SÓNG VÀ BỜ….

SÓNG VÀ BỜ….

Thầy kính mến!

Con đang sống trong tâm tình của mùa chay.  Con đang suy niệm về tình yêu cao cả mà Thầy đã và còn đang ban tặng cho con.  Tình yêu của Thập Tự đã chưa một lần kết thúc, bởi vì tình yêu ấy vẫn còn dở dang.  Tại sao tình yêu ấy vẫn còn dang dở ư?  Cũng bởi vì mối duyên tình sâu thẳm ấy vẫn đang được trao ban từng giây, từng phút trong cuộc sống của con đây.  Một mình lang thang dọc bên bờ biển dài, tâm tư con ngẫm suy về mối tình thiêng liêng cao quý ấy.  Con thấy mình bỗng dưng hạnh phúc dâng trào.

Con ngắm nhìn kỳ công của Đấng Tạo Hoá, con xin thú nhận rằng con chẳng có thể tìm nổi từ ngữ nào để diễn tả hết sự thán phục của con về vẻ đẹp của tạo hóa.  Còn đẹp hơn biết bao nhiêu Người đã tạo ra chúng.  Chưa bao giờ con thấy vốn từ của con lại nghèo nàn như bây giờ.  Nhưng con biết chắc một điều, Chúa tạo nên tất cả  vạn vật cho chúng con được làm chủ.  Một tình yêu cho đi một cách nhưng không.

Con viết vài chữ trên mặt cát trắng.  Có con sóng kia sô bờ, xoá sạch mọi tì vết.  Rồi sóng ra xa, chỉ còn lại một bãi cát trắng tinh tuyền không để lại bất kỳ một dấu tích nào của những gì con vừa viết lên cát.  Con chợt ngộ ra, mối tình giữa Thầy và con cũng như sóng và bờ cát trắng vậy.

Con – Chúa tạo nên con tinh tuyền như bờ cát trắng.  Năm tháng dài, con quên mất mối tình xưa.  Con đeo bám theo những đam mê của xác thịt con.  Con làm cho bờ cát tinh tuyền ấy trở nên ố mờ.  Bờ cát trắng nay đã vẩn đục.

Thầy – như là những ngọn sóng yêu thương vẫn ngày đêm chung thuỷ vỗ về, mời gọi con gội sạch tội đời.  Rồi ngày kia khi con đến bên toà giải tội.  Thầy, như một con sóng lớn ôm trọn lấy, không phải để huỷ diệt nhưng là để thanh tẩy, để ôm lấy con – bờ cát trắng đã uế màu vì tội lỗi.

Thầy yêu mến!  Dù bờ cát trắng như con có bị hoen úa vì tội lỗi, mặc dầu con đã viết lên bờ cát trắng ấy đủ các thứ tội, nhưng tình yêu của Thầy cao cả và bao dung như đại dương đã hoá thân thành những ngọn sóng để ôm lấy, để thanh tẩy, để xoá đi mọi ngăn cách, để mặc lại cho con chiếc áo tình tuyền của thuở ban đầu.  Con xin cảm tạ mối tình sâu thẳm từ muôn thuở ấy.  Xin cho con trong mùa chay này nhận ra rằng tình yêu không bờ bến của Chúa như là những con sóng lớn đang dang rộng để ôm lấy con, để yêu con, để tha thứ tội lỗi con.   Xin ban cho con luôn dìm mình trong bể lớn tình yêu của Thầy.

Gửi Thầy Giêsu yêu mến của lòng con,

Con Dom Stone

Cảm nếm huyền nhiệm

Cảm nếm huyền nhiệm

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Chuacuuthe.com

– Tin nổi bật, Chuyên Đề

VRNs (21.03.2015) – Sài Gòn – Tôi có một vị thầy rất đắc lực trong nhiều năm nay. Tôi chưa bao giờ gặp ông, vì ông đến với tôi trong … một câu chuyện rất dễ thương. Ông là một rabbi sống tại một thị trấn nhỏ ở Nga hồi đầu thế kỷ trước. Và sau hai mươi năm trầm tư suy nghĩ về những vấn nạn tôn giáo sâu xa nhất, những vấn đề thuộc chiều kích tâm linh trong cuộc sống, ông cuối cùng đi đến kết luận rằng ông thực sự chẳng biết gì.

150314009

Lần nọ, ít lâu sau khi đạt tới kết luận ấy, ông rảo bước qua quảng trường thị trấn để đi đến hội đường cho buổi cầu nguyện thường lệ. Trên đường đi, ông gặp anh chàng công an khu vực. Anh công an này hôm ấy hình như có chuyện bực mình, muốn ‘xả xú bắp’ cho ông: “Ê, rabbi! Đi đâu vậy?”

“Tôi không biết.” Rabbi trả lời.

“Ông không biết ông đang đi đâu! Thế nghĩa là thế nào?” – Người công an cáu lên. Hắn tiếp tục hò hét: “Ngày nào ông cũng đi ngang qua đây lúc 11 giờ để đến hội đường cầu nguyện; bây giờ là 11 giờ, và ông vẫn đang đi ngang qua đây như mọi bữa! Thế mà ông nói với tôi rằng ông không biết ông đang đi đâu! Ông dám xem thường tôi và giỡn mặt tôi? Được, tôi sẽ dạy cho ông biết lễ độ.”

Thế là người công an tóm lấy rabbi, lôi rabbi đến trại giam địa phương. Đến cửa xà lim, rabbi quay lại nhìn anh công an và điềm nhiên nói: “Anh thấy đó, chính anh cũng không biết; chẳng riêng gì tôi!”

Thế đấy, tôi không biết. Không ai biết. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ vô cùng huyền nhiệm. Nói theo cách nói của Thomas Edison: “Chúng ta thậm chí không hiểu một phần trăm về chín mươi chín phần trăm của bất cứ sự việc gì” (We don’t even begin to understand 1 percent about ninety-nine percent of anything).

Thật không may, rất ít người nhận ra điều đó. Đa số trong chúng ta đều nghĩ rằng mình biết nhiều thứ. Chúng ta biết địa chỉ của mình, số điện thoại của mình, số căn cước của mình. Chúng ta biết đường để lái xe đến sở, chúng ta biết đường về nhà sau khi tan sở. Chúng ta biết rằng trong xe của chúng ta có một cái gì đó gọi là máy nổ – làm cho chiếc xe vận hành. Và chúng ta biết rằng khi mình mở khóa khởi động thì cái máy ấy sẽ bắt đầu làm việc. Chúng ta biết mặt trời đã mọc lên hồi sáng nay và sẽ lặn xuống chiều nay – và nó sẽ mọc lại vào sáng ngày mai. Vậy thì, có chi là quá huyền nhiệm đâu?

Tôi cũng vốn thường cảm thấy như thế. Hồi tôi còn học ở trường y, tôi thường tiếc rẻ rằng chẳng còn có biên giới nào nữa trong y học. Tất cả các bệnh lớn đều đã được khám phá và được nắm rõ; dường như rõ ràng là tôi sẽ chẳng bao giờ trở thành một Jonas Salk để miệt mài làm việc đến quên ăn quên ngủ nhằm thực hiện những khám phá vĩ đại phục vụ cho nhân loại.

Ơ kìa, có vài chuyện mà chúng tôi nhận thấy rằng mình không biết đấy chứ! Vào học năm thứ nhất được vài tháng, bọn sinh viên chúng tôi tham dự một buổi thực hành do vị chủ tịch khoa thần kinh phụ trách. Sử dụng một người đàn ông gần như trần truồng làm vật mẫu trong giảng đường chen chúc sinh viên, vị chủ tịch khoa giới thiệu rành mạch cho chúng tôi thấy người đàn ông ấy đã chịu đựng một thương tổn trong tiểu não, một thương tổn khác ở mút trên cột sống, và một thương tổn khác nữa ở mút dưới. Thật hết sức ấn tượng! Nhưng khi kết thúc buổi học, một trong các bạn tôi đã giơ tay xin phát biểu và nói: “Thưa thầy, tại sao người đàn ông này phải bị những thương tổn như vậy? Có gì không ổn ở ông ta?” Vị chủ tịch khoa thần kinh khẽ nhíu trán, tuyên bố: “Bệnh nhân này bị idiopathic neuropathy.” Tất cả chúng tôi trở về phòng, lật sách giáo khoa để tra lại thuật ngữ ấy và thấy rằng idiopathic có nghĩa: “có nguyên nhân không được rõ”. Vậy, idiopathic neuropathy không có nghĩa gì hơn là một căn bệnh thuộc hệ thần kinh mà nguyên nhân của nó chưa được khám phá!

Vì thế, chúng tôi bắt đầu nhìn nhận rằng vẫn còn có những bệnh thần kinh và nhiều bệnh khác có tính idiopathic – chúng ta chưa nắm rõ – đấy chứ! Nhưng tất cả những vấn đề lớn thì đều đã được biết! Suốt những năm ở trường y, tôi thường có những thắc mắc, nhưng các giáo sư của tôi đã giải đáp tuốt tuồn tuột! Tôi không bao giờ nghe một vị giáo sư nào trong trường y nói “Tôi không biết!” Không phải lúc nào tôi cũng hiểu các câu trả lời của họ, nhưng tôi cho rằng đấy là do lỗi của mình – và một điều chắc chắn rằng với đầu óc bé nhỏ của mình, tôi sẽ chẳng bao giờ thực hiện được một khám phá y học nào đáng kể.

Nhưng khoảng 10 năm sau khi rời trường y, tôi đã có một khám phá y học đáng kể. Tôi khám phá ra rằng: Chúng ta xem ra chẳng biết gì mấy về y khoa. Tôi khám phá điều đó bởi vì tôi không còn hỏi “chúng ta biết gì?”; thay vào đó, tôi hỏi “chúng ta không biết gì?” Vừa khi đặt câu hỏi “chúng ta không biết gì?”, tôi chợt thấy tất cả những biên giới mà mình vốn tưởng đã đóng kín lại mở ra. Và tôi nhận ra rằng chúng ta đang sống trong một thế giới của những biên giới.

Tôi xin dẫn ra đây một ví dụ. Một trong những chứng bệnh được ‘nắm’ rất rõ là bệnh viêm màng não (meningococcal meningitis), một thứ bệnh không phổ biến lắm song rất hay được nhắc đến. Mỗi mùa đông, cứ 50 ngàn người thì có một người nhiễm chứng bệnh này. Nếu bạn hỏi bất cứ y sĩ nào về nguyên nhân của chứng bệnh này, y sĩ sẽ trả lời bạn: “Nguyên nhân hả? Dĩ nhiên do khuẩn màng não.” Xét trên một bình diện nào đó thì câu trả lời ấy hoàn toàn đúng, vì nếu bạn khám nghiệm tử thi những người chết do căn bệnh ghê gớm này – (số tử vong là 50%, trong khi 25% bị thương tật vĩnh viễn!) – và mở hộp sọ của họ ra, bạn sẽ thấy các màng nhầy bao bọc não bị phủ đầy những mủ. Rồi, nếu bạn xem xét những mủ ấy qua ống kính hiển vi, bạn sẽ nhìn thấy hàng tỉ tỉ con giòi đang bơi lội dày đặc. Bây giờ nếu bạn trích chúng ra, bạn sẽ thấy gì? Khuẩn màng não, dĩ nhiên!

Chỉ có một điều lấn cấn. Nếu mùa đông rồi tôi xét nghiệm cuống họng các cư dân tại thị trấn New Preston nhỏ bé của tôi ở Connecticut – hay cư dân của bất cứ một thành phố nào đó phía bắc – tôi sẽ khám phá thấy những con giòi này nơi khoảng 85% số các cuống họng mà tôi khảo sát. Tuy nhiên, không ai ở Preston đã nhiễm bệnh, càng không ai đã chết do bệnh viêm màng hồi mùa đông rồi. Bao thế hệ trước đây cũng vậy, và những thế hệ sau này chắc hẳn cũng vậy!

Bằng cách nào và tại sao loại vi trùng này – hầu như có mặt khắp mọi nơi chốn – có thể tồn tại nơi 49.999 người mà không gây sự cố gì, mà chỉ có thể đi vào trong não của một người (thường là trẻ khỏe trước đó) để gây tử vong cho người đó?

Câu trả lời là: Chúng ta không biết!

Điều tương tự cũng đúng với hầu như mọi thứ bệnh khác trên đời này. Chúng ta hãy lấy ví dụ về một căn bệnh nổi tiếng khác phổ biến hơn nhiều so với bệnh viêm màng não nói trên, đó là bệnh ung thư phổi. Tất cả chúng ta đều biết rằng việc hút thuốc lá gây ra bệnh ung thư phổi. Tuy nhiên có một số người không bao giờ đụng đến một điếu thuốc nhưng vẫn bị ung thư phổi và chết vì căn bệnh này. Và có một số người – như ông nội tôi – đã hút thuốc rất nhiều và hút gần như suốt cả cuộc đời 92 tuổi của cụ, nhưng cụ đã không bao giờ bị ung thư phổi. Thật rõ ràng, có một cái gì đó nữa ngoài việc hút thuốc lá có liên quan đến nguyên nhân của căn bệnh ung thư phổi. Và đó là cái gì? Một lần nữa, câu trả lời là: Chúng ta thường không biết!

Điều này xảy ra không chỉ cho hầu như mọi chứng bệnh mà còn cho cả việc điều trị các chứng bệnh nữa. Thỉnh thoảng các thân chủ mà tôi đã kê toa trị liệu hỏi tôi: “Thưa Bác Sĩ Peck, những thuốc ấy sẽ tác dụng như thế nào?” Tôi sẽ bảo họ rằng nó điều hợp sự quân bìnhcatecholamine trong hệ limbic của não họ. Và câu trả lời ấy sẽ làm cho họ ngẩn tò te, ngậm tăm luôn! Nhưng, một cách chính xác, bằng cách nào một hóa chất nào đó có thể thay thế cho sự cân bằng catecholaminetrong hệ limbic của não để làm cho một người bị suy sụp cảm thấy hưng phấn hơn, hay làm cho một người bị tâm thần phân liệt có thể suy nghĩ cách mạch lạc rõ ràng hơn? Câu trả lời là: Chúng ta không biết!

Bạn có thể ghi nhận rằng đã có thời các bác sĩ không biết gì nhiều lắm. Nhưng những người khác thì biết nhiều, phải không? Tôi có ý nói rằng y khoa có thể là một cái gì đó thuộc nghệ thuật, nhưng các khoa học chặt chẽ – chẳng hạn vật lý học – đã có tất cả các qui luật nghiêm ngặt của nó.

Vật lý học hiện đại có thể nói đã bắt đầu với Isaac Newton; và khi quả táo ấy rơi trên đầu ông, ông không chỉ khám phá trọng lực mà thực tế ông còn phát triển một công thức toán học cho nó. Vì thế, bây giờ mọi người đều biết rằng hai vật thể hút nhau với một lực tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Qui luật ấy xem ra thật hiển nhiên.

Nhưng tại sao? Tại sao hai vật thể hút nhau? Tại sao lại có cái lực đó? Lực đó bao gồm những gì? Và câu trả lời là: Chúng ta không biết. Công thức toán học của Newton chỉ mô tả hiện tượng, nhưng tại sao lại có hiện tượng ấy và hiện tượng ấy vận hành như thế nào? Chúng ta không biết. Trong thời đại kỹ thuật tân kỳ của chúng ta, chúng ta vẫn thậm chí không hiểu cái gì đang giữ đôi bàn chân chúng ta trên mặt đất. Vì thế, cả đối với các khoa học chặt chẽ, chúng ta cũng chưa nắm biết gì nhiều lắm.

Nhưng chắc chắn một ai đó phải biết một cái gì đó. Tôi đã nói rằng toán học rất có tính chắc chắn hiển nhiên. Các nhà toán học phải biết được sự thật. Hồi ở trường, tất cả chúng ta đều học chân lý vĩ đại rằng hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Nhưng rồi, đến khi tôi học năm thứ tư đại học, ngày nọ đang rảo bước xuống sân, tôi chợt nghe một ai đó đề cập một cái gì đó về hình học Riemann. Sau đó tôi tra cứu và phát hiện ra rằng Bernhard là một nhà toán học người Đức, hồi giữa thế kỷ 19 ông đã tự hỏi: “Nhưng nếu hai đường thẳng song song gặp nhau thì sao?” Dựa theo giả thiết rằng hai đường thẳng song song gặp nhau, và một số giả định khác mà ông tạo ra trong các định đề Euclid, ông đã phát triển một khoa hình học hoàn toàn mới. Điều đó có thể chỉ là một hoạt động thuần túy tri thức hay một hình thức chơi đùa, một loại tính toán kiểu như tính thử có thể có bao nhiêu thiên thần nhảy múa trên đầu một cây kim, nếu như nó không phục vụ cho thực tế như nhiều tính toán của Albert Einstein (chẳng hạn sự tính toán đã dẫn đến việc chế tạo ra bom nguyên tử). Tất cả chúng ta đều biết rằng bom nguyên tử đặt cơ sở không phải trên hình học Euclid nhưng là trên hình học Riemann.

Các bạn hữu nghiên cứu về toán học đã cho tôi biết rằng con số khoa hình học có khả năng phát triển được là vô hạn. Kể từ thời Riemann, chúng ta đã phát triển thêm 6 khoa hình học ứng dụng, như vậy chúng ta hiện nay có tất cả 8 khoa hình học ứng dụng khác nhau. Đâu là khoa hình học đích thực? Chúng ta không biết.

TÂM LÝ HỌC NHƯ THUẬT GIẢ KIM

Không đi quá xa với các khoa học tự nhiên chặt chẽ, tôi xin trở lại với khoa tâm lý học của mình, một khoa học mềm dẻo hơn. Một số người đã so sánh tâm lý học với thuật giả kim. Ngược về thời của thuật giả kim, thời mà các nhà khoa học cố gắng biến các kim loại thành vàng, tất cả những gì được biết về thế giới chung qui là rằng thế giới gồm bốn yếu tố: đất, khí, lửa và nước. Kể từ đó chúng ta đã khám phá ra bảng tuần hoàn của các nguyên tố (Hydro, Oxy, Carbon, vv…) Nhưng tâm lý học thì dường như vẫn còn ở trong thời tăm tối của thuật giả kim!

Chẳng hạn, phong trào giải phóng phụ nữ dựa nền tảng trên một số giả định về những dị biệt hay những tương đồng phi thể lý giữa phụ nữ và nam giới. Những dị biệt hay những tương đồng phi thể lý đó là gì? Bao nhiêu trong số chúng thuộc lãnh vực văn hóa hay xã hội? Bao nhiêu thuộc lãnh vực sinh học? Chúng ta không biết. Giờ đây ở cuối thế kỷ 20, chúng ta biết cách đưa mình bay lên khỏi mặt đất, nhưng chúng ta không nắm rõ mấy về tính dục.

Hay thử xét đến khuynh hướng tò mò của con người, có liên hệ rất nhiều đến chủ đề về huyền nhiệm. Phải chăng tất cả mọi người đều được sinh ra với bản tính tò mò như nhau? Hay người ta sinh ra với những mức độ tò mò khác nhau? Phải chăng tò mò là một cái gì đó đến với chúng ta theo đường di truyền? Hay nó là cái mà chúng ta đã tập làm quen khi lớn lên trong nền văn hóa của chúng ta? Nó là một cái gì đó được tọng vào cho chúng ta hay được moi ra từ chúng ta? Chúng ta không biết. Một lần nữa, ánh sáng tri thức của một ngành khoa học về khuynh hướng quan trọng bậc nhất này của con người vẫn chưa ló dạng cho chúng ta.

Hiểu biết ít ỏi như thế, vậy thì tại sao con người chúng ta vẫn nghĩ rằng mình đã biết rất nhiều? Có hai lý do: Vì chúng ta hoảng sợ và vì chúng ta lười biếng.

Chúng ta hoảng sợ không dám nghĩ rằng thật sự mình không biết mình đang làm gì hay đang đi đâu, rằng chúng ta là những đứa trẻ có lý trí đang dò dẫm trong bóng tối. Do đó, thật là thoải mái hơn khi sống trong một ảo tưởng rằng mình hiểu biết nhiều hơn những gì mình thực tế hiểu biết.

Chúng ta cũng sống trong ảo tưởng bởi vì chúng ta lười biếng. Nếu chúng ta ý thức về sự ngu dốt của mình, chúng ta sẽ hoặc phải nghĩ rằng mình vô cùng ngu ngốc hoặc phải dấn mình vào cuộc học tập không ngừng suốt cả đời. Vì đa số chúng ta không thích nghĩ mình ngu ngốc, cũng không thích dấn mình vào cuộc học tập suốt cả đời, nên để được thoải mái hơn, chúng ta sống trong ảo tưởng thú vị rằng mình hiểu biết nhiều hơn những gì mình thực tế hiểu biết.

Khổ nỗi, đấy chỉ là ảo tưởng. Nó không thực. Bạn có thể nhớ lại trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã định nghĩa sự lành mạnh tâm thần là một tiến trình không ngừng dấn thân cho thực tại bằng mọi giá. Và “bằng mọi giá” nghĩa là dù thực tại có làm ta khó chịu đến mấy đi nữa.

Hiện nay, trong nền văn hóa tránh né đau khổ của chúng ta, sự lành mạnh tâm thần không luôn luôn được khuyến khích. Khi một người nào đó bị một hụt hẫng về tâm cảm, chúng ta nói: “Ồ, anh chàng Joe tội nghiệp. Anh ta bị vỡ mộng rồi!” Đáng lẽ ra chúng ta nên nói: “Ồ, anh chàng Joe may mắn. Anh ta được vỡ mộng rồi.” Vỡ mộng là nhìn thấy mọi sự như thực tế của nó, vậy mà đáng tiếc ư? Té ra ý thức được thực tại là một điều tệ hại? Cũng thế, trong tâm lý trị liệu, khi người ta mổ xẻ sự kiện họ bị quấy rối tình dục hay bị bỏ bê hồi nhỏ, chúng ta không thể nói: “Ồ, đáng thương quá!” – bởi vì nỗi đau mà họ từng trải ấy cuối cùng đang đem lại sự lành mạnh tâm thần cho họ.

Dĩ nhiên qui luật nào cũng có những ngoại lệ. Và tôi là một nhà vô địch vĩ đại về cái mà các nhà tâm lý gọi là những “ảo tưởng lành mạnh”. Chẳng hạn, một y sĩ bị một chứng đau tim, được đưa vào khoa săn sóc đặc biệt, có lẽ có nguy cơ chết gấp hai lần so với một người không phải là y sĩ. Lý do là vì ông ấy biết tất cả những gì có thể trục trặc, trong khi một người khác sẽ nói đơn giản: “Ồ, tôi chỉ bị đau tim.” Vì thế, đôi khi ảo tưởng lại giúp cho người ta lành mạnh.

Tuy nhiên, nói chung, tôi cho rằng thật tốt cho chúng ta nếu chúng ta được xóa tan ảo tưởng. Chúng ta càng thích nghi với thực tại thì cuộc sống của chúng ta càng vận hành tốt hơn. Nhưng chúng ta chỉ có thể sống trong một thế giới thực tại khi biết cảm nếm huyền nhiệm. Vì thực tại lồ lộ nhất là: kiến thức của ta chỉ như một giọt nước giữa biển cả vô minh mênh mông, giữa đại dương của huyền nhiệm. Và sẽ rất không may khi ta sống giữa ‘biển’ mà không thích ‘nước’! Cách duy nhất để có cơ may là phải yêu mến ‘nước’, yêu mến huyền nhiệm, phải thích ngụp lặn trong nóù và bơi lội trong nó, uống nó và cảm nếm nó …

TÒ MÒ VÀ LÃNH ĐẠM

Một trong những dấu chỉ đặc trưng cho những người kém sức khỏe tâm thần nhất, những người ít trưởng thành nhất giữa chúng ta – đó là họ thiếu một cảm thức về huyền nhiệm, hay họ không có đủ tính tò mò. Điều quấy rầy tôi nhất khi tôi ghé vào một bệnh viện tâm thần không phải là sự điên khùng của các bệnh nhân, cũng không phải là sự hung dữ hay sự sợ hãi của họ, nhưng là sự lãnh đạm. Đôi khi lãnh đạm có nguyên nhân từ ma túy, nhưng một tính cách lãnh đạm khủng khiếp thường là đặc điểm cho thấy một người bị rối loạn tâm thần.

Điều gì xảy ra với những người lành mạnh khi trời bắt đầu đổ tuyết? Họ bước lại chỗ cửa sổ, nhìn ra bên ngoài và trầm trồ: “Tuyết rơi nhiều thật!”, hay: “Ồ, trời đang bão tuyết!” Nhưng trong một bệnh viện tâm thần, khi ai đó trầm trồ “Chà, tuyết bắt đầu rơi!”, thì các bệnh nhân sẽ: “Ê, đừng làm cản trở cuộc chơi bài của chúng tôi.” Thế đấy, hoàn toàn lãnh đạm!

Một hình thức khác của bệnh tâm thần là khi người ta không thể chịu đựng được huyền nhiệm thì họ tạo ra những giải thích cho những gì vốn không giải thích được. Chẳng hạn, cách đây ít năm, tôi nhận được một bức thư 8 trang rất buồn, trang đầu được viết rất rõ ràng mạch lạc, nhưng nội dung đề cập rằng người viết có một đứa con trai bị chứng ung thư lá lách. Vì vậy khi bức thư tiếp tục, chữ viết và câu cú của anh ta trở nên rối rắm hơn rất nhiều. Anh ta viết: “Bác sĩ Peck, chắc hẳn bác sĩ biết điều mà ông bà chúng ta ngày xưa đã từng biết – đó là tất cả chúng ta đều có một hồn ma đi theo không rời chúng ta, và có một yếu tố ion hóa tồn tại giữa thể xác chúng ta và hồn ma ấy – và bệnh của chúng ta là kết quả của yếu tố ion hóa này…”

Tôi không hề biết chuyện đó. Đó là một giả thuyết ly kỳ thỉnh thoảng có người nêu lên. Nhưng một giả thuyết như thế chẳng có được tí cơ sở nào. Vì thế, theo một nghĩa nào đó, người đàn ông kia đã tìm thấy một sự giải thích cho chứng ung thư lá lách của con trai mình. Có lẽ điều đó đem lại cho ông một sự dễ chịu, tháo gỡ ông ra khỏi huyền nhiệm của sự việc. Nhưng sự chắc chắn ấy của ông là một ảo tưởng không hơn không kém.

Trái lại, một trong những đặc điểm của người lành mạnh tâm thần là cảm thức bén nhạy về huyền nhiệm và sự tò mò sâu sắc. Họ ngạc nhiên về mọi sự: về các thiên hà xa xôi, về tia laser, về những con bọ ngựa, vv… Điều gì cũng khích động suy nghĩ của họ. Tuy nhiên đa số trong chúng ta rơi vào giữa hai tình trạng trên: tình trạng lành mạnh tâm thần và tình trạng điên rồ. Đối với phần đông trong chúng ta, cảm thức huyền nhiệm vẫn còn ngủ vùi.

Trong khi hành nghề của mình, tôi vốn thường nói với các thân chủ tôi rằng họ đang thuê tôi làm một hướng dẫn viên dẫn họ đi qua sa mạc vô thức. Họ đang thuê tôi không phải vì tôi đã đi qua vô thức của họ trước đây, nhưng chỉ vì tôi biết một cái gì đó về qui luật để khám phá vô thức. Trong thực hành tâm lý trị liệu, vô thức của mỗi người mỗi khác nhau. Và mỗi lúc, cuộc hành trình trở nên mỗi khác. Đó là điều thú vị cho tôi.

Để thám hiểm vô thức, người ta phải là một nhà thám hiểm. Và để trở thành một nhà thám hiểm, người ta phải có một cảm thức huyền nhiệm. Đối với Lewis và Clark, đó là huyền nhiệm của những gì nằm ở phía bên kia Appalachians. Đối với các nhà du hành vũ trụ thì đó là huyền nhiệm của không gian bên ngoài trái đất. Đối với các bệnh nhân trong tâm lý trị liệu thì đó chủ yếu là huyền nhiệm bên trong chính con người họ. Nếu trong quá trình trị liệu, tính hiếu kỳ của bệnh nhân về huyền nhiệm từ thuở bé được đánh thức dậy, và nếu bệnh nhân bắt đầu khám phá ra những ký ức bị lãng quên và khám phá ra ảnh hưởng của một số kinh nghiệm và biến cố trên cuộc đời họ, khám phá ra huyền nhiệm của các gien di truyền và tính tình của mình, di sản của mình, văn hóa của mình, các giấc mơ của mình và những ý nghĩa có thể tiềm ẩn trong các giấc mơ ấy … thì cuộc trị liệu sẽ có khả năng tiến xa. Đàng khác, nếu trong tiến trình trị liệu, những cảm thức huyền nhiệm ấy không được đánh thức, thì hành trình thám hiểm của đương sự không có cách nào tiến xa được.

Tôi sử dụng từ ‘đánh thức’ cảm thức huyền nhiệm của bệnh nhân bởi vì tôi tin – dù chúng ta chưa có ngành khoa học nào làm cơ sở cho điều này – rằng cảm thức huyền nhiệm là một cái gì đó có thể được phát triển, ít nhất nơi một số người. Có thể ví như người ta phát triển khiếu thưởng thức whiskey vậy. Đây là một cảm thức có thể được phát triển vô hạn, bởi vì bạn càng lặn ngụp trong huyền nhiệm thì huyền nhiệm càng mở ra thênh thang hơn. Bạn muốn uống huyền nhiệm bao nhiêu tùy thích. Nó hoàn toàn không gây chán ngán và hoàn toàn miễn phí, không có thuế sản xuất cũng không có thuế tiêu thụ. ‘Nghiện’ huyền nhiệm là sự nghiện ngập duy nhất mà tôi có thể nồng nhiệt khuyến khích bạn.

HUYỀN NHIỆM VÀ HÀNH TRÌNH TÂM LINH

Sống trong thế giới thực tại – đó không chỉ là mục tiêu của sự lành mạnh tâm thần. Đó cũng là mục tiêu của hành trình tâm linh nữa. Nhưng nói cho cùng, hành trình tâm linh cũng chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa thực của đời sống! Một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa đích thực!

Một trong những điều nhập nhằng về tôn giáo, đó là người ta bước vào tôn giáo vì những lý do khác nhau. Một số người được lôi cuốn vào tôn giáo để tiếp cận huyền nhiệm, trong khi cũng có những người bước vào tôn giáo để trốn thoát khỏi huyền nhiệm. Ở đây, tôi không có ý ‘gõ’ vào những người dùng tôn giáo để tránh né huyền nhiệm. Vì có những người – ở vào một điểm quặt trong cuộc phát triển tâm lý và tinh thần của mình (chẳng hạn, những người nghiện rượu bắt đầu bỏ ruợu, những người gây tội ác bắt đầu một cuộc sống lương thiện) – họ cần những niềm tin rõ ràng, họ cần những nguyên tắc để sống … Tuy nhiên, tôi muốn nhắc bạn rằng con người trưởng thành tinh thần đầy đủ thì không quá níu bám vào giáo thuyết như kiểu các nhà khoa học níu bám vào các nguyên tắc khoa học, và rằng không có cái gọi là đức tin trọn vẹn. Thực tại, giống như Thiên Chúa, là một cái gì đó chúng ta chỉ có thể tiến gần tới mà thôi (chứ không đạt tới được).

Trong khát vọng muốn hiểu thực tại, chúng ta – một cách nào đó – cũng giống như một người cố nắm hiểu cơ chế vận hành của một chiếc đồng hồ. Người ấy nhìn thấy mặt đồng hồ, thấy các kim đồng hồ đang chuyển động, thậm chí nghe cả tiếng tích tắc, nhưng người ấy không biết cách mở chiếc đồng hồ ra. Nếu anh ta có trí óc sắc sảo, anh ta có thể hình dung một hình ảnh nào đó về bộ máy vận hành để đưa tới những gì mà anh nhìn thấy được, nhưng anh ta không bao giờ dám chắc chắn rằng sự hình dung của mình là khả năng duy nhất giải thích tất cả. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh hình ảnh do mình tưởng tượng với bộ máy thực của đồng hồ – và anh ta thậm chí không thể tưởng tượng được ý nghĩa của một sự so sánh như thế.

Tác giả của những lời ấy là Albert Einstein, một người mà đa số trong chúng ta đều không ngần ngại nhìn nhận là người hiểu biết nhiều hơn bất cứ ai khác trên trái đất này – thật vậy, tên của ông đã trở thành từ đồng nghĩa với hai tiếng “thiên tài”! Thế nhưng ông đã viết rằng chúng ta có thể quan sát và nêu giả thuyết, nhưng chúng ta không bao giờ có thể biết. Thực tại là một cái gì đó chúng ta có thể tiếp cận mà không thực sự đạt đến được.

Một trong những xì căng đan mà một số người mộ đạo vướng vào, đó là họ nghĩ rằng họ có Thiên Chúa trong túi họ. Nhưng những người trưởng thành đầy đủ sẽ không nghĩ thế. Thực tại, cũng như Thiên Chúa, không phải là một cái gì chúng ta có thể sở hữu dứt khoát. Thực tại không thuộc về ta để ta chiếm hữu; trái lại, nó chiếm hữu chúng ta.

Cuộc hành trình tâm linh là một cuộc hành trình tìm kiếm sự thật – không khác chi khoa học cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Con người trưởng thành đầy đủ phải là một con người kiếm tìm chân lý không thua kém một nhà khoa học kiếm tìm chân lý, thậm chí còn hơn thế nữa. Và cũng như có một số người đi vào tôn giáo để trốn tránh huyền nhiệm, cũng có một số người đi vào khoa học nhằm để chạy trốn khỏi huyền nhiệm.

Tất cả chúng ta đều biết hay đều nghe về những nhà khoa học bỏ ra cả đời để nghiên cứu về sự ô-xy hóa tế bào trong mô tuyến tiền liệt của bồ câu ở pH 3,7 đến pH 3,9 – và đó là lãnh vực quan tâm của họ trong vũ trụ. Họ đã khoanh một phạm vi nhỏ cho chính mình, và đã đọc nhiều tư liệu về chủ đề ấy hơn bất cứ ai khác, vì thế kiến thức của họ về lãnh vực mà họ quan tâm thật rất đáng tin cậy, và họ cảm thấy an tâm. Nhưng để thực sự tìm kiếm sự thật, người ta không thể moi một cái hang an toàn và nấp vào trong đó. Người ta phải dò dẫm bước ra, đi vào những lãnh giới mình không biết, đi vào huyền nhiệm.

Trong nghề nghiệp của tôi, đôi khi tôi nghe các bệnh nhân nói: “Này Bác Sĩ Peck, tôi rất lúng túng.” Và tôi đáp: “Thế là tuyệt đấy.” Họ sẽ nói: “Tuyệt cái nỗi gì? Thật là tệ hại!” Tôi trả lời: “Không, không! Không tệ hại đâu. Bạn có phúc đấy.” Họ cãi: “Gì, ông nói gì hử? Thật khủng khiếp như vậy mà ông bảo là có phúc?”

Tôi sẽ giải thích: “Bạn biết đó, khi Đức Giêsu giảng bài giảng ‘để đời’ của Ngài, những tiếng đầu tiên Ngài đã thốt lên là: ‘Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó!’” Có nhiều cách để diễn dịch cụm từ ‘tinh thần nghèo khó’, nhưng trên bình diện tri thức, bản dịch tốt nhất là: “lúng túng”! Vâng, phúc cho ai bị lúng túng. Nếu bạn hỏi tại sao Đức Giêsu có thể đã có ý nói như thế, tôi sẽ chỉ ra cho bạn rằng sự lúng túng thúc đẩy người ta tìm kiếm điều sáng tỏ, và cuộc tìm kiếm ấy sẽ giúp người ta học hỏi nhiều.

Chẳng hạn, những người của thế kỷ 15 đã đi ngủ vào một buổi tối nọ năm 1492, nghĩ rằng trái đất dẹt, để rồi sáng hôm sau thức dậy họ nhận ra nó tròn. Để cho một ý tưởng chết đi và một ý tưởng mới, tốt hơn, thay chỗ, chúng ta cũng phải đi qua những giai đoạn lúng túng như thế.

Thật là không dễ chịu, đôi khi rất khổ sở khi phải ở trong những giai đoạn đó. Tuy nhiên, đó là tình trạng có phúc bởi vì khi chúng ta ở trong đó, chúng ta đang kiếm tìm những cách thế mới và tốt hơn. Chúng ta cởi mở đón nhận điều mới mẻ, chúng ta kiếm tìm, chúng ta lớn lên. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Phúc cho những ai lúng túng.” Hầu như tất cả mọi sự dữ trên thế giới này đều được gây ra do bởi những người chắc chắn tuyệt đối rằng họ biết điều mình đang làm. Sự dữ không được gây ra do bởi những người biết mình lúng túng, những người nghèo khó trong tinh thần.

Trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã nói rằng con đường nên thánh nằm ở việc chất vấn mọi sự. Hãy tìm kiếm, và bạn sẽ tìm thấy đủ sự thật để có thể bắt đầu điều hợp chúng với nhau. Bạn sẽ không bao giờ kết thúc được câu đố. Nhưng bạn sẽ có thể kết hợp lại đủ các yếu tố để bắt đầu có được cái nhìn thoáng toàn bộ bức tranh lớn và nhận ra rằng quả thực bức tranh ấy rất xinh đẹp.

Nếu tất cả cuộc sống chúng ta được bao trùm trong huyền nhiệm và chúng ta thực sự không biết mình đang đi về đâu – nếu chúng ta là những đứa trẻ có lý trí đang đi vật vờ trong bóng tối – thì bằng cách nào chúng ta sống còn? Tôi thấy chỉ có hai cách để trả lời câu hỏi ấy. Một là kết luận rằng Scott Peck và Albert Einstein sai lầm, và rằng chúng ta hiểu biết nhiều hơn ta tưởng. Còn cách thứ hai là kết luận rằng chúng ta được bảo vệ một cách nào đó. Và đó chính là điều mà tôi muốn kết luận ở đây. Vậy, nhân danh Chúa, sự bảo vệ ấy làm việc như thế nào? Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng sự bảo vệ ấy vận hành nhân danh Chúa.

Trong văn phòng của tôi, tôi có hình ảnh của bảy thiên thần khác nhau, trong đủ mọi tư thế. Tôi treo ảnh các thiên thần không phải bởi vì tôi đã từng thấy một ‘người’ có cánh. Nhưng khi tôi suy ngẫm về cơ chế của sự bảo vệ này, cơ chế của ân sủng – (bằng cách nào Thiên Chúa có thể dường như đếm từng sợi tóc trên đầu chúng ta?) – tôi chỉ có thể hình dung Ngài có những đạo binh thiên thần đông đúc phục vụ theo mệnh lệnh Ngài.

Tôi tin rằng một số trong những thiên thần này thực sự xuất hiện trong hình dạng con người. Phyllis Theroux đã viết một tuyển tập rất hay, mang tựa đề: “Đèn Ngủ: Những Câu Chuyện Kể Đêm Khuya Cho Các Phụ Huynh”. Một trong những bài ấy, nữ tác giả kể lại chuyện lần kia chị tham gia một cuộc thi công chức. Có bốn hay năm câu hỏi rõ ràng được soạn ra để loại trừ những kẻ điên khùng hay hoang tưởng, trong đó chị chỉ nhớ được một câu, đó là: “Bạn có nghĩ bạn là một nhân viên đặc biệt của Thiên Chúa không?”

“Tôi chợt cảm thấy lính quýnh trước câu hỏi ấy” – chị kể – “nhưng rồi tôi nghĩ đến mục đích thực tiễn của mình là nhắm đậu kỳ thi này, nghĩa là tôi phải trả lời sao để được chấm ‘đậu’, dù câu trả lời có trái với ý nghĩ của mình, thế nên cuối cùng tôi chụp lấy bút chì, và viết: ‘Không!’”

Kỳ thực, tôi cũng chia sẻ với Phyllis Theroux trong niềm tin rằng có một số nhân viên đặc biệt ở đó ở đây, bảo vệ chúng ta khi chúng ta dò dẫm bước đi trong cuộc hành trình đầy bóng tối và đầy huyền nhiệm của mình. Cách riêng, tôi thích nghĩ về điều này vào thời gian xung quanh Lễ Halloween, một lễ có tính huyền nhiệm bậc nhất trong những cử hành của Kitô giáo và tiền Kitô giáo.

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Bước tiếp (3): Sự chết

Bước tiếp (3): Sự chết

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Chuacuuthe.com

, Chuyên Đề

VRNs (20.03.2015) – Sài Gòn – Tôi đang đi chuyến tàu nhanh, một chuyến tàu loại ‘xịn’.

Mười lăm toa tàu mang cả ngàn hành khách,

xình xịch lao qua thảo nguyên, lướt vào sương mù, băng ngang bóng tối….

(Rồi đây, những toa tàu này sẽ rệu rã.

Và những hành khách này sẽ tiêu ma.)

Tôi hỏi anh chàng ngồi bên: “Bạn đi về đâu?”

Anh ta trả lời: “Omaha.”

150314009

Carl Sandburg đã viết những giòng như thế trong bài thơ mang tên “Hữu Hạn” (Limited). Rõ ràng ông đang nói rất cô đọng về sự chết, một đề tài mà người ta thường hay lãng tránh. Nhưng riêng phần mình, tôi đã say mê sự chết từ rất lâu rồi. Có thể nói rằng tôi bị ám ảnh bởi sự chết ngay từ khi còn là một thiếu niên, nhưng dĩ nhiên tôi không phải là một kẻ có khuynh hướng tự tử đâu! Đúng hơn, sự trằn trọc này nơi tôi là một phản ứng lại đối với môi trường mà tôi đã lớn lên. Ngôi nhà tôi trải qua thời niên thiếu là một nơi mà những cái nông cạn, hời hợt bên ngoài – chẳng hạn, ăn món này bằng cái nĩa nào – lại được xem là chuyện rất quan trọng!

Cách đây ít năm, có xuất hiện một ‘mốt’: người ta tặng quà ngồ ngộ cho nhau nhân dịp Lễ Giáng Sinh. Tôi đã mua tặng nhà tôi một chiếc tạp dề có hình con vịt trời to tướng, phía trên in giòng chữ lớn: BEFORE TRUTH THE RIGHT FORK (6). Tuổi thơ của tôi cũng y như thế. “Áo quần làm ra con người”, bố mẹ tôi thường xuyên nhắc nhở tôi điều đó. Nhưng ảo tưởng ấy làm sao bền được? Vì chẳng chóng thì chầy, tôi cũng sẽ gặp một tay nào đó vừa rất đần độn vừa ăn mặc rất ‘kẻng’!

Vì thế, ngay từ thuở nhỏ, có lẽ xuất phát từ tinh thần phản loạn, tôi đã tự nhủ mình: “Hãy dẹp phứt những thứ rác rưởi ấy đi. Có gì thật sự quan trọng trong đó đâu!” Tôi bắt đầu phát triển một thói quen nhìn xuyên qua bề mặt của sự vật, nhìn thấu vào bên trong mọi sự. Thói quen này đã trở nên rất hữu ích cho tôi từ đó. Và khi tôi tự hỏi điều gì là quan trọng nhất liên quan đến cuộc hiện sinh con người, câu trả lời đầu tiên đến với đầu óc tôi là: Cuộc sống con người là một cái gì rất hữu hạn, tất cả chúng ta đều đang đi đến cái chết. Thế là tôi ‘bén duyên’ với sự chết kể từ đó.

Lớn lên, tôi mới sực hiểu ra rằng sự chết không phải là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con người – mà có lẽ nó là điều quan trọng thứ hai. Và một phần của tiến trình lớn lên là nhìn nhận rằng tất cả chúng ta đều sẽ chết, tất cả chúng ta đều “sẽ rệu rã”, đều “sẽ tiêu ma”!

Nhận ra tính hữu hạn của đời sống, nhiều người trong chúng ta hóa nên trăn trở với một cảm thức về sự vô nghĩa. Tất cả chúng ta đều sẽ đến lúc bị luỡi hái định mệnh cắt phăng đi không thương tiếc. Vậy liệu cuộc sống ngắn ngủi này có ý nghĩa gì? Cứ cho là trong vài thế hệ tới, ít là một số con cháu cũng còn chút ký ức nào đó về chúng ta; nhưng liệu một trăm năm, hai trăm năm nữa, có còn ai nhớ đến chúng ta không?

Bạn có biết bài thơ nổi tiếng mang tựa đề Ozymandias của Shelley không? Trong bài thơ này, ông mô tả vết tích còn lại của một pho tượng trong sa mạc. Trên mặt đế tượng, người ta đọc thấy giòng chữ: Tôi là Ozymandias, Vua của các vua. Hỡi Đấng Toàn Năng, hãy chiêm ngắm các công trình của tôi, và hãy ghen tị!

Thế nhưng, tất cả những gì còn sót lại của pho tượng ấy chỉ là … cái đế tượng: Hai khúc chân cụt to đùng bằng đá, đứng trơ vơ; còn cái đầu thì đã vỡ tan tành tự đời nào, chỉ còn một mảnh lấp vùi trong cát. Chẳng ai biết Ozymandias là ai!

Vậy đó, ngay cả dù bạn thuộc số ít vĩ nhân để lại dấu ấn của mình trong lịch sử nhân loại, thì khi các thế kỷ qua đi, những dấu ấn ấy cũng sẽ nhạt nhòa, tan biến mất.

Cuộc đời là một bóng tối đang lê bước. Nó là một câu chuyện được kể lại bởi một gã khù khờ, đầy âm thanh và cuồng nộ, chẳng có ý nghĩa gì.” Nhân vật Macbeth của Shakespeare đã chua xót thốt lên như thế.

NỖI SỢ CHẾT

Cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì – và cho dù nó có ý nghĩa gì, thì chính cái chết sẽ quét sạch mọi ý nghĩa của nó! Thật vậy chăng? Có thật cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa?

Tôi không tin như thế. Sự chết không phải là cái gì bi thảm như ta nghĩ. Sự chết không tước đoạt ý nghĩa mà trái lại còn trao ban ý nghĩa.

Hơn bất cứ gì khác, ‘duyên nợ’ của tôi với sự chết đã giúp tôi có một cảm thức về ý nghĩa của cuộc sống này. Sự chết là một người tình kiều diễm. Nếu bạn bị giày vò bởi một cảm thức vô nghĩa hay chán chường thì tôi không thể khuyên bạn điều gì tốt hơn là hãy bắt đầu đi vào trong một cảm thức nghiêm túc với hồi kết thúc cuộc hiện sinh này của bạn. Như bất cứ cuộc tình tuyệt diệu nào, sự chết mang đầy huyền nhiệm và đó là nơi bắt nguồn rất nhiều niềm nôn nao rạo rực của chúng ta. Vì khi bạn vật lộn với mầu nhiệm sự chết của mình, bạn sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống mà mình đang sống.

Dĩ nhiên phần đông người ta không mặn mấy với chuyện thao thức về sự chết của mình. Thậm chí họ không muốn nghĩ về điều đó. Họ muốn đào thải nó ra khỏi ý thức của họ. Vì vậy, tựa đề “Hữu Hạn” của Sandburg không chỉ nói về chuyến tàu kia mà còn mang ý nghĩa rộng hơn nhiều. Cuộc đời người ta bị giới hạn; và kẻ nói rằng mình sắp đi Omaha cũng bị giới hạn trong nhận thức về bến đỗ thực sự của anh ta là sự chết.

Một số người không bị giới hạn đến như vậy – như rất nhiều nhà văn và nhà tư tưởng lớn – chẳng bao lâu sẽ trở thành thích thú với sự chết. Albert Schweitzer viết:

Tất cả chúng ta, nếu muốn trở nên những con người tốt đích thực, đều phải làm quen với ý tưởng về sự chết. Đành rằng chúng ta không cần trăn trở về nó hằng ngày hay hằng giờ. Nhưng khi cuộc sống đưa bạn tới một cơ hội thích hợp nào đó – lúc mà khung cảnh chung quanh bạn nhạt nhòa đi và bạn chiêm nghiệm chính viễn ảnh cuối cùng, thì bạn đừng nhắm mắt vô tình bỏ qua. Bạn hãy dừng lại chốc lát, nhìn viễn ảnh ấy, rồi tiếp tục sống. Nghĩ về sự chết theo cách này sẽ đem lại cho chúng ta tình yêu đối với sự sống. Khi chúng ta quen thuộc với sự chết, chúng ta sẽ đón nhận mỗi tuần, mỗi ngày của cuộc sống mình như một hồng ân. Chỉ khi nào chúng ta có khả năng đón nhận đời sống như vậy, thì đời sống mới trở thành một cái gì quí giá đối với mình.”

Thông thường, người ta không ‘quen’ được với sự chết như vậy. Trong nghề nghiệp trị liệu tâm lý của tôi, tôi đã phải đẩy ít nhất một nửa số thân chủ của mình tới đối diện với thực tại sự chết của họ. Thực vậy, chính sự ngần ngại của người ta trong việc này xem ra là một phần của bệnh trạng nơi họ. Họ cảm thấy đời sống mình thật chán chường và khủng khiếp. Họ lảng tránh không thăm viếng bạn bè trong bệnh viện, họ lật nhanh qua các trang cáo phó trong tờ báo, họ ‘quên’ viết thư phân ưu … Và ban đêm, họ thường bất chợt thức dậy, mồ hôi ướt đẫm, mơ thấy mình chới với chết đuối …

Nếu tôi không giúp họ phá vỡ những giới hạn mà mà họ tự áp đặt cho ý thức mình như vậy, thì không thể có sự chữa lành hoàn toàn. Chúng ta không thể sống với đầy can đảm và tự tin trừ phi chúng ta có một mối quan hệ với sự chết của chính mình. Thật vậy, chúng ta không thể sống trọn vẹn nếu không có một cái gì đó để chúng ta sẵn sàng chết cho nó.

Những giới hạn này trong ý thức con người đôi khi có thể làm cho con người trở nên rất khiếp nhược. Hồi tôi mới hành nghề trị liệu, một thân chủ đến gặp tôi trong trạng thái hốt hoảng cao độ – số là trước đó ba ngày, người anh vợ của anh ta đã tự sát bằng một phát súng bắn vào đầu. Anh ta kinh hãi đến độ không thể đi đến văn phòng tôi một mình. Vợ anh phải cầm tay anh dẫn đi. Anh ngồi xuống và bắt đầu nói trong hơi thở hổn hển: “Thưa bác sĩ… Anh vợ tôi… Anh ấy bắn vào đầu… Anh ấy có khẩu súng ngắn… Ôi, ghê quá! Chỉ một phát đạn thôi… Anh ấy đã chết. Ôi, nếu tôi có một khẩu súng… Ồ không, tôi không có… Nhưng nếu tôi có súng và muốn tự sát, thì cũng chỉ đơn giản vậy thôi… Chỉ cần đặt ngón tay, nhấn cò … và gục xuống …!”

Tôi lắng nghe anh ta, và nhận ra rằng cái đã làm anh ta hốt hoảng không phải là nỗi thương tiếc về cái chết của người anh vợ, mà đúng hơn bởi vì biến cố này đã đẩy anh tới đối mặt với chính sự chết của mình. Và tôi đã giải thích cho anh ta điều đó.

Ngay lập tức, thân chủ của tôi phản đối: “Không. Tôi không sợ chết!”

Chính lúc ấy, vợ anh xen vào. Chị nói: “Này, anh yêu! Có lẽ anh nên kể cho bác sĩ nghe về chuyện anh ngại gặp các xe tang và các nhà táng đi.”

Thế là anh ta bắt đầu giải thích cho tôi rằng anh có một nỗi ám ảnh về các xe tang, nhà táng và tất cả những gì liên quan đến chết chóc. Thực vậy, được biết nỗi ám ảnh ấy lớn đến nỗi mỗi buổi sáng khi đi bộ đến chỗ làm và mỗi chiều khi trở về nhà từ sở, anh phải đi vòng một lối khác xa hơn ba khối phố – nghĩa là anh phải đi thêm sáu khối phố mỗi ngày – chỉ để tránh đi qua một cơ sở dịch vụ mai táng. Cũng vậy, bất cứ khi nào trông thấy một xe tang từ đằng xa, anh liền tức khắc tránh đi, chẳng hạn, anh lủi nhanh vào một nhà hay một cửa hiệu nào đó!

“Bạn thực sự có một nỗi sợ chết”, tôi nói với anh ta. Nhưng anh ta tiếp tục chối bai bải: “Không, không, không. Tôi không sợ chết. Đấy chỉ vì những xe tang và những nhà táng ấy tởm gớm làm tôi khó chịu.”

Xét về khía cạnh động lực tâm lý, các nỗi ám ảnh thường bắt nguồn từ một cơ chế gọi là chuyển đổi (displacement). Người đàn ông này sợ chết đến nỗi anh ta thậm chí không thể đối mặt với chính nỗi sợ ấy của mình – và do đó anh ta chuyển đổi nỗi sợ ấy thành những chiếc xe tang và những cơ sở nhà táng.

Việc tôi thường dùng các bệnh nhân tâm thần của tôi làm ví dụ dễ khiến bạn tưởng rằng họ nhút nhát và khiếp sợ hơn đa số chúng ta. Nhưng không phải vậy đâu. Những người đến với tâm lý trị liệu là những người khôn ngoan và can đảm nhất trong tất cả chúng ta đó. Mọi người chúng ta đều có vấn đề, nhưng chúng ta thường cố giả vờ như các vấn đề đó không tồn tại, hoặc cách này hay cách khác chúng ta quay lưng lại và phớt lơ các vấn đề ấy. Chỉ những người có đủ khôn ngoan và dũng cảm mới sẵn lòng dấn mình vào trong tiến trình khó khăn của việc khảo sát chính mình – loại tiến trình diễn ra trong văn phòng của các bác sĩ tâm thần.

Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta sống trong một nền văn hóa nhút nhát, phủ nhận sự chết. Một nữ đồng nghiệp tôi đã nói với tôi rằng lần nọ trong thị trấn của chị, sau khi một học sinh trung học chết vì bệnh bạch cầu và một học sinh khác chết vì tai nạn xe hơi, thì người ta ở đó – cả trẻ lẫn già – đã kiến nghị vị hiệu trưởng đưa vào chương trình giảng dạy một khóa học đặc biệt, không có tín chỉ, nói về sự chết và tình trạng hấp hối. Một mục sư thậm chí xung phong bảo trợ khóa ấy và tìm giáo viên giảng dạy miễn phí; như vậy, khóa học sẽ không đòi bất cứ ai trả bất cứ đồng nào.

Nhưng mọi khóa mới trong trường đều phải được phê duyệt bởi hội đồng nhà trường. Hội đồng này đã biểu quyết 9/10 chống lại việc mở khóa học này, giải thích rằng nó có vẻ không lành mạnh. Khoảng ba mươi hay bốn mươi người đã viết thư gửi cho báo chí để phản kháng sự phủ quyết của hội đồng trường, và một biên tập viên của một tờ báo đã viết bài xã luận về vấn đề này. Đã có đủ cơ sở và áp lực dư luận để yêu cầu nhà trường xem xét lại quyết định của họ. Hội đồng nhà trường lại nhóm họp và – một lần nữa – đi đến biểu quyết 9/10 phiếu chống lại việc mở khóa học.

Theo tôi, không phải là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên – như đồng nghiệp tôi ghi nhận – rằng những người viết thư cho tờ báo, người biên tập viên viết bài xã luận kia và người thành viên duy nhất trong hội đồng trường ủng hộ khóa học đều là những người hoặc đang hay đã từng nhận sự trị liệu tâm lý. Như tôi xác nhận trên kia, các bệnh nhân tâm thần không hề nhút nhát hơn số đông người còn lại. Trái lại, có thể nói họ can đảm hơn rất nhiều người khác.

CHỌN KHI NÀO ĐỂ CHẾT

Trong nền văn hóa phi bác sự chết của chúng ta, sự chết được xem như một tai nạn, như một cái gì  ập tới húc vào chúng ta mà không hề có một lý do gì, cũng không hề chịu sự kiểm soát nào của chúng ta. Sự chết là một cái gì thê thảm, nó như một cái vòng luẩn quẩn tóm lấy chúng ta. Cũng vì quá sợ chết, chúng ta không dám đến gần sát nó để nhận ra rằng nó chẳng đáng sợ đến mức như mình tưởng.

Nền văn hóa của chúng ta nhìn cái chết như một tai nạn phi lý. Và đây là cái nhìn hoàn toàn sai lầm. Thực vậy, đa số trong chúng ta đều muốn chọn thời điểm, chọn nơi chốn và chọn cách thế để chết. Điều đó thoạt nghe có vẻ ‘sốc’, nhưng thực sự là thế. Phần đông chúng ta – mức nào đó – đều muốn thực hiện sự chọn lựa này. Ở đây tôi không có ý nói về những vụ tự tử. Tôi không có ý nói đến những tay nghiện ngập tiếp tục nghiện ngập cho đến chết. Tôi cũng không có ý nói đến tất cả những tình trạng thần kinh loạn thông thường mà mọi người đều biết. Ở đây tôi nhằm nói đến những rối loạn y học như các chứng bệnh về tim và ung thư, và có chứng cứ khoa học hậu thuẫn cho quan điểm của tôi.

Cách đây khoảng ba chục năm, mỗi khi có ca phẫu thuật tim mở ngỏ (7) – dĩ nhiên hồi đó nguy hiểm hơn bây giờ nhiều – mọi người đều hồi hộp và xôn xao bàn tán không biết bệnh nhân sẽ sống hay chết. Và đây là thực tế được ghi nhận: Những người tiên đoán giỏi nhất về kết quả của các ca mổ tim mở ngỏ không phải là chính các bác sĩ phẫu thuật, cũng không phải là các chuyên gia tim mạch, mà lại là các bác sĩ tâm thần! Đã xảy ra một cuộc nghiên cứu – trong đó các bác sĩ tâm thần phỏng vấn các bệnh nhân sắp sửa được mổ tim. Dựa vào các câu trả lời của họ, các bác sĩ tâm thần phân họ thành ba nhóm khác nhau: nhóm nguy hiểm cao, nhóm nguy hiểm vừa, và nhóm nguy hiểm thấp. Nhóm nguy hiểm thấp bao gồm những người khi được yêu cầu nói về cuộc giải phẫu của mình, đã trả lời đại loại như: “À, ông biết đó, ca mổ được dự kiến sẽ diễn ra vào thứ sáu tới, và tôi thực sự lo sợ. Nhưng, đã tám năm rồi, bệnh trạng của tôi không cho phép tôi làm được việc gì cả. Chơi đánh gôn cũng chẳng được! Lại thường xuyên khó thở! Bác sĩ của tôi cho tôi biết rằng nếu sống được qua ca mổ và qua được giai đoạn hậu phẫu, thì chỉ cần sáu tuần là tôi có thể trở lại sân gôn! Chà, như vậy đó sẽ là ngày 1 tháng 9 tới! Tôi đã lên chương trình cho mình rồi đấy. Nào, tôi sẽ có mặt ở sân vào đúng tám giờ sáng, lúc ấy cỏ vẫn còn đẫm hơi sương. Tôi sẽ …., tôi sẽ …”

Còn nhóm nguy hiểm cao sẽ trả lời tương tự như câu trả lời sau đây của một phụ nữ: “Hở, cuộc phẫu thuật thì sao hở?” Vị bác sĩ tâm thần nhắc lại câu hỏi, rõ ràng hơn: “Xin cho biết tại sao chị nhận phẫu thuật? Tại sao chị cần điều đó?” Người phụ nữ đáp: “Bác sĩ của tôi bảo với tôi như vậy.”

“Chị có kỳ vọng sẽ làm được gì sau khi được giải phẫu không?”

“Tôi chưa tính đến chuyện đó.”

“Chị rất khó thở và chị đã không thể đi mua sắm trong tám năm nay. Chị có mong mình sẽ có thể đi mua sắm trở lại không?

“Ồ, tôi không hề mong điều đó. Tôi rất khiếp sợ việc lái xe từ nhiều năm nay rồi.”

Nếu tôi nhớ không lầm thì cuộc nghiên cứu trên cho thấy rằng 40% số bệnh nhân thuộc nhóm nguy hiểm cao đã chết, con số tương ứng phía nhóm nguy hiểm thấp là 2%. Cùng một chứng bệnh tim, cùng những nhà phẫu thuật tim, cùng những ca mổ như nhau, nhưng tỉ lệ tử vong thì chênh lệch nhau đến hai mươi lần – và sự chênh lệch này, có thể nói, đã được dự báo ngay trước khi tiến hành phẫu thuật!

Một nghiên cứu với những kết quả gây sửng sốt đã được tiến hành bởi David Siegel, một bác sĩ tâm thần tại Standford University. Siegel đã nghiên cứu hai nhóm phụ nữ bị ung thư di căn. Nhóm thứ nhất được cung ứng sự săn sóc y khoa đúng qui cách; nhóm thứ hai cũng được săn sóc đúng qui cách, song thêm vào đó còn được yêu cầu trải qua tâm lý trị liệu. Không mấy ngạc nhiên khi kết quả là nhóm thứ hai ít phàn nàn hơn, ít trầm uất hơn và ít đau đớn hơn – nhưng điều lạ lùng là chỉ có ba trong số các phụ nữ này đã chết. Và Siegel nhận ra rằng những người nhận trị liệu tâm lý đã sống lâu gấp đôi so với những người thuộc nhóm kia.

NHỮNG SỰ CHỮA TRỊ “THẦN DIỆU”

Đã hàng bao thế kỷ nay, các bác sĩ biết rằng rất họa hiếm chuyện hồi phục đột xuất từ bệnh ung thư. Song bạn vẫn có thể nghe nói đến những trường hợp trong đó các bác sĩ mổ một bệnh nhân và nói: “Chúng tôi đã mổ anh ta, và chúng tôi … bó tay! Chẳng còn có thể cứu vãn gì được nữa. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là khâu vết mổ lại. Anh ta may lắm thì sống được sáu tháng nữa.” Nhưng rồi, năm, mười năm sau, bệnh nhân ấy vẫn còn sống phây phây mà không hề có dấu vết gì của ung thư cả.

Bạn có thể nghĩ rằng các y sĩ sẽ hết sức ngạc nhiên với những trường hợp hi hữu này, và chắc hẳn đã tiến hành điều tra nghiên cứu tường tận sự việc. Không có như vậy đâu. Trong rất nhiều năm, các bác sĩ vẫn khư khư rằng một điều như thế không thể xảy ra được. Chỉ mới mười lăm năm trở lại đây, các nghiên cứu mới được chính thức tiến hành. Còn quá sớm để có được toàn bộ con số thống kê – nghĩa là, những con số hoàn toàn dựa theo các tiêu chuẩn khoa học – nhưng có những bằng chứng cho thấy một trong những điểm chung của các trường hợp hiếm hoi ấy là các bệnh nhân đều tỏ ra có những thay đổi rất sâu xa trong cuộc sống của họ. Một khi được báo cho biết họ chỉ còn sống được một năm nữa, họ tự nhủ: “Chà, chỉ còn có một năm nữa! Vậy tội gì mà mình phải tiếp tục ngày hai buổi đến làm cho công ty IBM ấy. Tốt hơn là mình nên sửa chữa và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà – đó là điều bấy lâu nay mình vẫn muốn làm mà rồi cứ khất lần khất lữa mãi.” Hoặc: “Ồ, nếu mình chỉ còn có một năm để sống, thật là điên khùng nếu mình cứ tiếp tục sống với anh chồng vũ phu ấy của mình.” Rồi, sau khi họ quyết định thực hiện những thay đổi như vậy, căn bệnh ung thư của họ biến đi mất!

Hiện tượng này gây ngạc nhiên cho một số nhà nghiên cứu ở UCLA. Người ta quyết định điều tra phải chăng một cuộc đổi đời có thể là một liệu pháp. Nhưng vấn đề khó khăn là phải tìm được những bệnh nhân sẵn lòng thử cách này. Thường thì một bác sĩ tâm thần sẽ đến gặp một ai đó được chẩn đoán mắc căn bệnh ung thư không thể chữa, và nói: “Chúng tôi có lý do để tin rằng nếu bạn sẵn sàng nhận tâm lý trị liệu và khảo sát lại đời sống của bạn để làm một số thay đổi căn bản, thì bạn sẽ có thể kéo dài đời sống của bạn lâu hơn.”

Ngay lập tức, bệnh nhân sẽ nhảy cẫng lên: “Ồ, thưa bác sĩ, ngài là người đầu tiên đem lại cho tôi chút hy vọng.”

Vị bác sĩ tâm thần đề nghị: “Một số bệnh nhân giống như bạn sẽ làm việc với chúng tôi tại phòng 4, sáng ngày mai vào lúc 10 giờ. Bạn có muốn đến và trao đổi về điều này không?”

“Ồ,vâng. Thưa bác sĩ, chắc chắn tôi sẽ đến.”

Nhưng sáng hôm sau, lúc 10 giờ, chẳng thấy anh bệnh nhân ấy đến. Vị bác sĩ trở lại gặp anh ta để tìm hiểu lý do; anh ta nói:

“Ồ, xin lỗi, tôi quên mất tiêu.”

“Bạn vẫn còn muốn điều đó chứ?”

“Thưa còn ạ.”

“Chúng tôi sắp có một cuộc làm việc nữa cũng tại phòng 4, lúc 3 giờ chiều mai. Bạn không vướng bận gì lúc đó chứ?”

“Ồ, nhất định tôi sẽ đến ạ.”

Nhưng rồi, anh ta lại không đến. Vị bác sĩ tâm thần thử lại một lần nữa, và cuối cùng đành chào thua: “Có lẽ anh không nồng nhiệt lắm với loại trị liệu này.”

Rốt cục, anh bệnh nhân thú nhận: “Thưa bác sĩ, tôi có nghĩ đến chuyện đó. Và tôi nhận thấy mình đã đến tuổi chẳng còn thay đổi gì được nữa!”

Điều này không phải luôn luôn đáng trách. Chúng ta thường thấy mình đã đến tuổi quá già chẳng còn thay đổi gì được. Các bác sĩ cũng thường nghĩ như thế thôi. Tôi đã gặp rất nhiều y sĩ đầy tài năng song lại tin rằng bệnh nào cũng chỉ có một nguyên nhân: hoặc thể lý hoặc tâm lý. Họ không thể hình dung một bệnh – cũng tựa như một thân cây – có hai gốc rễ đồng thời, hay thậm chí có nhiều hơn hai gốc rễ.

Sự thực thì hầu như mọi bệnh đều một trật có liên quan đến tâm lý, thể lý, tinh thần và xã hội. Dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ, như những rối loạn bẩm sinh hay những chứng liệt não chẳng hạn. Nhưng ngay cả trong những trường hợp ấy, ý chí muốn sống của người ta vẫn có thể kéo dài đáng kể và cải thiện rất nhiều cuộc sống của họ.

Đáng tiếc là điều ngược lại cũng đúng. Khi tôi phục vụ ở Okinawa, trong quân đội, tôi được yêu cầu chữa trị một thiếu phụ 19 tuổi mắc chứng hyperemesis gravidarum (8). Tôi tìm hiểu và biết rằng người phụ nữ Mỹ này đã lớn lên ở miền duyên hải phía Đông, và cô có một mối quyến luyến có tính bệnh lý với mẹ mình. Năm mười bảy tuổi, cô đã được gửi sang miền Tây để sống với một ông cậu, và lúc ấy cô bắt đầu bị chứng nôn mửa. Hồi ấy cô không mang thai. Cô nôn mửa quá nhiều đến nỗi phải được gửi trả lại miền Đông, nơi cô sống vui vẻ mạnh khỏe bình thường cho đến khi kết hôn với một quân nhân, mang thai và theo chồng sang Okinawa. Vừa khi bước chân xuống khỏi máy bay, cô bắt đầu nôn thốc tháo, và sau vài ngày cô phải được đưa vào bệnh viện.

Nếu bệnh trạng của bệnh nhân ở mức đủ nghiêm trọng, tôi có quyền gửi họ về điều trị ở Mỹ. Và tôi biết rằng nếu tôi cho chuyển người phụ nữ này về Mỹ, chứng nôn mửa của cô sẽ ngừng ngay lập tức. Tôi cũng biết rằng có lẽ khó hy vọng đề phòng chứng nôn mửa này nơi cô ta mỗi khi tách cô ta xa khỏi mẹ mình.

Trong quyền hạn của tôi lúc đó, tôi đã quyết định không gửi cô ta về nhà ở Mỹ. Tôi bảo cô: “Bạn phải lớn lên và phải học cách sống tách biệt khỏi mẹ mình.” Và cô đã thuyên giảm đủ để xuất viện. Nhưng rồi bệnh lại tái phát và cô phải trở vào bệnh viện. Cô lại nôn mửa, và tôi lại nói với cô rằng tôi sẽ không gửi cô về Mỹ. Và một lần nữa, cô thuyên giảm và được xuất viện. Tuy nhiên, hai ngày sau, trong căn hộ của cô, cô bất thần ngã xuống và chết. Cô đang ở tuổi 19 và đang mang thai 4 tháng. Người ta tiến hành khám nghiệm tử thi và đã không phát hiện được vì sao cô chết. Dĩ nhiên, tôi vô cùng ân hận về quyết định của mình. Nhưng tôi tin rằng vì một lý do nào đó đã có một lúc trong đời mình, cô đã quyết định làm một em bé. Tôi không cho phép cô làm một em bé. Tôi muốn cô biết nhận trách nhiệm, và cô đã chết!

CÁC RỐI LOẠN THỂ LÝ VÀ TÂM THỂ

Hồi tôi còn theo học trường y, chúng tôi xếp chung vào một loại rối loạn ‘chức năng’ những tình trạng như tâm thần phân liệt, chứng hưng trầm cảm, và chứng nghiện rượu. Với từ “chức năng”, chúng tôi có ý đi nước đôi và cho rằng có lẽ một ngày kia các nhà nghiên cứu sẽ khám phá ra một khiếm khuyết rất tế nhị nào đó trong cơ cấu thần kinh hoặc một loại vấn đề sinh học nào đó. Nhưng chúng tôi thực sự tin rằng những rối loạn này đều thuộc lãnh vực tâm lý. Và trong tư cách là một bác sĩ tâm thần, chúng tôi đã vạch ra mọi cơ chế tâm lý của chúng.

Tuy nhiên, trong ba mươi năm trở lại đây, chúng ta đã biết rằng có những gốc rễ rất sâu thuộc lãnh vực sinh học đối với mọi rối loạn tâm thần này, và chúng ta còn biết nhiều hơn thế nữa. Thật vậy, một trong những vấn đề mà chúng ta đương đầu ngày nay đó là các bác sĩ tâm thần đã trở nên quá si mê sinh hóa học đến nỗi họ có nguy cơ quên hết tất cả những sự khôn ngoan của tâm lý học cũ, một số những sự khôn ngoan ấy vẫn còn đúng đắn hôm nay. Những tình trạng như tâm thần phân liệt không chỉ đơn thuần là các rối loạn thể lý. Chúng cũng là những rối loạn tâm lý, tinh thần và xã hội nữa. Và điều tương tự cũng đúng đối với các căn bệnh như ung thư. Tất cả đều có những nguyên nhân đa diện – vừa thể lý vừa tâm thể.

Thành tố tâm thể lý trong nỗi khổ của con người đã được nhận ra trong ngôn ngữ của chúng ta từ bao thế kỷ nay. Kho thành ngữ của chúng ta chứa đầy những kiểu nói như tê tái lòng; thúi ruột; sốt ruột; tím gan; đắng họng; lạnh gáy, vv… để mô tả những cảm xúc tâm lý, song không phải là không có liên quan đến thể lý – vì thế các bác sĩ tâm thần gọi đó là loại ‘ngôn ngữ bộ phận’ (vì có liên quan đến bộ phận nào đó nơi thân thể chúng ta). Biết bao người đến phòng cấp cứu vào ban đêm với cơn đau nơi ngực – dù có hay không có bệnh tim – ngay sau khi họ trải qua một cuộc tình tan vỡ! (9)

Những rối loạn cột sống là những rối loạn về sự can đảm. Và một lần nữa, điều này được phản ảnh trong ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta nói: “Anh chàng ấy đúng là không có xương sống”, hay “Cô ta quả thực có một xương sống vững vàng”. Bản thân tôi đã chịu đựng nhiều chứng đau lưng trong phần lớn cuộc đời tôi, nhất là một tình trạng gọi là spondylosis (có đốt sống) đặc biệt nghiêm trọng trong cổ tôi. Nhìn một phim X-quang chụp phần cổ tôi, bạn sẽ nghĩ rằng tôi đã già 200 tuổi! Khi tôi lần đầu tiên được chẩn đoán mắc chứng này, tôi hỏi các bác sĩ phẫu thuật thần kinh và các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình: “Điều gì làm cho cổ tôi trông già đến thế?” Và họ trả lời: “À, có lẽ hồi còn bé, anh đã có lần bị gãy cổ”.

Tôi chưa bao giờ bị gãy cổ. Nhưng khi tôi cho họ biết điều đó, họ chỉ nói: “Nếu vậy, chúng tôi thực sự không biết cái gì đã gây ra tình trạng có đốt sống của anh.” Tôi rất mừng nhận được một câu trả lời như thế, bởi vì rất ít bác sĩ sẵn sàng nhìn nhận đơn giản rằng ‘tôi không biết’.

Thực ra, tôi biết rất rõ về nguyên nhân gây ra tình trạng có đốt sống của tôi. Tôi phát hiện ra cách đây khoảng 13 năm khi cơn đau ấy hành hạ tôi cực độ, đồng thời làm tê bại một cánh tay tôi. Tôi nhận một cuộc phẫu thuật thần kinh kéo dài và căng thẳng. Lúc ấy, tôi tự nhủ mình: “Này Scotty, mày biết đó, quả là phiền phức việc trải qua cuộc phẫu thuật đắt tiền và đầy nguy hiểm này cứ vài năm một lần. Nhưng mày thử xét xem mày có vai trò nào trong chứng rối loạn này không?”

Vừa khi tôi sẵn sàng đặt ra câu hỏi ấy, tôi lập tức nhận thấy là có. Trong phần lớn cuộc đời nghề nghiệp của mình, tôi đã luôn luôn có được tên tuổi và uy tín hơn các đồng nghiệp mình, và tôi vẫn thường xuyên lo ngại việc sinh ra đụng chạm. Thực tế tôi có gặp một số đụng chạm, dù không nhiều như tôi dự đoán, song như vậy cũng cho thấy nỗi sợ của tôi có cơ sở. Nói gì thì nói, tôi đã đi qua cuộc đời mình với cái đầu và cái cổ cúi gằm về phía trước, như một cầu thủ bóng đá sắp sửa lao tới đánh đầu quả bóng tầm thấp vào khung thành đối phương. Bạn hãy thử giữ đầu và cổ bạn kiểu đó trong ba mươi năm, và bạn sẽ biết thế nào là chứng có đốt sống (spondylosis)!

Dĩ nhiên, mọi chuyện không đơn giản ở đây. Có vô số nguyên nhân đối với hầu hết các chứng bệnh. Mặc dù không đến mức độ như trường hợp của tôi, song cha tôi, mẹ tôi, anh trai tôi đều đã phải chịu đựng chứng có đốt sống trong cổ một cách khác thường, ngay cả dù họ không bao giờ nổi tiếng là những người chuyên ‘nhướn cổ ra’! Vì thế, có một nhân tố sinh học – có tính di truyền – trong tình trạng của tôi. Bạn đừng quên, tôi quả quyết rằng hầu như mọi sự rối loạn đều không chỉ có liên quan đến tâm thể mà còn có liên quan đến tinh thần và xã hội nữa.

Ở đây tôi không đang xướng xuất một điều chi mới mẻ đâu. Rất nhiều người đã viết về mối quan hệ giữa thân thể và tâm trí. Một số người ngày nay cảm thấy có tội khi họ bị bệnh; nhân tố tâm thể của tình trạng này đã được rất nhiều người nhận ra. Dĩ nhiên, không cần thiết phải tự dằn vặt mỗi khi bạn bị cảm lạnh hay cảm cúm. Nhưng nếu bạn bị một chứng bệnh nghiêm trọng hay một chứng bệnh kinh niên, thì quả bạn có bổn phận phải kiểm tra chính mình và tự hỏi phải chăng mình đang đóng một vai trò trong chứng bệnh ấy của mình.

Nhưng nếu bạn làm thế, vì Chúa, thì bạn cũng phải biết ‘nương tay’ với chính mình. Một cách nào đó, có thể nói rằng đời sống vốn gây ra căng thẳng, và nó làm cho chúng ta mệt nhoài. Xin đừng quên sớm hay muộn tất cả chúng ta đều phải chết bởi một chứng rối loạn tâm thể nào đó.

Một lần nữa, tôi không có ý nói rằng mọi chứng ung thư giai đoạn cuối đều có tính tâm thể. Tôi không có ý nói rằng một phòng điều trị ung thư trẻ em – trong đó một bé bốn tuổi đang hấp hối với chứng adrenal carcinoma (ung thư thượng thận), một em khác sáu tuổi đang hấp hối do một chứng medulloblastoma, và một bé khác nữa đang hấp hối do một bướu Wilms – thì phòng điều trị đó chỉ là một chỗ tự sát của trẻ em không hơn không kém. Tôi cũng không có ý nói rằng các nạn nhân của một vụ rơi máy bay đã cố ý tập trung lại tại phi trường để thực hiện một cuộc tự sát tập thể – hay sáu triệu người Do Thái kia tự nguyện bước tới cái chết hồi thời Hitler. Nhưng khi chúng ta xem xét cái chết đơn thuần như một tai nạn, thì chúng ta cũng đang phớt lờ rất nhiều trường hợp chết thực tế khác và phớt lờ cả huyền nhiệm của sự chết nữa.

NHẬN HIỂU SỰ CHẾT

Một bước đột phá trong nhận thức của chúng ta về bản chất đích thực của sự chết là sự kiện xuất bản quyển Chết Và Hấp Hối (On Death and Dying) của Elisabeth Kubler-Ross, M.D. Cho tới lúc bấy giờ, sự chết vẫn là lĩnh vực độc quyền của các linh mục. Các bác sĩ thì quan tâm đến sự sống, và sự sống nhằm phục vụ cho người sống. Còn sự chết được bỏ lại cho mấy cơ sở mai táng. Nhưng Kubler-Ross đã dám chuyện trò với những người đang hấp hối và dám hỏi xem họ đang nghĩ gì, đang cảm nhận gì về cái chết cập kề họ. Bà đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự. Chỉ một thập niên sau đó, đã có những khóa học về cái chết và về tình trạng hấp hối trên khắp nước Mỹ. Và nhà ‘vĩnh biệt’, một nơi mà người ta có thể đến để chết, đã được phát minh hoặc được tái lập. Dường như nữ tác giả này đã gây ra một cuộc cách mạng.

Tác phẩm của bà đã mở đường cho những quyển sách về cùng chủ đề, trong số đó có quyển Đời Này Sang Đời Khác (Life after Life) của Raymond Moody và Phút Lâm Chung (At the Hour of Death) của Karlis Osis và Erlendur Haraldsson, người đã viết về chính khoảnh khắc chết và những kinh nghiệm của người đang tiến gần sát cái chết. Có một sự giống nhau lạ kỳ giữa những gì họ khám phá ra. Raymond Moody, một nhà khoa học và đồng thời là bác sĩ tâm thần, đã cho biết rằng phần đông những ai nhớ lại kinh nghiệm gần chết của họ đều liên hệ đến một sự biến đổi luân chuyển. Trước hết, có vẻ như từ trần nhà, họ nhìn thấy chính thân xác họ đang nằm trên giường, và họ thấy rất chính xác tất cả những gì các y tá và bác sĩ đang làm cho họ. Điều xảy ra kế tiếp – phần đáng kinh sợ duy nhất của kinh nghiệm này – là họ như đi xuyên qua một con đường hầm tối mịt. Họ vụt qua đó một cách nhanh chóng, rồi họ đối diện với ánh sáng, ánh sáng này được hiểu là Thiên Chúa hay đôi khi được hiểu là Chúa Giêsu. Và trong ánh sáng này, họ được yêu cầu nhìn lại đời sống của họ. Nhìn lại, họ thấy đời sống mình thật lộn xộn, nhưng thực thể ánh sáng ấy thì vô cùng yêu thương và tha thứ. Rồi ánh sáng ấy dẫn họ quay trở lại. Họ quay trở về một cách miễn cưỡng, nhưng trong tinh thần vâng phục ánh sáng ấy.

Thường những người có kinh nghiệm như thế, theo Moody, không có nhiều khuynh hướng tâm linh trước đó, nhưng trở thành rất có khuynh hướng tâm linh sau đó. Và nói chung, họ trở nên tin tưởng vào sự sống sau khi chết – và nỗi sợ chết nơi họ giảm đi rất nhiều.

Khi chúng ta tiến tới đủ gần sát cái chết, chúng ta thấy rằng cái chết không đáng sợ đến mức như mình vẫn nghĩ – điều đó thật là thú vị! Song nó không đem lại cho bạn sự thoải mái đâu. Bạn đứng trước những dấu hỏi như: “Nó có liên quan gì với cuộc sống này không? Cuộc hiện sinh tạm bợ này của chúng ta có thể có ý nghĩa gì?”

Nếu bạn tự hỏi như thế, tôi tưởng rằng đấy chính vì bạn đã nhận thức được rằng cuộc sống của mình thật hữu hạn, và bạn đang kiếm tìm ý nghĩa của nó. Nhưng hãy giả sử tự thân việc kiếm tìm ý nghĩa này đã là một việc đầy ý nghĩa. Hãy giả sử đó là một phần của cuộc chơi, một phần của lý do hiện hữu của chúng ta. Rất có thể chúng ta đang có mặt đây để kiếm tìm một cái gì đó chứ, phải không? Nếu câu trả lời là “Vâng!”, thì sự chết sẽ thúc bách việc kiếm tìm ấy.

Khi tôi trằn trọc với huyền nhiệm sự chết của mình, khi tôi kiếm tìm ý nghĩa của cuộc sống này, tôi đã gặp thấy điều mình tìm kiếm. Điều ấy thật đơn giản: Chúng ta đang có mặt trong cuộc đời này để học. Mọi sự xảy đến với chúng ta để giúp chúng ta học. Và không có gì giúp chúng ta học tốt hơn là cái chết.

Tôi đã đi tới kết luận rằng chúng ta được trao ban một môi trường học tập lý tưởng. Tôi dám thách bạn, trong khả năng tưởng tượng của bạn, hãy nghĩ ra một môi trường lý tưởng hơn cuộc sống này để phục vụ cho việc học hỏi của con người. Trong những khoảnh khắc ảm đạm của mình, dường như tôi thấy nó là một loại trại huấn luyện cho người ta vào thiên đàng, đầy những bài tập vượt chướng ngại được phác họa cho việc học của chúng ta. Và tôi nghĩ chướng ngại được phác họa ‘ác’ nhất là giới tính. Trong thực tế, sự chết là một hệ quả của tính dục chúng ta.

Các sinh vật hữu cơ ở đáy bậc thang tiến hóa không truyền sinh qua con đường tính dục. Chúng sinh sản một cách hoàn toàn vô tính. Chúng tự nhân giống (chẳng hạn nảy chồi), và chất liệu di truyền của chúng tiếp tục và tiếp tục mãi. Rõ ràng chúng không bao giờ chết, trừ phi có ai đó đến và tiêu diệt chúng. Chúng không kinh nghiệm sự già lão hay sự chết tự nhiên. Chỉ ở bậc cao nào đó trên thang tiến hóa, sinh vật mới truyền sinh qua con đường tính dục, và cũng chỉ ở đây mới bắt đầu có hiện tượng già nua và sự chết tự nhiên. Cái gì cũng có giá của nó!

Chúng ta học tốt nhất khi chúng ta có một hạn mức. Từ ‘deadline’trong Anh Ngữ là một từ ngữ tuyệt vời! (10) Trong nghề trị liệu tâm lý của tôi, tôi thường sử dụng một kỹ thuật rất có tiềm năng, nhất là khi làm việc với các nhóm. Khi các thành viên của một nhóm hành động như thể họ sẽ ‘còn sống muôn đời muôn kiếp trên trần đời này’, tôi sẽ đến với họ một lúc nào đó và nói: “Này, nhóm của các bạn chỉ còn làm việc sáu tháng nữa thôi. Tôi sẽ giải thể nhóm này trong sáu tháng nữa.” Thật là thú vị! Những người vốn rề rà uể oải nhất nay bỗng dưng linh hoạt hẳn lên, khi mà họ được trao cho một hạn mức!

Trong trị liệu cá nhân cũng thế. Một hạn mức thường có tiềm năng tác động rất lớn. Việc chấm dứt một mối quan hệ thân tình giữa một bệnh nhân và một nhà trị liệu đôi khi có thể được sử dụng để tượng trưng cho toàn thể vấn đề sự chết, đồng thời để trao cho bệnh nhân một cơ hội nhận hiểu sự chết.

NHỮNG BƯỚC CHẾT VÀ NHỮNG BƯỚC TRƯỞNG THÀNH

Elizabeth Kubler nhận thấy rằng những người hấp hối đi qua một tiến trình theo thứ tự sau đây:

– phủ nhận

– giận dữ

– mặc cả

– suy sụp

– chấp nhận

Giai đoạn thứ nhất là phủ nhận. Họ từ chối sự chết. Họ nói: “Phòng xét nghiệm chắc hẳn lẫn lộn kết quả xét nghiệm của tôi với một ai đó khác. Đó không phải là tình trạng của tôi. Tôi không thể chết.” Nhưng sự phủ nhận này không thể kéo dài.

Thế là họ giận dữ. Họ giận các bác sĩ, họ oán các y tá, họ trách bệnh viện, họ phàn nàn những người thân của họ, và họ giận cả Thiên Chúa.

Khi cơn giận cũng chẳng đem lại gì tốt hơn cho họ, họ bắt đầu mặc cả. Họ nói: “Có lẽ nếu tôi trở lại với nhà thờ và bắt đầu cầu nguyện trở lại, căn bệnh ung thư của tôi sẽ biến mất”, hoặc: “Có lẽ nếu tôi vui vẻ hơn với con cái để thay đổi bầu khí trong nhà, thì hai quả thận của tôi sẽ khá hơn.”

Nhưng khi điều này cũng không đem lại kết quả gì, họ bắt đầu nhận ra rằng thế là xong, vô phương! Họ trở nên suy sụp.

Nếu họ có thể cầm cự ở giai đoạn này và làm điều mà các nhà trị liệu chúng tôi gọi là ‘vượt qua suy sụp’ thì

họ có thể sống còn qua cơn suy sụp để bước vào giai đoạn thứ năm: chấp nhận! Đây là giai đoạn an tĩnh tâm hồn và thanh thản, thậm chí là một giai đoạn của ánh sáng. Những người đã chấp nhận sự chết sẽ có được ánh sáng trong mình. Như thể họ đã chết rồi và đã được phục sinh trong một cảm thức tâm linh nào đó. Đây là một sự việc rất kỳ diệu.

Tuy nhiên, điều nói trên không xảy ra thông thường lắm. Phần đông người ta không chết trong giai đoạn thứ năm tuyệt vời này. Người ta thường chết khi vẫn còn phủ nhận, vẫn còn giận dữ, vẫn còn mặc cả, hay vẫn còn suy sụp. Lý do là vì công việc ‘vượt qua suy sụp’ đớn đau và khó khăn đến nỗi khi họ chạm vào nó, họ thường thối lui lại tình trạng phủ nhận hay giận dữ hay mặc cả. Có một điều rất thú vị mà Kubler-Ross đã không nhận ra – đó là chúng ta cũng đi qua đúng những giai đoạn đó và trong cùng một thứ tự đó bất cứ khi nào chúng ta thực hiện được một bước có ý nghĩa trong hành trình phát triển tâm lý và tâm linh của chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta sải một bước dài tiến lên phía trước trong hành trình sa mạc cuộc đời, bất cứ khi nào chúng ta có một sự cải thiện đầy ý nghĩa nơi chính mình, thì chúng ta đều đi qua tiến trình phủ nhận, giận dữ, mặc cả, suy sụp và chấp nhận.

Chẳng hạn, thử hình dung có một khiếm khuyết nghiêm trọng trong nhân cách của tôi – và các bạn tôi bắt đầu phê phán tôi về những biểu hiện của khiếm khuyết ấy. Phản ứng đầu tiên của tôi sẽ là gì? Tôi nói: “Cô ấy chắc hẳn nhìn gà hóa cút!”, hoặc: “Anh ta chắc hẳn bị vợ cằn nhằn sáng nay. Tôi không dính dáng gì!” Thế đấy, tôi phủ nhận.

Nếu họ tiếp tục chỉ trích tôi, tôi sẽ nói: “Ai cho các anh cái quyền chỏ mũi vào chuyện của tôi? Các anh không hiểu gì cả về hoàn cảnh của tôi. Tại sao các anh không lo lấy chuyện riêng của các anh?” Nghĩa là, tôi giận dữ.

Song nếu người ta vẫn còn thương tôi đủ để tiếp tục chỉ trích tôi, tôi sẽ bắt đầu nghĩ: “Chà, gần đây mình đã không có lời nào khen tặng anh ta về những gì anh ta đã làm.” Thế là tôi tìm cách ‘nịnh’ anh ta, mỉm cười với anh ta, hy vọng như vậy sẽ khóa được cái mồm lộn xộn của anh ta. Mặc cả!

Thế nhưng nếu bạn tôi vẫn không chịu ngừng chỉ trích tôi, tôi sẽ bắt đầu tự nhủ: “Có thể anh ta đúng? Có thể có một cái gì đó không ổn với Scott Peck vĩ đại này?” Và nếu câu trả lời là “Vâng”, thì tôi bắt đầu chán nản, suy sụp. Trong trường hợp tôi có thể cầm cự với sự suy sụp này và bắt đầu tự hỏi cái trục trặc nơi mình là cái gì, rồi suy ngẫm kỹ về nó và phân tích nó, tách bạch nó, nhận diện nó, thì tôi có thể bước vào tiến trình tiêu trừ nó và giải phóng chính mình khỏi nó. Một khi hoàn tất việc ‘vượt qua suy sụp’ này, tôi sẽ nhận ra mình biến đổi trở thành một con người mới, một con người được phục sinh, một con người tốt hơn con người cũ của mình.

HỌC CHẾT

Những điều tôi vừa đề cập thực sự không có gì mới mẻ. Trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã trích dẫn câu nói của Seneca – xấp xỉ 200 năm rồi: “Trong suốt cuộc sống, người ta phải không ngừng học sống. Và một điều sẽ làm bạn ngạc nhiên đây, trong suốt cuộc sống, người ta phải không ngừng học chết nữa.” Học sống và học chết là hai việc không rời nhau. Để học sống, chúng ta phải quan tâm và giải quyết vấn đề sự chết của chúng ta – vì sự chết nhắc cho chúng ta nhớ giới hạn của cuộc hiện sinh này. Chúng ta cần ý thức về sự ngắn ngủi của cuộc sống này, nhờ đó ta có thể tận dụng triệt để thời gian của mình.

Don Juan, vị guru già của thổ dân ở Mexico trong các tác phẩm của Carlos Castaneda, đã xem sự chết như một đồng minh. Trong lối nói của Don Juan, các đồng minh là những quyền lực đáng sợ mà người ta phải chiến đấu với chúng trước khi chúng được thuần hóa. Sự chết cũng y như thế. Chúng ta phải vật lộn với sự chết, chiến đấu với huyền nhiệm sự chết trước khi chúng ta có thể nắm được nó và vác nó lên vai, như Don Juan đã làm. Và bấy giờ, ngày này qua ngày khác, chúng ta có thể không ngừng thu nhận bao ích lợi từ những nhắc nhở đầy khôn ngoan mà sự chết trao ban cho mình.

Đồng minh” trước hết có nghĩa là một người bạn. Nhưng ít nhất trong văn hóa tây phương, chúng ta không quen nhìn sự chết như một người bạn. Trong các nền văn hóa đông phương, trong các tôn giáo như Phật giáo và Ấn giáo, sự chết được người ta niềm nở đón nhận hơn so với chúng ta. Thực vậy, trong thuyết hóa kiếp luân hồi – là thuyết có mặt trong cả hai tôn giáo nói trên – thì phần thưởng trọn vẹn, điểm nhắm cuối cùng là sự chết. Theo quan niệm này, chúng ta tiếp tục được tái sinh – hết kiếp này đến kiếp khác – cho tới khi chúng ta đã học hết tất cả những gì cần phải học trên dương thế này. Khi ấy và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi bánh xe luân hồi và cuối cùng đạt giác ngộ.

Dù bạn có nhìn nhận lý thuyết ấy hay không, bạn cũng có thể nhận thấy rằng trong thuyết luân hồi, mục đích của cuộc sống cũng là để học. Thực ra, không có chứng cứ nào cho thấy các tín đồ Ấn giáo và Phật giáo ít sợ chết hơn số còn lại trong chúng ta. Sợ chết, đó là chuyện bình thường thôi. Chết là đi tới chỗ vô minh, mù mịt – và xét một mức nào đó, nỗi sợ đối với việc bước vào chỗ vô minh là điều hoàn toàn lành mạnh thôi. Chỉ không lành mạnh khi chúng ta cố phớt lờ nó.

Một trong những phê phán thường xuyên mà tôi nghe từ các bạn vô thần, đó là tôn giáo là một cây nạng để giúp chống đỡ người già khi họ đối mặt với huyền nhiệm sự chết, với nỗi sợ chết. Tôi nghĩ họ đúng khi cho rằng một tôn giáo trưởng thành bắt đầu từ một cuộc chiến đấu với huyền nhiệm sự chết. Nhưng có lẽ họ sai khi bảo tôn giáo là một cây nạng, làm như thể người ta sẽ dũng cảm hơn khi đối mặt với cuộc sống này nếu cuộc sống này không có ý nghĩa gì và nếu không hề có đời sau. Tôi nghĩ như thế bởi vì những con người tín ngưỡng – một khi nhận ra và đối mặt với tầm quan trọng của sự chết – thường chứng tỏ rằng họ là những con người can đảm hơn. Người vô thần, theo tôi, có khuynh hướng phủ nhận tầm quan trọng của sự chết; họ tuyên bố rằng sự chết chẳng có ý nghĩa gì hơn việc ngừng đập của một trái tim, rồi họ lập tức chuyển sang nói chuyện khác. Đó là một loại tránh né. Họ không muốn tiến tới đủ gần sự chết để nhận hiểu nó còn hàm chứa những gì.

Bạn cần lưu ý rằng so với những người vô thần, đa số những người chuyên chăm đi nhà thờ cũng không nồng nhiệt đối với việc chiến đấu với huyền nhiệm sự chết của mình hơn bao nhiêu. Phần đông các tín đồ siêng năng đi nhà thờ cũng chỉ bộc lộ một lòng sùng ngưỡng mê tín, gia truyền – như những bộ y phục được truyền từ đời cha sang đời con – những bộ y phục có thể vẫn giữ cho họ được ấm, song vẫn chỉ là những cái bẫy. Đó là lý do tại sao có câu nói: “Thiên Chúa không có cháu!” (God has no grandchildren). Chúng ta không thể liên hệ với Thiên Chúa xuyên qua cha mẹ chúng ta . Chúng ta phải thiết lập một mối tương quan trực tiếp với Thiên Chúa. Chúng ta không thể nhờ một ai đó khác – linh mục, cha mẹ, vv… – chiến đấu với huyền nhiệm sự chết của chính chúng ta. Trong cuộc hành trình tâm linh đi qua cuộc sống, có những việc chúng ta phải tự làm lấy một mình, và một trong những việc đó là chiến đấu với huyền nhiệm sự chết. Bạn không thể đùn đẩy cho bất cứ ai đảm nhận thay bạn cuộc chiến đấu này.

Thế nhưng, có nhiều tín hữu siêng năng đi nhà thờ nhưng lại tránh né vấn đề sự chết như tránh dịch tả. Đa số người mang danh nghĩa là Kitô hữu thậm chí đã gỡ Đức Giêsu ra khỏi thập giá. Nếu bạn hỏi tại sao, họ sẽ trả lời rằng họ muốn nhấn mạnh sự Phục Sinh của Chúa hơn là cuộc khổ nạn thập giá. Nhưng đôi khi tôi không thể không tự hỏi phải chăng chỉ vì họ không muốn nhìn tất cả những máu me, thương tích và thực tại chết ấy ngay trước mắt họ để nhắc nhớ họ về sự chết của chính bản thân mình.

NỖI SỢ CHẾT VÀ CHỨNG TỰ YÊU

Nhưng tại sao chúng ta thường sợ chết quá mức như thế?

Đấy chủ yếu bởi vì chứng tự yêu (narcissism) của chúng ta. Tự yêu là một hiện tượng không bình thường và rất phức tạp. Xét một mức nào đó, tự yêu là điều cần thiết trên phương diện tâm lý đối với bản năng sinh tồn của chúng ta, nhưng phần lớn thì chứng tự yêu còn tồn đọng từ tuổi ấu thời và có tính tự hủy diệt. Khi chứng này bị thả lỏng, thì đó là sự mở đường cho những tình trạng bệnh hoạn về tâm lý và tinh thần. Cuộc sống tinh thần lành mạnh hệ tại ở cuộc vượt thoát không ngừng ra khỏi tính tự yêu. Nhưng thực tế thường người ta không thoát ra được khỏi nó, và đây là điều vô cùng tai hại.

Khi các bác sĩ tâm thần nói về các thương tổn để tự hào, thì đó là các thương tổn của chứng tự yêu. Trên bậc thang các thương tổn tự yêu của tôi, tôi xếp sự chết ở chóp đỉnh. Chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng bị thương tổn do chứng tự yêu, dù với mức độ rất nhỏ: một người bạn cùng lớp gọi tôi là điên khùng, chẳng hạn; hoặc vì tôi là người cuối cùng được chọn vào đội bóng chuyền của trường; hoặc các đồng nghiệp chế giễu tôi; hoặc tôi bị sa thải; hoặc con cái tôi phản kháng tôi, vv… Khi những thương tổn ấy của chứng tự yêu xảy ra, hoặc là tôi trở thành bực dọc cay đắng, hoặc là tôi lớn lên. Nhưng cái chết thì có tầm mức rộng hơn nhiều. Không có gì đe dọa mối ràng buộc giữa tính tự phụ của chúng ta và chứng tự yêu nơi chúng ta hơn là cái chết đang treo lơ lửng trên đầu mình. Vì thế, sự kiện chúng ta sợ chết là điều vô cùng tự nhiên.

Có hai cách để xử lý nỗi sợ ấy: cách thông thường và cách khôn ngoan. Cách thông thường là xua đuổi nỗi sợ ấy ra khỏi tâm trí mình, hạn định ý thức của mình về nó, cố gắng không nghĩ về nó. Cách này xem ra hữu hiệu khi chúng ta còn trẻ. Nhưng chúng ta càng xua đuổi nó, nó càng sấn tới sát gần chúng ta hơn. Và đến một lúc nào đó, mọi sự dường như đều bắt ta nghĩ đến cái chết: đứa con mình tốt nghiệp, bạn mình bị bệnh, cái khớp xương mình kêu răng rắc … Nói chung, cách thông thường xem ra không khôn ngoan lắm. Thật vậy, chúng ta càng quay mặt lẩn tránh sự chết của mình thì tuổi già của chúng ta càng trở nên đầy đe dọa hơn cho mình.

Cách khôn ngoan hơn là đối diện với sự chết càng sớm càng tốt. Và khi làm thế, chúng ta có thể nhận ra một cái gì đó thực sự rất đơn giản. Nghĩa là, ngần nào chúng ta có thể vượt qua chứng tự yêu của mình thì ngần ấy chúng ta có thể vượt qua được nỗi sợ chết.

Đối với những người thành công trong việc này, thì viễn ảnh sự chết sẽ trở thành một động lực thúc đẩy sự trưởng thành tâm lý và tâm linh của họ. Họ nghĩ: “Dù sao tôi cũng sẽ chết, nên chẳng nghĩa lý gì việc cố bám víu vào cái tôi ngốc nghếch của mình.” Bấy giờ, họ tiến lên trong một cuộc hành trình giũ bỏ sự vị kỷ.

Đó không phải là một cuộc hành trình dễ dàng và dễ chịu. Những ‘cái vòi’của chứng tự yêu nơi chúng ta rất nhạy cảm và sắc bén; chúng phải được chặt đứt từ ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thập kỷ này qua thập kỷ khác. Bốn mươi năm sau khi tôi lần đầu tiên nhìn nhận chứng tự yêu nơi mình, tôi vẫn còn phải tiếp tục làm công việc chặt đứt những ‘cái vòi’ của nó!

Hành trình này quả là không dễ, nhưng rõ ràng nó thật đáng giá. Bởi vì khi chúng ta tiến xa hơn trong việc loại trừ chứng tự yêu nơi mình, loại trừ xu hướng qui ngã của mình, thì chúng ta càng nhận ra rằng mình không chỉ ít sợ chết hơn mà còn trở nên ít sợ sống hơn nữa! Tấm lòng chúng ta sẽ rộng mở hơn. Chúng ta không còn bị áp lực phải bảo vệ chính mình nữa. Chúng ta có thể ngước mắt lên, thôi nhìn mình, để thật sự nhận ra người khác. Và chúng ta bắt đầu cảm nghiệm một niềm hạnh phúc sâu xa mà trước kia mình chưa bao giờ cảm nghiệm được. Vì bấy giờ chúng ta ngày càng quên mình hơn nên chúng ta có khả năng nhớ đến Thiên Chúa hơn.

Đây là sứ điệp cốt lõi trong mọi tôn giáo lớn: Hãy học chết! Các tôn giáo nhắc đi nhắc lại với chúng ta rằng con đường ra khỏi chứng tự yêu chính là con đường tiến đến ý nghĩa. Các tín đồ Phật giáo và Ấn giáo nói về điều này trong hai tiếng ‘vô ngã’; đối với họ, ngay cả ý niệm về bản ngã cũng là một ảo tuởng. Đức Giêsu cũng nói tương tự: “Ai muốn cứu mạng sống mình (nghĩa là ai cố bám lấy chứng tự yêu nơi mình) thì sẽ mất nó. Và ai dám liều mạng sống mình vì Ta, thì sẽ tìm được nó.”

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

—————-

(6) Tạm dịch: ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT LÀ CHỌN CHO ĐÚNG CÁI NĨA.

(7) open-heart = mổ tim trong khi máu được tuần hoàn.

(8) chứng nôn mửa quá nhiều khi mang thai

(9) heartbreak trong Anh ngữ, có gốc ở heart (= trái tim)

(10) vì deadline có nghĩa là hạn mức, và bản thân từ này có gốc dead = chết.

GIỜ PHÚT CAO QUÝ

GIỜ PHÚT CAO QUÝ

Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen.  Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980.  Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến.  Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang.  Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái.  Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt.  Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc.  Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.

Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người.”  Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người.  Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến.  Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra.  Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy?  Đó là giờ chết của Người.  Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta.  Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại.  Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt.  Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta.  Đây là giây phút cao quý nhất của Đức Giêsu.  Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất.  Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.

Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển.  Đây là một nghịch lý lớn lao.  Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống.  Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.

Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy.  Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển.  Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người.  Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.

Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn.  Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay.  Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.

Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt.  Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến.  Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này.  Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.

Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công.  Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt.  Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi.”

Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa.  Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi.  Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.  Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).

Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng.  Sự sống sẽ chiến thắng.  Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.

Sưu tầm

.TẨY TRẦN VÀ THĂNG HOA

.TẨY TRẦN VÀ THĂNG HOA

Rev. Ron Rolheisher, OMI

Ăn mừng là một chuyện mâu thuẫn, là do có sự tác động lẫn nhau giữa nỗi mong chờ và thành tựu, nỗi khát khao và việc dang dở chưa thành, cái tầm thường và điều đặc biệt, công việc và vui chơi.  Cuộc sống và tình yêu phải được ăn mừng theo một nhịp điệu “nhịn đói – tiệc tùng” nào đó.  Thời vui chơi sẽ có lợi ích nhất khi đi sau những giây phút làm việc, thời hưởng thụ sẽ càng được tôn lên bởi những thời khát khao, còn thời thân mật sẽ nảy nở từ những thời cô độc.  Sự có mặt là tùy thuộc vào sự vắng mặt, sự thân thiết tùy thuộc vào sự cô độc, vui chơi tùy thuộc vào công việc.  Kể cả Chúa cũng chỉ nghỉ ngơi sau khi đã làm việc sáu ngày!

Ngày nay chúng ta chật vật vì điều này.  Nhiều hội hè tiệc tùng của chúng ta trở nên nhạt nhẽo vì trước đó chưa có thời nhịn đói.  Ngày xưa, thường có một kỳ nhịn đói dài trước khi diễn ra một buổi hội hè, và sau đó là một lễ mừng vui vẻ.  Ngày nay, chúng ta làm ngược lại, có ăn mừng kéo dài trước khi diễn ra hội hè và sau đó là nhịn đói.

Lấy Giáng sinh làm ví dụ:  Mùa Vọng khởi sự cho việc ăn mừng Giáng sinh, thực thế.  Các bữa tiệc bắt đầu, đèn hoa trang trí sáng lên, và nhạc Giáng sinh trỗi dậy.  Khi cuối cùng lễ Giáng sinh đến, thì chúng ta đã phát ngấy với những điều thích thú của kỳ lễ này, mệt mỏi, bão hòa với những thứ của Giáng sinh, và đã muốn chuyển ngay sang lễ tiếp theo.  Vào đúng ngày Nô-en thì chúng ta đã trở lại cuộc sống bình thường.  Mùa Giáng sinh trước đây thường kéo dài đến tháng Hai.  Bây giờ, thực tình mà nói, nó hết hẳn vào ngày 25 tháng 12.

Từ trước đến nay không phải lúc nào cũng như vậy.  Trước đây, quá trình từ khởi sự chuẩn bị là hướng tới tiệc tùng, sau đó mới đến ăn mừng.  Bây giờ thì tiệc tùng trước, nhịn đói sau.  Vì điều đó mà chúng ta nghèo nàn đi.  Nếu trước đó không có nhịn đói thì chẳng có được bao nhiêu tính chất thăng hoa trong tiệc tùng ăn mừng.

Một đồng nghiệp của tôi thích nói rằng xã hội chúng ta ngày nay biết cách mong đợi/thúc đẩy một sự kiện mà không biết cách làm sao để duy trì nó.  Điều này cũng chỉ đúng một phần.  Rất đúng là chúng ta không biết cách duy trì một điều gì đó; mà chúng ta cũng không biết làm thế nào để mong đợi/thúc đẩy nó.  Chúng ta lẫn lộn giữa mong đợi và lễ mừng bởi vì chúng ta thấy khó mà sống trong trạng thái dang dở và căng thẳng của sự chưa xong nếu không tiến tới giải quyết nó.  Chuyện mong chờ và nhịn đói không phải là những điểm mạnh của chúng ta; ăn mừng cũng không phải nốt.  Bởi vì chúng ta không thể chuẩn bị cho đúng đắn để hướng tới một lễ mừng, nên chúng ta cũng không thể ăn mừng một cách đúng đắn.

Lễ mừng tồn tại được là nhờ vào mâu thuẫn: để mừng lễ, trước hết chúng ta phải nhịn đói; để đạt đến sự viên mãn thật sự, chúng ta trước hết phải sống trong khiết tịnh; và để nếm mùi vị đặc biệt, trước hết chúng ta phải hiểu vị bình thường.  Một khi việc nhịn đói, chuyện đợi chờ dang dở, và nhịp điệu thông thường của cuộc sống bị đi tắt bỏ qua, thì sự mệt mỏi của tinh thần, sự chán nản và thất vọng sẽ thay thế lễ mừng và chúng ta chắc chắn chỉ còn lại cảm giác trống rỗng: “Tất cả là thế thôi sao?”  Nhưng đó là vì chúng ta đã đi tắt, đã bỏ qua cả một quá trình.  Đôi điều chỉ có thể thăng hoa nếu, trước tiên, có sự tẩy trần.

Tôi đã lớn tuổi để biết về một thời đại khác.  Giống như thời đại của chúng ta, thời đại đó cũng có những sai lầm của nó, nhưng cũng có những mặt mạnh.  Một trong những mặt mạnh của nó là niềm tin, và người ta sống, thực hành theo niềm tin đó, rằng lễ mừng là tùy vào việc nhịn đói trước đó, và cái thăng hoa đòi hỏi phải có sự tẩy trần trước đó.  Tôi nhớ rất rõ những mùa chay thời thơ ấu.  Mùa chay đó mới nghiêm ngặt làm sao!  Nhịn đói và từ bỏ: không lễ cưới, không nhảy nhót, rất ít tiệc tùng, rất ít đồ uống, đồ ăn tráng miệng chỉ có vào Chủ nhật, và nói chung là tất cả những thứ tạo nên sự đặc biệt và lễ mừng đều ít hơn.  Các nhà thờ trang hoàng toàn bằng màu tím.  Sắc màu thì tối thẫm ảm đạm và tâm trạng thì ăn năn hối lỗi, nhưng lễ mừng theo sau đó, Lễ Phục Sinh, thì thật sự là đặc biệt!

Có lẽ đây là nói theo kiểu hoài cổ; xét cho cùng, hồi đó tôi còn nhỏ, ngây thơ và chẳng có gì, và tôi có thể gặp gỡ Phục sinh cũng như những lễ mừng khác với tinh thần háu đói hân hoan.  Có thể như vậy, nhưng tính chất đặc biệt quanh những lễ mừng đã chết vì một lý do khác, đó là, chúng ta đã không còn mong đợi chúng một cách đúng đắn nữa.  Chúng ta bỏ qua chuyện nhịn đói, sự đợi chờ dang dở, và nỗi mong mỏi bắt buộc phải có trước.  Nói nôm na như sau – làm sao Giáng sinh có thể đặc biệt cho được nếu khi chúng ta bước qua ngày 25 tháng 12 với trạng thái kiệt sức sau bao nhiêu tiệc tùng liên hoan hàng tuần trước đó?  Làm sao lễ Phục sinh lại đặc biệt cho được khi chúng ta sống mùa chay cũng như bất kỳ mùa nào khác?  Thật sự là, làm sao có chuyện bất cứ cái gì cũng có thể thăng hoa khi chúng ta đã đánh mất khả năng tẩy trần?

Ngày nay, tình trạng thiếu vắng sự đặc biệt và thích thú trong đời sống chúng ta một phần lớn là do nhịp điệu này đã gãy đổ.  Nói ngắn gọn, Giáng sinh không còn đặc biệt nữa vì chúng ta đã ăn mừng Giáng sinh suốt cả mùa Vọng; đám cưới không còn đặc biệt nữa vì chúng ta đã ngủ với cô dâu, và tất cả các trải nghiệm thường đều nhàm chán nhạt nhẽo, không thể nào làm chúng ta phấn khởi lên được vì chúng ta đã nếm chúng khi chưa đến độ.  Trải nghiệm lúc chưa chín muồi là dở chỉ bởi vì nó chưa chín muồi, chẳng vì lý do nào khác.  Ăn mừng Giáng sinh suốt mùa Vọng, ăn mừng Phục sinh mà không nhịn đói trước, bỏ qua cái độ chờ mong trong bất kỳ điều gì lĩnh vực gì, thì cũng giống như đã ngủ với cô dâu trước đám cưới, một lỗi về sự khiết tịnh.  Tất cả những trải nghiệm chưa chín mùi đều có tác động là vắt kiệt nhiệt tình và những kỳ vọng lớn lao của chúng ta (mà chỉ có thể được dồn từ từ và tăng dần lên thông qua tẩy trần, căng thẳng và đợi chờ đau đớn khó chịu).

Bây giờ là tuần chay.  Nếu chúng ta dành mùa này để nhịn đói, để tăng cường độ nỗi chờ mong, để tăng nhiệt độ tâm lý của chúng ta, và để học biết được những điều gì có thể ấp ủ hoài thai trong lò rèn khiết tịnh, thì lễ mừng theo sau sẽ có cơ hội thăng hoa.

Rev. Ron Rolheisher, OMI

Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

– Tin nổi bật,

VRNs (15.03.2015) – Sài Gòn -Nước mắt là biểu hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm Cây Thông).

Nước mắt nào cũng mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu”. Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.

150314006

Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…”. Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng”. “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…”. Màu buồn mà vẫn đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.

Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33), đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai khi đi đến mộ Ladarô (Ga 11:35). Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng (Ga 11:38), tức là Ngài khóc lần thứ ba.

Sinh ra ai cũng khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần, buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!

Samuel Beckett (1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai-len) có triết lý độc đáo lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy”. Tính liên đới rất lạ!

Thật dễ để dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.

Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ, kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà vẫn không sạch hết tội.

Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Sb 36:14-16). Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!

Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:19-21). Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.

Đó là lịch sử đời thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi” (*). Một sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Và chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể tồn tại và chuyển động”.

Cuộc sống có ba thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay, và để hướng tới tương lai.

Kinh Thánh hướng về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23). Thiên Chúa cũng đang mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.

Trong thời gian lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3). Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê”, cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ “khấn thuê”, “dâng lễ vật thuê”,… Thần linh cũng đành “bó tay” thôi!

Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:4-6). Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động!

Cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn”.

Vâng, rất đau khổ nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6). Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì, dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. Đừng bao giờ ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ của mình!

Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10). Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Đừng áp đặt Thiên Chúa theo ý mình!

Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-18).

Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”; muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu (Lc 23:28).

Thánh sử Gioan cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Những lời này quá rõ ràng!

Để được Thiên Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông” (Tv 39:13). Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử của cố NS Hùng Lân:

https://www.youtube.com/watch?v=VpUzr0Tli78

Đời tôi và bao nổi trôi,

“Đời tôi và bao nổi trôi”,

vùi trong thời gian dần khuất nơi chân trời
Bạn ơi, buồn vui sầu bi,

tìm đến, rồi có những lần ướt mi”.

(Paul Anka: Comme d’habitudes – Lời Việt: Nam Lộc: Giòng đời)

(Thư Do thái 13: 1-3)

Trần Ngọc Mười Hai

Ngay câu đầu bài hát nổi tiếng trích-dẫn ở đây, bạn và tôi, ta đều thấy chữ “tôi” với “cuộc đời”, và “bao nổi trôi”, cũng rất trội.

Quả là như thế. Nói đến chữ “tôi” -tôi đây là bần đạo chứ không phải là “bạn đạo” hạy “bạn đọc”- đang ngồi đọc giòng chữ khá mờ nhoè này, thì: quả thật là như thế. Như thế, tức: như thể ca-từ ở đây do nghệ sĩ Nam Lộc viết lời Việt và hát tiếp:

“Rồi bao hàng quán chói trang ở trên thế gian.

Tôi cũng từng bước qua biết bao.

Và có biết bao đời tôi đã bước qua.

Giờ đây nhìn tháng ngày qua.

Đời lững lỡ trôi đôi lúc tôi sai lầm cho dù tôi chỉ mong.

Được mang niềm vui đến với cùng thế nhân”.

(Nam Lộc – bđd)

“Mang niềm vui đến với thế nhân”, là quyết-tâm và quyết-định của bạn và mọi người, chứ không chỉ mình tôi như truyện kể nhẹ ở bên dưới:

“Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles nưóc Mỹ, một diễn giả nồi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết-trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn-thuyết  bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:

-Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả mọi đèn trong sân vận động này.
Đèn vụt tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp:

-Bây giờ tôi sẽ thắp lên một que diêm, ai nhìn thấy ánh sáng từ của que diêm đang cháy thì hô to “đã thấy!”.

Một que diêm loé lên, cả vận-động-trường vang dậy tiếng “Đã thấy!”.

Khi đèn được thắp sáng trở lại, ông John Keller giải thích:

–Ánh sáng của hành động nhân ái dù nhỏ như que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.

Một lần nữa, tất cả các đèn trong sân vận động lại tắt ngúm Một giọng nói vang lên:
–Tất cả những người ở đây có ai mang theo diêm/quẹt, xin hãy thắp sáng lên! Bỗng chốc cả vận-động-trường rực sáng ánh diêm quẹt.

Ông John Keller kết-luận:

– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau lại, có thể chiến thắng được bóng tối, chiến tranh, khủng bố, sự ác và hận thù bằng những đóm nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không là môi trường sống vắng thiếu chiến tranh. Hòa bình không là cuộc sống không tiếng súng. Vì trong giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người lại giết hại nhau mà không cần súng đạn. Đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức, bóc lột nhau mà không cần gây chiến.

Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thật nhiều hành động yêu thương và lòng hảo tâm với  người đồng loại. Hành động yêu thương xuất  từ lòng nhân hậu sẽ như ánh sáng nhỏ của que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng thắp lên ánh sáng nhỏ, thì  hành động yêu thương có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của đau khổ và sự ác. (Tâm Hoa sưu tầm)

Về cuộc sống của tôi và mọi người cũng như của bạn, dù là bạn đạo hay bạn đọc đang theo dõi câu chuyện này, lại cũng có một truyện kể khác do bạn bè chuyền trên mạng, theo dạng thơ-văn nhắc nhiều đến chữ “tôi” bằng tiếng Anh và được người kể phiên-dịch như sau:

“Boil your ego

Evaporate your worries

Dilute your sorrows

Filter your mistake and,

Get taste of happiness”.

“Nấu sôi cái tôi.

Bốc hơi điều lo lắng.

Pha loãng những muộn phiền.

Thanh lọc những lỗi lầm.

Và…

“Nếm hương vị hạnh phúc.”

“Cuối giờ Pháp thoại, vị Giáo thọ tặng chúng tôi bài thơ trên. Một bài thơ tiếng Anh chẳng biết tác giả là ai được dịch ra tiếng Việt như thế. Với tôi, bài thơ hay quá, nó gợi cho tôi nhiều suy nghĩ rất thú vị. Trong cuộc sống, lúc nào ta cũng bị bản ngã trói chặt. Bản ngã có mặt sai sót trong tất cả mọi việc, chen vào mọi ngóc ngách trong quan hệ giữa ta và người. Bản ngã rất tích cực hành động. Tính tích-cực nầy nhấn chìm ta trong bể khổ mà chỉ có ta mới tự chèo-chống để vượt thoát, lướt trên sóng khổ chứ không ai giúp ta hiệu quả hơn bằng nỗ lực của chính ta.

Thật vậy, trong bất cứ tình huống nào cũng thế, cái “tôi” đã xuất hiện theo liền bên, mọi việc mang nhiều hình thể khác nhau để rồi có đúng/sai, hay/dở, khen/chê và cả ngàn thứ “dây mơ rễ má” quấn quít theo sau. Cái “tôi” thật khủng khiếp!…

Cái “tôi” chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ bao la. Một hạt bụi bé nhỏ, khó nhìn thấy bằng mắt thịt, nên hãy để nó rong chơi cùng thứ khác trong không khí, thì mọi sự cũng sẽ khác. Nhưng con người chúng ta lại không để nó như thế. Ta thích thổi phồng cái “tôi” và tự làm khổ mình, khổ người do những nghĩ suy, tính toán, so đo, phân biệt, và do những giận/hờn, yêu/ghét nữa.

Bỗng một hôm, ta nhận ra được vấn đề, bèn “buông xả” dần những vướng mắc, Ta thấy mình chẳng là gì cả, ta là hạt bụi nhỏ đang bay tỏa trong không khí như các hạt bụi khác, cùng lơ lửng trong không gian, chẳng bám vào đâu cả, rất nhẹ nhàng, tự tại. Tất cả mọi toan-tính, so đo, hơn thiệt, phải/quấy, ăn thua, giành giật để có vẫn làm ta nặng nề, nghẹt thở, đã lặn mất. Ta nhìn tất cả bằng con mắt tỉnh giấc. Ta thấy chúng chẳng là gì cả, chúng không “tồn tại”, nhưng có mặt vì ta thấy chúng “có”. Ta chấp nhặt, đặt tên và khai sinh ra chúng. Giờ, thì ta buông xả và khai-tử chúng. Chung quanh ta lại cứ thênh thang. Ta nhẹ nhàng bay lượn trong cõi không rộng mở, thật bao la hạnh phúc, tự do, an ổn Ta nâng chén trà lên uống. Ngụm trà thơm, như thể đang nếm hương vị của hạnh phúc”! (trích điện-thư ê hề trên mạng)

Nói về cái “tôi”, thì nói đến bao giờ cho hết. Nói về cái “tôi” hôm nay, là nói về nhiều thứ khác, cũng tốt cũng đẹp chứ không chỉ là “cái tôi đáng ghét” như ai đó vẫn “gào thét” với nhận-định.

Nói về cái “tôi” có nhiều điều tốt như giòng nhạc được nghệ-sĩ Nam Lộc diễn-tả ở bên dưới:

Bạn ơi thời gian vút qua nếu có lầm lỗi.

Chỉ xin mong được thứ tha biết bao.
Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời

cho tôi đắng cay lầm than.
Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.
Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang

đường tôi vẫn bước đi.
Tình yêu niềm vui sầu rơi.
Tràn dâng ngày mới khi thắng khi thua người.
Và khi lệ không còn rơi đời như cuộc chơi

cứ ngỡ đùa rỡn thôi.
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi.
Cũng xin được khắc ghi với tôi chẳng hối tiếc chi

đường tôi vẫn cứ đi.
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay,

nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi.
Vì tôi đã sống với chính con tim.
Dù cho phút cuối có đến với tôi thì xin
Theo áng mây trôi đời như chiếc lá rơi.

(Paul Anka: Comme d’habitudesbđd)

“Và có biết bao điều xin được thứ tha”, quả thật thấm thía. Thấm thía, đến tận xương tủy hơn cả bài giảng. Lời lẽ thấm thía của bài hát, còn được ca sĩ Paul Anka kể về lai-lịch của nó.

Tâm sự Paul Anka cho biết: ông không là tác giả. Ông chỉ tình cờ đi trên đường phố ở Paris, bất chợt thấy “tay hát dạo” người Thổ Nhĩ Kỳ đang đứng hát để xin tiền. Ông dừng lại nghe thấy hay quá bèn suy-nghĩ: bài này mà được chỉnh-sửa, thì chắc sẽ hay lắm, và nhiều người sẽ biết nó mà cảm-kích.

Nên, Paul Anka  bàn với anh ta mua đứt bản quyền. Paul Anka đã nhiều lần hát bài này bằng lời tiếng Pháp lấy tên là: “Comme d’habitudes”. Nhưng bài này trở-thành nổi tiếng, kể từ khi ca sĩ Frank Sinatra hát phiên-bản tiếng Anh “My Way”, lời nhạc lại hay hơn.” (trích dẫn-nhập của Anthony Trần trong đêm “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney, vào tháng 11/2014)

Dòng đời trôi qua, biết bao đổi thay” cách nào đó, có phải để nói đến những đổi thay khá mạnh bạo mà Đức Phanxicô từng nói với chúng-dân ở Manila hôm 18/1/2015 bằng những câu:

“Hôm nay, nam-giới cũng nên lắng nghe ý-kiến của phụ-nữ, chứ đừng trở-thành người chỉ biết mỗi lập-trường đơn độc, toàn trị từ phái-tính mình. Đức Phanxicô đã có nhận-xét như thế trong lần gặp giới trẻ Đại học ở thủ-đô Manila, nước Phillíppines khi ngài thấy 4 trong số 5 chức-sắc nước này đạo đạt ý-kiến lên ngài, là nam-giới.

Hôm nay đây, tôi thấy sao hầu hết các vị lên đây phát biểu, đều là nam-giới hết. Nhìn kỹ, tôi thấy chỉ một số rất nhỏ đại-diện cho nữ-giới ở đây thôi. Thật quá ít. Nữ-giới cũng có nhiều điều để nói cho ta biết trong xã-hội hiện thời. Nhiều lúc, tôi thấy đàn ông chúng ta rất ư là “độc đoán”, tức: chủ-thuyết chỉ đặt ưu-việt chọn nam-giới mà thôi.

Trên thực-tế, ta không dành nhiều chỗ cho phụ-nữ, thế nhưng nữ-giới vẫn có khả-năng nhìn sự việc dưới góc cạnh khác ta, bằng cặp mắt cũng rất khác. Phụ-nữ cũng có khả-năng đề ra câu hỏi mà nam-giới chúng ta không hiểu nổi.

Đức Phanxicô chờ cho tiếng vỗ tay chấm dứt, rồi nói tiếp: “Tôi nhận xét chính cô bé 12 tuổi đây, chứ không phải 4 vị đại-biểu nam-giới này, là người đưa ra câu hỏi gay-go nhất, hỏi rằng: tại sao Thiên-Chúa không cho phép mọi người bỏ rơi trẻ nhỏ, không ai chăm sóc vậy? Thế nên, tôi đề-nghị điều này: lần tới, nếu có vị giáo-hoàng nào tới Manila, thì cũng mong sẽ được thấy nhiều phụ-nữ hiện diện trong các buổi tiếp-tân như thế này.

Đức Giáo Hoàng còn nói: Trong khi Hội thánh ngăn không cho phụ-nữ làm linh-mục, đó là chuyện dứt-khoát rồi, nhưng Hội-thánh muốn bổ-nhiệm nhiều nữ-tu và phụ-nữ khác vào các chức vụ thâm-niên, kỳ-cựu ở toà thánh La Mã, hơn!” (trích thông tấn xã Reuters đăng trên tờ The Himalayan Times, ngày 19/01/2015 ở Lhasa thủ đô của Tibet, tr. 7)

Đó chỉ là nhận xét rất thông thoáng và phút chốc của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mà thôi. Nhưng trên thực-tế, hẳn cũng có những sự-kiện và sự việc mang tính khác-biệt rất dễ gây tranh cãi về vai-trò của nam/nữ, hoặc nữ/nam trong một xã hội tưởng-chừng-như-vẫn-chủ-trương “Duy nam-giới” được giữ từ ngàn xưa.

Là nam hay nữ, tất cả đều có thể thực-hiện điều Đức Giêsu răn dạy, trước khi Ngài về với Cha. Là nam hay nữ, đều có chỗ đứng quan-trọng và thiết-yếu trong các vai-trò và chức-vụ thánh-thiêng ở giáo-triều La Mã hay phụng vụ. Đó là điều không thể chối cãi được. Nhưng, có một chuyện đang thành vấn-đề đối với giáo-triều, là: sự khác biệt giữa linh-mục và giáo dân, như lời Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề-cập một lần nữa, như sau:

Anh chị em thân mến,

Tôi vui mừng chào đón Hội-đồng Giáo-Hoàng về Giáo-Dân họp tại Hội Nghị Thường Kỳ.  Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Chủ Tịch vì những lời ngài nói với tôi.

Thời gian qua, kể từ Đại Hội lần trước của anh chị em cho đến nay, là thời gian hoạt động và thực-hiện các sáng-kiến tông-đồ đối với anh chị em.  Trong đó anh chị em dùng Tông Huấn Evangelii Gaudium như văn-bản nền-tảng cho chương-trình hoạt-động và như la-bàn hướng-dẫn suy tư và hành động của anh chị em.

Năm mới vừa bắt đầu, đánh dấu một kỷ-niệm quan-trọng: kỷ niệm 50 năm ngày bế-mạc Công Đồng Vaticăng II. Về vấn đề này, tôi biết anh chị em đang chuẩn bị cách thích đáng một buổi kỷ-niệm ngày ban-hành Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân (Laici Apostolicam Actuositatem).

Tôi khuyến-khích sáng-kiến này, một sáng-kiến không chỉ nhìn vào quá-khứ, mà còn vào hiện-tại và tương-lai của Hội Thánh.” (x. diễn văn Đức Giáo Hoàng dành cho tham-dự-viên Hội-nghị Thường kỳ về Giáo-dân, tại sảnh đường Clementê hôm 7/2/15 Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ)

Thế thì, không cần biết em là ai, con trai hay con gái; mà chỉ cần hỏi: em có thể chứng-thực mình là giáo-dân hay không để được “Đức Thánh–là-Cha” đề-cao bằng “sắc lệnh” rất “Tông-đồ” rồi trao cho em nhiều sự-vụ-lệnh, hầu giải quyết.

Không cần biết em có là con gái hay không; và có đòi làm linh-mục không, để tôi đây lại sẽ đề-cao em, như ai đó từng đề-cao vị anh-hùng của Úc hồi nào, như bức thư đây diễn-tả:

“Harold ‘Pompey’ Elliott thân mến,

Có một thời, tên anh được mọi người biết như bậc anh-hùng hảo-hán, rất hiếm có. Trên thực-tế, dường như tất cả học-sinh ở Úc sống hồi thập-niên 1920’ đều đã từng viết luận-văn về anh. Nay, tôi tự hỏi: không biết được bao nhiêu vị nay còn nhớ đến tên anh nữa đây? Tôi thiết nghĩ, ta cũng nên học nhiều điều từ các truyện kể về anh hơn là: chỉ loanh quanh nói về tài lãnh-đạo của ai đó.

Anh là nhân-vật lịch-sử khá may mắn ở Úc. Nếu tôi được phép dùng từ-vựng mạnh-bạo và can-đảm, tôi sẽ còn nói nhiều hơn thế. Bởi, anh chính là người anh-hùng dám đáp xuống bãi đáp toàn đất bụi ở Gallipôli, chỉ 24 tiếng sau ngày 25 tháng Tư năm 1915. Anh là người vẫn còn hoạt-động cả sau khi hưu-chiến đi vào hiệu-lực, từ 11 tháng 11 năm 1918. Anh bị thương ngay từ ngày đầu tại chiến-trường Gallipôli Thổ Nhĩ Kỳ, nên tôi có thể coi đây như phép lạ nhãn-tiền, từng xảy đến với anh.

Khi anh sống sót trở-thành “anh-hùng” của Thế-Chiến Thứ Nhất, đồng thời là nhà lãnh-đạo thực-thụ của nước này, trong khi chân anh vẫn còn dính bùn đen nơi gót giày.

Là luật-sư hành nghề, anh lại trở nên lão-luyện hơn, không ngại tỏ ra cứng-cỏi với mọi người, đặc-biệt là cấp trên. Mặt khác, có lần anh doạ bắn bỏ người lính ở cấp dưới dám cả gan bật quẹt hút thuốc vào thời-điểm đầy hiểm-nguy. Nhưng ngay lúc đó, người anh/em của người này ở gần bên, cũng doạ bắn trả đũa nếu anh làm thế. Thế mà, anh vẫn không ngại thực-hiện lệnh-truyền. Anh từng khâm-phục thuộc cấp dám lên tiếng chống lại lối sống bê-tha, sa đà của tướng lãnh chỉ huy, thiếu cương-nghị. Anh lại còn dám thăng-chức cho cấp dưới nào hiên-ngang chống lệnh-truyền ban ra theo kiểu ngoại-giao, hoà hoãn.

Anh đã bị bắt-giữ khi nghỉ phép ở Luân Đôn vì dám có thái-độ coi thường vị sĩ quan kia công-khai sống bê bối, dù ông ta là sĩ-quan cao cấp. Tướng-lãnh trong quân-đội là những vị không thể ăn mặc xuề-xoà, giản-dị nhưng anh lại dám sống như thế. Và khi đọc thư anh viết về cho hai người con nhỏ ở nhà mới thấy cuộc sống của thật tuyệt-vời, giản-dị…

‘Pompey’ Elliott hỡi,

Anh từng là lãnh-đạo của nhiều người và nhiều sĩ-quan cấp dưới, nhưng không phải là lãnh-đạo của các con số, dù số ấy đếm thấy nhiều ở đây đó. Là lãnh-đạo, nhưng anh không sợ bày-tỏ sự đau buồn, nuối tiếc khi các sĩ-quan hoặc binh lính cấp dưới từng ngã gục. Và có lần, vị sĩ-quan ở Fromelle đã mô-tả con người anh bằng những giòng chữ, như: Ông ấy từng nói lên, dù chỉ một lời uỷ-lạo đơn-thuần với thương-binh ở nơi này và khen ngợi đôi mắt mờ-nhoè của vị sĩ-quan nào đó, ở nơi khác. Ông chẳng quên sót một ai, dù trên dưới. Ông không nói đến một lời, trên đường trở về tổng-tư-lệnh. Nhưng khi về đến nơi, ông lại đi thẳng một mạch vào bên trong, vùi đầu vào bàn tay, khóc nức nở trước cái chết của đồng đội…”

‘Pompey’ Elliott hỡi,

Anh đau buồn biết khi binh đội của anh trở về sau chiến tranh lại đã đau-khổ nhiều vì các khó khăn trong thời kinh-tế suy-thoái. Ngay chính anh, cũng còn không lấy lại được quân-bình sau chiến tranh nữa. Anh bước chân vào Thượng-viện trong vinh-quang, nhưng nỗi đau-buồn của tâm thân vẫn còn đó xâu xé anh mãi, cho đến ngày buồn vào tháng 3 năm 1931, anh đã tự kết liễu cuộc đời mình, trong đau buồn, tại Malvern rất gần với quê nhà của riêng tôi. Khi tôi kể cho nhiều người biết: nỗi thương-đau tệ-hại nhất của nước Úc là sự mất mát thương vong sau cuộc chiến lại đã diễn ra trong sự lặng-thinh, tĩnh mịch của quận lỵ nhỏ. Và họ đều hiểu những gì tôi muốn nói. Quả là, chiến-tranh vẫn quay trở về với quê nhà, dù các chiến sĩ của ta lại không thế.

Nay trân trọng,

Michael McGirr

(x. Michael McGirr, A letter to Pompey Elliott, Australian Catholics, số Múa Hè 2015 tr. 8)

Thế mới biết, ở thời này, con người thật dễ quên, dù người anh-hùng cái-thế của cả nước như “Pompey” Elliott. Quên sót, cả những chuyện tưởng chừng như không thể như thế.

Thế mới rõ, con người muôn thuở vẫn cứ nhớ những chuyện không nên nhớ.

Thế mới hiểu, tính-khí con người hôm nay, lệ-thuộc vào nhiều thứ, chứ không chỉ mỗi thứ văn-hoá rất không hay sau hơn 4 ngàn năm văn-hiến với văn-minh.

Và, như thế bạn và tôi lại đã nhận ra rằng: người con của đất trời cùng tận ở phía Nam hôm nay, sẽ còn ưu-tư nhiều về những chuyện mà khi xưa ít ai lo lắng, đến như thế. Và như thế, ta mới cảm-thông khi thấy mọi người đều thế cả vào thời hôm nay, rất thực-tế.

Thế mới là chuyện thực-tế, khi bạn và tôi, ta mon men đi vào vườn hoa truyện kể cũng khá nhẹ, để minh-hoạ cho điều mình ưu-tư/lo-lắng rất như trên. Thế mới thấy, rằng: có những truyện kể làm người đọc thấy vui, cứ ngồi cười một mình, như câu truyện do người Pháp nọ kể bằng mẩu đối thoại vụn vặt giữa thày-trò như sau:

“Thày: các trò nghĩ phải làm sao chia đều 11 củ khoai cho 7 bạn, thế?

Trò: Thày cứ luộc rồi xay nhuyễn và chia đều bằng muỗng cho mọi bé, là xong ngay!

Thày: Này em, chia thế rồi, mọi người sẽ bảo tim ta lớn cỡ nào thế?

Trò: Lớn nhỏ vẫn chỉ hai thôi thày ơi.

Thày: Sao chỉ có hai thôi?

Đáp: Bởi, một là của thày và trái kia là của em thôi mà.

Thày: hai bạn đến trường trễ, em thử nghĩ xem mỗi trò nói với thày lý-do nào khiến như thế.

Trò thứ nhất nói: Em đến trường trễ là vì đêm qua nằm mơ thấy mình đi rất xa, về không kịp!

Trò thứ hai bảo: Còn em đến trễ là vì em phải ra phi-trường đón bạn em từ xa về…

Thày: Em kể cho thày biết tên của 5 vật có chứa đựng sữa trong đó.

Trò: Thưa thày cũng dễ thôi. Đó là: một hộp phó-mát và 4 con bò.

Thày: các em nói cho thày biết trước khi ăn các em có làm dấu thánh giá và đọc kinh không?

Trò: Thưa thày không, em thấy không cần làm thế vì mẹ em là đầu bếp thuộc loại giỏi…”

Thày: Năm, nói cho thày biết tên một người cứ nói mãi, dù người khác không muốn nghe, đi.

Trò: Dạ, người đó tên là thày giáo hoặc cô giáo…”

Thế mới biết, con nít còn nhỏ tuổi ngày nay khác với lũ trẻ cùng thời với bạn và tôi cũng rất nhiều. Thế mới hay, ngày nay có viết chuyện phiếm lan man/tản mạn về nhiều chuyện, cũng thấy khó. Khó, là vì nó có thể giống câu trả lời của các trẻ bé nói ở trên.

Thế mới phiền, về đủ mọi chuyện, thì: bạn và tôi, ta cứ hăng say hát tiếp lời ca ở trên, dù sự thể sẽ ra sao đi nữa, vẫn hát rằng:

Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời cho tôi đắng cay lầm than.
Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.
Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang đường tôi vẫn bước đi.
Tình yêu niềm vui sầu rơi.
Tràn dâng ngày mới khi thắng khi thua người
Và khi lệ không còn rơi đời như cuộc chơi cứ ngỡ đùa rỡn thôi.
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi
Cũng xin được khắc ghi với tôi chẳng hối tiếc chi đường tôi vẫn cứ đi
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi
Vì tôi đã sống với chính con tim.
Dù cho phút cuối có đến với tôi thì xin
Theo áng mây trôi đời như chiếc lá rơi.

(Nam Lộc – bđd)

“Tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi, vì tôi đã sống với chính con tim”. Vâng. Lúc nào cũng thế. Bạn và tôi, ta vẫn luôn là bạn và là “tôi”, nếu ta cứ sống với chính con tim của mình. Vẫn cứ quyết-định sống theo lời khuyên-nhủ của bậc thánh-hiền khi xưa vẫn dạy rằng:

Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ.

đừng quên tỏ lòng hiếu khách,

vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón

các thiên thần mà không biết.

Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích,

chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ;

anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ,

chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân thể.”

(Thư Do thái 13: 1-3)

Tắt một lời, sống trong “giòng đời có nổi trôi”, là sống với mọi người, rất yêu thương. Sống hiếu khách như chính mình cũng đang ở vào hoàn cảnh như thế. Và, sẽ sống mãi với mọi người như “giòng đời”, dù chỉ là người biên-soạn hoặc viết lên lời ca của người-hát-rong-để-kiếm-sống, cũng tầm-thường như mọi người bình-thường trong đời hát dạo.

Hoặc, chỉ như giới-nữ mọn hèn vẫn cứ sống trong nhà Đạo gồm toàn những vị hoặc “đấng bậc” cầm quyền, ở trên cao.

Tóm lại, dù bạn và tôi, ta có quyết-tâm sống sao đi nữa, thì cũng xin cứ đầu-cao-mắt-sáng nhấc lên mà hát như nghệ-sĩ trẻ, những câu như:

Và có biết bao điều xin hãy thứ tha.

Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang cuộc đời.

cho tôi đắng cay lầm than.

Nhiều khi tôi nói nhiều lúc lặng im.

Để nghe tiếng nói đến từ trái tim.

Dù bao thay đổi vẫn đứng hiên ngang.

đường tôi vẫn bước đi.”

(Paul Anka và Nam Lộc – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã tâm niệm

những điều như thế mãi

trong đời mình.

Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”

Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng, cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa”.

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Ưu tư – chót buồn trong mắt, không chỉ là nỗi buồn của thế kỷ. Tay cầm – quờ quạng, có thể là tâm trạng của nhà Đạo, vào mùa chay. Mùa chay hôm nay, có ưu tư thoáng buồn, như tâm trạng của Đức Chúa, nơi trình thuật.

Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, ghi lại tình tự Chúa tỏ bày cho dân con của Ngài, để “tôn vinh Cha”. Điều mà Chúa trả lời cho người đến tìm Ngài, là: tìm Ngài, không có nghĩa chỉ nên tìm ảnh-hình bên ngoài, để nhớ vóc dáng. Như ông Zakêu, lúc đầu làm. Nhưng, “tìm gặp” Ngài, là dấn bước trọn vẹn vào với suy tư. Vào, để hiểu rõ tại sao Ngài chấp nhận khổ đau. Và, chết đi. Rồi, sống lại.

Tựa hạt lúa miến, Chúa phải ngang qua tất cả mọi sự. Qua cuộc đời, ngõ hầu đem sự sống đến với Ngài. Với mọi người. Đây là tiến trình “tự bóc trần”, mà người Hy Lạp gọi đó là kenosis, tức: biến đổi. Biến và đổi, như hạt lúa miến. Nhìn bề ngoài, nó như bị hủy hoại. Nhưng nhờ bị huỷ, nó mới to lớn. Để rồi, sẽ làm giàu cho người khác. Nếu ta không coi và cứ chấp nhận điều đó, như cốt lõi của cuộc đời Đức Chúa, thì rõ ràng là ta chẳng thể tìm gặp và thấy được Ngài, cho đúng nghĩa.

Và, Chúa còn đi xa hơn, khi Ngài nói: chúng ta phải suy tư về mình, như: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn, ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẽ giữ được sự sống, chốn miên trường.” (Ga 12: 25). Lời như thế, phần đông chúng ta thấy khó mà chấp nhận. Khó là bởi, ai cũng muốn chiếm hữu nhiều tiền, nhiều của. Muốn an toàn, yên ổn. Muốn bao đảm có được tương lai ngời sáng. Trong khi đó, Chúa lại bảo: chỉ khi nào chấp nhận bỏ hết mọi sự, và giữ mỗi tình yêu thương phục vụ người khác, thì khi đó, ta mới hoàn thành phần sâu thẳm, của chính ta.

Phục vụ người khác, là đến với Chúa. Đến, để ra đi theo cung cách Ngài dạy:“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và, Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó.” (Ga 12: 26) Dấn bước theo cung cách Chúa hành xử, là đi với Chúa. Và, có Mẹ cùng đi . Mẹ và ta, cùng tiến bước lên đồi ngọn Calvariô. Tiến và bước, đến bất cứ nơi đâu. Đi bất cứ chỗ nào. Đi và đến, chấp nhận mọi điều/mọi thứ xảy ra, với ta.

Vấn đề thêm nữa, là: ta đã sẵn sàng ở vào tình huống “đi và đến” ấy chưa? Hay vẫn cứ lo sợ mọi sự xấu/ác thần, xảy đến với ta? Đi và đến, có là đòi hỏi lớn, từ Đức Chúa? Với Chúa, chuyện này cũng dễ thôi. Nhưng, với ta? Dù sao, cũng nên nhớ đến thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Do Thái, có nói rõ: “Đức Giêsu giống hệt như ta trong mọi sự, trừ tội lỗi.”

Vậy nên, đừng nghi hoặc. Bởi, vào khi Chúa khuyên nhủ ta làm điều gì, vì Chúa cũng mang tính người như ta, nên Ngài cũng sầu buồn, lo ngại. Vì lo, mới thốt thành lời: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này?” (Ga 12: 27) Nhưng, điều Chúa muốn bày tỏ là lời cầu Ngài đã thực hiện sau Tiệc Giã Từ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho đi chén này qua khỏi Con!” (Mt 26: 39)

Bài đọc 2, ta thấy thánh Phaolô dùng lời lẽ rất xúc động, khi thánh nhân có thư cho giáo đoàn Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức giêsu đã lớn tiếng kêu van cùng nước mắt mà dâng lên lời nguyện cầu nài xin Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết.” (Dt 5: 7)

Mọi sự xảy đến, đều dễ xảy ra với Chúa hơn với ta. Với Chúa, chuyện chỉ xảy đến sau chuỗi ngày dài nguyện cầu, ở Vườn Dầu. Xảy vào lúc, Ngài sầu buồn đổ mồ hôi, cùng rướm máu. Hãi hùng. Hãi đến độ Ngài đã lên tiếng: “Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39) Và, thánh Phaolô, còn nói rõ hơn: “Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Và từ đó, “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5: 9)

Chính vào lúc Chúa hoàn toàn tuân phục Cha, thì vinh quang của Cha đã khởi sắc, ngang qua Ngài. Rất chói lọi. Và, Ngài kêu lên: “Đã hoàn tất.” Với thánh Gio-an, câu này có nghĩa: khoảnh khắc có sự chết là khoảnh khắc vinh quang, về với Cha. Hạt giống có chết, mới đâm hoa. Kết trái. Đậu quả.

“Phần Tôi, khi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” (Ga 12: 32) , giương cao ở đây, ý nói: việc Đức Chúa được đưa lên cao, trên khổ giá. Đồng thời, cũng có nghĩa: Ngài được nâng nhấc về với vinh quang của Cha. Bởi thế nên, nếu ta trọn vẹn dâng cao mình cho Đức Chúa theo cung cách tương tự, thì vinh quang Chúa cũng sẽ chờ đợi, đến với ta.

Và như thế, hôm nay ta có muốn tìm gặp Chúa, cũng không nên theo cung cách hời hợt bề ngoài. Nhưng, hãy học đòi tìm cách thức tư riêng mà nguyện cầu. Cầu, cho ân sủng Người được thấm nhập tận phần sâu thẳm, ở trong ta. Cầu và mong, những gì ta gặp thấy, sẽ trở nên thị kiến cuộc đời. Thị kiến giúp ta sống. Nhờ Chúa nâng cao, để mọi sự trôi qua đi, là vì tình thương yêu Ngài dành hết cho mọi người. Để, gọi mời ta cùng với Ngài đi chung một lối. Đi cùng mọi người.

Ta cũng hãy nguyện cầu, để có được lòng quả cảm và tín thác. Tín thác như Ngài đối xử với Cha. Tức, cần khám phá ra nhiều thứ. Khám phá, để rồi cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự tuân phục giúp ta đi vào hành trình. Ở nơi đó, ta sẽ gặp thấy qui cách khiến mọi việc trôi chảy. Để Chúa hoạt động, nơi ta. Và cho ta.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

Ðức Giáo Hoàng Francis muốn tại vị chỉ một thời gian ngắn

Ðức Giáo Hoàng Francis muốn tại vị chỉ một thời gian ngắn

Nguoi-viet.com

VATICAN CITY (NV)Ðức Giáo Hoàng Francis hôm Thứ Sáu nói rằng ngài tin là ngôi vị giáo hoàng của ngài sẽ ngắn ngủi và rằng ngài cũng sẽ sẵn sàng từ nhiệm như vị tiền nhiệm, thay vì ngồi trị vì cho đến hết đời, theo tin của Reuters.


Ðức Giáo Hoàng Francis suy niệm trong một Thánh lễ. (Hình minh họa: Alberto Pizzoli/AFP/Getty Images)

Trong cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Mexico, Televisa, nhân đánh dấu năm thứ hai ngày được chọn làm chủ chăn Giáo Hội Công Giáo thật bất ngờ, vị giáo hoàng người Argentina nói ngài cũng “không thiết làm giáo hoàng,” mà muốn được đi ra Rome kiếm pizza ăn và không bị ai để ý.

Ngài nói: “Tôi có cảm tưởng thời gian làm giáo hoàng của tôi sẽ ngắn ngủi, bốn hoặc năm năm, ngay cả hai hay ba năm gì đó thôi.”

Ðức giáo hoàng nói tiếp: “Tôi cảm thấy như Thượng Ðế muốn đặt tôi ngồi đây chỉ trong một thời gian ngắn.”

Vị giáo hoàng 78 tuổi và có vẻ còn mạnh khỏe nói: “Tôi muốn chia sẻ với ý tưởng của Ðức Giáo Hoàng Benedict.”

Năm 2013, cựu Ðức Giáo Hoàng Benedict trở thành người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo đầu tiên trong 600 năm từ nhiệm, thay vì tại vị tới khi qua đời.

Ðức Giáo Hoàng Francis nói: “Theo tôi nói chung thì Ngài Benedict đã can đảm mở lối cho các giáo hoàng tương lai. Không nên xem trường hợp của ngài là một ngoại lệ mà là một quán lệ.”

Tuy nhiên, Ðức Giáo Hoàng Francis cũng không thích ý tưởng tự động về hưu ở một tuổi cố định, ví dụ ở tuổi 80. (TP)

Xem thêm:

Đức Giáo hoàng nhớ sự tự do, tỏ ý muốn về hưu sớm (VOA)

VÂNG LỜI TIẾNG LƯƠNG TÂM

VÂNG LỜI TIẾNG LƯƠNG TÂM

Mùa Chay, nếu chỉ nhìn bề ngoài thì khó ai có thể nói là vui thích được, bình thường đó là bốn mươi ngày chúng ta phải từ bỏ những gì chúng ta ưa thích, cho dù điều đó là do chúng ta tự ý làm hay do một sự ép buộc nào đó.  Chung qui, chúng ta cũng phải từ bỏ một điều chúng ta thích.  Và ngay cả trên bình diện đức tin, chúng ta tự ý để cho mình phải chịu một chút hy sinh, từ bỏ những tiện nghi và có thể những đau đớn một chút với mục đích là chúng ta muốn thanh luyện, thánh hóa toàn thân và canh tân tinh thần, canh tân tâm hồn.

Lý do nền tảng của những việc mà chúng ta làm trong tinh thần sám hối của mùa Chay là vì chúng ta chiêm ngắm những đau khổ của Chúa Giêsu đã chịu vì yêu thương chúng ta.  Vì thế mà Ngài đã bị hành hạ đau khổ đến mức tột cùng để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã chết trên thập giá vì chúng ta. Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả những đau khổ đó vì nhân loại và vì bản thân của mỗi chúng ta.  Người không phải chịu đựng những đau khổ đó nhưng Người đã phải cưu mang tất cả vì chúng ta.  Chính nhờ sự cứu chuộc của Người mà chúng ta được chung hưởng vinh phúc trên thiên đàng, niềm vinh phúc mà Ađam và Eva đã đánh mất khi sa ngã phạm tội và cắt đứt tình nghĩa với Chúa.

**********************************

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta gặp những người phải chịu nhiều đau khổ.  Chúng ta muốn giúp họ nhưng chẳng biết phải nói làm sao, cũng chẳng biết phải làm gì để gúp họ vơi đi những khổ đau.  Ðứng trước những hoàn cảnh như thế, chúng ta cảm thấy mình vừa bất lực vừa lo âu, nhất là khi chúng ta đối diện với sự qua đời của một người thân.  Có lẽ lúc đó điều chúng ta có thể làm là khóc với họ.

Có lần tôi đã chứng kiến cảnh người mẹ trẻ quá bối rối vì không thể làm gì hơn là cứ phải đứng nhìn đứa con nhỏ của cô đang khóc lóc, vì bàn tay bị bỏng phỏng giộp lên.  Cô không biết làm cách nào để xoa dịu nỗi đau của con.  Cô đã lấy hòn đá đập bị thương ngón tay của mình rồi cô khóc tức tưởi hơn cả đứa con của cô.  Có lẽ chúng ta không hiểu được hành động của người mẹ, nhưng có thể nói chính vì yêu mà người mẹ đã có thể làm như vậy.  Và trong hoàn cảnh cụ thể của cô, có thể đó là giải pháp, là cách thức để cô chia sẻ với nỗi đau của người con mà cô yêu thương.

Tình thương không cho phép người ta chứng kiến cảnh người mình yêu bị đau khổ, người ta phải làm đủ mọi cách trong khả năng của họ để làm sao giúp người mình yêu thoát khỏi khổ đau.  Có thể nói đó chính là những ý tưởng định hình cho những công việc hy sinh của chúng ta trong mùa Chay một cách nào đó, để tỏ bày lòng sám hối.  Ðó cũng là những cách thức, những việc làm cụ thể, để chúng ta bày tỏ tâm tình yêu mến và chia sẻ những khổ đau của chúng ta với Chúa Giêsu.  Ðó là bước đầu chúng ta đi vào con đường của tình yêu tự hiến, con đường mà Chúa Giêsu đã đi.  Ðó là yêu thương trọn vẹn, hy sinh cho tất cả, trao hiến tất cả cho người mình yêu.

Ðể được như thế, trước hết chúng ta phải tập sống từ bỏ vì yêu thương, từ bỏ một chút tiệc ly, một chút của cải vật chất, từ bỏ một chút gì là của riêng mình: sở thích, tư tưởng, lập trường.  Cụ thể hơn nữa, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc vâng lời.  Vâng lời cha mẹ, bề trên, anh chị em trong gia đình, vâng lời thầy cô giáo, những người có bổn phận trách nhiệm dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta bằng việc chúng ta sẽ tập trung lo chu toàn những công việc bổn phận, những nhiệm vụ được trao một cách trọn vẹn.

Xa hơn một chút, chúng ta thực hành những luật lệ chính đáng và công bình, nhằm đem lại lợi ích cho tha nhân chẳng hạn như giữ nghiêm ngặt luật giao thông, bảo vệ cảnh quan những nơi công cộng cho sạch đẹp, giữ luật vệ sinh chung, v.v… việc hy sinh của chúng ta có thể đi xa hơn bằng việc thực thi bác ái vào những việc làm cụ thể để giúp đỡ những người khác, đó cũng là một hình thức chúng ta vâng lời, vâng lời tiếng lương tâm của chúng ta cũng chính là tiếng Chúa.  Ðây chỉ là một vài điều được nêu lên trong khi mỗi chúng ta có thể làm vì vâng lời, vì tiếng nói cũng là mệnh lệnh sau cùng chúng ta tuân theo là tiếng nói yêu thương của Thiên Chúa.  Ðồng thời, chúng ta đáp trả lại bằng những hành động diễn tả tình yêu dưới nhiều hình thức khác nhau, để chúng ta chia sẻ với Ngài, tỏ bày tình thương và sự cảm thông của chúng ta với nỗi đau mà Ngài đã chịu vì yêu thương.  Thánh giá là dấu hiệu đánh động chúng ta nhất để chúng ta luôn nhắc nhớ mình hãy làm một điều gì đó để xoa dịu nỗi đau của Chúa Giêsu và thân thể của Người là anh chị em chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin ban ơn trợ lực để chúng con can đảm bước theo con đường Ngài đã đi.

R. Veritas

Người Thợ Điêu Khắc

Người Thợ Điêu Khắc

Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng, nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.

Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!

Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.
– Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?

Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
-Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
– Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.

Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!

Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!

Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!

Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!

Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.

Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!

Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.

Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…

Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.

Giuse Nguyễn Văn Sướng