Cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần

Cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần

Ngài là ai để tôi yêu Ngài? Đó là câu hỏi không dễ khi tôi chưa một lần cảm được tình yêu của Ngài! Có thể nói rằng cuộc đời của tôi từ lúc ý thức có sự hiện diện của Thiên Chúa, dường như êm trôi nhẹ nhàng và chẳng mấy sóng gió. Cho đến khi một cú ngã xảy đến, tôi mới thật sự biết và dần khám phá sự hoạt động của Ngài, cảm nhận được tình yêu của Ngài và tôi đã yêu Ngài.

Tình yêu Ngài dành cho tôi được ví như một người cha đầy tình nhân ái, luôn ôm trọn đứa con bé nhỏ trong vòng tay mình. Đó là những lúc mà tôi thấy cuộc đời mình thật bế tắc: con đường tương lai bị đóng cửa, kế hoạch bị phá vỡ, cuộc sống hạnh phúc thật mong manh… Tôi nại đến Ngài để cầu xin tha thiết cho một lối thoát, một sự chỉ dẫn sáng suốt và Ngài đã mang đến cho tôi một sự an ủi vô ngần. Thật khác với những suy nghĩ của mình rằng: Ngài sẽ ra tay để tôi được tiếp tục bước trên con đường công danh sự nghiệp, Ngài sẽ chỉ dẫn cho tôi để tôi thực hiện cách tốt đẹp kế hoạch của mình và cuộc sống của tôi sẽ ngập tràn hạnh phúc khi tôi được giàu có vật chất do Ngài ban tặng. Một người cha nhìn xa, trông rộng đã không để cho con cái mình lạc lối trên con đường thênh thang của phú quý vinh hoa; trái lại, Ngài đã bẻ gãy những lối đi ấy để tôi được bước trên con đường có vẻ đầy chông gai, nhưng lại là con đường hạnh phúc và bình an cho tôi.

Tình yêu Ngài dành cho tôi còn hơn cả tình yêu của một người mẹ luôn quan tâm, chăm sóc và sắp xếp mọi sự trong gia đình. Mỗi ngày, tôi được tận hưởng những niềm vui mà Ngài trao tặng khiến cuộc sống của tôi ngập tràn ý nghĩa: Tôi ý thức vai trò của mình nơi gia đình, nơi cộng đoàn, nơi chính người anh em và tôi cố gắng hết sức để chu toàn trách nhiệm của mình. Có khi chỉ là một đóng góp nho nhỏ cho gia đình để tạo nên những buổi sum họp đầy ắp tiếng cười; cũng có khi chỉ là một sự hiện diện khiêm tốn nơi cộng đoàn để nâng đỡ tinh thần lẫn nhau; hoặc có khi chỉ là nụ cười gởi đến tha nhân trong tình thương mến. Hơn thế nữa, mọi việc diễn ra hằng ngày rất đỗi bình thường của tôi dường như luôn có một sự sắp đặt đâu ra đó. Tôi chẳng hề thấy ngán ngẩm với một núi công việc hằng ngày mà theo thói thường, tôi dễ sinh cáu gắt và căng thẳng; Ngài cứ giúp tôi giải quyết mọi sự  trong cái vui vừa làm vừa trò chuyện với Ngài. Những công việc đáng ghét mà tôi phải làm dù không thường xuyên, chẳng còn là mối lo ngại của tôi nữa; tôi thường đùa với Ngài rằng: “Nếu Ngài không giúp con hoàn thành, con sẽ không nói chuyện với Ngài nữa!”. Ấy vậy mà cũng có những lúc tôi chẳng hoàn thành được, tôi cứ im lặng làm như vẻ giận Ngài vậy, rồi Ngài lại ra tay. Trong những lúc im lặng như thế, tôi thấy mình lại được một sự ôm ấp vỗ về của Ngài như một người mẹ dỗ dành con cái mình.

Tình yêu của Ngài luôn khỏa lấp mọi lo lắng, ưu phiền của tôi; nhất là những lúc mà tôi cảm thấy chán chường nhất. Tại sao tôi phải đối diện với sự thất bại? Phải chăng đó là cách Ngài yêu tôi mà tôi không hiểu nổi? Tôi đã phải sống trong đau khổ khi không chấp nhận sự thất bại đó. Càng đau khổ, tôi lại càng chất vấn Ngài nhiều hơn. Càng chất vấn Ngài, tôi lại càng khám phá ra lẽ phải mà Ngài dạy tôi. Cho đến bây giờ, tôi thầm cám ơn cái đau khổ ấy đã biến luyện tôi, khiến tôi nhận ra Ngài yêu tôi biết chừng nào. Trong đau khổ, Ngài dạy cho tôi biết Ngài là ai. Nơi đau khổ, Ngài hướng dẫn tôi sống đức tin cách vững mạnh. Nhìn đau khổ, Ngài chỉ cho tôi con đường phải đi. Qua đau khổ, Ngài huấn luyện tôi trở nên một con người đúng nghĩa. Đối diện với sự thất bại là cơ hội để tôi được nhìn lại chính mình và bước sang một ngã rẽ mới.

Tình yêu của Ngài luôn làm cho đời sống của tôi bình an và hạnh phúc. Không phải tôi bình an vì mọi sự được êm đẹp; nhưng ngay cả khi mọi sự không được diễn ra như tôi mong muốn, tôi vẫn thấy bình an vì tôi tin chắc đó là ý của Ngài. Tôi hạnh phúc vì từng giờ, từng phút tôi được tận hưởng sự bình an ấy. Tình yêu của Ngài đã đong đầy trái tim tôi những cảm nếm ngọt ngào, những hương vị tuyệt vời, những thăng hoa ngập tràn và những thổn thức dâng hiến. Ngài đến trong cuộc đời tôi khi tôi phải đối diện với cái tồi tệ nhất, để rồi Ngài làm cho mọi sự được trở nên tươi đẹp. Có lẽ tôi sẽ chẳng biết Ngài nếu điều tồi tệ ấy không xảy ra; có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ biết được sự hiện diện của Ngài nếu như không có những giờ phút để chất vấn Ngài; và cũng có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ nhận ra Ngài yêu tôi nếu tôi không để cho Ngài soi đường, dẫn lối. Tình yêu Ngài dành cho tôi đã khởi đi từ cái xấu xa nhất của tôi là muốn chất vấn Ngài mọi sự; Ngài thật tuyệt vời khi biến cái xấu xa đó của tôi trở nên sự gắn kết với Ngài. Tôi đã chất vấn Ngài; và Ngài đã trả lời cho tôi bằng cách dẫn tôi đi, cho tôi thấy, giúp tôi nhận định và hướng tôi hành động.

Tôi sẽ làm gì để đáp lại tình yêu của Ngài? Tôi chỉ biết làm mọi sự theo ý Ngài vì tôi biết rằng đó là con đường duy nhất đẹp lòng Ngài và đó là cách duy nhất tôi muốn nói với Ngài: Tôi yêu Ngài!

Therese Trần Thị Kim Thoa

Bỗng dưng yêu đời!

“Bỗng dưng yêu đời!”

Bỗng dưng yêu đời!”

Nhìn mây trắng bay trên nền trời!

Nhìn mây trắng bay ra ngoài khơi!

Bỗng dưng yêu đời!”

(Phạm Duy – Tuổi Xuân)

 Trần Ngọc Mười Hai

(1 Phêrô 2: 16-17)

Ấy đấy! Hát câu “Bỗng dưng yêu đời” những hai lần, là có ý gì? Chắc, đó không chỉ là lời ca hoặc câu hát rất “thất-thanh” của nghệ sĩ họ Phạm đâu đấy nhé! Hát như thế, chắc: cũng là lời khẳng-định của môt số đấng bậc ở nhà Đạo, lẫn ngoài đời.

Thôi thì, của ai thì của, nay bạn và tôi, ta cứ nghe thêm đôi lời nữa, rồi sẽ rõ với lời rằng:

“Bỗng dưng yêu đời!

Bỗng dưng yêu đời!

            Tình yêu thứ nhất quê hương đẹp ngời!

Rồi yêu kế tiếp, năm châu mọi nơi.

 Bỗng dưng yêu người!

Bỗng dưng yêu người!

Từ trong xóm vắng hay trên lộ đầy!

Từ nơi phố đó hay trong làng đây!

 Bỗng dưng yêu người!

Bỗng dưng yêu người!

Ở trong thương xá hay trên vỉa hè!

Ngồi xe “lam” lắc rung rinh đường quê!…”

(Phạm Duy – bđd)

Hát gì thì hát. Nói gì thì nói, có hát và nói về nghệ-sĩ già nhà ta cứ lung linh hoặc gì gì đi nữa, cũng mặc kệ. Hễ đã nghe ông hát câu trên rồi, nào ai dám bảo: ông khác xa người nhà Đạo mình? Bần đạo đây, vốn dĩ không biết nhiều về lối sống ở đời của nghệ-sĩ “già” được bao lăm. Duy, chỉ một điều, là: ông đây từng gây nhiều cảm-hứng cho bần đạo để viết phiếm, cũng vẫn đều. Bởi, có những bài phiếm do bần đạo viết, không ngoài ý-định “đem Đạo vào đời” để sống, thế thôi.

Hôm nay đây, nhân bàn về lối sống của nhà Đạo giữa đời, bần đạo bắt gặp được tư-tưởng và đường lối của đấng bậc nọ vẫn từng bảo:

“Suy tư nhiều về Tin Mừng hẳn có người sẽ nghi ngờ, là bài Thương khó thánh Máccô ghi, có thể đã nhấn mạnh nhiều vào tính miễn cưỡng của Chúa, khi Ngài chấp nhận khổ ải chăng? Quả là, thánh-nhân có nhắc lại việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo, túi cơm, làm bạn với bọn phản phé. Làm thầy những người chối bỏ sự thật, bỏ của chạy lấy người. Nhưng có lẽ ta cũng không nên hiểu thế mãi.

Chớ nên hiểu lối này. Bằng không, sẽ có người ngờ rằng: thánh Máccô ám chỉ Chúa đã hoảng sợ trước cái chết ô-nhục gần kề. Và, trong chiều-hướng ấy, lại có người cũng sẽ nghĩ rằng: khi Ngài cất tiếng dạy ta đọc kinh “Lạy Cha”, là Ngài kêu lên lời ai-oán để cứu mình khỏi cơn buồn phiền, đến thế sao?

Cuối cùng, hiểu theo chiều hướng này, sẽ có người lại cũng nghĩ rằng: Đức Kitô đã chuẩn-nhận “làm theo ý Cha”, nhưng vào phút cuối, Ngài vẫn thấy mình như bị bỏ rơi trên thập giá, phải thế không? Không. Đó không là thần học chín-chắn, rất chính-qui.

Suy cho kỹ, hiểu theo chiều hướng này, chắc chắn có sai sót. Bởi, đọc kỹ đoạn Chúa chấp-nhận thánh ý Cha tại Vườn Dầu, không nên hiểu theo hướng xấu, tức: đổ riệt mọi lỗi cho Chúa Cha;  nhưng, nên coi đây như một khẳng-định, rất chắc-nịch. Khẳng định rằng: Đức Kitô một lòng chung thủy đi theo đường lối Ngài đã chấp-nhận, khi thi-hành ý-định của Cha.

Với con người, Ngài vẫn một mực tuân-phục Cha. Tuân phục cho đến chết. Vẫn thương yêu con người, và yêu thương họ đến hơi thở cuối cùng.

Có như thế, Ngài mới trấn-át giới-chức đạo/đời, thời bấy giờ. Ngài qui-chiếu về khẳng-định nòng cốt này, đến độ họ thấy họ không làm gì được, ngoài chuyện ra tay ám-hại Ngài. Xem thế thì, bằng việc chấp-nhận cái chết trong tuân-phục, Ngài hy sinh đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người thấy: Ngài thương yêu loài người đến cùng.

Điều này cho thấy: Chúa đã sống thực. Sống tư cách rất “người”. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền-lực đen tối sự dữ/ác dẫn đến nỗi chết về thể xác, chết rất nhục.

Hôm nay, có kinh qua thống-khổ của thập giá; và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá phải trả, khi giáp mặt thực-trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời. Vương Quốc bình an và công chính.

Trong cử-hành Tiệc thánh, ta tuyên-xưng mầu-nhiệm sống xứng-hợp Đạo, bằng việc tưởng-niệm sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Chúa, cầu mong được chuyển thể từ tâm trạng sai lầm -nghĩ mình là nạn-nhân do Chúa muốn ta hy-sinh, đau-khổ- để tiến tới trở-thành kẻ có ý-thức chọn-lựa lối sống mẫu-mực yêu-thương của Chúa, Đấng suốt đời trung thành, thuỷ chung trong thuần phục. Thuỷ chung trong thương mến.

Cầu mong cho ta biết trân-quý sự sống, vì có trân-quý ta mới thực-sự từ-bỏ thái-độ tiêu-cực của những người luôn nghi-kỵ, chống-đối lại Vương Quốc Nước trời, ở trần gian.

Cầu và mong, ta dõi bước theo chân Chúa biết rập-khuôn bắt-chước lối sống thuỷ-chung, trong hành-xử giữa Cha và Con dù sự việc có xảy ra thế nào và đường đời có gian-nan đến độ nào đi nữa, Đức Kitô vẫn là mẫu mực cho sự thủy chung/tuân phục, dù Ngài gặp muôn vàn khổ ải đến cùng cực, vẫn làm gương cho ta cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang chúc tụng.

Chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn đang sầu buồn, than khóc ngày Chúa chịu khổ nạn. Bởi, với người dõi bước theo Chúa, sẽ chẳng có gì là tang tóc, đáng để ta than khóc cả. Mà, tất cả vẫn là yêu thương và đồng cảm. Đạo Chúa là Đường dẫn ta đi vào đời, lắm gian nan nhưng không là tang chế, với ta.” (X. Lm Richard Leonard sj, Dáng Em Thu Nhỏ Trong Lời Nguyện, Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Lá năm C 20/3/2016, www.suyniemloingai.blogspot.com 13/3/16)

Vâng. Theo ý của người viết ở trên, hỏi rằng: có đúng là tinh-thần Đạo của ta không nếu cứ ngồi đó mà hát những lời ca ủy-mỵ hoặc than/khóc, ủ-rũ? Rồi còn tạo ra những nghi-thức này/khác trong sống Đạo thực-tế ở đời, vào mùa lễ?

Suy cho cùng, người suy lẫn người dạy lại vẫn nghĩ, rằng: sống Đạo trong đời là sống thực những lời dạy của Thầy mình có giòng chảy y hệt lời người đời vẫn hay hát, như sau:

“Bỗng dưng vui nhiều!

Bỗng dưng vui nhiều!

Niềm vui thứ nhất Ba nuông Mẹ chiều

Và vui thêm nữa Anh yêu Chị yêu!

 Bỗng dưng yêu nhiều!

Bỗng dưng vui nhiều!

Niềm vui kế tiếp không chê giàu nghèo

Và vui chót hết em luôn được yêu…”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Đúng ra phải là như thế, chứ đâu cứ phải rên-rỉ cả trong các bài hát lễ ở nhà thờ! Sống đạo, là sống vui với người/kẻ buồn ở mọi nơi. Sống Đạo, còn là “niềm vui kế tiếp, không chê giàu nghèo, và vui chót hết: em luôn được yêu!”

Vâng. Chính là như thế. Vui sống Đạo/đời là câu hát để đời người nghệ sĩ vui vẻ, vẫn hát rằng:

“Yêu biết bao cuộc sống

Yêu biết bao cuộc đời

Yêu từ ngày hôm nay

Yêu, sẽ yêu còn dài.”

(Phạm Duy – bđd)

Về yêu và sống như người đang yêu và còn yêu, bần đạo lại nhớ đến ý/lời trong câu truyện kể về việc sống ở đời, không hối tiếc, như sau:

Khi nhìn lại cuộc đời mình bạn hối tiếc điều gì nhất? 

Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao. Thù hận hay yêu thương, hạnh phúc hay thảm hại đều chỉ là những sự lựa chọn. 

Theo Business Insider, đây là câu hỏi mà Karl Pillemer, giáo sư về phát triển con người tại trường Đại học Cornell (Mỹ), tác giả của tập sách “30 bài học của cuộc sống: Lời khuyên từ những người thông thái nhất nước Mỹ”, đã hỏi hàng trăm người cao tuổi trên 65 tuổi trong chương trình nghiên cứu Legacy Project (Dự án di sản) của Đại học Cornell. 

Tình yêu, sự nghiệp, con cái, v.v…, không phải là câu trả lời mà giáo sư Pillemer được nghe thấy thường xuyên nhất, mà thay vào đó lại là câu: 

 “TÔI ƯỚC RẰNG TÔI ĐÃ KHÔNG DÀNH QUÁ NHIỀU THỜI GIAN CỦA CUỘC ĐỜI MÌNH CHỈ ĐỂ LO LẮNG”. 

 Nhiều năm trước, khi giáo sư Pillemer, một chuyên gia lão khoa nổi tiếng thế giới gặp bà June Driscoll, một người phụ nữ đặc biệt. Bà Driscoll lúc nào cũng vui vẻ khi ở tuổi 90 và đang sống tại một nhà dưỡng lão. Bà Driscoll nói với giáo sư: “Sống vui vẻ, hạnh phúc nhất có thể chính là trách nhiệm của tôi, ngay tại đây, ngay hôm nay”. 

Câu nói đó đã truyền cảm hứng cho Pillemer đi tìm câu trả lời cho việc làm sao một thế hệ trải qua nhiều mất mát đau thương, qua các sự kiện lịch sử thảm khốc và đau ốm lại có thể là những người hạnh phúc nhất. Ông muốn truyền đạt trí tuệ này lại cho thế hệ trẻ, những người dường như quá mong manh, khi chỉ một sự việc không vừa ý nhỏ nhoi cũng khiến họ mất phương hướng đến nỗi tự kết thúc cuộc đời mình. 

Năm 2004, giáo sư Pillemer khởi động dự án Legacy Project và đã hỏi hơn 1.500 người Mỹ trên 65 tuổi về những bài học quan trọng nhất mà họ học được trong suốt cuộc đời mình.

Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, ông gọi những người mình phỏng vấn là “chuyên gia của cuộc đời” vì chính họ, qua những hạnh phúc và khổ đau, thành công và thất bại đã nắm giữ những bài học trí tuệ nhiều hơn bất cứ nội dung của cuốn sách dạy kỹ năng sống nào.  

Giáo sư Pillemer đã cho rằng những câu trả lời như “ngoại tình, công việc kinh doanh tồi tệ hoặc nghiện ngập” là những điều hối tiếc nhất trong cuộc đời của những người cao tuổi này.

Do đó, ông đã sửng sốt khi nghe đi nghe lại một câu trả lời: “Tôi ước rằng mình đừng lo lắng nhiều quá” và “Tôi hối tiếc vì đã lo sợ quá mức về tất cả mọi thứ”. 

Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, Pillemer nói rằng ông không thể không ngạc nhiên về bài học này. “Những người này đều trải qua các thời kỳ khó khăn trong lịch sử và các bi kịch của cuộc đời, tôi tưởng rằng họ được phép lo lắng ở mức độ nào đó”. 

 NHỮNG NGƯỜI HẦU NHƯ ĐÃ ĐI ĐẾN CUỐI CUỘC ĐỜI NÀY GIẢI THÍCH RẰNG THỜI GIAN LÀ TÀI SẢN QUÝ GIÁ NHẤT CỦA CON NGƯỜI. VIỆC LO LẮNG VỀ NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ KHÔNG BAO GIỜ XẢY RA, HOẶC LO SỢ VỀ NHỮNG THỨ CHÚNG TA KHÔNG THỂ KIỂM SOÁT ĐƯỢC LÀ MỘT LÃNG PHÍ TÀI SẢN NÀY MỘT CÁCH XUẨN NGỐC. 

 Hành trình trên trái đất này của mỗi chúng ta là hữu hạn. Nếu lo lắng quá nhiều, bạn không còn mấy thời gian để tận hưởng, trải nghiệm và hạnh phúc. Vậy làm thế nào để giảm bớt thời gian lo lắng trong cuộc sống này? “Những người thông thái nhất nước Mỹ” nói với giáo sư Pillemer một số cách như sau: 

Hãy sống từng ngày, đừng luôn nghĩ tới tương lai quá xa

Khi bạn sống và thấy mình lo lắng quá nhiều, hãy dừng lại và tự nhẩm “Điều gì rồi cũng sẽ qua”.

Sự việc bạn đang phải đối mặt, dù khó khăn, đau khổ đến đâu rồi cũng sẽ trôi đi. Bạn không thể hủy hoại cuộc sống của mình bằng những suy nghĩ lo sợ được. 

Tuy nhiên, chắc chắn có những ngày u tối mà bạn cảm thấy lo lắng khủng khiếp, không cách nào ngừng lại. Lúc đó hãy cố nghĩ rằng: lo sợ không có tác dụng gì tốt cả. Nó giống như việc tự mình uống thuốc độc mà hy vọng tên hàng xóm đáng ghét sẽ chết vì đau bụng. Hãy gạt nó ra khỏi suy nghĩ hết mức có thể. 

 SỐNG VUI VẺ TỪNG NGÀY, ĐỪNG NGHĨ ĐẾN TƯƠNG LAI XA XÔI ẢM ĐẠM. VIỆC LẬP KẾ HOẠCH LÀ TỐT NHƯNG KHÔNG PHẢI LÚC NÀO MỌI VIỆC CŨNG XẢY RA THEO Ý MUỐN CỦA CHÚNG TA. DO ĐÓ, ĐIỀU QUAN TRONG NHẤT LÀ HÃY SỐNG TRON VẸN TỪNG NGÀY. THAY VÌ LO SỢ VÔ CỚ, HÃY HÀNH ĐỘNG 

 Nếu bạn thấy mình hay có những nỗi băn khoăn lo sợ, hãy tìm hiểu về nó. Ít nhất tìm hiểu nguyên do mà bạn lo lắng là gì, xác định nó rõ ràng. Chỉ việc ngồi lại và phân tích suy nghĩ tiêu cực của bản thân cũng giúp bạn gạt bớt được những muộn phiền vô lý. Tất nhiên, có những lo lắng hoàn toàn hợp lý. Khi đã xác định được chúng, hãy hành động, bắt tay vào làm cái gì đó thay vì ngồi yên và lo sợ. 

 HỌC CÁCH CHẤP NHẬN 1 CÁCH TÍCH CỰC 

 Bất chợt có điều gì đó xảy ra với bạn. Ai đó làm bạn tổn thương. Bạn thấy tức giận, bạn muốn trả thù. “Cô ấy không nên làm như thế với tôi, tôi sẽ nói cho cô ta như thế này, như thế này…”. Quan hệ nhân duyên của con người vô cùng phức tạp. Bạn chẳng thể nào biết được nguyên nhân chính xác tại sao tự dưng một người lại rời bỏ bạn, làm bạn bực mình hay bẽ mặt. Trong trường hợp này, những người cao tuổi từ nhà dưỡng lão sẽ mỉm cười và nói rằng: “Không biết bao nhiêu lần tôi đã tự cảm ơn bản thân vì đã không nói lời nào”. 

 ÍT NHẤT HÃY DỪNG LẠI VÀ ĐỪNG LÀM GÌ KHI TỨC GIẬN. -> BẠN CÓ THỂ NÓI NHỮNG LỜI NẶNG NỀ, GÂY THƯƠNG TỔN ĐỐI PHƯƠNG, NHƯNG SAU ĐÓ THÌ SAO? HÃY NHỚ RẰNG BẠN CHỈ CÓ THỂ ĐIỀU KHIỂN SUY NGHĨ CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ THAO TÚNG TÌNH CẢM, TƯ DUY HAY CUỘC ĐỜI CỦA NGƯỜI KHÁC ĐƯỢC. 

 Hãy chấp nhận những thực tế mà chúng ta không có thẩm quyền thay đổi, gạt đi những suy nghĩ tiêu cực, nhanh chóng lấy lại cân bằng và tiếp tục trải nghiệm cuộc sống. 

Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao. Thù hận hay yêu thương, hạnh phúc hay thảm hại đều chỉ là những sự lựa chọn.

             Suy cho cùng, hoặc suy thế nào đi nữa, vẫn là: suy về cuốc sống làm người và đi Đạo. Suy cho cùng là cũng suy và cũng nghĩ, nhưng chưa hẳn là cùng tận, cùng cực hoặc cùng với nhau. Mà, suy cho cùng là cứ suy cho rốt ráo, cho nhuần nhuyễn những điều mình được học và được suy, bấy lâu nay.

Suy cho cùng, là vẫn suy và cứ nghĩ mãi đến giây phút cuối cùng cuộc đời mình về cuộc sống đi Đạo, rất thương yêu.

Suy cho cùng, còn là và vẫn là suy về tình thương-yêu là cùng tột, cốt lõi của Đạo mình vẫn dạy dỗ.

Suy cho cùng, là vẫn cứ suy để rồi quyết thực-hiện những quyết-định đề ra trong đời mình. Quyết định đó, là quyết sống cho xứng-hợp một đời đi Đạo và sống Đạo của tình thương-yêu đùm bọc, rất tuyệt-vời.

Suy cho cùng, còn là: suy thêm đôi điều để mình và người sẽ không quên những điều cần-thiết rất quyết-tâm lâu nay. Tức, vẫn cứ bảo với mình và với người những điều được bậc thánh nhân hiền lành thường nhắc nhở, như sau:

“Anh chị em hãy hành động

như những người tự do,

không phải như những người lấy sự tự do

làm màn che sự gian ác,

nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa.

Hãy tôn trọng mọi người,

hãy yêu thương anh chị em,

hãy kính sợ Thiên Chúa…”

(1 Phêrô 2: 16-17)

Xem như thế, thì: tất cả nên đặt nặng vào sự tự-do mà “tôn-trọng mọi người”, và yêu thương lẫn nhau và kính sợ Thiên Chúa!” Kính và sợ Thiên-Chúa-là-Tình-yêu, còn có nghĩa kính và trong tình thương-yêu lẫn nhau trong thực-hiện lời huấn-dụ rất vàng ngọc.

Sống tự-do/yêu-thương còn là sống giùm giúp/đùm bọc lẫn nhau cả lúc vui cũng như lúc buồn. Cả, thời vàng son cũng như lúc bĩ-cực, rất đời người.

Sống rất tự-do trong yêu-thương còn là sống cùng và sống với nhau trong Đạo, ngoài đời. Dù, người đời có là người trong Đạo hay ngoài Đạo, vẫn cứ yêu-thương/đùm bọc, giùm giúp. Giùm và giúp để cùng nhau sống có lời hát vui tươi, như mọi người vẫn hát ca-từ của nghệ-sĩ ngoài đời, sau đây:

“Bỗng dưng yêu nhiều!

Bỗng dưng vui nhiều!

Niềm vui kế tiếp không chê giàu nghèo

Và vui chót hết em luôn được yêu…”

 Yêu biết bao cuộc sống

Yêu biết bao cuộc đời

Yêu từ ngày hôm nay

Yêu, sẽ yêu còn dài.”

(Phạm Duy – bđd)

Sống vui và yêu nhiều, còn là sống với mọi người trong vui tươi, hoà hoãn, có kèm những truyện kể rất vui, để nhắc nhau sống cuộc đời mãi như thế.

Sống thực-tế vui tươi, “yêu nhiều” còn là sống rất hãnh-tiến như truyện kể thêm ở dưới để minh-hoạ cho một đời đáng yêu và đáng sống, như sau:

“Ngày xưa, có ông lão cứ vui cười ca hát suốt ngày.
Thấy lạ, có người hỏi:
– Tại sao ông vui tươi mãi như thế?
Ông lão đáp:
-Trời sinh ra muôn loài muôn vật, trâu chó dê ngựa… Người là sinh vật cao nhất, “Tối linh ư vạn vật”. Ta được làm người. Ấy là điều sướng thứ nhất.
-Trời sinh có người tàn tật, đui què. Ta được lành lặn, ấy là điều sướng thứ hai
-Người đời thường vì sự giàu có, danh vọng mà phải gian khổ. Ta có ăn đủ một ngày ba bữa, không lo lắng gì cả. Ấy là điều sướng thứ ba
-Còn như sinh lão bệnh tử là điều không ai tránh được. Ta cũng như mọi người, việc gì phải buồn.
-Nghĩ tới ba điều sướng ta có được, ta vui ca cũng là chuyện thường tình, mắc mớ chi phải hỏi. (
trích từ Cổ Học Tinh Hoa thời xưa cổ)

 Cũng có thể: đó là những điều “sướng nhất” trong đời. Cũng có thể, còn nhiều điều “sướng hơn thế” nhưng tác giả chưa kể hết. Cũng có thể, cuộc đời người không chỉ như thế với nỗi vui và điều “sướng nhất” rất đáng để kể. Và, cũng có thể, còn rất nhiều điều bạn và tôi, ta chưa thể và không thể kể ra hết được.

Thế nhưng, gì gì đi nữa, cũng hãy cùng tôi/cùng bạn, ta cứ hát lên những điều vui sướng rất “bỗng dưng” trong đời để còn yêu đời rất “đáng yêu” như ca-từ được tôi và bạn hát mãi trong đời mình, đời người như sau:

“Bỗng dưng yêu người!

Bỗng dưng yêu người!

Từ trong xóm vắng hay trên lộ đầy!

Từ nơi phố đó hay trong làng đây!

 Bỗng dưng yêu người!

Bỗng dưng yêu người!

Ở trong thương xá hay trên vỉa hè!

Ngồi xe “lam” lắc rung rinh đường quê!…

 “Bỗng dưng yêu nhiều!

Bỗng dưng vui nhiều!

Niềm vui kế tiếp không chê giàu nghèo

Và vui chót hết em luôn được yêu…”

 Yêu biết bao cuộc sống

Yêu biết bao cuộc đời

Yêu từ ngày hôm nay

Yêu, sẽ yêu còn dài.”

(Phạm Duy – bđd)

 Vâng. Cứ yêu và cứ hát lên những điều đáng yêu và đáng sống trong đời mình và đời, ở khắp nơi. Vào mọi lúc.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn thường có quyết tâm như thê

Nhưng lại hay quên

Vì đời, vì người

Và vì người đời trong đời.

Ngoảnh lại, nàng Thơ đã ở bên,

“Ngoảnh lại, nàng Thơ đã ở bên,”

“Mỉm cười, ôi khoé miệng trăm duyên.

Lời nào tả được tình lưu-luyến,

Buổi mới cân-cần với bạn hiền.”

(Dẫn từ thơ Thế Lữ)

 Mai Tá lược dịch.

Với dân-gian thi-giới, Người là Nàng Thơ. Và, khi thi-nhân ngoảnh lại, Nàng Thơ đã ở gần.

Với dân con nhà Đạo, Người là Bạn Tiên Đấng Thánh. Và, khi Đấng Tháng hiện đến, Người ân-cần vẫn mỉm nụ cười có khoé miệng trăm duyên thổi hơi. Làn hơi Chúa thổi, thân-thương đầy tình lưu-luyến, rất Thánh Thần-Bạn Tiên. Và cũng ân-cần vào buổi mới, như trình-thuật diễn-tả, rất hôm nay.

Trình thuật miêu tả buổi mới rất sớm lúc Chúa Phục Sinh. Chính vào ngày Phục Sinh lúc ấy, Thánh Thần Chúa hiện đến với môn đệ bằng hơi của Thầy Chí Thánh (Yn 20: 22). Nhưng ở sách Công vụ, lại thấy ghi: Thánh Thần Chúa xuất hiện vào ngày Ngũ Tuần mang hình lưỡi lửa tản xuống, với từng người (Cv 2: 3).

Hai bản văn, hai phong cách đối chọi hơi khác biệt. Nhưng, cùng nói lên cũng một hiện trạng, rất thực tế. Thực tế, là thời gian – nơi chốn và biểu tượng không là điều quan-trọng với Đức Chúa. Quan trọng, là: hôm nay xuất hiện một trời mới đất mới Chúa đã sáng tạo. Và, buổi mới hôm nay ngập đầy Bình an và Nỗi vui của trời mới đất mới, Ngài mang đến.

Bình an và nỗi vui đến từ “hơi thở”, một thực thể rất chân thật không cần phải thắc mắc hoặc ngỡ ngàng. Bởi, theo ngôn ngữ người Hy Lạp, “hơi thở” và “thần khí”, chỉ là một. “Hơi thở” gợi nhớ làn hơi Chúa hà vào bụi đất, đem sự sống đến với người đầu tiên, trên trái đất (Kn 2: 7).

Ở đây cũng thế, “Thần khí” được hà hơi vào môn đệ, để các ngài trở thành người mới; người, mà thánh Phaolô nói đến trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô (1Cr 12: 7).

Rõ hơn, đây chính là hình ảnh mà thánh Luca sử-dụng để đưa vào sách Công vụ, với các yếu tố nổi bật làm nền. Ở thánh Luca, “hơi thở” hay “thần khí” là làn gió vẫn thổi đi (Cv 2: 2). Và, để miêu tả rõ hơn về gió vẫn thổi, thánh nhân còn sử dụng hình ảnh “lưỡi lửa” để gợi nhớ những tháng ngày dân con Đức Chúa lưu lạc nơi quê người.

Tại xứ sở đầy sa mạc. “Lửa”, đối với Môsê và cuộc xuất hành qua sa mạc, là hình ảnh về sức mạnh và sự hiện diện của Chúa luôn bên cạnh con dân.

Trên thực tế, khi nói “gió” và “lửa” là nói về trạng huống dân Ngài chọn đã có Chúa ở cùng. Cũng vậy, khi nói nhângian thi-giới tức: có “Nàng Thơ đã ở bên” với thi sĩ, còn con dân nhà đạo thì: Người là Đấng Bạn Tiên. Đấng ân-cần vào buổi mới. Vào buổi, Thần Khí Chúa lưu lại ở mãi với các kẻ tin vào Ngài. Ngài lưu lại không lúc nào nghỉ ngơi. Lưu lại như thế, Ngài đã sáng tạo chất sống mới cho con người, mà ta luôn gọi là Trời mới, đất mới.

Và, mỗi khi có Thần Khí Bạn Tiên “hà hơi” – “lưu lại”, là có bình an và hiệp nhất. Một bình an, Đức chúa từng khẳng định: “Anh em tha lỗi cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Yn 20: 23). Thành thử, khi Thần Khí đến với ai, hiển nhiên là có hòa giải với người ấy. Những hòa-giải và bình-an đã giải thóat mọi kẻ lâu nay bị cầm giữ.

Hòa-giải đây, còn là sự hài-hòa kết-hợp con dân thế trần với Đức Chúa. Kết nối và hòa hợp mọi người với nhau như người anh, người chị một nhà. Hòa và giải, còn là động tác chữa lành mọi lầm lỗi và thương tật. Hòa và giải, là kết nối trở lại những gì đã phân rẽ.

Vấn đề hôm nay, là: việc Thần Khí Chúa hiện đến có ảnh-hưởng gì trên cuộc sống của mỗi người, và mọi người? Trả lời vấn nạn rất căng này, thánh Phaolô kịp can thiệp để xác minh, như sau: “Không ai có thể nói Đức Giê-su là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí.” (1Cr 12: 3b).

Nói rộng hơn, gọi Đức Giê-su là “Chúa”, và là “Thầy”, ta không chỉ “mỉm cười như môn-đệ thuở trước. Nhưng, ta đặt trọn vẹn niềm tin nơi Người là Bạn Tiên, rất ân cần. Và, để chứng tỏ niềm tin-yêu rất riêng với Người, ta chỉ có thể làm được như thế bằng vào cuộc sống thực tế, ở đời. Sống thực-tế ở đời, là sống Đạo giữa người đời, với người đời.

Mặt khác, với Thần Khí Chúa hiện đến, Bạn Tiên rất Nhân Hiền còn là đặc sủng Chúa gửi để hòa giải những ai tiếp nhận tha nhân – anh em vào chung sống với ta trong cùng cộng đoàn. Tuy nhiên, ân sủng đặc biệt mà Thần Khí Chúa tặng ban nay mang sắc mầu rất khác biệt. Khác biệt chứ không riêng biệt.

Bởi, đặc sủng Chúa ban, là ban cho hết mọi người. Không trừ một ai. Không dành cho riêng ai. Cũng chẳng gửi về địa chỉ của cá nhân nào, riêng lẻ.

Do đó, bổn phận người nhận đặc sủng là sử dụng quà đặc biệt ấy để dựng xây cộng đoàn, mình đang sống. Như thế, dù với số đông, ta vẫn trở nên cùng một Thân Mình Đức Kitô. Như thánh Phaolô từng quả quyết: “Dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.” (1Cr 12: 13).

Cuối cùng, Thần Khí Chúa hiện đến, còn để giải thóat mỗi người chúng ta. Ngài giải thoát con người phàm khỏi vòng cương tỏa của thân làm tôi/mọi cơn nghiện-ngập ở một số người, hà tiện bủn xỉn, nơi nhiều người. Và, cả đến hãi sợ cũng được Ngài giải thoát, cho nữa.

Có Thần Khí Chúa hiện đến, chắc chắn ta có được tương quan nồng thắm được gần gũi tin-tưởng nơi Chúa. Có thế, ta dám gọi Ngài là “Cha”. Có Thần Khí Chúa tràn đầy, ta mới đương nhiên trở thành con cái Chúa, theo nghĩa trọn vẹn và đích thật.

Và, khi đã là con cái Chúa theo nghĩa thật, Thần Khí sẽ giúp chúng ta kế thừa Đức Kitô để rồi, ta sẽ cùng đau khổ với Ngài và cũng vùng dậy, từ các hạn chế cản ngăn không cho ta hành xử theo tư thế tự do con cái Chúa.

Và, khi đã quyết tâm với sự thật, với tin-yêu, tự do đích thật và có phẩm giá cao quý của con người, ta sẵn sàng trả bất cứ giá nào, nếu cần, để có thể dâng trọn chính cuộc đời ta đang sống, rất vinh quang.

Có Thần Khí-Bạn Tiên ở với ta, nay là lúc ta san sẻ “Nàng Thơ” ấy với mọi người, bạn và thù. Sẻ và san, để mọi người sẽ có kinh-nghiệm sống như ta. Kinh-nghiệm, dẫn ta cũng như bạn bè/người thân về với Nước Trời đầy yêu-thương, đang giải-thoát.

Trong sẻ-san Thần Khi Chúa với vui-tươi/hoà-đồng, ta cùng với người nghệ-sĩ hôm trước cất tiếng líu-lo, hát rằng:

Hỡi nắng, hãy sáng lên, để ngàn hoa tươi-thắm hơn!

Hỡi Gió hãy cuốn lên, để đồng xanh tươi-mát hơn.

Thôn quê hân hoan mừng ngày mùa sang,
Người người hò vang, đàn hòa tình tang
Nhịp nhàng vẳng xa.”

(Văn Phụng – Bức Hoạ Đồng Quê)

Đúng thế. Hỡi nắng và gió, hỡi Nàng Thơ/Bạn-Tiên hãy sáng lên, hãy cuốn lên, để người người hân-hoan mừng ngày Thần-Khí Chúa hiện đến. Chúa hiện đến, đem Tin Vui An Bình Hoà Hoãn đến với đồng xanh, thôn quê, với thị-thành. Để rồi, người người tung-hô lời ngợi-ca Thần Khí Chúa. Thần-Khí của Tình Yêu trọn vẹn, tình hân-hoan với phúc-hạnh.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

Lời Chúa để suy ngẫm

  Tin Mừng: (Ga 14: 15-16, 23b-26)

 

“Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “ Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi.

 

Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đò sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”

 

CHÚA LÀM GÌ Ở HỎA NGỤC

CHÚA LÀM GÌ Ở HỎA NGỤC

 Tác giả:  Nhà Văn Hương Vĩnh

“Chúa Giêsu đáp: ‘Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.

Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.’” (Ga 14, 23-29)

* * * * *

Đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan trên đây rất sâu sắc và phong phú. Để hiểu rõ đoạn Phúc Âm đó, thiết tưởng nên nhờ vào nguồn mạch minh triết của Thánh Tôma Aquinô.

Thiên Chúa ở trong hoả ngục?

Thánh Tôma Aquinô trong sách “Summa Contra Gentiles” (“Tổng Luận Về Việc Đối Phó Với Dân Ngoại”) đã đặt câu hỏi: “Thiên Chúa ở khắp nơi không?” Rồi tiếp theo đường lối luận lý khúc chiết như thường lệ, ngài đã hỏi thêm: “Thiên Chúa có ở trong hoả ngục không?” Và thánh nhân hỏi tiếp: “Thiên Chúa làm gì ở trong hoả ngục?” Sau cùng ngài tự trả lời: “Thiên Chúa ở trong hoả ngục để yêu thương những kẻ bị đoạ đày”.

Những người bị đoạ đày ở trong hoả ngục có thể từ chối việc yêu mến Thiên Chúa nhưng họ không thể làm gì để ngăn chặn Thiên Chúa yêu thương họ, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa và “Thiên Chúa là tình yêu”. Giờ đây, nếu chúng ta ngạc nhiên và tự hỏi tiến trình suy luận đó có liên hệ gì đến đoạn Phúc Âm của Thánh Gioan trên đây không?  Câu trả lời là có.

Thánh Tôma chỉ làm chứng về sự kiện Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta và yêu thương mãi mãi, bất kể chúng ta là ai hay chúng ta làm gì và cho dù chúng ta sống trên đời này, lên thiên đàng hay xuống hoả ngục.

Thánh Grêgôriô Nyssa sống vào cuối thế kỷ thứ tư ở miền Trung nước Thổ-Nhĩ-Kỳ, đã đặt câu hỏi như sau: “Các bạn có muốn biết sự khác biệt giữa sự cứu rỗi và kiếp đoạ đày, giữa thiên đàng và hoả ngục không?”

Và đây là thí dụ mà Thánh Grêgôriô đã trưng dẫn: Bạn hãy nghĩ tới một ngày đẹp trời nào đó, với ánh nắng rực rỡ. Khi bạn đi ra ngoài đường, dưới ánh nắng chói lọi, bạn sẽ có kinh nghiệm về ánh nắng mặt trời như là cái gì dễ chịu, thích thú, kỳ diệu, hứng khởi.

Rồi ngài nói tiếp: Giờ đây bạn thử tưởng tượng một người nào đó bị đau mắt nặng và cũng đi ra ngoài nắng như vậy. Vì con mắt bị bệnh, người đó lại có kinh nghiệm về ánh nắng mặt trời một cách khác hẳn: ánh nắng mặt trời như là cái gì khó chịu, nhức nhối, tai hại, làm cho loà mắt…và họ không thể chịu đựng được, chỉ muốn đi xa hẳn ánh nắng mặt trời.

Và Thánh Grêgôriô kết luận: Đó, thiên đàng và hoả ngục cũng hoàn toàn giống như thế đó. Thiên đàng và hoả ngục cũng là một. Cả hai hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt giữa hai thực thể đó là có người muốn thiên đàng và có người không muốn.

Nếu bạn muốn thiên đàng, bạn sẽ run lên vì cảm động. Nếu bạn không muốn thiên đàng – và điều đó thật tai hại – bạn vẫn sẽ được Thiên Chúa âu yếm nhưng trái với ý muốn của bạn, bởi vì bạn không thể ngăn cản Thiên Chúa yêu thương bạn được. Thiên Chúa là tình yêu. Bạn không thể ngăn cản Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình yêu. Hoả ngục chỉ có đối với Satan vì Satan được Thiên Chúa âu yếm trái với ý muốn của nó.”

Ân sủng

Chúng ta có một cụm từ đặc biệt để diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Đó là cụm từ “ân sủng” (“grace”). Cụm từ đó xuất phát bởi tiếng La-tinh ‘gratis’ có nghĩa là ‘cho không’ (free). Ân sủng là một tặng phẩm ‘nhưng không’ của Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm gì để được hưởng hay đáng được ân sủng. Người ta bảo mọi sự là ân sủng của Thiên Chúa. Người ta nói ân sủng của Thiên Chúa ở khắp nơi. Chúng ta không thể xa rời ân sủng được.

Và người ta cũng thường nói là mọi sự hiện hữu được bởi vì Thiên Chúa yêu thương. Tình yêu Thiên Chúa là lý do mà chúng ta tồn tại. Cái ghế mà chúng ta đang ngồi trên đó cũng là ân sủng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không còn yêu thương cái ghế đó nữa tức thì sự hiện hữu của nó bị chấm dứt ngay.

Thực phẩm chúng ta ăn vào, những người chúng ta yêu thương…là những ân sủng của Thiên Chúa. Vạn vật đều được Thiên Chúa sáng tạo và Ngài yêu thương hết mọi tạo vật của Ngài, bởi vì Thiên Chúa đã cấu trúc toàn bộ hệ thống đó!

Khi đề cập như trên, một vấn nạn được đặt ra, có tính cách siêu hình. Chúng ta có tài mau lãng quên những thực tại kỳ diệu ở chung quanh chúng ta. Chúng ta thật đáng trách vì thường xuyên quên bẵng những hồng ân Thiên Chúa ở trong đời sống chúng ta.

Cái nháy mắt và nhịp tim đập

Khi bạn khởi đầu đọc bài suy niệm này, mắt bạn đã chớp liên hồi. Và cho đến giây phút này đây, bạn đã không đếm số lần mắt mình đập là bao nhiêu, trừ khi bạn cảm thấy bài viết này vô vị, nhàm chán. Nhưng biết đâu có người sẽ nói: “Tôi đã đếm được con số 5,666 cái chớp mắt!!!” Đúng hay sai, chúng ta không rõ.

Vấn đề là khi chúng ta chớp mắt – cho dẫu chúng ta đã làm việc đó thường xuyên – chúng ta đã không nhận ra điều đó. Chúng ta đã chớp mắt một cách tự động. Chúng ta không nhận thấy mắt chớp, cho tới khi chúng ta không thể chớp mắt được nữa. Chính khi chúng ta không thể chớp mắt được thì sự chớp mắt trở nên quan trọng. Nếu chúng ta bị bệnh tê liệt Bell thì chúng ta không thể chớp mắt được.

Cũng thế, con tim chúng ta đập không ngừng. Nhưng chúng ta không bao giờ nhận ra nhịp đập của con tim cho tới khi tim đập nhanh lên hay chậm lại hoặc ngừng đập. Nếu tim ngưng hẳn, chúng ta cũng không nhận ra nhịp tim đập nữa. Đã quá trễ rồi! Nhưng người khác sẽ nhận ra điều đó khi chúng ta ngã quỵ trên sàn nhà.

Đối với dưỡng khí cũng thế. Không ai để ý cho tới khi dưỡng khí đã cạn kiệt và không còn khí thở nữa. Chúng ta không để ý tới những gì luôn luôn có mặt ở đó, nơi bản thân chúng ta hay bên cạnh chúng ta.

Thời gian linh thánh

Có những thời gian được chúng ta gọi là ‘thời gian linh thánh’. Dĩ nhiên, mọi thời gian là linh thánh hết. Và nếu thế, tại sao có một số thời gian được chúng ta gọi là ‘thánh’. Chúng ta gọi Chúa nhật là thánh. Chúng ta có những ngày nghỉ lễ (“holidays” = “ngày thánh”) bắt buộc. Chúng ta có Thứ Năm tuần Thánh, Thứ Sáu tuần Thánh và Thứ Bảy tuần Thánh. Chúng ta có mùa Chay Thánh. Ý nghĩa như thế nào khi chúng ta nói Bốn Mươi Ngày Chay Thánh là mùa thánh?

Chắc chắn điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa hiện diện trong bốn mươi ngày mùa Chay nhiều hơn trong ba trăm hai mươi lăm ngày kia còn lại trong năm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn gọi Chúa nhật là ngày thánh. Chúng ta gọi ngày đó là ‘ngày của Chúa’. Nhưng chúng ta không nói thứ năm là ngày của Chúa. Chúng ta không nói Chúa tới văn phòng Chúa nhật mà không tới ngày thứ năm.

Nhiều người tưởng Chúa vắng mặt ở văn phòng từ thứ hai đến thứ bảy và Chúa chỉ xuất hiện vào Chúa nhật. Thiên Chúa ở trong văn phòng chúng ta mỗi ngày bởi vì mỗi ngày là ngày của Chúa, và mỗi mùa là mùa thánh.

Nhưng chúng ta không thấy sự thật như vậy. Đó là vấn đề của chúng ta và chúng ta phải chấp nhận điều đó. Chúng ta không chú ý đến điều đang xảy ra với chúng ta và điều đó vẫn luôn luôn là vậy. Vì lý do đó, chúng ta đã để Chúa nhật riêng ra ngõ hầu chúng ta là những thành phần của cộng đồng dân Chúa có thể quan tâm đến sự kiện kỳ diệu là mỗi ngày và mỗi mùa là những hồng ân của Thiên Chúa.

Đó cũng là lý do tại sao chúng ta tề tựu ở trong nhà thờ để tạ ơn Chúa và gọi thánh đường là một nơi thánh. Nhưng đó không có nghĩa là Thiên Chúa hiện diện ở trong nhà thờ nhiều hơn và Ngài hiện diện ít hơn ở bãi đậu xe, trên xa lộ, trong siêu thị, nơi quán rượu, ở phòng khách và tất cả những chỗ khác mà chúng ta thường lui tới? Không, điều đó không hợp với sự hiểu biết về linh đạo Kitô giáo.

Không gian thánh

Những địa điểm nói trên cũng là những nơi thánh, bởi vì hồng ân của Chúa ban phát khắp nơi. Dĩ nhiên, chúng ta cần thánh hiến một nơi chốn riêng biệt, không phải vì Chúa ở nơi đó mà thôi, nhưng đúng hơn và kỳ diệu thay, Thiên Chúa ở khắp nơi trên quả địa cầu, trên thiên đàng hay dưới hoả ngục. Đó là điểm tuyệt hảo đối với lối suy tư và linh đạo Kitô giáo. Đó là tư duy và linh đạo nhằm nhào nắn chúng ta trở thành cộng đồng dân Chúa mà chúng ta được mời gọi.

Elizabeth Barrett Browning đã đặt câu hỏi: “Nếu trái đất bừng cháy bởi ngọn lửa của Thiên Chúa, tại sao chúng ta ngồi đó đây để nhặt những quả dâu chín?” Nữ sĩ muốn hỏi tại sao chúng ta đã mất ý niệm về ân sủng, ý niệm về thế giới là thánh, về mọi sự là thánh và mọi sự là một bí nhiệm? Đó là những vấn nạn lớn lao.

Chúng ta rất cần một nhãn quan và một linh đạo gây cảm hứng cho chúng ta để sống một cuộc sống cao quý hơn. Chúng ta cần tề tựu ở một nơi riêng biệt được gọi là thánh đường hay nhà thờ, từ Chúa nhật này sang Chúa nhật khác, để chúng ta có thể tán tụng hết mọi hồng ân Thiên Chúa và đặc biệt thay, chỗ độc nhất của Ngài là ở trong đời sống chúng ta và trong tạo vật của Ngài là chính chúng ta.

NGUỒN

Trích Bài Suy Niệm 32, Dịch Phẩm “ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA” – Dịch giả: Hương Vĩnh
Nguyên tác “IN STEP WITH GOD” – Tác Giả: Lm Vincent Travers OP.

Tác giả:  Nhà Văn Hương Vĩnh

LỄ THĂNG THIÊN

  LỄ THĂNG THIÊN

 Tác giả:  Nhà Văn Hương Vĩnh

“Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc 24, 50-53)

* * * * *

Chúa Giêsu Thăng Thiên là một biến cố mà các Tông Đồ không bao giờ quên được. Họ sẽ không bao giờ gặp lại Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt. Đó là lúc giã biệt. Lời nói giã biệt cuối cùng bao giờ cũng đau đớn nhất. Cứ theo bản tính con người mà nói, có lẽ họ đã trở về lại kinh thành Giêrusalem với một tâm trạng sầu muộn. Nhưng thay vì trở lại kinh thành, than khóc buồn bã, thật ra họ rất vui mừng, như Thánh Luca đã viết trên đây. Một điều đầy ý nghĩa đã xảy ra nơi đỉnh đồi nhìn xuống kinh thành tráng lệ đã biến đổi họ từ trạng thái sa sút tinh thần đến một tình trạng mừng vui.

Cuộc sống đáng sống

Một thiếu nữ sau khi sinh bé gái đầu lòng đã cho biết chị rất ngạc nhiên đến sững sờ khi nhận thấy chị có thể yêu thương con chị một cách đậm đà đến thế. Chị ở bên cạnh con, lòng tràn đầy niềm vui. Sự sinh đẻ đã biến đổi con người của chị. Kinh nghiệm thật đáng giá, đầy ý nghĩa.

Giống như khi chúng ta ngắm nhìn vũ trụ bao la với muôn vàn vì sao lấp lánh khiến chúng ta phải thốt lên: “Ôi lạy Chúa! Thật tuyệt diệu biết bao!” Và dĩ nhiên Thiên Chúa rất hài lòng khi nghe chúng ta xưng tụng kỳ công tuyệt hảo của Ngài. Đó là chúng ta nói theo ngôn ngữ loài người. Thiên Chúa rất ngạc nhiên khi thấy ai đó ở nơi chân trời xa lạ đã tán thưởng kỳ công do bàn tay Ngài tạo dựng. Rồi Thiên Chúa thấy chúng ta đến với Ngài và la lên: “Thật tuyệt diệu!” Và Thiên Chúa cảm thấy thích thú vì chúng ta đã mở mắt ra để chiêm ngắm những kỳ quan của Ngài.

Đó là kinh nghiệm mà các Tông Đồ đã trải qua trong ngày Thăng Thiên của Chúa. Họ đã bừng sáng mắt ra khi chiêm ngắm sự hiện diện của Chúa. Điều này cắt nghĩa tại sao họ đã trở lại Giêrusalem mà hồn còn ở trên mây. Và “Linh đạo” có nghĩa là tỉnh thức đối với những thực tại cao cả đang bao quanh chúng ta.

Sống là thay đổi

Gerard Manley Hopkins là một thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư dạy học tại một học đường của các cha dòng Tên ở Wales. Ngày kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá dòng Tên. Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái rầu rĩ vì mùa hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt đầu đổi thay. Nếu ai đã trải qua mùa đông ở Wales thì sẽ rõ tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày chỉ thỉnh thoảng sương mù hơi mỏng một chút, nhưng phần nhiều trong ngày là một màn sương dày đặc ẩm ướt bao trùm và nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt.

Đang khi ông trên đường trở về nhà, bất chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một chút. Mùa hè không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây. Mùa đông chưa đến. Vậy thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa của lá rụng và cũng là mùa gặt hái hoa quả. Hãy mở mắt ra mà xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững trên nền trời. Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ái-Nhĩ-Lan thổi vào. Đừng bận tâm về điều gì không còn ở nơi đây nữa. Đừng bận tâm về điều gì chưa xảy tới nơi đây. Hãy ngắm xem cái gì đang xảy ra bây giờ đây. Hãy trân trọng giây phút hiện tại. Hãy trân trọng vẻ đẹp rạng rỡ đang phô bày trước mắt!”

Điều mà Hopkins đang ngắm nhìn vẫn luôn hiện diện ở đó. Điều thiếu sót là không có ai nhìn ngắm và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tráng lệ ấy mà thôi. Thiên nhiên không thay đổi. Mùa gặt hoa quả đã không bắt đầu ngay lúc đó. Lá cây cũng không đổi màu vào giây phút ấy. Vậy cái gì đã thay đổi? Chính Hopkins đã thay đổi và vì thi sĩ đã thay đổi nên ông lần bước trở về nhà mà tâm hồn ông đã biến đổi theo mùa xuân đang dò dẫm theo những bước chân âm thầm của ông, với nụ cười tươi nở trên khuôn mặt và một bài hoan ca sảng khoái ở trong tâm hồn mà giờ đây đang trỗi dậy khi ông đối diện với vẻ đẹp thần tiên của một buổi chiều vào thu ở xứ Wales đầy trìu mến.

Trở nên hoàn thiện là năng thay đổi

Vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu không thay đổi. Ngài cũng vẫn là một Chúa Giêsu. Dĩ nhiên Ngài đã trở về với Chúa Cha. Ở một giai tầng nào đó, Chúa không còn ở với các tông đồ nữa, nhưng ở một giai tầng cao hơn, Chúa vẫn ở với họ một cách nào đó mà trước kia họ không bao giờ chứng nghiệm được.

Vậy thì ai đã thay đổi? Chính các Tông Đồ đã thay đổi. Đó là điều bất chợt đã chiếu toả trên họ, ở trên đỉnh đồi đó, điều mà Chúa đã hứa hẹn là sẽ ở với họ luôn mãi. Sự kinh ngạc về điều đó đã thay đổi họ. Họ đã được biến đổi. Vì vậy tại sao họ đã trở về lại kinh thành Giêrusalem, không phải với những dòng lệ tuôn tràn trong đôi mắt mà với một bài hoan ca ở trong con tim. Giờ đây họ đã có một nhãn quan mới mang lại nhiều nghị lực cho họ và làm cho cuộc đời của họ mang nhiều ý nghĩa. Đó là nhãn quan về Chúa Phục Sinh sẽ ở với họ luôn mãi và họ sát cánh bên nhau trong niềm hoan lạc.

Tại sao chúng ta ngày nay mừng kỷ niệm mầu nhiệm cao cả về biến cố Thăng Thiên? Chúng ta không chủ ý tụ họp lại cho đông đảo, để nêu gương tốt cho con em, hoặc để làm vui lòng người lớn. Chúng ta hội nhau lại để mở mắt ra như Hopkins đã làm, vào một ngày mùa thu ảm đạm ở xứ Wales và chiêm ngưỡng sự vinh quang của Chúa trong giây phút hiện tại để rồi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa cao cả biết bao!”

Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Điều thiếu sót là chúng ta chưa nhận ra Ngài. Thăng Thiên làm cho chúng ta có khả năng rời khỏi nơi gọi là Núi của Chúa để trở về nhà chúng ta với lòng mừng vui. Một thứ mừng vui làm cho chúng ta muốn biết điều gì sẽ xảy ra? Điều gì đã đến với chúng ta? Điều gì đã vượt lên trên chúng ta? Các Tông Đồ đã cảm nghiệm một sự khác biệt. Một đức tin mà không có gì khác biệt thì không còn là một đức tin nữa. Một người thấy đường đi thì sẽ bước đi khác với một người mù mắt.

Đức Hồng Y Newman có lần đã nói: “Sống là thay đổi. Trở nên hoàn hảo là năng thay đổi.” Chúng ta thay đổi hay không thay đổi? Đó là vấn đề! Những ai thay đổi và năng thay đổi là những người sống thật. Những ai không thay đổi và giữ nguyên cách sống của họ là những kẻ chỉ sống mà không sống thật. Sự lựa chọn trước mắt là ở giữa sự sống và sống thật.

Mỏm nhô của tảng băng trôi

Sự Thăng Thiên của Chúa Giêsu là mầu nhiệm của đức tin. Chúng ta phải là những con người có niềm tin mới đi vào mầu nhiệm này được. Câu chuyện về Thăng Thiên chẳng khác nào một tảng băng trôi. Bảy phần tám của tảng băng chìm dưới mặt nước. Chỉ mỏm tảng băng – tức một phần tám – mới nhô lên trên mặt biển. Sự ngạc nhiên thích thú là điều gì cơ bản thì không thấy được.

Ở trên đỉnh đồi trông xuống kinh thành Giêrusalem, các tông đồ chỉ thấy một phần tám của mầu nhiệm Thăng Thiên. Phần còn lại được che giấu. Họ biết câu chuyện về Chúa Giêsu chưa kết thúc. Chương cuối chưa viết xong. Phần hấp dẫn nhất còn đang diễn tiến, nhưng họ đã có đủ dữ kiện để tiến tới. Một phần tám của mầu nhiệm Thăng Thiên cũng đủ để đưa họ xuống núi, trở lại kinh thành Giêrusalem và sau đó sẽ vượt ra khỏi biên giới của Giêrusalem để tiến qua biên vực đang chia cắt Giêrusalem với thế giới bên ngoài.

Ý nghĩa của mầu nhiệm

Thăng Thiên là một mầu nhiệm sáng chói. Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có mầu nhiệm. Cuộc sống chỉ viết bằng văn xuôi, chứ không phải bằng văn vần. Cuộc sống được xây cất trên gạch ngói và vôi hồ, chỉ là trần tục, bình thản và vô vị. Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có câu chuyện về Chúa Giêsu, không có Kitô giáo, không có biến cố Thăng Thiên. Cũng sẽ không có đời sống linh thiêng, không có bí tích, không có Thánh Thể, không có Thánh lễ Chúa nhật.

Jeanne Guyon đã viết: “Nếu biết tìm ra đáp số cho vấn nạn cuộc sống là điều tuyệt đối cần thiết cho bạn, vậy thì bạn hãy quên đi hành trình của mình. Bạn sẽ không bao giờ thực hiện được hành trình đó, bởi vì đó là một hành trình vô định, hành trình của những vấn nạn không có đáp số, hành trình của những bí ẩn, của những điều không thể hiểu nổi và nhất là của những sự bất công.”

Chúng ta được sinh ra và sống cho Thiên Chúa vô biên. Ở trên trần thế này, không thể có bản nhạc giao hưởng trọn vẹn như thế được. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta cho sự vinh quang của Ngài, để được chiêm ngắm Ngài “mặt giáp mặt”. Giờ đây, chúng ta chỉ thấy Ngài một cách lờ mờ, khiếm khuyết. Nhưng rồi đây, chúng ta sẽ xem thấy Ngài một cách tuyệt hảo như Ngài hiện có và nỗi mừng vui của chúng ta sẽ được trọn vẹn.

Trong khi chờ đợi, Thăng Thiên mang lại cho chúng ta một viễn tượng mới để nhận thấy rằng đời sống cá nhân chúng ta đang góp phần một cách nào đó vào một câu chuyện lớn lao hơn. Một câu chuyện lớn hơn là chính cuộc sống chúng ta và một câu chuyện kỳ diệu hơn bất cứ điều gì hết mà chúng ta sẽ chưa lúc nào thấy hết hay biết hết ở trong cuộc sống này.

NGUỒN

Trích Bài suy niệm 33, Dịch Phẩm “ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA” – Chuyển ngữ: Hương Vĩnh.
Nguyên Tác “IN STEP WITH GOD” – Tác giả: Lm Vincent Travers, OP.

Tác giả:  Nhà Văn Hương Vĩnh

hát khúc ca yêu đời cho người vui.

 Chuyện phiếm đọc trong tuần sau lễ Chúa Về Trời 08-5-2016 

“Cầm tay ta hát,

hát khúc ca yêu đời cho người vui.”
Với tình ta chan chứa,

bao la trong bước đi trên đường đời.”

(Văn Phụng – Vui đời Nghệ Sĩ)

(Thư 1 Tim 2: 7-12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nay hướng về, buổi diễn-trình kỷ-niệm 10 năm “Hát Cho Nhau” ở Sydney vào giữa năm 2016, hát sĩ họ Vũ vui vẻ hát các câu ca/điệu nhạc rất “Vui đời nghệ sĩ”, ai cũng thấy có cái gì đó đã và đang reo vui trong lòng người rất nghệ-sĩ, lại khiến người nghe nhung-nhớ rất nhiều điều. Có một điều, khiến bần đạo nhớ nhiều nhất, lại cũng là câu nói hoặc ca-từ này/khác, có thể làm người hát và người nghe “Vui Đời Nghệ Sĩ”, hoặc “đau đớn can tràng”, đến suốt đời.

Nhớ nhiều hơn cả, lại là ca-từ thân-thương được bạn đạo hát thêm, như sau:

 “Ơ kia! chàng thi sĩ

đang miên man đi tìm bao vần thơ.
Ơ kìa! nàng ca sĩ

đang say sưa cung đàn cho đời mơ.
Tính tính tang tang tình

lời thơ và ý nhạc
Thắm thiết gieo cho người

một ý niệm yêu đời
Còn chi vui hơn đời nghệ sĩ chúng ta?
Nguồn vui phơi phới

trên đôi môi xinh hồng bên ngàn hoa.
Chứ dù mưa hay nắng

ta vui ca bên nhau bao lời thơ.”

(Văn Phụng – bđd)

Vâng. Đúng thế. “Dù mưa hay nắng, ta vui ca bên nhau bao lời thơ” để nhớ mà sống cho vui đời.

Vâng. Cứ “vui ca lên nào anh em ơi”! Ca cho nhiều, dù mưa hay nắng, rồi ra chắc chắn lời ca của ta cũng sẽ thành thơ/thành nhạc, rất vui đời.

Vâng. Đúng thế và sẽ còn đúng hơn thế nữa, nếu lời giảng/sẻ chia ở nhà thờ không còn những câu hỏi “chĩa xuống” bạn đạo là người nghe ở ghế dưới có những câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, giảng-giải lời Chúa hay còn gọi là “chia sẻ (chứ không phải là “băm xẻ”) Lời Ngài” đâu là lời hỏi han hoặc hỏi/đáp tự bao giờ mà sao bạn trẻ đấng “lờ-mờ” (lm) lại cứ hỏi thay vì giảng!

Cứ hỏi han hoặc hỏi/đáp mãi, khiến bần đạo lại nhớ câu chuyện tiếu-lâm chay, từng giúp bần đạo từ nay chỉ dám mở miệng có chừng mực, như sau:

“Có ông khách nọ tới hàng bán chim chóc, tức những chim không chọc và thú nuôi trong nhà. Bà bán chim ra tiếp bèn quảng cáo hết lời rằng: chim bà nói được nhiều thứ tiếng, rất trôi chảy.

Ông khách thấy hay hay, bèn hỏi một con chim rất đẹp bằng tiếng Pháp:

-Comment allez-vous?”

Chim trả lời ngay lập tức:

-C,a va bien, merci.”

Ông khách lại hỏi tiếp bằng tiếng nước khác:

-How are you?

Chim đẹp lại đáp gọn:

-I’m fine, thank you.

Ông khách quay sang hỏi tiếng Tây Ban Nha của người Mễ:

-Como estas?

Không chút do dự, Chim ta trả lời liền:

-Muy bien.

Ông khách thấy vậy bèn hỏi thử bằng tiếng Việt:

-Mày khoẻ không?

Chim ta trả lời nhiều quá, thấy mệt bèn lên tiếng:

-Ấy ấy! Ông hỏi gì mà lắm thế, chim đây biết đâu mà trả lời trả vốn chứ!”

Ấy đấy! Thực tế cuộc đời người, có nhiều thứ/nhiều sự do từ cái miệng của con người cứ hay hỏi-han và/hoặc thích hỏi/đáp ngoài nhà thờ, khiến cho người và mình không mấy vui như ca-từ nhạc-bản “Vui đời nghệ-sĩ” đến như thế!

Đấy kìa! Thực-tại đời đi Đạo và sống Đạo trong đời, cũng có nhiều sự/việc không mấy dễ hiểu và dễ chịu như nhiều người tưởng hoặc nghĩ. Nghĩ hoặc tưởng, nhiều lúc không đúng sự thật. Trong Đạo-vào-đời, có nhiều sự/việc xảy ra ở đây đó, mới đây thôi như :

“Nhật-báo The Guardian ở Anh, mới đây có tường-trình về sự-việc xảy ra ở Bàn Quỳ Nhà Thờ, bằng một khảo-sát/nghiên-cứu về “lòng sốt-sắng giữ đạo” ở nhiều nơi trên thế-giới (khoảng 84 nước) và gửi các tôn-giáo khác nhau, cả về giới-tính.

 Theo tường-trình này, vấn-đề “Cách-biệt Giới-tính trong Tôn-giáo”, thì: hầu hết nữ-giới lại có lòng sốt-sắng/đạo-đức nhiều hơn phái nam. Có đến 83.4% nữ-giới trên khắp thế-giới được định-danh là thuộc nhóm/phái có lòng tin, trong khi đó thì phái nam chỉ có mỗi 79/9% như thế mà thôi…

 Về chuyện những người được liệt chung vào cùng nhóm/phái có tín-ngưỡng và đến nơi thờ-phượng sinh-hoạt đạo-giáo, thì nữ-giới Đạo Chúa đến nhà thờ đông hơn nam-nhân. Tuy nhiên, với người Hồi-giáo và Do-thái-giáo chính-tông, thì phái nam đến hội-đường hoặc đền-thờ nhiều hơn nữ-giới do luật đạo phán/bảo như thế. Về cầu nguyện, thì nữ-giới cũng làm thế mỗi ngày ít là một lần nhiều hơn nam-nhân.

 Trong số 84 quốc-gia nhận được khảo-sát, chỉ có nước Israel có tỷ-lệ nam-nhân mỗi ngày cầu nguyện nhiều hơn nữ-giới. Khảo-sát trên cho biết: ở Mỹ, có 64% nữ-giới và 47% nam-nhân bảo rằng họ đọc kinh cầu nguyện mỗi ngày. Trong khi tại Pháp, con số tương đương chỉ tính được là 15% nữ-giới và 9% nam-nhân làm được thế…” (Xem Marcus Roberts, Women are more religiously devout than men, MercatorNet 05/4/2016)

Xét việc xảy ra trong đời đi Đạo mà lại tỏ-lộ như thế không biết có đúng thật hay không? Thật ra thì, có thật hay không, điều đó cũng khó biết. Phần đông mọi người chỉ biết một điều, là: khi xưa làm người đi Đạo, thật không dễ. Chí ít là làm thân nữ-phụ mà lại muốn giữ Đạo cho tốt/lành, chắc cũng phải nhớ lời dặn-dò của đấng thánh mọi thời là Phaolô, từng chỉ thị như sau:

“Vậy tôi muốn rằng

người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào,

tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện,

không giận hờn, không xung khắc.
Cũng thế,

tôi muốn người đàn bà phải ăn mặc đoan trang,

đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị:

không phải là những kiểu tóc cầu kỳ,

vàng bạc, ngọc trai hay quần áo đắt tiền,

nhưng là những việc lành;

như thế mới thích hợp

với những người đàn bà xưng mình có lòng đạo đức.

Khi nghe lời dạy dỗ,

đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng.

Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy,

hay thống trị đàn ông,

trái lại họ phải thinh lặng…”

(1 Tim 2: 7-12)

Đành rằng, muốn giữ Đạo Chúa rất Công-giáo, thì phải như thế. Thế nhưng, đó là chuyện thời xa xưa. Chứ, thời nay mà bàn-bạc hoặc bàn-luận như thế, bọn trẻ nghe thấy chắc khó tin, hoặc khó hiểu. Bởi, giới trẻ bây giờ (ít ra là ở ngpoại-quốc) đâu có “huởn” để đặt những vấn-đề lỉnh-kỉnh như thế mà làm gì!

Đám “trẻ-người-non-dạ” ngày nay, vẫn thường đặt nặng những chuyện gì đó “ra tiền” hoặc “có lợi” về vật-chất, sức khoẻ thôi. Trẻ-người-non-dạ rất nhiều đám, hôm nay chỉ đề ra các vấn-đề đại-loại muốn vấn-nạn bà con đi Đạo bằng những hỏi-han hoặc hỏi/đáp như thể bảo, rằng:

“Lại có vấn-đề lịch-sử Giáo-hội chuyên kình-chống người Do-thái-giáo để cứ thế mà khai-thác nhiều thứ mình muốn làm. Đướng-lối sống rất báng-bổ này, vẫn cứ tồn tại ở Trung Đông và nhiều nơi trên thế-giới, suốt nhiều thời. Và, nay thì những người như thế trong Giáo-hội nhiều nơi vẫn sử-dụng Kinh Sách cách đều đều theo xu-hướng củng-cố chuyện báng-bổ… 

Thêm vào vấn-đề Đồng-tính luyến-ái và kình-chống người Do-thái-giáo, lại có cả chuyện nữ-giới bị đối-xử chèn-ép, rất không đẹp trong lịch-sử Giáo-Hội được gọi là thánh. Hiện có hai Giáo-hội Đạo Chúa lớn nhất thế-giới, là: Đạo Công-giáo La Mã và truyền-thống Chính-thống-giáo liên-tục chối-bỏ việc truyền-chức linh-mục cho nữ-giới.

 Và nhiều giáo-hội Thệ-phản thủ-cựu, cũng tiếp-tục tranh-cãi nhau về điều mà họ gọi là “Tư-cách Thủ-trưởng”, có ý nói: với tư-cách là phái yếu, nữ-giới sẽ không bao giờ có quyền-hành gì trên nam-nhân, hết…

 Tính-chất tiêu-cực đáng sợ ấy lại đã tấn-kích mọi chương-trình kế-hoạch-hoá gia-đình để rồi kéo theo sau tác-động tai-hại lên môi-sinh đặc biệt là vấn-đề nạn nhân-mãn, tất cả đều có gốc-nguồn từ quyền-uy của Kinh Sách ngõ hầu tạo tính-chất tiêu-cực lên niềm tin của người đi Đạo. 

Tiếng nói của Kitô-hữu trong thế-giới ta sống vẫn tiếp-tục sử-dụng ngôn-ngữ khác nhau để bộc-lộ không gì khác ngoài tính kiêu-căng/tự-mãn đối với đạo khác để rồi coi tín-đồ của bất cứ đạo nào khác với mình là đối-tượng rất xứng-hợp không phải để đối-thoại mà để chiêu-dụ họ quay trở về với Đạo mình.

 Động-thái này thường được củng-cố bằng việc trích-dẫn các lý lẽ rút từ Kinh Sách để bảo rằng truyền-thống đặc-trưng trong đạo mình sở-đắc tính chắc-chắn rút từ Thiên-Chúa-là-Sự-thật mà chỉ nhìn thoáng lúc ban đầu đã thấy đó là niềm tin mù-quáng, về sau chắc chắn trở thành động cơ thúc-đẩy một bách-hại tôn-giáo.

 Đó là những gì mà tôi mạo-muội gọi tên là “Các Bản-văn rất Đáng sợ ở Kinh Sách”, nhưng sau đổi lại thành “Các Lỗi Phạm của Thánh Kinh”…  (X. TGm John Shelby Spong, The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers 2005, tr. ix-xvi)

Trong đời người, nhiều lúc thấy cái miệng làm hại cái thân của ta và của người, khiến ta và người điêu đứng/tức bực, chỉ vì câu nào đó, giống hệt truyện kể ở bên dưới để minh-hoạ, như sau:

“Ngày nọ, tôi đi qua một cửa hàng mua sắm, người không đông lắm, có một nhóm người tập trung ở quầy tính tiền. Tôi tiến về phía trước, nhìn thấy một cô gái trẻ ăn mặc chỉnh tề đứng đầu tiên, cô gái quét thẻ nhiều lần, thế nhưng chiếc máy dường như lần nào cũng “cự tuyệt” cô gái. 

Có vẻ như đó là một thẻ phúc lợi”, người đàn ông phía sau tôi lẩm bẩm: “Trẻ, khỏe mạnh như thế, mà lại dựa vào phúc lợi để sống, tại sao không như người trẻ khác tìm việc làm đi?”

 Cô gái trẻ quay đầu lại theo tiếng nói, ánh mắt cô như muốn tìm xem đó là ai. “Đúng, chính là tôi nói đó”, người đàn ông phía sau tôi chỉ tay vào chính mình.

 Cô gái trẻ đỏ bừng mặt, nước mắt cứ thể chảy xuống, cô ném cái thẻ đi, rồi chạy nhanh ra khỏi cửa hàng, và rất nhanh chóng biến mất trong cái nhìn soi mói của mọi người. Vài phút sau, một thanh niên bước vào cửa hàng, cậu đi vào cửa hàng hỏi cô thu ngân rằng có biết cô gái kia đâu không, thu ngân cửa hàng nói rằng cô ấy đã quăng thẻ rồi chạy đi rồi. 

-Tôi là bạn của cô ấy, đã xảy ra chuyện gì vậy ạ?”, cậu thanh niên lo lắng hỏi. Người đàn ông phía sau tôi nói: “Tôi không may nói ra những lời ngủ xuẩn, mỉa mai cô ấy dùng thẻ phúc lợi, đáng lẽ tôi không nên nói ra, thật xin lỗi!”

 -Ôi, hỏng bét rồi. Hoàn cảnh cô ấy rất đáng thương, anh trai cô đã bị giết chết ở Afghanistan hai năm trước, để lại đằng sau ba đứa em. Cô ấy chỉ 21 tuổi mà phải lo cuộc sống cho 3 đứa em. Thật không ngờ, hôm nay lại xảy ra việc thế này”, người thanh niên lo lắng không yên.

 -Đây là những món hàng cô bé kia mua sao?”, người đàn ông phía sau tôi hỏi thu ngân.

-Đúng ạ, nhưng tiếc là thẻ của cô ấy không sử dụng được”, thu ngân nói.

 Trong cửa hàng bỗng nhiên trở nên im lặng.

-Cậu chắc chắn biết cô gái đó ở đâu chứ?”, người đàn ông hỏi cậu thanh niên trẻ, rồi ông chen lên phía trước, lấy ra thẻ tín dụng của mình đưa cho thu ngân: “Lấy thẻ của tôi tính tiền đi”.

 Thu-ngân-viên nhận thẻ và bắt đầu tính tiền những mặt hàng cô gái đã mua.

-Đợi một chút”, người đàn ông quay người lấy một hộp sữa bò bỏ vào trong túi đồ của cô gái.

-Chúng ta nên giúp đỡ ba đứa bé kia nhiều hơn một chút chứ”, một người phụ nữ đi tới, đem một con gà bỏ vào túi của cô gái, sau đó mọi người lặng lẽ lấy đồ của mình bỏ vào túi đồ của cô gái.

-Chú, cảm ơn chú! Chú là một người tốt, chàng thanh niên nói.

 Dù cho chính mắt bạn nhìn thấy, nhưng có lẽ chân tướng sự việc có thể không phải là như vậy. Như lời một triết gia người Hy Lạp từng nói: “Mỹ đức lớn nhất mà nhân loại cần phải học chính là khống chế được cái miệng của chính mình”.

 Lan man một luận-phiếm lai-rai/dài dài, thì như thế. Như thế, tức: chỉ tản-mạn hoặc mạn-đàm “lấy lệ” chứ không nhằm mục-đích thuyết-phục ai cả, đó là ý chính hôm nay bần đạo đây muốn bày-tỏ để bà con mình thông cảm.

Thông-cảm rồi, ta sẽ “cứ thế” mà mạn đàm thêm dăm ba phút nữa với những chuyện phiếm/tiếu-lâm chay/mặn cho qua ngày đoạn tháng, rất thường tình. Rào trước đón sau thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể “vui đời nghệ-sĩ” với những đoản-khúc lăng-nhăng, ngăn-ngắn rất làm vì như sau:

“Một ông béo phì, không có thì giờ thể dục, bèn đi bác sĩ khám xin thuốc giảm cân. Bác sĩ cho lọ thuốc màu hồng, dặn uống mỗi tối trước khi đi ngủ.


Uống thuốc đều đặn mỗi đêm, cứ đi ngủ là ông lại mơ thấy lạc vô hoang đảo, trên đảo có bầy tiên nữ không mặc đồ, ông bèn rượt bắt, nhưng chẳng bao giờ bắt được. Cứ rượt bắt lòng vòng trên đảo như vậy suốt đêm đến sáng. Thức dậy hai chân mỏi nhừ, mồ hôi vã ra, thở hổn hển. Đêm nào cũng rượt bắt, cũng mỏi nhừ. Ba tháng sau sút cả chục ký.

 Ông bạn thân nghe mách vậy cũng tới ông bác sĩ đó khám, xin thuốc để làm ốm bớt. Bác sĩ cho lọ thuốc màu xám, dặn uống mỗi tối. Uống thuốc đều đặn, đêm nào ông này lại cũng mơ thấy lạc vô hoang đảo, trên đảo có đám thổ dân ăn thịt người. Bị thổ dân rượt, ông chạy trối chết, suýt bị tóm trúng mấy lần, nhưng rồi lại thoát. Cứ chạy trốn quýnh quáng lòng vòng trên đảo suốt đêm đến sáng.

 Thức dậy hai chân mỏi nhừ, mồ hôi vã ra, thở hổn hển. Đêm nào cũng chạy trốn, cũng mỏi nhừ. Ba tháng sau sút cả chục ký. Nhưng ông này bực lắm, đi bác sĩ khiếu nại:

 -Tại sao bạn tui cũng khám chỗ bác sĩ thì lại có giấc mơ đẹp, còn giấc mơ của tui hãi quá. Chưa kể thỉnh thoảng còn suýt bị thổ dân tóm được nữa chứ, có bực không nào! Bác sĩ thủng thỉnh đưa giấy tờ ra giải thích:

-Bạn anh khám trả tiền mặt, còn anh thì xài thẻ “Medicare” hoặc “MediAid”, sao bì được!” (Trích truyện kể chuyển trên mạng rất mỗi ngày)

Kể thế rồi, nay lại muốn mời tôi và mời bạn, ta “cứ thế” cất cao bài hát “Vui Đời Nghệ Sĩ” của nghệ-nhân âm-nhạc rất Văn Phụng có những ca-từ đầy thúc-giục làm kết-đoạn mà về nhà, như sau:

“Cầm tay ta hát,

hát khúc ca yêu đời cho người vui.
Với tình ta chan chứa,

bao la trong bước đi trên đường đời.

Ơ kìa! chàng thi sĩ

đang miên man đi tìm bao vần thơ.
Ơ kìa! nàng ca sĩ

đang say sưa cung đàn cho đời mơ.
Tính tính tang tang tình lời thơ và ý nhạc,
Thắm thiết gieo cho người một ý niệm yêu đời
Còn chi vui hơn đời nghệ sĩ chúng ta?
Nguồn vui phơi phới

trên đôi môi xinh hồng bên ngàn hoa.
Chứ dù mưa hay nắng

ta vui ca bên nhau bao lời thơ.”

(Văn Phụng – bđd) 

 Trần Ngọc Mười Hai

Cũng có nhiều phút giây

Rất Vui đời Nghệ sĩ

Nhưng không nhiều. 

Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm,

 Suy Tư Tin Mừng Lễ Chúa Về Trời năm C 01/5/2016

                                                 Tin Mừng: (Lc 24: 46-53)

Khi ấy Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói:

“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

      “Mai sáng mai, trời cao rộng quá,”

           Gió căng hơi, và nhạc lên mây.

                                                          Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm,

                                                           Chỉ có ao xuân trắng trẻo thay.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

            Mai Tá lược dịch.

Xuân, nhạc và gió mai sáng mai, toàn những biểu-tưởng diễn-tả biến-cố Chúa về trời. Chúa về trời, đâu nào giống “nhạc lên mây”.

Chúa về trời, là Ngài về với Cha, với Thiên Chúa. Như đã thấy trong phụng vụ thánh lễ, hôm nay. Về trời, thoạt nhìn ta cứ tưởng như có một nghịch lý nào đó, về thời gian, giữa sách Công vụ và Tin Mừng của cùng một tác giả, là thánh Luca. Tin Mừng, nay thuật lại biến cố xảy đến với các tông đồ tại phòng họp, ở trên cao.

Sự kiện này xảy đến, chỉ khi hai môn đệ đi Emmaus về đến. Đó là Chủ nhật Chúa Sống lại, khi môn đệ tập họp ở Bêthania, một làng nhỏ ngoài Yêrusalem. Cũng từ giây phút này, Chúa được cất nhắc về trời. Phải chăng, như vậy là, việc Chúa Thăng Thiên xảy đến vào Chủ nhật, ngày Chúa Sống lại ư?

Mặt khác, điều mà thánh sử Luca mô tả ở sách Công Vụ, là sự kiện Đức Giêsu tỏ lộ cho thấy: Ngài vẫn hoạt động như người Thầy Chí Thánh ở giữa các tông đồ, sau khổ nạn. Theo Kinh thánh, suốt 40 ngày ròng, Đức Chúa tiếp tục hiện diện ở với các tông đồ, là để rao giảng về Nước Trời.

Và, cũng theo Kinh Sách, sáu tuần lễ sau ngày Ngài Sống Lại, Chúa mới về cùng Cha. Như thế, có vấn nạn hỏi rằng: trình thuật nào mới thực chính xác?

Ở đây, có lẽ ta cũng nên qui chiếu về mầu nhiệm thăng thiên về với Cha qua sự kiện diễn ra trong ngày Thứ Sáu Thánh, Chúa chịu nạn. Tin Mừng hôm ấy, Cha có nói:”Thầy sẽ được cất nhắc lên cao, và Thầy sẽ đem theo mọi thứ, theo với Thầy.”

Cụm từ “cất nhắc lên cao” ở đây, có thể hiểu cùng một kiểu như “cất nhắc lên” thập tự. Hoặc, “nâng nhấc” về với cuộc sống mới  với vinh quang của Cha. Bởi lẽ, cũng từ trên cao nơi thập tự ấy, lúc Ngài bỏ mình, Chúa quay về phía kẻ trộm “rày tử tế” và nói với anh: “Hôm nay, anh sẽ cùng Tôi về chốn Thiên cung.” (Lc 23: 43)

Có lẽ, ta cũng chẳng nên bận tâm thắc mắc mà làm gì, về sự khác biệt giữa hai trình thuật, ở Tân Ước. Bởi, sứ điệp quan trọng mà thánh sử Luca muốn gửi đến người đọc, chỉ mỗi là: hãy cẩn thận khi đọc và chú giải các trình thuật trong Kinh thánh, nhất thứ sau ngày Chúa Sống Lại.

Đọc kinh thánh, không nên hiểu từng chữ, rất nghĩa đen. Cũng đừng nên giống các vị cao niên không bỏ được tâm trạng “nệ cổ” khi dạy giáo lý/sách phần, hay vướng mắc. Điều quan trọng, không phải là những gì đã viết trong Sách thánh; mà là: hãy tìm ra ý nghĩa đậm sâu nơi mặc khải Chúa muốn ta biết và hiểu.

Vấn đề hôm nay, là: ta áp dụng thế nào ý niệm của sự kiện “Về với Cha”, cho cuộc sống của chính mình?  Về với Cha, không nên hiểu theo nghĩa rất đen và từng chữ, như bay bổng lâng lâng nơi không gian cao vút ấy.

Bằng không, người người sẽ hỏi: cao cỡ nào? Mấy tầng mây, đây? Thăng thiên về trời, có là vinh thăng chốn thiên đình, ở đâu đó? Ở bên trên vùng trời cao thấp, đất Giêrusalem? Và, thiên đường là ở nơi nào? Sao các phi hành gia tìm mãi, mà không thấy?

Nói tóm lại, toàn bộ Mầu nhiệm Vượt Qua, Thương Khó, Nỗi chết của Đức Kitô mà mầu nhiệm Phục sinh quang vinh, cũng như Thăng Thiên và Hiện Xuống, đều tạo một thực tế ta không thể nào khám phá bằng thời gian và không gian, được. Nhưng, ta chỉ hiểu được các huyền nhiệm ấy bằng niềm tin và thương yêu, mà thôi.

Vào Thứ Sáu Thánh Chúa Chịu Nạn, ta bảo Đức Giê-su thực sự đã chết. Và, vào Lễ Phục Sinh ta còn nói: Ngài vẫn sống đó rất vinh quang, thì Lễ Chúa Về Trời, ta còn phải thêm: Đức Giêsu-Phục-Sinh-hiện-vẫn-sống, Ngài đang ở với Cha, trong vinh hiển. Ở đây cũng thế, nếu không có niềm tin và yêu, ta sẽ chẳng hiểu được sự kiện Thăng Thiên

Ở nhà Đạo hôm nay, người người đều hiểu rằng: Đức Giêsu khi Ngài giã từ con dân đồ đệ ở khắp nơi chấm dứt tình trạng mang nặng hình hài thể xác, thì Ngài kỳ vọng mọi người sẽ thực hiện sứ vụ Ngài giao ban. Sứ vụ ấy, chẳng nặng nhọc gì cho cam. Cũng chỉ là: làm những việc Ngài đã từng làm. Làm cho người em bé bỏng chốn nghèo hèn, cùng khốn. Có thực hiện được sứ vụ như thế, mới thấy và mới hiểu được mầu nhiệm thăng thiên về trời mà Ngài nhất quyết.

Tuy nhiên, điều trước tiên Chúa muốn đồ đệ của Ngài làm, là: hãy về lại với Giêrusalem. Lưu lại ở đó chờ ngày Thánh Thần Chúa hiện đến với mọi người. Ngày đó, là ngày mà mọi người sẽ được thanh tẩy bằng Thần Khí. Ngày, mà dân con đồ đệ của Đức Chúa được giao cho trọng trách thực thi sứ vụ nối tiếp công việc của Chúa, rất cấp bách.

Như Chúa từng khẳng định: vào những ngày như hôm nay, dân con đồ đệ Chúa hiểu biết rất ít về sứ vụ Ngài từng bộc lộ. Và, có làm thế, mới chứng tỏ được niềm tin-yêu, ta có với Ngài. Có lẽ cũng vì lý do đó, mà dân con đồ đệ Ngài khi trước vẫn cứ hỏi: “Thưa Thầy, có phải nay là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?

Hỏi như thế, khác nào bảo: ở gần Thầy đến như thế, mà sao các thánh vẫn còn ôm ấp giấc mộng thời ban đầu? Giấc mộng, là ảo vọng về một quốc gia nào đó, rất không tưởng. Trớ trêu thay, câu trả lời vẫn cứ là: đúng đấy. Nhưng, đúng ở đây, vẫn không phải như ý của Chúa, hằng cho biết.

Bởi, sau khi lãnh nhận Thần Khí Chúa, các thánh đều đã trở nên môn đệ mang tính rất “người”. Cũng hăng say không kém. Vẫn quyết tâm khởi sự thực hiện Vương Quốc Nước Trời, không chỉ cho người Do Thái hoặc ở Giêrusalem hay Giuđêa mà thôi.

Nhưng, cả vào thời kết tận của trái đất. Không ràng buộc bằng thời gian hoặc không gian. Còn gì đẹp bằng, tình trạng dân con đồ đệ của Chúa nay thấy được Vương Quốc Nước Trời, đã thể hiện. Ở đây. Bây giờ.

Đó là sứ vụ của mọi người. Những người mang danh Kitô-khác. Tức, những vị đang quyết tâm thực thi điều Chúa dạy, là: dựng xây Nước Trời ở trần gian, bằng việc yêu thương có hy sinh. Yêu và thương, như Thầy đã yêu thương mình.

Chứ không còn đứng đó mà nhìn như ở sách Công vụ: “Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn về phía người ra đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng cạnh, và nói: Hỡi các bạn người Galilê, sao còn đứng trân trân đó mà nhìn trời? Đức Giê-su đây, Đấng vừa rời các bạn và được cất về với Thiên Chúa là Cha, sẽ lại đến cũng một kiểu như các bạn thấy đó, Ngài ra đi.” (CV 1: 10-11).

Ngài về với Cha, việc còn lại cho ta sẽ chẳng là “đứng đó mà nhìn trời” chiêm ngắm cảnh Ngài ra đi. Nhưng, hãy về với Giêrusalem, tức với thực tế cuộc đời, để thực hiện Lời Ngài căn dặn. Và, khi đã thực hiện Lời rồi, chắc chắn Nước Trời sẽ đến với mọi người. Với dân con đồ đệ của Chúa, nơi nhà Đạo. Và ở cả bên ngoài, nữa.

Lm Richard Leonard sj

            Mai Tá lược dịch.

HIỆP NHẤT TRONG YÊU THƯƠNG

HIỆP NHẤT TRONG YÊU THƯƠNG

Hiep nhat Trong Y T

“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để họ nên một như chúng ta… con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:11-20)

Đã hơn hai ngàn năm rồi, lời nguyện của Thầy Giêsu Chí Thánh vẫn còn vang vọng cho đến ngày hôm nay.  Giêsu ngày xưa đã cầu xin cho các môn đệ và những ai tin vào Ngài được ơn hiệp nhất nên một trong tình yêu.  Nếu đặt mình trong bầu khí của bữa tiệc ly hôm ấy, chắc hẳn chúng ta sẽ hiểu được lòng của Giêsu hơn, hiểu được khao khát của Ngài hơn.  Hiểu được vì sao lúc này lòng Ngài lại hướng trọn về các môn đệ thân yêu và cả chúng ta nữa, dù Ngài đang phải đối diện với bao cam go và thách đố khi chuẩn bị đi vào cuộc thương khó.  Hiệp nhất là một ơn thật cao quý.

Hiệp nhất không phải là làm cho mọi người đều có cùng một quan điểm, một suy nghĩ, và tất cả đều khoác lên mình một bộ đồng phục giống nhau.  Thực tế, chúng ta rất khác biệt nhau.  Dù cùng một màu da, cùng một văn hóa, và cùng một ngôn ngữ; nhưng chúng ta được Chúa dựng nên với những nét độc đáo riêng biệt và với kế hoạch rất riêng Chúa dành cho cho cuộc đời mỗi người.  Khoa học cũng cho thấy rằng khả năng giống hệt nhau giữa những con người được sinh ra chỉ còn là 1 trên 70 vạn tỷ (1/7.1013).  So với khoảng 7 tỉ người trên thế giới hiện nay, khả năng có ai đó giống mình thì rất xa vời.

Hiệp nhất là nên một giữa những khác biệt.  Hiệp nhất như một bức tranh mang nhiều màu sắc khác nhau nhưng vẫn hài hòa với nhau và cùng diễn tả một ý nghĩa hay một chủ đề nào đó, như một bản hòa tấu du dương gồm các nốt nhạc cao thấp, mạnh nhẹ khác nhau chứ không phải là tiếng còi tàu một cung hú lên inh ỏi.  Chúng ta có thể trở nên hiệp nhất nhờ biết mình đều là con cái cái Chúa, đều mang nơi mình hình ảnh của Ngài.  Khi hiệp nhất chúng ta ta được ở trong tình yêu của Giêsu, và cũng là ở trong tình yêu của Chúa Cha.

Tình yêu được nhắc đến như điểm quy chiếu, điểm nối kết tất cả.  Không thể nói đến hiệp nhất nếu không có tình yêu.  Nếu yêu mến và gắn kết với Giêsu một cách thực sự, thì cũng sẽ yêu thương và gắn kết với nhau.  Nhờ tình yêu, cũng sẽ khiêm tốn để cảm thông và chấp nhận nhau.  Cũng sẽ cùng nhau nghĩ đến lợi ích lớn hơn thay vì chỉ loay hoay với những tính toán nhỏ mọn của riêng mình.  Và khi ấy sẽ có hiệp nhất và bình an.  Giêsu là cây nho, chúng ta là cành nho, cành nào không gắn liền với cây thì sẽ bị khô héo và tách rời, hiệp nhất hệ tại cành nho liên kết với cây nho.  Để hiệp nhất cần có một tình yêu rất riêng với Giêsu.  Giêsu phải là trung tâm cho đời sống của mình.

Ước mong nhờ lời cầu nguyện của Giêsu ngày xưa, bạn và tôi cũng nghe thấy một lời mời nào đó cho chính mình, và cũng biết mau mắn đáp lại.  Để rồi chính mình nghiệm thấy niềm vui của sự hiệp nhất và bình an khi được ở trong Chúa là Đấng nhân từ đầy yêu thương.

***************************************

Lạy Chúa Giêsu, trong một thế giới chỉ thích đề cao cái tôi và thích nghĩ đến ích lợi cá nhân.
Xin cho chúng con trở nên đơn sơ và nhỏ bé, biết quên mình nghĩ đến anh em.
Trong một thế giới đầy lừa lọc và gian dối.
Xin cho con dám sống chân thật như Chúa dù phải gặp nhiều thách đố gian truân.
Cuối cùng xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa là trên hết và trước hết trong cuộc đời con, để khi gắn kết với Chúa, con được cũng được gắn kết với anh em,
khi hiệp nhất với Chúa, con cũng được hiệp nhất với anh em,
và tất cả chúng con được nên một trong tình yêu như Chúa hằng ước mong.  Amen.
Khánh Duy, S.J

MẪU GƯƠNG LAO CÔNG: GIUSE THỢ

MẪU GƯƠNG LAO CÔNG: GIUSE THỢ

LM Vinh Sơn scj,

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm hàm nhai.”  Tay lao động mới có của ăn, như ca dao nhấn mạnh: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ mang phần tới cho.”

Chúng ta có tồn tại được là do sự lao động cần cù, lao động trong tương quan với cuộc sống gắn chặt sâu sắc như được diễn tả: “Lao động là đổ thêm dầu vào cây đèn cuộc sống.”

THANH  GIUSE

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa lao động sáu ngày trong sáng tạo vũ trụ vạn vật, khi Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, Thiên Chúa đã muốn tháp nhập lao động vào trong chương trình của Ngài sau khi thiết định vũ trụ: “Thiên Chúa đã đặt họ trong vườn Eđen để họ canh tác và giữ vườn” (St 2, 15).  Con người làm việc hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, đồng thời phản ánh hành động của Tạo Hoá: đặt lao động vào tay con người với quyền chiếm hữu và cai trị trái đất (x. St 1, 28). Trong ý nghĩa đó, Công Đồng Vatican II dạy: “con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện, và khi nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng muôn loài, họ quy hướng chính bản thân mình cũng như vũ trụ về Ngài.  Như thế khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu” (GS, 34).

Thiên Chúa nói với con người “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có ăn” (St 3, 19).  Kinh thánh nghiêm khắc với người lười biếng không có gì ăn (x.Cn 13, 4) và có nguy cơ chết đói (x. Cn 21, 25), Kinh Thánh chế nhạo kẻ lười biếng: “Kẻ lười biếng lăn trở trên giường khác nào cánh cửa xoay trên bản lề” (Cn 26, 14).  Thánh Phaolô nói trực diện sự sai lầm của những người lười biếng lao động: “Ai không làm việc thì đừng ăn” (2 Th 3, 10).

Con người từ cổ chí kim, luôn coi trọng lao động, bất cứ ở dưới hình thức nào: Lao động chân tay, hay lao động trí óc, giá trị của chúng đều như nhau.  Nếu như lao động chân tay trực tiếp làm ra sản phẩm phục vụ đời sống con người, thì lao động trí óc là nhân tố giúp lao động chân tay có hiệu quả.

Chính vì thế, lao động là thánh thiêng, qua lao động con người được kêu gọi cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa (x. St 1, 26).  Qua lao động chúng ta góp phần cứu rỗi chính mình và thế giới (x. Lc 19, 13).  Ngôi Lời nhập Thể không bao giờ loại trừ lao động ra khỏi cuộc sống “nhập thể” của Người, Ngài lao công trong gia đình thợ mộc tại Nagiarét.  Đồng hương của Người đã không lầm lẫn khi gọi Người là “con bác thợ” (Mt 13, 35), “ông thợ mộc” (Mc 6, 3).  Người đã sống cái “nghiệp” ấy trong 30 năm trời tại Nadarét.  Lao động là cách hằng ngày diễn tả tình yêu trong cuộc sống của Gia đình Nagiarét.  Nghề thợ mộc của Chúa Giêsu học từ cha nuôi Giuse trong những năm tháng ở nhà Nagiaret.  Sách Tin Mừng nói rõ loại công việc mà thánh Giuse làm để nuôi sống gia đình mình: Người là một thợ mộc.

Giọt mồ hôi đổ trên vầng trán

Đôi tay sần chai bởi đục, cưa

Nhọc nhằn hai buổi sớm, trưa

Chu toàn bổn phận nắng mưa chẳng màng… (*)

Giuse người thợ mộc cần cù lao động, âm thầm thinh lặng và làm việc, đã truyền lại cho con Thiên Chúa nhập thể nghề thợ mộc.  Cả hai cha con thợ mộc Giuse và Giêsu đã đưa lại cho lao động một ý nghĩa cao sâu linh thánh.  Sau này khi rao giảng Tin Mửng, Đức Giêsu dạy cho con người chăm chỉ làm việc, Ngài bắt chước Chúa Cha: “Cha Ta làm việc liên lỉ Ta cũng vậy” (Ga: 17).  Trong các dụ ngôn về nước Trời, Đức Giêsu luôn nói về lao động: dụ ngôn người Mục tử (x. Ga: 1-16); người nông dân (x. Mc 12, 1-12) người gieo giống (x. Mc 4, 1-9)… Thánh Phaolô làm nghề may lều, và Ngài tự hào về nghề này, vừa có thể làm tông đồ, vừa có thể phục vụ cho vấn đề mưu sinh: “Ngày đêm chúng tôi làm việc vất vả lam lũ, để không phải phiền toái đến ai trong anh em”(2Tx 3,8).

Giuse là người thợ lao công, người thầy và là người cha, dạy dỗ và đưa Chúa Giesu vào nghề mộc, Đức Giáo Hoàng Piô XII kể từ 1955 đã chọn Thánh Giuse làm bổn mạng của giới cần lao và truyền lễ hàng năm vào ngày Quốc tế Lao Động.  Đức Thánh Cha nói tới ý nghĩa của lễ thánh Giuse thợ: “Chắc hẳn chúng ta phải hân hoan vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân cho giá trị lao động tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình các bạn lao động nữa”.

Tuy là người lao công bình thường giản dị nhưng thánh Giuse lại là Đấng Bảo Trợ đầy thế giá trước Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Piô XII khẳng định về quyền năng của Giuse Đấng bảo trợ cho nhân loại, cách riêng cho giới lao động: “Không có vị Giám hộ nào có đủ khả năng linh nghiệm truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng thánh Giuse thợ.”

Thật thế, chính Ngài là một mẫu gương lao động cho chúng ta sống với công việc mà chúng ta trách nhiệm lao động ở trần thế.  Hơn thế nữa, chính vì thánh nhân là người lao động đã kinh qua trong cuộc sống trần thế, ngài cảm nghiệm được nhu cầu được đỡ nâng của những con người lao công vất vả “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, vì thế Ngài trở nên Đấng bảo trợ giới lao công.

Chúng ta những người lao động, vất vả với cuộc sống mưu sinh hàng ngày:

Lao động là đường…

đưa tới cõi trường sinh

Hy sinh trót cả đời mình

Mẫu gương Thánh Cả trọn tình hiến dâng (*)

Chúng ta xin thánh Giuse nâng đỡ cầu bầu cùng Thiên Chúa tuôn đổ mọi ân thánh, như thánh Têrêsa Avila khẳng định trong Kinh Khấn Thánh Giuse: “xưa nay không ai kêu cầu cha thánh Giuse mà vô hiệu.  Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời, Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin…”  Cho nên mừng lễ thánh Giuse lao động, chúng ta hãy nhớ lời Đức Thánh Cha Piô XII nhắn nhủ trong ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên vào ngày 1 tháng năm 1955:

“Nếu các con muốn được gần Chúa Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay: Ite ad Joseph – Hãy đến với Giuse” (St 41: 55)

LM Vinh Sơn scj,

Sài Gòn 1/5

(*) thơ của Mặc Trầm Cung

nguon: langthang chieutim

Hành trình của những thao thức + GB. Bùi Tuần

Hành trình của những thao thức + GB. Bùi Tuần

Bài chia sẻ trong dịp

kỷ niệm thụ phong Giám mục

30.4.1975-30.4.2016

BUI TUAN

  1. Tôi tin Thiên Chúa giàu lòng thương xót đang ngự giữa chúng ta.

Với tâm tình tạ ơn, tôi xin chia sẻ đôi chút về tình yêu xót thương Chúa đã dành cho tôi, cách riêng trong suốt cuộc đời Giám mục.

  1. Cuộc đời Giám mục của tôi là hành trình của một ơn gọi.Chúa gọi tôi, mặc dầu tôi tội lỗi. Tôi xin vâng với bao lo sợ, chỉ biết phó thác mà thôi.

Ngay từ giây phút đầu, Chúa đã sai tôi đi với hai thao thức rất mạnh.

Thao thức thứ nhất là làm thế nào để Hội Thánh Chúa được sống và được sống dồi dào sự sống của Chúa, tại Việt Nam đầy sóng gió.

Thao thức thứ hai là làm thế nào để đồng bào của tôi được yêu thương nhau, trong một tình hình có nhiều phân hoá.

  1. Hai thao thức đó đượcđốt lên trong tôi từ ngọn lửa đức tin. Với đức tin, tôi thấy tình hình là rất phức tạp, mà tôi thì quá yếu đuối. Nhận thức ấy đưa tôi đến gần Chúa.
  2. Tôi tin: Phải có ơn Chúa. Chỉ ơn Chúa mới thực thi được ơn gọi. Tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã phán xưa:“Không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Nên, ưu tiên, tôi lo ở lại trong Chúa, như lời Người dạy: “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con”, “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng thế, nếu các con không ở lại trong Thầy” (Ga 15,4).
  3. Ở lại trong Chúa và sống mật thiết gắn bó với Chúa, đó làmột chiều kích nội tâm do Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Trong đời sống nội tâm được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, tôi nhìn thấy khá rõ những hình thức Chúa cứu tôi, nhất là bằng sự Chúa tha thứ. Nhờ đó tôi kết hợp với Đấng Cứu Thế, là Đấng đã dùng sự khiêm nhường mà cứu chuộc nhân loại.
  4. Cũng Chúa Thánh Thần, Đấng đã dẫn đưa tôi trong đời sống nội tâm, lại dẫn đưa tôi vào đời sống hoạt động.Hoạt động của tôi là hiệp thông với mọi việc, mà các Giám mục, các linh mục, các tu sĩ, các giáo dân làm theo nhu cầu mục vụ và truyền giáo.

Nhưng trong mọi hoạt động, Chúa Thánh Thần luôn nhắc bảo tôi là phải rất tỉnh thức, để bất cứ việc lớn nhỏ nào cũng thực sự phải trong sạch về phương diện là chỉ tìm thực thi thánh ý Chúa mà thôi.

  1. Tôi vâng làm theo. Và mỗi lần thấy mình sai, thì tôi lạisám hối trở về với Chúa. Sám hối trở về trong tinh thần phó thác, đó là một việc tôi làm thường xuyên. Bởi vì tôi luôn luôn là kẻ yếu đuối. Chính trong sự được Chúa thứ tha, mà tôi cảm nhận được thấm thía tình Chúa xót thương.
  2. Trong sự sám hối trở về, tôi được Chúa cho thấy ơn Chúa là vô cùng cần thiết cho việc cứu độ.

Khi ban cho tôi ơn nhận biết sự cần thiết của ơn Chúa, Chúa cũng dạy tôi phải cộng tác vào ơn Chúa.

Cộng tác đầu tiên mà tôi cho là rất quan trọng, đó là hiệp thông với Đức Giáo Hoàng với tình con thảo và có trách nhiệm.

Cộng tác vào ơn Chúa còn bằng sự khiêm tốn học hỏi những gì về Chúa. Tôi nghĩ ngay tới Kinh Thánh, các thánh giáo phụ, nền thần học, triết học được Toà Thánh chứng nhận, và những sách đạo đức của những tác giả có uy tín, được Toà Thánh công nhận. Nhờ kho tàng kiến thức đó, tôi luôn thấy mình cần phải bắt đầu lại, nhất là ở sự phải từ bỏ mình.

  1. Cùng với  việc học ở các tác phẩm có uy tín về Chúa, tôi rất vui nhìn ngắm những việc lạ lùng Chúa làm nơi nhiều chứng nhân của Chúa đang sống gần xa ngay trong thời điểm này.
  2. Tôi chú ý cách riêng đến những người ngày đêm gieo hạt giống Nước Trời giữa nơi mình sống.Bằng đời sống đạo đức, họ là men giữa bột (x. Mt 13,33), họ là hạt cải gieo trong ruộng (x. Mt 13,31-32). Âm thầm và nhỏ bé, họ được Chúa gọi là những kẻ mở rộng Nước Trời.
  3. Hơn nữa, thao thức còn đẩy tôi đi sâu vào quần chúng. Ở đó, tôi đã nhận thấy nhiều người ngoại nhưng lại thuộc về Đức Kitô, do sự họ được Chúa Giêsu lôi kéo họ bằng những ơn khác nhau, đúng như lời Người đã phán xưa:“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).

Với những khám phá như trên, tôi hiểu ơn gọi của tôi phải nhắm vào hy vọng và đợi chờ, chứ không phải vào những thành công trước mắt.

  1. Nếu ơn gọi của tôi đúng là hành trình của những thao thức, thì hôm nay những thao thức vẫn còn đó, nhưng mang những cung điệu mới, hợp với những thay đổi của lịch sử, một lịch sử có những tiến triển mới và cũng có những sa sút mới.
  2. Hôm nay, khi cuộc đời đã được báo động là sắp phải ra đi, tôi lại có thêm một thao thức mới, đó làthao thức đi về với Cha trên trời.

Đi về với Cha trên trời, đối với tôi, là một thao thức ngọt ngào, đòi rất nhiều niềm tin vào tình yêu thương xót Chúa, và cũng rất nhiều niềm tin vào tình yêu bao dung của mọi người.

  1. Để kết, tôi xin phép nói tắt một lời, đó là: Chúa giàu lòng thương xót đã yêu thương tôi quá sức tôi tưởng tượng, quá hơn sự tôi mong ước, nhất là ở sự Chúa luôn cứu tôi, luôn tha thứ cho tôi, luôn ban cho tôi những thao thức Phúc Âm được đốt lên từ đức tin do lòng thương xót Chúa.

Lạy Chúa, con xin phó thác con trong tay Chúa.

Long Xuyên, ngày 30.4.2016

Một làn khói trắng,

 Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Sáu Phục Sinh năm C 01/5/2016

“Một làn khói trắng,”
“Du đời vào quên lãng
Nâng sầu thành hơi ấm
Hơ dịu tình đau.”

(Vũ Thành An – Bài Không Tên số 7)

(Công Vụ 10: 34-35)

  Trần Ngọc Mười Hai

Không tên hay có tên, vẫn một bài hát ấy, cứ lờ-mờ như làn “khói trắng”, rồi “du đời vào quên lãng” “hơ dịu một tình đau.” Thế đó, là giòng nhạc có tình-tự thi-ca cũng rất cổ. Thi-ca cổ đây, là giòng thơ/âm-nhạc vẫn dìu người hát và người nghe đi vào chốn hồn người có nhịp-điệu nhịp “Slow” êm-ả, tình-tứ, khá lãng-mạn.

Còn gì lãng-mạn và trữ-tình bằng những ca-từ liên-tiếp hát như sau:

“Ngày tàn im ắng,
Yêu người làm tóc trắng.
Tâm sự rồi đến đắng,
Như lệ giờ biết nhau.

Đêm vỗ về nuôi nấng
Đêm trao ngọt ngào hương phấn
Buông lơi dòng tóc mỡ
Trên vùng ngày tháng vật vờ.”

(Vũ Thành An – bđd)

Vâng. Dù cho “tâm-sự ngày rất đắng” đến như thế, lại có “đêm vỗ về nuôi-nấng”, đôi lúc còn “buông lơi giòng tóc mỡ”, “trên vùng ngày tháng vật-vờ”, cả đời người.

Vâng. Đời người đi Đạo nay cũng thế. Vẫn thấy “tháng ngày vật-vờ”, vẩn vơ, “ú ớ” cũng rất nhiều. Nhiều, như lập-trường tư-tưởng những là thần-học mù-mờ, vu vơ thật rất nản.

Ấy chết! Có nản hay không do lời-lẽ hoặc ý-nghĩa vẩn vơ, “ú-ớ” ở lời kinh/câu hát nào! Nản một nỗi, là khi các cụ cứ “lửng-lơ-con-cá-vàng-trong-chậu-nước”, âm-thầm như một nhận-định ở giòng chảy trên mạng với chi-tiết sau đây:

“Cách nay 50 năm, tuần-báo Time có đăng ở trang bìa một giòng chữ rất lớn với câu hỏi: “Thượng Đế đã chết thật rồi sao?” Đây là câu-hỏi nóng, do nhà thần-học và triết-gia nọ khi trước từng để ra với thế-giới trần-tục ở phương Tây. Và, các chế-độ vô-thần lâu nay vẫn khuynh-loát phần còn sót của nhân-loại!

 Hôm nay, một trong các chế-độ xưa/cổ ấy đã biến dạng. Và tôn-giáo, nay đang đoạt lại chỗ đứng của mình trong cuộc sống ở Nga và một số nước. Có chế-độ còn sửa-đổi cả lề lối chống-báng đạo-giáo mạnh đến độ: hôm nay, có đến chục triệu người Trung Hoa đã và đang trở-thành tín-hữu Đạo Chúa rất hiên-ngang. Nhà cầm quyền nước này, cũng đã quay lại hầu chuyện Đức Giáo-Chủ Công-giáo La Mã.

 Riêng Châu Phi và nhiều nước Trung Đông, các nhóm/phái giáo-hội được hoạt động đến 100% khả-năng của mình. Tại Ấn Độ và các nước đang phát triển, dù theo đạo Chúa hoặc Hồi giáo, dù thuộc Ấn giáo hay đạo Phật, hiện vẫn thấy tồn tại một sức mạnh văn hóa, thật dũng-mãnh…

 Nhưng, hỏi rằng: ở thế kỷ 21 này, Thiên Chúa có chết thật chăng? Câu trả lời ở đây, đang vang rền một tiếng “không” rất mạnh! Không. Ngài “không chết đâu anh!” Thật ra, đó chỉ là nỗ-lực của một số người muốn giết chết niềm tin của người đi Đạo, đến tận tuyệt, mà thôi.

 Ở trời Tây bên ấy, điều này chừng như là mục-tiêu giết chết niềm tin của người đi Đạo vốn dĩ xảy ra qua ba đường-lối: một là, phong-trào trần-tục-hoá Đạo Chúa và nỗ-lực biến Đạo-giáo thành chốn/miền trần-tục, và/hoặc lèo lái đạo-giáo cho xa rời đời sống của chúng dân, thôi.

 Thứ hai, là: các nỗ-lực như thế, nay bắt đầu cho thấy tự-do tôn-giáo không còn là vấn-đề sống còn chỉ ở Trung-Hoa, Pakistan, hoặc Ả Rập Sauđi thôi, nhưng cả đến các quốc-gia lâu nay từng chủ-trương cách-mạng giới-tính; đồng thời, họ lại đưa ra nhiều biện-pháp quyết hợp-thức-hoá phá thai, coi “đồng tính luyến-ái” như chuyện thường-tình; và mới đây nhất, họ còn tạo cởi mở về tính-chất phức-hợp/đa-dạng về giới-tính của con người nữa.

 Nỗ-lực đây, lại đã kèm theo đòi hỏi về nhân-quyền có sự hợp-lực của luật pháp lâu nay vẫn mâu-thuẫn với niềm tin Do-thái-giáo và Hồi-giáo chuyên đặt nặng nhân-phẩm và sự phát-triển nhân-vị. Những thứ này, cùng với quyền-lợi mới được tạo đã khiến một số nhà cầm-quyền chấp-nhận cho chủ-nghĩa trần-tục và cảm-xúc dần dà chiếm-ngự tôn-giáo.

 Tựu-trung thì: vấn-đề tự-do tôn-giáo không nghiêm-trọng như trước; và vì thế, các tín-hữu không còn bị hố sâu ngăn-cách gây xung-đột trong cộng-đoàn kẻ tin nữa. Và, các nhà thần-học vẫn bận-tâm chuyện “Thiên-Chúa đã chết rồi”, như tác-giả John T. Elson từng viết bài trên báo vào năm 1966 đã khẳng-định rằng: “Thiên-Chúa chết thật rồi!”

 Dù có thế, ông vẫn đề-nghị mọi người hãy sống trung-thành với niềm tin mình có. Tác-giả, tuy đã viết về thứ “thần-học không có thần-linh” nhưng theo ông, Thiên-Chúa vẫn đồng-hành với ta cách này/cách khác. (X. Carolyn Moynihan, Is God dead? No, but our faith may be ailing, MercatoNet 08/4/2016)

 Ấy đấy, là tâm-tư/tự-sự của người viết ở ngoài đời bàn chuyện cho vui, thôi. Chứ, bà đâu đòi một chuyển-đổi nào nơi nhà Đạo, ở trời Tây. Nhưng, đây lại là lập-trường “ngoài Đạo” của nghệ-sĩ đời với câu hát không mang tính thần-học nào hết, dù ông nay đã là “phó-tế vinh-viễn” ở Đạo Chúa rất Kitô. Lập-trường ông đề ra, là ý-tưởng vang bóng một thời về nữ-phụ, rồi gọi đó là “Bài Không Tên số 7”, như sau:

 “Thân em rồi hoang phế,
Lê theo thời gian giông gió.
Thôi cũng đành cúi xuống,
Cho mộng đời thoát đi.

Một đời đổ cho tình yêu,
Từng đêm dòng nước mắt.
Sẽ nâng niu đời nhau (ừ) Đớn đau anh.
Sẽ cho nhau đời nhau (ừ) Xót xa em.
Dắt đưa nhau mối hận đời người.

Trả lại nước mắt,
Cho mệnh đời son sắt.
Thôi rồi em cũng mất,
Cho tình cúi đầu.

Một mình đi mãi.
Trên đường dài không thấy.
Ai người quen tôi đấy.
Bao giờ đời sẽ vơi.”

Vũ Thành An – bđd)

 Ấy! Thôi chết thật rồi bạn ơi, thế có khiếp không! Chết, là bởi: nếu bạn cứ tin rằng điều đó có thật, rất trữ-tình, thì đây: một tình-tự khác tuy không láng-mướt như một giảng-dạy rất hay ho, ở bên dưới.

Đó, là lập-trường thần-học của đấng bậc nọ ở trời Tây từng thổ-lộ:

“Có thể nói, một nhận-định lạ-lùng về bất cứ văn-bản chữ viết bắt gặp ở lịch-sử, là: lời-lẽ trong đó có chứa-đựng một thứ gì gọi là “Lời Chúa”. Khẳng-định như thế, tức bảo rằng: Thiên-Chúa là hữu-thể rất giống “con người”, ở một điểm là: Ngài cũng có khả-năng nói như con người và cho con người bằng ngôn-ngữ khiến họ hiểu được. Và, cả đến lập-trường/chủ-trương quyết rằng Thiên-Chúa đã “đầu-tư” một cách mật-thiết vào cuộc sống của con người theo dạng “thu nhỏ”.

 Thật ra, chẳng cần gì phải ưu-tư/bối-rối chút nào vì những khẳng-định như thế đã được đưa ra suốt chiều dài lịch-sử ở phương Phương theo kiểu-cách nào đó, mà ta gọi là Kinh/Sách. Nhưng, tín-hữu Đạo Chúa chẳng khi nào coi trọng các đòi-hỏi của người “ngoài Đạo”, hết. Nói như thế, tức bảo rằng: các đòi-hỏi ở đây đã đến từ nguồn văn không thuộc về Đạo Chúa, vẫn bị coi là phi-lý.

 Tuy nhiên, ta cũng chẳng cần đi đâu xa mới nhận ra rằng: Đạo Chúa diễn-tả điều này đều được bộc lộ bằng nghi-thức phụng-vụ thật đích-xác. Chẳng hạn như câu nói “Đó là Lời Chúa” ta vẫn quen nghe vào lúc kết-thúc các bài Sách thánh đọc ở thánh-lễ Chúa Nhật mà các Giáo-hội đều đưa vào phụng-vụ. Và, khi nghe câu nói ấy, cộng-đoàn dự lễ đều đồng-thanh đáp-ứng bằng câu thưa: “Tạ ơn Chúa”.  

 Ở một số Giáo-hội chuyên rao-giảng Lời Chúa, những câu đáp/trả như thế còn nở rộ hơn nữa. Có Giáo-hội còn thay-đổi lời công-bố sau Phúc Âm bằng những lời như: “Xin Thiên Chúa chúc phúc thêm cho người đọc Lời Ngài ở đây hôm nay.”          

Tóm lại, gọi Kinh Sách là “Lời của Chúa” là điều thường tình trong truyền-thống từng khiến cho lưỡi ta uốn cong/tròn theo quán-tính, rất thuộc lòng nhưng ít khi ta để tâm ra tìm-hiểu xem điều ta nói như thế có nghĩa gì đích-thực.

 Và rồi, vào các buổi chia-sẻ/học-hỏi Lời Kinh thánh trong Giáo-hội về một số vấn-đề xã-hội lớn lao, giới-chức có thẩm-quyền đều trích-dẫn hầu như thường-xuyên các văn-bản của Sách thánh. Và đấng bậc trích-dẫn những Lời rút từ Kinh thánh lại cứ cho rằng Kinh Sách rất thánh thật sự được đầu-tư với quyền-uy thế-lực của Đức Chúa…” (X. Tgm John Shelby Spong, A Claim that cannot endure, trong The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers 2005, tr. 15-16)

Thật tình mà nói, kể chuyện đời bằng lời lẽ của đấng bậc nhà Đạo bàn chuyện Đạo với lời lẽ rất đạo-mạo, thì như thế vẫn rất tuyệt. Kể chuyện đạo-làm-người ở đời, cũng có người từng kể theo cách-thức hoàn-toàn khác-biệt. Khác, như vị thiền-sư Phật-giáo nọ cũng kể như sau:

Một người không rõ về vận mệnh, đem thắc mắc của mình đi bái kiến một
vị thiền sư :
– Thầy nói xem trên đời này có vận mệnh không ?
– Có .
– Nhưng , vận mệnh của con ở đâu ?
Vị thiền sư kêu anh ta xoè tay trái ra , chỉ anh ta xem và nói :
– Con thấy rõ chưa ? Đường này là đường tình cảm , đường này gọi là đường sự nghiệp , còn đường kia là đường sinh mệnh.
Sau đó, vị thiền sư kêu anh ta từ từ nắm tay lại , nắm thật chặt.
Thiền sư hỏi :

– Con nói xem , những đường đó nằm ở đâu rồi
Anh ta mơ hồ bảo :
– Trong tay con này .
– Con hiểu vận mệnh của con ở đâu rồi chứ?
Vâng. Người kể hôm nay lại đính kèm thêm lời bàn, bảo rằng: vận-mệnh con người nằm gọn trong tay mình. Nhưng, nhiều thứ khác, tuy không gọi là vận-mệnh của trời của Phật, của đất trời, cũng khó biết.

Lời người kể lại cũng nói: người thanh-niên kia mỉm cười nhận ra vận-mệnh nằm ở trong tay mình. Nếu không tu, thì cứ sống theo nhân/quả đã có do nghiệp tạo. Có tu, thì dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Nghiệp đổi, số phận đổi, tốt/xấu là do cách ta chuyển nghiệp, mà thôi.

Và người kể, còn thêm đôi ba nhận-định về chữ-nghĩa con người, rất để đời như sau:

SỰ THẬT có 6 chữ
GIẢ DỐI cũng 6 luôn
Mặt trái và mặt phải
Trắng đen ôi khó lường!

TÌNH YÊU có 7 chữ
PHẢN BỘI cũng thế thôi
Chúng là hình với bóng
Rất dễ dàng đổi ngôi.

Chữ YÊU là 3 chữ
HẬN là ba, giống nhau.
Người say men Hạnh phúc
Kẻ thành Lý Mạc Sầu.


BẠN BÈ có 5 chữ
KẺ THÙ đếm cũng năm
Hôm nao lời ngọt mật
Hôm nay chìa.. dao găm.


Từ VUI có 3 chữ
Tiếng SẦU cũng đồng như.
Quá vui thường mất trí,
Mất trí đời đổ hư.

 Chữ KHÓC có 4 chữ

CƯỜI cũng vậy giống in

Ai “giòn cười tươi khóc”

Ai cảm thọ nhận chìm

Cuộc sống là hai mặt

Giới tuyến một đường tơ

Chấp nhận mà không vướng

Nhẹ bước qua hai bờ.”

(Nhận-định vận-mệnh, do Thích Tâm Tánh gửi trên mạng cho mọi người được đọc).

Suy về lời-lẽ/chữ-nghĩa của con người, tưởng cũng nên suy thêm về Lời của Đấng Thánh Nhân-Hiền từng nói cho con người và với con người như sau:

“Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng nói:

“Quả thật,

tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào.

Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa

và ăn ngay ở lành,

thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào,

cũng đều được Người tiếp nhận.

Ngài đã gửi đến cho con cái nhà Israel

Lời loan báo Tin Mừng bình an,

nhờ Đức Giêsu Kitô,

là Chúa của mọi người.”

(Công Vụ 10: 34-35)

 Thành thử, chiếu theo những điều thánh-nhân hiền-lành trong Đạo từng nhận-định về “Lời” và lẽ rất chân-chính, thì cũng nên phân-biệt hai chữ “vận-mệnh” theo định-luật “dừng” nghiệp và “chuyển” nghiệp nơi lời lẽ, là như thế.

Nhưng, như thế vẫn chưa hẳn là có thể chuyển/đổi cuộc sống mà tin-tưởng vào “tình-thương-không-nghiệp-chướng”, rất vô bờ của Thiên-Chúa Đấng đã gửi “Lời” đến với ta, tình thương-yêu của Ngài, bao giờ cũng mạnh hơn nghiệp/chướng và vận-mệnh của bất cứ ai, trên đời này.

Là người, ai cũng có thể dùng tình thương-yêu rộng-mở đến với mọi người để mà “dừng”/mà “chuyển” cả vận-mệnh lẫn cái nghiệp-(rất)-chướng của con người. Không tình-thương, chắc chẳng ai thể làm được gì, kể cả những thứ rất chướng của nghiệp-dĩ hoặc “vận-mệnh” con người. Đó, là sự thật mà con người vẫn tìm kiếm mãi suốt đời mình.

Nói thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta hãy cất cao tiếng/giọng mà ca lên lời trần-tình rất thi-tứ của người nghệ-sĩ từng đề ra, cả khi chưa trở-thành “Phó-tế Vĩnh-viễn” trong Đạo Chúa. Những lời và lời như thế, vẫn được cất lên như sau:

“Thân em rồi hoang phế,
Lê theo thời gian giông gió.
Thôi cũng đành cúi xuống,
Cho mộng đời thoát đi.


Một đời đổ cho tình yêu,
Từng đêm dòng nước mắt.
Sẽ nâng niu đời nhau (ừ) Đớn đau anh.
Sẽ cho nhau đời nhau (ừ) Xót sa em.
Dắt đưa nhau mối hận đời người.


Trả lại nước mắt,
Cho mệnh đời son sắt.
Thôi rồi em cũng mất,
Cho tình cúi đầu.


Một mình đi mãi.
Trên đường dài không thấy.
Ai người quen tôi đấy.
Bao giờ đời sẽ vơi.”

(Vũ Thành An – bđd)

Chính thế. Trên con đường dài cuộc đời, ta dù có thấy hay không thấy được ý-nghĩa của lời người nói ở đâu đó, vốn dĩ là “người quen mình đấy”, rồi cuộc đời sẽ vơi đi “nỗi buồn không tên” rất số 7, mà thôi.

Đúng vậy. Trên đường đời đi Đạo cũng thế, dù bạn và tôi, ta đã nghe rất nhiều lần “Lời” Kinh ở đâu đó trong Đạo hay ngoài đời, rồi cũng sẽ như “một đời đổ cho tình yêu”, “sẽ nâng niu đời nhau (ừ) đớn đau!”

 Đúng là như thế. Lời thương-yêu, vẫn có thể chuyển-đổi cả một đời người. Vẫn rất vui.


 
Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cũng có

Mối tâm-tư buồn cho chính mình,

Nhưng không phải

Bài Không Tên số 7.