Em gọi tên Người, gọi khàn hơi,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Sáu Phục Sinh năm C 24/4/2016

                    Tin Mừng: (Ga 14: 23-29)

 Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

 Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”

 “Em gọi tên Người, gọi khàn hơi,”

Dư-âm dội, tâm nhói rã-rời.

                                     Khuya đã tàn dần, bình-minh đến,

                                      Hồn-nhiên lại hẹn, chẳng giữ lời.

                                       Để em hoài-vọng một niềm vui.”

(dẫn từ thơ Niệm Nhiên)

  Mai Tá lược dịch.

Gọi mãi tên Người, em gọi khàn cả hơi. Gọi từ khuya-khoắt tàn dần, chợt bình-minh đến. Gọi hồn-nhiên tên Người, để em về hoài-vọng một niềm vui. Niềm vui hứa tặng, nay Ngài giữ. Giữ trọn Lời, trình-thuật ghi rõ đến hôm nay.

Trình-thuật hôm nay, thánh Gioan-Tin-Mừng nói: Ngài giữ Lời. Ngài giữ lời Ngài đã hứa với hết mọi người. Với, cả đồ-đệ lẫn dân con nhà Đạo ở khắp nơi. Lời hứa ấy thánh-nhân ghi thế này: “Ai yêu mến Thày, thì sẽ giữ Lời Thày. Và, Cha Thày sẽ yêu mến người ấy. Và Cha Thày sẽ ở lại với người ấy.” (Ga 14: 23).

Lâu nay, người đời quan-niệm rằng: Yêu-thương không là cảm-xúc nhè nhẹ, chóng qua; nhưng là động-thái đích-thực xuất-phát từ tâm can con người, chẳng làm sao có thể thương được người nếu không thực-sự biết yêu. Trong ca nhạc kịch “My Fair Lady”, Eliza Doolittle có nói với Giáo-sư Higgins, là: “Chớ nói nhiều về tình-yêu, nhưng hãy xác-chứng.” Và, ai trong chúng ta cũng có thể bắt đầu tiến-trình yêu-đương ngay bây giờ. Đừng để người khác bắt đầu trước.

Với Đức Kitô, tình yêu thương Ngài đề cập, chính là động thái “yêu”. Yêu là tình hoàn chỉnh được thể hiện bằng việc “tuân giữ Lời”. Lời Ngài khuyên, không chỉ giới hạn nơi những ta gọi là “Mười điều răn” hoặc vào “tín lý” của Đạo. Các hành xử mang tính linh đạo ta có xưa nay, dù bao gộp rất nhiều điều, đã chắc gì do “yêu”, mà ra. Yêu là tuân giữ “Lời” của Chúa. Yêu, bao gồm trọn vẹn những gì ta hiểu về Ngài, qua Kinh Thánh.

Lời của Chúa. Việc Ngài làm. Tương quan Ngài vẫn có với con người ở trần gian, nhất nhất đều là “Lời”. Lời, cũng là nguyên tắc Ngài sống. Lời, là giá trị Ngài ban bố; là cách xử sự Ngài thường làm gương. Nhưng, trên hết mọi sự, đó là điều cốt thiết để kiến tạo Vương quốc của Ngài, ở trần gian.Đức Kitô chính là “Lời” của Chúa, bằng xương bằng thịt. Lời Ngài, không chỉ là những gì được biểu lộ ra bên ngoài từ miệng Ngài, mà thôi.

Nhưng, “Lời” Ngài xuất trọn từ cuộc sống của Ngài. Cuộc sống ấy, khởi đầu từ giây phút Hài Nhi Giê-su nằm lạnh run nơi chuồng bò rất hôi ở căn nhà làng Bét-lê-hem. Và, cuộc sống ấy ngang qua chặng đường rao giảng Nước Trời; kéo dài mãi cho đến phút giây tận cùng Ngài, bỏ mình trên thập tự.

Tuân giữ “Lời”, là ôm trọn lấy Ngài, cả khi vui cũng như lúc buồn. Tuân giữ Lời, là đồng hóa với Chúa, biến Lời thành hiện thực trong bối cảnh rất riêng, của đời mình. Có thể nói: “Lời” của Ngài đến với ta từ những hành xử, cùng kinh nghiệm ta có với cộng đồng thân thương, người nhà. Ở nơi đó, Đức Chúa vẫn cứ phán. Từ nơi đây, Chúa vẫn bày tỏ với ta, từng người một.

Chính, ngang qua cộng đồng thân thương nhà Đạo; cộng đồng, với mọi lỗi lầm sơ xuất, luôn xảy đến với rất nhiều lầm lỡ, mà Thần Linh Chúa đang tiếp tục nói. Ngài vẫn tiếp tục soi tỏ cho ta. Ngài soi sáng như đã từng tỏ bày ra với đồ đệ Đức Kitô, thời tiên khởi. Thần Linh Chúa soi sáng và tỏ bày không chỉ qua các vị Giáo hoàng, hàng giáo phẩm hoặc giới giáo sĩ, tu sĩ mà thôi; nhưng qua mỗi người và mọi người.

Bởi, tất cả đều là thân mình của Đức Kitô. Tất cả, từ già đến trẻ, nam nữ có học hay đã bỏ học, bạn bè hoặc kẻ thù nghịch. Không ngoại trừ một ai. Tất cả cần tuân giữ Lời. Cần nghe theo Lời.

Ngày nay, các đấng vị vọng thuộc cộng đồng dân Chúa được thôi thúc hãy biết nghe nhau. Nghe nhau, là lắng tai để ý đến toàn cộng đoàn dân Ngài. Hiến Chế Tông Đồ Giáo Dân, thời Công Đồng Vatican II, có đoạn 10, đã phán quyết: các tầng lớp giáo dân phải “triển khai thói quen đưa mọi vấn đề ra trước cộng đoàn giáo hội. Từ những vấn đề có tính cách riêng tư cá nhân, đến các vấn đề của thế giới và cả những vấn nạn về ơn cứu chuộc con người nữa, để rồi ta cùng nhau tìm hiểu và giải quyết chúng bằng các buổi thương thảo thường kỳ.”

Tuân giữ Lời, là cùng nhau ta thực hiện những việc chung, mà Ngài ủy thác cho hội thánh, ngay từ đầu. Cả những tập tục như: “cắt bì”, ăn đồ dâng cúng ngẫu tượng, kiêng thịt động vật không cắt tiết, tránh gian dâm, tránh đối kháng với các đổi thay như đã đề cập trong sách công vụ tông đồ, đọc hôm nay. Tuân giữ Lời, còn phải hiểu là các quyết định của Hội thánh “vốn được Thần Linh Chúa soi tỏ” có sự đồng thuận của mọi thành viên, là chúng ta. Là Hội rất thánh.

Tuân giữ Lời, còn vì Lời Ngài là Lời ta nghe được từ Đức Kitô. Thầy chính “từ Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”mà ra (Yn 14: 24). Và, tuân giữ Lời Thầy, là bởi vì: “Đấng Bầu Chữa là Thánh Thần, Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Chính Ngài sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ nhắc anh em nhớ mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Yn 14: 26). Và, dựa vào những gì đã và đang xảy đến với Hội thánh, quả nhiên Thánh Thần Chúa vẫn đang dạy ta biết tuân giữ Lời, thời đại này.

Và, vì Thánh Thần Chúa vẫn nói qua Hội thánh, nên rất nhiều thành viên trong cộng đồng dân Chúa, đã sống kinh nghiệm. Kinh nghiệm, biết thân thiện cởi mở để có đổi thay. Thay đổi tự căn bản, ngõ hầu sự thật và việc tuân giữ Lời trong thực tế, đều đi vào hiện thực. Và, thánh Phaolô cũng đã cảnh báo dân con cộng đồng nhà Đạo chớ có theo “đường xưa lối cũ” trở về với tập tục “cắt bì”, như thánh nhân đã có thư cho cộng đoàn (Ga 5: 1-6).

Hội thánh hôm nay, nhiều người vẫn muốn quay ngược kim đồng hồ, trở về với lề lối thói tục, thời đã qua bằng cách áp-dụng nhiều tập-tục cổ xưa. Áp đặt luật lệ trên người khác, như: trở về với thánh lễ bằng tiếng La tinh, là một ví dụ. Nếu cứ tiếp tục như thế, những người ấy sẽ tra tay dẫn dắt hội thánh về cuối đường hầm, không lối thoát. Thực tế, Hội thánh trước tiên là cỗ xe, một phương tiên qua đó các kinh nghiệm về tình thương yêu của Chúa được dàn trải dài rộng, cho toàn thế giới.

Hội thánh sống trung thực với Thánh Thần Chúa, phải tuân giữ Lời Thầy. Biết mở ra với thế giới bên ngoài. Bởi, như nhà thần học nọ từng nói: thế giới nay “đang viết lịch trình giùm Hội thánh.” Thành thử ra, biết lắng nghe tình cảnh của những người không-phải-là-Do thái vừa mới trở lại, Hội thánh nay nhận ra, rằng: Thánh Thần Chúa đang dẫn dắt mình qua nhiều giai đoạn.

Và, một khi Hội thánh trở nên một xã hội đóng kín, ưu việt và riêng lẻ, có những phán đoán không thể đảo ngược được và chỉ muốn ngồi trên số phần còn lại của thế giới, thôi; thì lúc ấy, Hội thánh không còn là Giáo hội do Đức Kitô thiết lập, nữa. Tức, không nghe và không giữ Lời Ngài.

Cùng nhau và từng người một, ta cần đề cao cảnh tỉnh về đường lối tuyệt vời qua đó Chúa sẽ đến với ta, vào thời buổi này. Mỗi ngày, chỉ tặng Chúa một chút thời gian và chỉ cần chịu ngồi lại thêm vài khoảnh khắc nữa, ta sẽ cảm nghiệm được khát vọng to lớn mà chia sẻ tình thương yêu xuất từ bên trong ta, đạt đến Chúa

Từ đó, tình thương sẽ bắt đầu từ chính ta, ra với người ngoài. Thật sự, Chúa vẫn muốn san sẻ với ta nhiều hơn nữa. San sẻ những gì Ngài có. San sẻ, những gì đích thực là Ngài. Và, vấn đề là: phần đông chúng ta ít có khi trao tặng Ngài dù chỉ một cơ hội, ngắn và gọn nhỏ. Xét cho cùng, yêu thương không là một động từ. Mà, đó là con đường ta vẫn chọn con đường hai chiều, dành sẵn với hành trang, để ta đi. Con đường rao truyền Lời của Chúa, có yêu thương đùm bọc rất kiên-cường.

Thực tế tuân giữ Lời hoặc “yêu mến Thầy”, vẫn là kinh nghiệm sống rất bổng trầm theo thời tiết “sáng nắng chiều mưa, trưa ủ giời”. Có những ngày, ta nghĩ mình không thể ngồi lại với Ngài thêm được khoảnh khắc nào, nữa. Vì, đang bị ràng buộc bởi nhiều thứ “công chuyện” rất bận. Dù gì đi nữa, Thầy vẫn ở lại với ta. Và, Thầy vẫn giữ Lời.

Vấn đề còn lại, là: ta sẽ đối xử ra sao với Người yêu dấu đã từng hứa. Và từng giữ Lời

Lm Richard Leonard sj

  Mai Tá lược dịch.

KHÔNG

KHÔNG

 Lang Thang Chiều Tím

Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn yêu em nữa em ơi.

Tình đời thay trắng đổi đen.  Tình đời còn lắm bon chen.
Tình đời còn lắm đam mê.  Nên tình còn lắm ê chề.

Tình mình có nghĩa gì đâu.  Tình mình đã lắm thương đau.
Tình mình gian dối cho nhau.  Thôi đành hẹn lại kiếp sau.

Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa.
Không!  Không!  Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa em ơi…..

Nguyễn Ánh 9

****************************************

Có lẽ không người Việt nào sống ở Sài gòn vào những năm 1969-1970 mà không biết đến nhạc phẩm “Không” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Bản nhạc ra đời như một câu trả lời cho thắc mắc của Khánh Ly: “Ông có còn thương người ấy?”  Người ấy là mối tình đầu khi nhạc sĩ mới 18 tuổi.  Hai người tình thơ trẻ bị cuốn vào niềm đam mê choáng váng và mãnh liệt.  Nhưng dường như là số phận, những mối tình quá đẹp, thường khó vẹn toàn.  Gia đình cô gái không đồng ý cho con mình yêu anh nhạc sĩ nghèo, sống lang bạt kỳ hồ.  Ngăn không được lòng đôi trẻ, cha mẹ cô dùng kế ly gián, gây nghi ngờ hờn giận cho hai người, rồi đưa cô gái sang Pháp sống, hòng ngăn cản mối tình “rồ dại” với chàng nhạc sĩ.

Năm 1965, người nhạc sĩ lập gia đình và tin tưởng những giông bão của mối tình đầu sẽ ngủ yên.  Nhưng thực tế, trái tim ông đã không còn cảm giác sau mối tình đầu, bởi tình yêu đã vĩnh viễn câm lặng.  Năm 1974, ông gặp lại người tình xưa khi cô về Sài Gòn, cô vẫn một mình, vẫn yêu ông và chẳng oán trách gì.  Đã lỡ làng, có xót xa thì cũng đành sống cho hết bi kịch một kiếp người.  Họ lại xa nhau, lần này là mãi mãi, để vùi chôn những dấu yêu xưa cũ vào đáy lòng mình, nhức buốt, cho tới hơi thở cuối cùng.

Ca khúc “Không” được Khánh Ly thu lần đầu trên đĩa nhựa Tình ca quê hương và cũng chính nhạc phẩm “Không” đã đưa Elvis Phương “lên sao” ở thập kỷ 70, sau đó nổi tiếng đến mức công chúng gọi Nguyễn Ánh 9 là ông “Không”.

****************************************

Ở hải ngoại, tôi thường được nghe bài“Không” đã được hòa âm (remix) lại sau này với điệu nhạc Disco giật gân, nhanh vui và dồn dập.  Trong đĩa video ca nhạc Asia, ca sĩ Mai Lệ Huyền đã lột tả tận chân chữ “không” của bài nhạc với khuôn mặt lạnh lùng, một cái ngoắt đầu qủa quyết, cái khoát tay mạnh mẽ, đôi môi mím chặt, thêm với ánh mắt hờn căm của kẻ bị tình phụ.  Tất cả được phụ họa thêm bằng những pha ánh sáng trắng đen chớp tắt liên hồi, tiếng trống chát chúa từng nhịp một.  “Không”, dứt khoát là không!  Không còn yêu thương, luyến tiếc!  Cũng chẳng tiếc thương chi mối tình đã lắm thương đau.  Dù chẳng biết ai gian dối với ai?  Dù chẳng hiểu mối tình đang đẹp sao trở thành “có nghĩa gì đâu?”  Ai là kẻ bon chen và gây ra lắm ê chề?  Chẳng hiểu vì sao, người nghe chỉ cảm nhận được một âm điệu “không” dứt khoát và rõ ràng.  Một tiếng “không” chát chúa chói tai!  Một tiếng “không” lạnh lùng bẽ bàng!  Không là không!  Trăm lần không, ngàn lần không!  Đừng hy vọng đợi chờ!  Đừng năn nỉ luyến lưu….  Nếu có chăng, chỉ là kiếp sau!  Nghe tiếng “không” mạnh mẽ quyết liệt này, thì dù chưa muốn chia tay, dù còn vấn vương, người yêu cũng đành phải ngậm ngùi ra đi…

Trong một dịp tình cờ tôi được đọc một bài phỏng vấn của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 về tác phẩm “Không” bất hủ này.  Thật ngạc nhiên khi khám phá ra cả một tâm tư thầm kín của tác giả gởi gắm trong hồn thơ nốt nhạc.  Đó không phải là một chữ “không” dứt khoát quyết liệt, bẽ bàng như người ta thường được nghe và hiểu sau này.  Bản nhạc nguyên thủy được soạn với điệu Slow Rock lả lướt, tình tứ du dương, tiếng nhạc réo rắt nhẹ nhàng diễn tả một chữ “không” đầy ẩn ý mời gọi.  Hiểu chữ “không” này như thế nào, điều đó tùy thuộc vào độ rung cảm của tâm hồn và nhịp đập của con tim.  Tim tôi và tim em, hai kẻ trong cuộc đã từng một thời yêu thương!  Với tác giả, đó là một chữ “không” giận lẫy, đầy trách móc nhưng không dứt khoát.  Một chữ “không” để hở!  Nói “không” nhưng không phải là “không!”  “Không” đó nhưng đầy hàm ý chờ đợi, đẩy em đi nhưng lại muốn kéo em về.  Mấy nốt cuối cùng của điệp khúc “tôi không còn yêu em nữa, em ơi…..” được kéo dài ra, luyến láy nói lên cái tâm tình xao xuyến chờ đợi, như dằng co, như muốn kéo áo người đừng đi.  Nếu tình đã gian dối, lắm thương đau, nhiều ê chề thì hẹn chi đến kiếp sau?  Mâu thuẫn!  Gian dối một kiếp, một đời chưa đủ hay sao?  Lúc giận nói thế, nhưng không phải thế!  Bởi còn yêu mới giận.  Nói “không” để lòng bớt đau, nói giận để lòng bớt thương, nói hận để lòng bớt nhớ!  Phủ định để tự khẳng định!  Người yêu có hiểu lòng kẻ nói “không”?  Người đi có hiểu lòng kẻ ở?  Nghĩa chữ “không” vời vợi đầy đau khổ, tuyệt vọng nhưng vẫn chờ đợi, oán trách nhưng vẫn yêu đậm sâu.  Ai kia nếu có hiểu mới gọi là yêu!

Chữ “không” bí ẩn của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 trong ca khúc “Không” đã được thế hệ sau hòa âm lại, hiểu theo nghĩa trắng đen của thời đại, nhưng lại lệch lạc với tâm tình của tác giả gởi gắm trong đó.  Cả một con tim sôi sục yêu thương được diễn tả bằng giọng hờn giận nhẹ nhàng của điệu nhạc Slow Rock tình tứ, trách đó nhưng yêu đó, giận đấy nhưng vẫn đợi đây đã được chuyển sang nhịp giật gân, dồn dập như hối thúc người ta đi cho lẹ, như muốn thanh toán mối tình cho xong để còn tính chuyện khác.  Cả một trời ẩn ý được che dấu dưới chữ “không” ai oán não nùng, nào có ai thấu hiểu nỗi lòng của kẻ nói chữ “không” nếu không được nghe chính tác giả tâm sự?

****************************************

Chữ “không” huyền bí nhiều ý làm tôi liên tưởng đến chữ “không” của Thiên Chúa.  Thưở ban sơ, Ngài đã nói “không”, con người sẽ phải chết và đuổi ra khỏi vườn địa đàng sau khi loài người phạm tội bất tuân.  Nhưng sau đó, Con Một của Thiên Chúa lại chết để con người được sống.  Quả là một chữ “không” mâu thuẫn!  Một cái chết ô nhục khổ đau trên thập tự đồi Golgotha năm xưa của Chiên Thiên Chúa đã nói lên bao điều.  Không những thế, Người Con Một đó đã đến thế gian truyền rao một thông điệp về tình yêu thâm sâu vô biên của Thiên Chúa Cha.  Rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Người Con Duy Nhất cho thế gian.  Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã dám thí mạng sống mình vì bằng hữu.  Ôi, một chữ “yêu” nhiệm mầu!  Một Thiên Chúa quyền năng sáng tạo muôn loài muôn vật từ hư không, nhưng lại bó tay “không” thể cứu chuộc con người nếu “không” có sự hợp tác của con người.  Một chữ “không” khó hiểu!

Thật không dễ dàng để đối diện với chữ “không” phũ phàng của Đấng mà mình đã đặt trọn tin yêu!  Đã bao lần, Thiên Chúa nói “không” với tôi trong cuộc sống này, mỗi khi tôi xin nhưng không được, tìm nhưng không thấy, gõ cửa nhưng không được mở.  Tôi phải hiểu nghĩa chữ “không” này như thế nào đây?  Xin thành công chỉ gặp toàn thất bại, xin Chúa chữa lành bịnh tật thì thấy bịnh nặng thêm, xin hạnh phúc lại gặp toàn khổ đau.  Xin cho đường đời êm ả bên những đứa con ngoan hiền thì gia đình tan tác, con cái vô đạo nghĩa.  Tại sao và tại sao?  Ngay cả khi tôi xin những điều tốt lành cho phần hồn mình và của những người thân thương, Thiên Chúa vẫn nói: “Không, chưa phải lúc!”

Thật không dễ dàng để thông hiểu chữ “không” đầy cay đắng của Thượng Đế quyền uy.  Tôi cần phải nhìn lên thập giá Chúa Giêsu, ngước mặt lên trời cao để nhìn thẳng vào ánh mắt của Đấng đã nói “không”, để hiểu tâm tình của Ngài đằng sau chữ “không” đáng ghét kia.  Thiên Chúa cũng đã từng nói “không” với Người Con duy nhất của Ngài trong vườn Cây Dầu.  Ngài đã “không” cất chén đắng cho Giêsu nhưng Ngài ban thêm sức mạnh và nguồn an ủi thiêng liêng cho Giêsu.

Trong phút giây đối đầu với sự chết, Chúa Giêsu cũng đã từng có tâm tình bị bỏ rơi bởi Người Cha yêu dấu, nhưng Ngài đã không bỏ cuộc và sau cùng Ngài đã chiến thắng.  Trong men cay chua chát của thất bại, lạ thay tôi nhận ra đức khiêm nhường trổ sinh hoa trái.  Trong thể xác ốm yếu bịnh hoạn, tôi thấy linh hồn mình tỉnh thức sống gần Chúa hơn.  Dãy dụa trong bể khổ, tôi thấy mình chán ghét thế gian hào nhoáng, lòng hướng về một hạnh phúc viên miễn hơn.  Đi trên đường đời gập ghềnh sóng gió, người mang đầy thương tích, tôi thấy mình bám chặt vào Chúa hơn và ngỡ ngàng nhận ra đức tin cậy mến của mình sáng rực như bó đuốc trong đêm đen.  Phải chăng qua chén đắng của chữ “không”, Thiên Chúa đang dạy dỗ tôi nhiều điều.  Ngài giúp tôi lớn hơn trong đời sống thiêng liêng và mở mắt tâm hồn tôi để nhìn thấy được những điều cao cả thuộc về thượng giới hơn?

Có lẽ khi chữ “yêu” kết hợp với chữ “không” sẽ giúp người trong cuộc hiểu rõ nghĩa từ thâm sâu huyền nhiệm của chữ “không” hơn.  Tùy theo mức độ “yêu” để hiểu nghĩa chữ “không”.  “Không” đi một mình thì thuần túy chỉ là “không” đúng nghĩa trắng đen, chẳng cần phải“yêu” cũng có thể hiểu.  Nhưng “không” đi với hơi thở của con tim, với ánh mắt tha thiết yêu thương, với độ rung cảm của linh hồn, chữ “không” chắc hẳn không còn là “không” nữa.  Người trong cuộc sẽ hiểu tại sao Thiên Chúa lại nói “không” với mình, khi Thiên Chúa đã dám cho đi cái qúy nhất của Ngài.  Chắc hẳn phải có lý do ẩn khuất đằng sau chữ “không” đắng chát kia.  Nghĩa chữ “không” vời vợi khó hiểu!  Có lẽ cần phải “yêu” nhiều hơn nữa mới có thể hiểu được chữ “không” của Thiên Chúa Tình Yêu.

Phêrô và Giuđa, cả hai cùng theo Thầy ròng rã ba năm trời, trực tiếp nghe những lời giáo huấn từ miệng Thầy, hiểu rõ tấm lòng yêu thương vị tha của trái tim Thầy.  Đến giây phút thử thách, cả hai cùng phản bội tình yêu của người Thầy yêu dấu.  Một người bán Thày cho các tư tế, còn một thì leo lẻo chối Thày giữa đám đông.  Với tình yêu, sự phản bội nào cũng xấu xa như nhau.  Cuối con đường, cả hai đã hoà âm lại chữ “không” theo hai nghĩa khác nhau.  Giuđa hiểu rằng Thầy đã nói “không” với mình.  Thế là hết, là xong mối tình thầy trò ba năm!  Không còn con đường nào khác cho kẻ phản bội, và ông đã tự mình đi đến ngõ cụt của chữ “không” lối thoát đó bằng cách tự tìm đến cái chết oan nghiệt.  Phêrô thì can đảm hơn để nhìn lên ánh mắt của Thầy và đọc được một sứ điệp trái ngược.  “Không, cho dù con xấu xa phản bội, Thầy vẫn yêu thương con.  Không, đừng bỏ đi, con ơi!  Cho dù con vấp ngã chối Thầy nhưng Tình Yêu chấp nhận cái tốt lẫn cái xấu.  Không, con phải đứng lên bằng chính đôi chân của mình!  Cho dù con phản bội nhưng Thầy vẫn thứ tha và chờ đợi…  Không, con không được bỏ cuộc!  Thầy và anh em vẫn cần con và mong con quay về….”  Thế là Phêrô cất bước trở lại với anh em, với sứ mạng Thầy đã giao phó và cuối cùng đã chết vì người Thầy mình đã một thời chối bỏ.  Phải chăng vì Phêrô yêu Thầy hơn Giuđa yêu Thầy, nên ông hiểu nghĩa chữ “không” đúng với tâm tình của Thầy hơn?

Hai cách hiểu chữ “không” khác nhau dẫn đến hai kết cục khác nhau.  Dù hai cách hiểu hay nghìn cách hiểu, ý tưởng của tác giả cũng chỉ có một.  Thiên Chúa là Đấng trung thành với lời hứa, với những gì Ngài đã nói.  Ngài hằng mong muốn nhân loại nhìn lên cái chết ô nhục đau thương của Người Con Một trên thập giá, để hiểu cho đúng ý nghĩa yêu thương của trời cao, để mỗi khi gặp phải chữ “không” lạnh lùng trong cuộc sống thì đừng vội tuyệt vọng chán nản, đừng vội bỏ cuộc và đừng bao giờ diễn dịch chữ “không” cao siêu nhiệm mầu của Thiên Chúa theo ý phàm tục riêng mình.  Tác giả Nguyễn Ánh 9 trong bài phỏng vấn đã kêu gọi ca sĩ khi trình bày nhạc phẩm “Không”, hãy tôn trọng tâm tình của người viết nhạc và linh hồn bài hát.  Ca sĩ là người dùng nghệ thuật âm nhạc, giọng hát, cách diễn đạt để lột tả cho trọn vẹn ý tưởng của tác giả gởi gắm trong ca khúc đó chứ không phải phiên dịch lại theo ý mình.  Cùng là một thân phận nghệ sĩ, chắc hẳn Thiên Chúa cũng có một tâm tình như nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.  Mong sao thế nhân hiểu cho đúng, diễn tả cho trọn cái tâm tình của Thiên Chúa gởi gắm trong những tác phẩm nghệ thuật của Ngài, mà đỉnh cao của những tác phẩm nghệ thuật đó chính là cây thánh giá cheo leo trên đồi Golgotha năm xưa và Lời Yêu Thương được gói ghém trong cuốn Thánh Kinh.

Qua tình khúc “Không” của điệu Slock Rock, người nghe cảm nhận được nỗi đau, vị chát, men cay, sự thất bại ê chề của người nói chữ “không,” hơn là kẻ được nghe chữ “không.”  Mâu thuẫn thay, tôi lại cảm nhận được nỗi tuyệt vọng cay đắng của người nghe chữ “không,” nhưng chưa bao giờ tôi thử tìm hiểu xem cõi lòng của Thiên Chúa ra sao khi Ngài phải nói chữ “không” với tôi!  Đến bao giờ tôi mới hiểu được tâm sự của người nói chữ “không?”  Chẳng biết tôi có thể hiểu được hay không, khi tôi cứ mãi gục xuống trong cơn đau của mình?

****************************************

KHONG

Lạy Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu mọi sự, con viết bài này cho vơi bớt cơn đau,  cho quên nỗi ưu phiền vì Chúa cũng đang nói “không” với con trong lúc này đây.  Linh hồn con đang bên bờ tuyệt vọng vì không hiểu sao Chúa cứ mãi nói “không!”  Con không muốn xin gì thêm nữa vì đã quá mỏi mệt, vì dư âm đắng ngắt của chữ “không” vẫn còn đọng nơi đầu môi.  Con chỉ xin một điều duy nhất là cho con biết luôn cậy trông và phó thác vào tình yêu thẳm sâu nhiệm mầu của Chúa.  Gọi là nhiệm mầu vì đôi lúc con không hiểu được tình yêu đó.  Phần còn lại, Chúa muốn cho gì thì cho, vì Chúa đã trao ban Người Con duy nhất của Ngài cho con rồi thì chắc Chúa chẳng tiếc gì những thứ khác nữa.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím

ĐỂ LINH HỒN BẮT KỊP MÌNH

ĐỂ LINH HỒN BẮT KỊP MÌNH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Đôi khi, không có gì hữu ích cho bằng một ẩn dụ tốt.

Trong quyển sách Bản năng Thiên Chúa (The God Instinct) của mình, Tom Stella đã chia sẻ câu chuyện này: Một ngày nọ, vài phu khuân vác được thuê vận chuyển một khối lượng lớn hàng tiếp tế cho một nhóm thợ săn.  Các gói hàng này nặng bất thường và đường mòn qua rừng già lại rất khó đi.  Sau vài ngày đi đường, họ dừng lại, dỡ hàng xuống và không chịu đi nữa.  Không một lời nài nỉ, đe dọa nào có thể thuyết phục họ tiếp tục hành trình.  Khi được hỏi vì sao không thể đi tiếp, họ trả lời: “Chúng tôi không thể đi tiếp, chúng tôi phải chờ cho linh hồn mình bắt kịp đã.”

HINH ANH

Chuyện này cũng có xảy ra trong cuộc sống chúng ta, ngoại trừ việc hầu như không bao giờ chúng ta chờ đợi cho linh hồn bắt kịp mình.  Chúng ta cứ tiếp tục mà không có linh hồn, có khi là suốt nhiều năm ròng.  Vậy nghĩa là gì?  Gần như là chúng ta nỗ lực để ở trong thời khắc hiện tại, để thoải mái với chính mình, để ý thức được sự phong phú trong cảm nghiệm của bản thân.  Gần như là các cảm nghiệm của chúng ta không thuộc phần hồn cho lắm, bởi chính chúng ta không hiện diện với nó.  Ví dụ như:

Trong 20 năm vừa qua, tôi viết hằng ngày, kiểu như nhật ký vậy.  Ý tôi là muốn giữ thói quen này để ghi lại những sự thâm sâu mà tôi nhận thức ngày qua ngày, nhưng cuối cùng, những gì tôi thực sự viết ra lại giống như một biên niên sử đơn giản của ngày sống, một quyển đơn thuần kể lại những gì tôi đã làm hết giờ này đến giờ khác mà thôi.  Nhật ký của tôi chẳng giống gì với nhật ký Anne Frank, quyển Marking của Dag Hammarskjold, quyển Một cuộc đời rối loạn của Etty Hillesum, hay Nhật ký Genesee của Henri Nouwen.  Bút ký của tôi giống với những gì mà một cậu bé trung học viết ra mô tả một ngày ở trường hơn.  Nhưng khi lật giở và đọc lại một bài, tôi luôn luôn kinh ngạc thấy ngày sống hôm đó thật phong phú và trọn vẹn, ngoại trừ một việc là lúc viết ra nó tôi đã không nhận ra điều này.  Trong khi đã thực sự sống qua những ngày như thế, vậy mà hiện nay tôi vẫn vất vả cố gắng để hoàn thành công việc, để được lành mạnh, để theo kịp các kỳ vọng, để có được những thời khắc thân ái và sáng tạo giữa các áp lực thường nhật, và để đi ngủ cho đúng giờ giấc.  Trong phong cách này, không có nhiều phần hồn cho bằng một đống lịch trình, công việc và vội vã.

Tôi ngờ rằng điều này không phải là không điển hình chung.  Tôi ngờ rằng hầu hết chúng ta, sống hầu hết ngày sống mà không nhận ra cuộc sống của mình phong phú biết bao, và như thế cứ luôn mãi để cho linh hồn bị tụt lại phía sau.  Ví dụ như, nhiều phụ nữ mất 10 hay 15 năm cho việc nuôi dạy con cái, luôn mãi chăm lo cho nhu cầu của một người khác, nửa đêm thức giấc để lo cho đứa con, 24 tiếng một ngày luôn trong tình trạng túc trực, hi sinh hết thời gian vui thú của mình và tạm gác sự nghiệp cùng sáng tạo của mình qua một bên.  Và cũng rất thường là người phụ nữ đó, khi nhìn lại những năm tháng này và mong mỏi có thể lấy lại.  Nhưng khi nhìn theo một cách xúc cảm phần hồn hơn, người đó nhận thức rõ rệt rằng thật tuyệt vời và đặc ân khi được làm những gì mình từng làm với sự chán chường và bức xúc.  Nhiều năm về sau, nhìn lại, cô sẽ thấy cảm nghiệm này của cô thật phong phú và quý báu, và cũng sẽ thấy thời đó cô đã để quá ít phần hồn vào những gì mình đã thực sự trải qua.

Điều này có thể có hàng ngàn ví dụ.  Chúng ta tất cả đều từng đọc đâu đó những chia sẻ về việc mình sẽ sống khác đi nếu được sống lần nữa.  Hầu hết câu chuyện như thế để có cùng một môtíp chung.  Nếu có cơ hội khác, tôi sẽ cố gắng tận hưởng cuộc đời hơn, nghĩa là tôi sẽ cố gắng để hồn hơn và ý thức hơn vào chuyện đó.

Tôi e là với hầu hết chúng ta, linh hồn sẽ chỉ bắt kịp chúng ta khi tuổi già, khi sức khỏe sinh lực và cơ hội làm việc dần tan biến.  Có vẻ như trước hết chúng ta cần phải mất đi điều gì đó trước khi trân trọng nó cho trọn vẹn.  Chúng ta có khuynh hướng xem sức khỏe, sinh lực và công việc là chuyện mặc định, cho đến khi chúng xa rời chúng ta.  Chỉ sau khi đó, chúng ta mới nhận ra cuộc sống của mình thật phong phú biết bao, và nhận ra rằng thời đó, chúng ta đã kín múc sự phong phú đó ít ỏi dường bao.

Linh hồn của chúng ta cuối cùng cũng bắt kịp chúng ta, nhưng sẽ thật tốt nếu chúng ta không để cho đến khi vào viện dưỡng lão mới có được điều này.  Cũng như các phu khuân vác đã để các thùng hàng xuống và dừng bước, thì chúng ta cũng cần đều đặn dừng lại và chờ cho linh hồn bắt kịp mình.

Khi mới làm linh mục, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đảm trách một trường học.  Và mỗi ngày, một thời điểm nào đó, ngài lại có một vài lời qua loa phóng thanh, chen ngang vào những việc đang diễn ra trong từng lớp học: Hãy biết ơn.  Định hình tầm nhìn của mình. Hãy dùng ngày sống của mình.

Tất cả chúng ta, ai cũng cần để cái gánh nặng xuống trong một phút, để cho linh hồn có thể bắt kịp mình.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Nào đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?

 “Nào đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?”

Nào đâu có kiếp sau, đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Lưu Trọng Văn – Trăm Năm Bến Cũ)

(1Gioan 3: 23-24)

           Trần Ngọc Mười Hai

Tư-tưởng này, bất chợt đến với bần-đạo sau khi nghe cô em dâu hát lên lời hát của Lưu Trọng Văn trong buổi Hát Cho Nhau Nghe hôm 5/3/2016 ở Sydney.

Tư-tưởng này, đã trở về với bần đạo cũng, sau khi nghe tin …tức từ vị chóp bu Đạo Chúa ở Rôma hôm rồi, rằng:

 “Hôm 21-1-2016, Phòng báo chí Tòa Thánh đã phổ biến thư của ĐTC Phanxicô gửi ĐHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích, để thông báo quyết định về vấn đề này, và Sắc lệnh của Bộ Phụng tự thay đổi qui luật trong sách lễ theo cùng chiều hướng trên đây.

 Thư của Đức Giáo Hoàng gửi Hồng Y Sarah ký ngày 20-12-2014 có đoạn viết: ”Sau khi suy nghĩ chín chắn, tôi đi đến quyết định du nhập một sự thay đổi trong qui luật của Sách Lễ Roma. Vì thế, tôi qui định thay đổi qui luật theo đó những người được chọn để được rửa chân phải là đàn ông hoặc trẻ nam. Từ nay các vị mục tử của Giáo Hội có thể chọn những người tham dự nghi thức rửa chân trong số tất cả các thành phần dân Chúa. Ngoài ra, nên giải nghĩa thích đáng cho những người được chọn về ý nghĩa nghi thức rửa chân”.

 Trong Sắc Lệnh ký ngày 6-1-2016, Hồng Y Sarah và Đức TGM Tổng thư ký Arthur Roch của Bộ nhắc lại rằng cuộc cải tổ nghi thức Tuần Thánh với Sắc lệnh ”Maxima Redemptionis nostrae mysteria” (Các Mầu nhiệm quan trọng nhất của ơn cứu chuộc chúng ta, ngày 30-11-1955) cho phép cử hành nghi thức rửa chân cho 12 người đàn ông trong Thánh Lễ kỷ niệm Chúa lập phép Thánh Thể.. Khi cử hành nghi thức ấy, các GM và LM được mời gọi trở nên đồng hình dạng trong tâm hồn với Chúa Kitô, ”Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 20,28), và được tình yêu ‘đến cùng’ (Ga 13,1) thúc đẩy, hiến thân cho phần rỗi của toàn thể nhân loại.

 Sắc lệnh nhắc đến quyết định của Đức Phanxicô thay đổi qui luật đó và qui định rằng ”Các mục tử có thể chọn một nhóm như các tín hữu đại diện mỗi thành phần dân Chúa. Nhóm nhỏ ấy có thể gồm cả đàn ông lẫn phụ nữ, người trẻ, người già, người lành mạnh và bệnh nhân, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân”.

 Do năng quyền Đức Giáo Hoàng ban, Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích du nhập sự đổi mới này vào trong các sách phụng vụ và nhắc nhớ các vị mục tử về nghĩa vụ giáo huấn thích hợp cho các tín hữu được chọn (rửa chân) cũng như cho những người khác, để họ tham gia nghi thức này một cách ý thức, tích cực và nhiều thành quả”. (X. Lm G. Trần Đức Anh OP, Radio Vaticana 21.01.2016)

 Đọc tin…tức từ đấng bậc chóp bu, bần đạo bầy tôi chạnh nhớ thân phận người nữ-phụ ở Hội thánh. Chạnh lòng rồi nhớ đến nhiều lời bình về sự việc này, trong đó có lời của đấng bậc vị vọng như sau:

“Thánh tổ-phụ Giêrônimô có lần nói: “Khi một nữ-phụ ao-ước được phục-vụ Đức Kitô nhiều hơn cả và thế-gian này, thì khi ấy chị sẽ thôi không còn là phụ-nữ nữa và người ta sẽ gọi chị là nam-nhân.”

 Huyền-thoại Do-thái-giáo khi xưa ta biết được là nhờ sách Sáng Thế Ký được mở để nói rằng Kinh thánh hiểu rõ rất nhiều sự/việc. Huyền-thoại Do-thái-giáo có mục-tiêu diễn-giải điều đó là những gì. Là bảo rằng: nam-nhân là những người mà ta không còn ngờ-vực gì nữa, từng hun-đúc nên các chuyện bí-nhiệm thần-thoại như thế. Để rồi, cuối cùng ra, đã ghi-chú các sự/việc này , do bởi các nữ-phụ trong xã-hội ấy không được tiếp-cận với thứ quyền-lực để diễn-giải mọi sự về Thiên-Chúa và/hoặc cũng chẳng có khả-năng để viết lách và diễn-giải nữa.

 Thêm vào đó, phụ-nữ xưa nay vẫn bị mọi người nghĩ rằng: các chị không thích bon chen tìm hiểu và/hoặc hiểu/biết gì về mọi thứ và cả những thực-tại xảy ra cùng sự thật của các sự-kiện từng xảy ra, nữa. Thế nên, phụ-nữ nói chung không gây ảnh-hưởng nào hết cách trực-tiếp lên các trách-nhiệm này/khác về văn-hoá. Là phụ-nữ, các chị cũng chẳng có quyết-định ban đầu nào khả dĩ có thể tạo hình-hài cùng khuôn-thước về bản-chất của bất cứ sự gì. Các chị cũng không tham-gia dự-phần vào bất cứ tiến-trình tạo quyết-định về sự việc nào hết.

 Thành thử, ai trong chúng ta cũng chẳng lạ gì khi thấy các truyện-kể hoặc bài viết do nam-nhân viết hoặc tạo hình-hài ở Kinh-thánh đều tìm câu trả lời cho thắc-mắc hỏi rằng: làm sao ác-thần/sự dữ lại đi vào công-cuộc tạo-dựng rất tốt đẹp của Thiên-Chúa được. Câu trả lời vẫn có thể có từ lời tuyên-bố bảo rằng: sở dĩ có chuyện đó là do lỗi của thụ-tạo “dưới-cơ con người” do Thiên-Chúa tạo ra để thoả-mãn nhu-cầu của nam-nhân đầu đời. Và ác-thần/sự dữ ấy có tên là nữ-nhân-đầu-đời, tên Evà…”  (Xem thêm Tgm John S. Spong, The Woman as the Source of Evil trong The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers 2005 tr. 87-93)

Nghe các đấng bậc biện-luận với nhau như trên, bần đạo chẳng biết làm gì hơn, là: lại quay về với nhạc-bản của nghệ sĩ họ Phạm phối nhạc cho bài thơ của Lưu Trọng Văn, vẫn hát thêm:

“Trăm năm đầu lỗi hẹn hò,

Chứ cây đa bến cũ, con đò khác đưa…

Thôn-nữ CHỊ, đã qua cầu, thóc lép,

Thôn-nữ EM, như trăng tuột khỏi chồi tay,

Thôn-nữ ÚT, đã lên đòng, nào ai biết.

 Khúc tình xưa, xưa ấy đã xưa rồi,

Con chuồn chuồn không lung nhùng trong mạng nhện.

Con bướm vàng nằm xoài dưới chân anh.

Một vùng trăng cỏ non như níu áo

Ngọn tre xanh đủng đỉnh muộn màng

Á a á a a…

A á ạ à Á à à a…

(Phạm Duy/Lưu Trọng Văn – bđd)

Cũng trong đêm nhạc này, trong hai bài phổ nhạc của nghệ-sĩ Phạm-Duy, bài “Cô Hái Mơ” là bài viết đầu tay của ông và bài “Trăm Năm Bến Cũ” được viết vào cuối đời trong đó tác-giả gói-ghém tâm-sự “Ngày trở về” sau khi đọc bài thơ của Lưu-Trọng-Văn có đầu đề là “Nào Đâu Có Trăm Năm, Mà Chờ Mà Đợi”, rất đúng ý.

Vâng. Ở nhạc-bản trên, chỉ mỗi câu ngâm “Á a à à a ..” thôi, thì tôi và bạn nghe qua cũng đã hiểu. Hiểu rất nhiều, về thân-phận người nữ-phụ, xưa nay. Nói đúng hơn, nữ-phụ khi xưa thì như thế. Còn, phụ-nữ hôm nay, rày đã khác. Khác rất nhiều. Khác, hơn xưa khi người người góp mặt biểu đồng tình với người chị/người em ở thánh hội. Như, lời đấng bậc khác, từng diễn tả như sau:

“Chuyện người nữ-phụ lấy tóc lau chân Đức Giêsu… cho thấy một sự thật. Sự thật là, người nữ-phụ xử-sự theo cách hối-lỗi rất thật-tình và tha-thiết, nên chị ta có được kết quả là đạt được lòng mến tràn đầy từ Đấng có quyền thứ-tha. Ngài tha-thứ, nhưng không phô-trương uy-quyền được Cha Ngài ban. Trái lại, sự việc cải-hối và niềm tin nơi nữ-phụ ở đây đã đem lại cho chị ơn tha-thứ…

 Xã-hội hôm nay, thấy rất nhiều người làm quấy dù chỉ một lần trong đời, nhưng vẫn bị người đời tặng cho mình nhiều mũ-chụp, suốt quãng đời còn lại, của chính họ, dù họ thật tình muốn chỉnh-sửa. Thiên-Chúa không xử-sự với con người như loài người vẫn xử-sự với nhau, và cho nhau. Chúa xử-sự với con người theo tình-thế của họ ở đây, bây giờ. Quá-khứ của con người không quan-trọng đối với Chúa. Quan-trọng chăng, chỉ mỗi điều, là: nay ta sống thế nào, mà thôi. Nay, ta xử-sự ra sao với các nữ-phụ dù họ có phạm lỗi hay không. Ta có xử sự với các nữ-phụ trong tương-quan với mọi người đúng theo tinh-thần Chúa khuyên-dạy hay không mà thôi.

Trong một thế-giới mà nam-nhân hoàn-toàn khuynh-loát và làm chủ, thì nữ-phụ xưa nay vẫn bị chê-trách rất nhiều chuyện, kể từ ngày chị được tác-tạo thành con người đến hôm nay. Giả như có tên du-thủ du-thực nào đó phạm tội hãm-hiếp phụ-nữ, thì mọi người trong thế-giới nam-nhân sẽ bảo rằng: sở dĩ có chuyện này, là vì chị ta lôi-cuốn anh ấy qua cách ăn mặc rất kích-dâm hoặc lôi cuốn. Nếu có nam-nhân nào đó từng xách-nhiễu một nữ-phụ đơn-sơ/trong trắng nào đó, thì họ lại cũng bảo rằng sở dĩ có chuyện này là do chị ấy gây chuyện rồi kích-động trước, thế thôi.

 Giả như ông chồng nọ quyết ly-dị vợ mình, ắt hẳn cũng vì chị vợ nay thành loại người mà anh tự thấy mình không còn có thể chịu đựng nổi chị ấy nữa. Giả như nữ-phụ nào có khả năng chơi được trò chơi dành cho nam-nhân, thì chị ấy sẽ bị đè bẹp/vùi-dập bằng những lời xách-mé/xỉa xói nói cho hay cho tốt sẽ bảo rằng: cô ấy là thứ đàn-bà trơ-tráo không biết e-thẹn là gì, hoặc tệ hơn, lại sẽ nói: cô bé này đúng là con chó cái, thế thôi.

 Và, giả như chị phải vận-dụng mọi kỹ-năng hoặc tay nghề thực-sự mới được thế, thì thiên-hạ lại sẽ bảo là chị ta đang sử-dụng “mọi thứ của phụ-nữ” mới đạt được điều mình mong muốn có kết-quả.

 Tất cả những điều này tiếp-tục mẫu-mã dựng chuyện cho câu truyện kể về Vườn Địa Đàng, trong đó nhân-vật Evà là nguyên-nhân gây nên đổ-vỡ cho am-nhân. Chị là người hoàn-toàn trách-nhiệm trong việc đưa ác-thần/sự dữ vào với thế-giới nhân-trần. Đây là truyện kể tuyệt-vời, nhưng vẫn chỉ là: một câu truyện kể, thế thôi. Thật sự, thì: đây chỉ là truyện dụ-ngôn qua đó bậc tiên-tổ của ta khi xưa vẫn tìm cách bắt-chộp “sự thật” về sự hiện-hữu của các ngài, mà thôi.

 Và, các truyện kể ở Kinh thánh lâu nay mang tính thần-thoại mà nhiều người gọi là huyền-nhiệm hay bí-nhiệm để nói lên một sự việc gì đó mà một số người gọi là “thần-học Giao-ước” giữa Thiên-Chúa và loài người. Thần-học này, lâu nay vẫn coi nữ-giới là “kẻ cám dỗ” nam-nhân vốn dĩ là những người đáng quí đáng trọng. Theo đó, nữ-giới vẫn bị gọi là thứ “cây rái cấm-kỵ” kích thích lòng ham/muốn nơi cơ-thể của nam-nhân.

 Vì thế nên, phụ-nữ xưa nay vẫn “bị” định-nghĩa là người đồi-bại và làm sa-đoạ tính thánh-thiêng của người phàm. Các chị còn bị chê-trách coi như nguyên-nhân tạo cho nam-nhân mất đi uy-quyền của chính họ. Từ khi có truyện kể dụ-ngôn này, văn-hoá Đạo Chúa ở phương Tây bị nối-kết với khuynh-hướng xa lánh phụ-nữ, tức: diễn-tả mọi thứ thánh-thiêng theo nghĩa không giới-tính.

 Cũng từ đó, tính trinh-trong của phụ-nữ và khiết-tịnh ở nam-giới đã trở-thành phương-cách để mọi người tự thánh-hoá đời sống, theo phương-cách cao hơn. Cả đến hôn-nhân cũng bị nhiều người định-nghĩa như một châm-chước/nhượng-bộ tội-lỗi, tức: phương-án chọn-lựa dành cho những người yếu kém về nhiều thứ.

 Một trong các vị thánh từng chuyển-dịch Kinh Thánh là thánh Giêrônimô vẫn được bảo là vị thánh từng thấy khó xử trong chuyển-dịch, khi thấy rằng khiá-cạnh độc-nhất mang tính cứu-độ của hôn-nhân là ở chỗ việc này “sản-xuất ra nhiều trinh-nữ hơn nữa”. Và tuyên-bố này vẫn khiến nhiều người khó mà tin được sự việc lại có thể như thế.

 Như thế, tức bảo rằng: phụ-nữ thật sự là sự dữ/ác-thần tận cốt lõi. Đó là thông-điệp xuất tự người gửi là Hội-thánh Đức Kitô và thông-điệp này được đặc-biệt tạo-tác xuất từ dụ-ngôn truyện kể về vườn Địa Đàng có Evà là hiện-thân của sự dữ.” (Xem Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Lời Ngài Chúa Nhật thứ 8 Mùa thường niên năm C, nxb Tôn Giáo 2012, tr. 138)

Đó, chính là vấn-đề. Vấn-đề, là ở chỗ: ta xử-sự với các nữ-phụ có cùng kiểu, đồng quyền và theo cùng cung-cách như vẫn làm với người khác, chí ít là những người khác khác chính-kiến, khác lai-lịch hoặc khác cả giới-tính, nữa hay không mà thôi.

Và, vấn-đề còn lại đặt ra cho mọi người, là: ta đối-xử với nữ-phụ trong/ngoài Giáo-hội có theo khuôn-khổ của sự tự-do con cái Chúa, hay không? Hỏi thế, không phải để có được một trả lời ngay tức khắc cho mình và cho người. Hỏi như thế, tứ: chỉ hỏi để mà hỏi. Hỏi, để kiếm tìm một hình-thức sống sao cho vui tươi, phúc hạnh và phải lẽ.

Thế nên, để mọi người, nam cũng như nữ, được sống vui-tươi/hài hoà với nhau, tưởng cũng nên về với truyện kể nhè nhẹ trong đó có những cử chỉ cũng nhè nhẹ nhưng vui/đẹp của người nữ-phục đã biết nhưng chưa quen, vẫn vui sống, như sau:

 “Có một chàng trai bị bệnh ung thư. Chàng mới 19 tuổi, nhưng có thể chết bất kì lúc nào vì căn bệnh quái ác này.Suốt ngày, chàng trai phải nằm trong nhà, được sự chăm sóc cẩn thận đến nghiêm ngặt của bố mẹ. Do đó, chàng trai luôn mong ước được ra ngoài chơi, dù chỉ một lúc cũng được.

 Sau rất nhiều lần năn nỉ, bố mẹ cậu cũng đồng ý. Chàng trai đi dọc theo con phố- con phố nhà mình mà vô cùng mới mẻ- từ cửa hàng này sang cửa hàng khác. Khi đi qua một cưả hàng bán CD nhạc, chàng trai nhìn qua cửa kính và thấy một cô gái. Cô gái rất xinh đẹp với một nụ cười hiền lành – và chàng trai biết đó là “tình yêu từ ánh mắt đầu tiên”. Chàng trai vào cửa hàng và lại gần bàn cô gái đang ngồi. Cô gái ngẩng lên hỏi:

-Tôi có thể giúp gì được cho anh ?

 Cô gái mỉm cười, và đó là nụ cười đẹp nhất mà chàng trai từng thấy.

-Ơ…,chàng trai lúng túng.

-Tôi muốn mua một CD…

Chàng chỉ bừa một cái CD trên giá rồi trả tiền.

-Anh có cần tôi gói lại không? Cô gái hỏi, và lại mỉm cười.

Khi chàng gật đầu, cô gái đem chiếc CD vào trong.

Khi cô gái quay lại với chiếc CD đã được gói cẩn thận, chàng trai tần ngần cầm lấy và đi về.

 Từ hôm đó, ngày nào chàng trai cũng tới cửa hàng, mua một chiếc CD và cô gái bán hàng lại gói cho anh. Những chiếc Cd đó, cháng đem về nhà và cất ngay vào tủ. Anh rất ngại, không dám hỏi tên hay làm quen với cô gái. Nhưng cuối cùng, mẹ anh cũng phát hiện ra việc này và khuyên anh cứ nên làm quen với cô gái xinh đẹp kia.

 Ngày hôm sau, lấy hết can đảm, chàng trai lại đến cửa hàng bán CD, rồi khi cô gái đem chiếc CD vào trong để gói, anh đã để một mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của mình lên bàn.

Rồi anh cầm chiếc CD đã được gói- như tất cả mọi ngày- đem về. Vài ngày sau…

Reeeeeeeeeeeeeeng!!!.

Mẹ chàng trai nhấc điện thoại:

-Alô!?

 Đầu dây bên kia là cô gái ở cưả hàng bán CD. Cô xin gặp chàng trai nhưng bà mẹ òa lên khóc:

-Cháu không biết sao ? Nó đã mất rồi…hôm qua…

Im lặng một lúc. Cô gái xin lỗi, chia buồn rồi đặt máy.

Chiều hôm ấy, bà mẹ vào phòng cậu con trai. Bà muốn sắp xếp lại quần áo cuả cậu, nên đã mở cửa tủ.

Bà sững người khi nhìn thấy hàng chồng, hàng chồng CD được gói bọc cẩn thận, chưa hề được mở. Bà mẹ rất ngạc nhiên, cầm một cái lên, mở ra xem. Bên trong lớp giấy bọc là một chiếc CD cùng với một mảnh giấy ghi: ” chào anh, anh dễ thương lắm-Jacelyn”.

 Bà mẹ mở thêm một cái nữa. Lại thêm một mảnh giấy ghi: “Chào anh, anh khoẻ không? Mình làm bạn nhé? – Jacelyn”

Một cái nữa, thêm nữa… trong mỗi cái CD là một mảnh giấy…..”

Và, lời bàn “Mao Tôn Cương” từ người kể, vẫn bảo rằng: “Trong mỗi cử chỉ đều có thể tiềm ẩn một món quà. Giá như chúng ta đừng ngần ngại mở tất cả những món quà mà cuộc sống đem lại.”

Thật ra thì, có những thứ quà không cần mở cũng biết rằng: quà ấy thật vô giá như quà tặng Thượng Đế biếu/tặng ta trong cuộc đời người. Đó là, sự hiện-diện của mọi nữ-phụ ở quanh ta. Nữ-phụ ấy, có thể là mẫu-thân, là vợ, người chị hoặc em gái, con/cháu rất nữ-giới. Quà nào cũng vui cũng quý-giá như sự sống đích-thật của mọi người.

Kể thế rồi, nay lại cũng mời bạn và tôi, ta đi vào vùng trời có lời vàng của Đức Chúa, vẫn nhủ/khuyên rất nhiều lần, như sau:

“Này là lệnh-truyền của Thiên-Chúa:

Ta phải tin vào Danh Con của Ngài,

Đức Giêsu Kitô,

Và, yêu mến nhau

như Ngài đã truyền lệnh cho ta.

Và, ai giữ lệnh-truyền của Ngài,

thì lưu lại trong Ngài

và Ngài ở trong kẻ ấy.

Và, điều này ta biết được, là:

Ngài lưu lại ở trong ta,

do tự Thần-Khí Ngài đã ban cho ta.”

(1Ga 3: 23-24)

Thần-Khi Ngài ban cho ta, ở trong ta, thì làm sao ta và người lại cứ khinh-chê, coi rẻ các nữ-phụ, trong đời. Khinh và chê, như thể họ không là người như mình. Khinh và chê, như thể người người vẫn đối-xử với các nữ-phụ như từng đối-xử với người hành-tinh xa lạ, chẳng có tình người của người cùng một hành-tinh.

Làm sao chứng-thực được rằng: Thần-khí Ngài ở trong ta, khi ta đối xử với nhau không đồng đều. Vẫn cứ tạo ranh-giới, rào cản và kỳ-thị. Kỳ-thị nam nữ rất tranh-giành. Và, đó chính là mấu chốt của mọi đối xử rất bất-công, không đồng đều, một đối-xử không phải của người hành-tinh, rất địa cầu này.

Vậy, tưởng cũng nên coi lại lề-lối sống với nhau trong hài-hoà/yêu-thương không đợi chờ gì, huống hồ là “trăm năm”.

Vâng, quyết thế rồi, tưởng cũng nên hát lên ca-từ nay trích-dẫn để có lập-trường sống kiên-định rằng:

“Nào đâu có trăm năm,

mà chờ mà đợi?”

Nào đâu có kiếp sau,

đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?

Đất MẸ, đất NÀNG, con sáo sang song.

Đất MẸ, đất NÀNG, con sáo sang sông.

 Trăm năm bến cũ, có còn đó không?

Còn đó không?

Cây đa bến cũ còn lưa,

Bến cũ còn lưa

O đò năm trước đi mô không về…”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Văn – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những câu hỏi

rất như thế

vẫn lảng vảng

trong đầu mình

suốt mọi ngày.

Tình nhân-thế chua cay, người lịch-duyệt,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ Năm Phục Sinh năm C 24/4/2016

                             Tin Mừng: (Ga 13: 31-35)

Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn-vinh, và Thiên-Chúa cũng được tôn-vinh nơi Ngài. Nếu Thiên-Chúa được tôn-vinh nơi Ngài, thì Thiên-Chúa cũng sẽ tôn-vinh Ngài nơi chính mình, và Thiên-Chúa sắp tôn vinh Người.

 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái:

 “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”

                                      “Tình nhân-thế chua cay, người lịch-duyệt,”

“Niềm giang-hồ tan-tác lệ Giang-Châu.”

                                                                 (Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá lược dịch

Tình nhân-thế, con người ra như thế. Vẫn chua cay, giang-hồ, tan-tác đầy những lệ. Tình nhà Đạo, xưa nay vẫn khác. Khác, vì có lời dạy nhân-gian nay đằm thắm.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan Tin Mừng lại cũng nói về thứ tình-yêu rất đặc biệt. Thứ tình trọn đầy ý-nghĩa mà Đức Chúa đã làm gương. Tình Chúa nêu gương, là tình Ngài bày tỏ không chỉ riêng tư, mà là tình người dưới thế, ta luôn có với nhau. Tình Thầy luôn yêu, là tình đượm sắc mầu thương mến, rất hy sinh. Thầy hy sinh cho tất cả. Hy sinh đến chết. Hy sinh để ta được sống. Để ta cứ yêu. Yêu như Thầy vẫn hy sinh.

Ngôn ngữ phàm trần, không thấy có cụm từ nào được người đời biết đến, nhiều bằng từ ngữ “yêu”. Yêu, là phạm trù phổ biến dễ truy cập nhất. Một đề tài nói đến cả trong mọi trường hợp, mọi địa hạt: từ nghệ thuật đến văn chương, thi tứ, tthơ nhạc, cho đến phim ảnh văn xuôi, truyện ngắn. Nhất nhất, nói về tình yêu. Tình yêu có chữ “hy sinh” ở đời, là tình ta nghe biết nhiều nhất.

Với đời thường, tình yêu là cảm xúc ướt át, diễm lệ mọi người quanh ta, hằng đeo đuổi. Đeo và đuổi cho đến khi nào không thể làm gì hơn được nữa, mới thôi. Yêu, theo nghĩa dân gian người phàm, là tình thấy đầy nơi phố chợ có thể đằm thắm lúc ban đầu. Nhưng, nhạt dần với tháng năm. Tình nào không kèm chữ “hy sinh”, chung cuộc rồi ra cũng sẽ chán, khi vừa xuất hiện đối tượng mới, tươi trẻ, hấp dẫn và tràn đầy nhựa sống hơn.

Tình đời mau chán, bởi người người chỉ chú trọng đến xác thân hoặc dục tính. Tình đời loại này, thường dẫn đến điểm thoát rất nhanh, nơi đọan cuối của đường hầm, nhiều tăm tối. Tình như thế, tuyệt nhiên là tình không mang dáng vẻ “hy sinh”, nào hết.

Tình “có hy sinh”, là mối tình được thể hiện bằng hành động, chứ không phải bằng lời. Tình đó là tình được dặn dò khuyên nhủ, như một lệnh truyền ngày Chúa chia tay giã từ. Lệnh truyền Chúa nơi tình có hy sinh vẫn được nhấn mạnh rất nhiều lần; vì Ngài vẫn thường bảo: “với dấu này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Yn 13: 35)

Làm người, ai cũng từng hơn một lần, đã biết yêu. Là môn đệ của Thầy, người người lại càng phải biết yêu thương nhau nồng nàn hơn nữa. Yêu, say đắm hơn bao giờ hết. Yêu, như Thầy vẫn thương chúng ta. Yêu thương nhau, là thứ tình thực tiễn được đánh giá qua cách thức ta đối xử với nhau. Xử sự với nhau, thật hiền hòa, thật tử tế. Ta đối xử với nhau thật kiên nhẫn, chịu đựng.

Tình ta thương nhau, là tình của những người đồ đệ theo chân Chúa. Đó là tình không kiêu sa. Cũng chẳng mượt mà, trau chuốt đánh bóng chính người mình. Tình ta thương nhau, như tình Chúa yêu ta là tình không dày đạp người khác. Dày vùi và đạp lên đó để mọi người nhìn mình cho rõ, như người hùng anh cần được yêu, phải được tôn kính. Tình ta thương nhau, là cùng vui với người vui. Cùng khóc với người đang khóc. Cùng đạt ước nguyện tạo niềm vui cho nhau. Tình ta thương nhau, là biết thương tiếc khóc than vì người khác đã mất mát, khổ đau.

Yêu thương nhau như tình Thầy yêu ta, là biết nói lên sự thật. Với lòng xót thương không bến bờ.Yêu thương nhau như Thầy yêu ta, là yêu thương đấy, vẫn yêu trong hy sinh tha thứ cho người mình thương yêu. Thương yêu rất mực tin tưởng vào người mình yêu thương. Yêu trong kiên định, cả vào những giây phút gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Yêu, cả vào lúc thấy có khổ đau. Những lúc đang trầm mình dưới bùn đen, ở dưới thấp. Yêu như thế, mới giống tình Chúa yêu thương mọi người, không xét nét.

Tình có hy sinh là chấp nhận thua thiệt, để người kia được lợi. Yêu trong hy sinh, là biết tự kiềm chế mọi đam mê, dục vọng. Yêu rất hy sinh, là như thể đang chết dần chết mòn cho những cảm xúc vênh vang, kiêu hãnh. Yêu trong hy sinh, là chết đi cho chính mình. Chết cho con người mình. Chết, không phải về thể xác. Mà, chết cho nhu cầu xác thân, tạm bợ. Dù, nhu cầu ấy vẫn  chính đáng, vẫn rất cần.

Yêu trong hy sinh, càng không phải là yêu với mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm thâm trầm, vì đã làm điều bất ưng và bất xứng, nay muốn tự hủy. Tự hủy, bằng tâm trạng âm thầm, khúm núm, cúi đầu sợ sệt. Yêu trong hy sinh, càng không phải là những khuyên răn, khích lệ bạn bè người thân hãy có cùng tâm trạng hủy diệt, vùi dập thân xác như mình. Nói khác đi, tình “có hy sinh”, là quà tặng Chúa ban nhưng-không gửi đến để người người chấp nhận một chọn lựa. Chấp nhận cơ hội vinh thăng cho tình yêu ta đang có, ngày càng tốt đẹp hơn.

Với dặn dò đàn con biết tỏ bày tình có hy sinh, Đức Chúa đã nêu gương để ta cũng có cử chỉ tự hạ làm người thấp hèn. Ngài tự giáng hạ vào chốn nghèo hèn, để Thiên Chúa là Cha sẽ nâng Ngài lên nơi vinh hiển. Noi gương Chúa, ta cũng tự hạ chính mình nhịn nhường mọi vinh hoa, phú quý sang qua người khác. Nhường nhau, để tạo cuộc sống mới dồi dào sức sống.

Tự hạ, nhưng không tự hủy. Tự hạ, không có nghĩa dứt bỏ phẩm giá con người rất vinh quang. Vinh quang, vì mang thân phận làm con dân Đức Chúa. Tự hạ, là tự giảm chính mình xuống mức thấp hơn người khác. Tự đặt mình ở mức thấp, để người khác được nổi bật hơn, hạnh phúc hơn mình. Thực tế, trong sống đời dân gian trầm hạ, cũng nên tìm ra phương cách hoặc động thái khả dĩ giúp ta cởi thoát những hành vi không mang đặc thù của người con yêu Đức Chúa. Cởi thoát, là tự mình không đòi ở chỗ cao, trên người khác. Hoặc, người khác phải cảm nhận công sức mình, đã bỏ ra. Cởi thoát, là không đòi cho được quyền ra lệnh người khác thực hành ý kiến của mình.

Tham dự tiệc thương yêu hôm nay, ta cầu mong Thầy Chí Thánh giúp ta yêu thương mọi người như một nhân vị, chứ không như sự vật. Cầu mong sao, ta tạo được cho mình và mọi người những tình tự “có hy sinh” đưa ta vào cuộc sống rất vui. Sống can đảm, để giải quyết mọi bất đồng trong tương quan với mọi người chung quanh.

Cầu và mong, tình của ta luôn là tình “có hy sinh” như Đức Chúa từng dạy bảo. Và cầu mong sao, trong yêu thương giao dịch, tình của ta với người, vẫn là tình hy sinh ở mức cao độ, như Thầy thương ta.

Và, cũng cầu lại cũng mong sao cho tình nhân-thế có con người vẫn luôn sống theo lời dặn-dò của Đấng Nhân-Hiền từng minh-chứng bằng cuộc sống của Ngài. Sống chung-tình, nhiều thương-mến, rất ngàn năm.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn

Mai Tá lược dịch

MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ CỦA CHA NGUYỄN NGỌC SƠN.

 MỘT BUỔI NÓI CHUYỆN LÝ THÚ CỦA CHA NGUYỄN NGỌC SƠN.

 Phan Sinh Trần

Hôm Chúa Nhật ngày 20 tháng ba , 2016 Nhóm Cầu Nguyện chúng tôi được nghe vị khách diễn giảng về Chúa Thánh Linh, tôi cho rằng bài chia xẻ này thuộc loại kinh điển, tiêu biểu cho  gốc cổ thụ lớn trong khu vườn Thánh Linh. Điều có vẻ nghịch lý một cách thích thú khi mà Ngài chưa từng một ngày ở trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, chưa từng tham dự các buổi tĩnh tâm Thánh Linh, nhưng lại rất uyên bác về nguyên lý của đời sống trong Chúa Thánh Thần, và hơn thế nữa, luôn sống trong sự sinh động, yêu thương, hòa hợp tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần trong đời sống của một người con được Chúa chọn và yêu mến.

Cha bắt đầu buổi chia xẻ bằng sự khiêm nhường cầu nguyện khi Ngài chấp nhận để cho cả nhóm chúng tôi giơ tay cầu xin ơn Thánh Thần tuôn đổ ơn xuống trên Ngài và rồi Ngài cất tiếng lên chia xẻ cho chúng tôi trong ơn biện giảng hùng hồn Chúa ban.

Cha đưa ra một dụng cụ y khoa nhỏ để đo dung lượng thở cho mọi người thử, có anh thanh niên mạnh khỏe thì có thể thở được với dung lượng đo trên máy, tới 2200 ml, trong khi đó có bác cao niên ốm yếu, chỉ thở vào máy được có 770 ml… một sự so sánh rất cụ thể và minh họa về vấn đề, thiếu không khí trong lúc thở. Cha giải thích:

⦁ Não của chúng ta có 16 tỷ nơron thần kinh, cần tối thiểu 2.000 lít khí/ngày trong 10.000 lít tối thiểu của cơ thể. Chính bộ não ấy phát ra những lệnh cho tất cả các cơ quan hoạt động. Nếu chúng ta tăng cường dung tích khí thở mỗi lần lên 1.500ml hoặc 2.000ml, 2.500ml, bộ não chúng ta sẽ phát ra lệnh gấp đôi cho các bộ phận hoạt động; chúng ta sẽ học hành, làm việc hiệu quả và thông minh hơn nhiều. Thân thể chúng ta sẽ khoẻ mạnh, xinh đẹp nhờ các bộ phận hoạt động hài hoà…Chỉ cần 4 phút không có dưỡng khí là bộ não chúng ta sẽ chết, trong khi chúng ta có thể nhịn ăn được 30 ngày, nhịn uống được 3,4 ngày. Nói như thế để từ nay chúng ta chú ý đến việc thở hít khí tự nhiên hơn và tập thở để tăng cường chất lượng sống.

Sau đó, cha đề cập đến vấn đề sống đạo:

⦁ Vì sao các Bác, các Anh Chị có một đời sống Đạo rất chuyên cần, rất chăm chú đọc kinh mà vẫn thấy mình có một cái gì đó không được ổn, vẫn còn hoang mang cho tương lai cuộc đời, vẫn còn tìm đến cầu cơ, bói toán ?

Bởi vì, Tinh thần càng cần đến hơi thở Thần Khí hơn nữa, không biết tập thở Thần Khí thì linh hồn sẽ yếu rũ.

⦁ Vì sao chúng ta thực hành các việc đạo đức đều đặn đi lễ mỗi ngày mà vẫn không có được sự linh ứng của lời cầu nguyện?

⦁ Người tín hữu giáo dân Việt Nam rất tôn kính Mình Máu Thánh Chúa, 80% tín hữu giữ lễ Chúa Nhật và rước lễ trong những dịp lễ trọng, khoảng 15-20% đi lễ thường ngày. Nhưng chúng ta thấy rằng dù đi lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa thường xuyên nhưng chúng ta lại chưa phát huy được sự sống kỳ diệu phi thường của Thiên Chúa trong con người của mình. Cuộc sống của người tín hữu chưa toát ra được niềm vui, bình an, hạnh phúc, ơn cứu độ cho mình cũng như cho người khác. Phép lạ trong đời sống người tín hữu là những gì hoạ hiếm chứ không phải là những chuyện thường ngày mà chúng ta phải thực hiện để mang lại ơn cứu độ cho những người nghèo khổ, tật bệnh, bị ma quỷ kiềm chế có mặt ở khắp nơi trên đất nước. (⦁ nguồn: hanhkhatkito.org)

Trong không khí im lặng chú ý của phòng họp, khi mà mọi người đều thấm thía về các yếu đuối, Cha tiếp tục đặt ra các vấn nạn của Ki tô hữu:

Vì sao chúng ta không có tâm tình biết ơn, không biết ơn khi ta ăn hạt cơm nóng sốt mà người nông dân đổ mồ hôi, công sức, dãi dầu mưa nắng, có khi còn phải đổ máu, hy sinh thân mình vì cày lên bom mìn sót lại từ thời chiến tranh … Còn trong gia đình mình thí sao,   Chúng ta có khi nào biết ơn người vợ đã mấy chục năm qua rửa hàng núi chén dĩa ngày qua tháng nọ dọn nhà sạch sẽ cho ta được thoải mái, … Trong đất nước thì mình ít khi nhớ ơn bao tiền nhân, chiến sĩ vô danh, đã tận tụy khai phá, đã hy sinh xương máu cho ta có được mảnh đất này để sinh sống.

Chúng ta thử đặt tình trạng mình như một người mù trong vài phút rờ rẫm, đi từ đây ra cửa thôi, sẽ thấy khổ sở thế nào, đụng chạm lủng củng ra sao, có khi còn vấp té nữa. Trong khi đó chúng ta được sáng mắt, được Chúa ban cho không khí để thở, ban cho cặp mắt để ngắm nhìn, … có bao giờ chúng ta hít sâu vào trong tâm tình biết ơn, vì Chúa ban cho mình không khí và biết bao nhiêu tạo vật, thiên nhiên mỹ miều, hữu dụng, xinh đẹp chung quanh ta.

Sau đó, Cha tóm tắt về căn nguyên của một đời sống Ki tô hữu, phong phú và tươi mát bao gồm trong hai yếu tố chính, kết hợp với Chúa Giê Su và sống trong Thần Khí của Thiên Chúa.

⦁ Một là kết hợp mật thiết với Chúa Giê Su như cành liền với cây trong cầu nguyện, đơn sơ thủ thỉ với Chúa một câu trong tâm tình yêu mến, hướng về Chúa ở mọi lúc, mọi nơi.

Cây nho, chính là Ta,các ngươi là nhánh. Ai lưu lại trong Ta và Ta trong kẻ ấy, thì nó sinh nhiều quả,vì ngoài Ta, các ngươi không thể làm gì.(Gioan 15:5)

⦁ Hai là, xin Chúa Giê Su thực hiện lời hứa “ban Thánh Thần” và xin cho bằng được ơn Chúa Thánh Thần, được tiếp nhận Thần Khí Chúa sống động trong mọi sinh hoạt của đời sống mình, cách xin được Chúa nhận lời là khi ta dám từ bỏ các quyến rũ của trần gian, ma quỉ và quyết tâm thuộc về Chúa một cách trọn vẹn, chấp nhận đi theo con đường do Chúa hoạch định.

Từ bỏ mình rất khó, từ bỏ cái tôi càng không dễ, tuy nhiên đã có nhiều người giống như ông Gia Kêu và Mát thêu, hành nghề thu thuế đã làm được, giống như cô Ma đa len na vốn sống buông thả nhưng sau, đã làm được, cũng như nhiều người khác đã làm được. Chúng ta, là Ki tô hữu có thể từ bỏ “cái Tôi” một khi ta dám chấp nhận sự dạy dỗ của Lời Chúa và kết hiệp với Chúa, được Chúa giúp sức cho.

Tập hít thở trong Thần khí Chúa:

⦁ Có lẽ chúng ta phải nhìn lại thái độ của chúng ta đối với Thần Khí, chúng ta cần phải gắn bó nhiều hơn với Chúa Thánh Thần và tập thở từng giây phút Thần Khí mà Chúa Giêsu thổi trên chúng ta khi Người hiện ra với chúng ta và nói rằng: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.

⦁ Mỗi lần chúng ta nhớ đến Chúa Thánh Thần và cầu xin Ngài là mỗi lần chúng ta thở Thần Khí. Một ngày chúng ta dành chừng 5 phút, ngồi ở bàn làm việc hay nằm trên giường trước khi ngủ, chúng ta nói thầm với Chúa Giêsu khi chúng ta hít khí vào: “Lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho con”. Thần khí là sức mạnh, niềm vui, tình yêu, bình an, ân sủng của Người được đưa vào trong ta để biến đổi ta. Rồi khi chúng ta thở ra bằng miệng từ từ, thân xác ta thở ra thán khí thì tinh thần cũng thở ra những uế khí, tà khí ra khỏi con người mình. Đó là: buồn phiền, chán nản, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, ghen tương… Đang khi đẩy chúng ra khỏi tâm trí, chúng ta cũng nói thầm với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin xua đuổi tà khí ra khỏi lòng con”.

CHA SON

Đời sống được Chúa Thánh Thần dẫn dắt thì rất tuyệt vời, cho dù trong đời ta đi qua bao nhiêu truân chuyên hay thác ghềnh khó khăn. Tôi xin được trích từ trang mạng công giáo hiện đang có nhiều người đọc nhất ở Việt Nam, có tên là “hành khất  Ki Tô” để minh họa các kinh nghiệm sống động này của Cha Nguyễn ngọc Sơn:

Chúa mời gọi ta quên đi quá khứ tội lỗi của mình hay của người khác, để thông hiệp với Đức Kitô và phát huy những ân sủng lạ lùng của cuộc đời làm con Chúa Cha và cũng là người tình, là hiền thê của Đức Kitô

⦁ … Anh chị em cho phép tôi được chia sẻ một kinh nghiệm về việc Chúa Kitô chữa lành bệnh nhân để xác tín về đời sống siêu việt của con cái Chúa. Sáng Chúa Nhật hằng tuần tôi thường giúp các người bệnh từ nhiều nơi tìm đến. Hôm đó, có người con trai dẫn bà mẹ chừng 65 tuổi đến xin tôi cầu nguyện chữa lành vì bà bị đau toàn thân, nhất là ở tim gan ruột. Các bác sĩ ở Canada khám không ra bệnh sau khi xét nghiệm đủ thứ. Con cháu đưa sang Hoa Kỳ chữa cũng không khỏi nên đưa về Việt Nam. Nghe tiến trình chữa bệnh như thế nên tôi chỉ còn biết đặt tay trên đầu bà, đọc 4 kinh tôi thuộc là Kinh Xin Ơn Đức Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, rồi tiễn bà về. Tuần sau, bà đến đưa tôi 1 vòng đeo tay bằng vàng, 1 răng nanh heo rừng cũng mạ vàng để đeo ở cổ và nói: “Thưa cha, hôm nay con đã khoẻ mạnh và hoàn toàn bình phục nên đến cảm ơn  cha và thú thực với cha về bệnh tật của con. Con là 1 bà già sống gần nhà thờ nên sáng nào cũng tản bộ đi dự lễ. Vì già yếu không nín được đường tiểu nên con thường chui vào bụi cây bên đường. Mọi khi không xảy ra chuyện gì, nhưng một hôm con thấy đôi cánh tay đen đủi ôm chân con. Con rất hoảng sợ và phát bệnh từ đó. Sau khi các bác sĩ chữa không khỏi, gia đình đưa con đến nhiều thầy pháp. Họ cho con 1 lá bùa và con đã bỏ chung với áo Đức Bà đeo ở cổ vì con là đạo gốc! Còn chiếc lắc vàng đeo tay và răng nanh đeo cổ đã được ếm bùa Lỗ Ban. Hôm nay con giao lại tất cả cho cha để làm kỷ niệm”. ( nguồn: hanhkhatkito.org)

Sự việc khiến tôi từ đó hiểu được rằng Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục chữa lành cho con người trong thời đại hôm nay.

⦁ Niềm vui và hạnh phúc đời ta chính là Đức Giêsu. Người sẽ chuyển thông cho chúng ta sự sống vĩnh hằng, quyền năng vô biên, hạnh phúc vô tận để ta cảm nghiệm được mình được là con cái của Thiên Chúa giống như Người. Tôi đã cảm nhận được niềm vui đó cách đây 2 tuần khi sang giảng tĩnh tâm cho cộng đồng người Việt thuộc Nhà thờ Thánh Polycarp, đường Chapman, California, Hoa Kỳ. Hôm đó có Ông Nguyễn Kỳ đến cám ơn vì Chúa đã chữa cho Ông khỏi bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Cách đây 3 tháng, bác sĩ cho biết ông bị ung thư và nói không thể sống quá 6 tháng. Bây giờ Chúa cho ông khỏi hẳn, không còn thấy triệu chứng của ung thư. (nguồn:hanhkhatkito.org)

Thiên Chúa chúng ta sống động vô cùng, giàu sang vô tận, đẹp đẽ vô song. Nếu chúng ta gắn bó với Chúa thì chúng ta cũng sẽ tốt đẹp, mạnh mẽ, giàu sang như thế

⦁ Tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm riêng tư: Trong dịp cứu trợ đồng bào lũ lụt năm 2010, người ta yêu cầu Caritas Việt Nam hãy làm dự án xin các tổ chức nước ngoài yểm trợ. Tôi nghĩ rằng: đất nước chúng ta có nhiều người đóng góp rộng rãi và rất quảng đại… Chúng tôi cầu nguyện, và chúng tôi nhận được số thuốc trị giá khoảng 2 tỷ đồng của Công ty Rohto Mentholatum. Chị giám đốc thương mại của công ty này không có đạo, đến gặp chúng tôi và cho chúng tôi rất nhiều thuốc cần cho đồng bào lũ lụt dù chúng tôi chưa làm một đơn xin nào. Ngoài ra, bao nhiêu nhà hảo tâm khác đã góp tiền và vật dụng cho đồng bào nghèo khổ. Tôi thầm cảm tạ Chúa và cảm nhận được quyền năng vô biên của Ngài.

(nguồn: hanhkhatkito.org)

Sự kiện này nhắc nhở tôi quyền năng chữa lành kỳ diệu của Chúa Giêsu trong một số trường hợp khuyết tật vì lý do tâm linh

⦁ Tôi xin chia sẻ 1 trường hợp cụ thể. Cách đây 3 tuần một phụ nữ trung niên dẫn theo người con gái tên Hương, đang có thai hơn 7 tháng, đến xin tôi chữa cho con bà bị câm và điếc trên 2 tuần qua. Đi theo có cả người chồng, anh trai, cô và cậu của cô gái. Cô gái tỏ vẻ rất sợ hãi không muốn vào nhà nguyện, nên tôi đành tiếp tất cả trong phòng làm việc. Người mẹ cho tôi biết tình trạng của con, chạy thầy, chạy thuốc cũng đã nhiều mà bệnh không khỏi. Vì cô gái không nghe được nên tôi giải thích cho tất cả hiểu về sức khoẻ thể chất và tinh thần. Cô Hương cứ nhắm nghiền đôi mắt như ngủ.

Sau đó tôi mời mọi người có mặt vào nhà nguyện để ban bí tích Xức dầu Bệnh nhân và Xức dầu Trừ tà. Trong khi cử hành nghi thức, cô Hương không mở mắt và tỏ ra không biết gì. Nhưng cuối cùng, trước khi cho bệnh nhân rước lễ, tôi hỏi cô Hương; “Con có muốn rước Chúa không?”. Cô trả lời rõ ràng: “Con muốn”. Bà mẹ đứng bên cạnh buột miệng kêu lớn: “Con tôi nghe và nói được rồi!”..

(nguồn: hanhkhatkito.org)

CHUA

Cảm tạ Chúa, vì cho dù ở đâu, thời nào thì Thần Khí oai quyền của Thánh Phao lô, Thần Khí thiết tha,hy sinh của Thánh Tê pha nô (Stephano), Thần Khí chữa lành và an ủi ở trong Thánh An Tôn, thánh Mác ti nô xưa và Thần Khí tuôn đổ trong Cha Nguyễn ngọc Sơn hôm nay,… và rất có thể là ngay cả trong bạn và trong tôi nữa ở thời đại hôm nay, vẫn đang có một cách dồi dào từ một nguồn duy nhất.Tôi xin mượn lời chia xẻ của Ngài để kết thúc bài làm chứng này.

“Lời nói tự nhiên chỉ mang lại niềm vui bình thường, nhưng khi ta thở được Thần Khí của Chúa Giêsu thì những lời nói của chúng ta có thể soi sáng cho tâm trí mù tối của con người, vực họ dậy khỏi tình trạng tê liệt, bất động, thậm chí chết chóc, của tâm hồn. Hơn nữa, Chúa Giêsu sẵn sàng ban cả những ơn chữa bệnh thể xác cho tất cả những ai muốn làm tông đồ, làm chứng nhân cho Người. Cầu chúc anh chị em trở thành người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến vì được tràn đầy Thánh Thần tình yêu của Đấng Phục Sinh”

Phan Sinh Trần

THẬP GIÁ VÀ THÁNH GIÁ

THẬP GIÁ VÀ THÁNH GIÁ

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

     Thập giá ở khắp nơi, trên mộ bia trong nghĩa trang, trên tháp cao nhà thờ, trên bàn dâng lễ, trên ngực áo, bên vành tai, trên tường đá.  Nhiều thập giá quá.  Ðức Kitô bị đóng đanh trên thập giá.  Thập giá đã mặc nhiên được coi như biểu tượng của Kitô hữu.  Nơi nào thấy thập giá, người ta nghĩ ngay nơi ấy có đạo Chúa.  Vậy có thể nói nơi nào có thập giá, nơi ấy có Ðức Kitô không?

Tôi không nghĩ như vậy.

THAP GIA VA THANH GIA

Trước khi Ðức Kitô bị đóng đanh đã có thập giá rồi.  Người Rôma dùng thập giá để lên án tử hình cho các tội nhân.  Bấy giờ, ở đâu có thập giá là có sự chết.  Người ta sợ hãi thập giá.  Bóng thập giá là tử thần.  Thập giá tới đâu có khóc than ở đó.  Bởi thế, nếu nói đâu có thập giá là có Chúa thì kiểu nói ấy e rằng rất hàm hồ.  Hôm nay, nếu nói nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có vết chân người Kitô hữu thì có thể đúng.  Nhưng làm sao dám khẳng định nơi nào có Kitô hữu là có Chúa hiện diện?  Người ta có thể dùng thập giá để đấu tranh.  Ðã chẳng có những xứ đạo mất bình an chỉ vì xây cất nhà thờ đó sao.  Không phải cứ có bóng thập giá là có sự hiện diện của Chúa.

Biểu tượng và ngẫu tượng

Những gì tôi thấy hôm nay, thập giá trên tháp chuông cao, thập giá trên bàn thờ nhà tôi, thập giá ở cổng giáo đường, nhiều khi rất là vô nghĩa.  Tôi quá quen thuộc với biểu tượng nên biểu tượng có thể dễ trở thành ngẫu tượng.  Khi tôi mặc nhiên cho rằng nơi nào có thập giá là có Chúa thì tôi có thể chỉ nỗ lực xây dựng nhiều thập giá.  Ðiều này dễ rơi xuống hố sâu nguy hiểm.  Biểu tượng bao giờ cũng mang hai đặc tính.  Ðặc tính thứ nhất của biểu tượng là cần nhìn thấy.  Vì thế, thập giá có thể bằng xi măng, bằng đá, bằng đồng, bằng vàng.  Ðặc tính thứ hai là biểu tượng ấy phải diễn tả một thực tại không nhìn thấy ở đàng sau.  Ðiều này gian nan chứ không đơn giản.  Một thực tại vắng mặt thì có thể diễn tả bằng một biểu tượng.  Nhưng không phải cứ có biểu tượng là có thực tại vắng mặt.  Và bi đát hơn nữa là người ta có thể đánh lừa bằng biểu tượng.  Gởi tặng cánh hoa là gởi biểu tượng để chuyển ngữ một tình cảm không nhìn thấy.  Biểu tượng ấy chỉ đúng nghĩa khi có tình yêu ở phía sau.  Như thế phải có tình yêu trước.  Biết bao người tặng hoa nhưng không tặng tình yêu.  Biết bao người nhận hoa mà trao lầm trái tim vì ngỡ rằng có tình yêu ở đàng sau cánh hoa.

Ðiều đó cũng đúng với thập giá.  Thập giá là biểu tượng thì tôi phải đi tìm thực tại đàng sau biểu tượng.  Nếu tôi gọi thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa mà thật sự không có Chúa thì lòng yêu mến biểu tượng ấy thành ôm giữ ngẫu tượng.  Quá quen với não trạng thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa, nên ta ít tự hỏi nếu không có sự hiện diện của Chúa thì tôi đang ôm giữ gì.  Không còn là biểu tượng hiện diện của Chúa, nếu không là ngẫu tượng thì ta gọi là chi?

Lý do các thượng tế đưa ra để kết tội Chúa là vì Ðức Kitô nhận mình là Con Thiên Chúa.  Theo họ, Ðức Kitô đã phạm thượng vì xúc phạm đến Thiên Chúa.  Còn họ thì phải bảo vệ Thiên Chúa (Mc 14:60-64).  Chính trong hành động nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thiên Chúa họ đã kết án Thiên Chúa.  Chính hành động họ nói Ðức Kitô phạm thượng, họ đã phạm thượng.  Gian nan là ở đấy.  Quá gần Thiên Chúa nên ngỡ Thiên Chúa ở rất xa.  Càng đợi trông một Thiên Chúa ở xa mà Ngài lại ở gần thì sự xa cách ấy lại càng xa hơn nữa.

Do đấy, kẻ ôm giữ thập giá là biểu tượng chứ chưa chắc có sự hiện diện của Chúa mà họ cứ khăng khăng tin rằng họ đang ôm giữ Chúa thì làm sao mà nhận ra sự xa cách ấy.  Cho nên họ tưởng rất gần Chúa mà thật sự rất xa.  Từ biểu tượng đến ngẫu tượng, họ tưởng rất xa, mà lại hóa quá gần.

Từ thập giá đến THÁNH giá

Ba cây thập giá dựng lên trong chiều ấy.  Ðức Kitô ở giữa hai tội nhân.  Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là THÁNH giá.  Khi Ðức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Ngài đi vào Phục Sinh thì cây thập giá khốn khó ấy thành cây cứu rỗi và trở nên THÁNH.  Chất THÁNH ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết, là vinh quang.  Không có tình yêu thì thập giá không là THÁNH giá.

Nhìn lại những bến bờ đã đi qua của thập giá và THÁNH giá, ta thấy ngay khi thập giá trở thành THÁNH giá rồi cũng không có nghĩa cứ thoáng nhìn là nhận ra THÁNH giá.  Vẫn có một khác biệt rất lớn.  Câu chuyện hai người trộm bị đóng đanh cùng với Chúa chứng minh điều đó.  Một người nhục mạ Chúa:

“Ông không phải là Ðấng Kitô sao?  Hãy tự cứu mình đi, và cứu chúng tôi với.” Một người thì nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!  Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.  Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Ðức Giêsu nói với anh: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng” (Lc 23:39-43)

Một người nhìn thấy thập giá là THÁNH giá.  Một người nhìn thấy THÁNH giá chỉ là thập giá.

Phân biệt thập giá và THÁNH giá không đơn giản.  Lại càng không giản đơn khi ta quá quen biểu tượng trong một não trạng mù mờ.  Trước THÁNH giá thật mà còn không nhận ra THÁNH giá thì trước những THÁNH giá giả vấn đề còn gian truân tới đâu.  Nếu không biết yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không tìm yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không sống yếu tố làm nên chất THÁNH thì ta không có THÁNH giá.  Cả một bến bờ cuộc sống chỉ là ngẫu tượng.

Trong xã hội hôm nay, từ tâm lý quảng cáo đến các tổ chức chính trị, văn hóa, thể thao, nghệ thuật, từ cá nhân đến tập thể, chỗ nào cũng thấy có những biểu tượng cho sinh hoạt của tổ chức đó.  Mặc dầu Chúa bảo: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con hãy thương yêu nhau (Ga 13:34-35).  Nhưng chúng ta cũng vẫn có một biểu tượng cho sự hiện diện của đạo Chúa, đó là THÁNH giá.

Biểu tượng là để người khác nhìn.  Tôi sống trên quê hương tôi thì biểu tượng là ngôn ngữ nói với những người cùng một quê hương ấy.  Tôi phải dùng ngôn ngữ nào dễ hiểu và chính xác cho thực tại là Chúa ở sau biểu tượng?  Trên một quê hương nghèo đói thì biểu tượng để nói về Chúa là bác ái, chia xẻ cảnh khốn cùng.  Giữa cảnh các bé thơ thất học không có trường lớp, thầy cô thiếu lương, thì sự hiện diện của Chúa không là biểu tượng thập giá to hay nhỏ, mà phải là THÁNH giá có tình yêu, dấn thân cho Tin Mừng bằng con tim tận tụy như chính một rung cảm chiều nọ bên đồi vắng: “Ta thương đoàn dân này… Ta không muốn để họ đói… Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15:32).

**************************

Lạy Chúa, không có bác ái, không có THÁNH giá, chỉ có thập giá thì con chẳng nói gì về Chúa cho những người cùng một dân tộc mà Chúa sai con tới cả.  Một biểu tượng sai về Chúa sẽ làm cho Chúa còn khổ tâm hơn nữa.  Có khi người ta càng nhìn thấy thập giá mà càng xa Chúa.  Có khi càng nhiều bóng thập giá càng làm người ta khó chịu những kẻ xây dựng nên nó.  Ðiều đó cũng đúng thôi, vì thập giá không là THÁNH giá.  Có THÁNH giá phải có bác ái.

Lạy Chúa, nhưng nếu con không hiểu rõ con đang có THÁNH giá hay chỉ có thập giá trong giáo xứ, trong gia đình, trong đời sống của con thì làm sao con biết nói với dân tộc con về Chúa qua biểu tượng THÁNH giá.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

trích trong “Viết Trong Tâm Hồn”

HỒNG ÂN LÃNH BÍ TÍCH RỬA TỘI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

HỒNG ÂN LÃNH BÍ TÍCH RỬA TỘI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Một buổi chiều mùa hè năm 1992, nơi một tiệm hớt tóc ở thành phố Dreux (Bắc Pháp), một thanh niên bước vào tiệm.  Trong tiệm lúc bấy giờ có cô thợ Valérie Baptiste và cô chủ Pascale.
Thanh niên – khách lạ đến tiệm lần đầu – có mái tóc quăn và dài.  Đến tiệm hớt tóc vào ngày thứ ba trong tuần hẳn chàng phải là công nhân của một hãng xưởng nào đó!  Khi tò mò hỏi thăm thì thanh niên cho biết chàng tên Patrick và là cha Sở mới về nhậm chức!
RUA TOI

Nghe vậy, Valérie vui mừng kêu lên:

–        May quá, con đang muốn đến gặp cha!

Dĩ nhiên cha Sở vui vẻ ghi nhanh một cuộc hẹn.

Cuộc đời Valérie Baptiste là chuỗi dài những biến cố đau thương.  Valérie chào đời năm 1968. Năm lên 4 tuổi, ông thân sinh ra đi vui sống với tình nhân mới, một phụ nữ khác, bỏ rơi vợ trẻ với ba đứa con thơ.  Bà mẹ trẻ quá buồn nên lâm cảnh nghiện rượu và không còn khả năng chăm sóc ba đứa con nhỏ dại nữa.  Người ta liền giao ba đứa trẻ cho một gia đình săn sóc.  Nhưng gia đình này không khá giả mà cũng không tốt.  Valérie lại được giao cho một gia đình khác và sau cùng được giao cho một ký túc xá do các nữ tu trông coi tại thành phố Chartres, cách thủ đô Paris khoảng 100 cây số.  Nơi đây Valérie may mắn gặp những con người tốt có trái tim quảng đại và có đức tin Công Giáo chân chính.
Suốt thời gian sống xa mẹ ruột, Valérie không bao giờ quên hình ảnh mẹ và vẫn giữ nguyên tình thương dành cho mẹ, một người mẹ kém may mắn!
Valérie luôn luôn bênh vực mẹ tránh khỏi những lời trách cứ.  Mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Valérie đều đặn đến thăm mẹ.
Hơn 10 năm sau ngày bị chồng bỏ rơi và bị nghiện ngập, bà mẹ đáng thương từ trần, để lại nơi Valérie một nỗi niềm đau đớn không kể xiết.
Điều đáng nói là trong quãng đời thơ trẻ bơ vơ này, Valérie vẫn nuôi dưỡng tâm tình tôn giáo tự nhiên.  Lúc mẹ còn sống cũng như sau ngày mẹ từ trần, Valérie luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho hiền mẫu dấu yêu.
Rồi đến ngày Valérie kết hôn với Éric, chàng thanh niên sống cạnh nhà và là tín hữu Công Giáo.  Valérie không ngờ rằng từ đây cuộc đời nàng chuyển sang khúc quanh mới.  Khúc quanh trên cả hai bình diện tâm lý và tôn giáo.
Thật thế.  Mẹ đỡ đầu của Éric chồng nàng là tín hữu Công Giáo sống đạo chân thành.  Bà tỏ dấu mong ước trông thấy đôi vợ chồng trẻ được kết hôn theo phép đạo Công Giáo.  Mong ước đồng nghĩa với việc Valérie phải lãnh bí tích Rửa Tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Valérie vui vẻ chấp thuận đề nghị vì hai lý do.  Trước tiên vì nàng muốn làm vui lòng mẹ đỡ đầu của chồng.  Khi yêu, người ta muốn làm vui lòng người mình yêu.  Thứ hai, vì nàng linh cảm rằng, bí tích hôn phối sẽ mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống vợ chồng.  Tận thâm tâm Valérie vẫn luôn tin tưởng vững chắc nơi tình yêu Thiên Chúa.
Và những ước nguyện trên đây được thực hiện khi cha Sở mới bất ngờ xuất hiện vào một buổi chiều thứ ba nơi tiệm hớt tóc mà Valérie Baptiste đang làm việc.  Sau khi trình bày và được cha Sở đồng ý, Valérie vui vẻ nhập cuộc.  Con đường chuẩn bị đưa nàng đến việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội kéo dài hai năm.
Tiếp xúc đầu tiên của Valérie với Kitô Giáo là học hỏi Lời Chúa cùng với các tín điều buộc phải tin.  Nhưng Valérie không đơn độc.  Nàng thuộc về nhóm dự tòng, được hướng dẫn và được tháp tùng.  Valérie rất thích đọc Phúc Âm và sung sướng khám phá ra Cuộc Đời của Đức Chúa Giêsu Kitô nơi dương thế.
Sau cùng, ngày chờ mong đã đến.  Nghi lễ rửa tội diễn ra vào một Chúa Nhật tháng 5 trong Thánh Lễ nơi nhà thờ xứ đạo.  Mọi người thân thuộc gia đình nhà chồng đều hiện diện, đặc biệt là mẹ đỡ đầu của chồng.

Nhắc lại kỷ niệm đáng nhớ của ngày trọng đại này, Valérie Baptiste tâm sự:

– Một Người nào đó, một sức mạnh nào đó đã đi vào cuộc đời tôi, đi vào trái tim tôi.  Tôi không còn tỉ-tê khóc cho riêng mình nhưng tự chủ hơn và can đảm hơn.  Tôi cũng hiểu người khác hơn.  Tôi cầu nguyện cùng Thiên Chúa thường xuyên hơn.  Tôi không đợi Chúa Nhật mới đến nhà thờ.   Trái lại, bất cứ lúc nào cần hoặc mỗi khi gặp khó khăn, tôi tức tốc chạy đến nhà thờ.  Nhà thờ là nơi nương ẩn vững vàng nhất cho tôi.  Tôi thân thưa mọi sự cùng Thiên Chúa.  Không có Ngài, tôi cảm thấy thật bơ vơ và thật đáng thương!

“Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.  Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.  Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.  Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.  Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.  Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.  Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh con thầm thĩ với Ngài.  Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài con hớn hở reo vui.  Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Thánh Vịnh 63, 2-9).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

“Xác loài người ngày sau sống lại” – Là xác nào sống lại?

“Xác loài người ngày sau sống lại” – Là xác nào sống lại?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

dongten.net

Xin cho con hỏi trong kinh Tin Kính, có tín điều “tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Cha xứ dạy chúng con rằng chúng ta sẽ không sống lại với thân xác hiện nay vì nó đã bị hoen ố bởi tội lỗi rồi nhưng thân xác sẽ phục sinh là một thân xác khác đang do chính Chúa Thánh Thần cất giữ. Xin cho con biết có đúng như thế không ạ?

Chào bạn,

Nhiều người trong chúng ta cho rằng chỉ có linh hồn ta là được về trời, còn thân xác là thứ nhơ nhuốc, đầy những xấu xa, nên không thể được cứu. Vào những thế kỷ đầu, có rất nhiều trường phái triết học cho rằng thân xác chính là tù ngục của linh hồn, là cái đã giam hãm linh hồn con người. Hồn lìa khỏi xác cũng hệt như một cuộc giải thoát. Bởi thế, việc phải trở lại kết hiệp với xác chẳng khác nào đưa hồn vào tù ngục. Chính vì lý do này mà thánh Phaolo đã thất bại khi rao giảng về việc người chết sống lại tại Aten, một thành phố đậm mùi triết coi thường thân xác và chỉ tin vào sự bất tử của linh hồn (x.Cv 17,16-34). Ngoài ra, thật khó để có thể tưởng tượng được là khi thân xác phục sinh thì nó sẽ thế nào. Thân xác phục sinh của tôi sẽ là thân xác lúc tôi bao nhiêu tuổi? Những người đã chết từ hàng ngàn năm trước, xương cốt đã thành tro, họ sẽ sống lại thế nào? Thậm chí, có những người đã chết không toàn thây, bị thú dữ ăn thịt, xé xác… thì phục sinh ra sao? Còn nữa, chẳng lẽ những người có thân hình xấu xí, bị thương tật, bị khiếm khuyết gì đó lại phải sống thân xác tồi tệ này khi phục sinh? Nếu thế thì thà chẳng phục sinh còn hơn!

Vậy tại sao Giáo Hội lại tin rằng thân xác cũng phải phục sinh? Là bởi vì chúng ta chỉ có thể là con người trọn vẹn khi có cả hồn (phần linh thiêng) và xác (phần vật chất). Nếu chỉ có hồn hoặc chỉ có xác thôi thì không phải là ta. Thân xác là một phần của ta, hay thậm chí có thể nói, nó chính là ta. Ta sẽ không thể nhận ra, tiếp xúc, đụng chạm với ai nếu người đó không có thân xác, và ngược lại. Trong khi đó, Đức Giêsu đến thế gian này là để cứu con người của ta một cách trọn vẹn, chứ không chỉ cứu linh hồn ta mà thôi. Nếu Ngài chỉ cứu linh hồn ta thì Ngài đang cứu “cái gì đó”, chứ không phải là ta. Đấng Cứu Thế đã muốn mặc lấy xác phàm và trở thành một con người thực thụ chính là muốn cứu lấy cả “xác phàm”, phần vật chất của con người, chứ không chỉ là phần thiêng liêng. Bởi thế, nếu thân xác không được phục sinh thì việc xuống thế làm người của Đấng Cứu Thế trở nên vô nghĩa. Tin vào sự phục sinh của thân xác chính là tin vào phẩm giá cao quý của thân xác và tin vào ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người xét như một tổng thể đầy đủ của hồn và xác.

Nhưng phải làm sao để giải quyết những vấn đề khúc mắc ở trên liên quan đến thân xác? Hay nói cách khác, chúng ta cần phải hiểu như thế nào về sự phục sinh của thân xác? Dựa vào mặc khải của Kinh Thánh và dựa vào lý trí, chúng ta có thể tìm được câu trả lời dù rằng trong chúng ta, chưa ai trải nghiệm được điều này. Hơn hết, chúng ta có một mẫu gương rõ ràng và khả tín nhất là chính Đức Giêsu phục sinh. Căn cứ vào những gì Kinh Thánh nói với chúng ta về Đức Giêsu sau khi Ngài đã phục sinh, chúng ta có thể biết chắc hai điều:

Thứ nhất, thân xác được phục sinh phải là một thân xác đã chết vì nếu không chết thì cũng sẽ không có chuyện phục sinh. Đó cũng phải là thân xác mà ta đang sở hữu đây vì nếu hồn của ta kết hợp với một thân xác khác thì sẽ trở thành người khác, chứ không phải là ta. Nếu Thiên Chúa làm nên một cái xác khác hoặc sử dụng cái xác của ai đó để kết hợp với hồn của ta thì càng không phải là ta. Quả vậy, khi Đức Giêsu phục sinh, thân xác phục sinh của Ngài là chính thân xác Ngài đã sống trước đó, với tất cả những dấu đinh, vết sẹo (x. Lc 24,39). Thân xác Ngài phải như trước thì các môn đệ mới nhận ra Ngài được. Nếu Đức Giêsu phục sinh với một thân xác khác thì hẳn là xác chết của Ngài vẫn còn trong mộ. Nhưng thực tế là từ sau ngày phục sinh, không ai – kể cả những kẻ thù của Ngài – có thể tìm thấy xác Ngài. Ngoài ra, thân xác được phục sinh phải là thân xác mà ta có thể đụng chạm được cách cụ thể, chứ không phải là một cái bóng mờ mờ ảo ảo. Đức Giêsu cũng khẳng định với các môn đệ rằng Ngài vẫn “có xương có thịt”, chứ không phải ma (x.Lc 24,39). Chính Tôma là người đã được Đức Kitô phục sinh cho đụng chạm vào cạnh sườn mình (x. Ga 20,27).

Thế nhưng – điều thứ hai và điều rất quan trọng – thân xác phục sinh là một thân xác được biến đổi theo một cách thức mà thánh Phaolo gọi là “mầu nhiệm” (1Cr 15,51), bởi vì “xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (1Cr 15,50). Ngài còn nói thêm: “…tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát… Cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (1Cr 15,52-53). Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolo nói: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,31). Ở đây, ta thấy thánh nhân nói rằng Đức Giêsu sẽ biến đổi “thân xác chúng ta” (chứ không phải một thân xác lạ lẫm nào khác), và thân xác được biến đổi ấy sẽ giống như “thân xác vinh hiển của Người”, nghĩa là thân xác phục sinh của Đức Giêsu thế nào thì thân xác phục sinh của chúng ta cũng sẽ giống như vậy.

Như thế, thân xác phục sinh của chúng ta sẽ là một thân xác không còn bị huỷ hoại, không còn vết tích của sự dữ, không còn lệ thuộc vào thời gian không gian, không phải chịu một giới hạn nào, không bị lão hoá, không bệnh tật…Thân xác ấy sẽ như thân xác của Đấng Phục Sinh. Chúa sẽ thanh tẩy thân xác hư nát này của chúng ta thành một thân xác thanh thiết và ngập tràn ân sủng. Thân xác ấy trông như thế nào, chẳng ai trong chúng ta biết được, nhưng với mạch suy tư này, ta có quyền đi đến kết luận rằng vào lúc phục sinh, người khác nhìn vào ta thì sẽ thấy ta và nhận ra ta (vì ta có thân xác) và sẽ nhìn thấy nơi ta một sự sáng láng tuyệt đẹp, thanh khiết đến lạ kỳ (vì những hậu quả xấu xa của sự dữ và tội lỗi làm cho thân xác của chúng ta bị huỷ hoại và xấu đi đã bị ơn cứu độ của Đức Giêsu gỡ bỏ).

Thánh Phaolo cũng lấy hình ảnh hạt giống gieo vào đất và nảy mầm thành một cây mới để minh hoạ cho sự phục sinh này. Khi chẻ đôi một hạt lúa, ta không hề thấy trong đó có cây lúa nào. Vậy mà khi gieo xuống đất, tưới nước, bón phân, ta lại thấy chính tại nơi ta gieo hạt lúa nảy sinh một cây lúa. Cây lúa này chính là hạt lúa lúc trước chứ không phải từ một hạt gì khác, hay thậm chí là hạt lúa khác. Ta biết chắc rằng cây lúa này từ hạt lúa kia mà ra, nhưng ta không biết được là tại sao hạt lúa lại trở thành cái cây như vậy. Hạt lúa trước kia chính là cái cây mà ta đang thấy lúc này đây. Hạt lúc không còn nữa, chỉ còn lại cây lúa. Nói cách khác, hạt lúa ấy đã được biến đổi để trở nên một cái gì đó khác đi, hoàn hảo hơn, tràn đầy sức sống hơn.

Hình ảnh minh hoạ này giúp chúng ta hiểu về sự biến đổi thân xác diệu kỳ mà ơn phục sinh của Thiên Chúa sẽ thực hiện trên chúng ta. Chúng ta chỉ đang ở trong giai đoạn “hạt lúa”, cần phải chết đi trong niềm tin vào Đấng Phục Sinh, để Đấng ấy làm nơi ta một sự biến đổi lạ thường chỉ “trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên.” (1Cr 15,52).

Đề tài này vẫn còn nhiều chi tiết cần bàn đến nhưng hy vọng một vài gợi mở nhỏ bé này đã đủ để giải đáp thắc mắc của bạn cũng như khơi lên niềm hy vọng trong lòng bạn.

Thân ái,

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

CHUYỆN TÌNH BUỔI BÌNH MINH

CHUYỆN TÌNH BUỔI BÌNH MINH

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Các bạn trẻ thân mến,

Sau một đêm vất vả nhưng không bắt được con cá nào, các tông đồ chèo thuyền vào bờ trong tâm trạng u buồn về tinh thần, đói lả về thân xác.  Nghe theo lời khuyên của một người lạ, họ quyết định thử thả lưới lần cuối với chút hy vọng mong manh.  Ai ngờ, chỉ một mẻ lưới tình cờ đã có thể bắt được rất nhiều cá.  Nhạy cảm trước sự kiện lạ này, Gioan đã nhận ra Thầy chính là người lạ đã đưa ra lời chỉ dẫn kia.  Thế rồi họ cũng vào bờ, mang ít cá mới bắt được đến bên bếp lửa đã được Thầy nhóm sẵn.  Cùng với chút bánh Thầy mang tới, tất cả dùng chung với nhau bữa ăn sáng đạm bạc nhưng chan chứa niềm vui.

Trời lúc ấy mới hừng đông.  Ánh mặt trời con non nớt, chiếu qua những hạt sương long lanh. Tiếng sóng vỗ rì rào theo chiều gió thổi.  Có lẽ đã lâu lắm rồi, Thầy với trò mới có được một bữa ăn nhẹ nhàng và an bình như thế.  Từ sau khi Thầy bị bắt, ngày nào họ cũng phải sống trong lo sợ và u ám.  Cái chết kinh khiếp của Thầy như vẫn còn đâu đây.  Tiếng la hét, tiếng khóc than, tiếng búa gõ vào đầu đinh sắt… những hình ảnh thê lương ấy sao dễ có thể phai nhạt được.  Nhưng giờ đã qua hết rồi, những khoảnh khắc u sầu tăm tối.  Phút yên bình bên bếp lửa đỏ, với miếng cá nồng vừa bắt được và chút bánh thơm phức hương men, Thầy và trò cùng chia sẻ với nhau sự ung dung tự tại, hệt như những ngày vừa gặp gỡ.

Ăn sáng vừa xong, mỗi người một việc.  Chỉ còn lại Phêrô và Giêsu bên bếp lửa.  Khoảng không gian thanh tịnh đến lạ kỳ.  Phêrô hẳn là nghẹn ngào lắm.  Vui vì được nhìn thấy Thầy, bình an vô sự; nhưng cũng buồn vì nhớ lại lầm lỗi của mình chỉ vài ngày trước đây thôi.  Nhớ lại đêm cuối cùng trước khi Thầy chịu khổ nạn, Phêrô luôn mồm khẳng định yêu Thầy, yêu hơn hết mọi người, yêu đến nỗi sẵn sàng chết vì Thầy.  Ấy vậy mà khi sự cố xảy đến, ông đã thề độc, chối bỏ mối tương quan gắn bó sâu sắc giữa mình với Thầy.  Sợ mạng sống của mình bị đe dọa, ông đã gạt Giêsu ra khỏi cuộc đời mình. Cái nhìn của Giêsu đã thấu chạm đến tim ông, gợi nhớ lại trong ông những ân tình đã có.  Bất chợt, bao cảm xúc ùa về, ông đã khóc như chưa từng được khóc, những ngọt nước mắt của hối lỗi, của ăn năn.  Ông khóc cho thân phận kém cỏi của mình, khóc cho những lần kiêu ngạo của mình, khóc cho một cuộc tình bị ông chối từ vì sợ hãi.

Giờ đây, chỉ còn hai người – Thầy và ông – trên một bãi biển hồ vắng.  Ông nghẹn ngào chẳng biết nói điều chi.  Ông tự cảm thấy mình phải thu nhỏ người lại trước Thầy, không còn dám vỗ ngực xưng tên, không còn tự cho mình là người thánh đức nữa.  Nhưng dẫu sao, ông vẫn thấy mình có lỗi với Giêsu, ông nợ Giêsu một lời xin lỗi.  Là một người Thầy thấu cảm tâm tư của trò, Giêsu đã lên tiếng trước. Giêsu không muốn nghe từ ông lời xin lỗi, vì những giọt nước mắt kia đã nói lên tất cả rồi.  Giêsu cũng không cần nghe từ ông lời cam kết sẽ không tái phạm, vì phận người yếu đuối, có ai biết được ngày sau.  Giêsu chỉ muốn ông cho Giêsu biết, chỉ một điều duy nhất thôi: Sau biết bao những biến cố ấy, ông có còn yêu mến Giêsu không?  Ba lần hỏi của Giêsu là ba lần làm ông nghẹn ngào khó tả.  Phêrô không còn dám nói là mình yêu Chúa hơn các anh em khác nữa.  Phêrô thú thật với Thầy là Thầy biết con yêu mến Thầy; chỉ có điều tình yêu ấy còn mong manh quá, còn yếu đuối quá, nên đã bao lần khiến Thầy thất vọng và buồn phiền.  Nhưng thật sự là có, có một tình yêu dành cho Thầy, có một sự lôi kéo trái tim hướng về Thầy.  Tình yêu dành cho Thầy và sự yếu đuối đi song đôi trong trái tim của Phêrô, Phêrô nhận ra điều đó.

Các bạn trẻ thân mến,

Tâm trạng của Phêrô cũng là tâm trạng của mỗi người chúng ta mỗi khi chúng ta phạm tội.  Ta thấy hổ thẹn với bản thân, vì dù đã nhiều lần ta đã nỗ lực không muốn phụ tình yêu Giêsu dành cho mình, nhưng sao ta vẫn chứng nào tật ấy, không sao chừa được.  Sự yếu đuối và tội lỗi cứ đeo bám ta, khiến ta thấy mình như bất lực trong cuộc chiến chống lại chúng.  Nhưng Thầy Giêsu của chúng ta là một người thầy rất tuyệt vời.  Ngài không bao giờ hạch họe ta, không bao giờ khoét sâu trong trái tim ta những nỗi đau vốn đã sẵn có.  Ngài biết ta yếu đuối, Ngài biết ta mỏng dòn, Ngài biết là sẽ có ngày ta bội phản Ngài, bội phản lại tình yêu Ngài dành cho chúng ta.  Nhưng không bao giờ Ngài đối xử với ta một cách tồi tệ.  Điều duy nhất là Ngài muốn ta trả lời khi đến với Ngài là “con có còn yêu mến Thầy không?”  Chỉ một câu hỏi ấy thôi.  Ngài muốn biết trong ta có còn tình yêu dành cho Ngài hay không, muốn biết trái tim ta có còn chỗ cho Ngài không.  Chỉ cần ta trả lời có, bấy nhiêu cũng đủ rồi.

Vâng, tình yêu của Chúa vượt trên những tội lỗi của ta.  Mỗi khi ta vì yếu đuối và vấp ngã, ta đừng tra tấn mình bằng những cảm xúc tiêu cực, hãy tự vấn mình: Ta có còn yêu mến Giêsu không, ta có còn vì Ngài mà cố gắng sống tốt hơn không.  Giêsu chỉ cần ta yêu mến Ngài.  Mọi sự khác, Ngài chẳng quan tâm, vì Ngài biết, tình yêu của Ngài sẽ giúp ta chiến thắng.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Này người ơi! Ghé bến sang sông,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau Chúa Nhật 4 Phục Sinh năm C 17/4/2016

 “Này người ơi! Ghé bến sang sông,”

Lên đường đi tới, bõ công em chèo thuyền.

Mừng người đi, tìm thấy Tình Duyên,

Con đường đất nước, nối liền lòng dân.”

Phạm Duy – Con Đường Cái Quan)

(1 Tim 1: 3-6)

Trần Ngọc Mười Hai

Có thể nói, đây là lần thứ hai trong chuỗi ngày dài những phiếm và phiếm, bần đạo lại cứ trích và dẫn những câu hát của nhạc sĩ họ Phạm, tương-tự giòng chảy đầy thương yêu, như sau:

 “Sông Thương ơi! Nước chảy (ý) đôi ba giòng,

Anh về Hà-Nội một lòng…(thương) yêu em!

Sông Thương ơi! Nước đục người đen,

Anh về Thành-phố… không quên cô mình.”

(Phạm Duy – bđd)

Tìm hiểu lý do sao lại có chuyện như thế, có bạn đạo cứ cho rằng: có thể, điều ấy do bởi bần đạo đây sinh ra tại đất “Hà-thành” ngàn-năm-văn-vật, nên mới thế. Có bạn khác, lại vẫn nói: sở dĩ người viết phiếm cứ hay trích-dẫn giòng dân-ca có bát-âm hoặc ngũ-cung rất gần lòng người/lòng mình, như vậy.

Có thể là như thế. Như thế, tức như thể: bạn bè gần/xa lại cứ cho rằng: bầy tôi đây, những muốn kết-duyên Đạo/đời bằng địa-danh hay tên gọi của một cõi rất “lòng người” có yêu thương vần vũ, như “sông Thương nước chảy đôi ba giòng”, như là “giòng thương/yêu” trữ-tình gì đó chăng? Yêu thương “đôi ba giòng”, còn là lòng thòng những là “tình người nhà Đạo” thấy ở Kinh/Sách, mỗi khi  quay về, đến hôm nay.

Cũng có thể, đây là: lời gọi/mời gửi đi khắp chốn để người người quay về với Kinh/Sách rất “sông Thương” có những giòng êm-ả chảy mà bậc thày ở đây đó từng nhắc nhớ. Nhắc và nhớ, bắt đầu bằng “lời cuối” của nhân-vật rất tiếng-tăm ngành vi-tính tên Steve Jobs, như sau:

“Tôi đã đạt đến tột đỉnh của thành công. Trong con mắt người khác, cuộc đời tôi là một biểu tưởng của thành công. Tuy vậy phía sau của công việc tôi có rất ít niềm vui. Tài sản của tôi cuối cùng cũng bình hoá với tôi. Trong lúc này trên giường bệnh viện, hồi tưởng về cuộc đời, những lời khen ngợi, tự cao, tự hào về tài sản nhưng tôi cảm thấy thật vô nghĩa trước tử thần, cái chết.

 Trong bóng tối, khi nhìn ánh đèn màu xanh và tiếng ồn ào của máy dưỡng khí, tôi cảm nghiệm được những hơi thở của tử thần rất gần kề. Bây giờ tôi mới hiểu thấu, nếu một lần bạn đã có tiền đủ cho bạn, bạn hãy đeo đuổi một mục đích khác không liên quan đến tiền bạc. Nên tìm một điều gì quan trọng hơn. Ví dụ như là lịch sử tình yêu nhân loại, nghệ thuật, ước mơ tuổi thơ… Đừng làm nô lệ cho vật chất, giàu sang, vì nó sẽ biến bạn thành một người yếu ớt như tôi.

 Thượng Đế tạo dựng chúng ta để cảm nghiệm được tin yêu trong tim, chứ không phải những ảo tưởng về tiền tài, danh vọng như tôi đã làm trong suốt cuộc đời nhưng không thể đem theo tôi được. Tôi có thể mang theo được những kỉ niệm của yêu thương. Đây mới chính là sự giàu sang sẽ có thể đồng hành với bạn, là sức mạnh, ánh sáng soi sáng cho bạn tiến tới. Tình yêu có thể đi hàng ngàn cây số và chính vì thế cuộc đời không có giới hạn. Đi, tiến đến nơi mà bạn muốn, Cố gắng lên để đạt được những mục đích. Tất cả là ở trong tim và trong lòng bàn tay của bạn.

 Cái giường nào đắt giá nhất trên đời? giường bệnh viện, vì nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xe lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh cho bạn. Mất tài sản mình có thể tìm lại được, có một cái khi đã mất thì không thể tìm lại được: sự sống. Dù đang ở giai đoạn nào trong cuộc đời, cuối cùng, tất cả phải đối diện khi bức màn sự sống kéo xuống.

Làm ơn hãy nâng niu và nhận thức được giá trị tình yêu gia đình, tình yêu bạn đời và tình yêu bạn hữu, gìn giữ sức khỏe cho bạn và chăm sóc đồng bào của bạn.” (Bản dịch của bạn bè trên mạng)

Và, thêm một lời “trần tình” khác cũng từ một bậc thày ở đâu đó, rất Úc Châu như sau:

 “Ngày nay, lại thấy nhiều chiều-hướng quyết quay về học-hỏi những điều hàm-ẩn nội-dung đích-thực của Kinh-thánh hơn là ấp-ủ một số luận-điểm như ta vẫn làm trong quá-khứ. Bởi thế, cũng nên quảng-diễn các luận-điểm cốt-thiết và đích-thực của thời-đại qua đó Kinh thánh được viết, theo đúng nghĩa…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, Re-Reading the Bible, ACU hôm 6/9/2008 ở Sydney)

Với nghệ-sĩ ngoài đời, thì sự/việc về với nguồn mạch của Kinh/Sách, được diễn-tả theo cung-cách rất khác biệt. Cung và cách của thể-loại âm-nhạc đi vào lòng người như giòng chảy thân thương của “Cưu Long Giang”, sau đây:

“Cửu Long Giang! Gió về vui trên sóng sông,

Uốn quanh như 9 con rồng, ôm chặt đứa con.

Người từ Tiền giang đi về xa xăm cuối con đường say đắm

Là miền rộng thênh thang…”

(Phạm Duy – bđd)

Là gì đi nữa, “miền rộng thênh-thang” hay chốn miền có những “luận-điểm cốt-thiết và đích-thực” của Sách và Kinh đi nữa, vẫn là những luận-cứ rất nên tìm đọc. Đọc để hiểu, rằng: văn-bản, dù là Kinh/là Sách vẫn có những điều cần tìm-hiểu/học-hỏi xem thực/hư ra sao, như lập-trường của một bậc thày thần-học khác, từng xác-chứng bằng lời lẽ chân-tình sau đây:

“Một trong những điều dị-kỳ rất nực cười của đạo-giáo tân-thời hôm nay, là: việc ký-thác vào sự thật biểu-hiện ra bên ngoài qua một vài hình-thức của Đạo Chúa chuyên chú rao-giảng Tin Mừng thật triệt-để; đồng thời kèm theo tầm nhìn bảo rằng sự thật mang tính khách-quan có thể kiểm-chứng được bằng bất cứ nhà quan-sát vô-tư lâu nay từng đưa dẫn nhiều tâm-hồn người đi Đạo tuân theo sự thật ở bất cứ nơi nào nó dắt đến. Và nơi đến, nhiều lúc lại cũng “xa vời” với Đạo của Chúa rất triệt-để hoặc đầy tính giảng rao.

 Thành thử, nếu trên lý-thuyết ta có khả-năng kiểm-chứng được sự thật “khách-quan” của đạo-giáo và rồi thấy rằng: hoá ra, đạo-giáo đang kiểm-chứng lại sai trái một cách có thể kiểm-chứng được, thì sự việc ấy đưa ta đi về đâu?…

 Càng học hỏi sự thật của Kinh Sách về Đạo Chúa, đặc biệt là về Kinh/Sách, bản thân tôi càng nhận ra rằng: “Sự thật” lại đã dẫn đưa tôi về chốn miền nào đó tôi không đi đến… Và tôi đi đến một cảm-nghĩ hiểu rằng Kinh Sách xưa nay không thể là những gì tôi từng nghĩ. Kinh Sách cũng chứa đựng nhiều sai sót. Và nếu là sách mà lại chứa đựng sai sót, thì đó không thể hoàn toàn đúng thật được. Và đây là vấn-đề đối với tôi, do bởi tôi cứ muốn tin vào sự thật, sự thật thần thiêng thánh ái và tôi đã đạt giai-đoạn thấy được rằng Kinh Sách không là sự thật thần thiêng mà lại không có tàn dư. Kinh Sách thật là sách rất con người.

 Nhưng vấn-đề không dừng lại ở đó. Cuối cùng ra, tôi đạt đến tư-duy nhận ra rằng: Kinh Sách không chỉ chứa đựng những sự-không-thật hoặc các lỗi sai sót bất chợt xảy đến mà thôi, nhưng Kinh Sách cũng chứa đựng những gì mà gần như bất cứ ai sống vào thời này có thể gọi đó là sai lầm. Và đó là những gì tôi muốn viết, ở sách này. Hôm nay. (Gs Bart D. Ehrman, Forged, Why the Bible’s Authors Are Not Who We Think They Are, HarperOne 2011 tr. 3-5)

Thoạt nghe những lời trần tình hoặc trần-thuật rất tình người ở trên, hẳn rằng nhiều người lại sẽ nhớ đến Lời Vàng khi xưa Phaolô thá`nh-nhân từng căn-dặn thừa-tác-viên đồng-hành và là đệ-tử thân thương, rằng:

“Khi đi Makêđônia, tôi đã khuyên anh ở lại Êphêsô

để anh truyền cho một số người đừng dạy một giáo lý khác,

cũng đừng chú ý đến những chuyện hoang đường

và những gia phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận,

chứ không đóng góp vào kế-hoạch của Thiên-Chúa mà đức tin cho chúng ta biết.

Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch,

lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình.

Vì đi trệch đường lối ấy, một số người đã sa vào tật nói rỗng tuếch.

Họ muốn làm thầy dạy luật, nhưng lại không hiểu cả điều mình nói lẫn điều mình xác quyết.”

(1 Tim 1: 3-6)

Nói như thế, là nói theo bài-bản của những Kinh và Sách, rất công-khai. Nói về những điều hệt như thế, giống như kiểu nói của người ngoài luồng, ở đời, là nói bằng truyện kể dân-gian có những ý và tình như sau:

“…Rất may mắn, tôi đã gặp cậu và được cố vấn nên sau vài lần xin việc bị từ chối khéo, tôi điền đơn tại bệnh viện Montford theo đúng lời cậu chỉ dẫn. Lý lịch khai rất gọn, phần học vấn bỏ trống, không ghi tốt nghiệp đại học VN. Xin làm Pharmacy Attendant, công việc sai vặt trong khoa dược.

 Bà trưởng phòng nhân viên bệnh viện đọc hồ sơ, ngước mắt nhìn tỏ vẻ thương hại rồi nói, được rồi, anh cứ về, khi nào có chỗ trống sẽ gọi phỏng vấn. Vừa định đứng dậy thì bà ra dấu cho tôi ngồi xuống, ngập ngừng… Tôi biết bên hospice, nhà an dưỡng của bệnh nhân cận tử, đang cần một orderly nam, tức y công đàn ông. Nếu anh không ngại tôi sẽ giới thiệu. Đang đói việc, tôi bằng lòng ngay, bất cứ việc gì.

Y tá trưởng của hospice vui mừng đón nhận tôi.

Bà cho biết công việc không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự nhẫn nại hơn bình thường. Chỉ phục vụ một bệnh nhân đặc biệt và khó tính. Gia đình bệnh nhân này là ân nhân của bệnh viện, đã hiến tặng toàn bộ xây cất và các trang thiết bị cho hospice nên tên của người chồng quá cố, “J.D. Steinberg” được vinh danh trên bảng đồng.

 Bà thành thật cho biết đã có 2 nữ y công bị trả lại vì bệnh nhân không hài lòng và thêm một nữ nữa bỏ việc vì không chịu nổi áp lực.

Tuy nhiên lương bổng rất hậu hĩnh. Bệnh nhân này sẵn sàng trả thêm tiền thưởng tương đương với tiền lương của bệnh viện.

Bà muốn thay đổi, đề nghị tuyển nhân viên nam, hy vọng nam có sức chịu đựng tốt hơn nữ.

 Bệnh nhân là bà Steinberg, khoảng gần bảy chục tuổi, bị ung thư buồng trứng, đã di căn, giai đoạn cuối. Đẹp lão, mập mạp, tướng mệnh phụ. Bà tiếp tôi lạnh lùng, sau khi cô chuyên viên trang điểm rút lui. Hỏi vài câu vắn tắt lấy lệ, rồi cho tôi kiếu.

 Quả thật công việc rất nhàn hạ, nhưng không thơm tho. Bác sĩ, y tá thăm bệnh và cho thuốc men theo thời khoá biểu. Cô quản gia kiêm thư ký công ty của gia đình trình diện vào buổi trưa mỗi ngày, đem thức ăn khoái khẩu của bà và quần áo mới. Tôi chỉ giúp bà làm vệ sinh tiêu tiểu buổi sáng, ngay trên giường và đổ phân vào cầu. Buổi chiều, sửa soạn bồn tắm, giúp bà làm vệ sinh thân thể và đẩy xe đưa bà đi dạo. Ngoài ra, chùi rửa phòng, thay bọc trải giường, mang quần áo chăn mền qua phòng giặt ủi…v…v… Thỉnh thoảng ghé mắt xem bà có cần sai bảo gì không. Khẩn cấp thì phải chạy tìm y tá bác sĩ trực.

 Tôi được sắp xếp cho ở góc cuối phòng, ngăn bằng chiếc màn kéo, đủ kê chiếc giường đơn, ghế nằm và bàn viết. Một ngày chỉ thật sự làm việc độ 3 hoặc 4 tiếng, ăn uống ở câu lạc bộ. Thời giờ quá dư thừa nên tôi mượn sách chuyên môn của thư viện đọc, mơ một ngày nào đó sẽ lấy lại được bằng hành nghề.

Một buổi tối, bà rên khò khè đau đớn, tôi chạy lại thì nghe bà quát, đi lấy cho ta cái “donut” ngay. Ta cảm thấy khó chịu quá!

 Tôi cuống quít nói, thưa bà giờ này quá khuya, e không có tiệm bánh donut nào mở cửa, bà có thể chờ đến sáng sớm mai không? Bà nổi quạu, phán, đồ ngu! Xuống bảo y tá trực đưa. Tôi răm rắp chạy báo cáo bà y tá già. Bà cười ngặt nghẽo, đưa cho tôi cái vòng cao su mầu cam trông giống như ruột xe vespa, bảo, đấy, donut là cái này này. Tôi vỡ lẽ, té ra donut cũng là tên gọi của cái vòng đệm cao su, dùng để kê dưới bàn tọa cho êm.

 Mấy ngày sau, khi đã hơi khoẻ, bà ngoắc tôi lại, ra lệnh, ê thằng Tầu con, xuống kêu con nhỏ làm tóc lên chải đầu cho ta. Hôm nay ta có khách lại thăm. Bị chạm nọc nhưng tôi vẫn đủ bình tĩnh, khẽ thưa, xin bà đừng gọi tôi là Tầu con. Tôi đã 36 tuổi rồi và là người Việt Nam không phải Tầu. Trái với sự mong đợi của tôi, bà tỏ vẻ thân thiện, ngồi thẳng dậy, tròn mắt, hỏi lại, Việt Nam? Việt Nam? Con trai của ta chiến đấu ở VN và đã mất tích từ năm 1970, cũng trạc tuổi của mi.

 Tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Ngờ ngợ có sự liên quan tới Bác sĩ John Steinberg mà tôi quen biết khi còn trong quân đội. Kể từ đó, mỗi khi có dịp, tôi gạ gẫm bà kể thêm về người con trai. Bà rất hứng khởi. Sự nghi ngờ ban đầu đã dần dần sáng tỏ. Gom góp các chi tiết và đối chiếu các sự kiện, tôi đã chắc đến 99.99% John Steinberg, con trai của bà, và BS John Steinberg, bạn tôi, là một người bạn quí.

 Theo bà, John là một đứa trẻ có nhiều cá tính ngay từ nhỏ. Thông minh, bướng bỉnh, tinh thần tự lập cao. Nhiều tự ái, nóng tính, hơi cố chấp và đặc biệt xung khắc với cha.

Ông Steinberg muốn hướng chàng thành một doanh gia. John, trái lại, thần tượng BS Albert Schweitzer. Ước vọng trở thành thầy thuốc giỏi, từ bỏ thế giới văn minh, đến các xứ nghèo Phi châu, mang tài năng và nhiệt tâm phục vụ không điều kiện.

 Sau khi tốt nghiệp y khoa Mc Gill, lúc chuẩn bị nội trú chuyên ngành tại bệnh viện Ottawa thì xảy ra một cuộc đấu khẩu dữ dội giữa hai cha con. John giận cha, bỏ qua Mỹ, tình nguyện nhập ngũ. Được huấn luyện quân sự tại Fort Bragg và tu nghiệp chuyên môn tại Womack Army Medical Center NC. Y sĩ Đại uý John Steinberg sau đó được gửi qua Việt Nam, bổ sung toán quân y thuộc liên đoàn 5 lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ, đóng tại Nha Trang.

John vẫn thư từ liên lạc với bà mẹ đều đặn. Cho đến một buổi chiều ảm đạm mùa thu năm 1970, ba sĩ quan đồng ngũ của binh chủng gõ cửa báo tin con bà đã mất tích khi đang thi hành nhiệm vụ, được ghi vào danh sách M.I.A.

Ông Steinberg bị nỗi hối hận dầy vò, tự đổ lỗi cho chính mình, đã đưa đẩy con trai vào chỗ chết. Ông qua đời ba năm sau.

 Thời gian John công tác, tôi đang làm việc tại bệnh xá gia đình binh sĩ cũng đồn trú Nha Trang.

Chúng tôi cùng đi làm dân sự vụ thường xuyên tại các bản thượng hẻo lánh nên quen biết rồi thân nhau. Thỉnh thoảng tụ tập ăn uống nhậu nhẹt tại các quán bờ biển hoặc đi nghe nhạc phòng trà.

 Khi tin John tử trận bay đến phòng làm việc, tất cả ban quân y chúng tôi đều bàng hoàng. John và toán dân sự vụ Việt Mỹ chết bỏ xác khi máy bay trực thăng trục trặc kỹ thuật, đáp tạm xuống bãi đất hẹp gần nhánh sông chảy xiết. B40 bắn rớt ngay lúc vừa cất cánh trở lại. Duy có một y tá VN tên Công thoát hiểm một cách kỳ diệu. Hắn ngụp lặn, bơi ngược dòng nước, băng rừng suốt đêm đến được nơi an toàn.

Quá hoảng loạn trong nỗi kinh hoàng tột độ, y tá Công bị hậu chấn thương nặng, chuyển về khoa tâm thần tổng y viện Cộng Hoà điều trị vài tháng rồi được cho giải ngũ. Hắn vẫn đến xin thuốc an thần và thuốc ngủ đều đặn nên từ đó anh em đổi biệt danh “Công ngủ” thành “Công không ngủ”.

 Những năm cuối của thập niên 70 và đầu thập niên 80, tôi hay lang thang khắp chợ trời. Tình cờ gặp lại “Công không ngủ”. Hắn đã lột xác, trông bảnh bao, da dẻ hồng hào, ra dáng công tử vườn. Hắn khoe buôn bán thuốc tây, thu nhập khấm khá. Hắn bỏ một buổi buôn bán, mời tôi đi nhậu ở tiệm ăn sang trọng trên đường Nguyễn Huệ. Đãi rượu Martell và thuốc thơm ba số. Lúc đã ngà ngà, hắn nhắc lại chuyện cũ. Bật mí tất cả những gì chưa từng bật mí.

Chiếc trực thăng chao đảo vì phi công bị B40 xuyên nát cổ. Đủ loại súng thi nhau nhả đạn, mọi người nhốn nháo chen nhau nhảy xuống. Đạn đan tròng tréo, có người rớt lịch bịch, có người nằm xuống khi chân chưa chạm đất. Bác sĩ Steinberg cùng hắn và vài người nữa chạy thẳng xuống sông. Các người kia bơi theo dòng nước. Ông bác sĩ Mỹ to cồng kềnh, bơi hoặc lặn cũng không ổn nên tìm chỗ ẩn nấp dưới đám lau sậy. Vốn là dân xóm Cồn, giỏi bơi lội, lại nhỏ con nên “Công không ngủ” nhanh như chớp, phóng xuống giữa dòng, vớ một ống sậy dài, ngậm thở, lặn ngược dòng, đánh lạc hướng của nhóm du kích chạy xuôi trên bờ đang truy đuổi từng người. Nghe tiếng súng AK nổ ròn rã, hắn biết những bờ bụi chắc chắn là những mục tiêu bị nhắm bắn. Hắn tự khen mình thông minh, không trốn theo ông bác sĩ cũng không bơi xuôi giòng. Rất có thể nhiều người đã lãnh đủ những tràng đạn vừa qua.

Đợi khi bóng dáng đám du kích đã hoàn toàn mất hút, hắn bơi đến chỗ ông bác sĩ thăm dò. Vùng máu loang lổ đang lan rộng chứng tỏ ông đã trúng đạn. Sờ mũi, vạch mắt, nghe tim, biết ông đã chết, hắn chỉ kịp mở nút gài túi áo trên lấy chiếc ví dầy cộm, lột chiếc đồng hồ trên tay.

Tiếng đám du kích vui cười nghe rõ dần, có lẽ họ trở lại thu nhặt chiến lợi phẩm. Hắn đẩy xác ông bác sĩ ra giữa dòng để gây sự chú ý, giúp hắn có thêm thì giờ lặn ngược dòng trốn càng xa càng tốt.

Nằm ếm dưới nước, chờ trời tối, hắn bước nhanh vào khu cây cối rậm rạp, nhắm hướng sao đi tới. Rạng sáng, hắn gặp một người đàn bà thượng đeo gùi sau lưng, địu con phía trước đi làm rẫy. Hắn bập bẹ vài tiếng thượng học được, xin chỉ đường đến đồn bót gần nhất.

Bài học mưu sinh thoát hiểm, cộng với may mắn cùng sự giúp đỡ của người dân tốt bụng đã đưa hắn trở về bình yên.

Lợi dụng việc sống sót hy hữu sau tai nạn, hắn đã đóng kịch rất khéo, giả bệnh, qua mặt được mọi người và giải ngũ.

 Hắn cho biết trong chiếc ví của ông bác sĩ, ngoài số tiền mặt khá lớn, đủ để hắn sửa sang nhà cửa và mua chiếc xe Honda 90 đời mới, còn có một lá thư, một tấm hình, vài thứ giấy tờ linh tinh.

Hắn cho tôi địa chỉ nếu muốn đến xem. Tôi không có dịp vì còn mải lo chuyện vượt biển.

 Sự sống của bà Steinberg kéo dài hơn ước tính của các bác sĩ. Bà cho là lời cầu nguyện của bà đã được lắng nghe và hy vọng phép mầu nhiệm sẽ đến qua ơn cứu rỗi. Một tuần trước sinh nhật, bà điện thoại cho hai cô con gái lớn nhắc nhở. Năn nỉ các con cháu sẽ đến và ở chơi với bà một buổi. Bà dặn tôi đến ngày đó phải thu dọn căn phòng trống kế bên sạch sẽ, kê thêm bàn ghế và phụ giúp nhà hàng chăm lo phần ẩm thực.

 Tôi chợt có ý nghĩ nhân dịp này sẽ tặng bà một món quà sinh nhật bất ngờ. Đánh điện tín nhờ vợ tôi mang đến “Công không ngủ”, hẹn giờ ra bưu điện nói chuyện điện thoại viễn liên.

Tôi ngỏ ý muốn mua cái ví của BS Steinberg cùng tất cả các thứ trong đó. Thỏa thuận xong giá cả, tôi yêu cầu hắn tạm thời fax ngay cho tôi những thứ có trong chiếc ví.

Ngày hôm sau, chỉ nhận được bản fax của lá thư và tấm ảnh, nhìn không rõ lắm nhưng chữ có thể đọc mò được.

 Tiền thì hắn nhận đủ nhưng chiếc ví không bao giờ được gửi. Về sau nghe chú hắn nói, hắn đang tìm đường vượt biên và cái ví sẽ là lá bùa khi xét ưu tiên định cư Mỹ.

Sau nhiều năm không ai nhận được tin tức về chuyến tầu của hắn. Có lẽ cái ví cũng theo hắn định cư dưới lòng đại dương.

 Buổi sáng sinh nhật, bà dậy thật sớm tuy cả đêm trằn trọc. Người làm tóc, người trang điểm bận tíu tít. Người ta thay cho bà một bộ đầm sang trọng. Trông bà tươi tỉnh, cười nói huyên thuyên, không ai nghĩ rằng đó là một bệnh nhân sắp từ giã cõi trần. Bà nói đã lâu lắm rồi, không thấy mặt mấy đứa cháu ngoại, không biết chúng nó cao lớn thêm và xinh đẹp như thế nào. Bà tưởng tượng sẽ ôm từng đứa, sẽ phủ mưa hôn trên từng phân vuông của những khuôn mặt thiên thần. Sau đó nếu Chúa có bắt đi ngay bà cũng an lòng. Chỉ tưởng tượng thôi mà cảm xúc đã dâng trào trên niềm hạnh phúc ảo.

 Các tiếp viên nhà hàng mang thức ăn bầy biện đẹp mắt, chiếc bánh sinh nhật hấp dẫn đặt giữa bàn. Tất cả kiên nhẫn chờ được phục vụ.

Suốt từ sáng đến quá trưa, bà bồn chồn, đứng ngồi không yên. Vẫn không thấy con cháu xuất hiện. Toàn thể nhân viên hospice không chờ đợi được nữa, bàn nhau tụ tập vây quanh bà, vỗ tay hát bài mừng sinh nhật. Bà gắng gượng ngồi nghe đến câu cuối, xua tay ra dấu mệt mỏi, để nguyên quần áo nhờ tôi đỡ lên giường.

 Cô thư ký lăng xăng lên xuống, liên tục điện thoại khắp nơi, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Buổi chiều, cô trở lại buồn bã báo tin, cả hai gia đình của hai con gái bà đang vui chơi ở Disney World Orlando Florida từ vài ngày nay.

 Bà Steinberg suy sụp tinh thần thấy rõ. Không ăn uống. Đóng cửa, không tiếp bất cứ ai. Tôi trở thành liên lạc viên duy nhất của bà với bên ngoài. Rất khó khăn ép bà uống thuốc đúng giờ.

 Tối hôm đó, cơn đói đánh thức, bà sai tôi mua một tô súp gà và ly sữa. Tôi mua thêm một chiếc bánh chocolate donut và một cây đèn cầy. Bà chỉ húp vài muỗng súp và một phần ly sữa. Tôi mở bao lấy chiếc donut để trên đĩa giấy, thắp cây đèn cầy, bưng về phía bàn ngủ. Run run hát nho nhỏ, happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday to Mrs Steinberg…

 Bà há hốc miệng ngạc nhiên, im lặng vài khoảnh khắc rồi quay mặt vào tường. Tôi ngỡ bà phản ứng giống như khi nghe nhân viên bệnh viện hát chúc mừng trước đó. Ngờ đâu bà quay lại với đôi mắt ướt, giơ hai tay ôm chầm lấy tôi. Líu lưỡi cám ơn, cám ơn. Bà thổi đèn cầy rồi ăn hết chiếc bánh bình dân một cách ngon lành, nói, đây mới chính là cái “donut” mà ta muốn. Bà cám ơn tôi lần nữa, đã cho bà một sinh nhật tuyệt vời và độc đáo.

 Bà vui vẻ trở lại nhanh chóng. Kể đủ mọi chuyện ngày cũ, toàn những chuyện về John. Trong ba người con chỉ có John nhớ sinh nhật của bà, dù đi đâu xa cũng quay về vào ngày ấy. Bà nhất định cho rằng, bằng cách nào đó, chính John đã mượn tôi thực hiện sáng kiến sinh nhật donut.

 Tôi nói có một món quà sinh nhật và trao cho bà chiếc phong bì đựng bản fax của lá thư và tấm hình. Thêm một lần ngạc nhiên thích thú, bà mở ra. Mới lướt qua tấm hình và đọc vài hàng của lá thư, bà thở hổn hển. Những thứ này ở đâu ở đâu ra? Đúng là nét chữ của ta, đây là lá thư ta gửi John cám ơn lời hỏi thăm sức khỏe khi ta bị té gẫy chân và cho biết tình trạng đã ổn định. Làm sao mi có được? Nói ngay, nói ngay! Còn tấm hình mờ nhưng ta biết đó là hình chụp ta và con chó Buddy.

Tôi cho bà biết chuyện thật đời tôi, tất cả những gì tôi nghe về bạn quá cố của tôi, lúc còn sống, lúc lâm nạn và tại sao tôi có được những thứ đó. Bà nhờ tôi kê gối đẩy lưng cao lên. Đọc kinh tạ ơn Chúa. Bà càng tin rằng John đã nhập vào tôi và mang thông điệp của tin mừng đến cho bà. Bà đã mệt lắm rồi. Linh tính những ngày giờ cuối cùng đã điểm, tôi ở lại bên cạnh bà.

 Thấy bà không ngủ, tôi hỏi có cần gọi y tá không? Bà không trả lời, cầm tay tôi đặt lên ngực phía trái tim, cặp mắt lạc thần, nhìn vào hư không, nói lẩm bẩm như người mộng du.

Baby John của mẹ, con có biết 12 năm nay không có ngày nào mẹ ngưng thương nhớ con? Mẹ nhớ từ tiếng con khóc lúc chào đời…, mẹ nhớ lúc con chập chững những bước đi…. Mẹ nhớ những ngày tuyết đổ mẹ dẫn con vào lớp học giao cho cô giáo vườn trẻ, con níu áo mẹ không rời, mẹ phải ở với con suốt buổi rồi đem con về…. Mẹ nhớ những đêm con ho cảm lạnh, mẹ thức trắng đêm ôm ru con ngủ…. Mẹ nhớ…Mẹ nhớ…. Mẹ khóc mừng ngày con tốt nghiệp đại học…. Mẹ tưởng con của mẹ sẽ mãi mãi êm ấm trong vòng tay mẹ. Nhưng con, con… đã đi và đi không trở lại. Lúc sinh thời, cha con nếu có lỗi với con thì cũng chỉ vì yêu con. Hai cha con bây giờ đã xum họp ở thế giới khác, đâu còn giận hờn. Mẹ cũng sắp sửa gặp cha con và con đây. Con ngoan nhé. Mẹ yêu của con. Tôi lặng yên quỳ xuống đầu giường để bà vuốt tóc. Ước gì thật sự là John để bà trút hết nỗi niềm chất chứa bấy lâu và để cho tình mẫu tử thăng hoa.

 Bà chợt tỉnh, nhận ra tôi nhưng vẫn tiếp tục xoa đầu. Ta thấy hình ảnh của John qua con, con cũng là con ta. Bà dí ngón trỏ lên trán tôi, mỉm cười, nụ cười nhân ái nhất nhận được trong đời, mắng yêu, “THẰNG TẦU CON CỦA MẸ”. Chúa ơi! Bà gọi tôi là con và xưng mẹ! Không biết ai xúc động nhiều hơn ai. Có lẽ không phải là bà mà là tôi. Tôi bỗng buột miệng vô thức…Mẹ, Mẹ… rồi á khẩu. Dòng nước mắt tôi chảy, giọt nước mắt bà lăn dài. Cả hai ôm nhau hoà tan trong nước mắt.

 Trưa hôm sau bà lệnh cho cô thư ký mời luật sư gia đình gặp bà thảo luận chuyện quan trọng. Ông đang có việc ở Âu châu nên chỉ nói chuyện qua điện thoại và hứa sẽ đổi vé, bay về trên chuyến gần nhất.

Bác sĩ được triệu đến khẩn cấp. Bà Steinberg yếu dần, bỏ ăn từ chiều hôm trước, môi khô. Nuốt khó khăn. Mũi thuốc morphine giảm đau liều cao chỉ giúp bà thiếp đi một chốc. Đắp thêm chăn, xoa bóp chân tay, vẫn còn lạnh. Bà đã bị ảo giác, mất định hướng thời gian và không gian. Liên tục thì thào gọi tên John. Tôi nắm bàn tay lạnh của bà vuốt nhẹ, khẽ gọi, mẹ ơi! mẹ ơi!.

Bà thở không bình thường nữa, hắt ra rồi bất động. Bác sĩ vạch mắt, rọi đèn pin soi đồng tử, nhìn đồng hồ lắc đầu. Xong một kiếp người!

 Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mọi người đã có mặt trong phòng. Hai người con gái đi cùng hai luật sư của họ, luật sư gia đình, giám đốc các công ty kinh doanh của gia đình, các đại diện và luật sư của các hội từ thiện, một vài họ hàng thân cận.

 Tất cả yêu cầu luật sư gia đình công bố di chúc. Họ tranh cãi khá lâu, không ồn ào nhưng rất gay gắt. Không đi đến kết quả nên đồng ý giải quyết sau tang lễ.

Nghe thoang thoáng có người đề cập đến tên mình nhưng tôi để ngoài tai vì nghĩ không có gì liên hệ.

Luật sư yêu cầu giải tán để nhân viên nhà quàn làm phận sự. Nhiều người trước khi bước ra khỏi cửa ném cho tôi cái nhìn khó chịu, có người đi ngang tôi với vẻ thù hận ra mặt. Tôi không hiểu tại sao. Không lẽ kỳ thị chủng tộc?

 Những gì xảy ra trong những ngày vừa qua khiến cho tôi chán ngán tình đời. Một quyết định xẹt trong đầu. Đi thật xa. Phải, sẽ đi thật xa để khỏi nhìn thấy những con diều hâu bạc tình bạc nghĩa đang rỉa xác một người đàn bà nhân hậu. Tôi bước vào phòng, đặt một nụ hôn trìu mến trên trán bà mẹ nuôi. Nói nhỏ, lạy mẹ, con đi.

 Tôi về nhà nhét vội vài bộ quần áo vào va li, bỏ lại tất cả đồ đạc, ra bến xe đò Greyhound mua vé đi thẳng Toronto. Cuộc đời lưu lạc bắt đầu từ đó.

 Ông luật sư đãi tôi ăn trưa tại một nhà hàng ở khu phố vắng. Chuyện xảy ra 32 năm trước được giải mật. Khi ông đang ở Paris, bà Steinberg điện thoại, muốn sửa di chúc. Ông chấp hành chỉ thị, thâu băng cuộc đối thoại, soạn thảo văn bản ngay trên chuyến bay khứ hồi. Không may, bà đã không kịp duyệt ký trước khi ra đi.

Các cuộc tranh cãi sau khi bà chết bùng nổ giữa các luật sư. Di chúc chính thức qui định rõ, gia tài được chia làm 3 phần đồng đều, cho 3 người con. Riêng phần của John Steinberg có ghi chú thêm. Vì đã được liệt kê trong danh sách quân nhân mất tích, nên nếu 5 năm sau khi bà mất, vẫn không nhận được tin tức mới, phần này sẽ được chia 50/50. 50% giành cho các cơ quan từ thiện đã chỉ định. 50% sẽ thuộc về 2 người con còn lại.

 Theo bản dự thảo di chúc mới, phần của John được sửa lại, sau 5 năm phần này sẽ được trao cho tôi thay vì chia 50/50 cho các cơ quan từ thiện và 2 người con gái.

 Ông luật sư yếu thế, không thuyết phục được mọi người chấp nhận lời di chúc phi văn bản. Nếu đưa ra toà án phân xử cũng không hy vọng thắng. Kiện cáo có thể kéo dài, sẽ rất tốn kém. Điều quan trọng nhất, người có quyền lợi là tôi thì biệt tích giang hồ, không tìm thấy địa chỉ liên lạc. Bản di chúc cũ được thi hành. “Định mệnh đã an bài”, không thể thay đổi.

Ông trao cho tôi cuốn băng. Giữ lại như một kỷ niệm, ghi nhận tình thương và lòng hào hiệp của bà mẹ nuôi đối với tôi.

– Là triệu phú hụt, cậu có tiếc không?

– Không, không bao giờ. Tôi vẫn nhớ chuyện tái ông thất mã. Trong cái rủi luôn luôn có cái may đền bù. Trong cái may luôn luôn ẩn nấp cái rủi. Nếu lúc đó là triệu phú, nhiều phần đã biến tôi hư hỏng. Tiền không do công sức của mình làm ra là tiền…lèo. Xài tiền lèo thì mình cũng trở thành lèo. Sẽ ỷ lại, không cầu tiến. Vì đã không là triệu phú nên tôi mới là tôi như bây giờ. Bằng lòng với hiện tại.

 Tôi có hai bà mẹ. Bà mẹ da vàng để lại vết tích đậm nét da vàng trên thân xác tôi. Bà mẹ da trắng để lại nhiều dấu ấn khắc sâu trong tâm khảm tôi. Tôi yêu cả hai.

Nếu đến lễ Vu Lan hay Ngày Của Mẹ có ai hỏi tôi, bông hồng hay bông trắng cài áo? Tôi sẽ bảo, vui lòng cài cho tôi hai bông trắng.

-Xin cạn ly mừng cậu có hai bà mẹ trong đời. Chúc cậu đêm nay ngủ thật ngon, sẽ mơ hội ngộ BÀ MẸ TÂY…có con là “thằng Tầu con”. (Truyện ngắn của Nguyễn Cát Thịnh, Bà Mẹ Tây, 1/4/2014)

Nói, bằng truyện kể về nhân-sinh-quan/lập-trường sống của người này người khác, thì như thế. Nói như thế cũng có thể không hài-hoà với đề-tài mình bàn-luận. Nhưng, có nói bằng sách, mách bằng chứng rất lớp-lang, lai-lịch một bài dạy của Kinh Sách, phải nói thêm nhiều điều khác rất khó nói. Bởi, đó chỉ toàn những nói và nói, thôi.

Hôm nay, người viết thấy ít hứng-thú để nói, chỉ muốn về với giòng chảy thi-ca và âm nhạc, bèn hát một đoạn làm câu kết, như sau:

“Này người ơi! Ghé bến sang sông,”

Lên đường đi tới, bõ công em chèo thuyền.

Mừng người đi, tìm thấy Tình Duyên,

Con đường đất nước, nối liền lòng dân.”

(Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, bây giờ mời bạn và mời tôi, ta cứ tiến bước hân hoan mà sống sao cho xứng hợp danh tánh của một “Kitô-khác” rất thân thương, bình thường, không sai lạc. Tiến bước rồi, hạ hồi sẽ tính.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cũng muốn tính

Những chuyện dân-gian bàn luận

Hay chuyện của chính mình

Cũng không xong.

CON CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG?

CON CÓ YÊU MẾN THẦY KHÔNG?

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi.  Có thể chia đời ông ra làm hai giai đoạn.  Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy.  Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Rôma.

Trong cuộc đời phần một của ông, Phêrô đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác.  Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14, 66-72).

Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mảnh đời của ông có nét chân dung thế này: Là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

Mắng lần đầu tiên: Quân yếu tin (Mt 14, 31)

Lần thứ hai: Ngu tối (Mt 15, 16)

Lần thứ ba: Satan (Mc 8, 33)

Chúa chỉ khen có một lần khi Phêrô tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa “Này anh Simon, con ông Gioana, anh có phúc vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy” (Mt 16:16-17).

Con co yeu men

Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy ba lần.  Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy.  Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn.  Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông đã oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối.  Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến.  Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất.  Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn luôn có một tâm hồn chân thành.

Phần hai cuộc đời Thánh Phêrô là một thiên anh hùng ca.  Thiên anh hùng ca bắt đầu từ trang Tin mừng Chúa Nhật hôm nay.  Câu chuyện kể về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria.  Chúa Phục Sinh đã đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy đi về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.

Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây.  Bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến với họ ban cho họ mẻ cá lạ lùng.

Sau mẻ cá, Đấng Phục sinh đã hỏi ông: Phêrô, con có yêu mến Thầy không?  Phêrô đáp: Thưa Thầy, Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.  Chúa hỏi ba lần.  Phêrô xác định cả ba lần lòng yêu mến Thầy, càng về cuối càng cương quyết hơn.  Ba lần chối Chúa đi từ chối nhẹ đến nặng thì hôm nay Phêrô ba lần xác định tình yêu từ nông đến sâu.  Ba lời xác định ấy là bình minh rửa tội quá khứ.  Chúa trao đàn chiên cho Phêrô: con hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy.  Rồi Chúa nói với ông rằng: Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý.  Nhưng khi về già, anh phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn.  Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là: Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào.  Thế rồi Chúa bảo ông: Hãy theo Thầy.  Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao.  Từ đây “trên tảng đá này, Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được.”  Từ đây, những trang sử vẻ vang của giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc chăm sóc đoàn chiên.  Đó là vai trò mục tử của Phêrô.  Bằng tất cả trải nghiệm về đức ái mục tử theo gương Mục Tử Tối Cao, Phêrô đã dạy cho các mục tử trong giáo hội tinh thần: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: Lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy.  Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.  Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.” (1Pr 5:2-4).

Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt.  Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình.  Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác.  Như thế Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu.  Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông.  Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống.  Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt.  Được yêu trong cái tốt của mình là chuyện bình thường.  Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt.  Chính đó là ân sủng.

Ân sủng của Chúa đối với Thánh Phêrô là tình yêu cứu độ.

Cuộc đời Phêrô đầy lỗi lầm nhưng ông được Chúa yêu thương, chọn lựa một cách đặc biệt.  Sao Chúa không trao Giáo hội cho một Tông đồ trí thức, có tài lãnh đạo, có tài hoạch định?  Chúa không đòi hỏi nơi Phêrô sự tài năng, thông thái, khôn ngoan mà chỉ đòi hỏi lòng mến Chúa.  Sau ba lần hỏi “con có yêu mến Thầy không.”  Sau ba lần Phêrô xác định tình yêu ấy, Chúa trao Giáo hội cho ngài.

Yêu mến chính là điều kiện nền tảng để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó.  Không có lòng yêu mến, công việc của người mục tử hay tín hữu dù thành công cũng chỉ là điểm tô, đánh bóng cho cá nhân mình.

Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau?  Thích chở nhau đi chơi?  Thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau?  Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại!  Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu!  Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ!  Phải không?  Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác: Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một niềm vui sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha!  Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng: Khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế.  Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình.  Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì ta thích cầu nguyện, ta thấy hạnh phúc khi đến nhà thờ.  Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa.  Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.

Tình yêu Giêsu có sức mạnh cảm hóa con người và đối với bất cứ ai nếu họ biết đặt niềm tin nơi Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân, khép lại quá khứ để họ trở thành thánh nhân.  Tình yêu Giêsu, một khi ta đã yêu Ngài thật sự, ta sẽ không còn hững hờ nữa mà dấn thân trọn vẹn cả cuộc đời cho tình yêu Giêsu.

Chúa hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy không?  Đó cũng là câu hỏi mỗi ngày Chúa hỏi tôi: Con có yêu mến Thầy không?

LM Giuse Nguyễn Hữu An

nguon: langthangchieutim