ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

Văn Hào, SDB

Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế.”  Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục.  Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “Yêu thương để phục vụ”… nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.  Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.

Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9, 35).  Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).

Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức.

Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu.  Ngài nói: “Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn.”  Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người.  Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo.  Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất.  Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa.  Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa.  Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ.  Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng.  Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam.  Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân.  Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.

Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable).  Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó.  Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường.  Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5, 5-6).  Qủa thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).

Khiêm nhường: linh đạo Thập giá.

Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá.  Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34).

Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế.  Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá.  Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất: Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.  Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ.  Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt.  Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì.  Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên.  Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá.  Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37).  Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội.  Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ.  Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.  “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời.  Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18, 2-4).  Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến.  Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội.  Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ.  Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi.  Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.

Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu.  “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời.  Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại.”  Thánh Marcô xác nhận: “Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9, 32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan.  Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh.  Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu.  Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn.  Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào.  Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20).  Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay.  Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).

Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá.  Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài.  “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Đời tôi tiến bước như một con lừa.

Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình.  Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả.  Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa.”  Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh.  Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài.  Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón.  Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó.  Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi.  Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than.  Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần.  Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi.  Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy.  “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế.  Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình.  Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha.” Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)

Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo.  Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng  khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới.”  Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình.  Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục.  Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình.  Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân.  Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014).  Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.

Kết luận : Tôi tớ của các tôi tớ

Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu.  Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa.  Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình.  Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắngsự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu.”  Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ).  Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?

Văn Hào, SDB

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa, Con Đây!

Cao Gia An, S.J.

Lạy Chúa
mỗi khi có dịp bước chân vào nhà thờ
rất nhiều bạn bè không công giáo hay hỏi con:

Tại sao ở giữa lòng ngôi thánh đường đẹp đẽ như thế
lại là cây Thập Giá, treo một con người chết trần trụi?
tại sao ở nơi trang trọng và tôn nghiêm như thế
lại đặt hình ảnh tột cùng của sự khổ đau
của thất bại, của nát tan, của cái chết?…

Thập giá là hình ảnh lý tưởng
của một sự từ bỏ hoàn toàn và mất mát vĩnh viễn
của một lời một mời gọi và chất vấn không ngừng
cho những người dám bước theo Chúa.

Lạy Chúa, con đã làm gì, con đang làm gì,
và con sẽ phải làm gì cho Chúa?
Xin dạy con chiêm ngắm không ngừng
Đấng chịu đóng đinh trên Thập Giá
Đấng đã dám liều mình chết đi vì yêu con,
để từ nơi cội nguồn Thập Giá
con không chỉ học được cách sống
mà còn học được cách chết,
chết để cho nhiều người khác được sống.

Xin cho con đủ can đảm và trung thực để nhận ra:
nếu Thập Giá của Chúa không được đặt ở trung tâm
của trọn vẹn đời sống đức tin của con thì việc bỏ mình

vác thập giá mình mà theo Chúa chỉ là một lý thuyết

bóng bẩy và đẹp đẽ, nhưng lại chẳng có một âm hưởng thực tế nào!
Ước gì cách con đón nhận Thập Giá mỗi ngày
là một lời chứng sống động và hữu hiệu
về tình yêu, về giá trị cứu độ của Thánh Giá Chúa.

Cao Gia An, S.J.

ĐỨC MẸ SẦU BI

ĐỨC MẸ SẦU BI

LM Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

Hôm nay, chúng ta cử hành lễ nhớ “Đức Mẹ Sầu Bi”.  Như thế, trong đời sống của Đức Mẹ, cũng có những điều sầu bi, như trong đời sống của tất cả mọi người chúng ta.  Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ tôn vinh Đức Maria, Mẹ của chúng ta, nhưng hầu như luôn luôn là vì những ân huệ lớn lao Thiên Chúa ban cho Mẹ (chẳng hạn ơn vô nhiễm, ơn lên trời, ơn làm Nữ Vương…), hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ (Sinh Nhật, Truyền Tin, Thăm Viếng…)  Chính vì thế mà, lễ Đức Mẹ Sầu Bi là một ngày lễ rất đặc biệt, bởi vì lễ này mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Mẹ, với một khuôn mặt rất đời thường, và vì thế rất gần gũi với chúng ta: Đức Mẹ Sầu Bi, và chúng ta cũng sầu bi, không phải một lần, nhưng nhiều lần trong cuộc đời!

Vậy chúng ta đã có và đang có những sầu bi nào?  Tuy nhiên, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi hướng về Đức Mẹ và “suy chiêm” những đau khổ của Mẹ.  Bởi vì, những đau khổ của Mẹ sẽ làm cho chúng ta hiểu biết Mẹ hơn và như thế, yêu mến Mẹ nhiều hơn.  Ngoài ra, những đau khổ của Mẹ còn soi sáng và dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống đầy khổ đau này.

Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ

Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo Hội thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”.  Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta.  Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8).  Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:

1.     Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.

2.     Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)

3.     Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)

4.     Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)

5.     Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19, 25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.

6.     Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)

7.     Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)

Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.

Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ.  Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.

Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.  Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ.  Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn…, thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ.  Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?

Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài.  Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu.  Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi.

Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá

Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.

Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị.  Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững.  Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá.  Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi.  Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói:

–       Thưa Bà, đây là con của Bà.

Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái.  Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến.  Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.

Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh.  Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống:  Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc.  Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.

Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.

LM Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”

(14.9.2015 – Thứ Hai – Lễ Suy Tôn Thánh Giá)

Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

“Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”
(Ds 21, 4b-9 và Ga 3, 13-17)

4 Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn.5 Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này.”

6 Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết.7 Dân đến nói với ông Mô-sê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân.

8 ĐỨC CHÚA liền nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.”9 Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.

13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

BA CUỘC ĐỜI – BA CÁCH CHẾT

BA CUỘC ĐỜI – BA CÁCH CHẾT

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá.  Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau.  Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa.  Một người bên hữu được gọi là trộm lành.  Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ.  Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau?  Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?

Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh.  Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian.  Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu.  Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác.  Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng.  Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu.  Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu.  Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc.  Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai.  Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui.  Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ cho” người mình yêu.  Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua.  Ngài không hối hận vì việc mình đã làm.  Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu.  Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha.”

Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân.  Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình.  Nhưng anh là một con người biết phải trái.  Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt.  Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân . Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác.  Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi.”  Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua.  Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình.  Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người.  Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng.  Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi.  Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng.  Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời.  Anh không oán trời, oán đất.  Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.

Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi.  Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân.  Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân.  Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ.  Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh.  Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá.  Anh đòi quyền sống.  Sống để hưởng thụ.  Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình.  Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình.  Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn.  Thập giá làm cho anh đau khổ.  Cái chết làm cho anh nổi loạn.  Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh.  Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.

Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình.  Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau.  Có người chấp nhận thập giá để đền tội.  Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân.  Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời.  Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta.  Nhưng dù con người có muốn hay không?  Thập giá vẫn hiện diện.  Thập giá của bổn phận.  Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường.  Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người.  Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân.  Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.  Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người.  Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa, Con Đây!

Lạy Chúa,
con hay có cái nhìn bi quan về cuộc sống.
Dù ở góc độ nào hay hoàn cảnh nào
con cũng thấy cuộc đời đầy những gam màu buồn
với những vệt mờ và bóng tối
những bế tắc và cùng túng
những rác rưởi và cặn bẩn…

Nhưng Chúa ơi,
là cuộc sống đã quá bẩn
hay vì ánh mắt con đã bị nhiễm bẩn quá nhiều
bởi những mặt trái của cuộc sống?
Là cuộc đời quá u buồn ảm đạm,
hay vì thói quen bi quan và yếu đuối
vốn đã là một phần cố hữu trong cái nhìn của con?

Nếu cuộc sống được con dựng nên như một pháo đài
rồi tự giam mình trong một góc cùng túng nhỏ hẹp
trong thái độ thụ động của cố chấp và bảo thủ,
nếu con đánh mất khả năng lắng nghe và học hỏi
chỉ biết xét đoán và kết án
chỉ biết thất vọng và bi quan,
thì không phải là con đang sống
nhưng là đang chết đi từng ngày…

Xin thánh hoá con từ trong cái hình
và thổi vào con tinh thần sống tích cực.
Xin dạy con thắp lên một điểm sáng cho đời
thay vì cứ bi quan và nguyền rủa bóng tối.
Xin tái tạo trong con thiện chí và niềm tin
để con đủ sức băng qua những hoang lạnh mờ tối
mà tìm về vùng trời nắng ấm của cuộc đời.

Tác giả: Minh Gian
http://dongten.net/noidung/52933

TƯỞNG LẦM

TƯỞNG LẦM

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

Trích EPHATA 658

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời.

Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu Thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc ? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc.

Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình.

Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật. Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc Nước Trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (2)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (phần 2)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Nữ Thánh Rita Cascia

(Nữ Thánh Rita Cascia)

Thánh Rita Cascia (1381-1457) 76 tuổi, người nước Italia (Ý), nữ tu Dòng Thánh Augustinô. Thánh Rita sinh năm 1381, tại thành Cascia thuộc tỉnh Umbria, nước Ý. Cha mẹ có tinh thần đạo hạnh, cảm ơn Chúa đã cho sinh con như món quà quí.

Cô muốn dâng mình đi tu, nhưng cha mẹ lại bắt cô lập gia đình. Ban đầu cô hơi bực mình, nhưng Rita hiểu đây là Ý Chúa, nên cô bằng lòng. Rita kết hôn năm 12 tuổi, với một thanh niên quý tộc. Anh ta là người khô đạo, thường xuyên hành hạ vợ mình. Tuy nhiên, với tâm hồn đạo hạnh, Rita vẫn yêu thương, làm tròn bổn phận của người vợ.

Cuối cùng, vì đức hạnh của Rita, người chồng đã thay đổi nếp sống và tận tâm yêu mến bà. Đời sống gia đình kéo dài được 18 năm. Chúa đã chúc lành cho Rita và cho bà sinh 2 con trai. Bà trở thành người vợ và người mẹ tốt lành tận tụy.

Vì có sự bất hòa trong đại gia đình dòng họ, một hôm, chồng bà đã bị kẻ thù giết chết, bà rất đau khổ, nhưng trong tinh thần Công Giáo, bà tha thứ cho kẻ thù đã giết chồng.

Hai con trai của bà khi đến tuổi được phép mang khí giới, không giống như mẹ, chúng quyết tâm nuôi mộng giết kẻ thù để trả hận cho cha mình. Bà lại đau khổ, khuyên can các con và vì biết không thể làm lay chuyển được kế hoạch giết người của chúng, bà đã ngày đêm cầu xin Chúa cất chúng về khi chúng đang còn trong ân sủng của Chúa và chưa phạm tội ác. Chúa đã nhận lời bà. Trong một năm, cả 2 đứa lìa đời.

Sau khi con chết, bà xin vào tu trong nhà dòng nữ Augustinô ở Cascia, nhưng nhà dòng đã 3 lần từ chối không nhận bà. Bà tha thiết cầu nguyện đêm ngày xin Chúa cho bà được thuộc về Chúa như người Bạn Trăm Năm. Sau cùng, 3 vị thánh (Gioan Tẩy giả, Augustinô, Nicholas Tolentino) hiện ra dẫn bà tới nhà Dòng Madalena, đưa bà vào trong, bà mới được nhận vào tu.

Trong 40 năm ở nhà dòng, bà sống trong cầu nguyện và chiêm ngắm, hầu hạ người bệnh và người nghèo, làm việc tay chân được bề trên chỉ định. Bà ước ao chia sẻ những khổ đau cùng Chúa Kitô nên sau 25 tu, Chúa đã ban cho bà được chia sẻ một chút là cho một cái gai trong mũ gai của Chúa cắm vào trán bà. Từ đó, trên trán của bà có vết thương rướm máu.

Các bề trên của bà nghĩ rằng đó là hiện tượng bệnh phong cùi, nên tách riêng bà ra khỏi cộng đoàn nhà dòng và cho bà sống trong một căn phòng nhỏ trong góc tu viện. Bà mang vết thương nầy trong 15 năm, âm thầm chịu đựng ngày đêm và cảm tạ những ơn Chúa Giêsu Kitô đã đặc biệt ban cho bà. Bà bị đau đớn khổ sở cho đến lúc nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng 5 năm 1457.

Người ta gọi bà Thánh Rita là “Người đem hòa bình, Thánh của những trường hợp vô vọng, Bà Thánh xin nhiều quá” (“Peacemaker”, “Saint of the Impossible”, the “Saint Who Asks Too Much”).

Năm 1900, bà được phong thánh, và được coi như “Viên ngọc quí của thành Umbria”. Lòng sùng kính Nữ Thánh Rita không những lan ra khắp nước Ý mà còn ra nhiều nước khác, nêu gương cho phụ nữ mọi thời, mọi nơi, qua nhiều giai đoạn…

III .- ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA

Ngoài những trường hợp đặc biệt như Thánh Sư Huynh André Bessette và Nữ Thánh Rita Cascia, những giáo dân bình thường như các NT DB, LVC và NĐN trình bày trên đây, đã được Chúa Quan Phòng an bài sống đạo trong cuộc đời thường theo đường lối của Ngài mà không ai hiểu được.

Tu xuất

Ba NT đó thuộc Hội CCSHHN. Ba Vị đã có một thời gian tu học ở Chủng Viện An Ninh thuộc Tổng Giáo Phận Huế.

Sau nhiều năm tháng tìm hiểu ƠN GỌI của mình, qua sự cầu nguyện và tự vấn lương tâm, cũng như nhiều buổi tham vấn với các linh mục linh hướng, quý Vị nhận rõ Thánh Ý Chúa  muốn quý Vị thay đổi hướng đi của đời mình nên đã hồi tục và sống đạo giữa giòng đời, làm chứng nhân cho Chúa Kitô.

Vậy những giáo dân xuất thân từ những chủng viện hay những dòng tu thường được gọi là “tu xuất”. Từ ngữ nầy mang ý nghĩa “tiêu cực” hay “tích cực” tùy theo tầm nhìn khác nhau.

Theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và qua bí tích rửa tội, người tín hữu Chúa Kitô trở nên “giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa  để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh  em ra khỏi miền  tối tăm  vào nơi  ánh sáng diệu huyền. Xưa anh  em chưa phải là một dân. Nay anh  em đã là dân của Thiên Chúa; xưa anh  em chưa được hưởng lòng thương xót (của Chúa), nay anh  em đã được thương xót” (1 Pr 2: 9-10).

Và cũng theo LM Ngô Tôn Huấn:

“Tuy nhiên, sống trong Giáo Hội, người tín hữu không có chung một chức năng và nhiệm vụ  như nhau. Ngược  lại, theo Thánh Phaolô,  thì  “anh  em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác…” (1 Cor 12: 27-28).

LM Ngô Tôn Huấn còn nhận xét:

Giáo dân là thành  phần Kitô hữu  đông đảo nhất trong Giáo Hội không thuộc về hàng giáo sĩ  hay tu sĩ, nhưng nhờ phép rửa “đã trở nên Dân Thiên Chúa  và tham dự vào  chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thực hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phần vụ riêng của mình” (Ánh Sáng Muôn Dân, 31)

Vì vậy, các giáo dân “tu xuất” mà trong phạm vi bài viết nầy là những Cựu Chủng Sinh, cách riêng các CCS Tổng Giáo Phận Huế, đang sống Ơn Gọi của mình theo nhiều cách thế khác nhau, theo “những đồng bạc” mà Chúa trao ban cho họ để làm sinh lợi.

Có người là Giáo Sư Đại Học, Khoa Học Gia. Có người là Bác Sĩ, Nhạc Sĩ, Văn Thi Sĩ, Kỹ Sư, Luật Sư, Bình Luận Gia…Có người chỉ là giáo dân tầm thường trong các Giáo Xứ, đảm trách những phần vụ như Giáo Lý Viên, dạy Việt ngữ hoặc thực thi công tác truyền thông trong Giáo Xứ, có khi trên bình diện quốc gia hay quốc tế…   Nói chung đại đa số sống đời sống giáo dân tốt đẹp để làm “Chứng Nhân cho Chúa giữa giòng đời” theo những ân huệ họ được nhận lãnh trong những năm tháng ở trong nhà Chúa! Họ là những cánh tay “nối dài” của các giáo sĩ.

Họ thực hành điều mà theo LN Ngô Tôn Huấn: “Tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm, nhưng cả bốn thành phần giáo sĩ, tu sĩ  và giáo dân (bậc độc thân và bậc có gia đình)  đều chung sứ mạng loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho những người chưa nghe biết, để tất cả đều được hy vọng cứu độ vì “Thiên  Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tim 2:4).

Gương Chứng Nhân của Song Thân Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Trong bài “Tựa” quyển sách “MỘT TÂM HỒN”, Kim Thiều viết tại Quần Phương, ngày 24/4/1948 như sau:

Tháng 9 năm 1843, trên con đường dốc và gồ ghề lên nhà Dòng Thánh Bernard xây trên ngọn núi, người ta trông thấy bước đi không nhọc, một thanh niên trạc độ 20 tuổi, dáng bộ rát tư lự và như đang mơ mộng đắm theo một lí tưởng cao khiết của đời sống, đôi mắt nhìn sâu và đượm vẻ rầu rầu, tỏ lộ một tính tình ôn tồn hoà nhã.

Phong cảnh đẹp oai hùng và tráng quan chiêm của dãy núi Alpes, làm nẩy nở trong tâm hồn người trai tráng hàng trăm nghìn tư tưởng quảng bác. Nguồn cảm dũng ứa lên như nước triều dâng, xúc động tấm lòng tri ân Đấng Thiên Chúa uy quyền phép tắc, người thanh niên tấm tắc khen ngợi….. phải dừng bước giờ lâu và để rơi những giọt ngọc… Rồi lại bước đi, đi tới ngọn non xây nhà Dòng. Nhà Dòng như ngọn hải đăng tung ra xa xa tứ phía ánh sáng hi vọng và bác ái.

Cha Bề Trên Dòng phải ngẩn lạ khi nhìn người khách trẻ trung đến thăm: hình dung đẹp oai, nét mặt thẳng thắn, tỏ rõ một linh hồn trung chính và to lớn. Cha tiếp đãi rất lịch thiệp. Cha vấn an quí thân phụ, quí quán và quí danh. Qúi danh cậu là Louis-Martin, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1823 ở thành Bordeaux nơi từ mẫu ở hồi hiền phụ sung chức Đại Uý trong đoàn quân pháo thủ binh giặc ở Tây Ban Nha. Hiện nay gia quyến ở tỉnh Alencon, mà cậu là trưởng tử.

(Chân Phước  Louis Martin – Thân Phụ Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Có phải vì muốn du lịch, muốn lên thăm nhà Dòng mà người trai anh tuấn kia bước đi đường miền cảnh đẹp như ru, nhưng xa xăm và hiểm trở? Từ Normandie đến Suisse nhiều lần phải chống gậy dò từng bước. Không, không phải người thanh niên ấy muốn du lịch, muốn đến xin tạm trú một đêm ở ngọn núi hiu quạnh này đâu. Người thanh niên muốn xin ở tu trọn đời.

Cha Bề Trên hỏi :

Cậu đã học mãn khoá La tinh chưa?

– Lạy cha, chưa.

– Đáng tiếc thật, đó là một điều kiện cốt yếu để nhận vào Dòng, nhưng cũng không lo, cậu về học thêm và sau đó chúng tôi sẽ hân hạnh được nhận cậu.

Người khách bất mãn của chúng ta lộn đường trở xuống. Ngày ấy cuộc đời cậu đáng gọi là cuộc lưu ly; nhưng trong tâm trí cậu đã cảm thấy rằng: Dòng Thánh Bernard chỉ là kỉ niệm êm ái trong cuộc đời cậu. Cuộc đời cậu, Đức Chúa Trời đã có một chương trình khác.

Cũng trong thành Alencon, mấy năm sau, một buổi sáng mát dịu dàng, trên đường phố trở lại Dòng thánh Vincent de Paul, ngọn cây, ngành cây hai bên vỉa hè rung rung theo gió, xô đi giồ lại như giùng giằng… ngần ngại… một thiếu nữ dáng thuỳ mị nết na, gương mặt tươi tỉnh gợn nhiều nét đoan chính và can trường, tên cô là Marie-Guérin (Marie-Azélie Guérin Martin), cùng với bà mẹ nhẹ nhàng gót sen bước lại phía nhà các bà Sơ (Soeur). Lòng thiếu nữ ôm đã lâu một chí tu tác, nhưng chợt trông thấy cô, bà Bề Trên được ơn soi sáng ngay, nên sau mấy lời niềm nở cười nói chào hỏi, bà trả lời dứt khoát rằng: Chúa không muốn.

(Chân Phước Marie-Guérin – Thân Phụ & Thân Mẫu Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Cô Marie-Guérin ngậm ngùi trở lại nhà, ở cùng chị cả và một em trai – người em trai này được nhắc đến nhiều lần trong Truyện Một Tâm Hồn.

Hiểu là việc tu không thành, cô thiếu nữ không nghĩ gì đến tu nữa. Ngày đêm cô thầm thì trong lòng lời cầu xin chất phác này:

“Lạy Chúa, con không dám làm bạn trăm năm Chúa như chị con, con vui lòng kết duyên trao ngãi với người thế gian đề hoàn thành ý Chúa. Trong bậc vợ chồng, xin Chúa cho con được sinh nhiều con cái: con sẽ cho đi tu hết.”

Chúa đã để dành cho cô một thanh niên xứng đáng trao gửi hồn xác mà chúng ta vừa đọc trên. Và một ngày đã định, ngày 13 tháng 8 năm 1853, trong nhà thờ Đức Bà thành Alecon, ngươi ta thấy cử hành trọng thể lễ cưới cô Marie-Guérin đẹp duyên cùng cậu Louis-Martin.

Chính chiều ngày lễ cưới, Louis-Martin đã tỏ ra lời tâm huyết cùng bạn trẻ: mình ước ao gìn giữ và chỉ yêu dấu bạn như em yêu dấu nhất thôi… Nhưng qua mấy tháng tâm tình trao đổi, Louis-Martin hiều thấu tâm ý bạn, mơ ước bạn, thì đã đồng tâm hiệp ý cùng bạn ước mơ thấy có đàn con nhởn nhơ nô chơi để vui ấm cửa nhà và rồi cho đi tu hết. Lúc ấy, như thánh Tobias, đã có thể cầu xin cùng Chúa:

Lạy Chúa, Chúa biết lòng tôi, tôi đi kết bạn chỉ vì ao ước có dòng dõi để chúc tụng Chúa đời đời

Tổ uyên ương ấy nở được 9 bông hoa trắng: 4 bông vừa nở, thiên-đàng ngắt ngay lấy đem về làm cảnh, còn 5 bông sau lần-lượt hái dâng cho hai dòng: Dòng Kín và Dòng Thăm-Viếng.

Têrêsa là út của 6 chị 2 anh: chị Louise, chị Pauline, chị Hélène sống có 4 năm, chị Céline, chị Mélanie-Thérèsa sống được 3 tháng. Hai anh: Louis được 5 tháng và Jean-Baptiste được 9 tháng thi mất cả.

……

(Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu)

Về cô gái út này, một văn hào giá trị đã viết:

Têrêsa là một vị truyền giáo lạ lùng của đời này, có tiếng nói đanh thép và vô địch, có cuộc đời vui tươi và dịu ngọt mãi, linh hồn nào đã có lần được nếm mùi dịu ngọt ấy quyết không còn muốn giam cầm mình trong vũng nước bùn lạnh hôi tanh tội lỗi.”

Về cha mẹ của Têrêsa, một cha dòng Tên đã viết trên đầu cuốn truyện MỘT TÂM HỒN dịch sang tiếng Bồ Đào Nha trước nhất lời đề tặng này:

Muôn đời kính nhớ thân phụ phúc hậu chị Têrêsa Hài Đồng GIÊSU, đáng là mô phạm cho bậc làm cha mẹ trong các gia đình Công giáo”.

Câu đề tặng đó, đủ để khen ngợi quý thân phụ Têrêsa, khen ngợi cái tinh thần truyền giáo muôn cách cũng bằng khen ngợi cái tinh thần giáo hoá đàn con nên lành thánh.

Hai Ông Bà Louis và Marie-Azélie Martin được tuyên bố “Bậc Đáng Kính” ngày 26 tháng 3 năm 1994 bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Họ được phong Chân Phước ngày 19 Tháng 10 năm 2008: Đức Hồng Y Jose Saraiva Martins – Đặc Sứ của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – chủ sự thánh lễ phong Chân Phước trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Têrêsa ở thành phố Lisieux.

Ngày 27 tháng 6 năm 2015, tại một Hội Nghị Công giáo của các Hồng Y ở Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn nghị định phong Thánh cho Chân Phước Louis và Chân Phước Zélie Martin. Thánh Lễ phong Thánh sẽ được diễn ra vào Chúa nhật, ngày 18 tháng mười 2015 tới đây ở Roma.

Trong mọi hoàn cảnh, Kitô hữu phải luôn luôn tâm niệm Lời Chúa như dưới đây:

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Is 55, 8-9)

Vancouver BC Canada

Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

(15/8/2015)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA (1)

ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA ( phần 1)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy.

(Is 55, 8-9)

Hè về! Hè về!

Vào những thập niên 50 – 70, bài hát “Hè Về” của Hùng Lân trở nên quen thuộc mỗi độ Xuân tàn và Hè sang. Những câu hát dễ thương dưới đây thường vang vọng trên cửa miệng của đám học sinh non dại thời bấy giờ:

Trời hồng hồng sáng trong trong

Ngàn phượng rung nắng ngoài song

Cành mềm mềm gió ru êm

Lọc mầu mây bích

Ngọc qua mầu duyên

Đàn nhịp nhàng hát vang vang

Nhạc hoà thơ đón hè sang.


Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ

Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ

Hè về gieo ánh tơ.

Bâng khuâng nghe nắng đùa mây trắng đàn chim cánh đo trời

Phân vân đôi mái chèo lữ thứ thuyền ai biếng trôi

Xa xa lớp lúa dồn cao sóng vàng leo dốc chân đồi

Thanh thanh hương sen nồng ướp gió trắng khi chiều rơi.”

…….

Ở Bắc Mỹ, “hè về” là dịp cư dân miền Tây đi du lịnh miền Đông vì khí hậu mùa hè ở đây dễ chịu hơn thời tiết băng giá mùa đông!

Trong bối cảnh đó, mỗi dịp hè, tôi thường “thiên di” từ miền Tây sang miền Đông Canada để thay đổi không khí, đồng thời thăm viếng gia đình sinh sống nơi đây. Mùa hè nầy, tôi “thiên di” một tháng (giữa tháng 7 – giữa tháng 8/2015).

I.- THÀNH PHỐ MONTREAL

Thành Phố với trăm tháp chuông

Điểm dừng chân đầu tiên của tôi là Thành Phố Montreal, vốn rất thân quen với tôi. Từ thời xa xưa, Thành Phố Montreal được mệnh danh là “Thành phố với trăm tháp chuông” (Ville aux cent clochers), vì rải rác trong Thành Phố, xuất hiện rất nhiều ngôi thánh đường Công Giáo.

Montreal là thành phố thuộc tỉnh bang Québec – cái nôi của Giáo Hội Công Giáo ở Bắc Mỹ. Rất nhiều con đường ở Montreal còn mang tên các vị Thánh Công Giáo.

Đền Thánh Giuse Montreal và Thánh Sư Huynh André Bessette

(Đền Thánh Giuse Montreal)

Khi đến Montreal, du khách không thể không đi kính viếng Đền Thánh Giuse Montreal. Ngoài địa điểm du lịch, Đền Thánh Giuse còn là nơi linh thiêng để nhiều người đến cầu khẩn xin ơn với Thánh Giuse và rất nhiều người được toại nguyện, kể cả những người ngoài Công Giáo.

Ðền Thánh Giuse Montréal gồm nhiều kiến trúc khác nhau, tạo thành một ngọn đồi thánh thiêng chiếm lãnh trên 500 mẫu tây.

Ngay cạnh nhà tiếp đón du khách có một tháp chuông cao với một bộ chuông gồm 56 chuông lớn nhỏ khác nhau. Trọng lượng bộ chuông lên tới 11 tấn. Bộ chuông này do Chính phủ Pháp đặt làm để trang trí trên Tháp Eiffel tại Thủ Ðô Paris, nhưng vì lý do kỹ thuật, nhà sản xuất Paccard et Frères đã dâng tặng Ðền Thánh năm 1955, nhân kỷ niệm 50 năm xây cất Đền Thánh.

Bên cạnh đó là Nguyện Ðường Khấn Thánh Giuse với 8 phù điêu lớn do điêu khắc gia người Canada Joseph Guardo thực hiện năm 1948, theo TÁM tước hiệu mà truyền thống Công Giáo vẫn suy tôn Thánh Giuse: Ðấng Bảo Trợ các Gia Ðình, Bổn Mạng giới Thợ Thuyền, Đấng Bảo Trợ các Tâm Hồn Thanh Khiết, Bổn Mạng Người Chết Lành, Đấng Nâng Ðỡ những ai Ðau Khổ, Niềm Hy Vọng của Bệnh Nhân, Đấng Xua Đuổi thần dữ và Ðấng Bảo Trợ Giáo Hội.
Dọc theo hành lang nguyện đường, treo la liệt trên tường hàng ngàn chiếc nạng, và những bia đá cẩm thạch mà các người hành hương đã để lại hầu tri ân Thánh Giuse, vì họ đã được lành bệnh lạ thường nhờ sự chuyển cầu của Thánh Nhân trước tòa Chúa.
Từ hành lang nguyện đường nhỏ, tiến sang phía tay phải là ngôi mộ lớn bằng đá cẩm thạch màu đen huyền, nơi an nghỉ của Sư Huynh André. Vì có quá nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời chuyển cầu của thày André, nên Đức Gioan Phaolô II đã suy tôn Thày lên bậc Chân Phước ngày 23 tháng 5 năm 1982. Và Đức Biển Đức XVI suy tôn lên hàng Hiển Thánh ngày 17/10/2010.

(Thánh Sư Huynh André Bessette)

Bên cạnh đó là Nhà Thờ Hầm (The Crypt Church). vì nằm dưới Vương Cung Thánh Ðường, có trên 1,000 chỗ ngồi, được xây cất năm 1916.
Chính giữa cung thánh là tượng Thánh Cả Giuse, cao 2m75, nặng 2, 3 tấn, do nghệ sĩ người Ý là ông A. Giacomini, đã tạc bằng đá hoa cương màu trắng rất quý hiếm gọi là carrara.

Trên những bức tường nhà thờ hầm là những tranh màu bằng kính (The Stained Glass Windows) mô tả những giai đoạn chính trong cuộc đời Thánh Cả Giuse. Ðây là công trình nghệ thuật của hai nghệ sĩ Canada – ông Perdriau và ông O’ Shea – hoàn thành năm 1919.
Từ nhà thờ hầm bước ra là cầu thang máy cuốn để lên trên lầu. Đây là phòng nghỉ chân cho khách hành hương. Bên ngoài là ban công khá cao, có thể phóng tầm mắt để nhìn bao quát thành phố Montréal trước mặt. Phía đối diện là trường trung học Notre Dame, nơi mà Sư Huynh André đã phục vụ như một người gác dan cổng trường trên 40 năm.
Sau đó lên lầu là khu triển lãm nhỏ về cuộc đời Sư Huynh André. Ngoài những bức tranh trên tường chụp căn nhà bé nhỏ tồi tàn Sư Huynh đã cất tiếng khóc chào đời, cho đến những tài liệu, những hình ảnh chụp lúc sinh thời và khi qua đời, người ta thấy có 4 phòng lớn:

– Phòng I mô tả cảnh thày André làm người gác dan suốt 40 năm tại cổng trường trung học Notre Dame (1870-1909).

– Phòng II là văn phòng nơi Sư Huynh đón tiếp và săn sóc các bệnh nhân.

– Phòng III là căn phòng ngủ đơn sơ, có một giường cá nhân, một bàn nhỏ và chiếc ghế, một cái dù (cái ô) đen treo trên tường.

– Phòng IV là một phòng nhỏ bằng sắt mạ đồng, có lan can chung quanh, chính giữa có đặt trái tim đã khô của Sư Huynh trong một hộp nhỏ bằng vàng. Ðây là truyền thống lâu đời của nước Pháp và nước Ý, thường lấy trái tim của các bậc vĩ nhân nổi tiếng để dân chúng tri ân và tôn vinh.
Bên cạnh phòng nghỉ chân là cả một khu vườn rất rộng, cây cối và hoa cảnh cắt xén mỹ thuật, do kiến trúc sư phối cảnh Frederick G. Todd thiết kế để dựng 14 chặng đàng Thánh Giá, với những bức tượng màu trắng rất mỹ thuật do hai nghệ sĩ Ercolo Barieri và Louis Parent tạc bằng đá cẩm thạch quý giá. Những bức tượng 14 đàng Thánh gia này với kích thước như một người trung bình được chiếu sáng ban đêm do một hệ thống ánh sáng do chuyên viên Jean d’Orsay nghiên cứu.

Tại khu vườn này có một tương Chúa Kitô Phục sinh, dưới chân tượng là một hệ thống phun nước khá lớn, giúp người hành hương có những giây phút trầm lặng suy tư về cuộc đời.
Kế đó là Bảo Tàng Viện chiếm cả một khu vực lớn cạnh Vương Cung Thánh Ðường với chủ đề Thánh Gia Thất Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse, chiếm cả hai tầng lầu mênh mông là một công trình thu thập các tác phẩm nghệ thuật quý giá, qua nhiều năm khác nhau, khởi đầu từ khi xây cất đền thờ nhỏ đầu tiên từ năm 1905.
Bước vào bảo tàng viện, người ta sẽ bị choáng ngợp bởi một bức tranh sơn dầu thật lớn do nghệ sĩ André Bergeron thực hiện cùng với rất nhiều tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ Canada và hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Có 2 khu vực khác nhau:

Bảo tàng viện bằng sáp do nghệ sĩ Joseph Guardo thực hiện năm 1955, gồm 10 cảnh sinh hoạt của Thánh Gia Thất, với 76 bức tượng bằng sáp, với kích thước giống như người thật.

Bảo tàng viện Giáng Sinh, bao gồm 330 máng cỏ do các nghệ sĩ của 130 quốc gia trên khắp thế giới thực hiện. Từ chủ đề Chúa Kitô Giáng Sinh, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể đã được các nghệ sĩ của các quốc gia Âu Châu, Mỹ Châu, Phi Châu, Á Châu và Châu Thái Bình Dương tìm nguồn cảm hứng và thể hiện bằng rất nhiều hình thức khác nhau…Những máng cỏ bằng gỗ, bằng pha lê, bằng kiếng, bằng vải, sơn dầu, tranh thủy mạc, bằng sứ, bằng sành v.v… đã nói lên tinh hoa và văn hóa của mỗi dân tộc.

Tại đây có hai bộ hang đá máng cỏ của Việt Nam: một bằng rễ cây đẽo gọt rất tinh vi mỹ thuật và một tranh sơn mài vẽ Chúa Kitô, Ðức Mẹ và Thánh Giuse dưới y phục và dáng vóc người Việt nam. Hai hang đá máng cỏ này do Nhà văn Phạm Ðình Khiêm, Sàigòn, kính tặng bảo tàng viện năm 1992.

Ngoài ra còn có các máng cỏ từng quốc gia như Nhật Bản, Phi Luật Tân, Tiệp Khắc, Pháp, Ðức v.v…

Điểm nổi bật nhất của Đền Thánh là Vương Cung Thánh Ðường kính Thánh Giuse, dài 105 mét, rộng 65 mét, chiều cao từ nền đến mái vòm 60 mét, nếu tính chung từ nhà thờ hầm đến chóp đỉnh thánh giá 319 mét, đường kính mái vòm bên trong 26 mét, mái vòm bên ngoài 39 mét.

Toàn bộ Vương Cung Thánh Ðường cao 263 mét sánh với mặt biển. Đây cũng là ngọn tháp cao nhất thành phố Montréal. Năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 100 năm khởi công xây dựng, chính phủ Canada đã ghi Đền Thánh Giuse Montreal vào sổ các Danh Lam Thắng Cảnh Lịch Sử Quốc Gia.

Quả thật Chúa Quan Phòng thật kỳ diệu, đã sử dụng những con người tầm thường, bé nhỏ, ít học, bình dân như Sư Huynh André – vị sáng lập Ðền Thánh Giuse Montréal – để thực hiện giữa trần gian những chương trình vĩ đại của Ngài.

Sống chứng nhân trong cuộc đời thường

Hai tuần lễ ở Montreal đã mang lại cho tôi một niềm thích thú lớn lao là được diện kiến hai Niên Trưởng (NT) của Hội Cựu Chủng Sinh Huế Hải Ngoại (CCSHHN). Đó là các NT DB và LVC. Hai Vị nầy đã ngoại bát tuần. NT DB tương đối còn khoẻ mạnh và minh mẩn hơn NT LVC.

Tôi gặp hai Vị ở nhà NT DB – một căn nhà khang trang – là nơi NT DB và Phu Nhân sinh sống. Hai Vị có 6 người con và 11 cháu gồm 8 nội và 3 ngoại.

Hằng ngày, các con gái hay con dâu mang thức ăn lại cho hai Vị. NT DB chỉ cắm nồi cơm điện là xong. Riêng Phu Nhân của NT phải ngồi xe lăn. Hôm đó Phu Nhân ngồi xe lăn ở trong phòng ngủ, nhìn ra ngôi vườn phía sau và tràng hạt trên tay. Mỗi ngày không biết Phu Nhân đã lần bao nhiêu tràng chuỗi.

NT DB cho biết hằng ngày con gái/dâu, có khi cả cháu nữa, phụ giúp Phu Nhân tắm rửa. Riêng mùa hè, mỗi khi tốt trời, chiều chiều các cháu nội/ngoại thay nhau đẩy xe lăn đưa Phu Nhân ra đường dạo chơi! Đó là cảnh tượng không phải mọi gia đình VN ở hải ngoại có thể thực hiện được. Tạ Ơn Chúa!

Đối với cả hai NT DB và LVC, tuy đã lớn tuổi, nhưng trang mạng CCSHHN là niềm vui của hai Vị và không ngày nào hai Vị không truy cập.

Riêng NT LVC rất vui mỗi khi vào trang mạng CCSHHN và NT đã đọc rất kỹ những tin tức cũng như những bài chia sẻ trên đó. NT đã đọc với niềm thích thú và ghi nhớ nhiều điều! Một điểm hơi buồn là sức khoẻ của NT LVC không được khả quan lắm: tai nghe không rõ, mặc dù có mang máy thính thị trên tai, đi đứng hơi khó khăn và phần nào hơi lẫn nên các con đã kiếm một viện dưỡng lão thích hợp để NT vào đó ở, kể từ sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, hầu NT được săn sóc chu đáo hơn.

II.- NEW JERSEY VÀ PHILADELPHIA

Trong hai tuần lễ ở New Jersey, Hoa Kỳ, tôi có dịp ghé thăm NT NĐN ở Thành Phố Philadelphia, tiểu Bang Pennsylvania, đồng thời kính viếng Đền Nữ Thánh Rita.

Sống đạo giữa giòng đời

NT NĐN thuộc Hội CCSHHN với 10 năm tù CS vì là một cựu sĩ quan cấp tá của Quân Lực VNCH. Trong lúc NT đi tù, Phu Nhân đã buôn bán tần tảo trong thời gian bao cấp, kinh tế khó khăn, để nuôi 11 người con – 5 trai và 6 gái còn nhỏ dại (không kể một cháu gái qua đời lúc mấy tháng tuổi).

Ngoài việc 7 người con vượt biên 3 lần từ trước, NT, Phu Nhân và 1 người con được qua Mỹ theo diện H.O. năm 1990. Riêng 3 người con đã lập gia đình phải ở lại chờ bảo lãnh và đến Mỹ đầu năm 2001.

Ngoài 11 con, hiện nay NT và Phu Nhân có 11 dâu/rễ, 30 cháu nội/ngoại, 7 cháu dâu/rễ và 7 chắt. Hiện NT có 3 gia đình ở 2 tiểu bang xa, còn lại 8 gia đình các con, 7 gia đình các cháu ở Philadelphia và New Jersey, cách xa nhau khoảng 30 phút lái xe. Con cháu chịu khó học hành và thành đạt.

Sau vài năm định cư tại đây, gia đình NT có ra một Tập san nội bộ “Gia Đình LÒNG MẸ”, tự thực hiện: từ chụp hình, viết bài, ghi lại những tin sinh hoạt gia đình trong tháng, sưu tầm các đề tài giáo dục, lay-out, in ấn và đóng thành tập khá đẹp, mỗi 2 tháng phổ biến 1 số, do NT và các con phụ trách, làm phương tiện liên lạc và giáo dục, đã ra từ số 1 đến số 100. Hiện nay vì NT tuổi già sức yếu nên bài vở liên lạc được thay đổi bằng những tâm tình và lời khuyên qua hệ thống e-mail trên cell phone, giản dị, tiện lợi và nhanh chóng hơn.

Hằng năm, vào những dịp Tết, Giáng Sinh hay sinh nhật của hai Vị, các con bàn bạc việc tổ chức những buổi họp mặt để chung vui cùng hai Vị. Ngoài ra mỗi năm vào dịp nghỉ hè, tất cả đều quy tụ về Philadelphia họp mặt thường niên và cùng nhau chia sẽ những biến cố vui buồn. Khi có việc cần bàn thảo, các con trai bàn việc với trưởng nam, còn các con gái bàn việc với trưởng nữ. Tất cả con cháu dâu rễ đoàn kết và rất thương yêu nhau. Đó là điều rất quí hiếm, một ân ban của Chúa!

Theo lời Đức Cha Giacôbê Giáo Phận Vĩnh Long lúc Ngài còn sống thì NT thực là cha xứ của một Gíáo Xứ thu hẹp, nhưng rất sống động. Đúng là một Giáo Hội bé nhỏ tại gia!

Đến nay được 15 năm, NT và Phu Nhân sống trong một căn phòng đôi thuộc cao ốc Seniors Housing của Chính Phủ Hoa Kỳ, ở tầng lầu 16, nhìn ra con sông Delaware thơ mộng mà bên kia là Tiểu Bang New Jersey.

Căn nhà của NT và Phu Nhân chẳng khác nào một phòng tu ở trong Đan Viện. Hằng ngày, ngoài việc lần hạt, hai Vị đều đọc Kinh Thần Vụ sáng, trưa, chiều và tối.

Riêng Phu Nhân là một thành viên Dòng Ba Cát Minh nên trước đây mỗi ngày Phu Nhân theo gương Cha Thánh Piô lần 40 chuỗi, nhưng nay vì tuổi già nên Phu Nhân chỉ còn lần 12 chuỗi thôi. Vào lúc 3 giờ trưa mỗi ngày, Phu Nhân quỳ gối dang hai tay lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa!

Hằng ngày NT và Phu Nhân tham dự Thánh Lễ ở Đền Nữ Thánh Rita. NT giúp lễ và làm thừa tác viên Mình Thánh Chúa: điều đó phụ giúp các cha ở đây rất nhiều.

Vào mùa hè, chiều chiều NT và Phu Nhân tản bộ nơi công viên gần cư xá, để tăng chất luợng cho sức khoẻ.

Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia

(Đền Nữ Thánh Rita Cascia ở Philadelphia)

Tại Thành Phố Philadelphia, Tiểu Bang Pennsylvania, nước Hoa Kỳ, có đền kính Nữ Thánh Rita – một trong 3 địa điểm hành hương của Giáo Phận Philadelphia, xây từ năm 1907,  và do các cha dòng Thánh Augustinô trông coi.

Người khởi xướng là linh mục Villanova dòng Thánh Augustinô. Cha có ý định xây dựng ngôi nhà thờ cho giáo xứ 10 ngàn người Ý di cư tới Mỹ ở ngoại ô Thành Phố Philadelphia. Để đặt tên ngôi thánh đường, họ chọn Thánh Nữ Rita là người Ý, mới được phong thánh năm 1900. Các linh mục dòng tổ chức các tuần cửu nhật để giáo dân trong xứ cầu xin và tạ ơn.

Năm 1915, tầng trên Đền Thánh hoàn tất và đã trở thành Trung Tâm Tôn Kính Nữ Thánh Rita trên nước Mỹ.

Ngày nay, sau những thế hệ ban đầu, lòng sùng kính Nữ Thánh Rita vẫn còn tiếp tục và phát triển. Tại đền này, tầng lầu trên là nhà thờ, tầng dưới là đền kính Nữ Thánh Rita.

Hằng ngày có rất nhiều người tại địa phương cũng như từ phương xa đến xin bà Thánh Rita khẩn cầu cùng Chúa cho họ. Vì nhiều người đã nhận được ơn lạ nên Nữ Thánh Rita được mang danh hiệu là “Vị Thánh cầu bầu cho các hoàn cảnh vô phương cứu vãn.”

Nhiều gia đình Việt Nam ở Philadelphia cũng ở trong số những người được Nữ Thánh Rita cầu bàu cùng Chúa nhận lời họ kêu xin.

Địa chỉ của Đền Nữ Thánh Rita:Shrine of Saint Rita of Cascia 1166 South Broad Street, Philadelphia, PA 19146 .

Xin xem tiếp phần 2

THIÊN HẠ NÓI THẦY LÀ AI?

THIÊN HẠ NÓI THẦY LÀ AI?

Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.”  Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa.  Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa.  Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa.  Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô.  Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người.  Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.

Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay.  Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới.  Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa.  Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước.  Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ.  Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác.  Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ…  Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ.  Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có.  Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu.  Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế.  Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói.  Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người.  Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.  Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù.  Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra.  Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”

Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá.  Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất.  Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình.”

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.

Noel Quesson.

“CON ĐƯỜNG EM ĐI ĐÓ, ĐÚNG HAY SAO EM ?”

“CON ĐƯỜNG EM ĐI ĐÓ, ĐÚNG HAY SAO EM ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Trích EPHATA 657

Có một nhóm bạn trẻ mang tên “Giêsu yêu bạn” mời tôi đàm luận đôi điều trong chương trình chuẩn bị lễ bổn mạng của các bạn sắp tới ( Thánh Vinh Sơn Bác Ái ). Tôi được biết các bạn là những người trải qua các đau khổ cuộc đời nhưng may mắn được Chúa chữa lành, từ đó các bạn tìm được bình an và hạnh phúc trong cuôc sống hiện tại, các bạn muốn quy tụ lại để được tiếp tục chữa lành, được cùng nhau cất lời ca tụng Chúa và để làm chứng cho quyền năng và tình yêu của Chúa chữa lành cho anh em, cho mọi người.

Sống được trải nghiệm quyền năng của Chúa trong đời mình, các bạn muốn mách bảo cho những ai bị tổn thương: hãy tìm đến với quyền năng của Chúa. Các bạn xác tín một khi được Chúa chữa lành, các bạn không còn buồn phiền, không còn lo lắng, không còn đau khổ nữa. Nghe các bạn chia sẻ và quan sát cuộc sống của các bạn, tôi nghe vang dội đâu đây lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông Huấn “Niềm Vui của Tin Mừng”. Mở đầu Tông Huấn, ngài nói: “Niềm vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận lời đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn” ( Bản dịch của Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng ). Quả thật, chỉ những ai đã đi qua những tổn thương, nhưng được Chúa chữa lành mới cảm nhận được kinh nghiệm nội tâm mà Đức Thánh Cha đề cập đến trong Tông Huấn.

Nhân loại đã bị tổn thương quá nhiều do tội lỗi của con người gây ra, bản thân mỗi người không tìm được sự bình an, cứ luôn bị nhốt kín trong cay đắng, giận hờn, ganh tỵ. Cứ luôn chạy đuổi theo quyền lực thế gian, đam mê vật chất, thù hằn và kiêu ngạo. Một thế giới la liệt những kẻ mù, què, tê bại, phong cùi tinh thần không sao thoát được. Chúng ta cần biết bao quyền năng chữa lành của Thiên Chúa, chỉ khi nào chúng ta gặp được Chúa đích thật, dám mở lòng ra để đón nhận lời cứu độ của Chúa, khi ấy sẽ hết muộn phiền, hết đố kỵ, hết cô đơn và hết tuyệt vọng.

Chúng tôi nói với nhau về kinh nghiệm đi gặp Chúa, nẻo đường hẹp khó khăn gian nan dẫn đến cuộc hẹn hò với Chúa. Chúng tôi nói với nhau về cảm nhận của sự gặp gỡ Chúa, khi Chúa không xuất hiện nơi những gì là quyền cao chức quý, nhưng ngài lại luôn hóa thân nơi những người nghèo khổ. Chưa có trang Tin Mừng nào mô tả Chúa hiện diện nơi những cung điện cao sang hay những nơi phô diễn quyền lực thế gian, nhưng Tin Mừng lại nói Chúa hiện diện nơi “gã” làm vườn, nơi “anh” lữ khách không nhà, nơi “kẻ” lang thang ngoài bờ biển…

Lời ngôn sứ Chúa lầy làm ứng nghiệm cho sứ vụ của Ngài lại là lời tuyên bố: “Thần khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” ( Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, DCCT ).

Rõ ràng đối tượng được xác định chính là người nghèo khó, kẻ bị tù đày, người đui mù và những kẻ bị áp bức. Thật khó và rất ngượng miệng nếu muốn nói bâng quơ và cắt nghĩa chỉ theo ý tinh thần các chữ nghèo khó, tù đày, đui mù và áp bức.

Chiều thứ hai tuần 22 mùa Thường Niên,  ngày 31.8.2015 vừa qua, có một vị Giám Mục đến thăm các cha các thầy ở Nhà Hưu Dưỡng Tỉnh DCCT Việt Nam. Khi ngài đang thăm viếng, có một số anh em Linh Mục trẻ đến chào ngài, trong số đó có một vị đang lo việc đào tạo, ngài hỏi: “Cha có nhớ bài Tin Mừng hôm nay không ( Lc 4, 14 tt. ) ?” Không đợi trả lời, vị Giám Mục chia sẻ luôn: “Chúng ta thường không làm theo lệnh sai đi, nếu có làm thì lại thường làm sai nội dung của lệnh. Anh em cẩn thận nhé”. Tôi đứng đấy, nghe trọn vẹn lời nhắc của vị Giám Mục đáng kính mà lòng băn khoăn mãi. Con đường mình đang đi đúng hay sai ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 4.9.2015
( tựa đề lấy từ bài hát “Không tên cuối cùng”
của Vũ Thành An, Nguyễn Trung Tín )