“Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm”,

“Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm”,

Xuân đã hồng, thu biếc, tôi làm thơ.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch

Câu chuyện kể bên dưới, lại cũng giống như bài thơ yêu, lòng hoa thắm ở Châu Phi.

Tôi có quen vị linh mục nọ. Ông được cha chánh-xứ mời đến giảng vào buổi Tiệc Thánh, được cử hành tại giáo-xứ thánh Martin de Porres ở Soweto, Nam Phi. Ông là một trong hai người da trắng duy-nhất sống chung với sáu trăm giáo-dân bản xứ trong cộng-đoàn, ở đây. Ông thuật rằng: khi ông giảng, mọi người ở dưới vừa nghe vừa nhảy múa, còn hát vang, cười thích thú mỗi khi ông kể đôi ba chuyện khôi hài để minh hoạ cho đề tài thần học khô cứng, trong bài giảng.             Chia sẻ có đến mười phút, mà cử-toạ vẫn cố nài ông cho họ nghe thêm dăm ba phút nữa. Ông nói đó là lần đầu trong cuộc đời linh-mục, ông bị chê là giảng-giải ngắn quá sức. Ở Soweto, chia-sẻ Lời Chúa tối thiểu phải kéo ít nhất là 20 phút.Thật ra, thì sức sống và năng-lực của giáo-xứ đây, là chuyện thần-kỳ. Bài giảng dù có ngắn, nhưng thánh-lễ vẫn kéo dài đến hơn hai tiếng. Không ai đi trễ. Chẳng ai vội về sớm, để làm gì.

Hôm nay, Giáo hội mừng Chúa Nhật Truyền-Giáo. Theo truyền-thống, đây là ngày để ta suy ngắm về sứ-vụ rao-giảng Tin Mừng của Chúa, đến với mọi người. Nhiều năm về trước, mỗi khi nguyện-cầu cho ơn gọi Thừa-sai, giáo-hội ở đây thường lạc-quyên hỗ-trợ cho công-cuộc truyền-giáo ở các vùng sâu, vùng xa trên thế-giới.

Hy-vọng là, bằng vào nỗ-lực ấy, người dân ngoài Đạo sẽ hồi-hướng quay về cùng Hội thánh. Hẳn ta còn nhớ ở xứ xa xôi thời ấy, chỉ mất 10 xu thôi, ta cũng có thể cho máy bay được ở thêm 1 phút trên bầu trời ngời sáng. Và, chỉ mất một đô thôi, ta cũng có thêm được ít thuốc thang cho người bệnh, đến cả tuần.

Thiên-Chúa có cách riêng biệt của Ngài để đáp trả ý/lời nguyện-cầu, của mọi người. Ngài đổi ngược cảnh-tình thế-giới để cho thấy: ngày nay, nơi nào là xứ-sở truyền-giáo, mới đúng. Ai là người có nhu-cầu tâm-linh, hơn ai hết.

Không có gì để ngờ-vực nữa, các nước phát-triển nay có trách-nhiệm lớn về tiền bạc/tài chánh đối với người anh người chị, ở nước nghèo. Tính bình-quân, ta sở-hữu quá nhiều. Trong khi mỗi ngày, có đến 31,000 người đang chết dần chết mòn vì thiếu ăn, đói khổ. Ở các nước còn đang mở-mang, thì nơi đây, lại thấy sức sống của Giáo-hội triển-nở dồi-dào, mạnh mẽ hơn. Nơi đây, đang thấy sản sinh ra nhiều ơn gọi. Và ơn tử đạo.

Đến nay, người ta còn thấy quá nhiều quốc-gia đã trồi lên như ngọn nến sáng-soi niềm tin, cho thế-giới. Như Nam Phi chẳng hạn, có đến 80 % dân chúng ở đây, theo Đạo Chúa. Và 60 % dân-cư nơi này vẫn hiên-ngang cất bước đến nhà thờ, ngày của Chúa.

Với cộng-đồng người bản xứ thiếu nghèo đủ mọi thứ, ơn gọi lại cứ phát-triển. Và, con số ngôn-sứ tại xã-hội an-bình, công-minh, ít bạo-động, đang cứ thế dần tăng. Và số lượng các vị quyết sống chết vì đạo, không ngại-ngần hy-sinh cuộc sống của chính mình, để người người thấy được một xã-hội lành-mạnh như thế, đang thành hình.

Thế hệ trước, mỗi khi nói đến thừa-sai rao-giảng, ta thường nói theo giọng-điệu kẻ cả, cha chú. Nói, nhưng vẫn theo giọng/điệu tập-trung mọi sự vào Châu Âu. Để rồi, làm cách nào đó khiến nền văn-hoá bản xứ tàn-lụi dần, trong quên-lãng. Ngày tháng ấy, nay trôi dần vào dĩ-vãng. Hội thánh, nay không còn áp-đặt hình-ảnh một Đức Kitô da trắng nắng hồng khom mình trên các trẻ bé da màu, mà ban phát.

Nhưng, người người đều đã nhận ra rằng: Thiên-Chúa nay vẫn hiện-diện với mọi dân-tộc có bản sắc văn-hoá sáng-chói của một bình-minh đầy văn-minh. Những gì Hội-thánh toàn-cầu mang đến cho các Giáo-hội sở-tại, ngang qua tiền bạc và nhân-sự là để phục-vụ. Là, cơ-hội tốt để ta thực-thi những gì mình từng tuyên-xưng ở đây, nơi này. Ngày của Chúa.

Nếu ta chẳng quan-tâm gì tình-trạng đói-nghèo trên thế-giới, như thế là ta chưa nghe biết gì đến tín-thư của Tin Mừng, hết. Tín-thư ấy, nay là: ta phải “cho đi” mọi của cải riêng tư của mình, dù cần-thiết để sống còn. Cho đi, để tất cả con cái Chúa ở đâu đó, đất miền nghèo đói, có cơ may được học hành, được giúp-đỡ về phúc lợi. Và, được săn-sóc về y-tế.

Điều Chúa muốn, là dân con mọi người được sống có phẩm-cách. Hiểu như thế, thì Tin Mừng Chúa Nhật Truyền-Giáo mới có ý-nghĩa sâu-sắc, để đời. Bởi, đã lâu rồi, ta cứ tưởng rằng mình thuộc về Giáo-hội Công-giáo La-Mã tập-trung mọi sự dồn về cho Âu Châu. Hoặc, trời Tây phây phây, đầy đủ. Bởi thế nên, ta vẫn cứ xử sự theo cung cách của kẻ cả, đối với các Giáo hội sở-tại, còn thấp kém. Và từ đó, coi nền văn-minh khác với văn-minh của mình, như tôi đòi, ở dưới.

Rõ ràng là, văn-hoá rất “Tây” của ta, dù có đủ tính-cách tinh-vi phức-tạp, công-bằng và uyển-chuyển, xem ra đang mất đi thần hồn và thần tính, của chính mình. Các nước phát-triển, nay đã nhanh chóng trở-thành đất miền truyền-giáo rất mới, của thế-giới. Trong mai ngày, các nuớc chậm phát-triển, có lẽ sẽ giúp ta tìm lại được diện-mạo Đức Kitô, trong nền văn-hoá của chính mình. Và, một lần nữa như thế, sẽ giúp ta tìm được con đường. Sự thật. Và sự sống. Của Tin Mừng.

Các nước kém cỏi, cho ta thấy rằng, cả vào khi người người có nhu cầu thiết yếu để mưu cầu cho cuộc sống hằng ngày. Sống cho đúng với nhân cách của con người, dù đang ở vào tình cảnh khó khăn, nhưng yêu thương, để đứng vững trong niềm tin yêu, chung thuỷ. Dĩ nhiên là, việc này không đem đến cho ta cú sốc nào cả.

Bởi, như Đức Giêsu nói với ta hôm nay, -và đây mới là điều cần thiết- là: không ai, không có gì, và không nền văn-hoá nào được phép thống-trị người khác. Không được phép trở-thành cơ-chế độc-đoán, với bất cứ một ai. Chí ít là văn-hoá khác mình. Điều, làm cho cộng-đồng dân con Đạo Chúa trở thành những con người cao cả, là lòng khiêm hạ độ lượng. Độ-lượng, trong phục-vụ, khiêm hạ, cả trong lúc được người khác phục -vụ mình, nữa.

Trong cảm-nghiệm những điều như thế, nay ngâm nốt bài hơ còn ngâm dở, vẫn hát rằng:

“Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm,

Xuân đã nồng, thu biếc, tôi làm thờ.

Cửa phòng tôi giăng lưới nhện mong chờ,

Buồn phơ-phất mới trông chiều, ngóng gió.”

(Đinh Hùng – Xin Hãy Yêu Tôi)

Có lẽ, đó sẽ là và còn là sự khác biệt giữa người ở châu Âu, châu Phi và châu nào khác, trong yêu-thương, phụng thờ Đức Chúa, với tấm lòng trong trắng, cũng rất thơ. Đó, cũng sẽ là sự khác-biệt trong cảm-nhận tình yêu-thương nồng-thắm nơi dân con của Chúa, vẫn vui tươi trong thờ phụng và hăng say giùm giúp, đỡ nâng. Đó chính là tình yêu. Là, niềm tin đích-thực của mọi người. Trong đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn  –

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 10: 35-45)

Khi ấy, hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói:“Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi:”Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa:“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Đức Giêsu bảo:”Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp:”Thưa được.” Đức Giêsu bảo:”Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân.Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”

KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Tác giả:  Huệ Minh

Kn.7, 7-11; Dt.4, 12-13; Mc.10, 17-30

Ta vừa được nghe lại câu chuyện khá thú vị về cuộc gặp gỡ hay nói đúng hơn là cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên.

Thánh Máccô ghi lại rằng đây là chàng thanh niên nhưng có lẽ chàng thanh niên này lại là chàng rất đặc biệt. Đặc biệt bởi lẽ ở tuổi xuân thôi nhưng anh lại nghĩ đến đời sau. Chính vì thế, anh ta không ngần ngại hỏi Chúa Giêsu : “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”

Nghe câu hỏi thật lý thú, Chúa Giêsu không trả lời ngay câu hỏi của anh nhưng Chúa Giêsu trả lời khác đi một tí : “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”.

Nghe như vậy, chàng trai cũng hết sức thẳng thắn, chàng bộc bạch : “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.

Phải nói rằng, có lẽ Chúa Giêsu cũng khá sốc bới lẽ dường như chưa bao giờ trong đời mà Chúa lại gặp một chàng trai trẻ mà lại ngoan ngoãn đạo đức đến như vậy. Nhìn thấy anh và nhất là câu trả lời của anh để rồi ta nhìn thấy ánh mắt của Chúa Giêsu thật dễ thương. Thánh Máccô kể tiếp : Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.

Câu chuyện đang hay bỗng dưng kết thúc và theo như ngôn ngữ bình thường là kết thúc không có hậu bởi lẽ chàng thanh niên đã bỏ đi vì buồn. Không buồn sao được khi anh ta có quá nhiều của cải.

Thoạt đầu ta thấy anh ta khôn để hỏi về sự sống đời đời nhưng rồi sau đó xem chừng ra anh ta dại.

Ở đời, cần lắm sự khôn ngoan để minh định về cuộc đời, để định hướng cho mình một lối sống.

Trang sách Khôn ngoan mà chúng ta nghe ở bài đọc thứ nhất đó chính là lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời.

Nói về điểm này, ta thấy ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc “đông đúc”; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi.

Có thể nói rằng may mắn cho ông vì điều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.

Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu chuyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.

Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?

Đây là câu hỏi không dễ trả lời chút nào cả. Theo dõi sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này.

Và cuối, ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.

Qua đây, ta lại có cơ hội để nhìn lại mình để xem ta khôn ngoan ở mức độ nào và khôn ngoan như thế nào ? Ta khôn ngoan theo kiểu thế gian hay khôn ngoan theo kiểu người đời.

Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,

mạnh giỏi chăng là được tám mươi,

mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,

cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.

Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,

trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên ?

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,

ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 89, 10-12)

Cuộc đời con người là như vậy. Dù giàu dù nghèo và gia tài kếch xù như chàng thanh niên đi chăng nữa cũng sẽ phải ra đi, sẽ phải khuất chứ không thể nào lột da sống đời để hưởng thụ. Chính vì thế, ta lại cần đi tìm sự khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa đó là ta được mời gọi bán mọi sự để theo Chúa.

Vẫn là con người, vẫn mang trong mình những bám víu của trần gian. Ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta để ta từ bỏ những gì làm cho ta không thanh thoát, những gì làm ta không đến gần Chúa được.

Tác giả:  Huệ Minh

CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI

CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI

 ĐGM Gioan B Bùi Tuần

 Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.

Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.

Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.

Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến

Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.

Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.

Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.

Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín. Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.

Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.

Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo. Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.

Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ

Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.

Năm 1571, trước cơn đe dọa đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.

Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ, rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.

Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.

Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống.” Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.

Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.

Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.

Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.

Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ

Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.

Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.

Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.

Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau.” Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.

Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).

ĐGM Gioan B Bùi Tuần

LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG

LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG

 (Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (10, 17-30) trích đọc vào Chúa Nhật 28 thường niên B)

 Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là người nhìn xa thấy rộng. Tuy có đầy đủ tiền bạc của cải nhưng tâm hồn anh luôn khắc khoải vì có một khao khát chưa được lấp đầy: khao khát được sống đời đời. Vì thế anh tìm đến với Chúa Giê-su mà anh xem như một bậc Tôn Sư lỗi lạc, “quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Chúa Giê-su dạy anh phải giữ các giới răn. Anh đáp: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thuở nhỏ.”

“Bấy giờ Đức Giê-su nhìn anh và đem lòng yêu mến, Ngài bảo: “Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau  đó, hãy đến theo tôi.”

Qua lời dạy nầy, Chúa Giê-su đề nghị anh đánh đổi của cải phù du đời nầy để chiếm hữu kho tàng vô giá đời sau, nhưng khi “nghe lời đó, anh sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải” (Mc 10, 17-30).

Lời đề nghị với người thanh niên giàu có năm xưa lại được Chúa Giê-su gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải khôn ngoan đem những của cải tạm bợ đời nầy đổi lấy kho tàng vững bền trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là hãy “bỏ con tép bắt con cá”,  mà cá đây lại là cá voi, vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.

Phần thu lớn lao nầy đã được Chúa Giê-su xác nhận với thánh Phê-rô và các tông đồ: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời” (Mc10, 29-30).

Đổi tiền giấy lấy vàng

Vào khoảng năm 1975-80, kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng trầm trọng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá. Vì thế, không ai dại dột giữ tiền trong tủ. Khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả lượng vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế mới an lòng chắc dạ.

Đổi vàng và của cải để lấy công phúc

Những người khôn lúc đó đều có một chọn lựa sáng suốt là đổi tiền giấy lấy vàng. Thế nhưng vàng cũng không còn giá trị đối với người đã nhắm mắt xuôi tay, chẳng còn ích chi cho người đã lìa cõi thế. Do đó, một chọn lựa cũng rất sáng suốt cho chúng ta hôm nay là phải đổi tiền, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ “quý kim” muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.

Mai đây, cái chết sẽ thình lình chụp xuống. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người tay trắng, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!

Xét về một vài khía cạnh nào đó, mỗi người chúng ta đều là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng giàu thời giờ, giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ…

Thời giờ ta đang có sẽ trôi qua nhanh chóng như nước chảy qua cầu, hết phút nầy đến phút khác; Sức khỏe ta đang hưởng hôm nay cũng sẽ hao mòn theo năm tháng;

Của cải tiền bạc rồi cũng sẽ không cánh mà bay;

Khả năng làm việc cũng suy giảm dần dần…

Thế thì, tại sao ta không nhanh chóng đem những thứ “của cải tạm bợ” nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hao vơi trước khi chúng kịp bốc hơi?

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải phù du thành công đức bền vững cho mai sau.

Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ… để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội và phục vụ mọi người. Đó là những cách biến gia sản chóng qua đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.

 Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN

SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN

Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles.  Một chiếc nhẫn trị giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công nương trong đêm định mệnh.  Tai nạn bất ngờ sảy ra.  Diana đi về thế giới bên kia.  Không mang theo được đồng đô la nào.  Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.

Nằm trong quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương.  Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:

Kiếp ngắn dài, một mộ bia

Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian

Dừng chân đếm túi hành trang

Những gì còn lại, chuỗi vàng lời kinh?

(Lm. Trần Cao Tường)

Phải chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế gian… không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?

Hạnh phúc sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian.  Thánh kinh đã khẳng định điều đó.  Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên giàu có “chạy” đến.  Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: “Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp.”  Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt cho không ít người: cứ tưởng “có tiền mua tiên cũng được,” đàng này trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua được.  Đấy chính là một khát vọng vô biên.

Vì là khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian này có thể lấp đầy.  Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ gì… ngoại trừ Thiên Chúa.  Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người.  Chính Thánh Augustinô, sau khi trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng mình, đã thốt lên:

Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi

Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.

Trước những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu như một cứu cánh.  Anh đã “chạy” đến với Ngài.  Chạy là thái độ của khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng quang, chẳng thiết tha.

Trước tâm tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, không…. Và người đó đáp lại: “Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ.”  Nghe thế Đức Giêsu bảo anh ta: “Ngươi còn thiếu một điều.  Có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ nghèo.  Đoạn hãy đến theo Ta” (Mc 10:21).

Thật kỳ lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công, không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ.  Chàng thanh niên giữ các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu.  Không biết đời tôi từng phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!

Thế nên không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời, chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu.  Nếu chỉ không điều này, không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa.  Theo vô vi cũng được vậy.  Song người ta cần phải có.  Đó là có yêu thương, có quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.

“Hãy đến mà theo Ta” cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến đời mình cho sự sống tha nhân.  Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.

http://tonggiaophansaigon.com/sites/default/files/imagecache/main_img/sites/default/files/Images/201210/lal301131.jpgNong nả đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu.  Thánh kinh cho biết “vì anh ta có nhiều của” (Mc 10:22).

Bước theo Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất.  Bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ.  Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.”  Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại, thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống.  Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến mình làm “con vật kinh tế,” thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt, chà đạp, sát phạt kẻ khác… vì đồng tiền.

Bao lâu chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi “sầm mặt xuống, buồn rầu.”  Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong tình yêu và tiếng cười.  Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở:  “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công.  Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó.  Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục.”  Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”

Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự.  Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen.  Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo.  Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.

Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự.  Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều.”

Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi.  Yêu thương san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có.  Đức Giêsu đã bảo: “Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ nghèo.” Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca, nụ cười….

Vậy nếu trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức Kitô- “Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời” – hay tôi sẽ cúi mặt, bỏ đi, buồn rầu.

Chọn lựa bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu.  Nhưng đó lại chính là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.

LM Phêrô Bùi Quang Tuấn

Cha mẹ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong thánh (18-10-2015)

Cha mẹ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong thánh (18-10-2015)
Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

(VATICAN CITY, 1-10). Chân phước Martin và Zélie sẽ là đôi vợ chồng đầu tiên đồng thời được phong thánh. Thánh lễ sẽ diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 2015 tại Vatican. Sự kiện này diễn ra trễ hơn ba tuần so với ngày lễ thánh mừng con gái của hai ngài là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, tiến sĩ Hội Thánh (ngày 01 tháng 10).

Đức Thánh Cha đã phê chuẩn các sắc lệnh cho phép việc phong thánh của ông bà Martin trong kỳ hội đồng giám mục tại Điện Tông Tòa ngày 27 tháng 6.

Ngày 18 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã công nhận một phép lạ của hai ngài.

Sau ba tháng quen nhau, ông Louis Martin và bà Zélie Guérin đã thành hôn (13-7-1858). Họ sống độc thân gần một năm, nhưng cả hai nhận ra ý Thiên Chúa muốn họ sống nghĩa vợ chồng và họ có chín người con. Bốn người chết ngay trong thời thơ ấu, trong khi năm cô con gái còn lại lần lượt vào Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng.

Zélie qua đời vì căn bệnh ung thư vào năm 1877 để lại năm cô con gái nhỏ cho Louis chăm sóc: Marie, Pauline, Leonie, Celine, và Têrêsa khi ấy mới lên bốn tuổi. Louis qua đời năm 1894 sau cơn đau đớn vì hai lần đột vào năm 1889, và suốt 5 năm đau bệnh trầm trọng kéo dài.

Cả Louis và Zélie được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phong chân phước ngày 19 tháng 10 năm 2008.

Việc phong thánh của cặp vợ chồng này sẽ trùng với Thượng Hội Đồng về gia đình được tổ chức vào ngày 4 tới ngày 25 tháng10. Lần gặp gỡ của các giám mục trong ba tuần này sẽ là lần gặp thứ hai và lớn hơn so với hai lần họp như vậy sẽ diễn ra trong suốt năm nay. Như năm 2014, trọng tâm của Hội Đồng Giám Mục năm 2015 là gia đình, với chủ đề: “Ơn gọi và sứ mạng của các gia đình trong Giáo Hội và thế giới hiện đại “

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn kính thánh tích Chân Phước Louis và Zélie trước Thượng Hội Đồng 2014 về gia đình, cùng với cặp vợ chồng khác: Chân phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi.

Công bố tại Tòa án phong thánh hôm thứ bảy rằng Chân phước Louis và Zélie được phong thánh cùng với hai người khác: Chân phước Vincenzo Grossi, một linh mục người Ý là đấng sáng lập hội chị em Tiểu muội và chân phước Mary of the Immaculate Conception (Maria Isabel Salvat Romero), người Tây Ban Nha bề trên tổng quyền của Dòng Các Sơ Thánh Giá.

Chúng ta hãy cầu xin với hai thánh nhân cùng với thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ban cho mỗi gia đình chúng ta thật nhiều phúc lành của Chúa!

Chuyển ngữ: Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

XIN VÂNG

XIN VÂNG

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ.  Hai tiếng “Xin vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.

Trước hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.

Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người.  Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người.  Chúa muốn con người được hạnh phúc.  Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người.  Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa.  Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa.  Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa.  Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.  Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ mà thành công.

Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người.  Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với Đức Chúa Cha.  Với hai tiếng “Xin vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.  Sau hai tiếng “Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.

Hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.

Hai tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ.  Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng.  Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận.  Thì này con đến để làm theo ý Cha”.  Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường.  Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này.  Nhưng xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.

Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa.  Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn.  Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập.  Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà.”  Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo.  Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.

Như thế, để nói tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình.  Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình.  Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé.  Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng.  Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.

Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta.  Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất.  Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được.  Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với Chúa.  Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.  Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa.  Hãy xin vâng khi vui.  Hãy xin vâng khi buồn.  Hãy xin vâng khi hạnh phúc.  Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn.  Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời.  Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.

Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ.  Amen.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chi Thu Mai goi

LỜI TRẦN TÌNH ĐÁNG SUY TƯ CỦA MỘT CỰU LINH MỤC

CAu nguyenLỜI TRẦN TÌNH ĐÁNG SUY TƯ CỦA MỘT CỰU LINH MỤC

 Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục.  Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô.  Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách.  Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên.  Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa.

Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý.  Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa.  Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này.  Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện họ lên tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài.  Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt.

Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó.  Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi.

Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con.  Con phó thác mọi sự trong tay Chúa.  Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì?”

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện.  Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa.  Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi.  Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân.  Siêu đẳng như tôi thì không cần.  Càng ngày tôi cũng càng ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên.  Chuyện gì đến cũng đã đến.  Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt.  Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này:  Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài.  Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện.”  Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha.  Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao.  Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính.  Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”: Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa.  Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí “dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn.

Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ.  Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng.

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.

Trích “Nên thánh trong thời đại mới”, Kilian Mc Gowan, C.P

Người dịch LM JBM Trần Minh Cương

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

LỜI CHÚC: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA

  1. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

– Chúa ở cùng anh chị em.

Dừng lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ quá kỳ diệu.

Chúa ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại lời cầu chúc:

– Và ở cùng cha.

* * *

Nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói, nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo làm sao! Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.

Khi họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi EMMANUEL.

EMMANUEL là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để mất vẻ đẹp: CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA?

* * *

EMMANUEL

– Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).

Khởi đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”

Kết thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về mình bằng lời chấm dứt như sau: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28:20).

Mở đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở cùng con người.

* * *

TÌNH YÊU VÀ Ở CÙNG

Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống.

Thiên Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên.

Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.

Trong cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe mạnh hơn, tôi vớt anh lên.

Màu nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.

Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên thương xuống?

Tại sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà lại là cùng xuống để nhìn?

Phêrô cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan. Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa. Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.

Ðời người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Ðể giúp người học trò tìm kiếm. Nhà đạo sĩ hỏi người học trò:

– Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?

Tình yêu không cứ là “doing”, mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở cùng – being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”, mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là có “doing” đó, nhưng vắng mặt của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con. Bà không “doing” được điều gì theo nghĩa sản xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó. Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”

Trong cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói rằng “anh ở cùng em.” Buổi chiều đó có thể trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà không có “being”. Trong nỗi đau, con người thường kêu:

– Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.

Họ muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! (Lc. 23:39). Con người thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền năng thoát khỏi cái chết này.

Tại sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà là chết cùng?

Trước khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học trò về một kinh nghiệm:

– Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau đó. Nhưng nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em. Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi không “doing” gì được. Ông ở nhà đi câu.

Hạnh phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.

Thiên Chúa ở cùng.

Ðó là ý nghĩa EMMANUEL, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như sau:

Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc 15: 37).

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:

Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).

Hai sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà ta phải kiếm tìm.

– Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi, cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như thế, tên gọi EMMANUEL, càng ngày theo chiều lịch sử cứu độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn màu bật tung lên trong thánh lễ.

– Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”. Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người. Ðáng nhẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu đuối nhất?

Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.

Ở cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở cùng.

Chiều sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho con?

Tại sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?

“Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu là ý nghĩa ở cùng?

Ðây là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.

Trời khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao. Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.

Vị tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại. Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng và bóng đêm của riêng anh.

* * *

Từ lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả tên gọi làm người của Thiên Chúa, EMMANUEL, Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:

– Chúa ở cùng anh chị em.

– Và ở cùng cha.

  1. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

(Trích tập suy niệm “KẺ ÐI TÌM”)

Anh chị Thụ Mai gởi

Ký Ức về hai ngôi nhà ở Phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội

Ký Ức về hai ngôi nhà ở Phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội

Sài Gòn–Tuần trước Mừng Lễ thánh Têrêsa, tôi nhớ đến hai ngôi nhà ở phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội.

Năm 1984, lần đầu tiên tôi trở lại Hà Nội sau khi đi biệt 30 năm. Ngày ấy trước Đổi Mới, thành phố xưa không thay đổi mấy, chỉ cũ kỹ hơn và nghèo hơn. Lòng người không biết thế nào, nhưng phố xá còn giữ được cái vẻ yên tĩnh có phần trầm mặc tôi thấy rất gợi cảm. Một ngày cùng bạn  bè đi trên phố Nguyễn Thái Học, tôi để ý một ngôi nhà lớn,  trên mái có cây Thánh Giá. Ngày ra đi tưởng không bao giờ trở lại, tôi chỉ là một đứa trẻ ngu ngơ, đâu có biết gì về các cơ sở của Hội Thánh. Nay trở về thì đã có nhiều suy nghĩ. Tôi nghe nhiều, đọc nhiều về những gì xảy ra với Giáo Hội sau bức màn Tre, màn Sắt, sau đó lại còn cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc. Tin tức lọt ra ngoài cho thấy Giáo hội Miền Bắc ở vào tình trạng hết sức tiêu điều, xơ xác. Chuyến đi này tôi mong được thấy tận mắt. Và tôi cho rằng một điều học được trong chuyến đi là Đức Tin đã lưu  truyền như thế nào trong cảnh ngặt nghèo đó. Tôi hỏi ngôi nhà có Thánh Giá trên mái đó ngày trước là gì vậy, các bạn cho biết đó là Dòng Kín Cát minh xưa. Tôi hơi giật mình: thì ra đây là nơi 80 năm trước  thánh Têrêsa  đã muốn tìm đến vùi sâu  cả cuộc đời mình để thầm lặng hy sinh cầu nguyện cho nhiều người được biết Chúa. Xém chút nữa thi đất mẹ Việt Nam đã đón vào lòng mình một vị thánh  lớn.

Ngôi nhà thứ hai trên phố Nguyễn Thái Học có thể coi là láng giềng của Dòng kín Cát minh cũ. Từ chuyến đi năm 1984 ấy, tôi đã quen biết thêm và giữ liên lạc với một nhóm bạn trẻ Hà Nội và được nghe kể chuyện về cô gái ở trong ngôi nhà đó đã gặp Chúa như thế  nào. Đó là câu chuyện về một tai họa nhưng, như có lời đã nói, trong họa có phúc. Cô là con của một vị thứ trưởng, một thành phần được hưởng những ưu đãi về mọi mặt giáo dục, sinh hoạt, giao tiếp và tiện nghi vật chất mà tuyệt đại đa số thanh niên Việt Nam không thể mơ tưởng, đặc biệt trong hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn của miền Bắc thời ấy. Cuộc sống đang đẹp, tương lai đang hứa hẹn lộng lẫy, tuổi trẻ đang giầu những ước mơ trong tầm tay, bỗng đâu tai họa ập tới. Cô mắc phải căn bệnh không thuốc chữa, tay chân càng ngày càng co quắp lại, phải thở bằng máy, cổ phải đục một đường để đưa khí thở vào phổi, và cứ thế tê liệt đi dần dần tháng này qua năm khác. Có thể hiểu được với cô gái đang phơi phới thanh xuân và với cả gia đình, cái đòn định mệnh ấy nó khủng khiếp ra sao. Có thể mường tượng được những uất nghẹn, phẫn chí, tuyệt vọng… Thế rồi những đồ đệ trẻ của Chúa kín đáo, thầm lặng cũng có mặt trong nhóm bạn bè của Mai Trinh, (cô gái ấy tên là Mai Trinh). Cũng chẳng biết họ đã quen biết nhau thế nào, qua chuyện học hành, sinh hoạt…. Họ đã thì thầm chia sẻ tâm sự bên giường Mai Trinh. Họ chẳng qua những khóa huấn luyện giáo lý viên như ngày nay thường tổ chức, chỉ có tấm lòng thành, có sao nói vậy về ngọn lửa đức tin họ vẫn nuôi trong hồn giữa một môi trường nghịch cảnh. Tới một ngày đức tin ấy đã xuyên qua u ám đi vào lòng Mai Trinh.

Có một phép mầu đã xẩy ra: cô gái đau đớn uất hận trên giường bệnh đã thành một người đầy niềm vui bình an, và niềm vui bình an ấy ở lại với cô không đi nữa. Con sâu đã hóa bướm. Căn phòng và giường bệnh của Mai Trinh trở thành điểm hẹn cho một nhóm bạn trẻ rỉ tai nhau tìm đến chia sẻ nỗi niềm. Sự bình an của Mai Trinh lan ra cả gia đình. Cả ông bố thứ trưởng cũng được cô con gái cảm hóa. Ông cũng đã bị bệnh nặng và được chính con gái dội nước rửa tội cho trước khi qua đời. Tân tòng Mai Trinh đã được ơn làm người loan Tin Mừng của Chúa ngay trong gia đình ruột thịt bằng đời sống chứng nhân.

Trở lại Hà Nội vào đầu thập niên 90, tôi nhờ một bạn trẻ dẫn tôi đi thăm Mai Trinh. Chưa gặp mặt bao giờ, nhưng Mai Trinh nói chuyện rất chan hòa. Hình như chỉ cần chung nhau một hướng nhìn đức tin là người ta có thể nói với nhau rất nhiều điều. Câu nói của bà mẹ Mai Trinh cho tôi ấn tượng đậm đà về cả hai mẹ con. Bà nói: “Bây giờ tôi mừng lắm. Bao lâu cháu còn ở với tôi, tôi sẽ săn sóc cháu với tất cả tình yêu thương. Ngày nào cháu đi, tôi cũng sẽ an lòng, vì tôi biêt cháu đi bình an thanh thoát.”

Hai mẹ con khoe với tôi một bức tượng Đức Mẹ, nói là quà tặng của “bác Trần Xuân Bách”. Hồi đó dư luận xôn xao về việc ủy viên Trần Xuân Bách bị trục xuất khỏi Bộ chính trị. Đối với dân thường thì những việc ở Bộ chính trị lúc nào cũng được bao bọc bởi những tấm màn bảo mật rất thâm cung bí sử. Chỉ nghe loáng thoáng rằng ông Bách muốn làm Gorbatchev Việt Nam. Thất sủng vì bất đồng chính kiến ở mức độ đó trong một chế độ không chấp nhận đa nguyên tư tưởng thì đồng nghĩa với hoạn nạn lớn rồi.

Tìm hiểu thêm tôi lại biết ông quê ở Nam Trực, Nam Định, (hóa ra là đồng hương!). Vùng này mật độ và tỷ lệ dân Chúa khá cao. Trước đây ông lại từng giữ chức trưởng ban tôn giáo vận trung ương. Như vậy có thể đoán Giáo hội  đã phải chịu không ít khó khăn dưới tay ông. Nhưng cả đến một người vô thần gộc và quyền thế thì cũng chả  tìm được một món quà nào thích hợp để tặng cho Mai Trinh hơn là bức tượng Đức Mẹ. Thế là một lần đi công tác nước ngoài người vô thần xuất phát từ một vùng mộ đạo thỉnh Đức Mẹ về đem vui cho một cô  gái từ cõi vô thần mà lại phát hiện ra cánh cửa vào cõi Chúa. Thôi thì cũng là một lẽ đương nhiên, có những hoàn cảnh người ta chỉ còn giữ lại “điều duy nhất cần thiết”.

Tôi biết được thêm một điều: từ ngày chịu phép rửa, đã bốn năm năm rồi, Mai Trinh chưa bao giờ được dự một thánh lễ. Luôn luôn sống với một bộ máy thở, bình oxy cồng kềnh, dây nhợ linh tinh thì đến nhà thờ sao được. Hà Nội những năm đó rất thiếu linh mục, mỗi vị phải phụ trách mấy nhà thờ, chẳng thể cử hành lễ riêng cho ai. Tôi thì lại chẳng có việc gì làm,chỉ có thăm gia đình và đi chơi suốt, chứ không được tham gia mục vụ, đã có cảnh cáo rồi. Về Thái Hà thấy cha già Vũ Ngọc Bích sức đã yếu, mắt đã lòa mà ngày nào cũng bận bịu việc nhà Chúa, nhất là thứ bảy và Chủ nhật, rất muốn đỡ đần Ngài một chút mà cũng đành chịu. Tôi nảy ra ý định hay là dâng một thánh lể bên giường Mai Trinh?

Tôi lên tòa Tổng Giám mục trình bày sự việc và xin phép. Đức Giám mục Phạm Đình Tụng trả lời: “Tôi chỉ ngại cho sự an nguy của cha thôi. Nhưng nếu cha thấy làm được thì cứ làm đi.” Sự an nguy tôi lại không ngại, đã bàn với hai mẹ con Trinh rồi.

Tôi xem lại chương trình đi đây đi đó rồi chọn một ngày thuận tiện. Sáng hôm ấy tôi chỉ đi với một bạn trẻ và một túi đồ lễ đến nhà Mai Trinh. Tôi có tật hay lơ đãng không chú ý đến ngày tháng. Đến bên giường Mai Trinh mở sách lễ ra mới giật mình bỡ ngỡ: “Ô, hôm nay là lễ thánh Têrêsa Hài Đồng!” Mai Trinh chợt reo vui: “Thánh Têrêsa là thánh bổn mạng của con đấy!” Có một niềm vui bỗng nhiên vỡ òa. Bàn tay nào vô hình dẫn dắt chúng tôi vậy? Chúng tôi có định trước đâu? Thoáng cảm thấy thánh Têrêsa ở đâu đây đang mỉm cười. Chúng tôi mắc tội lơ đãng, nhưng chị thánh đã sắp sẵn cho cô em Mai Trinh một món quà lớn mừng lễ Bổn mạng. Ý cầu nguyện từ bao năm xưa của chị  cũng là của cả Hội thánh ngày nay vẫn nở hoa trên mảnh đất đã vắng bóng dòng Cát Minh trên phố Nguyễn Thái Học này! Tôi ở lại trong nhà Mai Trinh khoảng một tiếng, nhưng niiềm vui ấy theo tôi cả ngày.

Khoảng ba năm sau, Mai Trinh qua đời. Nhóm bạn trẻ ở Hà Nội xúm nhau lại tổ chức cho Mai Trinh một lễ tang thật ấm cúng, thật “hiệp thông”. Lần đầu tiên tòa Tổng giám mục cho phép cử hành thánh lễ an táng tại tư gia. Tôi ở trong Nam không ra dự được, nhưng các bạn Hà Nội cho xem những tấm ảnh Mai Trinh nằm rất bình an, rất đẹp trên giường đầy những cánh hoa tươi.

Ngày nay kiến trúc cổ của dòng Cát Minh Hà nội (1920) không còn nữa. Chính quyền đã cho phá đi rồi mặc dù tòa Tổng giám mục Hà Nội đã hết sức vận động yêu cầu giữ lại một mảng kiến trúc cổ nào đó mà người Công giáo nhìn về với những tâm tình thiết tha vì nó gắn bó với ký ức thiêng liêng về thánh Têrêsa. Thế gian này, và nhất là xã hội này, đã có quá nhiều tín hiệu về sự vô cảm của nó với những ký ức tâm linh đó.

Trong ngôi nhà gần đấy cũng chẳng còn Mai Trinh nữa, đã đi theo thánh Têrêsa rồi. Những người bạn trẻ của Mai Trinh thì vẫn còn đó, bây giờ đã đứng tuổi cả. Có người là nữ tu Dòng Mến Thánh Giá ở phố Nhà Chung, có người tham gia các công việc ở giáo xứ Hàm Long, có người làm trưởng ca đoàn ở nhà thờ Thái Hà, lại có người lang bạt sang tận nước Mỹ, năm ngoái tôi gặp ở Virginia và vẫn cứ lúi húi làm việc nhà thờ, và còn nhiều người khác nữa tôi không thể quen biết hay nhớ hết. Trong đời thường, họ sống vô danh với xã hội. Nhưng tôi cho rằng không chỉ có gạch đá hay kiến trúc mới tạo nên ký ức tâm linh cho Dân Chúa. Chính họ là những ký ức sống. Những ký ức nhỏ nhoi. Chẳng có gì để ghi vào sử sách, nhưng họp lại thành ra một dòng chảy triền miên, nó kết thành cái tâm, cái tình của người giáo dân trong Hội Thánh Chúa. Tôi nghĩ rằng nên góp phần vun trồng, gìn giữ những ký ức đó trong ngôi vườn Hội Thánh.  Đó là lý do tôi ghi lại câu chuyện này.

Một lý do nữa: đây không phải là chuyện riêng lẻ, nó nằm trong một chuỗi rất nhiều chuyện về những cơn “Mưa Hoa Hồng” mà Dân Chúa khắp nơi truyền tụng về thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, tạo nên một nét đặc sắc khiến cho bao nhiêu tâm hồn tìm đến với vị thánh rất đơn sơ mà lại rất diệu kỳ này. Từ rất lâu tôi đã muốn giới thiệu và đóng góp vào Ký ức lớn ấy mà mãi vẫn chưa làm. Có lẽ một ngày gần đây, tôi sẽ xin trở lại câu chuyện này, nếu Chị Thánh cho phép…..

Mathêu Vũ khởi Phụng, CSsR

T.B. Vừa định gửi bài về trang Chúa Cứu Thế thì được xem trên truyền hình KTO quang cảnh di cốt của thánh nữ Têrêsa và của song thân Người là hai vị Chân Phước Louis và Zélie Martin được tôn kính đặc biệt trong lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám mục ở Đền thánh Phêrô, Rôma và sau đó được rước về Đền Đức Bà Cả cho dân Chúa chiêm bái. Thượng Hội Đồng kỳ này bàn về đời sống các gia đình. Hội thánh tại gia là nguồn ân phúc nhưng cũng đang đối diện với  nhiều khó khăn thách thức. Đức Thánh Cha Phanxicô và các nghị phụ cầu mong sự hiện diện và hiệp thông của một gia đình thánh giữa Hội Đồng. Xin mong chờ nhiều Mưa Hoa Hồng trên các gia đình năm châu.

Chi Nguyen Kim Bang goi

Lời nào muốn nói nhưng chuốc sầu thêm thôi,

“Lời nào muốn nói nhưng chuốc sầu thêm thôi,”

Tình nào buông trôi, như nắng chiều lưng đồi!

Một ngày nắng ấm, xin chấp cánh bay cao

Ðể rồi mai sau, còn ai nói yêu nhau,

Nhạc tình phôi pha, còn ai thấy xót xa

Người về nơi đâu, thung lũng sầu thêm sâu.

(Nguyễn Trung Cang – Lời Nào Muốn Nói)

(Thư Phillíphê 2: 1-5)           

 Trần Ngọc Mười Hai

 Ấy đấy! Có những sự và những việc ở đời với con người, đều như thế.

Đúng vậy! Có nhiều điều, người đời lại những nói cho lung, cho lắm cũng chỉ “chuốc sầu thêm thôi”. Lại cũng có nhiều điều và nhiều sự trên đời, người đời đều nói hôm nay, có thể không chỉ là “nhạc tình phôi-pha”, cuộc đời “thấy xót xa”, mà vẫn cứ là “thung-lũng sầu, thêm sâu”.

Thế đó, là tâm-tình của nhiều người, trong đời. Còn đây, có lẽ cũng là tình-tự của nhiều người ở Nước Trời Hội-thánh, rất hôm nay?

Câu hỏi ở đây, đã và đang là vấn-nạn “khủng-khiếp” được đưa ra nhân có sự-kiện xảy đến ở khung trời biền-biệt bên ấy, rất trời Tây. Ở đây, là khung trời hăng say, nhộn-nhịp một tình-huống có đấng bậc chủ-quản có rất nhiều quyền-uy, quyết ra tay thực-hiện động-tác này nọ để đổi-mới Nước Trời trần-gian, chưa chấp cánh.

Vậy thì, chuyện phiếm hôm nay lại đã thấy ca-từ người nghệ-sĩ trẻ khi xưa, cứ hát rằng:

“Tình nào chấp cánh trên ngõ buồn mong manh?

Tình nào bay cao cho tủi hờn tuôn trào,

Ngại ngùng muốn nói thương nhau quá ai ơi.

Dù đời chia phôi yêu nhau mãi không thôi!

Ngàn trùng xa xôi thương nhau mãi không nguôi,

Trọn đời chưa vơi trong kiếp sầu buông lơi.

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Thế mới biết, hôm nay, ở trong Đạo hay ngoài đời, lại có những tình-huống khiến việc sống Đạo thêm khúc-mắc với hỏi-han, quyết tìm cho ra một đích-điểm khả dĩ khiến lòng người đi Đạo, sống hăng say, êm ả suốt một đời.

Thế mới hay, tâm-tư nhà Đạo nay vẫn “ngổn-ngang trăm mối” như đấng bậc chủ-quản Sydney hôm nào từng nhận ra nhiều điều, như trích-đoạn bên dưới đã bàn về Thượng Hội-Đồng Giám-mục Rôma 2015 đề cập đến “Hôn nhân”, “Gia đình”, cùng chuyện “Đồng tính luyến ái” như sau

“Có lẽ, sẽ không có gì thay đổi nơi giáo-huấn của Hội-thánh Công-giáo về chuyện đồng-tính-luyến-ái, chút nào hết; phi trừ và cho đến khi, ta có thay-đổi trước mắt nơi giáo-huấn về luật-lệ và luyến-ái giữa người khác phái.

 Lâu nay, nhiều cuộc bàn-cãi/tranh-luận vẫn lập đi lập lại rất nhiều lần trong phạm-vi Hội-thánh Công-giáo cứ bảo rằng: Thiên-Chúa tạo-dựng giới-tính con người vì hai lý-do: thứ nhất, mọi người coi đó như phương-tiện để Ngài đem sự sống mới-mẻ của con người đi vào hiện-thực (tức: việc sinh-sản/cùng Ngài tạo-dựng). Và, lý-do thứ hai, là: phương-cách để ta diễn-tả và bảo-đảm việc dung-dưỡng tình thương-yêu giữa các cặp phối-ngẫu (tức: việc thông-đồng/hiệp-nhất trong tạo-dựng).

 Từ đó các cuộc bàn-cãi/tranh-luận lại vẫn bảo, rằng: việc sử-dụng tình-dục là ‘thuận theo thiên-nhiên’ chỉ khi nào việc ấy là để phục-vụ cả hai mục-đích do Chúa ban. Và, cả hai mục-đích ấy thực sự chỉ có thật trong hôn-nhân mà thôi; và chỉ vào lúc ấy mà thôi, khi việc trao thân cho nhau là để mở ra sự sống mới mẻ. Thế nên, tất cả người nào khác nếu lại dễ-dãi trong ăn nằm xác thịt thì đó là điều sai trái về mặt luân-lý đạo-đức.

 Ngay từ đầu, ai cũng đều thấy: bất cứ hành động tình-dục xác thịt đơn-thuần thôi cũng phải mang nghĩa hoà hợp và sinh con đẻ cái, thì khó có thể là Hội-thánh Công-giáo sẽ chấp-thuận hành-động tình-dục xác thịt của người đồng phái-tính. Sách Giáo Hội-thánh Công giáo đề-cập đến vấn-đề này một cách vắn gọn lạ thường, khi bảo rằng: “Hành-động tình-dục giữa người cùng phái-tính đi ngược lại luật tự-nhiên. Nó đóng chặt hành-động tình-dục không còn nhận được quà tặng sự sống nữa. Hành-động ấy, không diễn-tiến từ sự tán-thành/đồng-thuận chân-phương về cảm-tính và dục-tình.

 Giả như đây là điểm khởi-đầu, thì sẽ có rất ít điều để nói. Thành ra, không gì có thể hiểu là sẽ có chuyện đổi-thay liên-quan đến các hành-động ăn nằm dục-tình giữa người cùng phái tính trong giáo-huấn này hết. Và, sẽ là chuyện phù-phiếm/vô bổ để mọi người tìm biết chuyện ấy. Bởi lẽ, chuyện ăn-nằm xác thịt giữa người đồng tính không có yếu-tố sinh-sản ở trong đó như Hội-thánh muốn. Và, nếu giáo-huấn về chuyện ăn nằm xác thịt giữa người đồng tính không bao giờ thay đổi, thì nền-tảng của giáo-huấn về tất cả các sự việc ăn nằm xác thịt phải thay-đổi trước nhất.” (Xem Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Sydnod – The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ATF Press 2015, tr. 11-12)                    

     Nghe đấng bậc chủ-quản kể về câu chuyện đã và đang xảy ra nơi Hội-thánh Công-giáo rất nhiều lần, thế mà đấng bậc lại bảo, sẽ chẳng có sự gì xảy ra, sau các buổi bàn cãi với tranh luận. Nghe thế rồi, bọn tôi lại liên-tưởng đến câu truyện tiếu lâm chay/mặn về chữ “hỷ” được treo trong ngày cưới, tưởng chừng dễ hiểu, nhưng không phải. Truyện về chữ “Hỷ” hay yếu-tố đầu ở câu nói về mối thất tình những “Hỷ, nộ, ái, ố, ai, hoan, lạc”, rất như sau:

“Chú rể ngắm nghía phòng cưới xong xuôi, bèn có một nhận-định cũng khá là vội vã với anh bạn thân đang đứng gần rằng:

-Chữ “Hỷ” sao rắc rối thế nhỉ, trông cứ như trận đồ bát quái vậy!

-Rắc rối thế nào cơ chứ? người bạn ngạc-nhiên đáp.

-Thì…có nhiều đường ngang, ngõ dọc nhưng lại toàn là đường cụt không à!

-Cậu đây, đúng là người nhạy cảm. Thôi thì, để sau tuần trăng mật rồi, cậu sẽ thấy nhận xét đó rất đúng thật!”

 Nếu là người đời, để diễn-tả tình-huống sống trong đời hoặc tình đời xảy đến sau ngày vui, người người sẽ bảo: mọi chuyện trong đời đều mang tên của hai anh bạn: một là Vũ Như Cẫn, và người kia là: Nguyễn Y Vân, mà thôi.

Ở nhà Đạo cũng thế, nghĩa là: cũng có tình-huống rất tương-tự bánh xe lịch-sử. Thế nghĩa là, bánh xe cứ quay nhanh cho đến lúc quay về điểm cũ, rất giống hệt vòng đòi quay nhanh quay đều và quay mãi, mỗi thế thôi.

Giòng đời quay nhanh hay chậm, vui hay buồn, lại cũng có những tâm-tình như câu truyện kể rất đáng nể để rồi lại sẽ giúp bạn và tôi, ta suy nghĩ cho lung rồi sẽ thấy đúng. Truyện kể, đơn giản chỉ như sau:

Gurdjieff rất nhớ ông bố của ông. Bố ông chết khi Gurdjieff mới chín tuổi, và là người thân duy nhất của ông. Ông kể bố ông gọi ông lại gần và nói:

-Bố sắp chết, và bố không có gì để lại cho con. Bố bỏ lại con trong nghèo nàn và côi cút. Chỉ có một lời khuyên bố muốn cho con – đó là lời khuyên mà bố của bố đã trao cho bố. Bố đã thấy rằng lời khuyên đó là tài sản giầu có nhất mà bất kì người bố nào cũng có thể cho con trai của mình. Con còn trẻ, có thể chưa có khả năng hiểu được lời khuyên này nhưng hãy cứ nhớ nó đi; rồi con sẽ hiểu nó. Và dù con có hiểu nó hay không, hãy bắt đầu cư xử như thế. Con hãy chăm chú nghe và nhắc lại điều bố nói.

 Đó là lời khuyên rất đơn giản. Lời khuyên là: “Nếu ai đó xúc phạm con, làm bẽ mặt con, làm tổn thương con, con không nên phản ứng lại ngay lập tức. Con phải nói với người đó rằng: “Ông hãy đợi hai mươi bốn giờ, và tôi sẽ tới trả lời ông. Đây là chuyện thiêng liêng với tôi mà tôi đã hứa với người bố sắp chết của tôi.” Con hãy đợi hai mươi bốn giờ rồi mới đi tới người đó. Trong hai mươi bốn giờ đó con có thể thấy rằng người đó là phải, hay người đó không phải, nhưng điều ngu xuẩn nhất là lâm vào vòng cãi cọ. Hai mươi bốn giờ đó sẽ cho con cơ hội để mà tỉnh táo hơn. Mọi người phản ứng ngay lập tức sẽ không có đủ thời gian để nhận biết. Họ phản ứng chỉ như máy. Nếu con thấy rằng người đó là đúng, thì hãy đi và cám ơn người đó. Nếu con thấy người đó là sai, thì chẳng cần đi, hoặc nếu muốn đi, con có thể đi và nói : ‘Ông dường như hiểu lầm.’

 Và Gurdjieff thường nói: “Lời khuyên đơn giản đó của người bố sắp chết của tôi đã làm biến đổi toàn thể cuộc đời tôi vì nó đã cho tôi sự nhận biết nào đó, một thức tỉnh nào đó. Thế nên tôi đã không thể phản ứng bất kì gì ngay lập tức. Tôi phải đợi hai mươi bốn giờ. Và kết quả là bạn không thể nào vẫn còn giận-dữ trong hai mươi bốn giờ được.” (trích truyện kể chuyển ở trên mạng, cho mọi người).

Thế đó, là truyện kể ở ngoài đời, có vui có buồn lẫn lộn. Truyện kể ở nhà Đạo, nhiều lúc và nhiều người không kể cho nhau bằng dụ-ngôn, tâm-tình viết thành thư tín, như bức thư của bậc thày ở trường nọ gửi cho đấng bậc vị vọng rày quá cố, như sau:

“Ngài Thomas Merton thân mến,

 Tôi không rõ, mọi người trên ấy có tổ-chức cắt bánh sinh-nhật thiên-quốc hay không. Nhưng, hôm nay, tôi chúc ngài có được thật nhiều hạnh phúc đến với ngài nhất là vào ngày sinh thứ 100, trong năm nay. Tôi không nghĩ là năm tháng ngày giờ lại có nghĩa cũng khá nhiều ở nơi ngài đang hiện-diện như mọi người vẫn làm cho chúng tôi ở nơi đây, tức là nơi ngài cũng như tôi, ta bỏ ra chỉ mỗi 54 năm trời để sống trước khi quá vãng trong một tại nạn lạ kỳ, năm 1968.

 Trên thiệp cảm cảm ơn tôi gửi ngài không có chỗ cho tất những thứ ngài đem vào đời tôi. Tôi biết là mình đang nói thay cho cả ngàn người ở đây.

 Là thánh-nhân theo cách nào đó, cuộc sống của ngài rơi vào hai phân nửa đời người rất tuyệt-vời. Mãi đến tuổi 27, ngài lại đã tham-vọng và chộn-rộn. Sinh tại Pháp, tuy mồ-côi nhưng rồi học-hành tại Anh và sau đó ngài dạy văn-chương tại đại-học-đường Columbia ở New York. Chính ở nơi đó, ngài được mọi người coi là cây viết đầy hứa-hẹn.

 Nhiều lúc, ngài cũng tỏ ra không có trách-nhiệm, để rồi trở thành một người cha của đứa bé còn nhỏ mà lại không được ngài chăm sóc cho tử-tế để rồi lại đã bị giết chết trong lần máy bay oanh-kích hồi Thế chiến thứ hai. Ngài từng quen với sống phá-tán qua hành-xử. Kết-cuộc là, ngài lại rơi vào vòng tay yêu-thương Đức Chúa.

 Ở tuổi 27, ngài đã dấn thân vào đời sống khắc-khổ theo huôn thước của hội dòng Xitô ở đan-viện gọi là Gethsêmani ở bang Kentucky và trở thày dòng Lu-y. Ngài không chạy trốn đi nơi khác như nhiều người xem ra vẫn nghĩ thế. Thực tế, hành-trình đời tu của ngài lại khác hẳn. Linh-đạo của dòng Xitô thật rất đẹp dù khắc-khổ. Nó như thể ăn rau sống mà không trộn nước xốt: toàn cộng-đoàn dòng đều sống trong thinh-lặng triệt-để và tuân-thủ Luật Dòng do thánh Biển-Đức lập ra, là bộ luật tạo thế quân-bình nồng-nhiệt giữa việc nguyện cầu và lao-động. Và sau đó, ngài cảm thấy có tiếng mời gọi tiến xa hơn thế để đi vào đời sống chuyên-tu ở rừng-sâu như một ẩn-sĩ.

 Từ nơi ẩn-náu trong rừng sâu, ngài đã viết với giòng chảy sâu-sắc can-dự vào một số cuộc đấu-tranh cho công-bình hồi thập niên 1960 kể cả phong-trào đòi-hỏi dân-quyền, cùng trào-lưu chống chiến-tranh và đường-lối bất-bạo-động. Có lần ngài viết: “Thay vì ghét bỏ chúng-dân, quí vị lại nghĩ mình là người gây chiến, ghét bỏ những người đói ăn có xáo-trộn trong tâm-thân của quí vị, chính đó mới là nguyên-do tạo nên chinh-chiến. Giả như quí vị yêu hoà-bình, hẳn là quí vị sẽ ghét bất-công, hận chuyên-chế và chán-oán tham-lam, nhưng lại cứ oán-ghét những thứ và những sự tồn-tại trong chính mình, chứ không phải ai khác.

 Tôi đây gặp-gỡ rất nhiều người từng coi việc đấu-tranh cho công-bằng trở-thành công việc thay thế cho niềm tin, tức thứ gì đó họ rất tin-tưởng trong cùng một lúc vẫn rụt-rè xa lánh mọi quan-hệ với Thiên-Chúa. Ngài đã nhắc nhở chúng tôi rằng: đói công-bằng còn thực-tế hơn mọi thứ so-sánh nào khác; và, là việc bày-tỏ lòng tin chứ không phải là sự thay thế.

 Vào thời-điểm tôi đây vẫn kiếm tìm cuộc sống đơn-độc, có vị linh-mục trọng tuổi từng hối thúc tôi đọc cuốn sách thứ hai do ngài viết, tức cuốn “Dấu Chỉ của Giôna”, là sách dựa trên cuốn nhật-ký mà ngài gìn giữ trong cuộc sống ở Gétsêmani từ năm 1946 đến 1952. Theo tôi nghĩ, cuốn này trở-thành cuốn sách tôi vẫn đọc mỗi năm trong đời trong suốt 30 năm vừa qua. Với riêng tôi, đây là chốt-điểm của đời mình. Tôi ưa-thích cung-cách qua đó ngài phấn-đấu tìm cho ra đặc-trưng xác-thực của chính ngài.

 “Dấu Chỉ của Giôna” kết-thúc bằng một lời bạt có tên gọi là “Canh Lửa, hôm 4 tháng 9 năm 1952”. Vào một tối nóng-nực ngày hè năm ấy, ngài phải đi bộ vòng quanh khuôn viên căn nhà ván lá của tu-viện từ trên xuống dưới, xem có dấu-hiệu nào báo trước có cháy rừng thiêu-huỷ khu vục không.                          

 Và, khi ngào đi rà-soát một vòng như thế, mọi ngõ ngách của vườn dòng Gétsêmani lại là cơ-hội để ngài tưởng nhớ, nguyện cầu. Mỗi khi có thày dòng nào đi ngủ, đó là dịp thuận đầy ân-huệ, là việc diệu-kỳ cùng mê say, diệu cảm nữa. Có lần ngài từng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, đêm về là thời-khắc đểcon được tu-do tiếp xúc với Chúa. Theo tôi thì, ở đây, ngài muốn nói đến thời-khắc có được viễn-tượng được thấy các sự việc mà người bình-thường không thể thấy mắt thịt của mình.

 Và lần ấy, ngài lại tiếp-tục thưa cùng Chúa: “Chúa là Đấng ngủ say trong tâm can con, nên con không thể gặp Chúa qua lời nguyện-cầu, nhưng chỉ bằng sức sống trỗi dậy trong cuộc đời và cũng là sự khôn-ngoan bên trong mọi khéo léo, ngoan hiền. Con gặp Chúa trong hiệp-thông: Chúa ở trong con và con ở trong Chúa. Và Chúa ở trong họ cũng như họ đang ở trong con.”

 Ngài Thomas Merton thân thương,

Ngài từng dạy cho tôi biết: nhiều cơ-hội trong đó cần động-thái kiên-trì/bền đỗ hầu tạo được sự đổi-thay rất đích-thực. Và, ngài cũng đã khuyên tôi, rằng: công-bằng không thể do hoạt-động đơn-thuần mà ra dù vẫn xúc tiến không ngừng nghỉ. Những gì ta làm ra, lại ít quan-trọng bằng những gì Chúa cho phép ta làm. Chính đó, là điều tôi đây hằng tâm-nguyện.

 Cảm ơn ngài, hỡi đấng thánh Thomas Merton rất thân thương của tôi.

Michael McGirr”

(X. Michael McGirr, A Letter to Thomas Merton, The Australian Catholics Winter 2015 tr. 8)

Lời của dân con bình thường gửi đấng thánh ở trên lại vẫn nhắn nhủ bạn bè, như bạn và tôi, cũng để đưa dẫn chính tôi và bạn đi vào vườn hoa Lời Vàng có những dặn dò từ bậc thánh-hiền khi xưa vẫn nhắc-nhở và nhủ-khuyên như sau:

Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô

đem lại cho chúng ta một niềm an ủi,

nếu tình bác ái khích lệ chúng ta,

nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí,

nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau,

thì xin anh chị em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn,

là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,

cùng một ý hướng như nhau.

Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh,

nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.

Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình,

nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.

Giữa anh em với nhau,

anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.”

(Phillíphê 2: 1-5)      

Khi xưa, đấng thánh-hiền trong Đạo lại vẫn bảo ban mọi người trong/ngoài đời lời lẽ ân-tình, thật như thế. Và, người nghệ-sĩ ở đời lại cũng dùng lời ca/ý-nhạc khá đánh động, như sau:

“Lời nào muốn nói nhưng chuốc sầu thêm thôi,”

Tình nào buông trôi, như nắng chiều lưng đồi!

Một ngày nắng ấm, xin chấp cánh bay cao

Ðể rồi mai sau, còn ai nói yêu nhau,

Nhạc tình phôi pha, còn ai thấy xót xa

Người về nơi đâu, thung lũng sầu thêm sâu.

 Người xưa có quên chăng hay dỗi hờn ?

Người xưa vẫn tung tăng hay đã chợt sang ngang ??

Tình xưa đã chôn sâu trên lối sầu

Thời gian có bao lâu xin hãy đợi mưa ngâu

 Còn ai trong gió chiều?

còn ai thương nhớ nhiều?

Tình yêu cao ngất trời.

cho suốt đời đếm bước chơi vơi.

Còn đâu giây phút đầu?

còn ai nâng chén sầu?

Ðể ai quay bước về

cho ước thề buốt giá cơn mơ.

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 

Cũng hệt thế, trong gió chiều, “tình yêu cao ngất trời cho suốt đời đếm bước chơi vơi”. Cũng như vậy, lời thơ hay ý nhạc của nghệ-sĩ sẽ cùng với lời khuyên của bậc thánh-hiền đưa người đọc và người nghe đi mãi vào chốn êm đềm của tình “ngất trời”, vời vợi. Ở muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ý-tưởng

Tuy còn hời hợt, như cơn mơ

Những vẫn là những lời phiếm

Cũng rất chân tình

và thành thật

đến suốt đời.  

Rao rao gió thổi phương xa lại,

“Rao rao gió thổi phương xa lại”,

Buồn đâu say ngấm áo xuân ai.

Lay bay lời hát, ơ buồn lạ.

E buồn trong mỗng có đêm nay.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Đêm nay hay mai ngày, nhiều người vẫn buồn như thế. Nỗi buồn, như của người giàu có ở trình-thuật thánh Mác-cô hôm nay. Trình-thuật ở ngoài đời, lại cũng có những nỗi buồn ở đâu đó, cả trong Đạo lẫn ngoài đời, rất hôm nay.

John Calvin, người đầu sáng lập phong trào Thệ Phản, từng chống đối lập trường của Hội thánh Công giáo chủ trương coi luật lệ của Bí tích như phương cách cứu chuộc loài người: “Nếu anh biết giữ gìn luật pháp, thì pháp luật sẽ gìn giữ anh”.Ông có lý để phản bác đường lối rao giảng của một số linh mục, ngày hôm nay.

Ông chủ trương rằng Thiên Chúa định trước mọi việc. Ngài trao ban niềm tin cho ai thì kẻ ấy được cứu rỗi. Calvin biện luận rằng ai không được thế, sẽ bị thua. Chính vì thế, thật khó biết rằng ai là người nào. Chuyện này thật cũng khó.

Tuy thế, chỉ trong vòng vài năm sau đó, cộng đoàn kẻ tin theo ông ở Genève muốn biết làm thế nào để chắc chắn được rằng mình đi đúng đường. Để được rỗi. Và, đồ đệ của ông bèn phải giải thích là có hành xử cho đúng, cho phải lẽ mới hy vọng mình thuộc lớp người được Chúa thương cứu.

Hành xử cho phải, tức không say sưa, vui chơi cờ bạc, đàng điếm. Nhưng, biết làm việc cật lực, tiết kiệm tiền bạc và nhất mực tuân giữ mười điều giới lệnh, có thế mới được xếp vào hàng những người được tuyển chọn. Chẳng thế mà, sau khi Calvin qua đời, giới Thệ Phản đã tuân thủ luật đạo về luân lý rất nghiêm nhặt, thay cho 7 phép Bí tích, để nắm chắc con đường dẫn về Thiên quốc.

Người thanh niên trong Tin Mừng cũng nắm phần chắc là mình đi đúng đường, để được rỗi. Anh hiền lành. Là, dân con Do Thái tuân giữ mọi luật. Và, là người Chúa chỉ nhìn thấy đã chạnh lòng thương. Anh hy vọng luật lệ sẽ cứu rỗi anh. Bởi thế nên, anh vẫn chọn đường đến thiên đường bằng cách thức đúng nhất. Đúng thời. Đúng nơi. Nhưng Chúa đâu chối bỏ bất cứ một ai chỉ muốn sống đàng hoàng. Tử tế. Ngài hiến tặng thanh niên hiền phương cách hay hơn cả, là: chọn lựa tương quan đến với Chúa. Theo chân Chúa.

Bởi, nếu không quan hệ mật thiết với Ngài, thì lề luật và đạo đức chỉ là hình thức của bạo quyền. Không nên tin tưởng vào một Thần Linh đầy bạo quyền. Trái lại, chỉ nên tin Đấng từng đòi hỏi, thử thách mọi người ở những nơi mà người người dễ bị tổn thương nhất. Với người thanh niên trong truyện, của cải là chướng ngại lớn ngăn cản anh đến với Chúa. Khi quan hệ với Chúa, của cải tiền bạc và cuộc sống dễ dãi sẽ bị đặt vào tình thế có nguy cơ. Cần rời bỏ.

Với tín hữu thời tiên khởi, Tin Mừng nhấn mạnh vấn đề nghiêm trọng mà người người vẫn ưu tư khắc khoải: là: luật theo Chúa, phân chia giàu/nghèo, cộng đoàn quyết đi theo Ngài. So với tổ tiên, chúng ta cũng đã và đang thuần hoá tính triệt để của Tin Mừng hôm nay. Thuần hoá, vì thích thú nghĩ rằng luật lệ sẽ cứu được ta.

Trong khi Chúa lại bảo ơn cứu độ chỉ có được nếu ta biết quan hệ mật thiết với Chúa. Mật thiết, trong hy sinh suốt cuộc đời. Luật lệ chỉ hữu ích, tồn tại nếu chúng giúp ta đào sâu tương quan với Chúa, rồi từ đó biết phục vụ người anh em.

Cả luật đạo lẫn luật đời, nếu thực thi cho đúng cách, sẽ đem lại nhiều vấn nạn cùng thử thách có liên quan đến tính cách đạo đức của luật. Với thế giới, mà phần lớn tài nguyên phong phú đang nằm trong tay một số người da trắng trí thức, khuynh loát và, có đạo.

Thì, đòi hỏi của Tin Mừng nay sẽ trực chỉ và thử thách, như từng thử và thách người thanh niên giàu có nọ. Lời của Chúa còn đó, vẫn làm anh rất buồn:” Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.” (Mc 10: 21)

Lời Ngài, nay khuyên dạy ta hãy bỏ mọi sự giàu sang phú quý, để lại đó. Mà theo Ngài. Luật lệ và tiền của, tự thân, vẫn chỉ là những sự vật lưng chừng ở giữa. Cũng tốt. Cũng xấu. Đủ cả. Nhìn mặt xấu, cả hai khuyến dụ ta vào với kiêu căng, quyền lực nhiều ham hố. Về mặt tốt, chúng nâng đỡ phục vụ việc giải thoát hết mọi người. Giúp người người giải và thoát thế giới để họ trở thành nơi chốn phản ánh Vương quốc của nhân cách. Của công lý. Của đồng đều, Chúa vẫn dạy

Quan niệm rằng, mọi sự sẽ thành hiện thực, nếu có Chúa, với Chúa, ta hãy cầu và mong sao cho Tiệc Thánh hôm nay ta cử hành, sẽ giúp ta ngưng lại, không còn tìm cách thuần hoá Tin Mừng Chúa dạy ban nữa. Nhưng, ta sẽ để cho Tin Mừng Lời Chúa dẫn dắt ta đi sâu vào với tương quan mật thiết Chúa. Ngài vẫn đoái nhìn chúng ta, từng người một.

Ngài nhìn, mà chạnh lòng thương. Nhìn và mời ta cùng mọi người trong chúng ta hãy viết lên luật yêu đương. Viết sâu luật đó trong tâm can đọng lắng, theo qui cách nào đó để người người sẽ bày tỏ cho nhau công lý và hoà bình. Ở mọi thời. Mọi nơi. Trong cuộc sống.

Trong cảm-nghiệm cuộc sống có vui có buồn, ta lại ngâm lên lời thơ buồn từng bảo rằng:

“Nắng sao nắng đời xưa ấy.

Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu.

Muốn gởi thương về người cổ độ.

Mà sao tình chẳng nói cho đau.”

(Hàn Mặc Tử – Buồn Ở Đây)

Buồn ở đây hay ở đó, vẫn là nỗi buồn da diết, sầu thảm hoặc cay đắng khiến con người vẫn muốn vất bỏ, cả đêm ngày. Cầu mong sao, nỗi buồn người giàu kẻ nghèo sẽ không làm ta day dứt quên mất cốt lõi Tin Mừng muốn nói là: chỉ mỗi tình thương-yêu người đồng-loại mới là điều cần thiết hơn tất cả. Cả tiền bạc, của cải vật chất khiến thêm âu sầu nhiều ray rứt cả một đời.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 10: 17-30)

 Một hôm, Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Giêsu đáp:“Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” Anh ta nói:“Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta:“Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau:“Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói:”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

Ông Phêrô lên tiếng thưa Người:”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Đức Giêsu đáp:”Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”