Khu Vườn Mộ và Mồ Thánh: đâu mới là nơi Đức Giêsu sống lại?

Khu Vườn Mộ và Mồ Thánh: đâu mới là nơi Đức Giêsu sống lại?

– Tin nổi bật, Tin Công Giáo Thế Giới

150412_khumothanh

VRNs (12.04.2015) – Sài gòn – CBN giới thiệu, hàng triệu Kitô hữu trên thế giới đã tổ chức mừng Phục Sinh, Chúa Giêsu Kitô sống lại vào Chúa Nhật 5 tháng 4. Ở Jerusalem, hàng ngàn Kitô hữu hành hương đã viếng thăm Khu Vườn Mộ (The Garden Tomb) mà nhiều người cho rằng đó chính là khu vườn của Joseph Arimathea nơi đã chôn cất Đức Giêsu Kitô và sau đó ngài đã phục sinh.

Tuy nhiên, một số người tin rằng Nhà thờ Mồ Thánh ở Jerusalem mới là nơi thật sự diễn ra cuộc tử nạn và phục sinh, không phải ở Khu Vườn Mộ. Hoàng Thái hậu Helena của Constantine đã giúp xây dựng đền thờ này vào năm 326 A.D (sau Công nguyên).

Richard Meryon, giám đốc Khu Vườn Mộ giải thích rằng ‘Những gì chúng tôi có ở đây nơi Khu Vườn này là một sự diễn tả hoàn hảo của Kinh Thánh trong đoạn cuối của 4 sách Tin Mừng”. Ngày nay, cứ mỗi năm có khoảng gần một phần tư trong một triệu người du lịch đến Jerusalem ghé thăm Khu Vườn Mộ này.

Nói với CBN News, Steve Bridge người hướng dẫn của khu vực cho biết, họ đã xây dựng mảnh đất giống như những bằng chứng địa lý được nói đến trong Kinh Thánh. Bridge hướng dẫn viên nói, “Đức Giêsu đã bị đóng đinh ngoài tường thành thành phố nơi được gọi là Golgotha. Và chính tại nơi ngài bị đóng đinh là khu vườn thuộc về một người đàn ông khá giả có tên là Joshep Arimathea”.

Theo ông Bridge, những nghiên cứu khảo cổ đã là những chứng cứ chủ chốt ủng hộ tuyên bố này của đền thờ, nhưng chứng cứ của Khu Vườn Mộ cũng có thể thuyết phục. Trong sách Tin Mừng của thánh Gioan có viết “…nơi mà Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn…” (Ga 19, 41), ông nói, nếu bạn có một khu vườn thì phải cần rất nhiều nước, điều này sẽ còn cần hơn nữa đối với khu vực khô hạn Trung Đông này.

Khu Vườn Mộ chứa một trong các hồ nước lâu đời nhất và lớn nhất ở Jerusalem. Nó được khoảng 2.000 năm tuổi và giữ khoảng 200.000 gallon nước.

Vì vậy, theo Bridge ngôi mộ họ có ở đây là một điển hình của một ngôi mộ đá lăn của người Do Thái, ở thế kỷ đầu tiên. Nó có niên đại ít nhất 2.000 năm”.

Khu Vườn Mộ hay Nhà Thờ Mồ Thánh đều là nơi Chúa Giêsu Phục Sinh, những Kitô hữu hành hương đến đây và mang theo họ sự khẳng định về niềm tin. Và với Mùa Phục Sinh này Khu Vườn Mộ cũng muốn nhấn mạnh đến việc con người phục sinh chứ không phải nơi chốn. Hiện tại Khu Vườn đang thuộc quyền quản lý của Hiệp hội Khu Vườn Mộ (Jerusalem) thuộc Anh giáo.

Pv. VRNs

Lời nguyện trôi theo mái tóc dài

“Lời nguyện trôi theo mái tóc dài,”

Cầu cho hoa lá thoát phàm thai.

Hồn lên vầng trán mây kềm toả,

Hình tượng nào đây? Thể xác ai?”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch

Nhiều lúc, người đọc sách thánh đã cắt ngắn truyện Tin Mừng một cách quá sớm, để rồi không định ra được ý-tứ của người viết nói thế nào? Về ai? Có ý gì?

Trình thuật hôm nay ta nghe được, lại là chương cuối của Tin Mừng Luca với 4 trích đoạn kể lại việc tông đồ Chúa đạt niềm tin về sự Sống lại. Ở hai đoạn đầu, Maria Magđala và Phêrô, đã đến mộ phần Đức Kitô, phát hiện ra Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết.

Ở đoạn trích thứ 3 -“Đoạn Đường Emmaus”- Luca lại nói đến trường hợp Đức Kitô hiện ra với các đồ đệ đang tụ họp. Ở đây, trình thuật kết thúc ngay câu 48, khi Đức Kitô dặn các tông đồ phải trở nên chứng nhân cho việc Ngài sống lại. Trong khi đó, nếu đưa thêm hai câu tiếp, ta sẽ thấy: Đức Kitô nhắn nhủ các môn đệ hãy ra đi loan truyền Tình yêu cứu độ cho thế giới, bên ngoài.

Sở dĩ, Hội thánh kết thúc trình thuật hơi sớm là vì không muốn gộp chung báo trước việc Đức Kitô Thăng Thiên, tức Ngài về với “Cha” đang mong. Và làm thế, người đọc Tin Mừng thấy kết cục hơi đột ngột, không thông như giòng chảy ngọt ngào như toàn bộ chương cuối. Truyện kể “Đoạn Đường Emmaus” phản ánh điều mà mỗi người chúng ta vẫn thường làm trong buổi Tiệc thánh, mỗi Chúa Nhật.

Thật thế, nếu đưa câu 49 và 50 của chương 24 vào chung với đọan Tin Mừng hôm nay, ta sẽ nhận ra tình huống tương tự khi Ngài mới sống lại. Đặc biệt, các động từ trong truyện cho thấy Đức Kitô như  hiện diện với đồ đệ đang tụ họp vào mỗi buổi dự tiệc. Ngài trao ban chính mình Ngài cho các đồ đệ để mọi người nhận ra Ngài, ôm Ngài vào lòng.

Trong khuôn khổ buổi tiệc, Đức Kitô vẫn cùng ăn cùng uống với các đồ đệ. Ngài vẫn dạy mọi người hiểu thêm ý nghĩa thánh kinh; và, Ngài uỷ nhiệm mọi người hãy ra đi loan báo Tin Mừng Yêu thương cứu độ, coi đây như sứ mệnh cao cả gửi đến mỗi người.

Tiệc Phục sinh ban đầu đem lại kết quả cho mọi người cũng hệt như tiệc của lòng mến mỗi Chúa nhật. Chúng ta tụ tập đông đủ, ở đây và lúc này, là để tưởng nhớ; và, một lần nữa, chuyển biến sự kiện quan trọng này thành sứ mệnh sống còn. Đây là lý do Hội thánh luôn đề cập đến con số 40 ngày Chay tịnh, từ Lễ Tro đến lễ Vọng Phục sinh.

Thật ra, con số 40 ngày –(hoặc 45 nếu tính cho đúng)—có rơi đúng hôm nay hay sau ngày Đại lễ, thì mỗi Chúa nhật đều là ngày để ta trỗi dậy mà Sống lại và nhớ bài sai ra đi rao truyền Tình thương cứu độ của Đức Chúa. Và, điều này hợp với ý định của Hội thánh.

Cũng tựa như tiệc Phục sinh ban đầu có Chúa hiện diện, mỗi Chúa nhật đều là ngày Phục sinh ta cũng có Đức Kitô mời đến tham dự Tiệc rượu Lòng Mến.

Tham dự Tiệc Thánh, ta tiếp tục được hướng dẫn hiểu rõ thánh kinh. Tiếp tục sống tinh thần Tin Mừng trong cuộc sống đời thường. Có sống thương yêu đùm bọc theo tinh thần của Tin Mừng, ta mới tiếp tục có Chúa hiện diện. Ngài hiện diện với các thánh tông đồ, ngày Phục sinh. Ngài cũng còn hiện diện với chúng ta.

Và, Ngài vẫn thương yêu, đùm bọc mọi cộng đoàn kẻ tin, lớn nhỏ. Đặc biệt hơn, Ngài vừa chủ toạ vừa đồng bàn với ta trong tiệc lòng mến, mỗi khi ta ngồi lại với nhau, tụ họp và tưởng niệm. Ngài dặn dò, khích lệ ta vui vẻ ra đi loan truyền tình Thương yêu cứu độ. Ra đi, với niềm hăng say, quả cảm. Ra đi, với quyết tâm thực hiện tình thương yêu trong đời sống thường nhật.

Để giúp ta thành công, hãy vui nhận sứ mệnh này như món quà cao quý Đức Kitô trao cho ta qua các môn đồ, ngay từ đầu. Đó là: sự an bình và vui sống với người đời trần thế như chứng nhân của Tình yêu cứu độ. Có lẽ, đôi lúc ta cũng cần đến óc sáng tạo để cho sứ mệnh cao trọng này thêm sinh khí. Có sáng tạo và thêm sinh khí, ta mới vui sống, phấn khởi thực hiện điều Ngài giao phó trong xã hội đương đại đầy nhiễu nhương, ác cảm. Câu truyện của vị cao niên dưới đây sẽ minh hoạ cho óc sáng tạo, phấn khởi:

Chiều hôm ấy, vị cao niên nọ quyết định ở nhà để vui hưởng sự yên tĩnh. Nhà cụ ở, nằm sát cạnh trường học, nên thường xảy ra nhiều chuyện ồn ào, bất ưng. Chiều chiều, cứ thấy có 3 người trẻ lảng vảng, đập gõ inh ỏi vào các thùng tôn đựng rác. Không ai khuyên bảo, can ngăn bọn trẻ bỏ cái trò tinh quái, khó chịu ấy.

Vị cao niên nhà ta bèn nảy ra một ý kiến. Cụ gọi bọn trẻ đến và bảo: “Này, bác có ý kiến này: các cháu xem có làm được không, nhé. Nếu chiều nào các cháu cũng đến đây, lấy gậy đập mạnh vào các thùng rác cho thật to, để mọi người thưởng thức được loại nhạc Tếch-nô. Gõ xong, hết giờ, đến đây bác tặng cho mỗi đứa một chục đô. Các cháu nghĩ sao? Bọn trẻ nhận lời, chẳng bỏ lỡ cơ hội. Tiếng gõ đập của chúng càng lúc càng đinh tai, nhức óc.

Vị cao niên cứ để bọn trẻ gõ cho đến lúc trời nhá nhem mới gọi đến, bảo: “Tiếc quá, hôm nay bác đi lãnh mà tiền cấp dưỡng chưa vào sổ. Thôi, các cháu cầm đỡ mỗi đứa 25 cents, bác đưa thêm sau”. Tên đầu xỏ, tức giận trả lời: “Bộ, ông tưởng tụi tôi bỏ bao nhiêu thì giờ làm chuyện này để được có 25 cents thôi sao? Đúng, ông thuộc loại dở khùng dở điên. Này, ông cúi xuống mà nhặt lấy 75 cents đi, bọn này không thèm thứ tiền ấy đâu.

Và, ngày mai đừng có mong bọn này trở lại gõ tiếp đâu nhé…” Thế là vị cao niên thắng lớn. Ông tìm được sự yên tĩnh cần có, để an hưởng tuổi già.

Hôm nay, Đức Kitô cũng dạy ta hãy ra đi làm việc gì hữu ích cho mọi người. Đem tình yêu hài hòa đến với mọi người. Hãy sáng tạo đổi mới cách thực hiện, hầu mọi người hưởng an bình, vui sống. Vui, vì được nghe lời Chúa. An bình, vì đã có Tin Mừng Chúa bảo bọc.

Đó là sứ mệnh gửi đến mọi người. Cầu mong sao, ta sẽ khôn ngoan để biết cách tạo hạnh phúc và hoà bình, đến muôn người. Những người đang sống quanh ta. Bây giờ và mai hậu.

Trong tâm tình cảm-nghiệm ý-tứ của người viết truyện Tin Mừng, có lẽ cũng nên ngâm thêm lời thi-ca vẫn ca tụng một gặp gở nào đó, ở đời người:

“Còn mảnh hồn thương dạt bến nào?

Vành môi vực thẳm máu dâng cao.

Mùa trăng thủy thảo hoa đầy gối,

Ánh mắt không lời đọng biển sao.

(Đinh Hùng – Giọt Máu Sao Trời)

Mảnh hồn hay vành môi thương dạt bến nào” đi nữa, vẫn cứ là những “ánh mắt không lời” còn đọng ở biển sao cuộc đời người nhiều luyến tiếc. Tiếc rằng, sao Người không ở lại với ta cho thoả lòng cảm kích rất biết ơn. Ơn trời biển, nhờ đó mới nhận ra rằng Người vẫn ở với ta, hết mọi ngày cuộc đời, của con người.

Lm Richard Leonard sj –

Mai Tá lược dịch

NỖI OAN TÔMA

NỖI OAN TÔMA

GM Vũ Duy Thống

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng.  Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma;” thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma.” Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin,” được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. Lạy Chúa Tôi, Lạy Thiên Chúa Của Tôi

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa.” Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự đặt vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin.  Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông.  “Nếu tôi không thấy… tôi không tin. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ.  Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn.  Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác.  Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành.  Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn.  Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. Đừng Cứng Lòng, Nhưng Hãy Tin

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu.  Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa.  Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin.  Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả?  Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ.  Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín!  Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực.  Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt.  Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống.  Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

3. Phúc Cho Kẻ Không Thấy Mà Tin

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình.  Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa.  Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước.  Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân.  Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa.  Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy.  Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác.  Quả là vất vả.  Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm.  Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh.  Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó.  Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh.  Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin.  Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc?  Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma.  Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

GM Vũ Duy Thống

MỞ LỄ.

MỞ LỄ.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mùa Chay 2015 đã qua. Những việc cử hành tưởng niệm trong Tuần Thánh đã khép lại. Chúng ta bước vào Mùa phục Sinh. Có lẽ tâm hồn của chúng ta đong đầy niềm vui của sự bình an trở về cùng Chúa và cùng anh chị em. Chúng ta đã nỗ lực chuẩn bị cả về tinh thần lẫn thể chất: Cầu nguyện, ăn chay hãm mình và thực hành việc bác ái. Cầu mong sự đổi mới trong cuộc sống được kéo dài và sinh hoa kết qủa trong cuộc sống đời thường.

Mùa Chay Thánh, các Cộng Đoàn Giáo Xứ đã nỗ lực mời gọi mọi người tham gia và chuẩn bị chu đáo để canh tân làm tươi mát tâm hồn. Những cuộc hành hương, tuần đại phúc, cấm phòng, xưng tội, học hỏi, suy ngắm, hy sinh, ăn chay và làm việc bố thí. Mầu Tím sám hối của Mùa Chay Thánh đã được thay thế bằng mầu trắng tinh tuyền của Mùa Phục Sinh. Giờ đây, chúng ta cùng lặng tâm trở về với lòng mình hiện diện trước nhan Chúa.

Chúng ta nhìn lại việc cử hành Tam Nhật Thánh trong đời sống Giáo Hội. Những ngày vừa qua, nhờ các phương tiện truyền thông của khoa học kỹ thuật qua hình ảnh, videos, facebook, twitter… Chúng ta có thể nhìn xem và học hỏi rất nhiều về những sự tổ chức cử hành Tam Nhật Vượt Qua trong đời sống của Giáo Hội. Những cảnh thu hình trực tiếp từ Thủ đô của Giáo Hội và từ Đất Thánh nơi chính Chúa đã chịu khổ hình thập giá và những phim ảnh diễn lại sự thương khó của Chúa Giêsu của nhiều nơi trên thế giới.

Thứ Năm Tuần Thánh, tại Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành thánh lễ Tiệc Ly và rửa chân tại nhà tù Rebibbia, Rôma. Chúng ta biết việc cử hành Bí Tích Thánh Thể theo truyền thống không có nhiều khác biệt. Trong dịp lễ này, có một số Giáo Xứ đã đắp những con chiên lớn bằng gạo nấu chín và sau thánh lễ, phân phát cho mỗi gia đình một phần nhỏ để tưởng niệm Con Chiên Vượt Qua.

Nghi thức rửa chân có nhiều hình thức khác nhau. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rửa chân cho 12 bạn nam nữ đại diện các tù nhân ở hai trại tù. Tại Thánh địa Giêrusalem, Đức Thượng Phụ Fouad Twal cũng lập lại nghi thức rửa chân. Còn nơi các Giáo Phận và các Giáo Xứ địa phương có nhiều sự sắp xếp về nghi thức rửa chân khác biệt: Có Xứ chọn 12 ông trưởng thành làm tông đồ, có nơi chọn 12 em lễ sinh, có xứ chọn 12 người cả nam lẫn nữ, có giáo xứ đã mời 12 vị ít khi tham gia sinh họat, có nơi cử hành nhiều người rửa chân cho nhau, có nơi mời chọn giáo dân rửa chân tại chỗ và có cộng đoàn lại rửa tay (nhà hưu dưỡng).

Thứ Sáu Tuần Thánh, có rất nhiều cuộc cử hành tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cách công khai long trọng. Tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã chủ sự buổi đi Đàng Thánh Giá tại hí trường Colosseum và ban phép lành tòa thánh. Tại Giêrusalem, nơi chính Chúa đã chịu khổ nạn, các hiệp sĩ Thánh Mộ và đông đảo tín hữu cũng đã đi Đàng Thánh Giá trên chính con đường Chúa đã đi xưa lên đồi Golgôtha. Cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau khổ được lập lại dưới nhiều hình thức. Tại Philippines, nơi có đa số người công giáo, họ đã tổ chức rất long trọng, nhiều người thay phiên nhau vác cây thánh giá nặng trên quãng đường dài, nhiều người tự đánh mình đến chảy máu đầm đìa, có người được chọn để hy sinh đóng đinh vào thánh giá thật. Giáo dân cử hành một cách sầm uất, sốt sáng và nhiệt thành.

Với các giáo xứ có nhiều tín hữu thuộc văn hóa Châu Mỹ La tinh, cũng đã tổ chức cuộc đi Đàng thánh giá sống, có quan quân xét xử, có các quân lính dẫn đường, các bà đóng vai người Do-thái than khóc và Chúa Giêsu vác thánh giá đi dọc theo các con lộ, Đoàn lữ hành kết thúc tại nhà thờ và đóng đinh giả vào thánh giá. Rất đông người đi theo cầu kinh, hát xướng và tham dự.

Một số Giáo Xứ tại các Địa Phận ở Việt Nam tổ chức rất hoành tráng. Một vài Giáo Xứ tiêu biểu như Giáo Xứ Kẻ Sặt, Xứ Hà Nội và một số cộng đoàn Giáo Xứ tại hải ngoại cũng mở lễ rất sầm uất. Các cuộc kiệu rước rất long trọng với trống chiêng. Rất đông các ông đóng vai quân lính ăn mặc như lính La Mã với gậy gộc gươm giáo đi lùng bắt và đóng đinh Chúa. Mọi người đeo tang và ngắm nguyện, than vãn hang đá và dâng hạt. Tang lễ có tượng Chúa nằm trong quan tài được khiêng rước xung quanh nhà thờ với đèn nến sáng rực. Rồi giáo dân canh thức tới nửa đêm và tiếp tục vào sáng thứ Bảy hôn kính chân tượng Chúa. Nhiều giáo xứ, có tập tục đổ nẻ trên xác Chúa và nhiều người quỳ lết hôn chân, bốc nẻ và than van nguyện cầu.

Tuy nhiên, có nhiều Giáo Xứ Cộng Đoàn cử hành các nghi lễ tưởng niệm Chúa một cách đơn giản. Thứ Sáu Tuần Thánh, theo nghi thức phụng vụ vào lúc 3 giờ chiều, có ba phần chính: Phụng Vụ Lời Chúa (Bài Thương Khó) và Lời Nguyện trọng thể, Phần Suy Tôn Thánh Giá (Linh mục xướng: Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Mọi người thưa: Chúng ta hãy đến thờ lạy). Nghi thức hôn kính thánh giá. Phần thứ ba là Rước Lễ hiệp thông. Ra về trong yên lặng.

Qua các nghi thức tưởng niệm Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta không phê bình đúng hay sai, thật hay giả, truyền thống hay cấp tiến và mở lễ hay không. Điều quan trọng nhất là sự cảm thông của tâm hồn mỗi tín hữu. Chúng ta có thật tình khổ đau và buồn sầu khi tham dự việc tưởng niệm mà Chúa đã phải chịu chết vì tội lỗi của chúng ta không? Những hình thức tổ chức bên ngoài có đánh động được những tâm tư đang bị ngủ quên hay không? Chúng ta có thật lòng ở lặng bên Chúa trong những lúc Chúa bị người đời xỉ vả và tẩy chay không? Hãy đem tất cả những tâm tình đó vào trong cuộc sống của gia đình và cộng đoàn để áp dụng.

Sáng Thứ Bảy Tuần Thánh, khung cảnh nhà thờ vắng lặng. Nhà Tạm bỏ ngỏ. Bàn thờ lột trần. Không đèn nến. Không trang trí. Xác Chúa còn trong mồ đá. Mọi người canh thức cầu nguyện.

Chiều Vọng Phục Sinh, bầu khí thay đổi. Nhà thờ được trang trí lộng lẫy với cờ phướng và hoa lá muôn mầu. Tạo một không gian của sự đổi mới và tươi mát. Khung cảnh bề ngoài đã thay đổi, lòng mọi người cũng nên đổi thay. Không còn khóc lóc than van hay gánh nặng của thù hằn tội lỗi, tâm hồn nhẹ nhàng thảnh thơi và niềm vui của ngày mới là ngày mừng lễ Chúa Phục Sinh. Chúa đã chiến thắng tử thần và tội lỗi. Chúa đã giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho ma quỷ. Chúa Phục Sinh mở cửa thiên đàng cho những ai tin tưởng vào Chúa.

Lễ Vọng Phục Sinh được cử hành rất long trọng với nghi thức làm phép lửa và đốt lửa vào cây nến Phục Sinh. Nến Phục Sinh là hình ảnh ánh sáng Chúa Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng đã đến trong thế gian và ánh sáng được thắp lên truyền cho mọi người. Mừng hát Exultet. Các Bài Đọc diễn tả lịch sử của ơn cứu độ. Hát Kinh Vinh Danh và Alleluia trọng thể. Một số nơi đã rửa tội cho các anh chị em Dự Tòng và cộng đoàn Kitô hữu lập lại lời hứa khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.

Niềm vui của Mùa Phục Sinh sẽ tiếp tục kéo dài trong đời sống của mỗi tâm hồn. Chúng ta cố gắng gìn giữ ánh sáng của niềm tin chiếu dọi trên mọi bước đường dương thế. Qua Bí tích Hòa Giải, chúng ta đã xưng thú, đã sám hối và đã hứa quyết tâm thay đổi, ước gì những tâm tư đó được sưởi ấm và tỏa sáng mỗi ngày trong đời sống. Xin Chúa Kitô Phục Sinh ban bình an và niềm vui hy vọng cho chúng ta. Alleluia.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

NIỀM VUI PHỤC SINH

NIỀM VUI PHỤC SINH

Những ngày u ám đã qua.  Những đòn roi, tiếng hò hét đòi đóng đinh, những tranh luận gay gắt, tiếng chửi rủa, sỉ vả, tiếng búa chan chát, những giọt máu, vòng gai… chỉ qua một đêm là đã trở thành dĩ vãng.  Người thỏa mãn với quyền lực của mình thì vui tươi vì đã loại trừ được một cái gai trong mắt. Người sợ hãi thì giam mình trong những gian phòng tối.  Những cao trào hay ồn ào của sự kiện một người nổi tiếng bị đóng đinh cũng qua đi.  Mọi người lại trở về với cuộc sống bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy đến.  Lịch sử của cuộc đời Giêsu tưởng là đã chấm hết với những khăn liệm và ngôi mộ lạnh lẽo thê lương.  Ai ngờ, chính từ nơi cõi chết ấy, Thiên Chúa đã biểu dương quyền năng của Người.  Từ lòng đất âm u, Người đã cho bừng dậy muôn nơi những phúc ân rạng rỡ.

Sáng sớm hôm ấy, có một số người phụ nữ yêu mến Giêsu lặn lội chạy ra mồ khi trời còn chưa tỏ.  Trên đường đi, các bà còn lo lắng không biết phải đẩy tảng đá lấp mồ như thế nào, để có thể vào trong xức dầu thơm cho xác Chúa.  Trong nhãn quan của các bà, rõ ràng là Giêsu đã chết.  Nhưng vừa ra đến mồ, các bà kinh hãi vì tảng đá đã được dịch sang chỗ khác.  Lại còn có các Thiên Sứ sáng chói ánh hào quang cho biết là Đức Giêsu đã sống lại rồi.  Các bà vội chạy về báo cho các môn đệ.  Hai ông Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy ra và chứng thực những gì mà các bà kể lại.  Bà Maria Madalena chưa kịp hoàn hồn, cứ ngỡ ai đánh cắp xác của Thầy mang đi.  Bà đứng đó mà khóc.  Sau khi được tiếng gọi của Đức Giêsu lay động, bà vui mừng hớn hở, chạy về loan tin khắp nơi.  Một niềm vui khác hẳn chợt bừng lên trong bà và những ai chứng kiến, một niềm vui có âm vị chưa từng có trong đời.  Niềm vui ấy là niềm vui do cảm nghiệm được sự sống thần linh, niềm vui được cảm nếm trước hạnh phúc Thiên Đàng, nếm được một sự sống thật, sự sống của chính Thiên Chúa.

Các bạn trẻ thân mến,

Sự kiện Chúa chết và sống lại đã xảy ra cách đây khá lâu xét về mặt lịch sử.  Nhưng ơn phục sinh của Ngài vẫn luôn có đó và tuôn tràn khắp nơi, trong con tim và khối óc của mỗi người.  Có một hạt giống bị chôn vùi vào lòng đất, nay trổ sinh thành một chồi non mơn mởn, chứa đựng bên trong bao sức sống khác.  Mùa đông đã qua đi, mùa xuân đến kéo theo muôn chim vui ca hót tưng bừng, ngàn hoa đua nhau khoe sắc.  Xã hội có thể có những lúc khủng hoảng, nhưng rồi mọi chuyện cũng tốt lên.  Cuộc sống của chúng ta có thể có những khoảng thời gian u ám, tưởng như không sao vượt qua được, nhưng rồi một tia hy vọng chợt đến, giúp ta lấy lại thế quân bình, và tiếp tục sống những ngày tháng vui và hạnh phúc.  Thánh Thần chưa bao giờ thôi hoạt động.  Những sự sống mới lúc nào cũng nảy sinh.  Nơi góc đá khô cằn bên sườn núi, ta vẫn thấy có những cành hoa dại cố gắng vươn ra.  Nơi những triền dốc chơ vơ giữa trời, thấp thoáng vẫn có nhành cây nhỏ uốn mình theo gió.  Nơi sa mạc khô cháy và hoang vu, vẫn có những ốc đảo xanh rì rợp bóng mát.  Những dấu hiệu tự nhiên như thế cũng tỏ lộ phần nào quyền năng mãnh liệt của Thiên Chúa vượt lên trên sự chết rợn người.

Sự phục sinh của Giêsu cho chúng ta thấy những gì mà trước kia Ngài nói với chúng ta không sai chút nào.  Rằng nếu con người chịu chết đi cho những lụy tục của mình, con người sẽ được sống.  Rằng muốn đi đến vinh quang, con người phải đi qua thập giá.  Rằng niềm tin và tình yêu sẽ chiến thắng tất cả.  Rằng quyền năng của Thiên Chúa là vô đối vô song.  Rằng chỉ cần ta một lòng tín thác vào Chúa và vâng nghe Lời Người thì Người sẽ cho ta thấy Người tuyệt diệu biết bao khi dẫn ta qua những màn đêm của chết chóc.  Dẫu có khi đứng trước những hy sinh, ta có phần sợ hãi, buồn phiền, thậm chí là chùn chân, nhưng nếu ta tiếp tục tín thác và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp trong tay Chúa, ta sẽ được Người thưởng công bội hậu.

Để có thể trở thành một con bướm xinh, con sâu phải chịu đau đớn chui ra khỏi cái kén.  Để có thể trở thành một con chim sải cánh giữa trời bao la, những mệt mỏi khi cố gắng thoát ra khỏi cái vỏ là điều không thể tránh đối với nó.  Thành công nào cũng đòi phải có hy sinh.  Phục sinh nào cũng đòi phải bước qua thập giá.  Ước gì Chúa Phục Sinh ban thêm sức cho chúng ta, để chúng ta dám vượt thắng con người ù lì và nhát đảm của mình, dám hy sinh vì công lý, vì đạo nghĩa, vì Đức Kitô ngõ hầu chúng ta có thể được cùng Người sống lại trong vinh quang.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Tìm Đấng Phục Sinh

Tìm Đấng Phục Sinh

– Tin nổi bật, Bài Giảng

150404_Empty-Tomb-Picture-09

(Đại Lễ Phục Sinh, năm B)

Chuyện kể rằng… Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tô
i để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”
.

Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).

Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.

Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.

Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).

Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Ngườiđược ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.

Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17).

Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: “Đây là ngày Chúa làm ra – Cùng nhau ta hãy reo ca vui mừng” (Tv 118:24).

Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.

Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!

Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).

Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!

Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!

Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)

Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.

(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759): httpv://www.youtube.com/watch?v=76RrdwElnTU

Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!

Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Năm 1998 tôi mất đứa con gái cưng Marie-Lou, đang mơn-mởn trong lứa tuổi dậy thì. Marie-Lou đột ngột qua đời trong một tai nạn lưu thông do một tên tài xế bất cẩn say rượu gây ra.

Làm sao giải thích cho được và diễn tả cho cùng tâm tình ngổn-ngang rách-nát ruột gan của một người cha trong một hoàn cảnh tương tự??? Đứa con gái cưng duy nhất của bạn – một phần của chính bạn – bỗng dưng bị cướp mất sự sống chỉ vì một tên say rượu không kiểm soát được lay lái của hắn??? Cơn giận của tôi đùng-đùng nổi lên. Một niềm uất-hận vô bờ giáng xuống trên cái tên tài xế say rượu đã cướp trọn gia sản tinh thần quý báu nhất đời tôi! Tôi nghĩ rằng cuộc sống chấm dứt đối với tôi. Không còn gì trên cõi đời này là quan trọng đối với tôi! Tất Cả thực sự đã chấm dứt theo sau cái chết của đứa con gái cưng duy nhất.

Suốt thời gian chờ đợi cuộc xét xử tên tài xế sát nhân, tôi như người sống trong cơn mê. Tôi mong sao mau đến cái ngày quan tòa kết án tên sát nhân hầu tôi có thể hả giận và trút bỏ được cơn hận thù chồng chất trong lòng! Thế nhưng tôi đã lầm. Sự thật không phải như vậy. Quan tòa kết tội nhưng cơn giận trong lòng tôi vẫn không dứt. Tôi vẫn lê-thê tiến bước với cái giận dữ nung-nấu trong tâm hồn. Cho đến một ngày, 3 năm sau cái chết của đứa con gái cưng, một cuộc gặp gỡ đã làm đảo lộn tất cả.

Năm ấy tôi thường xuyên viếng thăm một người bạn bị bệnh nặng đang nằm điều trị nơi nhà thương. Bỗng một ngày – trong một lần viếng thăm bạn – tôi chạm mặt một phụ nữ trẻ tuổi khoảng đôi mươi. Nàng ngồi xe lăn nhưng toàn thân nàng lại toát ra một niềm vui sống dạt dào. Rồi một ngày nơi phòng đợi nàng bỗng vui vẻ kể cho tôi nghe lý do tại sao nàng phải ngồi xe lăn. Nàng đang đi môtô thì bị một tài xế lái ẩu chạy băng đèn đỏ đụng vào! Nghe nàng kể đến đây lòng tôi lại đùng đùng nổi giận, nhớ đến câu chuyện đau thương của chính mình! Người phụ nữ vui tươi kể tiếp. Trong vòng 18 tháng, kể từ khi tai nạn xảy ra, nàng không hề nuôi mối hận thù nào đối với người tài xế bất cẩn đã gieo tai họa cho nàng. Trái lại, nàng cảm thấy tri ân THIÊN CHÚA vì đã cho nàng niềm hạnh phúc vẫn còn sống bên cạnh Mẹ Cha và những người thân yêu. Rất có thể, nếu nàng bi-quan thù hận đời thì càng gây thêm nỗi đau đớn cho Cha Mẹ. Điều này không mang ích lợi nào cho ai hết: cho chính nàng cũng như cho các người thân yêu của nàng.

Lẳng lặng lắng nghe người phụ nữ trẻ tuổi – ngồi xe lăn – bày tỏ tâm tình, tôi bỗng như người vừa thoát ra khỏi cơn mê. Cho đến lúc đó, tuyệt đối tôi không thể nào tha thứ cho tên tài xế đã giết chết đứa con gái của tôi. Giờ đây, Caroline – tên người phụ nữ trẻ tuổi – dạy tôi bài học:

– THA THỨ là lãnh nhận niềm an bình nội tâm.

Ở đây – trong trường hợp của tôi – THA THỨ không phải là giải hòa với tên tài xế sát nhân mà là GIẢI HÒA với chính tôi. Khi tha thứ tôi được giải thoát khỏi hận thù và kể từ đó tôi có thể cùng với hiền thê nhắc lại bao kỷ niệm thân thương về đứa con gái dấu yêu đã sớm từ bỏ chúng tôi. THA THỨ trao ban cuộc sống mới cho tình yêu phu thê của hai vợ chồng chúng tôi.

Quả thật, từ hận thù đến THA THỨ chỉ có một bước nhỏ, vậy mà tôi đã phải mất đến 3 năm mới bước được, nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời với một phụ nữ trẻ tuổi tàn tật.

(Chứng từ của ông Jean-Michel người Pháp).

… “Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài. Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của THIÊN CHÚA, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được thứ tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin THIÊN CHÚA chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Sách Huấn Ca 27,1/28,1-7).

(“Annales d’Issoudun”, Janvier/2008, trang 9)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 2/3/2015

Phỏng vấn người đầu tiên gặp Chúa Giêsu Phục Sinh

Phỏng vấn người đầu tiên gặp Chúa Giêsu Phục Sinh

dongten.net

(Bài viết dựa trên Tin Mừng: Ga 20,1-18)

– Cháu chào bà Maria Madalena.

IVANOV_YAV_HRISTA_MARI1

Chào cháu. Bà rất vui vì được cùng cháu nói về biến cố Chúa Giêsu sống lại. Đó là kỷ niệm đẹp nhất mà bà hằng ghi nhớ.

– Vâng, cháu thấy bà yêu mến Chúa Giêsu thật nhiều! Lúc trời còn tối mịt vậy mà bà đã hối hả ra mộ để thăm Người.

Cháu biết không, suốt ngày Lễ Vượt Qua, bà lo lắng thật nhiều vì không thể đi ra mộ xức dầu thơm cho Người, không thể chăm lo phần mộ của Người. Vả lại, đi theo Người trong suốt Cuộc Thương Khó, bà thấy thương Người lắm, nhưng chẳng thể làm gì được để cứu Người. Chính vì vậy nên khi Người được mai táng, bà muốn làm điều gì đó cho mộ phần của Người. Suốt cả đêm hôm ấy, giấc ngủ bà cứ chập chờn, chỉ mong sao chóng qua ngày mới để có thể chạy liền ra mộ.

– Cháu thấy các môn đệ kia lo sợ giới lãnh đạo Do Thái vì các ông có mối tương quan thân thiết với Giêsu. Họ sợ bị vạ lây. Nhưng hình như bà không chút sợ hãi?

Thú thực là trong những ngày ấy, người ta chẳng để tâm đến các bà đâu. Bởi thế, bà cùng với mẹ Maria và vài người phụ nữ đạo đức có cơ hội theo sát Chúa hơn trong Cuộc Thương Khó. Và Bà cũng đã chứng kiến Giêsu được mai táng cách nào.

Vâng, bà vui lòng kể cho cháu chi tiết hơn về việc Chúa Giêsu phục sinh và hiện ra lần đầu tiên với bà?

Ồ, đấy là một kinh nghiệm quý nhất trong đời bà. Số là sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà với mấy chị em nữa đi đến mộ. Các bà vừa đi vừa dò đường vì trời còn rất tối! Trên đường không một bóng người. Vừa đi các bà vừa bàn tán với nhau: “Chị em mình làm sao lăn tảng đá lớn lấp cửa mộ ra để vào trong mà xức dầu thơm cho Người?” Nhưng chuyện không ngờ đã xảy ra. Vừa đến mộ thì một cảnh tượng hãi hùng đập vào mắt các bà: tảng đá đã bị ai đó lăn ra. Bà vội nghĩ ngay đến chuyện chẳng lành xảy đến cho thi hài của Thầy mình, nên bà liền chạy về gặp ông Phêrô và Gioan. Bà nói: “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”

– Thế hai ông có tin lời bà không? Và họ đã làm gì?

Lúc đầu hai ông chưa hiểu lắm, nhưng sự hối hả và hoang mang của bà khiến hai ông cũng vội vã đi ra mộ. Bà chạy theo sau. Khi ra đến nơi, hai ông ấy chứng kiến ngôi mộ trống, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Ðức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Lúc ấy, có vẻ như Gioan đã tin điều gì đó. Khi đến nơi, bà thấy hai ông vừa thẫn thờ vừa lo lắng. Không lo lắng sao được khi xác Thầy không còn nữa, không thẫn thờ sao được trước cảnh tượng vượt tầm kiểm soát của các ông, cho dẫu Kinh Thánh có nói đến việc Ðức Giêsu phải chổi dậy từ cõi chết. Thế rồi, hai ông lủi thủi trở về nhà.

– Chuyện gì đã xảy đến cho bà lúc ấy?

Lúc ấy bà buồn lắm, chỉ biết đứng ngoài mộ mà khóc, khóc như một em bé bị mất cha, mất mẹ. Lòng bà nát tan và chẳng biết phải làm gì! Bà chỉ biết nhìn vào ngôi mộ trống mà khóc thôi. Nhưng đang khi nhìn, bà thấy hai người mặc áo trắng tinh ngồi ở nơi đặt thi hài của Ðức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Sau này bà mới biết họ là các thiên thần. Họ hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà nức nở thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”

– Thế họ có nói cho bà biết kẻ nào đánh cắp thi hài Giêsu không?

Không, họ không nói gì nữa! Nhưng khi định hỏi họ kỹ hơn thì bà cảm nhận có ai đó đứng phía sau mình. Bà ngoái lại, thấy một người làm vườn. Bà trông ông ấy vừa quen vừa lạ. Ông ấy hỏi: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà cảm thấy ông ấy có vẻ hiểu tâm trạng của bà lúc này, nên mới hỏi lại: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Bà vừa hỏi vừa chỉ cho ông ấy thấy ngôi mộ trống. Đúng lúc ấy, ông ta gọi bà: “Maria!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!” (nghĩa là ‘lạy Thầy’).

-Xin lỗi, cháu có chút tò mò. Sao bà biết là Thầy Giêsu mà đáp lại như thế?

Cháu à, bà không thể nào quên được tiếng gọi ấy. Lúc đi theo Thầy, bà thường được nghe tiếng gọi thân quen ấy. Giọng nói của Thầy luôn trìu mến để mời gọi chúng ta kết thân với Người. Vì là tiếng gọi của tình yêu nên Người muốn gọi đích danh! Lúc này, bà không tin vào mắt mình nữa! Bà vui mừng ôm chầm lấy Người, không để cho Người xa bà nữa, không để ai lấy Người đi xa bà nữa. Ôi, Chúa Giêsu đã phục sinh và đang ở với bà. Đó là sự thật!

Bà đang còn ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Phục sinh thì Ðức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’”. Trái tim bà tràn ngập niềm vui, lòng bà chứa chan hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh và hiện ra với bà. Sau đó, Chúa Giêsu liền biến mất, bà lập tức đi loan báo Tin mừng trọng đại này cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!”. Bà muốn lặp đi lặp lại thật nhiều lần: “Tôi đã thấy Chúa!”, muốn kể lại những điều Người đã nói với bà để mọi người tin rằng Chúa đã sống lại. Nhờ đó, muôn dân được cứu độ!

– Cháu thấy bà thật có phúc vì Chúa Phục sinh đã ưu ái hiện ra với bà trước tiên!

Đúng thế! Bà vẫn luôn cảm tạ Người đã đến trong cuộc đời bà và ân thưởng cho bà sự sống bất diệt. Bà nghĩ thời đại nào Chúa Giêsu cũng đang hiện ra với từng người. Có điều, họ có nhận ra Người đang hiện diện hay không mà thôi. Bà chắc chắn với cháu một điều, những ai đụng chạm và gặp được Giêsu Phục sinh, người ấy sẽ có sự sống, có tình yêu và có ơn cứu độ nơi mình.

Ước gì cháu cũng rộng mở trái tim để đón nhận Tin mừng phục sinh của Giêsu đến trong cuộc đời của cháu. Chúc cháu luôn nhận được ơn lành của Chúa Phục sinh!

– Cháu cảm ơn lời chúc tuyệt vời của bà! Cảm ơn bà thật nhiều, người đã gặp Chúa Phục sinh đầu tiên!

Mừng Chúa Phục Sinh 2015

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Câu hỏi trong Tuần Thánh

Câu hỏi trong Tuần Thánh

– Tin nổi bật, Chuyên Đề

VRNs (03.04.2015) – Roma, Italia – Một bạn trẻ gửi đến một câu hỏi: Thưa cha, tại sao thánh Phêrô và ông Giuđa cả hai cùng phạm tội. Người thì bán Chúa, người thì chối Chúa. Cả hai ông đều sám hối và mỗi người lại chọn một hành động khác nhau?

The Jews Passover

Phần trả lời chỉ là những suy tư cá nhân dựa trên chính những bản văn Kinh Thánh.

Trước hết, chúng ta cần ghi nhận rằng hành vi nộp Thầy của ông Giuđa Iscariốt là một tội trọng đáng phải chết vì có liên quan đến chính tính mạng của Đức Giêsu. Còn hành vi chối Thầy của Phêrô không đến đáng phải chết, nó liên quan đến sự trung thành và lòng can đảm của Phêrô đối với Đức Giêsu mà thôi. Nói cách khác, hành vi của Giuđa dẫn đến giết người, hành vi của Phêrô dẫn đến sự chối bỏ tương quan đức tin vào Thầy Chí Thánh. Như vậy, chúng ta có thể thấy bản chất của vấn đề khác nhau hoàn toàn. Cho nên sự so sánh hay việc đặt song song giữa tông đồ Phêrô và tông đồ Giuđa Iscariốt, do đó hệ quả của hành vi của hai tông đồ này là không công bằng. Chúng ta hãy xét từng trường hợp.

1. Sự thể chối Thầy và hành vi “sám hối” của tông đồ Phêrô

Các bản văn Kinh Thánh tường thuật lại sự việc chối Thầy của Phêrô là Mátthêu 26,69-75; Máccô 14,66-72; Luca 22,56-62; và Gioan 18,15-27. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy cách tường thuật của các tác giả sách Tin Mừng có sự khác nhau đáng kể. Tin Mừng Nhất Lãm, tức là Mátthêu, Máccô và Luca đều kể là Phêrô chối Thầy ba [3] lần trước khi gà gáy lần thứ hai [2]; trong khi đó, Gioan kể lại ba lần nhưng không có sự liên tục, và khi Phêrô chối lần thứ ba, tức thì gà gáy (x. Ga 18,17.25.27).

Tin Mừng Nhất Làm thuật lại rằng sau khi Phêrô chối Thầy ba lần thì gà gáy lần thứ hai, ông nhớ lại lời Thầy đã nói: “Trước khi gà gáy lần thứ hai, anh sẽ chối Thầy ba lần”, và Phêrô đi ra và ông khóc thảm thiết (Mt 26,75: Lc 22,62); và ông sụp mình xuống và khóc lóc (Mc 14,72); trong khi đó, Gioan không nói đến sự kiện Phêrô khóc, và chỉ kể lại đơn giản: và tức thì gà gáy (Ga 18,27).

Chúng ta để ý: ở đây cả bốn sách Tin Mừng không trực tiếp nói đến việc Phêrô “sám hối”, nghĩa là các tác giả Tin Mừng không dùng một động từ hay danh từ có nghĩa “sám hối” để chỉ cho hành vi ăn năn trở lại của Phêrô. Các tác giả Nhất Lãm chỉ đơn giản nói ông Phêrô ra ngoài và khóc lóc, thế thôi. Tuy nhiên, hành động “ra ngoài, sụp xuống, khóc lóc thảm thiết” của Phêrô có thể hiểu được chính là hành vi sám hối ăn năn của ông.

Tại sao Phêrô lại có khả năng ăn năn trở lại? Chúng ta hãy xem vài yếu tố. Thứ nhất, Phêrô đã được chính Thầy Giêsu báo trước và cho biết dấu hiệu: “Thật, Thầy bảo anh, nội trong đêm nay, trước khi gà gáy, anh sẽ chối Thầy ba lần” (Mt 26,34; Mc 14,30; Lc 22,34; Ga 13,38). Thứ hai, trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã bảo đảm cầu nguyện cho sự trở lại của Phêrô: “Simôn, Simôn, này Satan đã đòi cho được anh em mà quày cho một trận như sàng lúa; nhưng Thầy đã cầu xin cho anh, ngõ hầu lòng tin của anh khỏi bị tiêu diệt. Phần anh, một khi đã trở lại, anh hãy củng cố anh em của anh.” (Lc 22,31-32).

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Phêrô đã được ban cho một nội lực để trở lại và nội lực này được chính Chúa bảo đảm cho ông. Hơn nữa, sức mạnh nội tại này cũng đã có sẵn nơi Phêrô rồi, khi ông dõng dạc tuyên bố: “Dẫu phải chết với Thầy, tôi cũng sẽ không chối Thầy” (Mt 26,35; Mc 14,31); hoặc: “Thưa Thầy, làm một với Thầy, dẫu phải đi đến tù ngục và tử hình, tôi cũng sẵn sàng” (Lc 22,33); hay: “Thưa Thầy, tại sao tôi không thể theo Thầy ngay bây giờ? Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì Thầy!” (Ga 13,37).

Thế nên, chúng ta nhận ra rằng để chọn lựa một hành động không phải là một quyết định nhất thời, nhưng là hệ tại cả một hành trình sống như thế nào, cả trong tâm tư và nơi hành động. Chính do tâm tư và hành động của mình mà người ta rút ra được kết quả của đời sống, đúng như Đức Giêsu đã nói: “Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt.” (Mt 7,17-18).

Hình ảnh Phêrô trong Tin Mừng không chỉ nói riêng về Phêrô, nhưng còn nói về mọi tín hữu trong đời sống đức tin vào Đức Giêsu Kitô ở mọi thời và mọi nơi. Trong những lúc gặp gian truân và bị bách hại, ta thật sự có đủ mạnh mẽ trung thành và can đảm tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô?

2. Sự thể “bán” Thầy và hành vi “tự sát” của tông đồ Giuđa Iscariốt

Bây giờ chúng ta xét đến trường hợp của ông Giuđa Iscariốt. Tôi để hai từ “bán” và “tự sát” trong ngoặc kép là muốn có một sự thận trọng trong cách sử dụng hai từ này.

Hình ảnh tông đồ Giuđa Iscariốt xuất hiện trong Tin Mừng ngay từ đầu đã thấy thấp thoáng số phận đen tối của ông. Trong danh sách Mười Hai Tông Đồ, ông là người đứng sau cùng và được nhận diện ngay: “Giuđa Iscariốt, cũng là kẻ đã nộp Người (Đức Giêsu)” (x. Mt 10,4; Mc 3,19; Lc 6,16). Tên của ông được nhắc đến khoảng 20 lần trong bốn sách Tin Mừng. Động từ paradidomi, trao nộp, xuất hiện khoảng 37 lần trong cả bốn sách Tin Mừng thường ám chỉ và áp dụng cho Giuđa Iscariốt. Hình như trong các tường thuật Tin Mừng, Giuđa chỉ lên tiếng có hai lần: một lần liên quan đến tiền bạc (x. Ga 12,4-6) và một lần khi Đức Giêsu thông báo rằng có một người trong Nhóm Mười Hai sẽ nộp Người, Giuđa đã hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ là tôi?” Đức Giêsu trả lời: “Anh nói đó” (Mt 26,25).

Vậy Giuđa có “bán” Thầy không? Và cách ông chết (tự vẫn) thế nào?

Chúng ta hãy đọc cách Tin Mừng tường thuật về ý định của Giuđa nộp Đức Giêsu và hãy chú ý từng chi tiết. Tin Mừng Mt kể: “Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariốt, đi gặp các thượng tế mà nói: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi thứ gì?” Họ quyết định cho ông ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, ông cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu” (Mt 26,14-16).

Chúng ta để ý: Giuđa không hề ngả giá về số tiền bao nhiêu (một số bản dịch dịch là: quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? thì không chính xác!), ông chỉ hỏi các thượng tế cho ông cái gì để ông nộp Đức Giêsu thôi. Và chính các thượng tế đã quyết định cho Giuđa ba mươi đồng bạc!

Tin Mừng Mc kể: “Và Giuđa Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe ông nói, họ rất mừng và hứa cho một món tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện” (Mc 14,10-11).

Thánh Máccô cũng kể rằng Giuđa đến với các thượng tế với ý định là để nộp Đức Giêsu. Các thượng tế biết thế thì vui mừng lắm và còn hứa cho ông Giuđa một món tiền. Như vậy, theo Máccô, ông Giuđa cũng không ngả giá tiền và thậm chí cũng không cần phải điều kiện gì. Tiền là do các thượng tế hứa cho ông, vậy thôi.

Tin Mừng Luca thì thuật lại chi tiết hơn nhưng bi kịch hơn: “Satan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai. Ông đi và trao đổi với các thượng tế và lãnh binh Đền thờ về cách thức nộp Người cho họ. Và họ rất mừng và đồng ý sẽ cho ông một món tiền. Ông ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22,3-6).

Cách tường thuật của thánh Luca cho chúng ta thấy tình cảnh của Giuđa đã trở nên bi đát: Satan đã nhập vào Giuđa! Tin Mừng Gioan cũng kể lại chi tiết này trong bữa Tiệc Ly: Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simôn Iscariốt, ý định nộp Đức Giêsu” (Ga 13,2) và “Ông vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào ông. Đức Giêsu bảo ông: ‘Anh làm gì thì làm mau đi!’” (Ga 13,27).

Qua cách trình bày của các sách Tin Mừng trên đây, chúng ta nhận thấy thế này: Giuđa có ý định nộp Đức Giêsu, chứ không hề có ý định bán Đức Giêsu. Nhưng tại sao Giuđa lại nộp Thầy? Các Tin Mừng không cho biết lý do. Các thượng tế là những người hăm hở vui mừng khi biết tin Giuđa sẽ nộp Đức Giêsu cho họ và chính các thượng tế đã hứa cho Giuđa tiền, Mátthêu nói rõ là cho ba mươi đồng bạc. Còn Satan thì lẻn vào tâm hồn ông Giuđa. Và ông Giuđa tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu. Khi dịp thuận tiện đến, ông Giuđa đã dùng nụ hôn để phản bội Thầy (x. Mt 26,48-49; Mc 14,44-45; Lc 22,47-48).

Vậy là ông đã vì tiền và dùng tình yêu (nụ hôn) để phản bội Thầy. Hành động của Giuđa được các Thượng tế và hàng niên trưởng hậu thuẫn bằng cách cho tiền và Satan thì lẻn vào trong tâm hồn ông Giuđa. Tóm lại, hành động của ông Giuđa bị dẫn dắt bởi Thần Tiền và Thần Dữ!

Bây giờ chúng ta đọc đoạn kết cuộc đời của ông Giuđa Iscariốt: ông đã chết cách nào?

Giuđa không có cái may mắn được đảm bảo cho sự ăn năn trở lại. Thay vào đó, những lần nói về ông hay nhận xét về ông thì quả là đen tối. Ở Tin Mừng Gioan 6,70 Đức Giêsu nói: “Không phải là Thầy đã chọn anh em tất cả là Mười Hai sao? Vậy mà một trong anh em lại là quỉ sứ!” Và tác giả Tin Mừng Gioan nhận xét: “Người nói về Giuđa, con của Simôn Iscariốt. Vì y là kẻ sẽ nộp Người, y là một người trong Nhóm Mười Hai” (Ga 6,71). Ở Gioan 12,4-6, Giuđa được nhắc đến như thế này: “Giuđa Iscariốt, một trong các môn đệ của Người, kẻ sẽ nộp Người mới nói:Tại sao lại không bán dầu thơm ấy ba trăm đồng quan mà bố thí cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì y bận tâm đến người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp, y giữ túi tiền, nên có gì bỏ vào thì y phỗng mất.” Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại lời Đức Giêsu nói về Giuđa như sau: “Con Người ra đi như đã viết về Người; nhưng khốn cho người đó, kẻ làm cho Con Người bị nộp! Thà người ấy đã chẳng sinh ra thì hơn!” (Mt 26,24; Mc 14,21; Lc 22,21). Như vậy, số phận của Giuđa thật là tồi tệ!

Trong Tân Ước, có hai chỗ thuật lại cái chết của ông Giuđa, nhưng hai cách thuật truyện về cái chết của ông rất khác nhau. Mátthêu kể: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án, thì hối hận mà đem trả lại ba mươi đồng bạc cho các Thượng tế và hàng niên trưởng, mà rằng: Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội. Nhưng họ nói: “Việc gì đến chúng tôi! Anh tự liệu lấy!” Và ông đã ném bạc vào Đền thờ, đoạn lui về mà ra đi treo cổ.” (Mt 27,3-4).

Sách Công vụ lại kể: “Trong những ngày ấy, Phêrô đứng dậy giữa các anh em – một đám đông tề tựu lại, lối một trăm hai mươi người – và nói: ‘Thưa anh em, Kinh Thánh phải được ứng nghiệm, lời Thánh Thần đã dùng miệng Đavid để tiên báo về Giuđa, kẻ đem đường cho những người đến bắt Đức Giêsu. Y đã từng được liệt vào số chúng tôi, cùng đã được thông phần vào công việc phục vụ này. Vậy y đã lấy tiền công phi nghĩa mà tậu một thửa đất, và nhào đầu xuống, y đã vỡ bụng, lòi ruột ra. Sự ấy, mọi người ở Giêrusalem đều biết, khiến thửa đất kia đã được gọi – theo tiếng của họ – là Hakeldama, nghĩa là Ruộng máu! Vì trong sách Thánh vịnh đã viết: ‘Trại của nó hãy thành hoang vu, và đừng có ai ở lại trong đó. Và: Chức vụ của nó, kẻ khác hãy cất lấy!” (Cv 1,15-20).

Chúng ta tự hỏi: tại sao cùng là một cái chết, Mátthêu lại kể một cách và sách Công vụ lại kể cách khác? Theo Mátthêu, sau khi Giuđa ném tiền vào Đền thờ, ông đi ra và đi treo cổ (dịch sát nghĩa tiếng Hylạp là: tự treo mình lên); còn theo sách Công vụ thì Giuđa sau khi đã mua một thửa đất (trong khi đó theo Mátthêu thì chính các thượng tế mua thửa đất [x. Mt 27,6-10]), ông đã nhào đầu xuống, bị vỡ bụng và lòi ruột ra. Vậy thực tế thì ông Giuđa chết cách nào? Chúng ta không biết chính xác!

Tuy nhiên, ở đây chúng ta nên đọc sát bản văn Mátthêu để hiểu Giuđa và hiểu ý của tác giả sách Kinh Thánh (cách trình thuật truyện về cái chết của ông Giuđa trong sách Công vụ xin hẹn đọc ở một dịp khác).

Chúng ta đọc kỹ ý của ông Giuđa ở Tin Mừng Mátthêu: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án, thì hối hận mà đem trả lại ba mươi đồng bạc cho các Thượng tế và hàng niên trưởng, mà rằng: Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội.

Ông Giuđa hối hận, chứ không phải là ông “sám hối”. Động từ hối hận chỉ xuất hiện trong Tân Ước 6 lần (x. Mt 21,29.31; 27,3; 2 Cr 7,8.8; Dt 7,21). Hành động đầu tiên của việc hối hận của Giuđa là đem “trả lại ba mươi đồng bạc”; hành động thứ hai là ông thú nhận tội lỗi của mình: “Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội”. Lời thú tội của ông vô cùng quan trọng: Đức Giêsu là Đấng vô tội! Và ông Giuđa trả lại ba mươi đồng bạc là trả lại cho các thượng tế điều họ đã hứa cho ông. Điều các thượng tế hứa cho ông lại là giá máu của người vô tội. Như vậy, ý định ban đầu của ông Giuđa không phải là ông muốn treo cổ, mà là ông đem trả lại tiền và thú nhận tội lỗi của ông. Nhưng tại sao ông lại phải treo cổ?

Chúng ta đọc tiếp: “Nhưng họ [các thượng tế và hàng niên trưởng] nói: “Việc gì đến chúng tôi! Anh tự liệu lấy!” Ah, thì ra các thượng tế và hàng niên trưởng đã phủi tay! Ông Giuđa phải tự liệu bằng cách treo cổ!

Trình thuật của Mátthêu chương 27,3-10 về cái chết của ông Giuđa vọng lại rất nhiều chỉ dẫn Kinh Thánh Cựu Ước. Chúng ta có thể đọc được âm hưởng trong các sách Ngôn sứ Giêrêmia các chương 18,2-18; 19,1-15; 32,6-9 và sách Ngôn sứ Zacaria 11,12-13. Về cái chết treo cổ của Giuđa, chúng ta có thể đọc được trong câu chuyện của ông Akhithophel trong sách thứ hai Samuel chương 17. Ông Akhithophel bàn mưu với Absalôm để đuổi theo và hạ sát vua Đavid. Nhưng cuối cùng kế của ông Akhithopel không được chấp nhận. Khi “Akhithophel thấy người ta không làm theo lời bàn của mình, thì thắng lừa, lên đường đi về nhà, trong thành mình. Y thu xếp việc nhà, rồi thắt cổ tự tử. Y được chôn cất trong phần mộ của cha y.” (2 Sam 17,23). Ở đây, ông Giuđa đã không được các thượng tế và hàng niên trưởng chấp nhận việc trả lại tiền và lời thú tội của ông, ông đã ném tiền lại mà ra đi thắt cổ!

Liên quan đến tội nhận tiền hối lộ làm đổ máu người vô tội, chúng ta đọc được trong sách Luật Môsê: “Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Xh 23,7-8). Và: “Đáng nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: Amen! Đáng nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa: Amen!” (Đnl 27,24-25).

Hành động của Giuđa đi đến Đền thờ, gặp các thượng tế và hàng niên trưởng, trả lại tiền và thú nhận tội lỗi là hành vi “đền tội” của của ông qua trung gian các tư tế (thượng tế) có thể được hiểu chiếu theo Luật Môsê (x. Lv 5). Nhưng các thượng tế đã từ chối hành vi “đền tội” của Giuđa, do đó tội của ông không được tha, và hậu quả là Giuđa phải lãnh lấy sự nguyền rủa chiếu theo Luật Môsê. Ông đã phải tự treo cổ!

Đọc trong cách trình bày này của Mátthêu, chúng ta mới hiểu được tình cảnh “bi đát” của cái chết của ông Giuđa. Giuđa đã để cho Thần Của và Thần Dữ dẫn dắt. Nhưng cũng chính Thần Của và Thần Dữ này lại thể hiện ở một khuôn mặt khác nơi các Thượng tế (hàng tư tế) và hàng niên trưởng (các nhà lãnh đạo). Chính họ đã ghét và cố tình từ chối sự thật và sự công chính!

Tóm lại, hình ảnh tông đồ Giuđa Iscariốt gợi lên cả một hành trình của mỗi một đời người trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhiều khi ta hay có thói quen “mặc định” cho ông Giuđa là kẻ “bán Chúa” và “thằng Giuđa phải sa hỏa ngục” (sic!) và biết bao nhiêu những thêu dệt về hình ảnh của ông thường là quá đáng. Tuy nhiên, ta lại ít phản tỉnh rằng rất nhiều khi hình ảnh Giuđa lại là chính ta.

Ở những xã hội lấy chủ nghĩa duy vật và vô thần làm nền tảng cho sự lãnh đạo và phát triển, thực chất chẳng vô thần đâu, nhưng là đang bị Thần Của và Thần Dữ dẫn dắt. Nơi đời sống tôn giáo, không thiếu gì các vị “thượng tế” và hàng “niên trưởng” thời đại chỉ biết giữ cho được cái “ghế”, cái “chức vị” của mình, thích được người ta ca tụng, vỗ tay hoan hô, vòng hoa đeo xúng xính; nhưng lại rất ngại lên tiếng bênh vực người nghèo, bênh vực những kẻ bị áp bức và bị bóc lột. Họ là những người ghét sự thật và sự công chính; đôi khi họ nại vào những lý do tôn giáo để chối từ bổn phận ngôn sứ trước những bất công xã hội.

Thế nên, hình ảnh Giuđa không chỉ là Giuđa, nhưng có liên quan đến chính ta!

Roma, Tuần Thánh 2015.

Vincent M. Phạm Cao Qúy, CSsR.

Bài giảng lễ Tiệc Ly của Đức Thánh Cha Phanxicô

Bài giảng lễ Tiệc Ly của Đức Thánh Cha Phanxicô

– Tin nổi bật, Bài Giảng

VRNs (03.04.2015) – Sài Gòn- Sau đây là nguyên văn bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều qua, Thứ Năm Tuần Thánh tại  nhà tù Rebibbia ở Rôma

Thứ năm này, Đức Giêsu đồng bàn với các môn đệ, để mừng kỷ niệm lễ Vượt Qua. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe có một từ quan trọng là tâm điểm về những gì Chúa Giêsu đã làm cho tất cả chúng ta. “Ngài yêu thương họ cho đến cùng (x.Ga 13,2). Chúa Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này không giới hạn, yêu đến cùng. Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu vô hạn. Ngài không bao giờ mỏi mệt để yêu chúng ta. Ngài yêu tất cả chúng ta đến hiến mạng sống của Ngài. Vâng, Ngài trao ban sự sống của Ngài cho tất cả chúng ta. Và mỗi người trong chúng ta có thể nói rằng: “Ngài ban sự sống của Ngài cho tôi”. Ngài đã hiến thân mình cho từng người trong anh chị em, cho tôi cho mỗi người, từ người trước hết cho tới kẻ sau rốt vì tình yêu của Ngài là dành cho từng cá nhân chúng ta.

Tình yêu của Chúa Giêsu không bao giờ lừa dối vì Ngài không bao giờ mỏi mệt để yêu, cũng như không bao giờ mỏi mệt trong việc tha thứ, Ngài không bao giờ mỏi mệt ôm chúng ta vào lòng. Đây là điều trước hết tôi muốn nói với anh chị em: Chúa Giêsu yêu mỗi người trong anh chị em “đến cùng.”

Và rồi Ngài làm một việc mà các môn đệ không hiểu đó là rửa chân cho họ. Đó là phong tục vào thời đó khi người ta đến nhà ai, bàn chân họ dơ bẩn vì bụi đường. Không có con đường nào lót đá như bây giờ cả!

Và ở lối vào của ngôi nhà, khách bộ hành sẽ phải rửa chân. Người nô lệ sẽ làm việc này cho khách. Đó là công việc của kẻ nô lệ. Và Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, như một người nô lệ. Và Ngài nói với Phêrô: “Những gì Thầy đang làm, bây giờ anh em không hiểu nhưng sau này anh em sẽ hiểu” (Ga 13, 7).

Tình yêu của Chúa lớn đến nỗi Ngài trở nên như kẻ nô lệ để phục vụ chúng ta, để chữa lành chúng ta, để làm sạch chúng ta. Và hôm nay, trong Thánh Lễ này, Giáo hội muốn các linh mục rửa chân cho 12 người, tượng trưng cho 12 môn đệ vào lúc đó. Tâm hồn chúng ta phải xác tín chắc rằng khi Chúa rửa chân cho ta, Ngài đã tẩy sạch mọi thứ cho chúng ta, Ngài thanh tẩy chúng ta! Ngài cho chúng ta cảm nhận một lần nữa về tình yêu của Ngài.

Trong Kinh Thánh có một câu từ miệng ngôn sứ Isaia diễn tả về Thiên Chúa rất đẹp. Câu ấy nói rằng: “Không người mẹ nào quên con của mình. Dẫu cho có người mẹ nào quên con mình, thì Ta cũng không quên ngươi!” (Is. 49:15). Đó là cách Thiên Chúa yêu chúng ta.

Và tôi sẽ rửa chân 12 người trong anh chị em tượng trưng cho tất cả anh chị. Tất cả mọi người trong anh chị em! Tất cả mọi người sống ở đây. Nhưng tôi cũng có nhu cầu được Thiên Chúa làm sạch. Anh chị em hãy cầu nguyện trong Thánh lễ hôm nay để Thiên Chúa cũng làm sạch những rác rưởi trong tôi, để tôi có thể trở thành kẻ đầy tớ của anh chị em, kẻ đầy tớ phục vụ tất cả mọi người như chính Chúa Giêsu.

Hoàng Minh, VRNs

Cầu Nguyện

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”

(Trích trong PRIER)

Gx. Thiên Thần

IMG_5142

Làng Mai kể nguyên nhân đằng sau vụ Bát Nhã

Làng Mai kể nguyên nhân đằng sau vụ Bát Nhã

BBC

Sư cô Chân Không của Đạo Tràng Mai Thôn lần đầu tiên nói với BBC về nội tình đằng sau biến cố hàng trăm tu sinh của Làng Mai phải rời khỏi tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng năm 2009.

Biến cố này đánh dấu việc ‘cắt đứt quan hệ’ của thiền sư Thích Nhất Hạnh với Việt Nam, mặc dù ngài được đón tiếp nồng nhiệt khi lần đầu trở lại Việt Nam năm 2005 và một lần sau đó năm 2007.

Vị Giáo thọ nói với phóng viên Quốc Phương trong cuộc phỏng vấn tại Làng Mai, Thénac, Pháp, hồi tháng 02/2015, rằng trong chuyến đi thứ hai về Việt Nam năm 2007, sau khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh làm trai đàn bình đẳng chẩn tế để giải oan cho miền Nam, miền Trung, miền Bắc, thì được chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đề nghị gặp.

Trong cuộc gặp đó “Thiền sư đưa ra 10 điểm đề nghị, trong đó có: “Nên có một bộ công an là đủ rồi, chứ đừng nên có thêm công an tôn giáo. Công an tôn giáo đi theo dõi mấy ông thầy tu với mấy ông cha cực quá, chỉ có nước Tàu với nước Việt Nam là có chuyện đó.”

“Vì câu đó mà công an họ đập tan hoang, tơi bời.

“Mà họ đập tại vì mình cũng không chịu lo tiền, lo tiền từ Bảo Lộc cho tới Lâm Đồng.

“Nhưng mà mình đã muốn cống hiến cho đất nước năm giới, là năm phép tu tập chánh niệm, nên sẽ phạm giới nếu mình tham nhũng.

“Thành ra chúng tôi vẫn chưa học được bài học ở Việt Nam, là nếu mà mai mốt cho một Làng Mai ở Việt Nam mà chúng tôi vẫn tiếp tục không chịu đi lo lót tiền bạc thì chắc còn lâu lắm.”

Thực hiện: Hạnh Ly, Quốc Phương.