,

nơi huyện nhà thân-thương

cũng rất Đạo.