TÔI LÀ AI MÀ PHÁN XÉT

TÔI LÀ AI MÀ PHÁN XÉT

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Có lẽ câu được trích nhiều nhất của Giáo hoàng Phanxicô là khi ngài trả lời câu hỏi trực diện về một vấn đề luân lý đặc biệt nghiêm trọng và bất định.  Câu trả lời lừng danh gây nhiều tranh cãi của ngài là: Tôi là ai mà phán xét?

Dù nhận định này thường được xem là nói đùa và không nghiêm trọng lắm, nhưng thực sự, đây là một lời có căn cứ vững vàng.  Dường như, chính Chúa Giêsu cũng nói một điều về căn bản là tương tự. Ví dụ như, khi Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô, Ngài đã nói một chuyện căn bản: Ta không phán xét ai.

Nếu Tin mừng theo thánh Gioan là khả tín, thì như thế Chúa Giêsu không phán xét ai.  Thiên Chúa không phán xét ai.  Nhưng phải xét theo bối cảnh.  Điều này không có nghĩa là không có bất kỳ phán xét luân lý nào, và không có nghĩa là hành động của chúng ta không cần quan tâm đến sự kiểm soát đạo đức.  Có phán xét, nhưng không phải là phán xét tưởng tượng trong tâm thức chung.  Theo những gì Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin mừng thánh Gioan, thì phán xét như thế này:

Ánh sáng, chân lý, và tinh thần Thiên Chúa đến trong thế giới.  Chúng ta phán xét bản thân dựa theo cách chúng ta sống ra sao trước những sự này: Ánh sáng Thiên Chúa đã đến thế gian, nhưng chúng ta chọn sống trong bóng tối.  Đó là quyết định của chúng ta, phán xét của chúng ta.  Chân lý Thiên Chúa đã được mặc khải, nhưng chúng ta chọn sống trong sai trái, trong dối trá.  Đó là quyết định của chúng ta, phán xét của chúng ta.  Và tinh thần của Thiên Chúa đã đến thế gian, nhưng chúng ta chọn sống ngoài tinh thần Chúa, và ở lại trong một tinh thần khác.  Đó cũng là quyết định của chúng ta, phán xét của chúng ta.  Thiên Chúa không phán xét ai.  Còn chúng ta phán xét nhau.  Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa không lên án ai, nhưng chúng ta lại chọn lên án nhau.  Và Thiên Chúa không trừng phạt ai, nhưng chúng ta chọn trừng phạt nhau.  Phán xét luân lý tiêu cực là thứ chúng ta tự áp đặt cho mình.  Có lẽ điều này hơi mơ hồ trừu tượng, nhưng không phải vậy.  Chúng ta biết điều này trong cuộc sống, chúng ta cảm nhận trong mình cái nhãn cho những hành động của chúng ta, một ví dụ là: Chúng ta phán xét bản thân nhờ Thần Khí như thế nào:

Tinh thần của Thiên Chúa, Thần Khí, không phải là một sự trừu tượng và không thể nắm bắt.  Thánh Phaolô, trong thư gởi tín hữu Galat, đã mô tả Thần Khí bằng những khái niệm rất rõ ràng, để không bị thói tự lập luận làm cho mơ hồ và nhập nhằng.  Ngài mô tả và xác định Thần Khí như thế nào?

Để làm rõ mọi sự, trước hết, thánh tông đồ đưa ra một tương phản bằng cách nói những sự gì không phải là Thần Khí.  Thánh Phaolô nói rằng, tinh thần của Thiên Chúa, không phải là tinh thần chìu theo bản thân, ham mê nhục dục, ghen tỵ, kình địch, chống đối, nóng giận, sinh sự, say sưa, bè phái.  Bất kỳ lúc nào, chúng ta nuôi dưỡng tính cách này trong đời mình, thì chúng ta đừng tự lừa dối bản thân rằng mình đang sống trong tinh thần Thiên Chúa, bất chấp chúng ta có giữ đạo thường xuyên, sốt sắng, và thành khẩn đến đâu chăng nữa.  Thánh Phaolô nói, Thần Khí là tinh thần nhân đạo, vui mừng, hòa bình, nhẫn nại, tử tế, tốt lành, khả tín, ân cần, và khiết tịnh.  Chỉ khi sống trong các nhân đức này, thì chúng ta mới sống trong tinh thần Thiên Chúa.

Vậy nên, phán xét là như thế này: Tinh thần của Thiên Chúa (nhân đạo, vui mừng, hòa bình, nhẫn nại, tử tế, tốt lành, khả tín, ân cần, và khiết tịnh) đã được bày tỏ cho biết.  Chúng ta có thể chọn sống trong những nhân đức này hay có thể chọn sống trong những thứ đối lập (chìu theo bản thân, ham mê nhục dục, ghen tỵ, kình địch, chống đối, nóng giận, sinh sự, say sưa, bè phái.)  Một chọn lựa dẫn chúng ta sống với Thiên Chúa, và chọn lựa kia dẫn chúng ta xa khỏi Chúa.  Và chọn lựa đó là của chúng ta, chứ không phải từ bên ngoài.  Chúng ta phán xét chính mình.  Thiên Chúa không phán xét ai.  Thiên Chúa không cần phải phán xét.

Khi xem xét từ quan điểm này, chúng ta làm rõ được một số hiểu lầm gây rối loạn trong tâm thức các tín hữu cũng như trong tâm thức của những người chỉ trích.  Chúng ta thường nghe lời chỉ trích này: Nếu Thiên Chúa là toàn thiện, toàn mến, và hoàn toàn thương xót, thì làm sao Thiên Chúa có thể kết án con người đời đời trong hỏa ngục?  Một câu hỏi có căn cứ, dù không thực sự đủ suy tư.  Tại sao?  Bởi Thiên Chúa không phán xét ai, Thiên Chúa không trừng phạt ai.  Thiên Chúa không kết án ai xuống hỏa ngục.  Những điều này là chúng ta gây ra cho mình.  Chúng ta tự phán xét mình, tự trừng phạt mình, và tự đẩy mình vào đủ loại hỏa ngục bất kỳ lúc nào chúng ta chọn không sống trong ánh sáng, chân lý và tinh thần Thiên Chúa.  Và phán xét này là do chúng ta tự gây ra, trừng phạt này là do tay chúng ta, và lửa hỏa ngục là bởi chúng ta mà ra.

Chúng ta rút được một số bài học từ việc này.  Trước hết, như chúng ta vừa thấy, sự thật Thiên Chúa không phán xét ai, giúp cho chúng ta làm rõ biện thần luận của chúng ta, nghĩa là giúp giảm đi tất cả những hiểu lầm quanh lòng thương xót Thiên Chúa, và xóa bỏ lời cáo buộc rằng một Thiên Chúa hoàn toàn thương xót lại có thể kết án con người đời đời trong hỏa ngục.  Và hơn nữa, đây là một thách thức mạnh mẽ đòi chúng ta phải bớt phán xét đi, hãy để lúa và cỏ lùng tự phân loại theo thời gian, để ánh sáng phán quyết bóng tối, để sự thật phán xét sai lầm, và như giáo hoàng Phanxicô, chúng ta hãy bớt vội vàng phán xét nhân danh Thiên Chúa, và hãy biết nói rằng: “Tôi là ai mà phán xét?”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

NGHE TIẾNG CHÚA NÓI

NGHE TIẾNG CHÚA NÓI

Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh.  Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.

Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của chính mình.  Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà thờ cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy.  Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.

Nghe là một nghệ thuật không dễ.  Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian.  Phải nghe nhiều lần mới quen.  Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai.  Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ.  Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị.  Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này.  Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.

Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó.  Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi.  Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình.  Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt.  Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó.  Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.

Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này.

Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”

Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?”

Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống.  Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”

Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.”

Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).

Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi.  Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu.  Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư.

Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo.

Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều.  Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.

Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được.  Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ.  Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa.  Họ nói bằng ánh mắt.  Họ hiểu bằng tâm tư.  Họ ngỏ ý bằng một chút hờn.  Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận.  Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh.  Như vậy, ngôn ngữ của Chúa cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu.  Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở.  Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.

Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu tố quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy.  Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài.  Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.

Không Quen Ngôn Ngữ

Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan.  Không biết ai gọi.  Không biết từ đâu đến.  Một lúc nào đó bất ngờ có tiếng gọi tên mình.  Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy.  Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn.  Tên trộm nào cũng ưa bóng tối.  Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi.  Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ.  Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn.

Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ lẽo đẽo theo đàn chiên để sống nhờ.  Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.

Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy.  Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm.  Hạng chiên không bao giờ gần chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa.  Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm.  Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái.

Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn

Loại thứ hai này khá hơn.  Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi.  Chúng sẽ suy nghĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định.  Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không.  Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi.  Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi.  Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường.  Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái độ tri thức dứt khoát.

Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy.  Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm.  Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi.  Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng.  Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường.  Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi.

Nhận Ra Tiếng Chủ

Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này.  Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm.  Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an.  Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối.  Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi.  Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được.  một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.

Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta.  Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi.  Họ có những quyết định chính xác, đúng.  Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.

Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội.  Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi.  Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã.  Giữ một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.

Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trọng, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm.  Các tu sĩ theo luật, hàng năm phải tĩnh tâm.

Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn.  Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lân tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện.  Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an.  Khi cuộc sống đi sai đường sẽ dễ nhận ra.

Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng, vì thế ai cũng cần.  Nhiều người không nhận định rõ nên đếm xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác và tự cho mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.

Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.

Tĩnh tâm không phải là chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe.  Tiếng Chúa có sức mạnh.  Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như một thứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.

Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện.  Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện.

“Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23).

“Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12).

Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện.

“Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36)

Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen.  Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu.  Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.

Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không?

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

LÊN TRỜI CÙNG MẸ

LÊN TRỜI CÙNG MẸ

Kh 11, 19a; 12, 1-6a, 10ab; Tv 44, 10bc. 11. 12ab. 16; 1 Cr 15, 20-26; Lc 1, 39-56

Trở về với tuổi thơ tôi vẫn nhớ cái trò chơi “thiên đàng hỏa ngục”. Chơi cái trò con nít này, tôi và lũ bạn đọc cái câu này :

Thiên đàng hỏa ngục hai bên

Ai khôn thì dại, ai dại thì khôn

Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha

Đọc kinh cầu nguyện giỗ cha linh hồn

Linh hồn phải nhớ linh hồn…

Đến khi gần chết được lên thiên đàng!

Câu vè đó như muốn nói lên trong tâm thức của con người sau khi chết là có thiên đàng và hỏa ngục. Giản đơn là khôn thì “khi gần chết” đã được lên thiên đàng rồi.

Thiên đàng, hình ảnh được sách Khải Huyền kể lại : Đền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con. Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội bảy triều thiên. Đuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh con ra, thì nuốt lấy đứa trẻ. Bà sinh được một con trai, Đấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận ngai của Người. Còn Bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi. Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”.

Hình ảnh người phụ nữ mà sách Khải Huyền nói đến đó chính là hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria. Thiên Chúa đã dọn sẵn hay như đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ đó là : “Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi”.

Nơi Bà ở chính là Thiên Đàng. Và rồi Thiên Đàng đó được Chúa Giêsu trong hành trình rao giảng của mình đã nhắc đến.

Thiên Đàng vĩnh cửu đó được Chúa Giêsu gợi lên với hình ảnh rất dễ thương là như thửa ruộng có chứa viên ngọc quý, Thiên Đàng phải đi vào bằng cửa hẹp … hay nói một cách dễ thương như một tiệc cưới cho dễ hiểu. Tiệc Cưới Nước Trời, tiệc cưới Con Chiên đó được Chúa Giêsu cũng nhắc đến nhiều qua hình ảnh người mời tiệc, qua hình ảnh của anh chàng không mặc cái áo dự tiệc cưới … và có lẽ gần gụi nhất, dễ nhớ nhất đó chính là 10 cô trinh nữ trong câu chuyện chờ chàng rể đến.

10 cô trong câu chuyện rất dễ thương đó muốn nhắc nhớ mỗi người chúng ta là tỉnh thức, là khôn ngoan, là chờ đợi … Dĩ nhiên khi có đầy đủ dầu để thắp đèn thì khi chàng rể đến thì vào dự tiệc cưới Con Chiên.

Đức Maria, có thể nói rằng một trinh nữ khôn hơn các trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn 10 trinh nữ nữa. Đơn giản và dễ hiểu và dễ thấy nhất đó chính là sự khôn ngoan lựa chọn cho mình một cung cách sống, lựa chọn cho mình một thái độ sống.

Dù là Mẹ của Đấng Cứu Độ trần gian nhưng Mẹ rất tỉnh để nhận ra đó là ơn huệ của Thiên Chúa dành cho Mẹ chứ không phải có cái ơn đó rồi Mẹ huênh hoang, mẹ cao ngạo. Từ lời nói đến thái độ sống, ta nhận nơi Mẹ sự khiêm nhu tột đỉnh.

Biết chị mình có thai sắp đến ngày sinh nở nhưng rồi Maria vượt khó để chia sẻ niềm vui Tin Mừng với gia đình người chị họ. Thái độ khiêm nhường, yêu thương mà ta bắt gặp rõ nét nhất đó chính là lời công bố của Mẹ :  “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời”.

Lời kinh của Mẹ xem ra đơn giản, nhẹ nhàng nhưng thật sự để sống như những gì Mẹ nói, Mẹ dạy không phải là chuyện đơn giản.

Không đơn giản bởi lẽ quá giản đơn là con người vẫn thường cậy vào sức mình đang có, cậy vào những gì mình có như tiền tài, vật chất, quyền lực … Mẹ không như người đời nghĩ và tưởng : “Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ”.

Tuyệt vời ! Tuyệt vời trong lối khiêm hạ, cách khiêm hạ của Mẹ. Chính khi Mẹ khiêm hạ, Mẹ để cho mình ra trống rỗng để Thiên Chúa lấp đầy, Thiên Chúa quan phòng cho đời Mẹ là Mẹ an tâm.

Thử hỏi cuộc đời của ta, bao lần ta nói ta khiêm nhường, ta khiêm hạ đó nhưng thực tế của cuộc sống, ta có mở lòng ra, ta có “khoét” cái con người cố hữu của ta, con người tự cao tự đại của ta để Thiên Chúa lấp đầy trong ta hay không ?

Bài học khiêm hạ vẫn là bài học khó cho mỗi người chúng ta. Chỉ có khiêm hạ và đặt cuộc đời mình vào lòng bàn tay của Thiên Chúa thì ta mới được hưởng cái phúc Thiên Đàng mà Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.

Nhiều khi trong cuộc sống, ta khôn theo kiểu người đời chứ không phải khôn ngoan theo kiểu con cái Thiên Chúa. Khôn theo kiểu con cái Thiên Chúa không phải như khôn theo kiểu người đời.

Cuộc đời của con người, như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói như chỉ là quán trọ. Mà thật là như thế bởi lẽ con người của chúng ta dù có kéo dài cỡ nào đi chăng nữa nhưng đến khi Thiên Chúa khép cuộc đời của chúng ta lại thì chúng ta cũng đành phải chấp nhận hay đón nhận thực tế xem ra phũ phàng của phận người.

Cả đời ky cóp, chắt chiu của cải vật chất nhưng khi nhắm mắt không được lên trời như Mẹ thì quả là quá uổng và luống công vô ích.

Con người rồi cũng phải đến ngưỡng cửa của cái chết nhưng với người Kitô hữu thì chết nhưng rồi sẽ sống lại để hưởng tôn nhan Chúa là Thiên Đàng như Đức Mẹ được Thiên Chúa cho hưởng. Thánh Phaolô vừa nhắc nhớ chúng ta : Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Đức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế.

Mỗi người, rồi cũng theo thứ tự của mình là cũng sẽ phải chết nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay chúng ta có được một chỗ trong Thiên Đàng hay không mới là chuyện quan trọng.

Khổ một nỗi là nhiều khi phù phiếm trần gian, bả phù hoa của thế gian làm cho lòng ta trở ra khôn theo kiểu thế gian là ta cứ bám víu vào thế gian mà quên đi quê hương của ta ở trên Trời, ở Thiên Đàng. Và như vậy, ta lại phải xin Chúa cho ta ơn để ta nhận ra Thiên Đàng mà ta phải theo đuổi, cùng đích của đời ta.

Và, muốn vào Thiên Đàng, muốn lên trời cùng Mẹ. Muốn hưởng hồn và xác lên Trời như Đức Mẹ thì không có cách nào khác, con đường nào khác là khiêm hạ đặt đời mình trong bàn tay Thiên Chúa như Mẹ. Xin cho ta luôn luôn mặc lấy con người khiêm hạ như Mẹ Maria để sau này chúng ta cùng được Mẹ hưởng Thiên Đàng như Chúa hứa.

Tác giả: Huệ Minh

CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA

CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn?  Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình.  Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.

Tình yêu kêu gọi tình yêu.  Tình yêu đáp trả tình yêu.  Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.

Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ.  Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình.  Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi.  Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.

Tác động thứ nhất: sự vội vã.

Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp.  Cũng không phải là nôn nóng lo âu.  Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái.  Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả.  Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi.  Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương.  Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi.  Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.

Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn.

Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn.  Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời.  Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình.  Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ.  Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn.  Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu.  Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua.  Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu.  Trong tay những thi nhân anh tài.  Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.

Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ.

Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui.  Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave.  Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ.  Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc.  Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương.  Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.

Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ.

Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động.  Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể.  Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.

Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.

Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tu là buông bỏ hay hoán chuyển?

Tu là buông b hay hoán chuyn?

Một bữa nọ, hai thầy trò cao tăng ngồi nói chuyện với nhau:

Đệ tử: Thưa thầy, đạo Phật khuyên người ta buông bỏ mọi thứ đúng không?

Sư phụ: Không đúng!

Đệ tử: Rõ ràng có câu “buông bỏ tất cả” đấy thôi?

Sư phụ: “Buông bỏ tất cả” để làm gì?

Đệ tử: Đúng thế, đệ tử cũng thấy rất nghi ngờ! Đệ tử thấy Phật giáo luôn nhìn vấn đề tiêu cực.

Nhiều người hỏi đệ tử: “Nếu mọi sự đều buông bỏ thì lấy đâu ra tiền? Quần áo?

Mọi người đều không làm việc thì thế giới này sao có thể tồn tại?”

Sư phụ: Mọi sự buông bỏ thì dẫn đến sụp đổ, cái gì cũng không buông bỏ thì cũng dẫn đến sụp đổ.

Đệ tử: Như vậy phải làm thế nào?

Sư phụ: Thay thế và hoán chuyển

Đệ tử: Nhờ thầy chỉ rõ cho con!

Sư phụ: Con có thể kêu một người ăn mày cam tâm cho con số tiền đang nắm chặt trong tay họ không?

Đệ tử: Không thể được.

Sư phụ: Con có thể dùng hòn sỏi đổi lấy số tiền trong tay người ăn mày không?

Đệ tử: Con nghĩ không được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì tiền đáng giá hơn.

Sư phụ: Vậy nếu dùng vàng để đổi thì sao?

Đệ tử: Vậy thì được.

Sư phụ: Tại sao?

Đệ tử: Vì vàng đáng giá hơn.

Sư phụ: Vì thế, cách buông bỏ đơn giản nhất chính là hoán chuyển.

Nguyên nhân khiến người ta không buông bỏ là vì không giành được thứ tốt hơn.

Dùng thức ăn chay thay cho thức ăn mặn, con sẽ buông bỏ được con dao mổ;

dùng bố thí thay cho giành giật, con sẽ buông bỏ được lòng tham;

dùng tín ngưỡng thay cho hư vô, con sẽ buông bỏ được nỗi trống rỗng;

dùng trí tuệ thay cho ngu dốt, con sẽ buông bỏ được cố chấp;

dùng chánh niệm thay cho tạp niệm, con sẽ buông bỏ được ngông cuồng;

dùng nhẫn nại thay cho báo thù, con sẽ buông bỏ được giận dữ;

dùng yêu thương thay cho tham lam, con sẽ buông bỏ được.. đau tim.

Tu hành không phải là buông bỏ, mà là để hiểu lẽ hoán chuyển.

THƯ GỬI MẸ LÊN TRỜI

THƯ GỬI MẸ LÊN TRỜI

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Mẹ Maria kính yêu,

Việc Mẹ được đặc ân lên trời cả hồn và xác là biến cố trọng đại và ý nghĩa cho toàn thể nhân loại. Trọng đại vì đó là phần thưởng tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã dành riêng cho Mẹ; ý nghĩa vì Mẹ là người khởi đầu của Hội Thánh viên mãn, là niềm vui và hy vọng lớn lao cho dân thánh trong cuộc lữ thứ trần gian.  Trên quê trời, Mẹ tiếp tục mời gọi chúng con bước theo Thầy Giêsu để mai này chúng con cũng được cùng Mẹ hưởng niềm vui Thiên quốc.  Hôm nay (15/08) cả Giáo Hội chung chia niềm vui này với Mẹ để tán dương Thiên Chúa!

Còn nhớ ngày sứ thần truyền tin, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” để trở thành Mẹ Thiên Chúa.  Mẹ chấp nhận thánh ý để cùng với Con của Mẹ lao tác trong chương trình cứu độ.  Chiêm ngắm hành trình Mẹ theo chân Thầy Giêsu, Con Mẹ, ai ai cũng nhận ra tình yêu và lòng tín thác tuyệt đối mà Mẹ dành cho Thiên Chúa.  Đúng như lời hát du dương của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi!”  Không vui mừng hớn hở sao được bởi Mẹ thật diễm phúc vì hoa trái trong lòng Mẹ là Đấng cứu độ trần gian.  Cả cuộc đời, Mẹ luôn ngân nga tiếng hát ấy với niềm vui thiêng liêng và lòng xác tín thẳm sâu!

Trên dương thế, Mẹ chẳng xa rời Đức Giêsu.  Mẹ và Thầy Giêsu như hình với bóng.  Lúc nào Mẹ cũng quảng đại cộng tác trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa.  Có thể nói Mẹ là đóa hoa hướng dương luôn hướng về ánh Mặt Trời.  Đóa hoa ấy luôn đầy tràn ân phúc vì Đức Chúa ở cùng Mẹ.  Nhờ đó, Thiên Chúa ban cho Mẹ vô nhiễm khi hoài thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm mẹ và ơn thăng thiên cả xác lẫn hồn.  Mẹ cũng được gìn giữ khỏi bị hư nát trong mồ giống như Con của Mẹ.  Chúng con hãnh diện lắm, mừng vui lắm khi Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác!  Giờ đây Mẹ biết không, chúng con sung sướng chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ chuyển cầu cho chúng con trước nhan thánh Chúa.

Mẹ ơi!  Đã từ lâu Giáo Hội có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời dương thế của Mẹ đấy.  Mừng với Mẹ vì ai cũng tin rằng lần ra đi của Mẹ phải tốt đẹp, không chút đớn đau.  Rồi dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, ngày 1/11/1950, Đức Piô XII long trọng tuyên bố: “Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác.”  Mẹ ơi, Ngài còn nói với chúng con rằng: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ.  Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ.” (“Corporis Mystici”, 29-6-1943).

Trái tim hiền mẫu của Mẹ luôn ước mong từng người con hãy tin yêu Chúa Giêsu.  Mẹ cầu mong chúng con cũng được hưởng niềm vui Thiên Quốc như Mẹ.  Ước gì chúng con luôn được ở trong Trái Tim nhân hiền của Mẹ.  Mẹ ơi!  Chúng con tin rằng thân xác sẽ sống lại trong ngày sau hết.  Nếu tin yêu Chúa Giêsu Kitô, chúng con chắc chắn sẽ được sự sống đời đời, Mẹ nhỉ!  Khi ấy, Mẹ-con mình sẽ trùng phùng vui sướng, hạnh phúc vô bờ!  Hơn nữa, khi chiêm ngắm Mẹ lên trời cả hồn và xác, chúng con còn xác tín rằng: thân xác sẽ được cứu độ.  Cho dẫu cuộc sống gian trần còn nhiều khổ đau thân xác và tâm hồn, nhưng nhờ Mẹ, chúng con sẽ được Thiên Chúa nhận lời đưa vào cuộc sống vĩnh hằng, thưa Mẹ!

Sau cùng, chúng con muốn cùng với Mẹ dâng lời “Ngợi khen” Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa, … Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”  Chính Người đã ban cho Mẹ nên Hiền mẫu tuyệt vời trên dương thế, nên Đức Mẹ rạng ngời trên Thiên quốc.  Hôm nay và ở đây, Mẹ vẫn đang hát vang bài ca ấy để cầu mong từng người con dù sống dưới trần gian, nhưng hãy hướng tâm trí về Quê Trời.  Nơi ấy Mẹ đang vẫy gọi và cầu nguyện cho mỗi người chúng con!

Lạy Mẹ Maria, trên Thiên quốc, xin Mẹ đoái nhìn đến cuộc sống lữ hành của chúng con.  Xin Mẹ nhắc nhớ chúng con đừng quá mê man với cuộc sống chóng qua mà quên mất thực tại Nước Trời.  Bên ngai tòa Thiên Chúa, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có sức mạnh thần linh để chúng con một lòng tin yêu Thiên Chúa.  Được như thế, chắc chắn chúng con sẽ gặp được Mẹ, để Mẹ dẫn chúng con đến hưởng nhan thánh Chúa.  Amen.

Chúc mừng đặc ân Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn và xác!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Cầm tay em anh hỏi

“Cầm tay em anh hỏi
Đường nào lên Thiên Thai,
Đường nào lên Thiên Thai,
Đường nào lên Thiên Thai?
Nơi hoa xuân không hề tàn,
Nơi bướm xuân không hề nhạt,
Nơi tình xuân không úa màu bao giờ.”

(Nhạc: Hoàng Nguyên/Lời: Hồ Hoàng Phương – Đường Nào Lên Thiên Thai)

(Mt 14: 5-8/17: 3-4)

Trần Ngọc Mười Hai

Cầm gì thì cầm, tay hoặc chân của ai đó cũng chẳng sao. Thế nhưng, chớ có “cầm nhầm” thứ gì khác, kẻo không những chỉ mình em, mà cả thế giới đều lên tiếng.

Hỏi gì thì hỏi, hỏi-han hay han-hỏi điều gì, cũng đừng nên hỏi các đấng bậc nhà Đạo những câu như thế! Bởi, chưa cần nghe anh hỏi, Đấng bậc tôi tớ của các bầy tôi đây sẽ tranh nhau mà trả lời. Ngoại trừ các chi tiết về Lưu Nguyễn, rượu Đào, suối Ngọc ở đâu đó, như câu hát cứ liên hồi, rằng:

“Ngày xưa sao Lưu Nguyễn,

gặp đường lên Thiên Thai,

Nhạc vàng ai mê say,

Rượu Đào ai ngây ngây

Suối Ngọc reo dưới bước chân đi,

Tiếng Nhạc tiên quyến luyến xiêm y,

ôi làm sao lạc vào được Thiên Thai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Bởi, như lời bọn tôi vừa nói, anh hoặc em có hỏi cho nhiều, thì nghệ-sĩ ở đời cũng chỉ có thể bảo ban với em hoặc anh những điều rằng:

“Anh nào biết đường lên Thiên Thai,

khi trời đất còn vương thương đau,

khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu

Anh nào biết đường lên Thiên Thai,

khi lòng còn như băng buốt giá

Và tình còn e ấp, nói không thành lời.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Thế đó, là chuyện ngày xưa. Còn, hôm nay và mai ngày, chỉ cần anh cất tiếng hoặc ầm ừ đôi ba chữ, chứ chẳng cần biết anh có cầm tay hay cầm chân ai đó không, cũng sẽ có đấng bậc này nọ ví von Thiên Thai với Nước Trời, ngay tức thì.

Thế nhưng, trước khi đi vào chi tiết những gì chưa hỏi đã trả lời một “chia sẻ”; nay, mời bạn và mời tôi, ta nghe sơ những chuyện “chưa hỏi đã có đáp án” như sau:

“Hai chàng trai nọ cầm tờ giấy xét nghiệm ở bệnh viện ra cửa đọc mà chẳng hiểu, bèn ngơ ngác đầy chất hỏi han, như sau:

-Tình-hình cậu thế nào? Có khả-quan không thế?

-Không dám “khả quan” đâu! Bác-sĩ khám tớ xong bèn kết luận bằng chữ BT tức “bó tay” to đùng thế này làm sao khả với quan được cơ chứ!

-Không bằng tớ đâu! Tình-hình của tớ còn tệ lậu hơn nữa.

-Ấy chết! Cậu nói gì mà “lậu” với tệ? Thế, ỗng nói là cậu bị lậu sao?

-Lại cũng không dám đâu! Chả lậu liếc gì đâu. Chả là, ngài phê cho tớ mấy chữ RLTH có nghĩa “Ruột lòi tới háng”, thế có chết không cơ chứ!

Than vãn ỉu xìu xìu một hồi, hai chàng trai gặp cô y-tá đầy chữ nghĩa bèn ráp tới hỏi và han thêm lần nữa, bèn được câu “đáp án” rất sáng tỏ như thế vầy:

-Các anh “cầm nhầm” kết-quả rồi! Đâu nào “cho em xin”… Anh đây Bác-sĩ phê hai chữ BT có nghĩa là “Bình thường” chứ chẳng phải bó tay bó chân gì hết đó! Còn, anh đây mấy chữ RLTH có nghĩa là “Rối loạn tiêu hoá”, chứ chẳng có gì hết đó. Uống viết thuốc xôi là xong ngay…”

Quả là đáp-án của dân “chuyên-nghiệp” khi thấy thiên-hạ những hỏi han như thế. Riêng nghệ-sĩ xưa, hay đưa ra câu hỏi không rõ có tính chuyên-nghiệp không mà sao cứ hát mãi những lời rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Nghe hát rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào vấn-đề về hỏi-han “Đường Nào Lên Thiên Thai” hay “đường nào dẫn đến Nước Trời, ở đâu đó?

Hễ cứ hỏi, là có thưa. Những thưa cùng hỏi rất tận-tình như bao giờ. Thế nên, hôm nay đây, thay vì trả-lời câu: “Đường nào lên Nước Trời hoặc Thiên Thai? Thì, đấng bậc ở chốn chóp bu nhà Đạo lại nói về đức tính đích-thực của các kẻ tin đang sống ở chốn Nước Trời, như sau:

“Đức Phanxicô nói rằng muốn nên chứng nhân đích thực trong đời sống Kitô hữu đòi phải có 3 đặc tính.

Trong bài giảng thánh lễ sáng hôm qua 11.06 tại nguyện đường Santa Marta, Đức Giáo Hoàng nói đến 3 đặc tính đó là: “Hành trình, phục vụ, lãnh nhận nhưng không.

Hành trình.

Đức Giáo Hoàng nhắc đến bài đọc Tin Mừng trong ngày nói về việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng. Là một môn đệ của Chúa đòi hỏi phải mang lấy sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng.

Nếu người môn đệ không đi ra và không làm cho người khác lãnh nhận bí tích Rửa tội thì người ấy chưa phải là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Người ấy thiếu sinh khí truyền giáo. Anh ta không thể ra khỏi chính mình để mang lại những điều gì tốt lành cho người khác.

Các môn đồ của Chúa Kitô cần phải lên đường mang lấy Tin Mừng, cần có một hành trình nội tâm không ngừng tìm kiếm Chúa, qua đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nếu người môn đệ không theo đuổi cách thức này, công cuộc rao giảng Tin Mừng sẽ nên suy yếu.

Phục vụ.

Đức Giáo Hoàng nói đến đặc tính thứ hai nơi người kitô hữu đó là phục vụ. Không phục vụ không phải là Kitô hữu. Một người môn đệ không biết phục vụ người khác thì không phải là Kitô hữu. Người môn đệ cần phải theo những gì Chúa Giêsu rao giảng như được mời gọi nơi hai trụ cột của Kitô giáo: 8 Mối Phúc Thật và ‘Chứng thư’ như được liệt kê trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chương 25.”

Nếu cuộc sống của chúng ta không biết phục vụ thì không có giá trị gì trong đời sống Kitô hữu. Người môn đệ đích phải biết phục vụ người khác đặc biệt là những người bị bỏ rơi.

Lãnh nhận Nhưng-không.

Đức Giáo Hoàng nói đến đặc-tính thứ 3 cần phải có nơi đời sống Kitô hữu đó là ‘nhưng không’. Đức Giáo Hoàng nhắc lại những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng “anh em đã được nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban nhưng-không”.

“Thật buồn khi thấy có những Kitô hữu đã quên đi Lời này của Chúa Giêsu. Thật buồn khi thấy trong các cộng đoàn, giáo xứ, các dòng tu, giáo phận đã quên đi điều này. Vì như thế hóa ra ơn cứu độ đến từ sự giàu có, từ sức mạnh của con người.”

“Niềm hy vọng của ta đặt nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài ban cho ta niềm hy vọng để không bao giờ thất vọng. Niềm hy vọng giúp chúng ta vững mạnh lên đường; niềm hy vọng giúp chúng ta ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để phục vụ người khác; niềm hy vọng làm cho chúng ta nên giàu có chứ không bó hẹp nơi thế giới vật chất chóng qua này”. (theo zenit)

Thế đấy, là cuộc sống ở Nước Trời rất như thế. Như thế và như vậy, giống hệt một khẳng- định của thánh-nhân hiền-lành nhà Đạo từng lập đi lập lại rằng:

Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy

và nhận khá nhiều người làm môn đệ,

hai ông trở lại LýtRa, Icôniô và Antiôkia.

Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ,

và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin.

Hai ông nói:

“Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.”

Trong mỗi Hội Thánh,

hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục,

và sau khi ăn chay cầu nguyện,

hai ông phó thác những người đó cho Chúa,

Đấng họ đã tin.”

(Cv 14: 22-23)

Sống ở chốn Thiên-Thai/Nước Trời, thì như thế. Còn, đường lên Thiên-Thai/Nước Trời thì sao? Và đây, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp đoạn khác ở trình-thuật Tin Mừng thánh Mát-thêu như sau:

Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người:

“Thầy bảo thật anh em,

người giàu có khó vào Nước Trời.

Thầy còn nói cho anh em biết:

con lạc đà chui qua lỗ kim

còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Nghe nói vậy,

các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói:

“Thế thì ai có thể được cứu?”

Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói:

“Đối với loài người thì điều đó không thể được,

nhưng đối với Thiên Chúa,

thì mọi sự đều có thể được.”

(Mt 19: 23-26)

Hỏi rằng: ta hiểu câu trên như thế nào? Phải chăng người muốn nói: muốn vào chốn Thiên-Thai/Nước Trời, phải trở nên nghèo khó, bé nhỏ, sống túng-thiếu chứ không sang giàu hoặc dư dật? Bởi, nếu đã giàu sang/dư dật rồi, lại sẽ khác.

Sống ở chốn Thiên-thai/Nước Trời, là sống tình-trạng thanh-thoát, trống-trải để rồi sẽ không có gì và sẽ chẳng còn gì để sợ mất và cũng chẳng có gì để phải lo “con bò trắng răng”. Dù, mối lo đó lại sẽ là mối lo và sợ những người giàu-có đến chiếm hữu/rút rỉa những gì mình có.

Sống tình-huống Thiên-Thai/Nước Trời, là có sống rất thật nhưng không chỉ cho mình mà cho người khác. Là, như thánh Phaolô khi xưa từng bảo: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.

Sống tình-huống Thiên-Thai/Nước Trời là sống giống như câu ca vẫn tiếp-tục hát:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp,
lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai,
kìa đường lên Thiên Thai.

Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây,
tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

À thì ra, cả trong Đạo lẫn ngoài đời đều công-nhận: “Hồn anh lạc vào tận tim ai”, thế mới là Thiên-Thai/Nước Trời ở phía trước. Có vào tận “tim anh” hay “tim em” cũng sẽ không khó như “Lạc đà chui qua lỗ kim” đâu. Cái khó, là lòng người chẳng muốn “đưa hồn lạc” vào đâu đó, dù chốn đó có là Thiên Thai hay Nước Trời, nhiều con tim rất vang hoặc rất ngọc.

Bởi lẽ, Thiên Thai/Nước Trời, vẫn cứ là và sẽ là chốn miền ta cùng sống trong và sống với cộng-đoàn dân con Đức Chúa ở xã hội. Bởi lẽ, Thiên-Thai/Nước Trời ở đây, lúc này, chính là cộng-đoàn ta chung sống, trong đó có giúp giùm, đùm bọc, không ngại ngần.

Cộng-đoàn Thiên-Thai/Nước Trời, lại chính là Thánh-hội ở trần-gian, trong đó không còn ai chỉ mỗi lo-toan, tranh giành, kèn-cựa đạp nhau mà tiến chức, lên lương hoặc nắm trọn quyền. Ở chốn Thiên Thai/Nước Trời hôm nay hay mai ngày, là ở với cộng-đoàn có Thánh Thần Chúa soi sáng, ngự trị.

Cộng-đoàn Thiên-Thai/Nước Trời, vẫn là và sẽ là chốn thánh-thiêng, trong đó có vị thánh Đá Tảng rất Phêrô, từng kêu lên vui sướng, những câu nói rất trung-thực như:

Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!

Nếu Ngài muốn,

con xin dựng tại đây ba cái lều,

một cho Ngài, một cho ông Môsê,

và một cho ông Êlia.”

(Mt 17: 3-4)

“Thật là hay! nếu Người muốn mà sao người người nay chẳng nhớ đến ai để rồi người người cùng tôi sẽ đóng lều để ở, mà chỉ nhớ có Môsê hoặc Êlya thôi? Thế đó là vấn đề. Chính đó, là nỗi chết. Bởi thế nên, Đức Giêsu lại đã phản-hồi bằng câu nói rất đáng nhớ, mà rằng:

Ông còn đang nói,

chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông,

và có tiếng từ đám mây phán rằng:

“Đây là Con yêu dấu của Ta,

Ta hài lòng về Người.

Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng,

ngã sấp mặt xuống đất.

Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo:

“Trỗi dậy đi, đừng sợ!”

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa,

chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi.”

(Mt 14: 5-8)

Xem như thế, tức như thể bảo: Thiên-Thai/Nước Trời không ở đâu khác, ngoài Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa. Bởi, Ngài là tất cả trong mọi sự. Có nghe và làm theo lời Ngài dạy, tôi và người rồi ra, ai ai cũng đạt chốn Thiên Thai Nước Trời, vẫn mong muốn.

Để minh-chứng và minh-hoạ điều này, tức: chỉ một điều rằng: Thiên-Thai/Nước Trời là chốn miền ta đang sống hiện-tạiở đây, ngay lúc này không gồm tóm chỉ mỗi chuyện tốt đẹp mà thôi, nhưng vẫn có những chuyện không hay ho, thực-tế như trang nhật-ký của vị y-sĩ thuộc loại thượng-thừa, như sau:

“Đêm trực lúc 0 giờ

Một người đàn ông đến cấp cứu vì đau quặn bụng. Khi mình đến khám, ông ta cứ luôn miệng nói: Tôi quen anh giám đốc A. Tôi có làm ăn với chị trưởng phòng B. Có lẽ do ông ta nghĩ rằng, khi nói ra những mối quan hệ ấy, mình sẽ làm việc chu đáo hơn. Mình đã đáp lời rằng :

-Anh có thể thôi nói tên và chức vụ của người khác. Anh hãy nói về chính anh đi, tên, chức vụ và bệnh của anh.

Ông ta trố mắt ra nhìn mình, phải mất vài phút sau ông ta mới có thể bắt đầu khai bệnh.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng hay như vậy, bạn nhỉ? Cứ vỗ ngực tự hào chứng tỏ với nhau rằng : tôi là con ông D, cháu bà C, tôi quen biết ông E và có mối quan hệ thân thiết với bà F, thay vì chúng ta nói về chính mình. Nhưng một người trưởng thành thật sự lại là người luôn tự đứng vững trên đôi chân mình, can đảm chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, không dựa vào ai cả, không đổ thừa ai cả.

0 giờ 30 phút

Một người phụ nữ 70 tuổi, được đưa đến phòng cấp cứu trong tình trạng suy kiệt nặng, da xanh niêm nhạt, thở ngáp cá, toàn thân khai mùi phân dãi. Khi mình xử trí cấp cứu xong, mình hỏi hai người con gái ăn bận rất bảnh bao và thơm tho : Bệnh nhân bị bệnh gì trước đây, điều trị ở đâu, và diễn tiến nặng bao lâu rồi?

Mình đã ngỡ ngàng khi nhận được một câu trả lời : Bệnh tim mạch và u hạch gì đó không rõ, mẹ tôi đã khó thở cả tháng nay rồi, nhưng tôi nghĩ không sao nên không đưa đi khám bệnh.

– Hai chị là con ruột?

– Ừ con ruột.

Mình im lặng thở dài khi kết quả xét nghiệm và MSCT trả về là bệnh Lymphoma ác tính di căn não, di căn phổi, đái tháo đường, suy thận… Làm sao mà cứu chữa? Mẹ thì chỉ có một trên đời.

Tuần trước mình có đi dự đám tang của một bệnh nhân rất thân. Và đã chứng kiến những giọt nước mắt ăn năn của người con út.

– Bác sĩ biết sao không, cả bốn tháng nay tôi chưa gặp mẹ, dù nhà tôi và nhà mẹ cách có vài bước chân. Ai ngờ trưa hôm thứ 7, nhận điện thoại báo mẹ đã mất rồi… Giá như tôi …

Thật, càng lớn tuổi, mình càng sợ trực cấp cứu. Không phải vì sức khoẻ vì chuyên môn hay vì áp lực phải tiếp xúc phơi nhiễm với những bệnh lây nhiễm hay vì có thể bị hành hung bất cứ lúc nào. Mà vì cứ phải chạm vào thật sâu bên sau mỗi con người dù mình không muốn…

1 giờ sáng

Bệnh nhân nam 23 tuổi, cơ thể gầy teo, nấm trắng đầy miệng đến cấp cứu vì tiêu chảy. Khi mình giải thích tình hình bệnh và đề nghị nhập viện thì bệnh nhân không chịu vì không có tiền.

– Em điện thoại kêu ba mẹ vào viện đi.

– Ba mẹ em li dị hồi em còn nhỏ xíu. Em sống với bà, mà bà ở tuốt dưới Vĩnh Long, em nói thiệt, em bị nghiện ma tuý đá và bị nhiễm HIV.

– Nhưng nếu em không nằm viện thì phải làm sao?

– Em cũng không biết nữa.

Nhìn cơ thể bệnh nhân chi chít những hình xăm, mái tóc nhuộm vàng khè … sao mà khác quá với cách bệnh nhân trả lời.

– Em chỉ nghĩ mình đau đến đây để bác sĩ cấp cứu…

Mình lại thở dài, dù tiếng thở dài chẳng làm đêm ngắn lại. Phần lớn những người sa ngã và lầm lạc thường được lớn lên trong gia đình không có hạnh phúc, cha mẹ ly dị, hay nghiện rượu, cờ bạc và thuốc lá. Có bao giờ mỗi bước chân đi, mỗi quyết định trong cuộc đời, chúng ta đều cẩn trọng? Sinh con rất dễ, nhưng nuôi dưỡng con lại rất khó! Khó vô cùng.

2 giờ sáng

Một thanh niên sỉn rượu đến để may những vết thương vùng mặt và lưng do bị chém. Khi điều dưỡng hỏi phần hành chính, thì anh ta nạt nộ đập bàn : Sao không khâu liền đi, cứ hỏi mấy cái vớ vẩn làm gì?

– Muốn khâu thì phải làm hồ sơ khai tên tuổi bị đánh ở đâu chứ, rồi còn phải kí tên yêu cầu khâu chứ.

– Tao (cóc) khai. Bây giờ tao hỏi tụi mày có khâu không thì bảo? Tụi mày có tin tao chém tụi mày bây giờ không?

Mấy anh bảo vệ nghe ồn ào, báo ngay cho công an. Và thanh niên sỉn rượu vừa thấy bóng công an lập tức bỏ chạy. Mới đó còn hùng hổ đòi đâm đòi chém …Thật, những người có xu hướng hung bạo và dễ kích động thường là những người sống trong sự sợ hãi và yếu đuối.

Vì sao khi đi trên phố mấy thanh niên trẻ hay nẹt bô rồ ga? Vì sao giữa đám đông mấy người trung niên kia ăn bận diêm dúa trang điểm cầu kì? Bởi vì trong sâu thẳm họ khát khao được chú ý, khát khao được công nhận… nhưng họ chẳng có gì đặc biệt, buộc họ phải hành động như thế. Họ lạc loài!

3 giờ sáng

Một người đàn ông, 50 tuổi được đưa vào cấp cứu vì đau đớn vùng hạ sườn phải. Ông ta la hét inh ỏi:

– Bác sĩ đâu rồi? Tụi bây chết hết rồi hả? Tao vào bệnh viện cả tiếng rồi mà chẳng thấy tụi bây đâu…

– Bác sĩ đây, anh mới vào mà, y tá còn chưa kịp lấy dấu hiệu sinh tồn…

Người nhà vội nói bệnh nhân và quay qua nói với mình : Bác sĩ thông cảm, tại ảnh bệnh ung thư đường mật di căn gan, di căn hạch giai đoạn cuối rồi nên đau đớn và hay la hết. Bệnh Viện C đã cho về, khuyên gia đình, bệnh nhân muốn ăn gì thì cứ cho…

Đêm dường như sâu hơn với tiếng thở dài.

Nỗi đau niềm thống khổ là có thật, luôn hiện diện bên trong mỗi con người. Ai cũng đau cũng khổ, có người nhờ nỗi đau mà vượt lên được chính mình, tìm ra được con đường giải thoát và an lạc, nhưng cũng có người bị chết chìm trong đó. Lẽ thường, khi người ta gần đến bên kia con dốc cuộc đời, cận kề cái chết, người ta sẽ buông bỏ hết những sân si, người ta sẽ chấp nhận và mỉm cười… Đằng này …

Bốn giờ sáng

Một người phụ nữ đến cấp cứu vì đau đầu ngủ không được. Trong khi mình đang viết bệnh án thì nghe bà ta kêu lên: Chú bác sĩ và cô y tá kia, mau trả điện thoại lại cho tôi.

– Bà coi lại cẩn thận đi, tụi con đâu có lấy điện thoại của bà.

– Cô nói gì? Chỉ có cô và chú bác sĩ kia lại gần tôi… Không cô thì chú kia lấy. Báo bảo vệ hay công an ngay đi.

Bệnh nhân ngồi bật dậy, khác với lúc mới vào nhăn nhó khó chịu mệt mỏi.

– Ôi mẹ ơi, mẹ nói cái gì kì lạ vậy? Con giữ điện thoại của mẹ đây. Tại con đi đóng tiền tạm ứng nhập viện nên mẹ không biết.

– Vậy hả? Tao tưởng hai đứa này nó ăn cắp.

Bé Khánh vừa định lên tiếng, mình vội ngăn lại và thì thầm: Thôi bỏ đi em.

Mình nhớ một câu chuyện trong Phúc Âm, có người đến hỏi: Nếu ai đó tát vào má con thì sao? Chúa Giêsu đã trả lời : Con hãy đưa luôn má còn lại cho người ta tát. Và nếu có ai xin con cái áo khoác bên ngoài, con cũng hãy cởi luôn cái áo khoác bên trong mà cho.

Thường chúng ta chỉ đến với Thượng Đế khi bị đau khổ, mất mát, muốn mà chưa được…Và khi chúng ta bị ức hiếp bị bắt nạt, chúng ta mong là luật công bằng, luật nhân quả được thực thi.

Nhưng Thượng Đế luôn im lặng. Ngài dạy: Hãy tha thứ, hãy cho đi nhiều hơn. Bởi chỉ những người yếu đuối, thiếu thốn, bị bỏ rơi … mới dùng đến bạo lực và đi xin. Ngài Đạt Lai Lạt Ma từng nói: Cây lúa nào hạt non hạt lép thì nó đứng thẳng vươn cao. Còn những cây lúa nặng trĩu hạt luôn oằn mình xuống dưới thấp. Cái Tôi của ai nhỏ bé thì tâm-lượng người đó mênh mông! (trích Nhật-ký của Giáo sư Tôn Thất Tùng)

Nghe kể chuyện thực-tế ở chốn Thiên-Thai/Nước Trời rồi, giờ đây mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn hoa văn-nghệ có những câu hát không xa vời thực-tế như câu ca do nghệ-sĩ trích ở trên cứ hát đi hát lại mãi rằng:

“Nhìn trong đôi mắt đẹp, lòng chợt vui như say;
kìa đường lên Thiên Thai, kìa đường lên Thiên Thai
Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây, tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,
Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.”

(Hoàng Nguyên/Hồ Hoàng Phương – bđd)

Hát thế rồi, hẳn bạn và tôi, ta đã tìm ra con đường lên Thên-Thai nay cứ sống sự thật cuộc đời, với đời và trong đời, giữa mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ sống một đời rất thực;

Nhưng ít khi hỏi người, hỏi mình

tự bao giờ.

Em còn nhỏ làm sao mà biết được

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được”

Áo cơm hành bủn rủn thiên tài.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá, lược dịch

Áo cơm hành bủn rủn thiên tài, vẫn là Tình Yêu tuyệt vời, Lời Chúa phán. Áo cơm ấy, Tình-Yêu này, lại vẫn được diễn-tả theo kiểu cung cách rất thời thượng mà bậc thánh-hiền còn viết mãi đến hôm này.

Hồi đầu thập niên bẩy mươi, một trong các ấn bản của nhà sách Readers Digest thời bấy giờ đã thuật lại sự kiện về chiếc phản lực cơ lâm nạn rơi xuống vùng núi Andes, chỉ một ít người còn sống và họ phải ăn thịt lẫn nhau để tồn tại.

Trong buổi thảo luận về khía cạnh luân lý đặt ra với hiện tượng “khác thường này, các nhà thần học đã bàn về tư thế của Giáo hội bên sau hiện tượng ‘người ăn thịt người, để sống còn’. Câu hỏi mà tác giả bài viết lúc ấy đưa ra, là: Giáo hội quan niệm thế nào về luân thường đạo lý khi gặp trường hợp ‘người ăn thịt người’?

Dù có ai đưa ra luận cứ vững chắc nào để bênh vực cho tục ‘ăn thịt người để sống sốt’, thì cảnh tượng đứng đứng ngồi ngồi gắp từng miếng thịt của người đồng hành, đưa lên miệng, cũng đủ khiến ta lợm giọng, rất ghê tởm. Cũng như vậy, khi ta rước Mình Máu Cha, người ngoài Đạo có thể nghĩ và gán cho ta mũ chụp là “tội đồ, mọi rợ chuyên ăn thịt người khác”. Tức, tội đồ đi Đạo dám ăn cả thịt và uống cả máu Đức Chúa của mình.

Có lẽ, người ngoài Đạo cũng cho rằng: ta còn mừng kính việc ăn Mình và Máu Đức Giê-su, là ta còn mang tiếng trở thành kẻ ‘ăn thịt người’. Truyền thống Giáo hội xưa nay vẫn luôn thận trọng khi sử dụng ngôn từ chỉ việc Đức Giê-su hiện diện nơi Thánh Thể.

Dẫu có thế nào đi nữa, dứt khoát ta vẫn không phải là ‘kẻ ăn thịt người’. Trăm ngàn lần như thế. Bởi, có bao giờ ta ăn tim gan, phèo phổi hoặc xương, óc của Đức Chúa, bao giờ đâu. Giáo lý trong Đạo, tuy đề cập đến sự hiện diện đích thực, bằng xương bằng thịt, của Đức Chúa nơi Thánh Thể, rất thật.

Nhưng, ta có qui về Đức Giêsu đâu! Tín lý trong Đạo chỉ nói về Đức Kitô, Đấng đã hiến trọn con người của Ngài cho ta. Điều ấy có thật. Nhưng, Ngài muốn ta ăn thịt Ngài như cơm bánh hằng sống, thức ăn miên trường chủ yếu tháp nhập con người của ta vào với bản thể của Ngài. Hiển nhiên là như thế.

Ở đây, sự phân biệt danh phận và tên gọi của Đức Chúa là điều rất cần. Thánh Thể là Bí tích thánh thiêng về mầu nhiệm Phục sinh. Khi cử hành Tiệc Thánh Thể, ta vinh danh Đức Kitô đã sống lại, và hiện Ngài đang thực sự có mặt với ta, ở trong ta. Đây là sự có mặt trọn vẹn dưới dạng thức bánh và rượu. Hai chất thể phàm tục đã trở thành Mình thánh và Máu thánh của Ngài trong buổi Tiệc của Lòng Mến.

Truyền thống đạo giáo vẫn công khai tuyên xưng đặc tính chất loại của Mình Thánh. Như thế, không có nghĩa là đã giúp ta suy tư đầy cảm tính. Là Công giáo, ta tin Đức Kitô được Đức Chúa cất nhắc khỏi sự chết và Ngài đã sống lại thật và đang thực sự hiện diện với ta, bằng xương bằng thịt, ở đây, trong Tiệc Lòng Mến này.

Thế còn, vấn đề ý nghĩa ‘quà tặng’ của Thánh Thể, thì sao?

Nói cụ thể, chương 6 Tin Mừng thánh Gioan là thiên nghị luận bàn nhiều về Thánh Thể. Đằng khác, cũng trong chương này, thiên nghị luận của thánh sử là để đề cao sự thống khổ, cái chết của Đức Giê-su và sứ mạng của ta biết noi theo con đường Ngài đã đi.

Đức Giêsu, trong cương vị một Môsê mới, không chỉ ban tặng cơm bánh hằng sống cho con người, mà thôi. Ngài còn trao ban chính Thân mình của Ngài, qua sự thống khổ, cái chết và sự sống lại vinh hiển, nữa. Chính vì lý do này, Hội thánh Cha vẫn nối kết sự kiện Vượt Qua với việc cử hành Tiệc Thánh Thể. Đây là Tiệc của Lòng Mến, nơi đó ta ăn mừng và tôn kính Thân Mình rất thánh của Đức Chúa.

Vấn đề đặt thêm hôm nay, là: tại sao ta lại được trao ban cho quà tặng có một không hai ấy? Tiệc Thân Mình rất thánh của Đức Chúa không mang dáng dấp của một lễ hội dành cho một nhóm người nào đó, rất ưu đãi. Đây cũng không phải là việc sùng kính riêng tư, rất trầm buốn. Đây chẳng có nghĩa của một thứ gì đó nhằm đảm bảo cho ta ơn cứu rỗi riêng lẻ, của từng người.

Tiệc Thánh Thể mang ý nghĩa đích thực là ở chỗ: tiệc ta nhận lãnh Thân Mình Đức Chúa để bổ sức giúp cho kẻ tin vào Đức Kitô biết dấn bước ra đi, theo con đường khổ hạnh của Ngài. Ra đi, để biến đổi thế giới đương đại. Ra đi, luôn mang theo tình thương yêu dâng trào và sự công chính Chúa ban, vì Đức Kitô, nhân Danh Đức Kitô, cho Đức Kitô.

Hội thánh, người của Đức Chúa, vẫn luôn nối kết những gì ta sẽ hành động sau tiệc Thánh Thể với những gì ta cử hành việc ăn uống trong buổi Tiệc mừng. Điều này có nghĩa, là: người dự tiệc sẽ hối hả ra đi chăm lo nuôi sống những người đang đói thức ăn. Đang thiếu nước uống, trên thế giới.

Điều này còn có nghĩa: đa số chúng ta quyết giúp đỡ các người anh người chị khác, những nhóm người vẫn thực hiện công tác thiện nguyện, rất âm thầm. Điều này cũng có nghĩa, là: khi nghĩ đến các ứng viên ta sẽ bầu làm lãnh đạo hay thủ trưởng, ta buộc họ phải bận tâm lo toan cho nhiều người đau khổ, phiền muộn tại xứ sở, địa phương, và cả ở xã hội.

Trước đây, cố bề trên tổng quyền Dòng Tên, linh mục Pedro Arupe đã có lần bộc bạch rằng: Bao lâu, ở đâu đó trên thế giới, còn có người đói thức ăn, thèm khát nước uống, thì việc cử hành tiệc Thánh Thể của ta ở bất cứ nơi nào trên quả đất này, vẫn như còn thiếu thứ gì đó, theo một cách nào đó. Bởi, đôi lúc, ta vẫn cứ ảo tưởng cho rằng: Tiệc Thánh Thể có phép mầu thần thông của một ảo thuật gia, biến đổi được tất cả.

Đấy cũng là điểm nhấn mà Giê-su Đức Chúa đặt nặng trong Tin Mừng hôm nay, khi quả quyết: Ngài tặng ban Thân Mình Ngài cho sự sống của thế giới, đang tồn tại. Tiệc Thánh không biến ta thành những tay “tội đồ” ăn thịt người. Dứt khoát, không phải thế. Ngàn lần không là như thế. Tiệc Thánh còn có nghĩa thực tế, là: biến ta trở nên triệt để hơn. Triệt để, trong quyết tâm tiếp tục hiên ngang tồn tại làm con dân của Đức Chúa khắp nơi, trên địa cầu này.

Trong cảm-nghiệm tình thương-yêu rất như thế, ta lại sẽ ngâm tiếp lời thơ, rằng:

“Em còn nhỏ làm sao mà biết được,

Áo cơm hành bủn rủn thiên-tài.

Học thói người xưa ta cạo đầu bán tóc,

Chưa đủ tặng em nửa chiếc áo dài.”

(Nguyễn Tất Nhiên – Vài Đoạn Viết Ở Đinh Tiên Hoàng)

Cuối cùng thì, có cạo đầu bán tóc nhiều chăng nữa, cũng chỉ để chứng-tỏ tình thương yêu anh tặng cho em, cho mọi người. Cả một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn –

Mai Tá, lược dịch

Tin Mừng (Ga 6: 51-58)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với người Do Thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”

HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

HOANG ĐỊA – THAO TRƯỜNG CỦA NHÂN ĐỨC

Quân Trần, SJ

Có một lần được đến, sống và làm việc tại một nhà tĩnh tâm ngay giữa sa mạc của nhà Dòng trong suốt mùa hè, tôi chợt nhận ra một thói quen vô thức của mình: cứ tìm đến một góc vắng vẻ nhất và ngồi đó trong thinh lặng.  Nhiều khi tôi dùng thời gian ấy như là một giờ tâm sự với Chúa, nhưng cũng lắm khi chỉ để hồn phiêu lãng với những chùm tư tưởng khác nhau.  Điểm lạ là nơi tôi đến chẳng có dáng của hoa thơm, cũng không có bóng của cỏ lạ.  Có chăng chỉ là cái nắng chói chang chiếu rọi trên những gốc xương rồng cằn cỗi.  May lắm thì được yên vị trong một căn chòi nho nhỏ đủ làm dịu đi đôi chút cái gay gắt của trưa hè.  Ấy vậy mà cứ ngày này qua tháng nọ, nó dường như trở thành một chốn rất đỗi thân quen.  Và muôn lần như một, câu nói trong sách Luca cứ vọng về: “Đức Giêsu thường lui vào một nơi hoang vắng mà cầu nguyện” (Luca 5:16).  Ừ nhỉ, có gì hấp dẫn hay lãng mạn nơi hoang địa cơ chứ?  Nhìn quanh nhìn quất chỉ toàn một màu của cỏ úa, ban ngày thì nóng cháy thịt da, về đêm thì lạnh buốt tận xương tuỷ.  Người đã tìm gì trong hoang địa?  Thế đó tôi bắt đầu một cuộc tìm tòi.

Hoang địa, nơi tôi luyện đức khiên nhường.  Một ngày lang thang qua khắp nẻo đường.  Một ngày rộng tay với muôn vàn ân phúc.  Thành công có, thất bại có.  Giữa sự ồn ào của lời khen tiếng chê, thật khó mà nhận ra tiếng nói âm thầm của con tạo, của trái tim.  Đi hay ở, làm hay không, có dễ đâu mà nhận định ý Ngài?  Ấy là chưa kể cái êm đềm của đời thường sẽ làm lòng người mau quên và đôi chân chợt mỏi, chỉ muốn dừng lại bám rễ, chỉ muốn hài lòng với một chút vinh vang mờ nhạt.  Vào hoang địa thôi!  Bởi nơi ấy sẽ chẳng vang vọng những lời khen tiếng chê, sẽ chẳng bị âm thanh hỗn tạp của cuộc sống bao phủ.  Nơi ấy, thành công sẽ chẳng có cơ hội tạo hào quang và thất bại sẽ không còn cơ may làm nên những làn mây ảm đạm.  Tất cả chỉ là hư vô, là trống rỗng.  Trong im lặng tuyệt đối đó, liệu có cần không cho bao vất vả hầu đạt được những hứa hẹn hão huyền?  Khi trước mặt ta, sau lưng ta, bên phải, bên trái, bên trên, và bên dưới ta chẳng còn ai khác hơn là chính mình, trốn đâu cho được.  Mà khổ nỗi khi phải đối diện với chính mình, ta mới nhận ra được một sự thật phũ phàng nhất: ta chỉ là hư vô trước mặt Chúa.  Ta chỉ là một công cụ không hơn không kém.  Những tràng pháo tay không dứt hay những lời rủa xả lê thê của hôm qua không nói lên được con người thật của ta.  Rồi ta chợt thấu hiểu lời mời gọi tuyệt vời của hoang địa: hãy trở nên khiêm hạ; hãy nhận ra nguồn gốc của mọi sự vốn chẳng xuất phát hoặc chấm dứt nơi ta.  Có lẽ vì thế mà Đức Giêsu mê không khí của sa mạc.  Quả vậy, nơi đó đã nhắc nhở Ngài một sứ vụ to lớn hơn: tất cả vì sự cả sáng của Danh Cha.

Hoang địa, nơi hình thành và nung nấu niềm tin.  Dẫu nắng có gay gắt cỡ nào đi nữa thì từng khóm xương rồng vẫn còn đó.  Dẫu muôn vàn ngọn cỏ có nhuốm màu của lá úa, thì bên dưới vẫn hàm chứa cái khao khát của mầm sống, của ý chí muốn tồn tại.  Có ai đi giữa sa mạc mênh mông mà lòng không thèm khát một vạt nước vọt lên từ giữa những dải cát vô tình?  Hẳn ta còn nhớ một đoạn của Thánh Vịnh: “Người xẻ đá giữa sa mạc hoang vu, khiến nước tuôn tràn cho dân được uống” (TV 78:15).  Có ai vật vờ giữa cơn lạnh cắt da của trời đêm mà không mong muốn một ánh lửa bập bùng sưởi ấm?  Cái khao khát được uống nước của ân sủng, được sưởi ấm với tình yêu sẽ trổi mạnh hơn bao giờ khi ta đi vào sa mạc của tâm hồn.  Và đằng sau cõi thinh không, đằng sau sự đối đầu với những giới hạn của bản thân, lòng ta chợt bừng lên một niềm tin, một thao thức, một ước muốn theo Ngài.  Ta biết ta đã không lẻ loi.  Ta tin Ngài đang cùng ta dấn bước.  Và niềm tin ấy được nung nấu qua bao thử thách của trời trưa và bao cô quạnh của đêm dài.  Nếu không bước vào hoang địa, nếu lòng vẫn bị phủ tràn với muôn ngàn tín hiệu, thì e rằng cơ hội để hình thành và tôi luyện đức tin sẽ bị nhiễu đi.  Ra vậy, Đức Kitô đã rất có lý khi tìm đến nơi hoang vắng.

Hoang địa, nơi hun đúc lòng trông cậy.  Nhiều hôm ngồi tư lự ở góc vắng của nhà tĩnh tâm, tôi chợt thấy áo mình đẫm ướt mồ hôi.  Nắng và nóng quá đỗi.  Những cơn gió nhẹ thoảng qua bỗng nhiên trở thành một món quà quý giá.  Thoảng hoặc một vài giọt nước của một cơn mưa hiếm hoi biến thành báu vật.  Gió và mưa tuy hiếm nhưng vẫn đến đấy thôi.  Thiết nghĩ người lữ khách giữa hoang địa không vì sự hiếm hoi của chúng mà trở nên thất vọng.  Rất có thể họ còn đón nhận chúng cách trân quý hơn, tri ân hơn.  Cũng vậy, khi gặp gỡ nội tâm và Thiên Chúa giữa sa mạc khô cằn, lòng người lữ thứ luôn nung nấu những khát khao.  Chúng giống như quân canh mong chờ hừng đông đến hoặc như cái đấu ao ước được đong đầy, được lèn chặt.  Rồi hồn họ chợt vút cao ngong ngóng chờ trông con tạo.  Cái ‘kết hiệp’ tưởng như rất thường đã trở nên linh thánh hơn bao giờ.  Phải chăng Đức Kitô vào hoang địa ngày nào để nuôi dưỡng lòng trông cậy tuyệt đối vào Đấng mà Ngài hằng tuân phục tin yêu?

Hoang địa, chốn xuất phát của tình yêu, của hiến mình.  Lúc thanh vắng là lúc ta có thể đối thoại với chính mình.  Quả thế, khi thành công không là áp lực và thất bại chẳng là điều làm ta bận tâm, thì đấy là lúc ta trở nên chân thành nhất.  Ta sẽ tự hỏi chính mình xem ta có muốn tái đầu tư cho những gì ta đang đeo đuổi?  Ta sẽ tự vấn lương tâm xem hồn ta có thanh thản, tim ta có khao khát, có muốn tiếp tục yêu và sẵn sàng xả thân vì tình yêu?  Câu trả lời vào giây phút đó sẽ không mang hơi hướm của những lời chúc tụng bề ngoài hoặc những sợ hãi của bao thất bại ngập tràn.  Trong thinh lặng ta có cơ hội nhìn lại và chọn lựa cách kỹ lưỡng, để rồi khi trở về đời thường ta có một lời đáp rõ ràng hơn, mạch lạc hơn.  Hẳn ta còn nhớ, ta chỉ là một loài thụ tạo rất tầm thường.  Tình yêu ta dành cho nhau không phải lúc nào cũng ướm đượm hương thơm.  Trái lại, cũng có những phút giây ta ngậm phải những trái đắng và lòng ta thoáng xôn xao.  Thế nên lâu lâu có cơ hội nghiềm ngẫm về mối tình ta dành cho nhau cũng là một điều kỳ thú.  Đức Giêsu khi xưa đã yêu và yêu thật nhiều.  Nhưng tình yêu ‘nhân tính’ của Ngài không phải không gặp nhiều thử thách.  Và để đáp trả lời mời gọi tiếp tục yêu, để tìm lại cái đơn sơ, tinh tuyền và chân chất của con tim, hơn một lần Ngài đã vào hoang địa để suy nghĩ, để nguyện cầu.  Cũng chính qua những phút giây thần thánh đó, Ngài đã lựa chọn con đường yêu thương một cách tự do và mãnh liệt.  Bởi từ đáy thẳm tâm hồn, Ngài hiểu rõ Giêsu sẽ không còn là Giêsu nếu nơi Ngài thiếu vắng sự cho đi của trái tim.  Ngài đi vào sa mạc để rồi khi trở về lòng Ngài lại chân chất những ước mơ và thân xác Ngài lại một lần biến thành của lễ.

Hoang địa, nơi ẩn náu một kho tàng vô tận.  Bất chấp nắng hay mưa, nóng hay lạnh, từng đàn ong mật cứ vần vũ quanh đám cỏ hoang.  Những cánh chuồn, cánh bướm vẫn ưỡn lượn nhịp nhàng.  Về đêm tiếng dế rả rích tỉ tê như một điệu luân vũ tuyệt vời.  Cha giám đốc nhà tĩnh tâm cho biết bên dưới sự khô cằn của hoang địa lại là một cõi mênh mông trù phú của nguồn nước dồi dào cho bao thế hệ. Những làn nước mát trong mà tôi cùng bao người thao luyện viên tận hưởng đến từ một mạch ngầm quý giá.  Từng ngụm từng ngụm đi vào lòng mát lạnh.  Chưa bao giờ tôi lại quý nước hơn những ngày này.  Hỏi liệu có khi nào nguồn nước ấy vơi đi, cha cho biết có thể lắm, nhưng đã có bao chục ngàn con người dừng chân và nhà tĩnh tâm này đã đi vào năm hoạt động thứ 50 mà chưa ai phải vất vả kiếm tìm một nguồn nước mới.  Còn nữa cứ mải mê với cõi riêng của mình, hơn một lần tôi thấy bóng dáng của những chú nai tơ tuyệt đẹp, hay vẻ dềng dàng của mẹ con gấu đen hóm hỉnh, hoặc cái giả dạng tuyệt tác của các nàng rắn đất.  Chúng luẩn quẩn quanh tôi, chợt dừng lại ngõ sững rồi lại lững thững bước đi cứ như thể thế giới này lớn đủ, rộng đủ và hòa bình đủ cho mọi loài.  Xem ra cõi hoang vu đã dạy cho tôi những bài học mà chưa trường lớp nào từng dạy.  Nó cho tôi thấy một thế giới thật mà Thiên Chúa muốn tạo nên: một loại thế giới yêu thương nhau, chấp nhận lẫn nhau, vui vẻ chung sống và chia cho nhau những gì có thể.  Thế nên khi đi vào sa mạc của tâm hồn, tôi thấy lòng mình bừng lên những ước mơ.  Bởi bên dưới cái tưởng chừng khô cằn và nặng nề nhất lại là nơi tôi học hỏi nhiều nhất.  Có lẽ Đức Giêsu cũng có một tâm trạng giống tôi khi Ngài tìm vào nơi hoang vắng.

Nhà tĩnh tâm này, đã có bao con người đến rồi đi, đã có bao trái tim trở về, và đã có bao tâm hồn biến đổi.  Nếu nói đó là do công của các Cha linh hướng của trung tâm cũng chưa hẳn sai.  Nhưng sẽ không hoàn thiện khi ta không nhắc đến bối cảnh tuyệt vời của hoang địa, nơi mà mỗi thao luyện viên có dịp sống và lắng nghe tiếng thầm thì của tạo hoá qua những giây phút trầm mặc linh thánh.  Để rồi khi trở về với thế giới vội vã, họ biết đâu là con đường mà Thiên Chúa muốn họ đi, họ hiểu ý nghĩa của những vui buồn sướng khổ trong cuộc sống.  Họ đã được Thiên Chúa, qua thinh lặng của hoang địa biến đổi.  Họ không còn là họ của hôm qua, nhưng là của những lớp người mãi bước tới theo tiếng gọi của tình yêu.  Sa mạc cũng có lắm loại nhiều thứ.  Có loại là một thứ sa mạc nóng bỏng như tôi đã sống và làm việc trong mùa hè qua.  Nhưng cũng có thứ sa mạc lặng lẽ hơn, tinh tế hơn: thứ sa mạc của tâm hồn.  Thế nhưng dẫu ở đâu hay loại nào, chúng cũng đều là thao trường tuyệt vời cho bao nhân đức.

Bạn mến, có bao giờ bạn tìm đến với sa mạc nội tâm?  Có bao giờ bạn bắt chước Đức Giêsu dành một phần trong ngày để vào nơi hoang vắng?  Có bao giờ bạn ước ao được lớn dậy trong tình yêu và đời mình được nuôi dưỡng với bao nhân đức?  Nếu có thì đừng ngại đi vào hoang địa bạn nhé.  Vào đi, đừng sợ.  Chắc chắn khi vào rồi, bạn sẽ phát hiện ra nhiều điều mới lạ.  Khi ấy thói quen tìm nơi vắng vẻ mà tâm sự với Thượng Đế và trở về với lòng mình sẽ không bao giờ rời xa bạn nữa.  Và như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn bạn cũng sẽ trông mong được gần Chúa và tha nhân hơn bao giờ.

Quân Trần, SJ

http://www.donghanh.or

BÁNH BỞI TRỜI

BÁNH BỞI TRỜI

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường.  Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu.  Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa.  Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa.  Người đã chiến thắng.  Nhưng chính vì chiến thắng.  Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc.  Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời.  Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần.  Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc.  Người mất hết sức phấn đấu.  Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa.  Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người.  Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa.  Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy.  Đường đi rất xa và rất khó khăn.  Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời.  Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi.  Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. T ấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người.  Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa.  Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống.  Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh.  Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”  Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện.  Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành.  Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy.”  Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri.  Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại.  Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim.  Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu.  Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria.  Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống.  Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống.  Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn.  Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai.  Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời.”

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết.  Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời.  Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh.  Lương thực thần linh ban sự sống thần linh.  Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta.  Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm.  Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc.  Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.  Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu.  Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa.  Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi.  Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống.  Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi.  Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng.  Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa.  Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa.  Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời.  Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn.  Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MUU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?

PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MUU PHẦN RỖI CHO MÌNH VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Hỏi : xin cha cho biết phải sống Đạo cách nào để cho mình và giúp khác được cứu rỗi ?

Trả lời:

Là người có niềm tin Thiên Chúa, thì mục đích tối cao của đời mình  phải  là tìm Chúa để yêu mến Người trên hết mọi sự và ước muốn được cứu độ để vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên cõi vĩnh hằng mai sau.

Cho mục đích nói trên, thì người tín hữu phải thực tâm đầu tư tâm trí , khả năng và thì giờ vào việc tìm kiếm Thiên Chúa và yêu mến Người trong suốt hành trình đức tin của mình  trên trần thế này cho đến ngày nhắm mắt lìa đời.

Cụ thể, phải sống Đạo cách nào để nói lên khát vọng tìm Chúa và Vương Quốc bình an, hạnh phúc của Người ?

Có Đạo và sống Đạo là hai việc  nhìn qua có vẻ giống nhau , nhưng thực rất khác nhau về mọi khía cạnh.

Thật vậy, có Đạo có nghĩa là mình đi theo một tôn giáo nào đang có mặt trên thế giới như Đạo Công Giáo  ( Roman Catholicism), Chính Thông Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) Đạo Do Thái ( Judaism) Tin Lành ( Protestants)  Đạo Phật ( Buddhism), Đạo Ấn Giáo ( Hinduism) Đạo Khổng ( Confucianism), Đạo Lão, ( Taoism) Thần Đạo ( Shinto của Nhật bản)  Hồi Giáo  ( Islam). v..v..

Tin đồ các tôn giáo trên ở khắp nơi trên thế giới.Nhưng đông đảo nhất là tín đồ Kitô Giáo thuộc các Giáo Hội Công Giáo La Mã, Chính Thông Giáo Đông Phương ,  các nhánh Tin Lành, và Anh Giáo ( Anglican Communion) .Trong các Giáo Hội  và giáo phái  này , thì tín hữu Công Giáo chiếm đa số với trên một tỉ người đã gia nhập Giáo  Hội qua Phép Rửa.

Con  số thì  đông và cơ sở thì to lớn và đồ xộ với các Thánh đường nguy nga từ  giáo đô La Mã cho đến các điạ phương nghèo khó như các giáo xứ ở miền quê Việt Nam, nơi giáo dân phần  nhiều còn sống khó khăn về mặt kinh tế nhưng cũng xây được các nhà thờ rộng lớn và khang trang với vật liệu  mua từ nước ngoài như đá hoa cương, tháp chuông  và bàn thờ, đèn nến…

Nếu chỉ nhìn qua những kiến trúc bề ngoài thì người du khách phải trầm trồ thán phục Giáo Hội Việt Nam về sức sống Đạo phong phú hơn nhiều nơi trong khắp Giáo Hội hoàn vũ.

Ở nước ngoài như Hoa Kỳ, Canada, và Úc Châu, người Công giáo Viêt Nam cũng xây được những nhà thờ nhà xứ to và đẹp hơn nhiều nhà thờ ở địa phương.

Nhưng đấy chỉ là bề nổi , bề ngoài của việc sống đạo,  và vẻ huy hoàng  bề ngoài này không hẳn đã phản ảnh trung thực bề sâu và mặt chìm của lòng mộ đạo sâu sắc. Nghĩa là  phải sống Đạo cách đích thực có chiều sâu  để  khiến  cho Chúa Kitô không phải than trách như   Người đã  quở mắng bọn Biết phái xưa kia:

Dân này tôn tính Ta bằng môi bằng miệng

Còn lòng  chúng thì  lại xa Ta.”( Mt 15: 8)

Tôn kính bằng môi bằng miệng có nghĩa chỉ sống đạo cho có hình thức bề ngoài , như  vẫn  đi lễ ,đọc kinh, hành hương v.v nhưng  tâm trí còn  bám chặt những thực tại trần thế như  tiền của,  danh vọng phù phiếm  hư hèn đến mức  làm nô lệ và tôn thờ  chúng  cùng  với mọi thú vui vô luân vô đạo, thay vì  phải tôn thờ một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự chóng qua ở đời này.

Mặt khác, cũng phải sống Đạo cách nào  trước mắt người đời   để cho thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh  em làm mà tôn vinh Cha của anh  em , Đấng ngự trên Trời. Như Chúa Giê su đã dạy các  môn đệ và dân chúng xưa kia. ( Mt 5: 16).

Thật vậy, có tên là người Công giáo phải đi đôi hay gắn liền với lòng tin yêu Chúa cách sâu đậm  đích thực  thì mới có giá trị  thuyết phục  và hy vọng được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn cho hết mọi người chúng ta.

Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ( secularism) ngày nay, chủ nghĩa vô thần, vô luân, tôn thờ tiền bạc ( cult of money) và ham  mê khoái lạc ( hedonism) đang chi phối mạnh mẽ  để lôi  kéo con người ra  khỏi  mọi niềm tin tôn giáo, nhất là niêm tin có Thiêm Chúa là  Đấng trọn tốt trọn lành, đầy yêu thương và giầu lòng tha thứ. Chính vì Thiên Chúa là Đấng trọn  tốt trọn lành nên Người gớm ghét mọi tội lỗi và sự dữ,  như giết người, giết thai nhi để bán các cơ phận của thai nhi như mắt, tim phổi, thận  để làm giầu ,  khủng bố, bắt cóc  chặt đầu con tin, dâm ô, trộm cướp, gian ác, bóc lột, thù nghịch. ,nhất là  buôn bán phụ nữ và trẻ gái cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn  nạn…Do đó, muốn sống niềm tin cho có chiều sâu thực sự, thì người tín hữu Công giáo phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi  và sự dữ nói trên cùng với lối sống của  người đời không có niềm tin, hay có mà không sống niềm tin ấy cách cụ thể. Phải xa tránh tội lỗi và những  cách sống  thiếu niềm tin  của biết bao người khác  để nói lên lòng yêu mến Chúa thực sự , tức yêu mến sự thiện, sự tốt lành, sự trong sạch, sự khôn ngoan,  sự  công chính… là những đặc tính cản bản thuộc  về  Thiên Chúa cực tốt cực lành. Cụ thể,  yêu mến Chúa thực sự  đòi hỏi mọi người tin có Chúa trước hết phải tuân giữ mọi Điều Răn của Chúa  như  Chúa Giê su đã dạy:

Ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

Cha của Thầy và Thầy sẽ  đến và ở lại trong người ấy. ( Ga  14: 23)

Hay rõ hơn nữa

Nếu  anh  em giữ các điều răn của Thầy

Anh  em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy

Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy

Và ở  lại trong tình thương  của Người, ( Ga 15 : 10)

Giữ  lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã dạy , cụ thể  là  hai điều răn lớn và quan trọng nhất: đó  là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người khác như  yêu thương chính mình, như  Chúa Giê su đã nói với một luật sĩ kia. ( Mc 12: 28-31 ).

Tuân giữ các điều răn của Chúa không  phải để làm lợi gì cho  Chúa  mà vì  lợi ích của chính con người mà thôi.Chúa tuyệt đối không  được  lợi lộc gì khi ta tuân giữ các giới răn của Người.Chắc chắn như vậy.

Nói khác đi, nếu ai cũng được tự do cướp vợ  giật chồng của nhau, tự do chiếm đoạt tài  sản của người khác, tự do ăn gian nói dối và tự do giết người và dâm đãng  thì thử hỏi thế giới này sẽ đi về đâu ?

Xã hội có luật pháp và người tín hữu Chúa Kitô có các giới luật của Thiên Chúa , vậy mà vẫn còn đầy rẫy những  tội lỗi và sự dữ như  giết người, oán thù , giết thai nhi, trộm cướp, bóc  lột,  gian dâm và hiếp  dâm , bạo động và chiến tranh…Như vậy, thì thử hỏi :  nếu không có luật pháp xã hội và các giới răn của Thiên Chúa thì  đời sống con người và xã hội  sẽ  thê  thảm đến mức nào  ? Vì thế, tuân giữ luật pháp của xã  hội và các giới răn của Chúa chỉ có lợi cho con người chứ không có lợi lộc gì cho Chúa hết.Cho nên, ta phải cảm tạ Chúa vì Người đã ban  lề  luật cho ta tuân giữ để được  hạnh phúc ngay từ đời này, và nhất là đời sau.

Nói cách khác ,  nếu ai cũng biết tôn trọng mạng sống và danh dự của mình và của người khác, không ai thay vợ đổi chồng  vì ham vui bất chính, không ai lường gạt, bóc lột người khác, không ai tham tiền để mở sòng bạc, nhà điếm,  trồng cây thuốc phiện và cần sa , mở nhà tắm hơi  trá hình để hành nghề mãi dâm, không ai gian ác để giết người, giết thai nhi…thì  bộ mặt của thế giới này đã  không  quá tồi tệ  và ghê sợ như thực trạng  hiện nay.

Vậy, là người Công giáo – tức người tin Chúa Kitô- nếu  muốn sống đức tin cách cụ thể và có sức thuyết phục người khác,  thì   phải  tuân giữ các giới răn  về  mến Chúa, yêu người, yêu sự thiện và công bình, không gian dâm, trộm cắp, không oán thù và làm chứng gian, là những thói hư tật xấu của biết bao người không có niềm tin Thiên Chúa , hay có mà không sống niềm tin ấy cách cân xứng.

Chính việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa lánh mọi thói hư tật xấu của người đời không có niềm tin, sẽ giúp người có và sống  niềm tin  phân biệt mình với họ và nhiên hậu cũng có  sức lôi kéo , mời gọi người khác nhận biết có Chúa nhờ gương sống nhân chứng của mình.

Đây chính là sứ mệnh phúc âm hóa thế giới mà mọi tín hữu trong Giáo Hội có bổn phận thi hành để mang mang Nước Chúa và  góp phần  vào việc cứu rỗi người khác, vì   Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhân biết chân lý.( 1 Tm 2 : 4).

Nói khác đi, sống giữa  thế gian, người tin hữu Công giáo phải  cố thực hành điều Thánh Phaolô đã khuyên dạy tin hữu  Phi-lip-phê  xưa là :

“ …anh  em  hãy làm mọi vệc  mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh  em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì , và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh  em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” ( Pl 2:  14-15)

Thế gian với quá nhiều gương xấu, quá nhiều  quyến rũ về tiền bạc  của cải vật chất , danh vọng  và mọi thú vui vô luân vô đạo,  là một thách đố to lớn cho những ai muốn chọn  Chúa làm gia nghiệp để coi khinh , coi thường những  lợi lãi và danh lợi chóng qua ở trần gian này.

Với những ai đang ham mê chạy theo những lôi cuốn đó của thế gian, thì  Lời Chúa sau đây là một cảnh cáo và thức tỉnh cho họ và cũng cho tất  cả những ai có niềm tin Chúa :

“ …Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống ( mất linh hồn) thì  nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình.? ( Mt 16: 26; Mc 8:  36-37; Lc 9 : 25)

Thử hỏi : có ai được cả thế giới này làm lợi lãi đâu ? nhưng cho dù có chiếm được tất cả danh vọng và tiền bạc của trần thế này,  mà mất mạng sống  tức mất linh hồn thì  được ích gì ? và lợi lãi kia có thể  mua được phần rỗi của linh hồn hay không?

Đó là câu hỏi mà Chúa muốn mỗi người tín hữu chúng ta phải  luôn  suy nghĩ và hành động cho thích hợp.

Cũng cần nói thêm là , sống trên trần gian này, ai cũng phải lo cho mình và người thân của mình có được đời sống ấm no cho phù hợp với nhân phẩm.  Trong mục đích và giới hạn  này, Chúa không dạy chúng ta phải nghèo đói, rách rưới  và vô gia cư thì mới  được chúc phúc và cứu độ. Nghĩa là Chúa không cấm chúng ta đi tìm tiền bạc cho những nhu cầu chính đáng của thân xác  và giúp  thực thi bác ái với anh chị em kém may mắn vì  nghèo túng. Nhưng là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống  mai sau trên Nước Trời , thì  phải coi trọng phần rỗi của linh hồn mình hơn hết, dựa trên lời khuyên bảo sau đây của Chúa Giêsu: đó là :  “ hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách , một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời , nơi trộm cắp không bến bảng, mối mọt cũng không đục phá.” ( Lc  12: 33) . Nghĩa là tiên vàn ta phải tìm kiếm  “ Nước Thiên Chúa , còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” ( Lc  12: 31)

Các thứ kia là cơm ăn,  áo mặc, nhà cửa, xe cộ, bảo  hiểm sức khỏe…là những thứ cần thiết cho đời sống con người bao lâu còn sống trên trần gian này. Và cầu xin Chúa ban cho những phương tiện sống cần thiết đó là  điều chính đáng  và đẹp lòng Chúa.

Nhưng điều cần thiết và quan trọng hơn  là phải để hết tâm trí vào việc sống đạo  cho có chiều sâu thực sự, thể hiện cụ thể qua việc siêng năng cầu nguyện để nâng  lòng trí  lên với Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc và giầu sang vĩnh cửu. Tiếp đến , phải siêng năng lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải  tức là năng tham dự Thánh lễ để  tâm hồn được nuôi dưỡng  bằng lời Chúa và  Mình Máu  Chúa Kitô,  là suối nguồn thông ban ơn cứu độ của Chúa  cho ta  qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm mầu của Chúa Kitô trong trần gian.

Sau nữa, cũng cần thiết phải  luôn chạy đến với Chúa qua bí tích Hòa giải  để được tha thứ mọi tội lỗi vì yếu đuối con người , trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội  hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người.( Mc 3: 29)

Thêm vào đó, phải hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội thể hiện qua việc tuân thủ mọi giáo lý cúa Giáo Hội về hai lãnh vực rất quan trọng là tín lý và luân lý. Tín lý như tin có một Thiên Chúa với Ba Ngôi Vị, tin Chúa Ngôi Hai có hai bản tính là Thiên Chúa và là Con Người thật, tin Đức Maria trọn đời đồng trinh và lên trời cả hồn xác…Luân lý  như cấm phá thai, cấm hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)  cấm thụ thai nhân tạo, và không được ly dị, không được  mê tín dị đoan  cờ bạc và mãi dâm…

Nếu không cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các lợi ích thiêng liêng lớn lao qua các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải  và thi hành  giáo lý của Giáo Hội,  thì  đời sống đức tin sẽ không thể tăng trưởng  được. Và từ đó,  cũng không  giúp  gia tăng lòng yêu mến Chúa và khao khát những sự trên trời  mà hậu quả là  chỉ còn  mù quáng chậy theo những quyến rũ của trần gian với  đam mê tiền của và  mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt  thật của “văn hóa sự chết” đang  chi phối biết bao triệu con người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân và phi nhân hiện  nay.

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, tất cả đều được mong đợi  sống đức tin, đức cậy và đức  mến cách  thực sự có chiều sâu  để nói lên quyết tâm chọn Chúa  làm gia nghiệp , là ưu tiên  nhất cho cuộc sống trên đời này để  chống lại mọi  quyến rũ về tiền bạc, danh lợi và vui thú bất chính  của trần gian  hầu  được cứu độ, được sống hạnh phúc vĩnh  cửu  và  được   thông phần bản tính Thiên Chúa , sau khi đã thoát khỏi cảnh  hư  đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này. như Thánh Phêrô  đã khuyên dạy. ( 2 Pr  1 : 4).

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

NGHỊCH LÝ CỦA ĐỜI TU

NGHỊCH LÝ CỦA ĐỜI TU

Image result for linh måc

Nhìn từ bên ngoài, người ta luôn thấy đời tu rất đẹp, hệt như một Thiên Đường tại thế. Suốt ngày cất cao giọng hát ngợi khen Chúa, vui vẻ với những công việc tầm thường như việc cắt cỏ trồng rau, không một chút bon chen với cuộc đời, không phải lắng lo chuyện gia đình, con cái, không ganh đua với danh vọng cao sang. Nhìn những vị tu sĩ cao niên đắc đạo, miêng lúc nào cũng nở những nụ cười tươi, không quần áo sang trọng, không vàng bạc trữ kho, nhưng tâm hồn lúc nào cũng bình yêu thư thái, lối hành xử luôn chậm rãi khoan thai, không hờn ai, không trách cứ, đó quả thực là điều nhiều người ước mong. Rồi những tấm gương hy sinh cả một đời giúp đỡ những người cơ nhỡ, người nghèo, hay những ai bị cuộc đời ruồng rẫy, họ làm việc như thể đó là niềm vui, cho đi mà chẳng mong gì đền đáp, bao lụy phiền của nhân tình thế thái chẳng thể bám víu trái tim họ. Đời tu quả là tươi đẹp, là dấu chỉ của Nước Chúa hiện diện ở trần gian.

Thế nhưng, chỉ có những ai sống trong đời tu mới có thể hiểu rõ được sống đời tu thật không dễ tí nào. Để có thể trở nên một cây cổ thụ sừng sững uy phong, nó đã phải trải qua không ít những gian nan thử thách. Cây nào chịu đựng được thì lớn lên; cây nào không đủ sức thì gục ngã. Đời tu tuy đẹp đấy, nhưng để có thể sống trọn vẹn lý tưởng này, chẳng con người nào có thể tự sức mình mà sống được. Ấy là bởi vì sống đời tu là sống giữa nghịch lý vô cùng căng thẳng của kiếp người.

Người đi tu là người sống giữa thế gian nhưng không được để mình bị thế gian đụng đến. Họ người có đôi chân chạm đất nhưng đầu thì hướng thẳng về trời cao. Họ phải sống trong cuộc đời nhưng lại bị xem là người ở cõi khác. Họ chọn đời hiến dâng không phải để trốn đời, hận đời, nhưng là để vào đời và yêu mến đời nhiều hơn. Người đi tu cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp như ai kia, nhưng phải chọn lấy cho mình phần kém nhất. Họ phải trải rộng tình thương của mình cho người khác, nhưng lại không được để một người nào đó được phép yêu mình. Họ phải yêu người nhưng không được giữ lại riêng cho mình một ai. Họ yêu nhưng không được nắm giữ.

Ai cũng mong muốn mình có một bến đỗ dừng chân, nơi một mái ấm nhỏ, có tiếng cười của con thơ. Nhưng người đi tu thì phải vượt trên mong muốn ấy. Họ có đôi bàn chân không bao giờ ngừng bước. Họ như ngọn gió ngao du khắp núi rừng, băng qua biển khơi. Chẳng nơi đâu là nhà nhưng cũng chẳng nơi đâu là xa lạ. Nơi họ đặt chân đến là quê hương, là cuộc sống của họ… Họ không được đậu neo ở điểm dừng nào, không được để lòng lưu luyến ai hay bất cứ nơi đâu, nhưng phải thanh thoát và tự do với mọi sự. Nơi con tim của người đi tu chất chứa đầy những tâm tư sâu kín. Họ có yêu ai không, không ai biết; họ có ghét ai không, chẳng ai hay; họ có nóng giận, buồn phiền với ai không, không ai tỏ. Dù bên trong có thế nào, điều mà họ thể hiện ra bên ngoài phải là niềm hạnh phúc, phải là niềm vui, phải là dấu chỉ của Nước Trời.

Đó là lý tưởng đẹp, nhưng cũng là điều không phải dễ mà sống được. Sống giữa căng thẳng luôn làm người ta như muốn xé nát con người mình làm đôi. Làm sao giữa dòng đời vạn biến, tâm mình vẫn không động, vẫn yên vui? Làm sao giữa một thế giới đang hô hào chuyện hưởng thụ vật chất, sống trụy lạc và tự do cá nhân, mình lại chủ trương chọn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục người khác? Có những tu sĩ đã vì những xu hướng và thúc bách cá nhân đưa đẩy, lại thiếu đi sự kết hiệp với Chúa nên đã dần dần đánh mất đi lý tưởng tuyệt vời và cao quý của đời tu.

Trong giờ phút này, chúng ta hãy dành ít phút cầu nguyện cho những vị tu sĩ ấy:

Trước hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai đang đứng trước chọn lựa giữa đời tu và đời sống bình thường. Xin cho họ được ơn soi sáng để có thể bình tâm chọn lựa điều nào hợp với thánh ý Chúa cho cuộc đời mình.

Chúng ta cũng xin Chúa đến kề bên và nâng đỡ những tu sĩ nào đang bị ngả nghiêng theo cơn gió cuộc đời. Xin cho họ biết chạy đến với Chúa khi tâm hồn có chút gợn sóng nhân gian để được ủi an và thêm sức, chứ đừng tìm bù trừ nơi những niềm vui thế tục, nơi những vật chất, tiện nghi. Xin Chúa giúp cho các tu sĩ biết tìm hạnh phúc nơi những hy sinh và thập giá, chứ không phải nơi bạc tiền và danh vọng.

Xin cho các tu sĩ nhận ra rằng biết bao linh hồn đang cần họ đi tới và chia sẻ; có rất nhiều người đang nhìn đến đời sống phục vụ vô vị lợi của họ mà thầm tạ ơn Chúa và nhờ đó có thêm nghị lực đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho họ đừng vì ích kỷ cá nhân và quên đi lời gọi mời cao quý Chúa đã dành cho họ.

Xin cho các tu sĩ, mỗi ngày nên giống Đức Giêsu Kitô vác thập giá – mẫu gương đời sống dâng hiến của họ hơn.

Chau Micae