TỚI NGUỒN SỰ SÁNG

TỚI NGUỒN SỰ SÁNG

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

Tri’ch EPHATA 664

Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thuở.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn. Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng Đức Tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng Đức Tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng Đức Tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng Tình Yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêrikhô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.

Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.

Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng Đức Tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêrikhô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

Trả lại anh, câu yêu mà anh đã tặng,

“Trả lại anh, câu yêu mà anh đã tặng,”

Trả lại anh, nhớ nhung mặn nồng cay đắng.

Trả lại anh thư xanh, màu xanh ái ân.

Dĩ vãng buồn, giống nghĩa trang.

Cô đơn, như mộ không tên.”

(Đức Quỳnh – Trả Lại anh)

(1 Phêrô 5: 1-4)

 Trần Ngọc Mười Hai

             Anh hay em, mà lại hát câu ca này, rõ ràng như thể bảo: thôi “anh đường anh, tôi đường tôi; tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi!, cho rồi.” Bởi, có hát những câu hay ho/đẹp đẽ như thế, nay đâu còn hợp thời-trang, tình-tự được nữa đâu, cơ chứ!

Không tin ư? Mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp đôi ba ca-từ đến “phát khiếp” như sau:

 “Trả lại anh câu yêu em, tình yêu bất diệt.

Trả lại anh với câu xây nhà bên suối.

Trả lại anh hoa khô cài bên bướm xanh.

Đây trang nhật ký đôi ta.

Đang ghi sao đành dở dang.

 Khi em yêu anh còn cô gái thơ ngây.

Nay em xin anh trả em lúc ban đầu.

Yêu anh em đâu ngờ duyên kiếp ba sinh.

Van anh quên đi như khi ta chưa hề quen.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Quả là, rất đúng. Hôm nay đây, ở thời buổi này, lại vẫn có những sự thể, thật dễ nói câu “van anh quên đi khi ta chưa hề quen”. Bởi, có quen nhau cho lắm, rồi cũng thấy rối-rắm như trang-huống đang xảy ra ở nhà Đạo.

            Trang-huống hôm nay, lại đã có những lời/lẽ rất thương đau như tin tức được loan-truyền trên báo/đài truyền-thông, như sau:

“Đức Tổng Giám-mục Charles Chaput cảnh-giác việc phân-cấp cho các Hộ-đồng Giám-mục có được một số quyền-về kỷ-luật bí-tích, đã phát-biểu:

 Giáo-hội là ‘Công-giáo’ còn gọi là ‘phổ quát’. Đúng là chúng ta cần tôn-trọng sự khác-biệt về tính-cách văn-hoá giữa các tín-hữu. Nhưng, ta đang sống sống trong thời-đại có nhiều đổi-thay trên qui-mô toàn-cầu có những rối-loạn và bất-ổn. Nhu-cầu cấp-thiết của ta là sự đoàn-kết. Và nguy-hiểm lớn nhất của ta là sự phân-cấp.

 Hỡi anh em,

Ta cần phải rất thận-trọng về việc phân-cấp các vấn-đề về kỷ-luật và tín-điều quan-trong cho phép các Hội-đồng Giám-mục ở các quốc-gia và khu-vực, đặc-biệt khí có áp-lực buộc ta theo chiều-hướng đó kèm một tinh-thần tự khẳng-định và đề-kháng…

 500 năm trước, ở vào thời-điểm giống hệt hôm nay, Erasmus của Rotterdam đã viết rằng: sự hiệp-nhất của Hội-thánh là đặc-trưng quan-trọng vào bậc nhất. Ta có thể tranh-luận về những gì Erasmus tin-tưởng thực-sự; và, những gì ông nói trong bài viết của ông. Nhưng, ta không thể tranh-luận về những hậu-quả xảy đến khi sự hiệp-nhất cần-thiết của Giáo-hội bị bỏ qua. Trong những ngày sắp tới đây, xin chúng ta nhớ rằng: tầm quan-trọng của sụ hiệp-nhất và những gì nó đòi hỏi nơi ta, và những gì mất đoàn-kết trong các chuyện nghiêm-trọng như thế có thể mang lại. ” (X. www.Tâmlinhvaodoi.net, Tóm-lược diễn-tiến Thượng Hội-đồng Giám-Mục về Gia-đình, 17/10/15)

Thật ra thì, Thượng Hội Đồng Giám Mục 2015 diễn-tiến cũng không tệ. Chỉ mỗi điều, là: các nghị-phụ nhà mình, nay có quyền phát-biểu/tỏ-bày ý-kiến tư-riêng của các phe/nhóm khác nhau trong Hội-thánh thế giới. Không chia rẽ hoặc phân-biệt mà chỉ mỗi khác nhau về chánh-kiến/lập-trường. Và, khi đã đi vào hiện-thực, thì phe/nhóm nào cũng sẻ-san đường-lối cũng rất chung, thôi.

Đó là điều, mà nhiều đấng bậc lâu nay vẫn tỏ-bày ý-kiến về các khó-khăn của Giáo hội khi tiếp-cận các vấn-đề nhức-nhối về người Đồng-tính luyến-ái.

Giám mục Geoffrey Robinson từng viết nguyên cuốn sách để bàn về vấn-đề này, vào lúc trước khi Thượng Hội Đồng Rôma khai mạc hồi tháng 10/2015 mà Chuyện Phiếm Đạo Đời đã trích-dịch nhiều qua các bài phiếm lai rai, đây đó. Nay, lại xin tiếp tục triển-khai thêm một số lý-chứng từng tạo khó-khăn cho Giáo-hội khi cần thay-đổi giáo-huấn mình vẫn dạy.

Để bà con có thể bàn-bạc chuyện gay-go theo chiều-hướng nhẹ-nhàng, xin mạo muội, đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu chuyện tiếu-lâm chay ở dưới, khi kể về những cái khó trong chung sống:

Lão vốn mang tiếng cả khu chung cư là sợ vợ và đang di căn sang giai đoạn cuối là khiếp vợ, thế mà tối nay thấy tiếng lão quát vợ rung chuyển các tầng. Kính trọng quá đi. Đàn ông là phải thế chứ.

Nhà cháu chạy sang đứng ngoài cửa.

-Choang!Choang! (Tiếng bát vỡ kinh quá)

-Bụp! (Một cú đá chéo góc).

– Im mồm, tôi bảo cô im đi cơ mà…Im để cho tôi nói, cô đã làm nhơ cái mặt tôi ở khu chung cư này rồi, ai cũng bảo là: tôi sợ vợ, ngay cả lão Vinh kia hễ gặp tôi là nói kháy, là đá đểu rằng tôi sợ vợ. Bây giờ thì đừng hòng. Hôm nay tôi phải dạy cô một lần cho biết.


– Choang! Rắc! Ùm! (tiếng bát vỡ, và cả tiếng ly/cốc, chân bàn gãy, nghe kinh khủng quá)
– Tôi đi ra khỏi nhà là cô la, về muộn một tí thì cô chửi, gặp phụ nữ thì cô cho là tôi đã cặp bồ, cái ví của tôi cô xẻo hết từng đồng tiền lẻ, cái máy điện thoại của tôi mang về, là cô kẹp chặt trong nách, cô một vừa hai phải thôi, nhớ rõ chưa? Nhớ chưa? Há miệng ra mà vâng trước mặt tôi ngay, há ngay ra!

– Bốp. Bốp. Bốp. (Rõ ràng có tiếng đánh từ bàn tay phải của lão đập vào má trái người vợ).

– Cô ngó lên tầng 15 mà xem, cái lão dê già ấy đấy, ai không biết là lão sát gái, vợ lão cũng biết mà có dám hó hé gì, đâu? Tôi nói thế có đúng không? Thế mà, mới thấy tôi búng vào má em nào một phát, vỗ lưng, vuốt tóc một cái thì cô lồng lộn lên là thế nào? Cô chửi tôi cứ như đảng và nhà nước chửi bọn phản động, thế nghĩa là thế nào? Từ giờ trở đi, chừa ngay cái thói bắt nạt chồng nghe chưa, chồng thay cha thay mẹ, hễ nói một câu là vợ phải dạ một câu, nghe chưa?

Viu…viu…viu…(Ôi giời đá gió đây, gọi là song phi đấy!)

– Cô đưa con dao cho tôi, đưa đây! Tôi sẽ chặt ngón tay của cô để cô luôn nhớ rằng, cô là vợ, tức là ở dưới cơ chồng, cô hiểu chưa, đưa dao đây!

 Nhà cháu hoảng quá, phải cứu cô ấy chứ, nhà cháu xô cửa lao vào trong. Lão hàng xóm đằng đằng sát khí đứng giữa phòng, bát chén, cốc ly vỡ tung tóe cứ như trung tâm thủ đô Kiev. Nhà cháu ôm ghì lấy lão:

-Ấy… Bình tĩnh đã… Ai lại đánh mắng vợ con như thế hả giời?…

-Nhưng em không thể chịu được, điên lắm rồi, phải dạy vợ cho ra dạy bác ạ.

-Thế cô ấy đâu, cô ấy đâu?

-Cô ấy về quê hôm qua rồi bác ạ.” (trích truyện kể của Nguyễn Quang Vinh)


Kể truyện tiếu-lâm chay như thế, chỉ để nói lên điều này, là: trong đời người, vấn-đề nào cũng có mặt phải/mặt trái của nó, hết. Việc gì đề ra, cũng có người thuận, có người chống lại ý-tưởng của người khác, có khi cả ý-tưởng của chính mình vừa nói xong cũng chống hết.

Để chuyện phiếm hôm nay thêm phần đa-dạng, xin bạn và tôi, ta nghe thêm đôi điều về một nhân-vật lỗi lạc ở trời Tây nuớc Nga, đó là nhà văn Leon Tolstoy cũng có ý-kiến rất “thực” về nền thần-học Hội-thánh rất chung, như sau:

“Cuối thời mình, đặc-biệt là vào lúc ông viết truyện giả-tưởng nổi tiếng hồi thập niên 1860 và 1870, lúc ấy ông cho xuất-bản cuốn “Chiến-tranh và Hoà-bình” cũng như cuốn “Anna Karina”, tác-giả Leon Tolstoy đã bị rung-động bởi cơn khủng-hoảng cá-thể và về tinh-thần, đến độ ông đã phải dừng lại không viết tiểu-thuyết nữa. Khi ấy, tưởng chừng như ông đang rơi vào nỗi rã-rờituyệt-vọng, đến khủng-hoảng, cứ bận-tâm nhiều với chuyện chết choc và tự vẫn. Và khi ấy, ông lại đã trải-nghiệm một hiện-hữu rất đơn-huầnvề một niềm tin vô-vọng, cứ nghĩ mình chỉ là mớ bòng bong, hỗn-tạp, sống không mục-đích. Và khi ấy, ông thấy cuộc đời con người đích-thị là ác-thần/sự dữ, rất không sai. Trong nỗi hốn-cùng sâu lắng về hiện-sinh, Leon Tolstoy đã nhớ về Đạo Chúa mà ông từng sống vào thời thơ-ấu. Và rồi, ông tìm lại được một vài hy-vọng nhỏ trong liên-tưởng đến tín-hữu chân-phương, giản-dị mà ông đã cùng sống cũng như lớn lên với họ, trong quá-khứ.

   Ông nhìn thấy nơi tín-hữu bình-dị ở quê nhà, một gương sáng sống đời người đích-thực, đầy đặn. Và, nỗi nhớ này đã khích-lệ ông khởi-đầu suy-tư/học-hỏi sâu-sắc về giáo-huấn trong Đạo mà ông gặp được ở Tin Mừng. Khủng-hoảng về linh-đạo và hệ-quả nó dẫn đến được ông ghi lại từng chi-tiết trong các tác-phẩm không giả-tưởng chút nào, được ông dùng để làm lực đẩy cho các bài viết cùng các sách về cuộc sống tâm-linh cụ-thể, như: Một lời xưng thú: Những gì tôi tin” và “Vương Quốc Nước Trời, ở bên trong con người quí vị.” (x. Leon Tolstoy, The Life of Jesus The Gospel in Brief, Harper Perennial 2011, Foreword, tr. Vii)

Sau đến, là ý-kiến của Gm Geoffrey Robinson khi ông nói đến khó-khăn trong giải-quyết vấn-nạn/đòi hỏi phải có thay-đổi trong chính-sách đối xử và suy-tư về người đồng tính luyến-ái, lý thừ như sau:

“Lý-do khác khiến ta cần đổi thay giáo-huấn Hội-thánh Công-giáo, là vì giáo-huấn ấy chỉ là những tuyên-ngôn mang tính khẳng-định từ trên hơn là chú-trọng vào bàn-luận, thương-thảo.

 Yếu-tố hiệp-thông và cộng-sinh, là khía-cạnh thiết-yếu làm nền cho hôn-nhân giữa hai người, miễn là họ theo-đuổi những điều sau đây:

– chúng phải là yếu-tố thiết-yếu cho từng cuộc hôn-nhân riêng-rẽ, không cần biết hoàn-cảnh của mỗi cặp có ra thế nào đi nữa, phải thế chứ?

– chúng phải là những yếu-tố thiết-yếu cho mỗi động-tác xác-thịt chứ? Động-tác thực-hiện dựa trên căn-bản nào?

 Như, trường-hợp cặp hôn-nhân đặc-biệt nọ được các chuyên-gia y-tế khuyên can đừng nên có con, nếu không trẻ bé sẽ phải bị bệnh nghiêm-trọng và tật nguyền bảm-sinh/di-truyền, nên họ đi đến quyết-định nuôi con nuôi hơn là có con do mình sinh. Làm thế, họ có chống lại ý Chúa không? Có cặp khác nghĩ rằng mình đã có khá nhiều con rồi, nên không có khả-năng tài-chánh và tâm-lý để có thêm con nữa sợ rằng sẽ nặng gánh gia-đình. Dựa trên căn-bản nào ta khẳng-định rằng họ làm thế là chống lại ý Chúa, đây?

 Rất nhiều trường-hợp khó-khăn khi nhiều người vẫn tuyên-bố là họ biết ý của Chúa, nữa. Vậy thì, nếu ta khẳng-định rằng đó là ý của Chúa và cũng là trật-tự thiên-nhiên, vậy thì cả hai khía-cạnh hiệp-thông và cộng-sinh đều nhất-thiết phải có mặt trong mỗi động-tác ăn-nằm xác thịt như một hành-xử được chứng-thực hoặc là khẳng-định chân-phương, giản-dị chứ? Nếu đó là hành-động được chứng-tực, thì đâu là chứng-cớ? Thế, tại sao tài-liệu của Giáo-hội lại không đưa chứng-cứ nào như thế? (*6) Phải chăng bất kỳ chứng-cứ nào cũng phải bao gồm kinh-nghiệm từng-trải của hàng triệu người trong cố-gắng phối-hợp dục-tình, thương-yêu và việc cộng-tác sản-sinh cuộc sống mới trong bầu khí hỗn-độn của dục-tính con nguời và tính phức-tạp nơi sự sống con người chứ? Phải chăng lý-tưởng bao giờ cũng lẫn lộn với thực-tại?

 Nếu giáo-huấn của Hội-thánh chỉ là khẳng-định từ trên ban xuống, thì có chăng lý-do hỏi rằng tại sao ta lại không được phép áp-dụng nguyên-tắc hợp lý cứ luôn bảo: những gì dễ khẳng-định cũng dễ dành bị bác-bỏ, không? Nếu chuyện ấy không hơn gì một khẳng-định, thì việc thực-sự quan-trọng là: ai là khẳng-định hoặc làm sao mà việc ấy lại được khẳng-định ras61t thường như thế? Đâu là lý-sự có lợi cho sự việc khẳng-định rằng việc ấy sẽ thuyết-phục được một lương-tâm cởi mở và lương-thiên, đây? (Xem thêm Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod: The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ARF 2015, tr.15-16)

Nói cho cùng, có bàn-thảo nhiều về vấn-đề sống cùng và sống với những người đồng-tính luyến-ái và/hoặc chuyệnvợ-chồng đã ly-dị rồi tái-giá, có được hiệp-thông rước lễ hay không vẫn là luật lệ có từ một khẳng-định từ trên phán xuống.

Nói cho cùng, thì có đụng chuyện trong chung sống hoặc phải giải-quyết những nố khó-khăn trong sống đời thực-tế hôn-nhân, luyến ái, mới thấy rằng: chuyện đời thật không dễ. Không dễ hiểu, cũng chẳng dễ cảm-thông nếu mình không ở cùng một hoàn-cảnh, với người trong cuộc hoặc bị-động.

Nói cho cùng kỳ lý, thì: tất cả chỉ để bạn và tôi, ta có cơ-hội đểm phiếm ba điều bốn chuyện, không phải của do mình hoặc thiết-thân với chính mình, gia-đình mình.

Nói cho cùng và chon gay, chi bằng ta cứ vào vườn hoa Lời Chúa có những Tin Mừng để đời như tác-giả người Nga ở trên từng trải-nghiệm.

Nói cho cùng, cũng nên nhìn về quá-khứ trong đó mình từng được nghe nhiều và học nhiều, những điều do bậc thánh-hiền vẫn từng bảo:

“Cùng các bậc kỳ mục trong anh em,

tôi xin có mấy lời khuyên nhủ,

vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục,

lại là chứng-nhân những đau khổ của Đức Kitô

và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai.

Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em:

lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng,

nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn,

không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn,

nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ.

Đừng lấy quyền mà thống-trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em,

nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.

Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện,

anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.”

(1 Phêrô 5: 1-4)

 Nói theo nhà Đạo, thì như thế. Như thế, tức làm sao để các bậc kỳ-mục/thủ-lãnh cũng như dân-gian dưới trướng được sống đời thoải-mái trong yêu thương. Chứ không chỉ câu-nệ luật lệ, mà thôi. Dù luật ấy có là giáo-luật. Dù điều ấy có là giáo-huấn rất “khẳng-định” từ trên phán xuống.

         Nói theo kiểu người ngoài luồng, ngoài đời là nói bằng cung-giọng/điệu hát có lời ca rất âm-thầm, nhè nhẹ đầy chất thương yêu như người thường ở huyện, vẫn cứ hát những câu như:

“Trả lại anh câu thơ người em tóc thề

Trả lại anh khóc thương cho phận con gái

Trả lại anh tương tư mà anh đã trao

Bên nhau tình nhớ với thương

Xem như cơn mộng mà thôi

Coi nhau như bạn mà thôi.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Hát thế rồi, ta lại tìm đến những truyện kể do bạn-bè/người thân những sưu-tầm để ta viết phiếm. Viết cho đời thêm phấn-chấn. Nghe kể, cho đời mình được nhiều tiếng cười vẫn quẩn quanh đâu đó, những muốn vui, như sau:

“Cô sinh viên nọ, bận tâm về chuyện bồ-bịch và gia-đình, nên đã biên thư hỏi ý mẹ như sau:

-Kính thưa mẹ, mọi việc đang diễn ra tốt đẹp ở trường. Con đã gặp một anh sinh-viên tuyệt-vời nhất từ trước tới nay. Anh ấy học năm thứ ba. Anh ấy chơi bong đá, đang học để chuẩn-bị ra trường làm bác-sĩ, đạt hạng xuất-sắc, dáng người cao ráo, đẹp trai. Con đã hẹn đi chơi với anh ấy 8 bận rồi và đã mặc 8 chiếc áo đầm mà con có. Giờ, thì con cần thêm một chiếc áo nữa, để cho buổi hẹn sắp tới, bởi vì anh ấy đã mời con đi xem hát với anh ấy. Mẹ có vui lòng gửi cho con 25 đôla, để con mua một chiếc áo mới được không, hả mẹ?

Bà mẹ trả lời:

-Đâu cần phải mua áo mới làm chi cho rắc rối thế con. Hãy tìm một bạn trai mới và làm lại từ đầu, thế thôi!” (truyện kể trên mạng, không ghi tên tác-giả)

Truyện kể ở trên mạng, có thể cũng là chuyện đời người rất kinh-nghiệm. Kinh-nghiệm của người mẹ ở trên chưa chắc đã là “giáo-huấn” ở đời, như một khẳng-định từ trên xuống. Cũng có thể, chỉ là chuyện thời xưa thích-hợp cho thế-hệ già nua, tuổi tác, rất khô-cứng. Chí ít, là chuyện luật và lệ ở nhà Đạo, dành cho người đi Đạo, sống đời thực-tế rất lâụt-lệ, mà thôi.

Nói thì nói thế, chứ cũng tùy bạn tùy tôi, ta đứng từ góc độ nào mà nhìn đời, rồi xử-thế.

Nói thì nói thế, nay xin bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang bước vào giòng đời dù đổi-thay hay vẫn thế, cũng cứ mặc. Cứ hát lên, câu ca/điệu nhạc dù buồn phiền hay phấn khởi, vẫn cứ hát cho đời lên hương. Để rồi, ta sẽ cùng sống với mọi người, suốt những ngày còn lại trong cõi đời đầy đổi thay, như thế này:

“Trả lại anh câu yêu em, tình yêu bất diệt.

Trả lại anh với câu xây nhà bên suối.

Trả lại anh hoa khô cài bên bướm xanh.

Đây trang nhật ký đôi ta.

Đang ghi sao đành dở dang.

Khi em yêu anh còn cô gái thơ ngây.

Nay em xin anh trả em lúc ban đầu.

Yêu anh em đâu ngờ duyên kiếp ba sinh.

Van anh quên đi như khi ta chưa hề quen.”

(Đức Quỳnh – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã trải-nghiệm những ngày buồn

Có câu ca, bài hát rất không vui

Như mọi ngày.

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mt 5: 1-12a)

Một hôm, thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.

Người mở miệng dạy họ rằng:

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.

Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao

+    +    +    +    +

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

           Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai”.

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Ngoảnh mặt làm ngơ, và vô tình trêu ai, còn là tâm-trạng của người nghèo hèn ở trình-thuật.

Trình thuật hôm nay, kể về hai người đàn bà nghèo, góa bụa. Làm thân góa bụa hồi đầu thế kỷ, các bà vốn rất nghèo. Nghèo tiền nghèo của, nghè cả chức phận, lẫn công danh. Ở xã hội Do Thái thuở trước, mồ côi, góa bụa, nghèo nàn, cả ba đều bị liệt vào giai cấp cùng đinh, mạt rệp. Vị thế của họ vẫn cứ hèn và mạt đến độ không ngóc đầu thoát khỏi kiếp vong mạng, nơi bùn đen. Kiếp người của họ luôn trái ngang, gặp cảnh chê bai, miệt thị.

Lối hành xử đầy khinh chê mà các bà gặp phải, hiện diện cả trong giới linh thiêng nhà Đạo, nữa. Trình-thuật kể rằng: Đức Kitô xếp loại các thủ-lĩnh, kinh-sư thời Ngài vào cùng một hạng với những người, ta cần dè-chừng. Dè-chừng, không chỉ vì họ luôn tìm ra phương-cách khai-thác, bóc-lột giai-cấp cùng đinh mạt rệp, mà thôi. Dè-chừng, còn vì các thái-độ khinh-chê, miệt-thị và bóc-lột vẫn hủy-hoại tình người. Thứ tình cần đến cơn mưa yêu thương, lắng đọng.

Với Đức Kitô, thái độ “xúng xính”, “bóc lột” là lối hành-xử giả-hình, không chấp-nhận được và cần đổi-thay. Với Tin Mừng Nhất Lãm, cả ba thánh-sử thỉnh thỏang vẫn kể lại hành-vi kiêu-căng, ngạo mạn của các đấng kinh sư nhà Đạo, lúc bấy giờ. Nghĩa là, hành vi của những người này trái ngược hẳn lối xử-sự của đám nghèo hèn/cùng đinh, như các bà góa. Hành-vi yêu-thương luôn giùm giúp những ai đang cần. Kinh nghiệm chính bản thân mình, Đức Giêsu đã triền-miên chịu-đựng mọi khổ-đau vì người đời. Ngài vẫn không thể chấp-nhận nổi phong-cách “làm bộ đọc kinh nhiều giờ” của đám Kinh sư, Biệt phái.

Là môn-đồ Đức Chúa, dù ở cương-vị nào, chắc hẳn ta cũng không chấp-nhận nổi thái-độ trịch-thượng, dễ gây xa cách ấy. Thật ra, tạo cho mình có được của cải, quyền-bính này khác, tự nó không có gì xấu xa.

Vấn-đề đặt ra, là: khi tiếp-nhận quà tặng từ Trên, dù quà đó có là quyền-thế hay của cải/tiền bạc, ta vẫn có thể sống đúng tư-cách của người công-chính, được như thường. Hệt như phương-châm: hãy nói tôi nghe bạn sử-dụng quà tặng như thế nào, tôi sẽ cho biết bạn là ai. Ở đây nữa, quyền-bính và của cải/tiền bạc vẫn là “bát cơm đong dầy”, ta phải luôn cầu Trời mới mong có.

Trớ trêu thay, mọi quyền-uy con người tạo được, dù ở chính-trường, nơi nhà Đạo hoặc trong gia-đình, ngoài xã-hội, cộng thêm sự giàu sang từ đó có được, vẫn là những thứ hấp-dẫn, khó chối-từ. Càng có nhiều uy-quyền, người người càng tạo nhiều của cải. Càng có nhiều của cải, người người những tưởng: mọi sự đều thuộc về mình.

Không ai có quyền gỡ bỏ hoặc rút đi. Và, một khi có nhiều quyền-hành và tiền của, người ta sẽ dễ trở nên kiêu-căng, thích bóc-lột người khác, những nghèo và hèn hơn mình. Lúc ấy, họ sẽ quên đi lời nhắc nhở dặn dò, rằng: tất cả đều là quà tặng, từ Trên. Và, khi đã quên lời nhắc-nhở từ Trên, người ta có khuynh-hướng quên luôn cả Đấng đã nhắc nhở mình. Để cho mình mọi uy quyền và của cải ấy.

Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô ghi lại lời nhắc nhở ngợi khen phong-thái của người cùng đinh/nghèo hèn, như bà góa. Đức Chúa khen ngợi các bà thuộc giai cấp thấp hèn không phải vì các bà vốn người đốn mạt, nghèo hèn.

Điều mà Đức Kitô ngợi khen, chính là phong-cách độ-lượng, thương-yêu giùm-giúp của các bà, những người chị, người em đang sống cuộc đời nghèo/hèn, tận-tuyệt. Nghèo hèn tận tuyệt, là: biết mình cũng chẳng là gì, chẳng hơn ai. Nhưng, vẫn biết người, biết mình. Luôn khiêm tốn. Vẫn thân thương. Thân-thương trong thái-độ nhớ đến người khác. Nhớ đến những người còn nghèo/hèn tận-tuyệt, hơn mình.

Biết người biết mình, là: lâu nay tuy bị bóc-lột đến cùng cực, rất túng thiếu, nhưng vẫn lẳng-lặng yêu-thương, đùm bọc. Không hợm hĩnh, khoe khoang. Có biết mình và biết người như thế, mới nói được rằng: kẻ cao sang, quyền quý dù biết nhiều học rộng, vẫn cần học và hỏi nhiều nơi người nghèo hèn. Học và hỏi, không phải kiến thức khoa bảng, nở rộ. Học và hỏi về phong cách nhẹ khi thương yêu đùm bọc, cả vào lúc quyên góp.

Nơi cuộc sống Đạo-đời, vẫn là chuyện thường nếu lâu nay các đấng bậc cao-sang quyền-quý vẫn cứ dạy và dỗ đám dân nghèo, thấp hèn. Điều khác lạ nơi Tìn Mừng hôm nay, chính là bài học này: hãy để cho lớp người cùng đinh/thấp hèn có cơ-hội minh-chứng dỗ-dạy các đấng bậc quyền-quý, rất cao sang. Các đấng đang ngự-trị nơi: chính trường, nhà Đạo. Hoặc, tại khắp chốn như: xã hội, gia đình.

Và, đó là điểm sáng Tin Vui rất an bình mà trình thuật thánh Mác-cô muốn gửi đến người đọc. Nơi dân-gian trần-thế, có vài truyện kể cũng mang dáng dấp an vui Tin Mừng, ta vẫn nghe. Như truyện kể hôm nào, về đối chất thần-học giữa vị Hồng y nhà Đạo và tín đồ nghèo Do Thái giáo.

Nhiều năm về trước, giới nhà Đạo ở La Mã có quyết-định: người Do thái phải rời bỏ thủ-đô này, không được sống gần người nhà Đạo. Cộng đồng bạn tỏ ra bất-bình trước quyết-định gay-gắt ấy. Thấy thế, Đấng bậc nhà Đạo bèn giải hoà, bằng đề-nghị: nếu cộng-đồng bạn toàn-thắng cuộc thi-đấu kiến-thức thần-học, họ được ở lại.

Phía nhà Đạo, vị được cử lên thi đấu lại là Hồng y chủ quản; giáo hội bạn, chỉ đề cử tín-đồ nghèo hèn, tên Môsê. Sợ mình không thể đối nhanh đáp lẹ, kẻ hèn Môsê đề-nghị cuộc thi diễn ra trong im lặng. Chỉ giơ tay, ra dấu. Hai bên đồng ý, nhập cuộc.

Bắt đầu, Vị Hồng y đưa tay lên cao, giơ 3 ngón. Tín đồ Môsê chỉ giơ một ngón, rất gọn. Hồng y nhà ta dùng tay vẽ vòng cầu, trên đỉnh đầu. Còn, Môsê lấy tay chỉ xuống đất chỗ mình ngồi, không chậm trễ. Hồng y bèn đem bánh miến rượu nho, một lượng nhỏ, cung-kính lĩnh nhận. Trong khi đó, tín đồ Môsê lại mang trái táo xanh, dự tính ăn. Cuối cùng, vị Hồng y đứng dậy, vội nói: “Tôi xin thua. Người này quá tốt lành, anh ta thắng”.

Thế là, cộng đồng người Do thái được quyền ở lại. Vài giờ sau, các đồng-nhiệm đến hỏi vị Hồng y: sao, lại như thế? Vị Hồng y đáp: trước hết, tôi giơ tay 3 ngón ý nói Đức Chúa Trời có Ba ngôi, thì anh ta chỉ giơ ra có một, ý muốn nhắc nhở tôi: Đạo của chúng ta đều chỉ tin một Chúa. Thế rồi, tôi ra dấu đánh vòng trên đỉnh đầu, ý muốn bảo: Đức Chúa đang hiện-diện quanh ta, thì anh chàng lại chỉ tay xuống đất, ý rằng: đúng đấy thưa ngài, Đức Chúa đang có mặt ở đây, ngay lúc này.

Cuối cùng, tôi đem rượu cùng bánh có ý nhắc: sùng kính Thánh Thể Cha, là việc rất phải. Phần anh, anh lại lấy táo xanh đem ra nhắc tôi: về tội nguyên tổ, ta cần đề cao. Tóm lại, anh ấy có giải-đáp rất nhanh về mọi vấn-đề.

Cùng lúc, bạn bè trong cộng-đồng Do thái rất thân, bèn quây quần bên người thấp-hèn Môsê, mà hỏi: này anh bạn già thấp kém như thế mà sao anh thắng được đấng bậc đạo-mạo bên ấy. Anh thưa: có gì đâu. Lúc đầu, ỗng bảo tôi: cộng đồng mình có 3 ngày để dời đi nơi khác. Tôi thưa ngay: không một người nào trong bọn tôi, sẽ ra đi. Rồi ông thêm: trọn thành này sẽ sạch bóng người Do thái, là các anh đấy. Tôi bèn cho biết: không đâu, bọn tôi đóng trụ trên đất này, chẳng đi đâu cả. Cuối cùng, có người hỏi: Môsê, thế rồi sao? Môsê nói: tôi cũng chẳng biết nữa. Tự nhiên thấy ỗng lấy đồ trưa ra ăn, tôi cũng lấy táo xanh của mình ra, đánh chén thế thôi.

Qua truyện kể, phong-cách hành-xử giải-quyết vấn-đề giữa vị chóp bu nhà Đạo và đạo-hữu thấp hèn Môsê, rất khác-biệt. Khác-biệt, không có nghĩa lọai bỏ, tru diệt lẫn nhau. Khác biệt, là cần thắc-mắc, cần học-hỏi do đâu. Khác-biệt, không phải để so-sánh, phân-tranh ngôi vị. Vì, so sánh phân tranh không là giải đáp tốt, ở nhiều trường-hợp.

Thông thường và thích đáng hơn, vẫn là thái-độ biết học và hỏi. Biết áp-dụng lối xử-sự, phương-cách sống của người khác. Chí ít, của người nghèo hèn, tận tuyệt. Phương cách sống và lối xử sự ấy, không nhất thiết phải như đấng bậc phú quý, ở trn cao. Cách hành động và đối xử thích hợp, vẫn có thể và vẫn nên như cách thế của kẻ nghèo hèn, tận tuyệt.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong cho cộng-đoàn thân thương của ta có được phong-cách hành-xử, rất thư-thái xứng-hợp. Thư-thái, như dân thường ở huyện, chốn dân-gian. Những kẻ thấp hèn luôn mong chờ mưa xuống. Mưa hồng-ân. Mưa cứu-độ vẫn đi kèm theo mỗi quà tặng thông-thường, ta nhận-lĩnh. Một khi có được phong-cách nhẹ-nhàng thoải-mái như kẻ nghèo hèn, cùng đinh, ta sẽ thư-thái ngâm lại lời thơ trên, mà rằng:

Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,

Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai.

Mưa đầy tóc gió đầy vai,

Sầu treo bốn hướng trôi dài tâm-tư.” (Vũ Hoàng Chương – Bơ Vơ)

Sầu treo bốn hướng/bơ vơ, là tình-trạng người nghèo-khó ở mọi thời vẫn cần mọi người giùm giúp đỡ đần. Và, đỡ đần/giùm giúp, lại là thực-chất lòng đạo không chỉ người Công giáo, hoặc Do thái mới có. Mà là, lòng mọi người ở đời vẫn luôn đùm bọc giùm giúp, hết mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

PHÉP MẦU YÊU THƯƠNG

PHÉP MẦU YÊU THƯƠNG

HẠT NẮNG

Trong các cảm xúc của con người, có lẽ tình yêu là cao thượng và quý giá nhất. Chỉ có tình yêu mới có đủ sự thần kì, huyền diệu để thay đổi con người theo hướng tích cực. Bởi tình yêu, tự nó đã mang một sứ vụ cao trọng vô vàn mà Thiên Chúa đã trao đặt sẵn trong lòng người – những đứa con từ tình yêu của Ngài.

Dường như yêu và được yêu là nhu cầu vượt trên hết mọi nhu cầu của con người. Vừa mới hình thành trong cung lòng mẹ, thai nhi đã cần đến tình yêu và luôn cảm nhận tình yêu qua những lần vuốt ve, thủ thỉ qua thành bụng..Đến khi được sinh ra, đứa con còn đỏ hỏn đã thương tìm bầu sữa ngọt lành của mẹ, thèm được mẹ ủ ấp, vỗ về. Lớn hơn chút nữa, lúc tập ăn, tập chập chững những bước đầu đời, đứa con ấy cũng cần lắm những nâng đỡ, dạy dỗ từ cha me, gia đình. Bước vào đời, người ta cần nhiều thứ, nhiều năng lực, điều kiện để hội nhập xã hội, nhưng có lẽ chỉ có tình yêu mới làm cho con người cảm thấy đáng sống, và cũng chỉ duy nhất tình yêu mới có thể nâng con người dậy trước những vùi dập của cuộc đời.
Trong đêm tối, mưa gió dữ dội, một cụ già với đôi chân cụt nằm vắt người trên tấm ván mục có gắn bánh xe, gồng mình choải đôi tay thật nhanh xuống đất, lăn đi trên đoạn đường vắng ngắt dọc nghĩa trang. Một cô gái nhỏ chạy xe lướt qua, chợt rùng mình nghĩ rằng mình vừa thấy ma. Vừa sợ hãi, vừa tò mò, cô bé cứ ngoái đầu nhìn lại, xem “con ma” đã biến mất chưa. Nhưng kì lạ là “con ma” ấy vẫn mồn một trước mắt, cứ choải người đi, mỗi lúc một mệt mỏi hơn.

Bần thần một lúc, cô bé vòng xe lại, nhìn kỹ “mảnh người” không trọn người ấy, rồi bất giác cho tay vào túi, sờ tờ năm chục đồng duy nhất còn lại, rồi lại buông ra, lưỡng lự. Cô nghĩ về bữa ăn sáng ngày mai và những chi tiêu phải tính tới. Nhưng nhìn “mảnh người” kia cứ trằn đi khó nhọc dưới mưa, lòng cô lại thổn thức, và cuối cùng cô đã dúi tờ tiền ấy vào tay ông cụ với câu nói: “Chúa thương ông lắm!”. Có lẽ suốt đời, cô bé cũng không quên được gương mặt sững sờ và hai giọt nước mắt bất chợt trào ra hoà lẫn trong cơn mưa đêm ấy. Chỉ nghĩ đơn giản là chút sẻ chia để an ủi nhau và cám ơn trời đã cho mình lành lặn, nhưng cô bé không ngờ mình lại nhận được một niềm hạnh phúc tràn ngập trong lòng – một niềm vui chẳng thể mua được bằng ngần ấy tiền.

Một thanh niên mang căn bệnh thế kỉ HIV – AIDS, không nén được nước mắt khi cô điều dưỡng trạc tuổi mình nắm lấy đôi tay gầy gò của anh, an ủi, xoa dịu anh giữa cơn đau nhót người vì tia lửa điện diệt virus HPV (human papillomavirus: vi rút gây bệnh mồng gà) – hậu quả từ “trận” quan hệ đồng tính. Dường như cô thấu hiểu được nỗi đau trong anh, nỗi đau từ nơi thân xác thấm sâu vào tâm hồn. Cảm giác cô đơn, buồn tủi, cảm giác sợ kì thị làm anh bẽn lẽn mím chặt môi, không dám để tiếng rên i ỉ trong miệng phát ra kẻo mọi người nghe thấy. Khi anh nằm trên chiếc giường ấy, phơi nơi kín đáo nhất để được điều trị, anh thấy tất cả những sự thật của bản thân cũng bị phơi bày như chính căn bệnh của mình. Chỉ khi thấy được tình thương, sự nỗ lực từ những người điều trị cho anh, anh mới thấy mình sống lại thêm lần nữa, để nói lên quyết tâm trong lòng – quyết tâm lánh xa con đường sai cũ và sống xứng đáng hơn với hi vọng của mọi người.

Những con người ấy “thèm” tình yêu đến là vậy! Một chút yêu thương thôi cũng đủ cho họ cảm thấy mình vẫn còn tồn tại trong mắt mọi người, vẫn còn được làm người giữa một thế giới đầy miệt thị, rẻ khinh, chỉ biết đánh giá con người qua vật chất.
Tình yêu có sẵn trong lòng người, khi cho đi, yêu thương không những không vơi mà còn dâng đầy lên trong lòng gấp nhiều lần. Sống nơi thế gian này, có lẽ tình yêu là dòng nước thanh tẩy duy nhất nâng cao tâm hồn, làm cho ta có những lời nói, cử chỉ, hành động đẹp. Tình yêu giúp con người loại bỏ những xung đột, chia rẽ, tranh chấp, và giúp cá nhân bớt đi khuyết điểm, lỗi tội.

Tình yêu tha nhân đạt đến mức siêu huyền khi ta yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình. Lòng yêu thương ấy không làm ta mù quáng, chấp nhận, thoả hiệp với những hành động gian ác của kẻ thù; trái lại , ta vẫn lên án và tìm cách ngăn chặn chúng.

Chỉ có tình yêu mới cảm hoá được trái tim chai sần, sỏi đá, mới làm cho tan chảy được sự lạnh lùng, cứng nhắc của một con người. Tình yêu giúp ta được sống thật với giá trị ta đang là. Khi trái tim ta đang ngụp lặn trong vũng sâu tội lỗi, chỉ cần một ánh mắt yêu thương, một bàn tay nâng đỡ cũng đủ giúp ta thêm sức mạnh phi thường để tức thì được “mọc cánh” bay lên. Và giữa những khoảng xám tối của cuộc đời, chỉ tình yêu mới là ngọn đèn soi, lắp sáng những nẻo khuất ấy – tình yêu là động lực duy nhất!

Như hạt muối có thể hoà tan nhưng không bao giờ biến chất, người Ki-tô hữu cũng không thể chỉ biết co cụm trong lo âu, chỉ biết thương xót và nhìn thấy cuộc đời riêng mình. Cần cúi xuống gần hơn với nỗi đau khổ của tha nhân – nỗi đau khổ nơi những con người còn rên xiết trong đói khát, bị giằng xé nội tâm do tội lỗi – những con người ấy không có gì để bám víu, để đặt niềm tin và để được sống đúng phẩm giá của mình…

Mong sao, mọi người biết yêu thương nhau như chính Đấng Cứu Chuộc đã dành trọn Tinh Yêu cho ta – một tình yêu không vị lợi, không toan tính, không nề hà hiến dâng chính mạng sống Người. Chúng ta hãy cùng học để biết yêu mến, học để biết cho đi nhưng không và lãnh nhận nhưng không trong trường học Giêsu, biết đặt mình đơn sơ, phó thác vào đôi cánh tay quyền năng, yêu thương che chở của Người trong tâm tình bé thơ như Chúa muốn.

( Trích tập san GHXHCG số 18)

TIN VÀO TÌNH YÊU

TIN VÀO TÌNH YÊU

Chuyện xảy ra vào thế kỷ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.

Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.

Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.

Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố: “Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.

***

Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.

Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!

Qua dụ ngôn “ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta đổi mới cái nhìn về Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.

Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,15). Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.

Cứ nghĩ đến muốn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen ty. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain dã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.

Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh Thánh: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót (Mt 20,16a). Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn là do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.

Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.

Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác là chính chúng ta.

***

Lạy Chúa, Chúa là một người Cha đầy yêu thương, luôn ban ơn cho mọi con cái, cả những đứa con không đáng thương, vì Chúa không muốn một ai phải hư mất. Xin cho chúng con một tâm hồn quảng đại như Chúa, không hẹp hòi ghen tỵ với những ai được Chúa ban nhiều ơn, nhưng luôn biết “vui với kẻ vui”, để chúng con được nên giống Chúa nhiều hơn. Amen!

Thiên Phúc

Ngọc Nga sưu tầm

TRUYỀN GIÁO: CHUYỆN KHÔNG CỦA RIÊNG AI

TRUYỀN GIÁO: CHUYỆN KHÔNG CỦA RIÊNG AI

Tác giả:  Huệ Minh

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20

Chúa Giêsu không ở trần gian mãi, đến kỳ hạn, Chúa Giêsu lại trở về cùng Cha bởi lẽ Ngài xuất phát từ Cha.

Trước khi chia tay với các môn đệ thân tín ở Galilê, ở cái ngọn núi mà các môn đệ được dặn trước và từ đó Ngài về Trời cùng Cha như đã loan báo. Ta bắt gặp lời trối trăng của Chúa Giêsu với các môn đệ rằng : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Thi thoảng, ta lại bắt gặp lời trăn trối đó và lòng ta lại “được” chất vấn trước lời trăng trối của Chúa Giêsu. Để sống đúng nghĩa và đúng chất với lời mời gọi của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Đơn giản là ta nhìn vào con số tỷ lệ giữa người Công Giáo và không Công Giáo tại Việt Nam và nhìn vào con số theo đạo Công Giáo tại Việt Nam thì ta sẽ rõ.

Hẳn nhiên vẫn có con số gia tăng vởi trẻ con của những gia đình có đạo cũng cất tiếng khóc chào đời để rồi được rửa hội và ta có thể gọi là rửa tội tự nhiên. Còn một thể thức rửa tội xem ra tự nhiên mà cũng không tự nhiên tí nào đó là phương thức rửa tội của những người dự tòng để lập gia đình với người bạn đời của mình. Tính như thế, ta sẽ thấy được con số thực của việc truyền giáo trong Giáo Hội ngày hôm nay.

Tỷ lệ người tự nguyện rửa tội chứ không phải tự nhiên ta ngồi nhẩm được bao nhiêu ? Và từ đó, ta lại nhìn lại cung cách sống của ta nhất là với lời mời gọi của Chúa.          Phải nói rằng, điều đầu tiên và căn cốt nhất để người khác không theo đạo, không thiển cảm mấy về đạo Công Giáo đó chính là cung cách sống của người Kitô hữu. Đức cố giáo hoàng Ðức thánh Phaolô VI đã nói rất thấm thía trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn các thầy dạy.  Nếu họ có nghe các thầy dạy là bởi vì thầy dạy cũng chính là chứng nhân”.

Và rồi, tư tưởng của Nathan Soderblum : ” Thánh nhân là những người có thể làm cho người khác dễ tin vào Chúa hơn”.

Thế đó, để người khác tin vào Chúa thì chỉ có duy nhất một con đường cho người Kitô hữu là phải sống, sống như thế nào để người khác tin rằng nơi mình có sự hiện diện của Chúa để rồi tự khắc người ta theo Chúa.

Nhìn vào thực tại truyền giáo tại Việt Nam chúng ta có điều gì đó lợn cợn. Lợn cợn bởi lẽ đã qua nhiều năm, nhiều cách thức, nhiều nẻo đường truyền giáo nhưng rồi ta lại thấy thu lượm kết quả không là bao và chính trong kết quả đó cũng không được có cái gì gọi là bảo đảm.

Thực tại ta thấy ngày hôm nay đó là cảm thức đức tin. Chính người Kitô hữu dù đã có Chúa Kitô, dù đã mang trong mình dấu ấn của Kitô rồi nhưng rồi lại không diễn tả một niềm tin Kitô ngay trong cuộc đời của mình. Và ta thấy vẫn còn cái gì đó, điều gì đó mang dáng dấp của cái nhãn, cái mác bên ngoài mà thôi.

Cái nhãn, cái mác đó dù đẹp, dù hay và thậm chí có dán tem như sản phẩm lan tràn ở thị trường ngày hôm nay làm cho ta nhiều suy nghĩ.

Thánh Giacôbê đã không ngần nại để nói thẳng rằng : “Ai bảo mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Ðức tin có thể cứu người ấy đợc chăng? Giả như có một người anh em hay chị em không có áo che thân, và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” ( Gc 2,14-15 ). Chính nhờ công việc, nhờ việc làm mà củng cố lời rao giảng.

Lời rao giảng, giới thiệu của Gioan tẩy giả về Chúa Giêsu trở nên đáng tin đến độ có những môn đệ của ông đã xin làm môn đệ của Chúa Giêsu. Bởi vì ông đã sống hết mình với sứ điệp ông rao giảng. Ông mời gọi người ta ăn năn sám hối đón đợi Ðấng Cứu Thế thì chính ông đã là mẫu gương của người sám hối, chờ mong. Nhìn nhận Ðấng Cứu Thế, ông tự làm cho mình trở nên bé nhỏ, từ chối những vinh dự mà dân chúng thời đó muốn suy tôn ông, để giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, cho những môn đệ của mình. Ông đã để cho môn đệ của mình đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu, một người lúc đó còn vô danh chưa ai biết đến.

Không phải tất cả chúng ta đều có điều kiện để giới thiệu, để rao giảng Chúa Giêsu cho người khác. Nhưng tất cả chúng ta đều có ơn gọi làm chứng cho ngài bằng đời sống của chúng ta, và bổn phận đó nằm trong tầm tay của chúng ta, từ em thiếu nhi cho đến cụ già. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận của mình với trách nhiệm làm người, làm con Thiên Chúa. Và khi chúng ta sống đúng đắn tư cách, bổn phận là người, là con Thiên Chúa, chúng ta đã trở nên chứng nhân cho Chúa , là ánh sáng cho thế gian.

Ta cần và cần lắm khi truyền giáo ngay chính gia đình của ta và gần hơn nữa là truyền giáo cho chính bản thân chai lỳ của chúng ta.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta làm mới con người chúng ta từ lời ăn tiếng nói, cách hành xử để rồi người khác nhìn vào chúng ta họ nhìn thấy một Thiên Chúa sống động đang ở trong chúng ta. Chính khi sống như thế, ta đã người truyền giáo rồi. Xin Chúa thêm ơn và chúc lành cho chúng ta.

Tác giả:  Huệ Minh

TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH SỐNG

TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH SỐNG

  LM Jos Tạ Duy Tuyền

Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại.  Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn.  Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ.  Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại.  Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.

Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua.  Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone…

Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên.  Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi.  Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói:  Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?

Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế.  Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?

Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.

Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.

Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình.  Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt.  Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn.  Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.

Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ?  Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu?   Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật…?

Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản thân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.

Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?

Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?

Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng.  Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế.  Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè.  Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm tin mừng.  Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa vào thế gian.

Trong bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.

Một chút những viên đá nhỏ hợƿ thành ngọn núi lớn

Một chút những bước chân đi xɑ về muôn lối

Một chút những ƿhút ủi ɑn dịu xoɑ ngàn nỗi sầu

Ϲhỉ một chút ƙhởi đầu tương lɑi sẽ đẹƿ màu

ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi

Ɲhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới

Một chút trong đời trở thành một chút thật tuуệt vời.

Ϲhắt chiu từng chút ấу cho đời nàу thêm sáng tươi.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi.  Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

LM Jos Tạ Duy Tuyền

Ðức Mẹ làm Gương việc Cầu Nguyện!

Ðc M làm Gương vic Cu Nguyn!

 Ðời Ðức Mẹ là đời cầu nguyện liên lỉ. Lúc thức lúc ngủ, khi vui khi buồn, không lúc nào Ðức Mẹ thôi hướng lòng trí về Thiên Chúa.

CAU NGUYEN

Hồi lên 3 tuổi, Người dâng mình trong đền thờ cho dễ đọc kinh cầu nguyện đêm ngày. Khi Sứ thần truyền tin cũng là lúc Ðức Mẹ đang cầu nguyện. Lúc Chúa Giêsu sống lại đến yên ủi Ðức Mẹ thì cũng là lúc Người đang cầu nguyện. Lại khi Chúa …

Thánh Thần hiện xuống thì Ðức Mẹ cũng đang cùng các tông đồ cầu nguyện nữa.

Thánh Augustinô nói: “Cầu nguyện là chìa khóa mở cửa thiên đàng”. Thánh Anphongso Ligoriô lại quả quyết: “Ai cầu nguyện, sẽ được rỗi linh hồn, ai không cầu nguyện, thì dễ mất linh hồn.” Bà thánh Têrêsa mẹ nói: “Ai không cầu nguyện thì tự mình đi xuống hỏa ngục, không cần ma quỉ nào đẩy nó vào”. Vậy, ta muốn cứu linh hồn mình thì phải noi gương Ðức Mẹ mà cầu nguyện. Cầu nguyện liên, cầu nguyện sốt sắng và theo ý ngay lành.

Buổi sáng ta hãy cầu nguyện, vì lời nguyện lúc này như là của nuôi linh hồn mạnh sức chiến đấu cùng ma quỉ và lập công. Buổi tối, trước khi ngủ ta hãy ép mình đọc kinh để cảm tạ Chúa đã ban ơn giúp sức ta làm việc cả ngày và cũng để xin Người gìn giữ hồn xác ta ban đêm nữa.

Lại mỗi khi gặp khốn khó như: Lúc đau yếu, khi bị ma quỉ cám dỗ khuấy khất, ta hãy đem lòng lên cùng Chúa và Ðức Mẹ. Cầu xin Người thêm sức cho ta được dùng mọi dịp để lập công.

Ôi! Biết bao người giáo hữu ngày đêm bê tha tội lỗi, mê tham của cải, công việc thế tục, lòng trí ra khô khan nguội lạnh không mấy khi nhớ đến Chúa. Ta hãy xét xem đã bao lần ta quên lãng việc đọc kinh cầu nguyện?. Ta hãy thực tình ăn năn và xin Chúa thứ tha.

Lạy Ðức Mẹ, xin Ðức Mẹ giúp chúng con noi gương Mẹ mà siêng năng đọc kinh lần hạt, để đời chúng con được tươi đẹp hơn mà sau này những kinh ấy sẽ kết thành triều thiên cho chúng con trên thiên đàng.

Thánh Tích
Hãy luôn chạy đến cùng Đức Mẹ

Hãy luôn chạy đến cùng Đức Mẹ, đó là câu tóm kết tất cả khoa thần học của Thánh Anphongsô, vị tiến sĩ Hội thánh, đó là trung tâm học thuyết tu đức của thánh nhân vậy.
Khi người đến tuổi già, không còn đủ trí nhớ để nhớ mình đã lần hạt Mân côi chưa, người vẫn hỏi thầy dòng coi bệnh:

– Hôm nay tôi đã lần hạt chưa thầy?

Một hôm thầy ấy nói với người:
– Thưa cha, bao nhiêu tràng hạt cha đã đọc dư ra hôm nay, con xin cha nhường tất cả cho con.

Đấng thánh liền tỏ vẻ mặt nghiêm trang và nói:
– Thầy đừng đùa, thầy không biết rằng phần rỗi đời đời của tôi là nhờ ở tràng hạt Mân côi ư?”

Đó là sự thật tỏ rõ như ban ngày: “Nếu ta luôn luôn chạy đến cùng Đức Mẹ, chắc chắn thế nào ta cũng rỗi linh hồn và nên thánh”.

KinhChaoMe DayOnPhuc

CHÚA SAI TÔI ĐI

CHÚA SAI TÔI ĐI

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ.  Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được?  Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất.  Thiếu phương tiện không có thể làm gì được.  Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

 Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường.  Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng.  Đó là thành phần ưu tuyển.  Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ.  Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng.  Đó là một đám đông không xác định.  Đó là tất cả mọi người giáo dân.  Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

 Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?

 – Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng.  Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa.  Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa.  Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa.  Ta phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội.

 – Thứ đến ta phải cầu nguyện.  Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước.  Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo.  Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa.  Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban.  Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa.  Ta hãy noi gương Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu.  Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín.  Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

 – Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa.  Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo.  Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình.  Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất.  Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa.  Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

 – Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người.  Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh.  Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh.  Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

 Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân.  Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo.  Mọi người đều có thể cầu nguyện.  Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa.  Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác

 Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

 Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

**************************************

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết vui mừng thấy triều đại Chúa mở mang thịnh trị.  Vẫn còn thiếu mặt nhiều thực khách nơi bàn tiệc thánh trong phòng Tiệc ly, dưới ánh sáng hoàng hôn ngày thứ năm Tuần thánh, mà Lời Chúa hôm đó mời chúng con đến dự.  Ngày mà nước Trung Hoa sẽ gia nhập đại gia đình Kitô hữu, để chung tiếng hát ca: “Hãy nâng tâm hồn lên.”  Ngày mà cả nước Ấn độ sẽ hát kinh Tiền tụng.  Ngày mà toàn cõi Châu Phi, trong đôi bàn tay đen, sẽ dâng hiến Bánh thánh tinh truyền.  Ngày mà dân Chúa không còn nạn lạc đạo ly khai, sẽ quy tụ trong một cuộc dâng lễ vĩ đại, đặt tâm hồn muôn vật hữu hình trên đĩa vàng tiếng dâng Chúa.  Ngày đó công cuộc Cứu độ của Chúa sẽ hiển hiện với đầy đủ sắc vẻ huy hoàng.  Lạy Chúa của con, Chúa đã dạy chúng con phải thương yêu anh em đồng loại, hôm nay Chúa cho chúng con nhận biết toàn thể loài người là anh em thật sự của chúng con.  Xin Chúa cho chúng con biết yêu mến nhân loại ruột thịt của chúng con, cách thành thật, tận tình.

 Pierre Charles

Nhiều Cơ Quan Thi Hành Luật Pháp phớt lờ các nhà phê bình – công khai trưng bày hay dán hàng chữ “ Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa”

Nhiều Cơ Quan Thi Hành Luật Pháp phớt lờ các nhà phê bình – công khai trưng bày hay dán hàng chữ “ Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa”.(In God We Trust)

Giuse Thẩm Nguyễn

 

Trong những tháng gần đây, rất nhiều cơ quan thi hành luật phát đã dán hoặc treo câu phương châm “Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa” trên các xe cảnh sát tuần tra, gây lên sự quan ngại trong giới phê bình.

Theo một tường trình mới đây trên tờ New York Times, rất nhiều cảnh sát đã tự bỏ tiền mua và dán câu phương châm này trên các xe tuần tra của họ.

“Nếu tôi dùng tiền của mình để mua câu phương châm và câu này cũng có trên là cờ của tiểu bang, thì tôi có thể trưng bày câu phương châm ấy trên xe tuần tra của tôi,” Cảnh sát tuần tra, Johnny Moats, thuộc quận hạt Polk, người đã viết thư cho cảnh sát Georgia để ủng hộ việc đặt câu phương châm này trên các xe của cơ quan công lực đã nói như thế. “Hầu như mỗi ngày, tôi đều nhận được điện thoại của các cảnh sát tuần tra khác và nói rằng ‘Tôi đã làm xong rồi, hay bạn có thể gởi cho tôi bức hình xe tuần tra của bạn có gắn câu phương châm không ?’

Nhưng việc phô bày câu phương châm này đã bị chỉ chích dữ dội, theo đài truyền hình Fox 7 ở Austin, Texas thì Trụ Sở Cảnh Sát Chidress là một trong 57 sở cảnh sát đã nhận được thư khiếu nại của cái gọi là Nhóm Quyền Tự DoTôn Giáo có trụ sở ở Winconsin , yêu cầu tháo bỏ bảng phô bày mang tính tôn giáo này.

“Chúng tôi lấy làm quan ngại từ phía những người không tín ngưỡng trong những cộng đồng nhỏ bé hơn, nơi đó họ cảm thấy bị xúc phạm,” Cô Annie Laurie Gaylor, người cầm đầu nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo nói với đài truyền hình Fox 7 như vậy. “Những tuần tra viên và cảnh sát này nghĩ rằng họ nghe theo lời hướng dẫn của Chúa hơn là luật công dân của chúng ta và điều này làm chúng tôi sợ hãi.”

Cảnh Sát Trưởng của Sở Cảnh Sát Childress là Andrian Garcia đã gởi văn thư trả lời tới các nhóm chống đối và đăng trên phương tiện truyền thông xã hội. Vị cảnh sát bảo các nhóm chống đối rằng “ hãy đi chỗ khác chơi.”

Theo báo New York Times thì hiện tượng này đang tăng dần. Cảnh sát viên và trụ sở cảnh sát bắt đầu phô bày những bảng châm ngôn, trong khi nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo cho rằng việc trưng bày châm ngôn là vi hiến và cần chấm dứt. Cuộc tranh chấp gây chú ý và càng lúc càng nhiều cơ quan thi hành luật pháp tham gia.

Nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo đã vô tình làm cho việc trưng bày phương châm lan rộng ra. Cô Gaylor thú nhận “Tôi không nghĩ chúng ta có thể làm được gì,”

Nguồn gốc của phương châm “In God We Trust”

“Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa” là câu châm ngôn của quốc gia Hoa Kỳ, được sinh ra và gắn bó mật thiết với bản quốc ca của Hoa Kỳ “The Star-Spangled Banner” được sáng tác vào năm 1814 bởi Francis Scott Key và chính thức được quốc hội thông qua và trở thành quốc ca Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 3 năm 1931 dưới thời Tổng Thống Herbert Hoover. Chính trong lời ca của bài quốc ca cũng nhắc tới câu châm ngôn này. Câu này đã được khắc trên đá, trên tường của những tòa nhà thuộc cơ quan công quyền, nó còn được in trên tiền giấy và đúc trên tiền cắc lưu hành qua khắp nơi. Câu châm ngôn này cũng được khắc vào trong tim và được thốt lên từ miệng của hàng triệu người Mỹ yêu chuộng tự do. Khi một vị Tổng Thống hay một vị quan chức chính quyền nhậm chức, theo truyền thống họ đặt tay trên Thánh Kinh để tuyên thệ và trung thành với châm ngôn quốc gia “Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa.”

Những người Việt Nam khi mới đặt chân tới ngưỡng cửa Đại Học Cộng Đồng đều được học bài học đầu tiên này. Người Mỹ đến vùng đất này không phải vì lý do kinh tế, nhưng vì lý do tín ngưỡng. Niềm tin của họ bi bách hại và họ đến đây để được tự do sống với niềm tin của mình. Hằng năm, họ tạ ơn Thiên Chúa qua lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), họ tổ chức mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh (Christmass), họ kỷ niệm ngày Chúa chịu chết và sống lại bằng Lễ Phục Sinh (Easter)…

Qua thời gian, giữa một cái xã hội càng ngày càng xuống dốc về luân lý, có những kẻ vô thần đã muốn xóa bỏ câu châm ngôn đó nơi công cộng và cùng với chính sách mị dân của các viên chức dân cử, chúng đã thực hiện được vài yêu sách như chúng muốn.

Hôm nay phong trào dán, trưng bày câu phương châm trên các xe cảnh sát chỉ là sự về nguồn. Khi mà những nhân viên cảnh sát không chắc là mình có thể trở về nhà an bình sau một ngày công tác, thì họ còn biết trông cậy vào ai bây giờ… dĩ nhiên chỉ có Thiên Chúa mới chính là câu trả lời cho tất cả những vấn nạn trong đời họ.

XÂY NÚI CÚI ĐỂ LÀM GÌ ?

XÂY NÚI CÚI ĐỂ LÀM GÌ ?

 Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Được biết  ở một địa phận kia bên nhà, người ta đang có chương trình vĩ đại là xây NÚI CÚI tốn phí đến cả ngàn tỷ đồng VN để lôi cuốn du khách đến viếng thăm và cũng để chào mừng Đức Thánh Cha sẽ sang thăm Viê t Nam trong năm 2016 theo sự tưởng tượng vô căn cứ của họ.

Chúng ta nghĩ gì về công trình lớn lao mang tính chất phô trương  bề ngoài  trên đây  ?

Trước hết, phải hỏi xem Chúa và Đức Mẹ  có hài  lòng  được tôn thờ và tôn vinh với công trình hoành tráng và tốn phí trên hay không ?

Chắc chắn là không, vì Chúa chỉ muốn ngự trị trong tâm hồn của những ai thành tâm yêu mến Người,  chứ không vui thích  được tôn thờ ở những nơi sang trọng lộng lẫy bề ngoài. Vì thế  xưa kia,  để trả lời cho một phụ nữ Samaritana kia nói với Chúa rằng  “cha ông chúng tôi đã thờ phương Thiên Chúa  trên núi này”,   Chúa   Giêsu đã nói như sau:

  Nhưng giờ đã đến- và chính là lúc này đây-

Giờ những người thờ phượng đích thực

Sẽ thờ phượng  Chúa Cha trong thần khí và sự thật

Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. ( Ga 4: 23)

Về phần Đức Mẹ -vốn khiêm cung  và khó nghèo-, cũng sẽ không vui thích  được tôn vinh với công trình quá tốn phí bề ngoài như thế.

Do đó,  đáng lẽ phải xây đền thờ, xây  NÚI CÚI trong tâm hồn của mọi tín hữu cho Chúa và cho Đức Mẹ ngự trị, chứ không nên xây phô trương  bên ngoài cho thiên hạ chiêm ngưỡng để hãnh diện với họ về khả năng tài chính phong phú của mình, trong khi  thực tế, giáo dân  nhiều người còn túng thiếu, khó khăn với việc sinh sống, nên không có tiền để đóng góp vào công trình quá tốn kém này.

Nhu vậy, nếu dùng tiền xây cất quá tốn phí này để trợ giúp cho người nghèo khó thì chắc chắn hữu ích và có lợi hơn cho việc phúc âm hóa, tức mở mang Vương Quốc tình yêu, công bằng , bác ái và thánh thiện của Chúa trong tâm hồn mọi người để đánh tan bóng đen của  tội lỗi và sự dữ  gây ra  bởi  “văn hóa sự chết” đang bao phủ thế giới và tâm hồn của quá nhiều người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân, và vô nhân đạo ngày nay. Văn hóa sự chết thể hiện rõ nét ở lối sống tôn thờ tiền bạc của cải vật chất, tôn thờ khoái lạc ( hedonism) sa hoa ngạo nghễ và dửng dưng trước sự nghèo đói, đau khổ của biết bao người xấu số, nạn nhân của mọi bất công xã hội ở khắp nơi,

Như thế, thử hỏi :  việc xây công trình lớn lao trên  có cần thiết, có làm vinh danh Chúa, Đức Mẹ và có  lợi gì  cho mục tiêu tái  Phúc Âm Hóa -hay ngược lại-  là  phản  Phúc Âm hóa ( anti-re evangelization) của giáo hội địa phương ?

Phải nói ngay là không có lợi gì cho mục đích mở mang Nước Chúa vì thực chất sa hoa hào nhoáng bề ngoài không phù hợp với tinh thần nghèo khó mà Giáo Hội  phải sống  từ trong tâm hồn ra đến hành động bên ngoài để làm chứng tá  cho Chúa Kitô, Đấng đã nghèo khó đến nỗi   không có  chỗ tựa đầu, trong khi chim trời có tổ, cáo chồn có hang.” ( Mt  8: 20)

Chúa Kitô  đã thực sự  khó nghèo, sống lang thang như người vô gia cư ( homeless) trong suốt cuộc đời tại thế, từ lúc sinh ra trong hang bò lừa cho đến ngày chết trần trụi trên thập giá  chỉ vì muốn cho con người được cứu độ và vui hưởng sự sang giầu đích thực  của Nước Trời.

Trong bài giảng trên núi, Chúa đã nói rõ : “phúc cho ai có tình thần nghèo khó, vì  Nước Trời là của họ.”( Mt 5: 1)

Phải có tinh thần nghèo khó để không làm nô lệ cho tiền của khiến tôn thờ tiền bạc  ( cult of money)  như Đức Thánh Cha Phanxicô đã  phê bình thế giới tục hóa ngày nay. Phải có tinh thần nghèo khó để khinh chê những của cải phù du, nhứng tiện nghi sa hoa và hào nhoáng  ở đời này để dễ  nâng tâm hồn lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quí giầu sang và hạnh phúc đích thực..

Phải khó nghèo thực sự để không lãng phí tiền bạc vào những việc mà thực chất chỉ là phô trương , hào nhoáng bề ngoài , tuyệt đối không có lợi gì cho việc rao giảng Tin mừng của Chúa Kitô trong hoàn cảnh xã hội đầy bất công với  đa số người dân-trong đó có  những giáo dân-còn nghèo nàn , chật vật với cuộc sống  bên cạnh môt thiểu số sang giầu tư bản đỏ và  đai gia  không hề có chút cảm thông bác ái đối với đa số quần chúng nghèo khó,  thấp cổ bé miệng, nạn nhân của bất công bóc lột

Trong một hoàn cảnh xã hội như vậy, người Tông Đồ của Chúa Kitô phải  đứng về phía những người nghèo khó theo gương Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô đang là chứng nhân hùng hồn, hay  đứng về phía những đại gia  và tư bản đỏ để thi đua với họ về  giầu sang hào  nhoáng bề  ngoài với những thánh đường lộng lẫy, nhà xứ và tòa giám mục sang trọng -và đặc biệt là xây NÚI CÚI tốn phí hàng  ngàn tỷ  đồng , một việc làm hoàn toàn không cần thiết để phúc âm hóa môi trường.

Rao giảng Chúa Kitô khó nghèo mà không sống khó nghèo thì sẽ không thuyết phục được ai tin lời mình giảng dạy, nếu không muốn nói là làm trò cười cho họ.

Nói khác đi, thi hành mục đích   tái phúc âm hóa thế giới mà Giáo Hội đã  kêu gọi từ mấy năm nay  có cần đến công trình xây cất quá tốn phí  kia  hay không , hay đây chỉ là sự phô trương  không cần thiết vẻ hào nhoáng bề ngoài, một việc hoàn toàn trái nghịch với tinh thần và đời sống  khó nghèo của Chúa Kitô, “  Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự  ý trở nên khó nghèo vì anh  em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh  em trở nên giầu có,” ( 2 Cr 8: 9)

Nếu Giáo Hội mà không sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô thì sẽ là nhân chứng cho ai ?  cho khát vọng được giầu sang phú quí đich thực trên Nước Trời hay cho sự sang giầu phù phiếm  chóng qua ở đời này ?

Lại nữa, việc làm trên cũng đi ngược lại đường lối sống và mục vụ  của Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã chọn Thánh Phanxicô khó khăn thành Assisi làm khẩu hiệu cho triều đại Giáo Hoàng của mình. Chắc chấn ngài sẽ không hài lòng về công trình phô trương quá  tốn kém trên  mà người ta đang phóng đại trí tưởng tượng về việc ngài sẽ sang  thăm ViêtNam trong năm 2016 để  moi tiền đóng góp của giáo dân trong và ngoài nước.

Và nếu quả thực Đức Thánh Cha sẽ sang thăm Viêt Nam như người ta đang  tưởng tượng vô căn cứ, thì chắc chắn ngài sẽ không đến chiêm ngưỡng NÚI CÚI mà sẽ đến thăm nhừng tù nhân, những người già yêu không có ai săn sóc và những trẻ mồ côi, khuyết tật, là những thành phần xấu số trong mọi xã hội mà ngài ưu tiên quan tâm đến họ, vì Chúa Kitô nghèo khó đang hiện diện trong những người xấu số này.

Vì thế, là nhân chứng cho Chúa Kitô khó nghèo, và là cộng sự viên đắc lực của Đức Thánh Cha yêu thương người nghèo, sống giản dị khó nghèo,  mọi người có trách nhiệm phục vụ cho Dân Chúa trong Giáo Hội phải sống tinh thần khó nghèo của Chúa và  gương mẫu phục vụ của Đức đương kim Giáo Hoàng để đời sống và việc làm của minh không mâu thuẫn với lời mình rao giảng cho người khác. Có như vậy thì việc phúc âm hóa, hay tái phúc âm mới có kết quả tốt đẹp mong muốn.

Ngươc lại, cứ lo xây nhà thờ cho sang cho đẹp, xây tượng đài tốn phí để phô trương và là lý do  để tiếp tục thi nhau ra nước ngoài xin tiền cho những nhu cầu bất tận,  thì mục tiêu phúc âm hóa sẽ không  bao giờ mang lại kết quả nào, nếu không muốn nói là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Trống đanh xuôi kèn thổi ngược vì trong khi giáo dân nhiều người còn nghèo túng, giữa một xã hội  đầy bất công và tụt hậu thê thảm về luân lý đạo đức, mà Giáo Hội lại kiêu hãnh với   những công trình hoành tráng , quá tốn phí như xây NÚI CÚI thì   quả thật là một mỉa mai trơ trẽn, một thất bại trông thấy  cho mục tiêu phúc âm hóa của giáo hội địa phương.

Ở những quốc gia giầu có như Hoa Kỳ, Canada, ÚC Châu, Pháp, Đức, ..người ta cũng không phô trương hào nhoáng với những công trình xây cất đồ sộ. Vậy tại sao ở một nước còn nghèo và lạc hậu như Viêt Nam mà giáo hội địa phương lại ngạo nghễ với công trình xây cất quá tốn phí  như  vậy, mà thực chất chỉ để phô trương  sự  phồn thịnh của giáo hội địa phương và phản tác dụng cho mục tiêu phúc âm hóa môi trường để mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin Chúa Kitô dể được cứu rỗi. Đây phải là sứ vụ quan trọng nhất của Giáo Hội ở khắp nơi.

Tại hại hơn nữa, việc xây cất kia còn vô tình đánh bóng cho chế độ cai trị, vô tình biện  minh  là có tự do tôn giáo, nên mới có công trình lớn lao tốn phí như vậy,  trong khi thực tế Giáo Hội  vẫn còn tiếp tục bị hạn chế  về  tự  do hành đạo , chưa đáng  được tiếp tay tô điểm qua việc làm phô trương hào nhoáng trên đây.

Đáng lẽ, cần thiết hơn cả là xây dựng niềm tin vững chắc trong lòng  người tín hữu  được trao phó cho mình coi sóc, để giữa một xã hội tụt hậu thê thảm về  luân lý đạo đức, họ sẽ là chứng nhân hùng hồn cho Chúa Kitô bằng đời sống công bình, yêu mến sự thiện hảo  và khinh chê sự giầu sang  hợm hĩnh  của những người không có niềm tin Chúa nên chỉ biết vơ vét của cải để làm giầu,  bất chấp công bình bác ái và nhân đạo.

Thêm vào đó, một nhu cầu quan trọng không kém là  đào  tạo hàng giáo sĩ cho có chiều sâu thực sự để họ biết  phục vụ hữu hiệu  và công bình trong thực tế. Cụ thể, phải  sửa đối cách phục vụ  để không bất công với người nghèo, không cho họ mang xác người quá cố vào trong nhà thờ, không cho cả thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ tang;  trong khi cho xác người giầu được đem vào trong nhà thờ và cho nhiều linh mục được đồng tế trong lễ tang,  như có nhân chứng đã kể lại.

Một điều bất công đáng nói nhất là ở các giáo phận bên nhà cho đến nay, các  linh mục chánh hay phó  xứ không được trả lương tối thiểu đồng đều, nên người coi xứ giầu thì được giầu có theo, coi xứ nghèo thì thiệt thòi hơn. Vì thế, mạnh ai nấy tìm cách ra nước ngoài để xin tiền cho những nhu cầu bất tận.

Thử hói giám mục có kiểm soát được các linh mục của mình ra nước ngoài xin tiền hay không , và có biết các linh mục kiếm được bao nhiêu tiền và đem về chi tiêu cho mục đích gì ?

Nếu không biết thì vô tình vẫn làm ngơ cho giáo sĩ, tu sĩ của mình thi nhau ra nước ngoài kiếm tiền bỏ túi hay chi phí cho những mục đích không ai biết.Chúa nói :   anh  em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.” ( Lc 16: 13)

Lời Chúa trên đây phải là đèn soi bước đi cho hàng giáo sĩ và tu sĩ cách riêng  ở khắp nơi trong Giáo Hội .Không ai có thể dạy cho người khác điều mà chính mình lại không sống để làm gương, và như vậy sẽ trở thành phản chứng thay vì là nhân chứng trung thực cho Chúa Kitô, Người  đã  nói:   ai có tai nghe thì nghe.” ( Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 8: 8).

Tóm lại, Giáo Hội không thể rao giảng hữu hiệu Chúa Kitô khó nghèo cho ai nếu đời sống và việc làm của mình lại mâu thuẫn với điều mình giảng dậy cho người khác.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

“Tình là một chuyện muôn màu”,

“Tình là một chuyện muôn màu”,
Tình là mình hạnh phúc thật mau
Tình là một bài thơ sầu
Tình là một niềm nhớ thương nhau.”

(Văn Phụng – Tình)

Trần Ngọc Mười Hai

(Phil 1: 7-10)

“Là bài thơ sầu”, “là mình thành nhớ thương nhau”, sao? Phải chăng, đó là thứ “Tình” của người mình, còn đó rất nhớ thương? Trả lời câu ở trên, bần đạo xin thưa như thế này:

Hồi còn nhỏ, bần đạo thích được các anh chị dắt đi phố Lê Lợi Sàigòn và cứ dừng lại xem chàng trai nọ đứng ở góc phố cứ chìa 3 cây bài “Tây-Đầm-Xì” tráo qua/tráo lại rất nhanh rồi đố người đi đường xem cây “Xì Cơ” trốn đâu rồi? Bần đạo đây, nghĩ mình tinh mắt bèn chỉ vào chỗ nó vừa hiện rõ mồn một, nhưng khi chàng trai lật cây bài ra xem, mới thấy trật-lấc, thế mới chết.

Kịp khi lớn lên, bần đạo lại cũng gặp một tay ảo-thuật sừng sỏ khác, là Lm Tiến Lộc CSsR chuyên làm trò tiểu xảo, cũng chìa ra cho mọi người xem nguyên bộ bài “cào”, xào qua/xào lại rồi bảo bé em gần đó rút bất cứ cây nào đưa cho ông để bỏ vào giữa. Bần đạo khi ấy lại thấy có em bé rút được cây “Xì cơ” rồi lật úp đưa cho nhà ảo-thuật tìm. Chẳng biết ảo-thuật-gia Tiến Lộc xào xáo thế nào rồi chìa cho người rút đúng cây bài giấu kín, là cây “Xì cơ” có trái tim cũng rất tình.

Kể chuyện trên, bần đạo muốn nói lên rằng: “Tình người” đầy trữ-tình gồm tóm nơi cây “Xì cơ” dù có là “chuyện muôn mầu”, “thơ sầu”, hoặc bài cào sao đó, vẫn là chuyện của người đời, rất mọi thời.

Kể thế rồi, nay bần đạo đây lại mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp câu hát khác, lại vẫn bảo:

“Tình đẹp tựa mùa thu vàng,

Tình mình nhiều mộng ước miên man.

Tình là một chuyện huy hoàng,

Tình mình là thành nhớ hoang mang.

Yêu nhau khi xuân tươi thắm,

Yêu nhau trong tiếng ca tiếng đàn.

Yêu nhau trong muôn tia nắng,

Yêu nhau trong ánh trăng mơ màng.

Yêu nhau khi sương thu rơi,

Yêu nhau khi hoa lá xanh tươi.

Yêu nhau khi mưa đông rơi,

Yêu nhau Yêu nhau mãi suốt đời.”

(Văn Phụng – bđd)

Có là chuyện gì đi nữa, thì “Tình Người” vẫn là thứ tình đời lúc này lúc khác, rất khác biệt. Có lúc, nó là tình-tự giữa hai người, mà thôi. Có khi, nó lại là thứ tình-tiết của hết mọi người, gửi đến muôn người. Có lần, nó lại là thứ tình phải có như người nhà Đạo vẫn bảo con dân dưới trướng, ở muôn nơi.

Là tình Đạo hay tình đời, cũng vẫn là giòng chảy tình người ở dưới thế, khác với tình của động/thực-vật xinh tươi, bền muôn kiếp.

Tình nhà Đạo hôm nay, gặp lúc có nhiều người thắc mắc hỏi han, để bề trên truyền-tải một định-nghĩa khá chắc nịch.

Nói về “tình muôn mầu” ở nhà Đạo, vừa qua bần đạo lại hân-hạnh được “dự giờ” buổi học tập/bàn luận về chi-tiết nghe hơi lạ. Nay, ghi lại đôi giòng để bạn và tôi, ta san sẻ cho nhau. Sẻ san, bằng những câu/những lời lẽ nghe mãi vẫn không quên/không chán. Chán và quên sao được, khi câu chuyện này lại liên-quan đến mọi người và chính mình.

Thế nên, trước khi đi vào chi-tiết về những tình-tự, mời bạn/mời tôi, ta thử bước vào vườn hoa truyện kể để minh-hoạ, cho nhẹ nhõm.

Truyện rằng:

Đệ tử đi một lúc lại quay lại hỏi Sư Phụ

“Một người đang có bà vợ xinh đẹp, nay bảo người ấy nhường vợ lại cho con có được không?”

Sư phụ trả lời “Không được!”

Đệ tử: “Tại sao?”

Sư phụ: “Vi` nếu được thì ta đã xin nhường trước rồi”.

Đệ tử chới với: “Vậy thì` phải làm sao?”

Sư Phụ điềm tĩnh nói “Con hãy kiếm một cô trinh nữ xinh đẹp hơn để xin hoán chuyển với vợ ông ta.”

Đệ tử suy nghĩ một lúc rồi nói “NO, NO, NO…Bộ tui ngu sao sư phụ?”

Sư phụ: “Thê’ thi` mày là Sư Phụ tao rồi. Dẹp đi con!”

Truyện kể rồi, nay ta đi vào vấn-đề chính là “Tình” của con người trong đó có phần diễn ý như sau:

“Về lịch-sử, và trên thực-tế vẫn thế, giòng đời nhân-loại thấy biến-hoá thứ tình người diễn-biến giữa hai nhân-vật mà Tạo-hoá đã tác-thành, là tình mẹ cha, tức tình mẫu tử và phụ-tử.

Dựa trên nền-tảng này, nhiều nền văn-minh/văn-hoá khác nhau lại đã dựng-xây đời người ở trong đó. Đây, không là chuyện ngẫu-nhiên, huyễn-hoặc mà là cung-cách thực-thụ mà thiên-nhân/vạn-vật đã tìm thấy cho chính nó. Chính phát-xuất tự thứ tình khác-biệt của mẹ cha, mà sự sống của trẻ nhỏ đã xuất-phát và san-sẻ.

Rồi từ đó, tình người phát-triển liên-hồi biến thành thứ tình khác phái này nọ nơi cung lòng của con người ở mỗi phía. Chính từ đây, nảy sinh sự khác-biệt và/hoặc tương-tự ở con người. Là người, mỗi phái-tính hoặc mỗi phía/mỗi bên đều giống nhau vì cùng là con người và cũng khác-biệt nhau qua tư-cách của con người.

Trước nhất, con người tăng-trưởng là do tình người thân-thương nơi tính-chất giống nhau, rất tương-tự về phái-tính, tức thứ tình cùng phái vẫn là chuyện tự-nhiên khi con người thương yêu/mến mộ nhau vì thấy người khác lại cũng giống như mình. Và rồi, theo bản-năng, lại cũng ghét bỏ các khiá-cạnh nào đó khác-biệt mình.

Thành thử, ngay từ buổi đầu đã thấy xuất-hiện sự thể các người anh/người chị một phần nào được xã-hội-hoá cả về tình thương. Con người thời đầu sống theo đoàn-lũ/đám đông, và rồi đoàn ấy lại giết đi vị lãnh-tụ (tức bậc cha/chú) để thay thế. Rồi từ đó, phóng ngoại thuyết tự kỷ của Narcisse chuyên chiêm ngắm nét đẹp của bản thân. Chỉ vào thời sau này, trong lịch-sử nhân-loại, mới có mối tình giữa người khác phái, đã trồi lên. Ở tình này, hàm-ẩn thứ tình-tự mà tiếng Đức gọi là “Aufhebung” (tức tình đậm sâu) xuất khỏi tình tự-kỷ rất Narcisse.

Tình khác phái, lại mới mẻ và chế-ngự thứ tình cùng phái tính, Nhưng, vẫn không hoàn-toàn loại bỏ nhau, dù nhiều người có cảm-giác là mình từng có hoặc phải làm như thế. Đây là thứ tình nào đó cần diễn-tả cho đủ sắc-thái, rất mỹ-miều.

Từ đó đã thấy rằng: Tình gia-đình như ta biết, chỉ phát-triển vào giai-đoạn muộn-màng từ “tình người khác phái” vốn phát-triển cũng khá chậm. Thành thử, tình mẹ/cha cũng như tình mẫu tử và phụ-tử đều ra như thế. Muốn hiểu biết về tình này, cần hiểu rõ tình phu-phụ là tình có cam-đoam/cam-kết sống cả đời. Đây, là cung-cách để ta tiếp-cận những gì khác-biệt với ta, vượt quá cuộc sống ngắn-ngủi của con người. Điều này còn có nghĩa: đây là phương-cách giúp ta giáp mặt được sự chết cũng như sự sống, rất khác-biệt.” (Xem Lm Kevin O’Shea CSsR, Between two wars, Australian Catholic University Workshop 22/8/2015, tr. 6)

Cuối cùng thì, có đồng ý hay không với thứ “Tình” muôn mầu/muôn sắc rất con người như thế không có nghĩa là: con người của ta sẽ cứ trẻ mãi/không già. Thế nên, lại có thắc-mắc những hỏi rằng “Tình người”còn giữ mãi muôn mầu/muôn sắc hay không, khi về già? Đó là đại-ý của nhận-định ở bên dưới, vốn dĩ cho thấy các sắc mầu thực-thụ của tình người khi về già như sau:

“Khi ta già, không phải già về hình dáng, tuổi tác mà già về nhận thức. Ta dần dần vô cảm với những vui buồn của cuộc sống, với những cuộc gặp gỡ, chia tay vì ta nhận ra đó là những vô thường của cuộc đời, thoáng đến rồi thoáng đi!

Khi ta già, ta không còn những ham muốn của trẻ con, thay vì muốn nổi trội, muốn người khác công nhận thì ta lại muốn tự mình thừa nhận chính mình!

Khi ta già,ta không còn thích so sánh mình với những người khác vì ta hiểu mỗi người luôn có những ưu, khuyết điểm khác nhau, ta sống thật với những suy nhĩ, cảm xúc của mình vì ta hiểu chỉ có ta mới biết ta muốn gì và ta cần gì trong cuộc sống này.

Khi ta già, ta không còn thích chạy theo những mối tình chóng đến, chóng đi, ta luôn muốn tìm một ai đó hiểu mình, một bàn tay luôn nắm lấy tay ta trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Khi ta già, ta không còn dùng từ ‘nếu mà, giá mà…’ vì ta hiểu có những thứ trong cuộc sống đã xảy ra thì không thể quay ngược thời gian lại, và ta phải chấp nhận, đối mặt với nó.

Khi ta già, ta không còn thích tranh luận vì những quan điểm sống khác nhau, vì ta hiểu mỗi người luôn có một đời để sống, ai cũng có quyền chọn lựa và đi những con đường khác nhau, chỉ cần mỗi chúng ta phải có trách nhiệm  với những gì chúng ta đã chọn và con đường đó không gây ảnh hưởng xấu tới ai.

Khi ta già, ta không nên vội đánh giá một người là xấu hay tốt, đúng hay sai, mà ta hiểu trước tiên là phải nhìn lại mình đã tốt hay chưa, đặt mình vào hoàn cảnh người khác, và ta nên nghĩ ta có quyền phê bình người khác hay không khi mà bản thân ta chưa thật sự tốt?

Khi ta già, nhìn thấy những lỗi lầm của người khác, ta không còn chê trách, chế diễu mà cảm thấy thương họ nhiều hơn và luôn muốn tìm cách giúp họ chuộc lại lỗi lầm. Và chính họ là những là những tấm gương giúp chúng ta phản chiếu, cảnh tỉnh lại chính mình!

Khi ta già, ta chợt nhận ra ý nghĩa của những cuộc gặp gỡ, chia tay, những mất mát, thất bại, thành công trong cuộc sống đều có ý nghĩa riêng của nó!

Khi ta già, ta càng nhớ về quá khứ, trân trọng những kỷ niệm đẹp mà ta đã có, những tình thương yêu mà người khác dành tặng cho ta, ta chợt nhận ra  đã có một thời  vụn vặt, trẻ con; nhìn lại những nỗi buồn với tâm trạng bình thản hơn.

Khi ta già, ta không còn dùng những từ ‘để mai nhé, để sau này’ vì ta hiểu cuộc sống nay không ai biết trước những gì mà ngày mai sẽ xảy ra, và ta sẽ trân trọng hơn những giây phút của hiện tại.

Khi ta già, ta không còn hứa nhiều như trước và không nên hứa khi ta chưa chắc đã giữ được lời hứa đó hay không vì ta hiểu mỗi lời hứa có thể mang lại hy vọng, niềm vui cho ai đó cũng như những nỗi buồn, thất vọng cho họ nếu những lời hứa không được thực hiện.

Khi ta già, ta chợt thấy bình yên khi nhìn nụ cười trẻ thơ,vẻ đẹp trong sáng mà một thời ta cũng vậy. Ta thích ngắm nhìn ngày mới lớn lên, những giọt sương đọng lại trên lá, những bông hoa mới nở, những tia nắng nhạt dần khi hoàng hôn buông xuống.

Khi ta già, ta thầm cám ơn những gì cuộc sống ban tặng cho ta, tình cảm thiêng liêng của gia đình, bạn bè, những người luôn nâng đỡ ta vượt qua những chông chênh của cuộc đời; những thất bại, khó khăn làm ta ngày một trưởng thành. Những người cần sự giúp đỡ của ta giúp ta thấy cuộc sống mình ngày càng ý nghĩa hơn!

Và khi ta thật sự già, ta biết rằng hạnh phúc là cho đi chứ không phải là nhận; yêu thương một ai đó là làm cho họ hạnh phúc, không phải là chiếm hữu. Ta nhận ra mỗi con người đều có những lỗi lầm riêng của mình. Và ta hiểu, tha thứ, khoan dung cho người khác cũng chính là tha thứ, khoan dung cho chính mình. Ta yêu hơn cuộc sống này, yêu thương mọi người cũng như yêu thương chính bản thân ta.”

Như thế là, già đâu không biết, chỉ biết có một điều, rằng: tình người, tình ta và tình của mọi người đối với nhau, sẽ không bao giờ già cả. Đó, là ý-tứ trổi-bật được người viết nhạc, ghi lại những giòng chảy đầy thương yêu rất hết tình, như ở dưới:

“Tình là một chuyện âu sầu
Tình là mình nhiều nỗi thương đau
Tình là một chuyện chia lìa
Tình là mình thổn thức -dêm khuya
Tình đẹp tưạ mùa thu vàng
Tình là mình lệ ướt rơi tuôn
Tình là một chuyện đau lòng
Tình là mình mỏi mắt chờ trông

Yêu nhau chi cho thương nhớ
Yêu nhau chi khiến đôi mắt mờ
Yêu nhau sao không đi tới
Yêu nhau sao đã quên nhau rồi
Yêu nhau chi cho tan mơ
Yêu nhau chi cho mắt hoen mờ
Yêu nhau chi cho thương đau
Yêu nhau chi cho mãi âu sầu.”

(Văn Phụng – Tình)

Tình người, thật ra cũng chẳng “âu sầu mãi” đâu. Bởi, khi đã “yêu nhau (rồi) sao (ta lại) không đi tới?”. Và, khi đã “yêu nhau (rồi) sao (cứ) quên mau?” Phải chăng, là vì quên-lãng nên người nghệ sĩ hôm nay mới nhắc nhở bằng câu hát:

“Đành rằng tình là âu sầu,
Đành rằng tình là nhớ là đau.
Đành rằng tình là chia lìa,
Đành rằng tình là khóc đêm khuya.
Đành rằng tình là ..đau buồn,
Đành rằng lệ mình ướt rơi tuôn.
Đành rằng tình là ..đau lòng,
Đành rằng tình là mãi chờ mong.
Nhưng sao ta mơ yêu mãi,
Nhưng sao ta vẫn thương nhớ hoài.
Mơ yêu đương trong tia nắng,
Say sưa trong ánh trăng mơ màng.
Bâng khuâng khi sương thu rơi,
Cô đơn khi hoa lá tơi bời.
Lang thang khi mưa rơi rơi,
Mơ yêu đương mơ mãi suốt đời……

(Văn Phụng – Tình)

Phải chăng, đó lại là và vẫn là thứ “Tình” cũng rất người, ở ngoài đời? Thế thì, tình người ở nhà Đạo, sẽ ra sao? Trả lời câu này, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên tìm vào vườn hoa đầy thứ tình ở Kinh Sách rất trong Đạo có những lời nhủ khuyên, như sau:

“Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em,

đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi.

Khi tôi bị xiềng xích,

cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng,

anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được.

Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi:

tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả,

với tình thương-yêu của Đức Kitô Giêsu.

Điều tôi khẩn khoản nài xin,

là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào,

khiến anh em được ơn hiểu biết

và tài trực giác siêu nhiên,

để nhận ra cái gì là tốt hơn.”

(Phil 1: 7-10)

Nghe lời nhủ khuyên như thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hăng say hát lại và hát mãi lời người nghệ-sĩ vẫn hát những ý/lời sau đây:

“Tình đẹp tựa mùa thu vàng,

Tình mình nhiều mộng ước miên man.

Tình là một chuyện huy hoàng,

Tình mình là thành nhớ hoang mang.

Yêu nhau khi xuân tươi thắm,

Yêu nhau trong tiếng ca tiếng đàn.

Yêu nhau trong muôn tia nắng,

Yêu nhau trong ánh trăng mơ màng.

Yêu nhau khi sương thu rơi,

Yêu nhau khi hoa lá xanh tươi.

Yêu nhau khi mưa đông rơi,

Yêu nhau Yêu nhau mãi suốt đời.”

(Văn Phụng – bđd)

Vâng. Cứ thế, mà yêu nhau. Yêu mãi yêu hoài thật đậm sâu, rất dài lâu. Yêu thế rồi, tự khắc sẽ thấy niềm vui lây lan đến với mọi người ở đời. Hết mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn nói lên

những lời yêu đương ấy

với chính mình.

Và mọi người.