NỘI TÂM

NỘI TÂM
Nội tâm sâu thẳm như bầu trời bao la. Nội tâm là cốt lõi. Làm sao chúng ta có thể đụng chạm tới đáy cùng của nội tâm. Nghe kể câu truyện: Có một người đàn bà khôn ngoan, trong khi đi du ngoạn nơi vùng đồi núi, đã nhặt được một viên ngọc qúi bên dòng suối. Hôm sau, bà ta gặp một người bộ hành đang đói khát và bà đã mở túi chia sẻ thức ăn cho ông ta. Người bộ hành đói khổ nhìn thấy viên ngọc quí và đã hỏi xin bà. Bà cho ông viên ngọc, không chút do dự. Ông cầm lấy và rời đi rất vui mừng, vì vừa nhận được một kho tàng quí báu. Ông biết viên ngọc này có giá trị lớn để ông có một cuộc sống bảo đảm trong tương lai. Nhưng vài ngày sau, ông trở lại và trả viên ngọc quí cho người đàn bà khôn ngoan này. Ông nói: Tôi đã suy nghĩ và tôi biết viên ngọc này rất có giá trị, nhưng tôi muốn trả lại, với hy vọng bà có thể cho tôi cái gì đó quí hơn: Bà hãy cho tôi cái gì đó trong nội tâm của bà, điều mà bà có thể cho đi viên ngọc quí này.’
Mầu nhiệm của sự sống con người kết nối cả nội tâm lẫn ngoại hình. Chúng ta thường suy xét và đánh giá con người qua những hình thức lộ diện bên ngoài. Mặt nổi của đời sống giống như một tảng băng nổi, với chín phần chìm sâu dưới nước. Nội tâm như là phần chìm. Con người khác nhau nhiều ở chính cuộc sống nội tâm này. Chúng ta có thể suy nghĩ rằng người sống nội tâm là người hay lo âu, trầm tư và ít nói. Người sống nội tâm cũng có thể hay suy tư về các vấn đề như sự hiện hữu của vũ trụ và con người, về ý nghĩa cuộc đời, về sự sống, sự đau khổ và sự chết… Nhưng không luôn hẳn là như thế, người sống nội tâm là người học biết chính mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan để tìm về nguồn chân, thiện, mỹ.
Không ai có thể đo lường đời sống nội tâm. Tục ngữ ca dao có câu: ‘Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người (nham hiểm) sâu thẳm ai đo cho cùng’. Đúng vậy, không ai đo được lòng người. Người ta có thể đo lường mọi cơ động lưu hành trong ngoài thân xác, nhưng sẽ dừng lại trước thế giới của lương tâm, lý trí, ý chí, trí khôn và linh hồn. Mỗi con người là một thụ tạo linh thiêng huyền bí. Thường chúng ta rất ngại để lắng đọng tâm hồn nhìn vào sự linh thiêng của chính mình. Chúng ta hướng ngoại nhiều hơn là hướng nội. Chúng ta chạy đua với cuộc sống bon chen ồn ào. Tìm vui sống với phần nổi của hiện hữu hơn là đời sống nội tâm.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao người đàn bà khôn ngoan dám cho đi viên ngọc quí? Bà biết giá trị của viên ngọc chứ. Bà cất nó trong túi sách. Bà dám cho đi viên ngọc mà không hối tiếc. Như thế, đối với bà, viên ngọc chỉ là một tặng vật có thể làm vui thỏa ước muốn của lòng người. Nhưng bà có niềm vui lớn lao hơn ngự trị trong thâm tâm của bà. Bà cho mà không do dự. Bà có một thái độ vượt trên giá trị của kho tàng của cải vật chất. Niềm vui của bà là tinh thần tự do và không bị ràng buộc vào những nhu cầu thể chất. Bà đang thực hành một đời sống nội tâm cao.
Ai trong chúng ta cũng có đời sống nội tâm riêng tư và ẩn dấu. Người ta thường nói rằng cây tốt thì sinh trái tốt. Nội tâm tốt sẽ phát sinh công việc tốt và lời nói tốt. Lòng đầy miệng mới nói ra. Nếu chúng ta gieo trồng những hạt giống xấu trong thâm tâm, thì ắt sẽ sinh ra những trái đắng đót cộc cằn. Nét đẹp của con người phát xuất từ nội tâm. Người ta nói: ‘Cái nết đánh chết cái đẹp là thế.’ Có nhiều biểu tỏ của đời sống nội tâm nơi con người như lòng từ tâm, an tâm, đại tâm hoặc cũng có thể ngược lại là nhẫn tâm, vô tâm, ác tâm và tiểu tâm…
Tâm thường đi với tính. Cha ông nói: ‘Cha mẹ sinh con, trời sinh tính’. Tính khí thì mỗi người mỗi khác. Con người cần được tu tâm luyện tính cho thuần để đối nhân xử thế. Tu tâm là cần phải trở về với chính mình để biết mình. Có khi nào bạn đã ngồi thật lâu trong khoảng thinh lặng để trở về nhận biết chính mình chưa? Chúng ta có thể thử. Hãy tránh xa chỗ ồn ào đô hội và tìm một nơi thật thanh tịnh để lắng đọng tâm hồn. Nhắm mắt và thở hít đều đặn. Thả hồn đi sâu vào tâm trí và sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta sẽ đụng chạm vào khoảng không bao la huyền nhiệm. Để hồn đắm chìm trong sự kết hợp với Đấng Vô Hình đang hiện diện nơi tâm hồn và vũ trụ muôn loài.
Có nhiều bài hát đạo có lời tha thiết khẩn nài ‘Chúa Ở Nơi Đâu?’ Theo giáo lý công giáo, trả lời Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy tại sao chúng ta lại hỏi Chúa ở nơi đâu? Lời tự thuật của thánh Augustinô cho chúng ta một kinh nghiệm của đời sống nội tâm sâu xa: “Con yêu Chúa quá muộn màng, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa, vừa mới mãi, con yêu Chúa qúa muộn. Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy, con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài. Con thật xấu, khi cứ mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con, mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa. Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và xóa tan sự mù lòa của con. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm sự bình an nơi Chúa.”
Trở về với nội tâm là trở về với Chúa. Có biết bao lần chúng ta cầu nguyện mà lòng trí sao lãng lang thang khắp chốn. Chúng ta hát to gào thét làm như Chúa bị nặng tai. Đôi khi chúng ta giống như các tiên tri giả thờ thần Baal la hét, xé áo và rạch mình, khẩn nài các thần minh nhận của lễ hiến dâng. Chúng ta cần có đời sống nội tâm kết hợp sâu xa với Chúa. Cầu nguyện chính là những tâm tình kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm, “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7b).
Lạy Chúa, đã bao lần chúng con mải mê tìm kiếm Chúa bên ngoài. Chúng con đã không gặp được Chúa, vì hồn chúng con trống rỗng. Chúa luôn ẩn ngự trong tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con nhận biết Chúa luôn hiện diện trong chúng con. Chúa chính là nơi chúng con nương tựa và là chỗ chúng con ẩn thân. Chúng con cảm tạ tình yêu Chúa mãi muôn ngàn đời.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

http://dongten.net/noidung/2674

CĂN TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ CỦA THẦY GIÊSU

CĂN TÍNH NGƯỜI MÔN ĐỆ CỦA THẦY GIÊSU

Am 7, 12-15; Ep 1, 3-14; Mc 6, 7-13

Hẳn nhiên, ai cũng biết rằng phàm là người thì cần phải có cơm ăn, áo mặc và những dụng cụ để phòng thân. Cơm, áo, gạo, tiền … là những mối lo âu thiết thực nhất hay nói đúng hơn đó là nỗi sợ của con người. Đơn giản dễ hiểu đó là thực chất nếu như con người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tiện nghi cơ bản cho cuộc sống thì con người không sống được cũng như chẳng làm được gì.

Ta thấy vật chất, tiền bạc … rất gần và rất cần cho con người cũng như những người gọi là môn đệ đi theo Chúa. Cần và cần nhiều nữa là khác thế nhưng hôm nay ta bắt gặp hình ảnh hay nói cách khác là lời mời gọi hay nói đúng hơn là lệnh truyền của Thầy Giêsu : Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo (Mc 6, 8.9).

Người môn đệ sống như thế nói thẳng ra là “chết chắc” vì chẳng có cái gì gọi là phòng thân cả. Sống như thế nghĩa là sống chỉ biết ngày hôm nay, ngày mai có ngày mai lo !

Thoạt đầu, khi nghe những lời ấy ta cảm thấy khó chịu, cảm thấy sốc thế nhưng Nước Thiên Chúa là như vậy đó ! Nước Thiên Chúa là Nước không phải thuộc thế gian để người người lo phòng thủ, lo vun vén cho mình được càng nhiều càng tốt.

Nói hơi lý thuyết một chút, lời mời gọi của Thầy Giêsu gởi các môn đệ quả là chí lý, là có căn cơ, có cơ sở chứ không phải là lời mời gọi vu vơ. Căn tính của người môn đệ, của thành viên Nước Thiên Chúa, của công dân Nước Trời là như vậy. Nước Trời, Nước Thiên Chúa dành cho những tâm hồn đơn sơ, bé mọn và mãi luôn tín thác vào Thiên Chúa. Người đó sẽ không hề phải phụ thuộc vào thế gian, không phải quỵ lụy thế gian cũng như không hề có ý định hay ý định vun vén thế gian vào lòng mình.

Thật ra, thật giằng co khi con người sống ở giữa thế gian mà lại mời gọi họ từ bỏ những gì thuộc về họ, thuộc về thế gian. Đơn giản dễ hiểu là con người cần tiền, cần vật chất, cần quyền, cần danh để sống giữa cuộc đời. Nay lại bảo phải từ bỏ e rằng khó.

Chính khi nghe lại lời mời gọi này, ta lại bắt gặp hình ảnh của ta về căn tính người môn đệ chân chính của Chúa.

Nếu như cuộc sống của ta, ta cảm thấy bình an, ta cảm thấy đủ với những gì ta đang có thì ta thật hạnh phúc bởi lẽ ta đã thấy đủ. Khi ta tạm gọi là “dừng cuộc chơi” nghĩa là khi ta ý thức được chuyện không phải thủ cái gì cho đời ta cả.

Chắc có lẽ, chính có ta mới lượng giá được căn tính người môn đệ có ở trong ta như thế nào ?

Có khi ta biện minh rằng ta cần cái này cái kia cho cuộc sống để rồi ta chạy đi tìm, đi sắm, đi trang bị. Nực cười là ta quá lo lắng để ta đi tìm những cái để thủ cho đời ta mà những thứ đó chính ta tự nghĩ ra.

Giản đơn nhất để thấy điều đó là thi thoảng ta chịu khó dọn cái phòng của ta. Thật ngạc nhiên khi ta thấy cứ ngày mỗi ngày cái phòng của ta chật lại và đường đi hẹp lại vì ta vun vén quá nhiều. Ta không chỉ lo cho ngày mai mà lo cả lo cho ngày mốt, ngày kia, ngày kìa nữa … có những thứ mà ta cố sắm nhưng chẳng bao giờ xài đến, chẳng bao giờ đụng đến cả.

Hay là, ta thử dừng lại để ta dọn lòng ta thử. Khi dọn lòng, ta sẽ thấy lòng ta vẫn còn đó bề bộn, vẫn còn bừa bãi bởi những thứ làm cho ta nặng nề không thanh thoát đủ để bước lên đường rao giảng Tin Mừng như Chúa mời gọi. Có khi lòng ta còn nặng nề bởi sự sân hận, bởi sự ganh ghét anh chị em đồng loại.

Có lẽ, hài nhất và thực tế nhất đó chính là chuyện Chúa bảo là anh em không được mặc hai áo. Hai áo ở đây ta có thể hiểu được cả về cái áo vật chất và cả cái áo tâm hồn của ta.

Chúa đã trang bị, Chúa đã cho ta cái áo thật tinh tuyền nhưng rồi ta lại tự trang bị cho ta những cái áo giáp. Những cái mà ta tìm, ta trang bị xem ra không phù hợp với cái y phục tiệc cưới Nước Trời mà Chủ tiệc cưới mời gọi. Những cái áo mà ta trang bị nó được thêu dệt nên bởi sự giả tạo, sự giả dối của ta nhằm che mắt thiên hạ cũng như mắt Chúa. Thế nhưng, duy chỉ mình Chúa mới là người nhìn thấy suốt lòng ta, thấu suốt những chiếc áo của đời ta.

Về chiếc áo vật chất theo cách hiểu bình thường như Chúa nói đó. Chúa mời gọi mỗi người hãy sống hết lòng đơn giản, đừng trang bị cho mình hai áo cũng như những chiếc áo lụa là gấm vóc … Hãy mặc lấy cho mình một chiếc áo thôi, còn mọi chuyện khác Chúa sẽ quan phòng và Chúa sẽ an bài.

Nhắc đến chuyện này, tôi cũng cảm thấy ngượng về chính bản thân mình. Có khi tôi cũng tự nghĩ rằng mình sống giản đơn, ít quần áo nhưng xem ra còn nhiều hơn bậc thầy của mình mấy bậc.

Tôi có một người thầy, phải nói rằng Thầy là mẫu gương cho sự thanh thoát, nhẹ nhàng từ “cấu hình” cho đến “hình thể”. Cấu hình của Thầy thật mỏng manh, mảnh mai… nhìn vào Thầy, ai ai cũng thấy được một sự hãm mình về chuyện ăn uống. Và thật là như thế ! Thầy giản đơn từ cách ăn cho đến kiểu mặc. Nhìn tới nhìn lui, Thầy chỉ có đúng 3 bộ đồ trong người chứ không tìm thấy hơn nữa.

Quả chăng, Thầy chính là người gần nhất để tôi soi rọi đời mình. Nhìn Thầy, có khi chợt nhận ra rằng mình còn vun vén hơn Thầy của mình nhiều.

Và hôm nay, bắt gặp trang Tin Mừng mà Thầy Giêsu nói về căn tính người môn đệ, tôi không còn giật mình nữa mà giật bắn cả mình và thót cả tim khi nhìn lại bản thân mình về vật chất. Có khi đã được nghe nhiều, nói nhiều, dạy nhiều nhưng những bài học đó cũng như lời mời gọi của Thầy bị tôi bỏ ngoài tai. Chính vì bỏ ngoài tai lời của Thầy Giêsu nên tôi cứ mãi miết lo lắng cho mình về sự đời. Nhưng, nhìn thực tế, Chúa có để cho ai phải đói, phải không có cơm ăn áo mặc đâu mà ta lại cứ mãi lăn tăn. Chính vì ham hố, chính vì thiếu niềm tin vào Thầy Giêsu để rồi ta cứ lăn tăn đi tìm, trang bị cho mình những thứ phù du, nay còn mai mất.

Ta sẽ mang theo được gì khi đi đến mộ phần ?

Cũng nghe nhiều nhưng mới đây, nghe một bác dược sĩ già đam mê âm nhạc đã diễn tả lòng mình qua ca khúc quen thuộc của cố nhạc sĩ họ Trịnh :

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày”

Tất cả cũng trở về cát bụi, tất cả cũng chỉ là phù vân để rồi ta cứ mãi chạy đi tìm và lấp đầy lòng ta cát bụi và phù vân.

Tạ ơn Chúa vì ngày hôm nay Chúa lại nhắc nhớ ta về thân phận con người, cách riêng về căn tính của người môn đệ.

Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta rũ bỏ tất cả những gì là vướng bận ta không trở thành người môn đệ chân chính. Xin cho ta có một tâm hồn trẻ bé để luôn luôn tín thác đời ta trong tay Chúa vậy.

Tác giả: Huệ Minh

THẾ GIỚI ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?

THẾ GIỚI ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Câu hỏi đặt ra không liên quan gì đến vấn đề chính trị, kinh tế,  quân sự  của thế giới , mà chủ yếu là suy tư về vấn đề luân lý và đạo đức ( moral & ethics) của thế giới hôm nay mà thôi

Thật vậy, những ai quan tâm đến luân lý , đạo đức thì phải ngao ngán trước thực  trạng suy đồi  nghiêm trọng về  cả hai mặt này  của thế giới hôm nay, đặc biệt là ở những quốc gia có truyền thống Kitô Giáo, như Ý , Đức, Pháp , Tây Ban Nha, Ái Nhĩ Lan ( Ireland) Anh Quốc,  Canada  và Hoa Kỳ. Đây là những quốc gia có đông người theo Kitô Giáo  ( Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo) nhưng nay lại sống phản Kitô giáo ( anti-Christianity) cách rõ nét  khi cho phép những thực hành vô luân vô đạo như  làm ngơ cho sách báo, phim ảnh  khiêu dâm  được tự do lưu hành, cho  li dị, phá thai và hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)

Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng xấu hổ cho những ai thành tâm muốn sống cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo và hãnh diện là tín hữu Kitô.(Christians)

Sở dĩ thế, vì  con người khác thú vật  nhờ  có đời sống tâm linh, có ý thức luân lý ,đạo đức,  khác biệt  với loài vật  chỉ có bản năng và hoàn toàn vô tri.Và đó là lý do tại sao vấn đề luân lý, vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra  riêng cho con người mà thôi.

Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, người ta phải đau buồn vì  các quốc gia  có truyền thống Kitô Giáo nói trên đang tiến nhanh, tiến mạnh   trên đường suy thoái đạo đức và luân lý,  khi họ làm ngơ –hay tệ hại hơn nữa-  là cho phép những thực hành  mà tự bản chất là phi luân, vô đạo,  như cho phép kỹ nghệ dâm ô ( pornography) tự do tung hoành, gây tác hại tinh thần cho giới trẻ và người lớn,  cho  phá  thai, li dị , và nay là  hôn nhân đồng tinh,  (same sex marriage) như một thách đố có tác dụng phá đổ nền tảng gia đình dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.

Gia đình -từ ngàn xưa-  là nên tảng của mọi xã hội con người, là hy vọng của mọi dân tộc, – và cách riêng- là  tương lai  của Giáo Hội. Gia đình chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi có người làm cha, làm mẹ, làm chồng làm vợ. Con cải phải có cha có mẹ thì mới  thực sự cảm nhận mình là con cái.

Vậy mà nền tảng gia đinh dựa trên những tương giao căn bản cần thiết nói trên đang bị các xã hội bệnh hoạn  trên đây phá đổ, khi họ cho  định nghĩa lại ý nghĩa và mục đích của hôn nhân để  cho phép hôn nhân đồng tính.

Điều này, trước hết,  hoàn toàn đi ngược lại mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ mệnh lệnh phải sinh sôi nẩy nở cho thật  nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. ( St 1: 28).

Đây là nên tảng luân lý, đạo đức và là mục đích của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ từ khi có con người trên mặt đát này.

Vậy mà nay các  xã hội bệnh hoạn  nói trên cho phép  hai người nam hay hai người nữ kết hôn, và gọi đó là hôn nhân như hôn nhân của một người nam và một người nữ từ xưa đến nay, thì làm sao chu toàn được mục đích nói trên của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa;  nếu các quốc gia có truyền thông Kito Giáo nói  trên  còn tin có Thiên Chúa là  Đấng tối cao, đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình  ?

Nếu tin có Thiên Chúa thì phải thi hành những gì Ngài mong muốn cho con người sống và làm để được chúc phúc ngay từ ở đời này trước khi được cứu độ để vào Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.

Do đó, cho muc đích sống theo đường lối của Thiên Chúa, con người phải sống một đời sống luân lý và đạo đức, để phân biệt mình với những kẻ vô thần ( atheists), không tin có Thiên Chúa và luân lý phổ quát ( universal moral).

Liên can đến vấn đề hôn nhân đồng tính, nếu cha mẹ của những người đang tán thành hôn nhân đồng tính, cũng  là những người đồng tính,  thì làm sao sinh ra được họ,  để giờ đây họ nhắm mắt bịt tai  công nhận hôn nhân giữa hai người đồng tính ? cha mẹ của họ phải là một người nam và một người nữ kết hôn đúng nghĩa với nhau thì mới sinh ra họ, và xã hội con người ở khắp nơi mới tồn tại cho đến ngày nay.

Nay vì muốn chiều theo ý muốn ngang trái của một thiểu số người sinh ra với khuynh hướng bất thường về phái tính ( abnormally sexual tendency), người ta đã tán thành và cho phép hôn nhân đồng tính như một định chế tương đương với hôn nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, như thực trạng của xã hội loài người từ xưa đến nay.

Chúng ta không lên án những người sinh ra với khuynh hướng khác thường nói trên. Nhưng chúng ta không thể công nhận  việc công khai  sống chung của họ là  hôn nhân,  như đại đa số những người bình thường  khác , đã kết hôn cho mục đích duy trì nòi giống, và chu toàn trách nhiệm của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa,  là Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và đã se kết họ trong giao ước  hôn nhân để công tác với Chúa trong chương trình sáng tạo nhằm  có đông con người sinh ra trong trần thế này.

Chúa Kitô , khi xuống trần gian làm Con Người, cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ thật là Đức Trinh Nữ Maria, thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và có cha nuôi là Thánh Cả Giuse. Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse chắc chắn là những  người bình thường về mọi mặt như mọi con người khác.  Hai ông bà kết hôn vì phong tục tập quán của xã hội Do Thái và cũng vì thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa chọn cho Con Một của mình là Chúa Giê su- Kitô  sinh r a bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng trước mặt người đời, Mẹ Maria không thể có con mà không có chồng. Vì thế, Thánh Giuse đã được chọn để đóng vai người chồng của Mẹ Maria trước mặt người đời. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, hai ông bà đều là những người yêu mến đức đồng trinh và muốn tôn vinh Thiên Chúa với đời sống khiết tịnh vẹn toàn của mình.

Thánh gia thất Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh Giuse  là khuôn  mẫu cho mọi gia đình nhân loại. Gương mẫu cho mọi con cái , cho những người làm cha ,làm  chồng, làm  vợ  và làm  mẹ .Đây là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai được ơn gọi sống bậc hôn nhân để làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ để nuôi dạy con cái  là kết quả và là muc đích của hôn nhân thánh thiện theo kế hoạch của Thiên Chúa, được Chúa Giê su nâng lên hàng bí tích với lời dạy sau đây:

Để trả lời những người Biệt phái đến hỏi Chúa Giê su xem người ta có được phép li dị không , Chúa đáp: Các ông không đọc thấy điều này sao ? “Thuở ban đầu, Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : vì thế người  ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt . Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân li.” ( Mt 19: 4-6)

Trên đây là giáo huấn của Chúa Giê su mà Giáo Hội có bổn phận truyền dạy cho con cái mình  tôn trọng và thi hành để được cứu rỗi.Giáo huấn này không ai được phép  cắt nghĩa cách khác và thay đổi vì bất cứ lý do nào.

Mới đây, trong dịp tiếp kiến các Giám mục của Công Hòa Đô-mi-nícan  ngày 28 tháng 5 vừa qua , Đức Thánh Cha Phanxi cô đã nói với các giám mục như sau:

Chúng ta hãy tiếp tục phô bày vẻ đẹp của hôn nhân Kitô giáo : kết hôn trong Chúa là một hành động của đức tin và đức ái: qua đó người phối nhẫu với tự do ưng thuận, trở thành phương tiện chuyên chở  phép lành và ơn phúc của Thiên Chúa cho Giáo Hội và xã hội. ( Let us continue to present  the beauty of Christian matrimony : to marry in the Lord is an act of faith and love, in which the spouses- through their free consent , become a means of passing on the blessing and grace of God for the Church and society. ( L ‘Osservatore Romano , number 23, Friday , June 5, 2015)

Như thế, hôn nhân Kitô giáo không thể là hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ có khuynh hướng đồng tính được, mà phải là hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người có nam có nữ;  và cũng là truyền thống đã có từ bao thế hệ  qua trong mọi nền văn hóa, phong hóa của mọi dân tộc trên thế giới từ xưa đến nay.

Đây là vấn đề có liên quan mật thiết đến luân lý và đạo đức, là nền tảng của đời sống con người,  chứ không phải là vấn đề tôn trọng quyền sống của cá nhân  ai  như người ta đang nại ra để cho phép hôn nhân đồng tính.

Đó là vấn đề luân lý, đạo đức, vì luân lý phổ quát dạy mọi người là phái tính ( sexuality) chỉ tự nhiên giữa một người nam và một người nữ tự do kết hôn với nhau theo truyền thống và phong hóa của mọi dân tộc.

Dó đó, hai người nam hay hai người  nữ mà có liên hệ phái tính với nhau thì đây là điều trái tự nhiên ( unnatural) và vô luân ( immoral)

Tác giả Sách Lê vi đã lên án sự  phối hợp phái tính trái tự nhiên nói trên như sau:

khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm…” ( Lê vi 20: 13)

Như vậy, công nhận cho hai người đàn ông hay hai đàn bà kết hôn có nghĩa công nhận sự vô luân về phái tính;  hay nói khác đi, công nhận sự chung đụng xác thit giữa hai người nam hay hai người nữ  là  điều cũng tự nhiên như sự chung đụng của một người nam và một người nữ kết hôn trong mọi gia đình nhân loại từ xưa đến nay ?

Nếu thế thì những việc vô luân khác như thủ dâm ( masturbation) loạn dâm =loạn luân ( incest)  ấu dâm   ( child prostitution) và thú dâm (sodomy), thông dâm ( fornification)  ngoại tình ( adultery)…  đều không còn là những hành vi vô luân nữa, vì chúng đều xuát phát từ những khuynh hướng hay ước muốn vô trật tự và vô luân  ( inordinate, immoral))  của con người !, tương tự như huynh hướng đồng tính bất thường  mà người ta đang cho phép người có khuynh hướng này kết hôn, tức là công nhận việc ăn nằm của họ là không có gì ngăn trở về luân lý !!!

Đây rõ rệt là một suy thoái nghiêm trọng về luân lý hôn nhân, và luân lý phổ quát ( universal moral)  của các xã hội bệnh hoạn nói trên. Chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận loại  hôn nhân đồng tính này ,  vì nó vừa sai trái nặng về mặt  luân lý – và nghiêm trọng hơn nữa- là đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa về  ý nghĩa và mục đích của bí tích  hôn phối mà Giaó Hội có bổn phận bảo vệ và thi hành không chút nhân nhượng.

Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng đồng tính, nhưng không thể cho phép họ sống chung như vợ chồng được, vì việc sống chung này là điều trái tự nhiên và vô luân. Do đó, những ai đang sống trong tình trạng này thì không được đến  với hai  bí tích hòa giải và Thánh Thể, mặc dù họ vẫn có thể đến nhà thờ để cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ cùng với các giáo dân khác.

Sau hết, một điểm thắc mắc không thể bỏ qua là những đứa trẻ được các cặp hôn nhân đồng tình này nhận làm con nuôi, thì chúng sẽ nghĩ gì về việc chúng chỉ có hai bà mẹ hay hai người cha trong gia đình? Và gương xấu này sẽ tác hại  ra sao khi các trẻ đó lớn lên với hai người cha  hay hai người mẹ??? Nếu chúng cũng là những đứa trẻ sinh ra với khuynh hường tính dục khác thường như người nuôi dạy chúng, thì không nói làm chi. Những nếu chúng- mà đa số chắc chắn như vậy-  là những trẻ sinh ra với mọi khuynh hướng bình thường,  thì việc sống chung với những người bất bình thường kia  sẽ là một tai hại lớn cho chúng về mặt tình thần, tình cảm và luân lý. Như thế, những kẻ cho phép hôn nhân đồng tính sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về  những tai hại tinh thần, tình cảm và ý thức luân lý của các trẻ được nuôi dạy trong môi trường đồng tính.

Vây những kẻ đang nhắm mắt công nhân hôn nhân đồng tình sẽ trả lời thế nào về nan đề  nói trên, liên quan đến   các trẻ em được các người đồng tính nhận nuôi dạy trong các gia đình bất bình thường của họ ?

Tóm lại, định nghĩa lại hôn nhân để công nhận hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ là một suy thoái nặng nề về luân lý và đạo đức cần phải  quan tâm và lên tiếng trước thực trạng đáng buồn của thế giới tục hóa hiện nay.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở

“Tôi vẫn sống ! Tôi vẫn ăn ! Và tôi vẫn thở”
Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở.
Nhưng biết bao giờ,
Tôi mới được nói thẳng,
Những điều tôi ước mơ?”

(Thơ: Thích Nhất Hạnh – Phạm Duy phổ nhạc: Tâm Ca 1)

(Thư Galát 4: 18-20)

Tâm ca ư? Phải chăng là bài ca tâm-tình hát bằng cả con tim, đấy chứ gì! Vâng. Tim nào mà chẳng bảo: “Tôi vẫn sống”, “vẫn ăn” và “vẫn thở” hệt như lời của Lm Tiến Lộc, DCCT đã đàn hát trong đêm văn-nghệ bỏ túi nhân chuyến viếng thăm Gia-đình An Phong hôm 9.5.2015, chứ? Lời hát nào mà chẳng: “nói những điều tôi ước mơ” cũng rất nhiều!

Thế còn, những lời dưới đây thì sao:

“Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá.
Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Vâng. Tâm ca hay ca hát những tâm-tình của người nghệ sĩ từng hát ca hay viết nhạc vẫn là như thế. Còn, tâm-tình đầy ý-tứ lẫn ý-từ rất thi-phú của người thường ở đời thì sao? Thôi thì, xin mời bạn mời tôi, ta nghe thêm một lời kể về chuyện đời cũng đáng nể, như sau:

“Truyện, là truyện về hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos ở trời Tây, như sau.

Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.

Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..

Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.

Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.

Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ. Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.

Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.

Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.” (trích truyện kể do bạn bè gửi để kể cho nhau nghe đôi điều về cuộc đời, của con người.)

Truyện kể hoặc lời ca tiếng hát ở đời, lâu nay vẫn như thế. Nhưng, nếu kể về những chuyện nhà Đạo ở đây đó mà người nhà trời lâu nay vẫn gọi là chuyện thần-thông biến-hoá rất triết/thần thì, ôi thôi vẫn dài dòng vô số kể. Kể làm sao cho hết. Nói làm sao cho thông được chuyện thần-thông như thế được!

Thôi thì, hôm nay, bần đạo lại dám mời tôi/mời bạn ta đi vào khung trời mở rộng rất triết-thần để kể cho những những vấn-đề nghe rồi lại suy-tư/nghĩ ngợi đến nhức óc, rối bời một thời ở nhà Đạo cũng rất bạo. Truyện lan man, tản mạn không chỉ mỗi lý-luận hoặc tranh-luận đến đỏ mặt tía tai rất nhiều ngày, như những thứ và những sự được truyền-thông loan tải, như sau:

Truyện kể hôm nay gồm những mảng thông-tin lai rai, dài dài về nhiều thứ, trong đó có cả những những và những sự về cái-gọi-là “Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở”, ở cuộc đời đi Đạo, sau đây:

“Hôm 22/5/2015, truyền thông/báo đài đủ các loại có loan tải một tin tức từ châu Á, đã bảo rằng: “Trung Quốc lâu nay vẫn cứ bảo rằng: Tôn-giáo phải được tự-do không nên để mình bị ảnh-hưởng bởi các thế-lực bên ngoài. Đó là lời phát-biểu của vị Chủ Tịch Nước này yêu cầu các nhóm-hội/đoàn-thể các tôn-giáo hãy tuyên-thệ trung-thành với nhà nước.

Nói thế có nghĩa: tôn-giáo các loại phải nằm trong vòng ‘ảnh-hưởng’ của các bàn tay thuộc xã-hội chủ-nghĩa ở trong nước.

Được biết, Trung Quốc lâu nay vẫn nằm dưới sự thống-trị của Đáng Cộng-sản vô-thần và Bắc Kinh vẫn muốn tìm cách không-chế các tôn-giáo khác nhau để họ không thể phát-triển rộng rãi. Chính vì thế mà vị Chủ-tịch nước này, lại cứ tỏ-bày bằng lời lẽ cứng-rắn như sau:

“Chúng ta phải quản-lý tôn-giáo sự-vụ sao cho phù-hợp với luật-lệ của nước nhà ngõ hầu gắn bó với các nguyên-tắc độc-lập mà quản-lý các nhóm hội/đoàn-thể tôn-giáo theo sự đồng thuận của chúng ta… Mọi phần-tử trong nước cần phải cố-gắng không ngừng để tháp-nhập tôn-giáo vào với xã-hội vốn tuân theo chủ-nghĩa xã-hội, và như thế công-tác tôn-giáo vận của Đảng ta phải nắm vững là sẽ chiến-thắng trong chiếm-đoạt đầu óc cũng tâm-can của quần-chúng cho lợi-ích của Đảng…”(xem Sheila Liaugminas, MercatorNet 22/5/2015)

Vâng. Đối với các cụ và các vị còn sống dưới chế-độ Cộng-sản, thì ý-nghĩa của câu hát “Tôi vẫn sống! Tôi vẫn ăn! Và tôi vẫn thở”, vẫn là như thế. Như thế, tức bảo rằng: mọi chuyện Đạo/đời đều phải tập-trung làm sao cho Đảng và nhà nước vẫn cứ ăn, cứ thở và cứ sống mãi trong lòng người, rất dân tộc.

Vâng. Với các vị và các cụ sống ở đời không cần nhờ cũng chẳng ỷ vào Đảng này đảng nọ, lại sẽ khác. Khác thế nào, ư? Đây, lại xin mời bà con mình nghe thêm đôi điều từ một “mảng” không-gian và thời gian, cũng rất khác, ở trời Tây, như sau:

“Các Giám-mục phải sống nhạy bén với Giáo-hội, tức tỏ ra quả-cảm trong việc phản-bác các ý-đồ mang tính-chất vănminh/văn-hoá xúc-phạm đến phẩm-cách con người. Đồng thời tin-tưởng vào các giáo-dân để họ có thể làm tròn trách-vụ được Chúa gọi mời thực-thi cho thế-giới. Trên đây, là lời phát-biểu của Đức Giáo-Tông Phanxicô nói với các Giám-mục nước Ý hôm 18/5/2015 vào lúc khai-mạc buổi họp toàn-thể hàng năm ở Vaticăng.

Nhạy-bén với Giáo-hội còn có nghĩa: tự-tạo cho mình động-thái từ-bi, khiêm-tốn, biết xót thương  cùng sự khôn-ngoan rất cụ-thể của Đức Kitô. Một phần của tính bén nhạy đối với Giáo-hội, còn là củng-cố vai-trò rất thiết-yếu của người giáo-dân những muốn nhận-lãnh trách-nhiệm được giao cho họ. Trên thực-tế, các giáo-dân từng được đào-tạo thành Kitô-hữu thực-thụ không cần sự lèo-lái của Giám-mục hoặc “Đức ông” hoặc hàng giáo-sĩ để thực-thi trọng-trách vốn dĩ trao cho họ ở bất cứ lãnh-vực nào cũng thế, như: chính-trị, kinh-tế, xã-hội đến luật-lệ. Thay vào đó, họ chỉ cần các Giám-quản mang tính-chất Mục-tử mà thôi.

Vào thời-điểm giai-đoạn lịch-sử khi mọi người chúng ta cứ bị thông-tin chuyên gây nản-chí, nản lòng vẫn vây quanh, hoặc hoàn-cảnh quốc-tế cũng như nội-địa khiến ta thấy sầu buồn/khổ-nãovốn dĩ không hỗ-trợ ơn gọi làm giáo-dân nhất là vào lúc cả giáo-dân lẫn các vị chủ-quản giáo-phậ phải đi người lại cơn nước ròng đang chảy xiết…” (xem Cindy Wooden, Call it as you see it, leave laity to do their job, pope tells bishops, The Catholic Weekly, 24/5/2015, tr 9, 29)

Vâng. Tôi đây với tư-cách là giáo-dân ở địa-phận nhà “vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở” như bao giờ. Nhưng hỏi rằng, lối sống ấy có là sống theo qui-cách như Đức Giáo Tông Phanxicô vừa nói hay không. Đó mới là vấn đề.

Vấn-đề của thành-viên “Nước Trời” ngày hôm nay, có thể là như thế, tức trong tình-trạng ba chìm bẩy nổi dù vẫn thở.

Vấn-đề của nhà Đạo hôm nay, vẫn cứ thế, tức như thể động-thái của ông cụ Vũ Như Cẫn, tức vẫn như cũ, suốt từ ngày Công Đồng Vatican kết thúc đến 50 năm sau.

Vấn-đề như của ông Vũ Như Cẫn nơi giáo-dân ở huyện nhà và huyện nào đó ở các nơi vẫn là chuyện cần đặt lại, không cần phải mở thêm một Công Đồng Vatican thứ 3 hoiặc thứ 4 nữa mà làm gì.

Vấn-đề của giáo-dân hay giáo-sĩ dưới sức đè nén của hàng giáo sĩ lẫn giáo-phẩm vẫn còn đó nỗi buồn ,rất thiên thu. Buồn như câu hát của nhà thơ và người viết nhạc vẫn từng bảo:

“Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Vâng. Không phải thế đâu. Không phải “Biết bao giờ” tôi mới được “nói những điều tôi ước mơ, ước mớ” như các nghệ-sĩ/thơ văn vẫn cứ nghĩ và cứ làm…

Vâng. Không phải thế đâu. Không phải “Biết bao giờ, tôi hay bạn mới nói được những điều mình mơ ước như thế đâu! Bằng chứng ư? Thì đây, một ý-nghĩ cùng tư-tưởng của người dân bình thường ở huyện đã từng viết và nói lên ước mơ nhỏ của mình qua câu truyện kể như sau:

“Truyện rằng:

Vợ của anh  đã qua đời được 4 năm, anh  không có cách nào có thể chăm sóc được cha mẹ nên cả thấy chán nản và mệt mỏi.

Một buổi tối khi anh trở về nhà, vì quá mệt mỏi nên anh chỉ chào hỏi đứa con ngắn gọn và không muốn ăn cơm, cởi xong bộ complet liệng lên giường nằm. Đúng lúc đó, ầm một tiếng, tô mì tôm làm dơ hết mền và ga trải giường, hóa ra trong mền có một tô mì tôm. “Cái thằng ranh con này”, anh ta liền vớ một chiếc móc quần áo chạy ra ngoài đánh cho đứa con trai đang ngồi chơi một trận

Đứa con trai vừa khóc vừa nói:
– Cơm sáng đã ăn hết rồi, đến tối con chưa thấy cha về, thấy đói bụng nên đi tìm đồ ăn, con tìm thấy mì tôm trong tủ bếp, muốn nấu mì tôm ăn nhưng cha dặn không được tùy tiện dùng bếp gas nên con lấy nước nóng từ trong vòi tắm pha mì tôm: con pha một tô ăn, còn một tô để phần cha. Sợ mì tôm bị nguội nên con mang vào giường ủ trong mền đợi cha về ăn cho nóng. Con mải chơi đồ chơi mới mượn được của bạn nên khi cha về đã quên không nói với cha.

Anh không muốn đứa con thấy mình khóc nên vội vã vào nhà vệ sinh, mở vòi nước và khóc. Khi đã ổn định tinh thần, anh mở cửa phòng con trai và nhìn thấy đứa con trai trong bộ quần áo ngủ, nước mắt giàn giụa và tay đang cầm bức hình của mẹ nó.

Từ đó trở đi, anh chăm sóc con trai tận tâm hơn, chu đáo hơn. Khi con trai mới vào học cấp I, anh đánh con một trận nữa. Hôm đó, thầy giáo gọi điện về nhà báo con anh không đi học. Anh lập tức xin nghỉ về nhà, chạy đi tìm con khắp nơi. Sau vài tiếng đồng hồ đi tìm anh đến một cửa hàng bán văn phòng phẩm nhìn thấy đứa con đang đứng trước một tiệm đồ chơi điện tử, thế là anh tức giận đánh con, đứa con không một lời giải thích, chỉ nói: “Con xin lỗi”.

Một năm sau, anh nhận được điện thoại từ bưu điện, nói con trai anh đã bỏ một loạt các bức thư không viết địa chỉ vào hộp thư. Cuối năm là lúc bưu điện bận rộn nhất nên điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho họ. Anh lập tức đến bưu điện, mang những bức thư đó về ném trước mặt con trai nói:

– Sao mày lại làm những trò tai quái thế này hả?
Thằng bé vừa khóc vừa trả lời:
– Đây là những bức thư con gửi cho mẹ.
Mắt người cha cay cay hỏi con:
– Tại sao một lúc gửi nhiều thư như vậy?
Đứa con nói:
– Trước đây con còn thấp nên không bỏ thư vào hộp thư được, bây giờ con lớn có thể bỏ thư vào được rồi nên con mang gửi hết những bức thư con viết từ trước đến giờ.
Người cha nghe xong, tâm trạng rối bời không biết nói gì với con. Một lát sau người cha nói:
– Mẹ con giờ ở trên thiên đàng, sau này con viết thư xong, hãy đốt nó đi thì có thể gửi thư cho mẹ được đấy.
Đợi đứa con ngủ, anh mở những bức thư đó xem đứa con muốn nói gì với mẹ, trong đó có một bức thư khiến anh vô cùng xúc động.
“Mẹ thân yêu của con: Con nhớ mẹ lắm! Mẹ ơi, hôm nay ở trường con có một tiết mục mẹ cùng con biểu diễn, nhưng vì con không có mẹ nên con không tham gia. Con cũng không nói cho cha biết vì sợ cha sẽ nhớ mẹ. Thế là cha đi khắp nơi tìm con, nhưng con muốn cha nhìn thấy con giống như đang đi chơi nên con đã cố ý đứng trước một tiệm đồ chơi điện tử. Tuy cha đã rầy con nhưng con đã kiên quyết không nói cho cha biết vì sao. Mẹ ơi, con ngày nào cũng thấy cha đứng trước ảnh mẹ ngắm rất lâu, con nghĩ cha cũng như con rất nhớ mẹ!

Mẹ ơi, con đã sắp quên giọng nói của mẹ rồi, con xin mẹ trong giấc mơ của con hãy để con được gặp mẹ một lần được không, để con nhìn thấy khuôn mặt của mẹ, nghe thấy giọng nói của mẹ, được không mẹ?
Con nghe mọi người ta nói nếu ôm bức ảnh của người mình nhớ vào lòng rồi đi ngủ thì sẽ mơ thấy người đó, nhưng mà mẹ ơi, vì sao con tối nào cũng làm như thế mà trong giấc mơ của con vẫn không gặp được mẹ?”
Đọc xong bức thư, người cha òa khóc Anh không ngừng tự trách mình: phải làm sao mới có thể lấp được khoảng trống mà người vợ để lại đây?

Chúng ta là những người cha người mẹ khi đã mang cuộc sống của đứa con đến với thế giới này có nghĩa là gánh trên vai trách nhiệm vô cùng to lớn. Khi đã là một người mẹ, không nên tăng ca quá nhiều; khi đã là một người cha, không nên uống quá nhiều rượu, đừng nên hút nhiều thuốc, phải chăm sóc tốt cho bản thân mới có thể yêu thương con hết lòng; tuyệt đối đừng nên vì muốn kiếm nhiều tiền mà hủy hoại sức khỏe của mình. Không có sức khỏe thì những danh lợi kia có nghĩa lý gì. Và cũng đừng nghĩ rằng đợi đến khi cha mẹ có nhiều tiền thì sẽ như thế này như thế kia: Nào ai biết sau này chuyện gì sẽ xảy ra, có thể sau một giây mọi chuyện đã khác?!

Những người cha người mẹ xin đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà dễ dàng ly hôn. Vì đau thương lớn nhất sau sự đổ vỡ đó không ai hết mà chính là thuộc về đứa con. Bạn đã kết hôn hay chưa kết hôn thì hãy nhớ một điều, xin hãy quý trọng “nó”. (Truyện kể lại cũng được trích từ mạng vi-tính rất vi-sinh)

Xin “những người cha người mẹ đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà dễ-dàng ly-hôn…” Đó, có thể là câu nói của người đời sống ở đời người. Với nhà Đạo, lại cũng có những câu rất tương tự của bậc thánh-hiền, bấy lâu nay cũng kêu gọi một lời tương-tự, rằng:

“Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều tốt,

miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp,

chứ không phải chỉ khi nào tôi có mặt giữa anh em.19

Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi,

mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa

cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em,20

tôi ước ao được có mặt giữa anh em lúc này,

để lựa lời nói sao cho thích hợp,

vì tôi thấy khó xử với anh em quá!

(Thư Galát 4: 18-20)

“Lựa lời nói sao cho thích-hợp”, lời khuyên răn và cũng là lời kêu gọi gửi đến mọi người rất hôm nay. Bởi, lời nói chính là nguyên-do của mọi thứ chuyện trong đời. Kể cả những lời thơ và ý-nhạc được nhà thơ cũng như người viết nhạc, cùng nhau hợp tác nhau trong bài hát ở trên, cứ hát hoài hát mãi, rất như sau:

“Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã nơi chiến trường
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình khóm tường vi
Vẫn nở thêm một đoá.
Biết bao giờ ?
Biết bao giờ ?
Tôi mới được
Tôi mới được
Nói những điều
Nói những điều
Tôi ước mơ, tôi ước mơ
Tôi ước mơ, tôi ước mơ.”

(Nhất Hạnh/Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn, mời tôi , ta lại nghĩ-suy những điều được trích-dẫn vẫn ở trên và ở trong mọi giòng chảy thơ văn, nơi đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn hát

Những lời ca tương-tự

ở cuộc sống rất đời thường,

nơi huyện nhà thân-thương

cũng rất Đạo.

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,

Tin Mừng (Mc 6: 30-34)

Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.

“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,”

“Để nghe dưới đáy nước hò reo”.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Nhà thơ hôm nay lại cũng bảo: chớ nói nhiều, nhưng hãy nghe. Nghe đây, không chỉ mỗi ” nước hồ reo”. Mà, cả tiếng mời gọi mọi người đừng quá chuyên chăm ăn/làm. Nhưng, còn biết ngơi nghỉ, “để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem trời giải nghĩa Yêu!” Ý-nghĩa của Tình-Yêu Chúa dặn dò, nhưng còn là Lời Vàng Ngài giải-thích.

Trong sống đời thường ở huyện, tôi biết nhiều người, làm việc rất vất vả. Đứng máy giây chuyền, hoặc ngồi bàn giấy công sở từ 8 giờ sáng đến 7, 8 giờ tối, không ngơi nghỉ. Linh mục chúng tôi, qua mục vụ, cũng gặp rất nhiều người trẻ chủ-trương sống đời đi Đạo cũng vẫn “làm việc và làm việc”. Họ trưng dẫn nhiều lý do nghe rất sôi nổi: những là: để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, bây giờ và mai sau.

Có bạn làm 60 tiếng, một tuần. Người khác, cày bừa ở sở chưa đủ, lại rủ bạn đem việc về nhà làm, chẳng quản-ngại thong-tầm, làm thâu đêm suốt sáng.

Bình tâm hơn, có bạn “nướng” thêm một ngày cuối tuần -khi xưa vẫn dành cho Chúa- để làm và làm, chẳng bối rối. Mới đây, qua khảo sát, tôi được kể là: nhiều tín hữu không chỉ hăng say làm việc tại hãng xưởng mà thôi, còn kéo nhau đi nhà hàng, tiệc rượu để rồi, hễ có điều kiện, là làm chết bỏ, chẳng giữ Đạo ngày của Chúa. Họ làm đến không kịp thở; kịp đến lúc ốm đau, gần kề nỗi chết, khi ấy mới lo tập thể dục, ăn kiêng. Sau đó, lại “làm đến tối tăm mặt mũi” như khi trước.

Có hai lý do cho thấy tại sao con người ngày nay lại có lối sống quái-dị như thế:

Thứ nhất, dường như người ta đua nhau kiếm tìm cho mình chỗ đứng vững-chắc trên thị-trường nhân-dụng.

Thứ hai, là vì lợi lộc tài-chánh mà chủ-nhân-ông vẫn muốn đưa ra để lôi-cuốn giới công-nhân/thợ-thuyền xả thân làm thí mạng. Vấn-đề là: chủ-trương “tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” không thể là đường-lối/chính-sách tốt đẹp, khiến ta cứ thế kéo dài cuộc sống hoặc làm lụng để rồi lại sẽ làm đến hơi thở cuối cùng.

Mọi người hẳn đều công-nhận rằng: làm cho lắm, tắm táp vẫn…như con trẻ. Tuổi đời, vốn đà lận-đận, rốt cuộc vẫn thấy vận đen thăm viếng. Đôi lúc, còn bị giới làm ăn doanh-thương khai-thác sức lao-động của mình, chẳng kể gì lời khuyên-can từ Tin Mừng, Lời Chúa.

Lề-thói làm việc thật ‘siêu-tốc’/‘trối-chết’ như thế, không thể là đặc-trưng của thế-giới văn-minh, hiện-đại. Đành rằng, có người lại sẽ bảo: ở đất miền tự-do ăn làm, nơi đây nhiều vị siêng-năng, cần-mẫn cốt để đền-bù cho những người không mấy thích làm việc, hoặc không chịu làm. Lo chi chuyện người đời siêng-năng, rất hay làm?

Tuy nhiên, trong cộng-đồng tình-thương của ta, vẫn còn quá nhiều người tìm cách khai-thác thời-gian và năng-lực của người khác. Họ nào thiết tha gì nhu-cầu tinh-thần hoặc phần thưởng ở đời sau? Họ đâu lo-toan giúp-đỡ, đền-bù những người đã hết mình xả thân làm việc cho họ. Tức, lo sống xứng-hợp với luật đời đi Đạo.

Lâu nay, vấn-đề ‘cần có giờ nghỉ-ngơi’ vẫn là chuyện đặt ra cho Đức Kitô, lẫn môn-đồ của Ngài. Phúc-âm thuật lại: môn-đệ Đức Kitô, sau nhiều ngày rao giảng, đã nghe lời Thầy về quê nghỉ ngơi, cho đúng phép. Quả thật, các môn-đệ từng dấn bước theo Thầy, đã đi khắp nơi, lúc lên xứ Giuđa mạn Bắc, khi xuống miệt Galilê phía Nam, môn-đệ nào cũng đều cảm-nghiệm không ít thì nhiều thế nào lo làm việc, không có nhu cầu nghỉ ngơi. Chí ít, là việc ăn uống/bồi-dưỡng, nhiều lúc cũng không kịp hoặc chẳng thiết-tha gì nữa.

Tin Mừng mời gọi đồ-đệ Đức Kitô hãy lên đường đi đến miền xa, xứ lạ để rao-giảng cho người nghèo-khổ. Nghèo, vì công việc. Khổ, về vật-chất. Quả có thế. Tuy nhiên, là môn-đồ thời hiện-đại, ta vẫn nên bỏ giờ ra mà nghỉ ngơi, hầu có sức tiếp-tục những tháng ngày đang trờ tới.

Rao giảng say-mê/kiệt-sức không cần ngơi-nghỉ, tuyệt-nhiên không là lời khuyên tốt đẹp mà Đức Kitô chủ-trương. Đức Chúa không khai-thác sức lao-động của một ai. Tin Mừng, nay nhấn mạnh việc nâng cao nhân-cách của con người. Nhất thứ, con người đã và đang lao-động. Giáo hội cũng luôn đem đến cho lao-động, ý-nghĩa cao-sang đích-thực, vốn thường có. Giáo-hội, lại luôn coi lao-động như phương-tiện đạt cứu-cánh là hạnh phúc Nước Trời. Chứ, lao-động không thể là mục-đích của cuộc sống bao giờ hết, chí ít là cuộc sống của tín-hữu Đức Kitô. Giáo hội, xưa/nay vẫn tỏ-bầy lập-trường vững-chắc về lao-động.

Cụ thể hơn, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị đã từng đaị-diện cho Giáo hội khẳng định ý-nghĩa của lao-động như sau: “Lao động nâng cao phẩm-giá con người của chúng ta.” Xem như thế, thì giới cầm-quyền và chủ-nhân-ông không được phép đeo đuổi bất cứ triết-lý nào chỉ chuyên/lo đề-cao sức người làm việc, nhưng lại biến-giảm phẩm-cách con người, nhất thứ, khi người lao-động bị đối-xử tệ-bạc khác nào viên đốc-công luôn hối-thúc công-nhân/thợ thuyền dưới trướng nhất-định phải làm việc trối chết, làm ra thật nhiều việc để vừa lòng chủ-nhân-ông.

Nói tóm lại, công việc ta làm, dứt khoát để cải-thiện cuộc sống bản thân, cũng như gia-đình. Thế nên, ta chỉ nên làm việc theo cách nào đó cho phù-hợp với nhân vị/bản thể. Ta không được phép thôi-thúc con người trở-thành máy móc, hoặc loài thú chỉ biết những làm và làm.

Và, qua cung- cách lao-động, ta phải phát-huy tài-năng cũng như ân-huệ mình nhận lãnh từ Đức Chúa. Nhờ đó, ta có thể dựng xây một xã-hội lành mạnh hơn. Xã hội, biết đối-xử với tất cả mọi công-nhân lao-động xứng-đáng hơn, như mọi người mong muốn.

Tôn-trọng phẩm-giá con người, là vẫn lao-động như thường-lệ nhưng biết chọn lúc mà nghỉ-ngơi, giải trí. Phương-châm “ắt và đủ” vẫn có thể áp-dụng trong lao-động. Và, vẫn được liệt kê trong bí kíp thành tựu ở mọi địa-hạt.

Cuối cùng thì, công-nhân lao-động nào biết phân-chia ranh-giới giữa say sưa làm chết xác với lợi-dụng/khai thác người khác, mới là người sáng suốt, có làm và có nghỉ. Bởi, có như thế, mới mong tránh được nguy-cơ gây căng thẳng cả hồn lẫn xác. Có như thế, ta mới mong thực-hiện đúng phương châm “Tốt đời, đẹp Đạo”.

Phúc Âm hôm nay có thuật rõ: “Đức Kitô tỏ lòng ‘chạnh thương’ khi thấy đám đông dân chúng đang có nhu cầu.” Ngài hiểu rằng: nhu-cầu của họ vẫn là những thứ mà môn-đồ Ngài phải thực-hiện. Ngài khuyên các môn đồ -và qua đó, tất cả chúng ta- biết tạo sự cân bằng giữa nhu-cầu lao-động cần-mẫn và sự cần-thiết phải nghỉ ngơi.

Đây, là nhu-cầu của niềm Tin-Yêu. Điều này áp dụng cho hết mọi người, cả lúc làm việc tại nhà cũng như lao-động ở cơ-quan, công xưởng.

Tin Mừng hôm nay còn là tín thư mạnh mẽ đến thế giới mai ngày cứ chú-trọng quá nhiều vào lao-động đến cật lực. Một thế-giới luôn chủ-trương khai-thác quá mức sức lao-động của con người. Tín thư còn đó vẫn ghi chép: Ta phải lao-động thật cần mẫn, nhưng vẫn phải biết nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí.

Nghỉ-ngơi, là nhu-cầu bức-thiết không việc gì phải ưu-tư, sợ tội. Nghỉ-ngơi sau khi làm việc cần-cù vẫn là điều chính-đáng. Đây, không chỉ là nghĩa-vụ, mà còn là quyền lợi mà Đức Chúa tặng ban cho ta. Là tín hữu Đức Kitô, ta có bổn-phận phải phát-huy/duy-trì nghĩa-vụ và quyền-lợi ấy cho bằng được, ngõ hầu bảo-vệ phẩm giá con người, cách đúng-đắn.

Cầu mong sao, Tiệc thánh hôm nay giúp ta nhớ rằng: khi tạo cho mình công ăn việc làm khả dĩ đem lại thâu nhập/lợi nhuận, ta vẫn phải quan-tâm đến phẩm-giá con người.

Cầu mong sao, những ai đã có công ăn việc làm tạo cơm/bánh cho bản thân và gia-đình, biết cảm tạ Cha, bởi lẽ đó là điều rất tốt đẹp. Ai chưa kiếm được công việc để làm, cũng đừng nên lấy đó làm điều buồn bã cho chính mình.

Là thành-viên cộng-đồng tình-thương, ta luôn nhớ đến bổn-phận giúp-giùm/đùm-bọc và sẻ-san cho nhau của cải vật chất và công ăn việc làm. Không đố kỵ, khinh chê, ganh ghét người chưa có khả-năng ăn làm. Không coi rẻ người chưa kiếm ra được công việc nào hết. Ta dư biết: của cải trần gian hoặc công ăn việc làm hoặc lao-động đều là quà tặng do Chúa ban tặng.

Trong cảm-nghiệm sự-thật cụ-thể như thế, ta ngâm lại lời thơ rất chiêm-niệm, rằng:

“Hàng thông lấp-loáng đứng trong im,

Cành lá in như đã lặng chìm.

Hu-thực làm sao phân-biệt được,

Sông Ngân-Hà nổi giữa màn đêm.” (Hàn Mặc Tử – Đà-Lạt Trăng Mờ)

Thực-hư/hư-thực thật ra cũng tùy người. Tùy những người có mang nặng niềm tin vào Lời Vàng đấng thánh hiền từng nhắn nhủ, mà thôi. Nhắn và nhủ, vẫn là lời nhắc nhở mọi người ta về suy-tư chiêm-niệm một đời rất thánh-hiến, với mọi người.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá, lược dịch

AI SẼ ĐƯỢC THIÊN CHÚA THƯỞNG BAN NƯỚC TRỜI

AI SẼ ĐƯỢC THIÊN CHÚA THƯỞNG BAN NƯỚC TRỜI

Tuyết Mai

Thưa rằng ai được Thiên Chúa tác tạo thì đều được hưởng Ơn Cứu Độ và Nước Trời của Người vì tình yêu Thiên Chúa thì không giới hạn … Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa mà theo quỷ Satan và bè phái của chúng thì Thiên Chúa Người mới đành bó tay chịu thua thôi!.

Như con cái dưới trần khi cha mẹ dạy con cái làm những điều tốt lành, tránh làm điều dữ thì trong 10 lần cũng phải có đến 3,4 lần con cái chúng làm ngược lại lời dạy dỗ đó mà rồi kết quả trong tất cả 3,4 lần đó là cha mẹ bị người ta kiện cáo, đòi bồi thường thiệt hại hay chịu nhục nhã vì bị người ta chửi cho cách đau đớn đôi khi có thể dẫn đến chết chóc vì bênh con cho những điều sai trái con cái chúng làm như câu “Con dại cái mang”.

Con cái ở tuổi còn thơ thì chúng sống như thiên thần chẳng hề biết tội lỗi là gì nhất là chúng con cái có được cha mẹ sống cuộc đời đạo đức biết kính sợ Thiên Chúa và quyết giữ 10 Điều Răn Thiên Chúa để con cái chúng bắt chước theo.   Nhưng khi con cái chúng đến tuổi biết so sánh, bon chen học những cái xấu từ bạn bè hay từ những hành động xấu của người lớn trong gia đình thì chúng sẽ rất khó để học làm khác đi do những gì chúng nghe, thấy và biết.

Như ở bên Mỹ khi một người bị phạm tội giết người thường thì những Luật Sư tìm hiểu xem người ấy có một quá khứ sống như thế nào nhất là từ trong gia đình.   Có phải là cha mẹ ly dị nhau ở tuổi khi người tội hình còn rất nhỏ? Có cha mẹ nghiện rượu, xì ke, cần xa, ma túy? Chúng là con nuôi? v.v… Nếu phải là những điều trên thì người phạm tội có thể được làm giảm nhẹ đi.

Thiên Chúa Người là Cha của toàn thể nhân loại con người, chẳng lẽ Người lại muốn hủy hoại hay dữ tợn với con người hay sao?.   Mà thật sự nếu Người muốn thì chỉ cần Người thổi nhẹ một hơi trên Trái Đất thì không còn cái gì nằm trên cái gì nữa cả mà ra tan tành, thành khói sương tan biết vào cõi thinh không, thưa có phải?.

Do đó mà có khôn ngoan không nếu hết thảy con người chúng ta cố gắng sống làm đứa con cả ngoan ngoãn như trong chuyện “Người con hoang đàng” để hằng ngày được hưởng mọi sự sung sướng của Cha mình.   Mà chớ có bắt chước giống như cậu em khi ăn chơi hết tiền thì cám heo cũng không có để mà ăn.   Hoặc như câu chuyện “5 cô khôn ngoan và 5 cô dại khờ”.

Do đó hỡi toàn thể anh chị em nhân trần hãy sống từng ngày sao cho đẹp lòng Thiên Chúa, làm vui lòng anh chị em thì chắc chắn rằng Nước Trời sẽ thuộc về người ấy.   Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:
https://www.youtube.com/watch?v=Bw3_rG7-DYY

(Thân con tội lỗi vô dụng)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai

07-07-15

———————————————–

Thân Con Tội Lỗi Vô Dụng
Uploaded on YouTube Jul 17, 2011

Ôi lạy Chúa rất lắm khi!
Con cảm thấy chính mình chỉ vô dụng
Ươn lười làm biếng chẳng đụng
Chẳng làm mà chỉ giỏi dùng người thôi!

Cậy tiền, cậy quyền, làm lối
La mắng chửi rủa người tôi tớ mình
Biết tội nhưng vẫn mặc tình
Vì họ làm dưới quyền mình chỉ huy

Con vô dụng ngay cả khi
Lạm dụng có tiền con đi trác táng
Vào sòng đỏ đen cả tháng
Hút sách, rượu chè, tối sáng với em

Quắt quay, tửu sắc, say mèm
Chẳng hay trời đất chỉ thèm được vui
Thiên Đàng hạ giới thật vui!
Xác thân thỏa mãn, ai vui bằng mình?

Nhưng có phải chính vì mình?
Ăn chơi sa đọa dây tình gieo oan?
Bao nhiêu con gái đoan trang
Vì con nay phải sang ngang đổi đời?

Bao thai nhi không chào đời?
Làm sao con đếm cho thời đủ đây?
Tội lỗi của con chất đầy!
Dập đầu lậy Chúa xin tẩy xin tha?

Vì con đã để quỷ ma
Dẫn đường dẫn lối lạc xa Quê Nhà
Giờ con đứng trước ngã ba
Cho con Ánh Sáng chỉ ra con Đường

Như Phao Lô xưa trên đường
Bị Chúa hất ngựa xuống đường ngã đau
Chúa quên tội ông thật mau
Ông nên gương sáng của bao nhiêu người

Chấp tay khẩn nguyện Chúa Trời
Con nguyện từ bỏ đổi đời từ đây
Rời xa cuộc sống bủa vây
Trở về cùng Chúa con đây xin Ngài!

Dùng con khí cụ của Ngài
Trở nên hữu ích miệt mài chuyên chăm
Không quản vì Chúa quanh năm
Đem bao công sức lo chăm giúp người

Để con tạ lỗi cùng người
Để con mưu ích được Người thưởng ban
Để con đến bến Bình An
Cùng Chúa vinh hiển huy hoàng Đời Sau

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

Suy Tư Về Việc Hoa Kỳ Chấp Thuận Hôn Nhân Đồng Giới

Suy Tư Về Việc Hoa Kỳ Chấp Thuận Hôn Nhân Đồng Giới

TRẦM THIÊN THU

Ngày 26-6-2015, Hoa Kỳ đã hợp pháp hóa việc hôn nhân đồng giới. Một tiếng sét ngang tai đối với người Công giáo. Chúng ta nên làm gì?

Hôn nhân truyền thống là điều tốt lành của Thiên Chúa, sự thiết lập này được thể hiện qua việc kết hợp của một người nam và một người nữ, nhờ đó mà xã hội phát triển. Nhưng người ta không tin như vậy. Đa số thất vọng với quyết định của Hoa Kỳ về việc chấp nhập hôn nhân đồng giới. Kinh khủng quá!

Cơn cám dỗ này là sự hôi thối sỉ nhục trong góc thánh thiện, là đào hố sâu dưới chân chúng ta, là cú đá ngược bất ngờ khiến chúng ta thất vọng. Nhưng chúng ta vẫn khả dĩ làm tốt hơn bằng cách ấp ủ Tám Mối Phúc:

Hãy vui mừng, không chỉ trong quyết định, mà còn vui mừng trong Chúa, và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chúa Giêsu nói: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5:11).

Vui mừng cái gì? Hãy chú ý những điều quan trọng: Thiên Chúa vẫn hiện hữu, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài làm ngơ và chờ đợi chúng ta ăn năn sám hối; sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô vẫn mãi là sức mạnh cứu độ đối với mọi người; Tin Mừng vẫn làn tỏa khắp nơi; Tòa án Tối cao hoặc Quốc hội Hoa Kỳ không thể chống lại Giáo Hội của Đức Giêsu Kitô, vì Ngài đã xác định với giáo hoàng tiên khởi: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16:18). Chắc chắn “không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô” (Rm 8:35). Nước Thiên Chúa sẽ ngự đến – và vẫn có những công việc để chúng ta làm trong Giáo Hội và trong xã hội ngày nay.

HÃY SÁM HỐI. Hiện nay một cơn cám dỗ khác đang nhắm vào các sức mạnh về chính trị, xã hội, triết học, tâm linh, để chống lại Giáo Hội và giáo huấn luân lý. Thánh Phaolô khuyên chúng ta khi tham gia cuộc chiến thiêng liêng: “Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phóđứng vững trong ngày đen tối” (Ep 6:10-13). Chúng ta nên làm gì và có thái độ thế nào khi xã hội loại bỏ các giá trị đạo đức? Hành động trái ngược đã bộc lộ nỗi sợ hãi và dịnh kiến. Đam mê của chúng ta có nguồn gốc từ tội lỗi liên quan tình dục, lãnh đạm với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, thói tham lam, thói giả hình, tính vị kỷ,… Tu thân rồi mới tề gia, sau đó mới khả dĩ trị quốc và bình thiên hạ. Bắt đầu là điều khó, bắt đầu từ chính mình lại càng khó hơn. Nhưng ai cũng PHẢI bắt đầu. Tu thân là sửa tính nết, canh tân lối sống, sám hối tội lỗi: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5).

HÃY SUY NGHĨ LẠI. Hãy suy nghĩ về những gì mình đã làm, đang làm và sẽ làm. Hôn nhân đồng giới là trái tự nhiên, là “cặp đôi KHÔNG hoàn hảo”.

Một vấn đề đòi hỏi suy nghĩ nghiêm túc là việc ly hôn, ly thân và tái hôn. Kinh Thánh nói nhiều về hôn nhân. Sách Khôn Ngoan cảnh báo: “Họ quả không coi trọng mạng sống và xem thường cuộc hôn nhân trong sạch. Người này giăng bẫy sát hại người kia, người ta giết nhau bằng thủ đoạn hoặc làm khổ nhau vì chuyện ngoại tình. Nơi đâu cũng hỗn loạn: đổ máu và giết người, cướp giật và lừa đảo, nhũng lạm, bất tín, bạo loạn, bội thề. Vàng thau lẫn lộn, bội nghĩa vô ân, tâm hồn nhơ nhuốc, dục tình đồi bại, rồi hôn nhân hỗn loạn, ngoại tình và phóng đãng” (Kn 14:24-26). Thiên Chúa quả quyết: “Ta ghét việc rẫy vợ, và kẻ lấy thói bạo tàn làm áo che thân. Hãy coi chừng và chớ phản bội!” (Mlk 2:16). Và Chúa Giêsu dạy: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19:6; Mc 10:9). Đó là Ngài nói về hôn nhân lưỡng tính (một nam và một nữ) chứ không là hôn nhân đồng tính (một nam và một nam, hoặc một nữ và một nữ). Thế nhưng người ta nới lỏng Luật Chúa và không tôn trọng lời thề hôn nhân. Người ta coi thường Thánh Ân nên không muốn tuân giữ Thánh Luật. Sự mâu thuẫn đã làm đảo lộn trật tự xã hội vì người ta muốn thoát ra khỏi Giáo Hội. Giáo Hội cấm ly hôn chứ không cấm tái hôn, nhưng chỉ tái hôn khi một người không còn (qua đời) chứ không tái hôn sau khi ly hôn.

Ai khao khát sự công chính thì sẽ được mãn nguyện: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6). Nhưng khao khát thì phải hành động chứ không “há miệng chờ sung rụng”.

HÃY SẮP ĐẶT LẠI. Chúng ta đang “sống lưu vong” và “lữ hành trần gian”. Một thanh niên Miến Điện đến Hoa Kỳ vài tháng trước. Anh ta nói rằng ở Miến Điện, các Kitô hữu bị hạn chế xây dựng nhà thờ và trường học. Hành vi thù địch về xã hội và chính trị đã khiến anh chống đối, anh phải trốn sang Indonesia. Tại đây, anh bị tù 7 tháng vì không có giấy tờ tùy thân. Nhờ tổ chức World Relief, anh được đến Hoa Kỳ, phải “vật lộn” với ngôn ngữ mới và văn hóa mới, trong khi phải nuôi sống gia đình với số lương bèo bọt. Nghĩa là anh ta phải sắp xếp lại mọi thứ để sớm thích nghi với hoàn cảnh mới với mọi thứ mới.

Đó là một dạng sống lưu vong, dù xã hội Hoa Kỳ vẫn cho phép tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, tôn trọng nhân quyền, cho phép công dân tham công việc gia quản trị. Tự do luôn có sẵn hầu như ở mọi nơi trên thế giới. Kiến tạo hòa bình là điều tốt chung: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9). Nói chung, chúng ta phải sắp xếp lại quan điểm và hoạt động chính trị.

HÃY VƯƠN XA. Vấn đề hôn nhân đồng giới đã được hợp pháp hóa ở Hoa Kỳ, chúng ta buồn nhưng chúng ta lại có cơ hội để xây dựng các mối quan hệ đơm hoa kết trái với những người ghét các Kitô hữu: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44; Lc 6:27). Về điểm này, người Công giáo chúng ta bị coi là mối đe dọa đối với chính trị. Chúng ta “mất mát” về vấn đề hôn nhân đồng giới, mối đe dọa đã không còn. Chúng ta hãy mong đợi những cơ hội mới để có dịp chia sẻ về Lòng Chúa Thương Xót: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Đó chính là Tin Mừng vậy.

HÃY TỰ HÀO. Thánh Phaolô động viên: “Hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2 Cr 13:11). Vả lại, chính Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta ngay trong bước ngoặt lịch sử này – Hoa Kỳ chấp thuận hôn nhân đồng giới. Trong quá khứ, Giáo Hội hồi thế kỷ IV có trách nhiệm suy tư vầ bản chất của Đức Kitô, Giáo Hội hồi thế kỷ XVI có trách nhiệm suy tư về mối quan hệ giữa đức tin và công việc, còn hiện nay, Giáo Hội có trách nhiệm suy tư về vấn đề giới tính. Điều chúng ta dạy và việc chúng ta làm trong thời đại chúng ta sẽ định hình tư tưởng của Giáo Hội và cuộc sống đối với các thế hệ tương lại.

Đây không chỉ là lời kêu gọi đối với các vị lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội, mà còn đối với mỗi gia đình Kitô giáo. Dù chúng ta có đi vận động hành lang ở sảnh Quốc hội hay không để xem việc buôn bán người hoặc dạy trẻ em về tặng phẩm tình dục quý giá thế nào, chúng ta vẫn đang củng cố và định hình giáo huấn của Giáo Hội về giới tính.

Chúng ta đang bước vào tương lai chưa biết sẽ đáng quan ngại hay hay không, nhưng cần có lòng khiêm nhu và tự tin: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5:4). Đức Kitô là Thiên Chúa Ngôi hai và vẫn là Hoa Tiêu điều khiển Con Tàu Giáo Hội. Phúc cho ai chân nhận điều này, vì họ sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp đời đời!

MARK GALLI

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ ChristianityToday.com)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

HÀNH TRANG NGƯỜI MÔN ĐỆ

TGM Ngô Quang Kiệt

Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang.  Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều.  Chuyến đi càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán.  Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi.  Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang.  Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người.  Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người.  Đây chính là hành trang quan trọng nhất.  Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình.  Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ vụ.  Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người.  Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha.  Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa.  Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình.  Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa.  Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa.  Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi.  Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa.  Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn.  Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững.  Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ.  Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một.  Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng.  Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục.  Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin.  Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người.  Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ.  Phải liên đới với con người.  Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu.  Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương.  Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ.  Tức là đến với những người kém may mắn ở đời.  Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên.  Để đến với những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương.  Các ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát.  Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc.  Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về.  Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.

Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của Chúa.  Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người.  Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích cực trong việc tông đồ.  Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp.  Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị em đồng loại.  Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em.  Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa.  Liên kết mọi người trong tình yêu mến.  Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa.  Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

TGM Ngô Quang Kiệt

TẠI SAO GIÁO HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC HƠN ?

TẠI SAO GIÁO  HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC  HƠN ?

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ  biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm.  Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần  phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra  trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.

Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam  mê  về tiền bạc và của cải vật chất,tôn thờ khoái lạc ( hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm ( numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa  và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng  nhân đạo..

Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng  “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng  dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.

Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo  đói, sống vất vưởng trên  hè phố ở các đô thị  lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải  đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú , tỉ phú không hề quan tâm đến họ.  Chính quyền liên bang cũng như  tiểu bang , cho đến nay,  vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý  là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù  dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! ( Irak và Afghanistan)

Trước thực trạng nói trên của Thế giới,  Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng,  đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải  làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa  nơi những người xấu số  này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.

Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi  và  nhất là tình thần và đời sống  khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh  em  để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có.” ( 2 Cor 8:9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô  muốn thực hành   phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi  noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để  nên  nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã  đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để  phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” ( Mt 20: 28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y  ngày  13 tháng 1năm 2014 , Đức Thánh Cha Phanxicô  đã nhấn mạnh như sau :

“  cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion)  một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó  xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới  này với lòng khiêm cung,  giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.

Tai sao phải sống khó nghèo ?

Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo  ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như  nhà ở, cơm ăn  áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc  Mỹ và các quốc gia Âu châu , Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện.Nghĩa là không “lý tưởng  thiếu  thực tế” để chỉ  chú trọng  đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng  điều quan trọng nhất  là phải có  nhân đức  khó nghèo  và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô   đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. ( Mt 5:3; Lc 6 : 20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới  về phần xác như  đã nói ở trên   mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm  chóng qua ở đời này    đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến  không còn chú tâm  vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ  và  săn sóc về mặt thiêng liêng.

Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải  vật chất,  thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có  và không  sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.

Mặt khác,  sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những  giáo đường,  nhà  xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để  khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu  để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương  bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố,  trong khi rất nhiều người  vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ-  mà ham mê tiền của để đôn  đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận,  thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được  tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có  chỗ tựa đầu.” ( Mt 8: 20)

Thử hỏi Chúa có đóng kich “ khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không ?

Ai dám nói là có ?  Nếu vậy, thì Chúa quả  thực  đã  sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế  để nêu gương  nghèo khó trong tâm hồn  và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là  các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành  lời Chúa để đi tìm và  “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” ( Mt  6: 20)

Nếu người tông đồ  mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì  xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng,  thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm  sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai  tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và  xa tránh hay chống lại  những cám dỗ về  tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê,  cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và  nhiên hậu, cũng sẽ  không hơn gì bọn Biệt phái  và luật sĩ  xưa kia, là   những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón  tay vào.”( Mt 23: 4).

Như thế, không thể  làm nhân chứng cho Chúa  Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm  mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi  Người sinh ra cho đến khi chết đi  hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.

Nói rõ hơn, giảng  tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác,  mà chính mình  lại sống phản chứng  bằng cách chạy theo tiền của,  dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại  xe đắt tiền như  Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo  có ít tiền xin lễ, mà  chỉ nhận  lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính  mình không sống điều mình rao giảng.  Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi  linh mục, giám mục  nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể  nói chung vì “ con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.

Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó  theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực  sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta  coi khinh , coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn  của mọi vinh phúc giầu sang  vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn,  thì Giáo Hội mới có thể  để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và   của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể   thi hành có hiệu quả  sứ  mệnh thiêng liêng của mình là  rao giảng Tin Mừng  cứu độ  của Chúa Kitô và   sự giầu sang đích thực  là  chính Thiên Chúa , Đấng  đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta  hạnh phúc  mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều  Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. ( 1 Cr 2 : 9

Nghĩa là  phải yêu mến Chúa  hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng  phú quí  chóng qua  ở trần  gian này , thì  mới  có thể rao giảng Tin Mừng  Cứu Độ  cách hữu hiệu cho người khác được.

Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này,  không hề phục vụ cho  nhu cầu  tìm kiếm tiền bạc , danh vọng  và của cải vật chất hư hèn  mà  chỉ cho mục đích  kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi.  Lại nữa, không có  giáo sĩ và tu sĩ nào  có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa  là cội nguồn của mọi phú quý  sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có  kia  là  “ hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo , anh sẽ được một kho tàng trên trời , rồi hãy đến mà theo tôi.” ( Mc  10:  21)

Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng  soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ-  bước đi qua  bóng tối đen thui  của   tiền bạc  và của cải vật chất, là những quyến rũ  đã và  đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê  đi tìm kiếm và  tôn thờ,  thay vì  tìm kiếm và tôn thờ  một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi  phú quý  giầu sang đích thực mà thôi.

Chúa nói: “ ai có tai nghe thì nghe” ( Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Tin Chúa, con được gì?

Tin Chúa, con được gì?

Ơn-Ta-Đủ-Cho-Con

Trắc trở trong tình yêu, chị ở một mình nuôi con. Dù còn đó những dị nghị từ dư luận, chị bình an dấn thân vào cuộc mưu sinh. Khó khăn vất vả làm thuê kiếm sống cho mình và cho con, chị không than vãn nửa lời. Thế nhưng, chị ứa nước mắt khi thấy con mình từng ngày lớn lên trong môi trường đầy dẫy gương xấu, thiếu vắng gương lành. Chị mường tượng thấy một viễn cảnh không tương lai của con mình. Chị muốn, muốn lắm cứu vãn con mình khỏi cảnh sống ấy, để đưa nó vào một môi trường tươi sáng, tốt lành hơn. Nhưng chị nhận ra tay mình quá ngắn, sức mình quá bé nhỏ, trong khi môi trường đầy rẫy những lôi kéo bỏ bê việc học, đua đòi bạn xấu, nghiện ngập game, thuốc, sống bất cần đời,…

Chia tay anh lúc mới mang thai con, chị băn khoăn không biết nên giữ hay nên bỏ. Một thân một mình lại đèo bòng thêm con, không biết tương lai sẽ ra sao. Tăm tối, nhưng chị vẫn quyết định cưu mang mầm sống ấy, vì dầu sao đó cũng là con mình. Chị cũng tin rằng chỉ có Chúa mới có quyền quyết định về sự sống và cái chết của một con người. Niềm tin ấy cho chị thêm vững vàng để cưu mang và đón nhận đứa con chào đời, dẫu làm thế chị phải nhắm mắt bịt tai trước bao lời đàm tiếu, mỉa mai.

Ngày con cất tiếng khóc chào đời, chị vui buồn lẫn lộn. Niềm vui được làm mẹ thật lạ lùng, chị chẳng thể tả xiết. Nhưng niềm vui ấy không thuần khiết mà được bao bọc bởi nỗi buồn lo về tương lai. Đứa bé rồi sẽ ra sao khi không biết đến mặt mũi người cha! Vẫn cùng một niềm tin đã cho chị sức mạnh để đón nhận con, nay cho chị thêm hy vọng vào một tương lai. Nỗi buồn rồi cũng phôi pha khi chị trông thấy con từng ngày khôn lớn. Chị hy vọng về một tương lai tốt đẹp của con, dẫu trước mắt không thiếu khó khăn về kinh tế.

Gửi con lại quê cho ông bà ngoại đã cao tuổi, chị lên thành phố kiếm việc làm mong có thể xoay trở đủ tiền nuôi con ăn học thành người. Tràn đầy ước mong và hy vọng, chị chẳng ngại dấn thân lao nhọc. Chuyên chăm làm việc, chị có thể chu cấp cho con miếng ăn, cái mặc có thể nói là tươm tất. Nhưng con người sống đâu chỉ cần miếng cơm manh áo. Chị thầm hiểu điều đó nên dù xa con, chị vẫn đều đặn dành thời gian gọi điện về thăm hỏi, khích lệ. Nhưng hỡi ôi, nước xa đâu mong cứu được lửa gần. Tuổi thơ non dại, trong khi môi tường xấu lôi cuốn rủ rê, con chị đã dần bị tiêm nhiễm bởi thói sống bất cần đời, thả trôi đời mình theo các đam mê nghiện ngập.

Học hành chẳng thấy lợi ích gì, lại thêm mệt thêm khổ; rong chơi thoải mái, luyện game thú vị hơn nhiều. Với tư duy thực tiễn nhưng nông cạn và bồng bột ấy, con chị bị cuốn lao vào vòng đam mê chơi bời lêu lổng, game thuốc từ lúc nào. Trốn học đi chơi; cần tiền tiêu xài, tìm đủ lý do để xin; xin không cho thì trộm cắp. Ban đầu là những thứ lặt vặt, rồi đến những món tiền lớn hơn,… một lần, vài lần, rồi thành quen, khó bỏ, không bỏ được!

Thương con, chị bỏ công việc về quê, mong tìm cách cứu vãn tương lai con mình. Ban đầu chị khuyên bảo con, dùng lời ngon ngọt yêu thương. Con chị dạ dạ vâng vâng, nhưng thói xấu khó chừa, chứng nào tật nấy. Khuyên mãi không được, chị chuyển qua răn đe, kỉ luật. Mẹ con trở ra xung khắc. Đau lòng, buồn tủi, chị chẳng biết ngỏ cùng ai, cậy nhờ ai! Đời chị như bế tắc. Đến với Chúa, chị thở than:

Lạy Chúa, con đã tin Chúa, đã đón nhận cái thai, gìn giữ sự sống của đứa con và nuôi hy vọng. Con đã chẳng dấn thân hy sinh chăm lo cho con cái bao năm qua sao? Vậy tại sao con của con giờ lại ra nông nỗi này? Nếu con đã không tin Chúa và đã không để con của con chào đời, thì giờ đây con đâu phải chứng kiến cảnh thấy nó hư đi mà không biết phải làm gì để cứu vãn. Đời con đã quá cô đơn buồn khổ, con không than, cũng chẳng trách. Thế nhưng, giờ đây đời con của con lại đang dần đi vào ngõ cụt của khổ đau, bóng tối của sự dữ! Chúa đang ở đâu? Tin Chúa, con được gì?…Trong khổ nhọc, chị thiếp đi.

Thức tỉnh, chị thấy lòng bình an và thẳm sâu trong tâm trí chị thấy một nguồn hạnh, bởi chị nhận ra:

Tin Chúa, trước tiên chị được một niềm tin vững vàng, một niềm tin có thể ủi an nâng đỡ và thêm sức cho chị ngay giữa lúc tưởng như tuyệt vọng;

Tin Chúa, chị giữ được sự sống của con mình và chị được hiểu thế nào là sự quí giá nhưng mong manh của sự sống từ khi còn là bào thai trong dạ mẹ;

Tin Chúa, chị đã hạ sinh được một người con và chị hiểu ra thế nào là tình mẹ đích thật, là ân nghĩa sinh thành khi chính chị vì yêu thương mà hết tình chăm lo cho con;

Tin Chúa, chị được một lòng yêu thương dạt dào, dẫu lòng yêu thương ấy bị khổ đau che mờ khuất, nhưng nó vẫn còn mãi bất chấp khổ đau; nó thêm sức cho chị vượt qua biết bao nghịch cảnh;

Tin Chúa, đời chị không vắng bóng khổ đau, không thiếu những lúc tưởng như bế tắc, nhưng khổ đau ấy không khiến chị gục ngã không thể chỗi dậy, bế tắc ấy không là đường cùng. Chị được thêm hy vọng và sức mạnh để tiếp tục sống và cố gắng sống tốt hơn cho mình và cho con, vì chị tin vào lời Chúa: “ Ơn Ta Đủ Cho Con!”

Vinhsơn Phạm Văn Đoàn, S.J.

CON MẮT ĐỨC TIN

CON MẮT ĐỨC TIN

Tuyết Mai

“Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Ðức Chúa, và có Ðức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.” (Gr 17,7-8).

Lạy Chúa, con Chẳng biết mọi Kito hữu khác có một cuộc sống mỗi ngày ra sao trong kiếp sống ngày lại ngày này như thế nào! Riêng con, cảm tạ Chúa, cuộc sống của con xem chừng như được thư thả và thong dong đôi chút. Trận cuồng phong mà con đã gặp phải, trải qua, và được Chúa thử thách, đã như một phép lạ mà Chúa truyền cho sóng phải lặng và gió phải im, trôi qua rất êm đềm và bình an như mặt nước hồ thu. Hạnh phúc là bao khi ngoảnh mặt nhìn lại, con không còn sống và ở trong tâm trạng sợ hãi, lo lắng, và tuyệt vọng nữa!

Không ai có thể ngờ và tưởng tượng được một cuộc thử thách đã đến với tôi, kéo dài trong suốt mấy tháng trời. Ai có đi vượt biên bằng thuyền và không may gặp những hôm gió bão, thuyền chòng chành, nhồi lên nhồi xuống vì những con sóng lớn. Ai chẳng phải run giùng và sợ hãi trước những con sóng phủ đầu, quá khủng hoảng trong cảnh kinh hoàng và tuyệt vọng, so với sức người thì không thể nào có thể chống trả với những cơn cuồng nộ của sóng thần.

Cuối cùng, tất cả chỉ còn là sự tê liệt, bất động, chịu trận, đuối sức, nhìn nhau trong ánh mắt tuyệt vọng, chỉ biết phó mặc, và cầu Trời cho cái chết đến thật nhanh để không có cảm giác đau đớn. Tất cả người có Đạo cũng như không có Đạo đều phải tìm kiếm, hướng lên, trao phó, và khẩn cầu đến Đấng Tối Cao để được bảo toàn tánh mạng. Có nhiều người đang chờ chết vì đói lả, ròng rã bao nhiêu ngày trời, lênh đênh trên biển cả, nhưng Chúa đã cứu thoát họ vì Đức Tin mạnh mẽ của những con người còn tin vào lòng thương xót và tình yêu của Chúa trên con thuyền bé nhỏ.

Sự tuyệt vọng đã xảy đến với tôi và gia đình, cũng chới với, cũng lao đao khổ sở, cũng có lúc như buông xuôi, không biết phải tính toán như thế nào? Sở dĩ tôi phải mượn câu chuyện vượt biên trên, để diễn tả cho đúng với tâm trạng căng thẳng và khủng hoảng của tôi và của cả gia đình, mà tôi đã trải qua trong suốt thời gian vừa qua.

Thân xác tôi chưa đến nỗi trở thành bất động, và tê liệt, nhưng tinh thần tôi có sa sút đi rất nhiều, cũng đủ làm cho thân xác tôi ra hao mòn, tàn tạ, và già đi nhiều. Tóc bạc đã tự nhiên trắng xóa trên mái đầu đen, trước đây luôn được khen là óng ả mượt mà. Có những đêm tôi không thể nào ngủ được. Sáng ra đi làm thì đầu óc để mãi tận đâu đâu. Nhìn thấy ai cũng chẳng được mấy vui. Nước mắt tủi hờn lúc nào cũng lưng tròng, chỉ chực chờ có người hỏi han là sẽ sẵn sàng lã chã rơi. Không mắc cở. Không sợ ai cười. Không buổi tối nào mà gia đình tôi thiếu tiếng đọc kinh Mân Côi. Riêng tôi, hết đọc kinh chung chưa đủ rồi lại đọc kinh riêng.

Thử thách vừa qua Chúa gởi đến cho tôi, quả là căng thẳng và khủng hoảng đến tột độ. Cả đời tôi đây là lần đầu tiên tôi gặp phải. Nếu thiếu Đức Tin tôi cũng đã trở thành một bệnh nhân Tâm Thần và điên nặng mất rồi! Năm ngoái, tôi có một người quen, anh bị bệnh tâm thần rất nặng gần một năm trời vì anh bị mất việc. Gia đình anh đã tốn biết bao nhiêu tiền để chạy chữa mới được trở lại bình thường. Một phần lớn tôi nghĩ anh được hết bệnh là nhờ vào lời cầu nguyện của rất nhiều người và là nhờ nhất vào Đức Tin của gia đình anh. Anh đã bị một cú sốc mạnh quá! chẳng qua vì hai vợ chồng vừa mới mua nhà và sắm sửa tốn rất nhiều tiền. Con đầu lòng thì mới vừa được 3 tháng. Trên đất Hoa Kỳ bệnh Tâm Thần chiếm một tỷ lệ rất cao. Chuyện dễ hiểu, dễ xẩy ra nhất, và nguyên do dễ bị thất đảm nhất, là bị thất nghiệp. Thất nghiệp thì bị mất nhà, mất vợ, mất con, mất xe, và mất cả trí nhớ, chả còn gì ngoài thân xác người không ra người ngợm chẳng ra ngợm.

Trong suốt thời gian chờ đợi sự định đoạt cho công việc của tôi, ở hay đi, không phải vì tôi dở, thiếu sót, thiếu trách nhiệm hay bị khiển trách gì trong công ăn việc làm của tôi, mà là vì tôi thương người và nể người không đúng chỗ. Tôi quá tin người và tin tất cả những lời người nói. Chính người đã là sự phiền muộn và gây rắc rối cho tôi. Cảm tạ Chúa! tôi đã chọn Tín Thác tất cả trong tay Chúa. Ở hay đi, cũng do Chúa định đoạt. Nếu cửa này đóng, tất cửa khác Chúa sẽ mở cho tôi. Nếu Chúa thấy sự ra đi của tôi là tốt cho tôi và cho tất cả mọi người, tôi sẽ theo ý Chúa. Nhờ Đức Tin vững vàng và mạnh mẽ trong tôi, Chúa đã chịu thua tôi và tôi đã thắng cuộc, và đã vượt qua được thử thách hãi hùng đó! Người xưa có câu Trời sinh voi sinh cỏ, hà huống chi con người, chả lẽ Chúa lại thương tôi ít hơn là các loài sinh động vật ư!

Chả phải đây là lần đầu tiên Chúa thử thách tôi. Cả đời tôi đã lớn mạnh nhờ những cuộc thử thách khác nhau. Mỗi một thử thách Chúa lại ban thêm cho tôi Đức Tin mạnh mẽ hơn để chống đỡ. Đức Tin là chính yếu, thiết yếu, là khiên thuẫn, là cứu tinh của tôi khi gặp thử thách. Chỉ cần tôi nhớ một điều là bất cứ việc gì tôi đã cố gắng hết sức mà không thành đạt, ngoài khả năng tôi, và ngoài tầm tay của tôi, tôi liền nhớ đến Chúa, luôn đọc kinh Mân Côi, chạy đến và cầu nguyện cùng Mẹ Maria nhờ Mẹ cầu thay nguyện giúp, dâng và phó thác cho Chúa tất cả để Chúa định liệu và sắp đặt cho tôi theo đường lối Chúa quy định, cho chương trình của Chúa, và nhất là cho được theo thánh ý của Ngài.

Lạy Chúa! Ước gì toàn thể nhân loại anh chị em chúng con, biết chạy đến Chúa luôn để cảm tạ, nguyện cầu và để xin ban cho Đức Tin mỗi ngày thêm lớn mạnh. Để lòng chúng con luôn hướng về Chúa là Đấng Toàn Năng, hằng ban cho chúng con sự sống sung mãn và mưu ích cho linh hồn chúng con, ngay tại đời này và cả đời sau. Amen.

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
03-02-2008

* Bài cũ trong mục “Tìm” trên trang của VietCatholic News