NAY ANH MAI TÔI

NAY ANH MAI TÔI

LỄ CÁC LINH HỒN

Kn 3, 1-9; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37-40

Tác giả:  Huệ Minh

Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ. Đứng bên đây thánh đường ngó bên kia thánh đường là những người thân thương trong giáo xứ đã ra đi trước chúng tôi. Không chỉ có nghĩa trang nhỏ bé này nhưng đâu đó ở các nghĩa trang và thậm chí đâu đó và tro cốt của ông bà cha mẹ của chúng ta vì có thể có những người xưa đã khuất nhưng không tìm thấy dấu vết bởi chiến chinh.

Nhìn những nấm mộ đó, nơi những người thân của ta nằm đó, ta lại nhớ đến phận người. Phận người vẫn không thể nào thoát khỏi cái định mệnh của kiếp người : sinh – lão – bệnh – tử. Phận người là thế đó như theo kiểu cách nói của cố nhạc sĩ họ Trịnh :

Con chim ở đậu cành tre,

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về trốn xa xăm cuối trời

Sương kia ở đậu miền xa

Con sáo ở trọ bao la đất trời

Nhân gian về trọ nhiều nơi

Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng

Mây kia ở đậu từng không

Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người

Tim em người trọ là tôi

Mai kia về trốn xa xôi cũng…gần

Mây kia ở đậu từng không

Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người

Môi xinh nở đậu người xinh

Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều

Xin cho về trọ gần nhau

Mai kia dù có ra sao cũng đành

Trăm năm ở đậu ngàn năm

Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn

Ơ hay là một vòng sinh

Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời

Phận người là thế, ở trọ để rồi cuộc đời khép lại sau cái chết.

Sau cái chết, tùy niềm tin của tôn giáo và gần hơn nữa là niềm tin của mỗi người khác nhau. Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết chỉ là khép lại cuộc sống trần gian để bước vào vương quốc vĩnh cửu.

Với Trịnh Công Sơn thì : “Người chết nối linh thiêng vào đời”.

Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp ta suy nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta.  Và: nay tôi, mai anh.  Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.

Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng, trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình.  Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết  sẽ xẩy ra cho mình.  Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta.  Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.

“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như vậy. Nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ…  Vì sợ người chết,  sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.

Có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”.  Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.

Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói : “Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.

Đồng quan điểm với ông  Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói : “Người chết mở mắt cho người sống”,  cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.

Ông Stephen Leacock nói : “Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm.  Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi.  Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc  quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới.  Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.

Khi ta nhìn thấy những nấm mồ ở nghĩa trang như muốn nhắc nhở ta : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh.  “Hôm nay” là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.

Nhưng còn chữ “Ngày mai” là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói : “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ).  Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.

Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết).  Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên.  Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả.  Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy  như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :

Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,

Thoát chốc mà già đã tới ngay

(Nguyễn Khuyến)

Dù cuộc sống cứ mãi trôi nhưng rồi thi thoảng ta phải  dừng lại lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức  nhận định một cách khách quan :

Tại sao tôi sống ?

Sống để làm gì ?

Chết rồi, ra sao ?

Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao !  Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.

Lẽ sống của người Ki tô hữu ngày hôm nay được làm rõ trong tất cả các bài đọc. Với tất cả lẽ sống đó, niềm tin đó ta lại hân hoan sống trong trần gian này với niềm vui, với niềm tin và hy vọng một ngày kia ta cũng sẽ đoàn tụ với cha ông chúng ta trên thiên đàng nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai mà Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.

Cuộc đời này rất ngắn và rất vội, Giáo Hội dành ra tháng 11 này cách đặc biệt để ta có dịp báo hiếu, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, những người đã khuất trước chúng ta. Và, cũng nhắc nhớ phận người của mỗi người chúng ta. Ngày nào đó, ta cũng phải trở về với tro bụi trong quy luật hạn hữu của con người nhưng chuyện cần thiết và quan trọng nhất là sống làm sao để mai ngày được ơn cứu độ.

Sống ở đời, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đại gia hay tiểu gia không phải là vấn đề. Không phải là vấn đề bởi lẽ ta thấy dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đó khi nhắm mắt lìa đời chỉ có vài mét đất như nhau mà thôi. Vì thế, chuyện cần và đủ cho cuộc đời của mỗi người đó là sau khi chết ta có được một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay không ?

Với phận con người mỏng dòn và yếu đuối để rồi ta lại cứ tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện cho những người đã khuất và cầu nguyện cho chính bản thân chúng ta để ngày mỗi ngày ta biết trút bỏ những gì không là cần thiết, những gì làm vướng víu không để ta thanh thoát về với Chúa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện và tín thác những người thân của ta trong tay Chúa cũng như cuộc đời của ta trong tay Chúa vậy.

Tác giả:  Huệ Minh

ĐỜI NGƯỜI CHIẾC LÁ

ĐỜI NGƯỜI CHIẾC LÁ

  LM Giuse Nguyễn Hữu An

Những ngày cuối tháng 10, Đất Thánh các Giáo xứ đông người đi tảo mộ.  Bên người thân yêu đang an nghỉ, con cháu, thân nhân thành kính đốt nến thắp nhang, hiệp thông cầu nguyện.

Mỗi chiều, tôi ra Đất Thánh của Giáo xứ cùng mọi người dọn dẹp cỏ rác, phát quang bụi rậm, sữa sang lễ đài, chuẩn bị cho ngày lễ các đẳng linh hồn.

Nhìn những chiếc lá vàng rơi rụng khắp Nghĩa Trang, tôi nghĩ về mùa thu, nghĩ về đời người và chiếc lá.

Nhớ bài thơ của thi sĩ Lưu Trọng Lư:

Em nghe không mùa thu.

Lá thu rơi xào xạc.

Con nai vàng ngơ ngác.

Đạp trên lá vàng khô.

(Tiếng thu)

Màu vàng của lá, màu úa của cỏ, nắng nhạt gió chiều là hình ảnh đặc trưng của mùa thu.  Mùa “chịu tang” của những chiếc lá vàng.  Ngồi nhìn lá rơi, mỗi chiếc lá chọn cho mình một cách “chia tay.”  Có những chiếc lá ra đi trong sự quằn quại khổ đau, dùng dằng bịn rịn như thể không muốn lìa cành; có những chiếc lá “hấp hối” loạng choạng buông mình cách nặng nề nghiêng ngả trên mặt đất.  Lại có những chiếc lá ra đi cách nhẹ nhàng trong dáng điệu thướt tha buông mình theo gió.  Những chiếc lá khác không bàng hoàng hối hả mà chậm rãi, thanh thản, an nhiên rơi mình trên thảm cỏ xanh như thể một bông hoa say trong giấc ngủ yên lành.  Một đời lá mong manh, chóng tàn phai rụng xuống.  Mới đó, lá còn xanh tươi, mà nay đã úa vàng lìa cành.

Đời người có khác chi một chiếc lá cuối thu.  Có những người ra đi trong bấn loạn, hối tiếc, khổ đau, nặng nhọc.  Lại có người ra đi về với cội nguồn một cách thanh thản nhẹ nhàng thanh thản.  “Lá rụng về cội.”  Lá rơi bên gốc cây.  Lá chờ đợi một quá trình sinh học để trở thành dinh dưỡng nuôi cây.  Lá góp thân xác tàn úa để trả ơn cho cây.  Đời lá ngắn ngủi mà đầy ý nghĩa nhân sinh.

Nhìn lá vàng rơi, ta nhớ lời Thánh Kinh: “Có thời sinh ra, có thời chết đi” (Gv 3,2).  Mỗi loài thụ tạo đều có thời hạn của nó.  Đời người như chiếc lá mỏng manh, ngắn ngủi.  Chỗ dựa trần gian chẳng an toàn vững chắc. Tiền bạc vật chất, bằng cấp, kiến thức, chức quyền đều chóng tàn phai.  Sức khoẻ, sắc đẹp hao mòn rồi rệu rã theo tuổi đời năm tháng.

Nhìn lá vàng rơi, ta nhận ra sự thật cay đắng nhất của đời người là sự chết.  Nó chẳng từ ai, chẳng thương tiếc ai.  Nó đến bất ngờ làm ta bang hoàng.  Phải bỏ lại tất cả mọi thứ ta gắn bó và gom góp suốt đời để ra đi với hai bàn tay trắng.  Cái chết của mỗi người là một chuyến đi cuối cùng.  Một chuyến đi quyết định và quan trọng.  Một chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.  Một chuyến đi một vài tuần về thăm quê nhà, một chuyến đi nghỉ hè đôi ba ngày… tôi đã phải sắp xếp chuẩn bị nhiều ngày, có khi nhiều tuần ….  Nhưng tôi đã chuẩn bị được những gì cho chuyến đi cuối cùng và thật quan trọng của cuộc đời tôi?  Tôi có nỗ lực để xắp xếp chuẩn bị cho chuyến đi vĩnh viễn và không bao giờ trở lại này không?

Nhìn lá vàng rơi, ta nhớ lời Thánh Vịnh: “Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc không còn mang vết tích” (Tv 102,15-16).  Dù văn minh đến dâu, con người vẫn không thắng nổi cái chết bằng sức mạnh của khoa học kỹ thuật.  Giàu nghèo sang hèn, trí thức hay bình dân, văn minh hay lạc hậu… ai ai rồi cũng phải chết.  Đứng trước cái chết, mọi người đều bình đẳng.  Sống là chuẩn bị cho con người đi về với cái chết.  Suy tư về cái chết là suy tư về sự sống.  Chết là một phần của sự sống bởi lẽ trong sự sống đã có sự chết.  Nó là cánh cửa nối liền hai thế giới như cửa sông đưa giòng nước vào nguồn biển rộng.  Cứ theo định luật tự nhiên, con người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết.  Đó là định luật chung của con người.  Không ai có thể sống mãi mà không chết.  Các vua chúa ngày xưa đã cố công đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng họ cũng chết.  Để sống cách trọn vẹn, phải can đảm chấp nhận sự sống lẫn sự chết.  Đời người ngắn ngủi như chiếc lá như lời Thánh Vịnh:

Đời con là một kiếp phù du,

Loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi.

Sống làm người ai không phải chết,

Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?

(Tv 88,48-49)

Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống.  Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa.  Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Nhìn lá vàng rơi ta nghĩ về cuộc đời lữ thứ.  Xin đừng mưu mô tính toán mà làm gì.  Xin đừng chia rẽ và thù ghét làm chi.  Cuộc đời này thật ngắn, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được.  Rồi đến lúc bàn tay xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì.

Để có được sự ra đi trong thảnh thơi nhẹ nhàng và đong đầy niềm tin hy vọng ngày mai tươi sáng, ta hãy định nghĩa cuộc đời mình bằng sự “hiện hữu”, đừng bao giờ là sự “sở hữu”.  Ta hãy chọn phương châm “sống với” chứ đừng “sống vì”.  Thấu cảm được ý nghĩa về cuộc đời thì ta mới nhẹ nhàng, thanh thản ra đi mà không vướng bận, không ưu phiền.  Như ai đó đã từng nói: “Ngày ta sinh ra đời, mọi người cười ta khóc.  Hãy sống như thế nào để khi ra đi mọi người khóc ta cười”.

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

“Hôm qua tiễn em đi,”

“Hôm qua tiễn em đi,”

Buồn biết nói năng gì.

Đường chiều mưa tiễn bước,

Hồn khóc theo người đi.”

(Đăng Khánh/thơ Du Tử Lê – Tiễn Em Chiều Mưa)

 ( 1Cor 14: 26-29)

 Trần Ngọc Mười Hai

             Vâng. “Tiễn Em chiều mưa”, hôm qua hay hôm nay đi nữa, cũng đều buồn để rồi lại những thưa và thốt “biết nói năng gì?”, “hồn khóc người đi”.

            Hồn còn khóc, nhiều hơn nữa, khi người đưa tiễn lại có ý-nghĩ cùng hành-xử khá lạ-kỳ như truyện kể sau đây:

“Vợ hỏi chồng:

            -Anh cắt bài gì trong báo Buổi Chiều, vậy? Báo này có gì hay ho đâu mà cắt?

-Cũng chỉ là bài báo kể về chuyện: có anh chàng nọ được toà án gia đình cho phép ly-dị vợ vì cô ta cứ liên tục lúc túi áo của anh cả khi treo lên mắc cũng như trước khi đem giặt, ấy mà!

-Đành là thế. Nhưng, anh định dùng mẩu báo ấy làm gì mà cứ lúi húi giấu mẩu giấy ấy thế?

-Ấy, anh địng bụng bỏ vào túi áo mình, ngộ nhỡ sau này…”

             Nói chữ “ngộ nhỡ sau này”, thật sự cũng khó biết. Chí ít là khi anh bạn cứ áp-dụng vào các trường-hợp sẽ xảy ra trong đời, với nhà Đạo. Trong đời người, có rất nhiều truyện để kể, làm sao nói hết, cho bớt buồn? Về chuyện nhà Đạo hay nhà Chúa, cũng hệt thế.

Duy mỗi chuyện cứ đến rồi đi ở chốn chóp bu nhà Chúa ở Vaticăng, vốn Đạo-hạnh không kém. Như, chuyện được ngành truyền-thông báo chí, cứ kể đi kể lại mãi một chuyện. Chuyện Đức Giáo Tông nhà mình vừa kết-đọan buổi Họp Thượng Đỉnh của Đạo mình hôm 29/10/2015 ở Rôma 2015, bằng một tựa đề, rất “đánh đấm”, như sau:

“Thượng Hội đồng kết thúc với chiến thắng lớn của Đức Phanxicô

Sau ba tuần thảo luận, Đức Giáo hoàng có được khả năng cho người ly dị tái hôn rước lễ xét theo từng trường hợp một.

Từ ba tuần nay, các giám mục họp Thượng Hội đồng ở Rôma về các vấn đề hôn nhân và gia đình, họ đã bỏ hai phần ba số phiếu quy định cho tất cả các điều khoản của hồ sơ cuối cùng và, nếu Đức Giáo hoàng chấp nhận thì sẽ có thể cho những người ly dị tái hôn rước lễ, xét theo từng trường hợp một.

 Cuộc bỏ hiếu này đánh dấu một bước chiến thắng quan trọng của vị giáo hoàng cải cách, sau lần họp đầu tiên năm ngoái bị một phần các giám mục từ chối.

 Điều khoản số 85 của tài liệu nói về việc cho người ly dị tái hôn được rước lễ theo một vài điều kiện. Trên 94 điều khoản thì điều khoản này nhận được ít số phiếu bầu nhất, với 178 phiếu thuận và 80 phiếu chống – nhưng vẫn đạt được đa số hai phần ba ấn định là 177 phiếu thuận trên tổng số 265 phiếu bầu…” (Nguyễn Tùng Lâm dịch tin-tức do Jean-Marie Guénois viết trên lefigaro.fr).

Chuyện “đánh đấm” hoặc đấu tranh/xung-khắc giữa các đấng bậc ở chốn chóp bu của Giáo-triều nhà Chúa sẽ thiếu-sót nếu ta quên không trích-dẫn một số sự-việc được ghi trên sách hoặc tự-điển Bách-Khoa Công-giáo như tác-giả Ralph Wroodrow từng ghi như sau:

 “Sự việc ‘phân-rã/cách-biệt’ lớn-lao trong Giáo-hội xảy đến vào năm 1378 và kéo dài đến 50 năm. Chức-sắc người Ý, khi ấy, đã bầu chọn Đức Urbanô 6 làm Giáo-Hoàng; trong khi đó, các vị hồng-y người Pháp lại chọn Đức Clêmentê 7.

 Khi ấy, các Giáo-hoàng lại cãi-vã/rủa sả lẫn nhau năm này qua năm khác, cho đến khi Công đồng quyết-định hạ bệ cả hai vị trên, để bầu lên một Giáo-chủ mới!

 Đức Sixtô 5 khi ấy có trong tay ấn-bản kinh thánh đã được soạn mà ngài tuyên-bố là ấn-bản xác-thực. Hai năm sau, Đức Clêmentê 8 tuyên-bố bản ấy đầy dẫy những sai-sót và truyền lệnh thiết-lập ấn-bản khác để sử-dụng…

 Khi cứu xét cả trăm sự-kiện và cung-cách các Đức Giáo-chủ đối-nghịch nhau hàng thế-kỷ, ta cũng hiểu rằng ý-niệm về quyền-uy cùng tính-chất rất “vô ngộ” của Đức Giáo Tông cũng rất khó cho nhiều người cảm-thông, chấp-nhận…

 Khi xem xét những sự việc như thế, nhiều người trong chúng ta vẫn tin rằng việc gọi các Đức Giáo Hoàng là “ Hiện-thân của Đức Kitô” không có cơ-sở vững-chãi. Càng không vững hơn, nếu ta lại cứ gọi các ngài là “Đức Thánh Cha” của Giáo-hội Công giáo, nữa… (X. Ralphn Woodrow, Are Popes Infallible? Babylon Mystery Religion, Ralph Woodrow 1981 tr. 100-104)

             Trích-dẫn như trên, người trích và dẫn chỉ muốn nói rằng: ở giai-tầng/địa-hạt nào cũng thế, vẫn có nhiều thứ nhiều chuyện để bạn và tôi, ta coi đó như một đấu tranh hoặc chiến tranh giành phần thắng lợi hoặc chiến thắng đem về cho bản thân mình hoặc cho phe/nhóm của mình.

Về thành-quả do cuộc họp thượng-đỉnh của Hội thánh được gọi là Thượng Hộ-đồng Giám mục đem lại, cũng có những điều để tôi và bạn ta học-hỏi, cho riêng mình. Học và hỏi, hôm nay, có đôi điều đưa ra không chỉ để tôi và bạn, ta nghiên-cứu/khảo-sát mà thôi. Nhưng, còn để giúp ta ghi nhớ mà giữ lại cho đời mình, làm kinh-nghiệm.

Nghĩ thế rồi, bần đạo bầy tôi đây lại tiếp tục luận phiếm thêm cho vui đời, bằng những chuyện đời trong/ngoài Đạo. Nhưng trước khi đi vào truyện kể hoặc tìm về lời vàng ngọc ở Kinh Sách, tưởng cũng nên ca lại lời ca ở trên, hơi buồn, rằng:

Tim như vỡ trong mưa,

Còn vẳng tiếng ai thề.

Một mình trên ngõ vắng,

Buồn nhìn theo lối xưa.

Dù mãi mãi xa nhau,

Cố quên mối duyên đầu.

Tình này ai sẽ quên được sao,

Tình đã chết trong nhau.

Vẫn mơ phút ban đầu,

Một lần yêu dấu mãi cho nhau.

Sao em nỡ quay đi,

Tình đang lúc xuân thì.

Một đời sao bỗng vắng

Cuộc tình không lối đi

(Đăng Khánh/Du Tử Lê – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta đi vào truyện kể, rất bên dưới:

             “Truyện rằng:

Có một lần, Đức Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức giận, chặn Phật lại và hỏi
– Ngài có điếc không?

–Ta không điếc.

–Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi?

– Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ, họ không nhận thì quà đấy về tay ai?

–Quà ấy về tôi chứ ai.

– Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.

 Người kêu tên Phật ra chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng, nói gió ở đâu, nơi nào cũng đều lắng tai nghe, để buồn/để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của con người. Ngài không chấp không buồn, còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau cứ triền miên, tiếp-diễn.

 Trong kinh sách nhà Phật, Đức Phật đã dùng ví dụ người ác lại cứ mắng chửi người thiện, mà người thiện không nhận lời mắng chửi đó thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay mặt người phun. Thế nên có tiếp-nhận mới dính mắc đau khổ, không tiếp-nhận thì an vui hạnh-phúc. Từ đây về sau mọi người có nghe ai nói gì về mình, dù tốt xấu, chớ nên tiếp-nhận thì sẽ được an vui.

 Và, lời bàn của người kể, rất như sau:

Hãy cẩn trọng với lời nói của mình, đừng gây chuyện thị phi vì vô ý thức, cũng đừng vì một ai mà gây ra lầm lỗi trong quá khứ hoặc dùng lời lẽ nặng nề để hành hạ họ, như Oscar Wilde đã từng nói: “Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và tội đồ nào cũng có một tương lai”.

 Hậu quả của khẩu nghiệp thật vô cùng kinh khiếp. Không dương thì âm, sớm muộn gì cũng đều có báo ứng. Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành-lặn, nhưng vết thương gây ra do lời nói thì chẳng biết khi nào mới lành lặn được.

 Chửi bới và nói xấu hay đi rêu rao về người khác mà người đó không có phản-ứng, hay không biết thì cũng giống như kẻ tự ngửa cổ lên trời phun nước bọt rồi chỉ rơi trúng mặt mình. Vậy, tốt nhất không nên nói xấu ai ở đâu/nơi nào, dù họ có làm điều không tốt nhưng có thể không gây hại đến bản thân và cộng đồng mình. Bởi ngậm máu phun người thì chỉ tanh mồm mình trước. (Sưu tầm)

            Kể truyện rồi, nay ta tìm về vườn hoa Lời Vàng của bậc thánh-hiền có những lời dịu dàng, nhưng thấm-thía để suy-tư/nghĩ-tưởng về những lời dặn-dò như sau:

             “Vậy, thưa anh em, ta phải kết luận thế nào đây?

Khi anh em hội họp,

người thì hát thánh ca, người thì giảng dạy,

người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ,

người thì giải nghĩa:

tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh.

Nếu có nói tiếng lạ,

thì chỉ hai hoặc tối đa ba người nói thôi,

mỗi người cứ theo phiên mà nói,

và phải có một người giải thích.

Nếu không có người giải thích,

thì phải giữ thinh lặng trong cộng đoàn,

mỗi người chỉ nói với mình và với Thiên Chúa thôi.

Về các ngôn sứ,

chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi,

còn những người khác thì phân định”.

(1 Cor 14: 26-19)

             Nói như bậc thánh-nhân hiền-lành, thì có nói trong buổi họp hay ở đâu nữa, cũng vẫn nên cẩn-trọng về lời mình nói. Chí ít, là lời nói đó hoặc phán bảo nọ xuất tự đấng bậc vị vọng trong Đạo. Cũng thế, có lần bần đạo được bảo rằng: các lời phát-biểu trên bục nhà thờ cũng nên cẩn-trọng vì lời ấy một cách nào đó vẫn là khuôn-mẫu cho người nghe ngồi bên dưới, tựa hồ lời thày giáo nói với học trò, vậy.

Không chỉ mỗi thế. Phán-quyết của đấng-bậc ở nhà Đạo vẫn là lời phán/bảo dù có mang tính-chất quyết-định hay không, cũng vẫn được coi như hành-xử quan-trọng cho cả người phán lẫn người nghe.

Trường-hợp đấng bậc trưởng-thượng Hội-thánh Công-giáo, tình-hình Giáo-hội nay rối rắm đã hiển-hiện cả vào lúc trước khi bắt đầu cuộc họp bàn cấp cao kéo dài nhiều tuần-lễ. Khi Thượng Hội-Đồng Giám mục 2015 đi vào giai-đoạn cuối, báo-giới truyền-thông Hoa Kỳ đã có những nhận-xét như sau:

“Toà thánh Vatican xem ra đang có những bí-mật, lộn xộn của toà án thời Trung Cổ, gồm những sự việc xảy ra theo cách nào đó, vẫn như xưa. Hành-xử khiêm-tốn đầy phô-trương của Đức Phanxicô, sự việc ngài quở trách các Giám-mục cao cấp không thay-đổi trạng-huống “như xưa” này, chút nào hết. Nếu có, thì cũng chỉ là tham-vọng của một giáo-chủ từng khuyến-khích các vị hay bày mưu-kế hãy cộng-tác mà làm việc chung với các vị khác từng chống cưỡng những chủ-trương như thế, mà thôi.

  Nhưng hiện nay, vị chủ mưu bày kế lại chính là đức Giáo-chủ, nhà mình. Quả là, mục-tiêu/mục-đích do Đức Phanxicô đưa ra, cũng đơn-giản là: ngài hỗ-trợ cho các đề-nghị nên đốc-thúc các vị có tinh-thần thông-thoáng khả dĩ cho phép bổn-đạo nào từng ly-thân/ly-dị nay tái-giá được phép hiệp-thông rước lễ mà không cần phải tiêu-hủy hôn-nhân đầu.

 Nhờ Đức Giáo-chủ âm-thầm hỗ-trợ, đề-nghị này trở-thành mối giây gây tranh-cãi trong lần họp thượng-đỉnh năm 2014 về gia-đình và lần thứ hai năm 2015 này…

 Giả như đề-nghị ở trên thật rõ ràng, thì con đường ngài đang đi cũng thật tăm-tối. Theo thủ-tục, thì quyền-bính của Đức Giáo-tông gần như tuyệt-đối: tức có nghĩa, nếu Đức Phanxicô quyết-định rằng ngày mai đây sẽ tán-thành cho phép những người tái-giá được lên rước Mình Chúa đi nữa, thì cũng chẳng có Toà án Tối cao nào của Công-giáo lại có thể phản kích quyết-định của ngài, được.

 Dù có thế, cùng một lúc, Đức Giáo Tông lại vẫn được coi là người không có quyền thay-đổi tín-lý/giáo-điều của Đạo, chút nào hết. Điều luật này, không có tính-cách công-khai trợ-lực cho ngài, nhưng cứ theo tục-lệ, có sự khiêm-tốn và tính kính-sợ Thiên-Chúa, thì nỗi lo-sợ sẽ có phân-rã trong hàng-ngũ lãnh-đạo đã kềm-chế các Đức Giáo-chủ có ý-đồ viết lại các tín-lý trong Đạo. Và, việc viết lại tín-lý/giáo-điều là những gì mà người Công-giáo bảo-thủ tin tưởng một cách hữu-lý rằng đề-nghị cho những vị từng tái-giá được phép rước Mình Thánh Chúa đã được sự hỗ-trợ của Đức Phanxicô….

 Với các nhà báo Công giáo, cũng như bất kỳ ký-giả nào khác, đây là câu truyện đầy tính hấp-dẫn; thế nên, nói theo kiểu nhà báo rất nghiêm-ngặt, tôi đây không có ý-kiến là Thượng Hội-Đồng kỳ này sẽ kết thúc ra sao. Nhưng, nói theo tư-cách của người Công-giáo, tôi trông đợi rằng cuối cùng thì mưu-đồ viết lại tín-lý/giáo-điều cũng sẽ thất-bại thôi. Mỗi khi có sự căng-thẳng giữa niềm tin lịch-sử và vị Giáo-chủ trong đạo, thì tôi luôn chọn phía niềm tin để đánh cá-cược. Thế nhưng, đối với một cơ-chế vốn đo-lường tuổi thọ của mình hằng thiên-niên kỷ, thì “cuối cùng” cũng phải mất một thời-gian khá dài ngày mới có thể đạt đích-điểm.” (Xem Ross Douthat, The Plot to change Catholicism, The New York Times SundayReview 17/10/2015

Nhà báo nhận-định ra sao, thì cứ nhận và cứ định. Sự việc xảy ra ở nhà Đạo vẫn là chuyện dậm chân tại chỗ, bàn mãi cũng không hết. Việc cuối, có lẽ sẽ không là ngồi đó mà bàn và luận nhưng là đi vào hiện-thực. Thực-hiện ra sao để mọi thành-viên trong Đạo, sẽ lại trở về với thực-tại diễn-tiến mãi, hệt như trước.

Nhận-định sao thì cứ định và cứ nhận. Định rồi nhận hoặc nhận rồi mới định, thật cũng tuỳ. Tuỳ người, tuỳ mình. Tuy nhiên, có tuỳ ai đi nữa, thì hỡi bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang vững chí hướng về trước mà ngâm nga ba câu hát ở trên mà lập lại những lời buồn, rằng:

Tim như vỡ trong mưa,

Còn vẳng tiếng ai thề.

Một mình trên ngõ vắng,

Buồn nhìn theo lối xưa.

 Dù mãi mãi xa nhau,

Cố quên mối duyên đầu.

Tình này ai sẽ quên được sao,

Tình đã chết trong nhau.

 Vẫn mơ phút ban đầu,

Một lần yêu dấu mãi cho nhau.

Sao em nỡ quay đi,

Tình đang lúc xuân thì.

 Một đời sao bỗng vắng

Cuộc tình không lối đi”.

(Đăng Khánh/Du Tử Lê – bđd)

Đúng thế đấy, bạn ạ. Những mong “Tình như vỡ trong mưa” sau bao lần bàn cãi lưa-thưa hay mạnh bạo, ta cũng đừng “buồn nhìn theo lối xưa”, mà hành-xử. Bởi, có hành và có xử theo lối cũ/xưa đi nữa, thì bánh xe lịch-sử cũng sẽ nghiền-nát tâm-can con người để rồi sẽ “vỡ trong mưa”, cũng rất buồn. Buồn về tình đời. Buồn, một đời người.

 Trần Ngọc Mười Hai

Đôi lúc cũng có buồn

Nhưng không buồn

về đời hoặc về người.

Bởi, mọi người vẫn cứ vui

ở trong đời.

. “Hy vọng muôn trùng, lời kinh trong gió bay bay,”

. “Hy vọng muôn trùng, lời kinh trong gió bay bay,”

Mai Tá lược dịch

Khi xưa, thiên hạ nguyện cầu bằng lời kinh trong gió như: “Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cầy, Đong đầy bát cơm…” (Tục ngữ – Phong dao) Lúc này, chúng dân lại mong mưa triền miên nên mãi lắng đọng: “Xin mưa triền miên mãi luôn lắng đọng, Cho đôi tình nhân đắm trong giấc mộng”. ( Đức Huy – Đường xa ướt mưa )

Thuở trước, giấc mộng con người vẫn gắn liền với hiện thực cuộc đời. Bao giờ cũng đủ ăn đủ uống, đủ ruộng để cày, rất đầy bát cơm đong. Ngày nay, mộng vàng người thương không chỉ có thế, nhưng thực tiễn. Thực tiễn như chính sự sống. Một cuộc sống đong đầy những thương yêu. Yêu như tình yêu trai gái, đắm đuối như giấc mộng ban đầu. Thương như tình thương yêu nhân hiền, vẫn thấy nơi các bà góa hồi đầu thế kỷ. Như truyện kể hôm nay.

Trình thuật hôm nay, kể lại câu truyện rất “đong đầy” về hai người đàn bà nghèo, góa bụa. Các bà vốn rất nghèo. Nghèo tiền nghèo của, nghèo cả chức phận lẫn công danh. Ở xã hội Do Thái thuở trước, mồ côi, góa bụa, nghèo nàn, cả ba đều bị liệt vào giai cấp cùng đinh mạt rệp. Vị thế của họ vẫn cứ hèn và mạt đến độ không ngóc đầu thoát khỏi kiếp vong mạng nơi bùn đen. Kiếp người đốn mạt trái ngang, luôn gặp cảnh chê bai, miệt thị. Lối hành xử đầy khinh chê mà các bà gặp phải, hiện diện cả trong giới linh thiêng nhà Đạo nữa!

Trình thuật kể rằng: Đức Kitô xếp loại các thủ lĩnh Kinh Sư thời Ngài vào cùng một hạng với những người ta cần dè chừng. Dè chừng không chỉ vì họ luôn tìm ra phương cách khai thác bóc lột giai cấp cùng đinh mạt rệp mà thôi. Dè chừng, còn vì các thái độ khinh chê miệt thị và bóc lột ấy vẫn hủy hoại tình người. Thứ tình cần đến cơn mưa triền miên, ơn lắng đọng.

Với Đức Kitô, thái độ “xúng xính”, “bóc lột” là lối hành xử giả hình, không chấp nhận được. Cần đổi thay. Với Tin Mừng Nhất Lãm, cả ba thánh sử thỉnh thoảng vẫn kể lại hành vi kiêu căng, ngạo mạn của các đấng Kinh Sư nhà Đạo, lúc bấy giờ. Nghĩa là, hành vi của những người này trái ngược khác hẳn lối xử sự của đám nghèo hèn cùng đinh như các bà góa. Hành vi yêu thương luôn giùm giúp những ai đang cần.

Kinh nghiệm chính bản thân mình, Đức Giêsu đã triền miên chịu đựng mọi khổ đau vì người đời. Ngài vẫn không thể chấp nhận nổi phong cách “làm bộ đọc kinh nhiều giờ” của đám Kinh Sư, Biệt Phái. Là môn đồ Đức Chúa, dù ở cương vị nào, chắc hẳn ta cũng không chấp nhận nổi thái độ trịch thượng dễ gây xa cách ấy.

Thật ra, tạo cho mình có được của cải, quyền bính này khác, tự nó đâu có gì xấu. Vấn đề đặt ra là: khi tiếp nhận quà tặng từ Trên, dù quà đó có là quyền thế hay của cải tiền bạc, ta vẫn có thể sống đúng tư cách của người công chính được như thường. Hệt như phương châm: hãy nói tôi nghe bạn sử dụng quà tặng như thế nào, tôi sẽ cho biết bạn là ai. Ở đây nữa, quyền bính và của cải tiền bạc vẫn là “bát cơm đong đầy”, ta phải luôn cầu Trời mới mong có.

Trớ trêu thay, mọi quyền uy con người tạo được, dù ở chính trường, nơi nhà Đạo hoặc tại gia đình và xã hội, cộng thêm sự giàu sang từ đó có được, vẫn là những thứ hấp dẫn khó chối từ. Càng có nhiều uy quyền, người ta càng cố tạo nhiều của cải. Càng có nhiều của cải, người ta lại những tưởng mọi sự đều thuộc về mình. Không ai có quyền gỡ bỏ hoặc rút đi. Và, một khi có nhiều quyền hành và tiền của, người ta sẽ dễ trở nên kiêu căng, thích bóc lột người khác, những nghèo và hèn hơn mình.

Lúc ấy, họ sẽ quên đi lời nhắc nhở dặn dò rằng: tất cả đều là quà tặng từ Trên. Và, khi đã quên lời nhắc nhở từ Trên, người ta có khuynh hướng quên luôn cả Đấng đã nhắc nhở mình. Đã cho mình mọi uy quyền và của cải ấy.

Trình thuật hôm nay, thánh Máccô ghi lại lời nhắc nhở ngợi khen phong thái của người cùng đinh nghèo hèn, như bà góa. Đức Chúa khen ngợi các bà thuộc giai cấp thấp hèn không phải vì các bà vốn người đốn mạt, nghèo hèn. Chẳng có gì là cao-sang, ca ngợi nơi sự nghèo hèn. Điều mà Đức Ki-tô ngợi khen, chính là phong cách độ lượng, thương yêu giùm giúp của các bà, những người chị, người em đang sống cuộc đời nghèo hèn tận tuyệt.

Nghèo/hèn tận-tuyệt, là biết mình cũng chẳng là gì, chẳng hơn ai, thế nhưng lại vẫn biết người biết mình, luôn khiêm tốn, vẫn thân thương. Thân thương trong thái độ nhớ đến người khác. Nhớ đến những người còn nghèo hèn tận tuyệt, hơn mình. Biết người biết mình là lâu nay tuy bị bóc lột đến cùng cực, rất túng thiếu, nhưng vẫn lẳng lặng yêu thương đùm bọc. Không hợm hĩnh khoe khoang.

Có biết mình và biết người như thế, mới nói được rằng: kẻ cao sang, quyền quý dù biết nhiều học rộng, vẫn cần học và hỏi nhiều nơi người nghèo hèn. Học và hỏi, không phải kiến thức khoa bảng nở rộ. Học và hỏi về phong cách nhè nhẹ khi thương yêu đùm bọc, lúc quyên góp.

Nơi cuộc sống Đạo – Đời, vẫn là chuyện thường nếu lâu nay các đấng bậc cao sang quyền quý vẫn cứ dạy và dỗ đám dân nghèo, thấp hèn. Điều khác lạ nơi Tìn Mừng hôm nay, chính là bài học này: hãy để cho lớp người cùng đinh thấp hèn có cơ hội minh chứng dỗ dạy các đấng bậc quyền quý, rất cao sang. Các đấng đang ngự trị nơi: chính trường, nhà Đạo, hoặc tại khắp các nơi chốn như xã hội, gia đình. Và đó là điểm sáng Tin Vui rất an bình mà trình thuật Thánh Mác-cô muốn gửi đến người đọc.

Nơi dân gian trần thế có vài truyện kể cũng mang dáng dấp an vui Tin Mừng. Như truyện kể về đối chất thần học giữa vị Hồng Y nhà Đạo và tín đồ nghèo Do Thái Giáo.

Nhiều năm về trước, giới nhà Đạo ở Rôma có quyết định: người Do Thái phải rời bỏ thủ đô này, không được sống gần người nhà Đạo. Cộng đồng bạn tỏ ra bất bình trước quyết định gay gắt ấy. Thấy thế, Đấng bậc nhà Đạo bèn giải hòa bằng đề nghị: nếu cộng đồng bạn toàn thắng cuộc thi đấu kiến thức thần học, họ được ở lại. Phía nhà Đạo, vị được cử lên thi đấu lại là Hồng Y chủ quản. Còn phía Giáo Hội bạn lại chỉ đề cử một tín đồ nghèo hèn tên là Mô-sê. Sợ mình không thể đối nhanh đáp lẹ, kẻ hèn Mô-sê liền đề nghị cuộc thi diễn ra trong im lặng. Chỉ giơ tay ra dấu. Hai bên đồng ý nhập cuộc.

Bắt đầu, vị Hồng Y đưa tay lên cao giơ 3 ngón. Tín đồ Mô-sê chỉ giơ một ngón rất gọn. Hồng Y nhà ta dùng tay vẽ một vòng cầu trên đỉnh đầu. Còn Mô-sê lấy tay chỉ xuống đất chỗ mình ngồi. Hồng Y bèn đem bánh miến rượu nho, một lượng nhỏ thôi, hết sức cung kính lãnh nhận. Trong khi đó tín đồ Mô-sê lại mang trái táo xanh ra… xơi gọn !

Cuối cùng, vị Hồng Y đứng bật dậy nói: “Tôi xin thua! Người này quá tốt lành, anh ta đã thắng”. Thế là, cộng đồng người Do Thái được quyền ở lại. Vài giờ sau, các đồng nhiệm đến hỏi vị Hồng Y: “Sao lại như thế?” Vị Hồng Y đáp: “Trước hết, tôi giơ tay ba ngón ý nói Đức Chúa Trời có Ba Ngôi, thì anh ta chỉ giơ ra có một, ý muốn nhắc nhở tôi: Đạo của chúng ta chỉ tin một Chúa.

Thế rồi, tôi ra dấu đánh vòng trên đỉnh đầu, ý muốn bảo: Đức Chúa đang hiện diện quanh ta, thì anh chàng lại chỉ tay xuống đất, ý rằng: đúng đấy thưa ngài, Đức Chúa đang có mặt ở đây, ngay lúc này. Cuối cùng, tôi đem rượu cùng bánh có ý nhắc: sùng kính Thánh Thể Chúa là việc rất phải. Phần anh ta, anh ta lại lấy trái táo xanh đem ra nhắc tôi: về tội nguyên tổ, ta cần phải chú ý đề cao. Tóm lại, anh ấy có giải đáp rất nhanh về mọi vấn đề”.

Cùng lúc, bạn bè trong cộng đồng Do Thái rất thân, bèn quây quần bên người thấp hèn Mô-sê, mà hỏi: này anh bạn già thấp kém như thế mà sao anh thắng được đấng bậc đạo mạo bên ấy. Anh thưa: “Có gì đâu. Lúc đầu, ông ấy bảo tôi: cộng đồng mình có ba ngày để dời đi nơi khác. Tôi thưa ngay: không người nào trong bọn tôi sẽ phải ra đi cả ! Rồi ông ta lại bảo: Toàn bộ ngôi thành này sẽ sạch bóng người Do Thái, là ý nói các anh phải biến đi ấy. Tôi bèn cho biết: Không đâu, bọn tôi quyết đóng trụ trên mảnh đất này, chẳng bao giờ đi đâu !”

Cuối cùng, có người hỏi: “Mô-sê, thế rồi sao ?” Mô-sê nói: “Tôi cũng chẳng biết nữa. Tự nhiên thấy ông lấy đồ ăn bữa trưa ra ăn, tôi cũng bèn lấy trái táo xanh của mình ra ăn cho đỡ đói, thế thôi !”

Qua truyện kể, phong cách hành xử giải quyết vấn đề giữa vị chóp bu nhà Đạo và đạo hữu thấp hèn Môsê, rất khác biệt. Khác biệt, không có nghĩa loại bỏ, tru diệt lẫn nhau. Khác biệt là cần thắc mắc, cần học hỏi do đâu. Khác biệt không phải để so sánh phân tranh ngôi vị. Vì so sánh phân tranh không là giải đáp tốt ở nhiều trường hợp.

Thông thường và thích đáng hơn, vẫn là thái độ biết học và hỏi. Biết áp dụng lối xử sự, phương cách sống của người khác. Chí ít, của người nghèo hèn tận tuyệt, phương cách sống và lối xử sự ấy, không nhất thiết phải như đấng bậc phú quý ở trên cao. Cách hành động và đối xử thích hợp, vẫn có thể và vẫn nên như là cách thế của kẻ nghèo hèn tận tuyệt.

Tham dự Tiệc Thánh hôm nay, ta cầu và mong cho cộng đoàn thân thương của ta có được phong cách hành xử, rất thư thái xứng hợp. Thư thái, như dân thường ở huyện, chốn dân gian. Những kẻ thấp hèn luôn mong chờ mưa xuống. Mưa hồng ân. Mưa cứu độ vẫn đi kèm theo mỗi quà tặng thông thường, ta nhận lĩnh. Một khi có được phong cách nhẹ nhàng thoải mái như kẻ nghèo hèn, cùng đinh, ta sẽ thư thái hát lên lời ca, đầy khen ngợi, như ý nhạc của nghệ sĩ Quốc Dũng, mà rằng:

            “Ngày dài anh yêu hỡi

            Em mong chờ từ bao đêm tối

            Một vòng tay thiết tha ấm nồng.” (Quốc Dũng – Cho nhau mùa đông )

Vòng tay thiết tha, đầy những ấm nồng giùm giúp. Thế đó, là sự thiết tha nồng ấm từ những bàn tay giúp giùm nhẹ nhàng của bà góa, những kẻ đơn côi, rất nghèo hèn. Nghèo, nhưng vẫn giúp, vẫn giùm, vẫn thương. Đó chính là thực chất của nền thần học. Học về thần yêu thương, thần giùm giúp.

Không chỉ riêng cho người Công Giáo, hay Do Thái, mà là: lòng yêu thương giùm giúp của chung nhà Đạo. Đạo của Chúa. Đạo tình thương yêu.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mc 12: 38-44)

Trong lúc giảng dạy, Đức Giêsu nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.” Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma.

Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”

LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng.  Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận.  Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau.  Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến, và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.

LE CAC DANG LINH HONTrên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945.  Có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?

Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ.  Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào?  Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.

Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ.  Nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng.  Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.

Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc, chính là vàng.  (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài.  Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế.  Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó).  Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn.  Phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.

Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra.  Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá.  Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.

Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại?  Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta?  Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!

Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh.  Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng.  Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài.  Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó, họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.

Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con.”  Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu?  Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể?  Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc?  Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại?  Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành.  Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời.   6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ.  Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài?  Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài.  Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.

Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn.  Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.

Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?

  1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn.  Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài.  Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời.  Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
  2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa.  Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm).  Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.

Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi.  Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta.  Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.

Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương.  Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.

(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).

  1. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta?  Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài.  Chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng, đủ hết mọi lý do).  Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắc, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày.  Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.  Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ?

Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta.  Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.

ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

LÊN ÐƯỜNG

LÊN ÐƯỜNG

 LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

Ðường là để đi. Ðường là để đi nghĩa là đường sẽ dẫn đến nơi nào đó. Bản tính của đường là để đi, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi cư trú. Như vậy, kẻ dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư trú của mình. Tôi phải xác định với lòng tôi: cuộc sống hôm nay là đường đến một quê hương khác? Nếu cuộc sống hôm nay không phải là cùng đích, mà tôi lại chọn làm nơi cư trú, tức là tôi chẳng lên đường để đến nơi tôi phải đến. Lối đi hôm nay của tôi có là đáp trả tiếng gọi của Chúa? Nếu không, mà tôi chẳng lên đường theo tiếng gọi là tôi đang làm ngơ, đang cố quên đường về.

LEN DUONG

Phải rẽ lối khai quang mới thành đường đi. Sở dĩ có người rẽ lối khai quang để làm đường đi vì họ muốn đến một nơi nào đó. Nghĩa là họ muốn tìm kiếm. Như thế, trước hết, trái tim họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm. Cõi lòng họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm. Cõi lòng họ phải mở rộng cho một chân trời bước tới. Sẽ không có đường đối với kẻ không muốn tìm kiếm. Và ước mơ lên đường mà không lên đường thì cũng không thành đường đi.

– Có ai không cần tìm kiếm vì đã dư thừa?

– Có ai không cần lên đường vì đã gặp gỡ?

Ước mơ hạnh phúc là dấu hiệu hạnh phúc đang vắng mặt. Nguyện cầu cho hết phân ly là nói một cách khác họ đang khao khát được xum họp. Khổ tâm khi thấy người thương mến của mình gặp bất hạnh nghĩa là kẻ đó đang thiếu thốn, và mình cũng chẳng đủ quyền năng cho họ hạnh phúc. Khi tôi lo âu là lúc tôi có vấn đề. Ai trong cuộc sống mà lại chẳng có lúc âu lo? Tất cả đấy là những dấu hiệu giới hạn của con người, những thiếu thốn mà con người đang đi tìm.

Và như thế, ai cũng cần phải lên đường, ai cũng phải tiếp tục tìm kiếm. Ðời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi. Mục đích là gặp điều tôi mong mỏi.

Nhưng đi về chốn nào? Trong cõi rộng mênh mông ấy, đâu là đường?

Chắc chắn không thể là tôi. Vì tôi có thể ban tặng cho mình được những gì tôi thiếu thốn thì tôi đã chẳng còn bao giờ ước mơ nữa. Nếu tôi không thể đến một nơi nào đó để lấy được những gì tôi mong mỏi, như vậy, cũng có nghĩa là tôi không thể tự làm đường đi cho mình được. Chắc chắn cũng không thể là người chung quanh tôi vì họ cũng thiếu thốn như tôi.

Vậy, ai có thể giúp tôi đạt được những điều thiếu thốn đó?

“Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống” (Ga 14, 6). Ðường của cuộc đời tôi đi là Chúa. Những gì tôi thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc của tôi. Khi Chúa nói Chúa là sự sống, có nghĩa Chúa là hạnh phúc tôi đang túng thiếu. Khi Chúa nói Chúa là đường, có nghĩa là để dẫn tôi tới hạnh phúc đó.

Kinh nghiệm cho thấy hạnh phúc có thể thỏa mãn những thao thức sâu kín nhất trong tâm hồn tôi không hệ tại sự giàu có, người yêu, những gì trong phạm vi trần thế. Nếu vậy thì phương cách để đạt được hạnh phúc có thể thỏa mãn tâm hồn tôi cũng không thể đến được từ trần gian. Hạnh phúc ấy thuộc về phạm vi siêu nhiên, vượt tầm sáng tạo của nhân loại. Cho nên, con đường dẫn tới hạnh phúc đó cũng phải là siêu nhiên, không thể là sản phẩm của con người. Trong ý nghĩa này, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng đích. Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc.

** *

Lạy Cha, Cha đã tỏ cho con biết Cha là đường của con. Ðường đã có rồi. Sự thật và sự sống đã có rồi. Nhưng con cần Cha dọn cỏ, mở lối cho con. Cỏ tối tăm và cỏ nguội lạnh là những giây leo rừng chằng chịt che kín lối. Và con đã không thấy đường. Cha là sự thật, nên không có loại cỏ tối tăm nào có thể che kín. Cha là sự sống nên không loại gai nào có thể làm nghẽn lối. Giây gai làm nghẽn lối, cỏ dại che kín đường không mọc ở đường đi, nhưng mọc trong chính trái tim con. “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy” (Mc 10, 51). Cha đã mở mắt và người mù đã thấy đường đi. Một lần nữa, hành động của người mù cũng lại khởi đầu bằng ước mơ: ước mơ được sáng mắt. Ðiều ấy cũng hàm nghĩa là anh ta luôn luôn muốn tìm kiếm ánh sáng. Nếu anh ta không muốn lên đường. Nếu anh ta chọn thế giới mù làm quê hương. Nếu anh ta cư trú trong thế giới bóng đêm ấy và chẳng muốn bước tới nữa thì chắc chắn anh sẽ chẳng bao giờ thấy mặt trời. Ðời anh sẽ tẻ nhạt biết bao. Ðời con cũng vậy. Con phải lên đường. Ngày nào con cũng có lầm lỗi. Ngày nào cũng có bóng đen của ghen tương, bóng đen của thèm muốn bất chính, bóng đen của lo âu thiếu tin tưởng. Ngày nào con cũng có mù lòa. Vì thế, con cần Cha mở mắt cho con hàng ngày. Và, con phải lên đường mỗi sớm mai.

* * *

Mơ ước lên đường thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng để thực hiện lên đường lại không dễ. Những hạnh phúc đẹp chỉ dành cho những tâm hồn dám lên đường tìm kiếm. Muốn nhìn vũ trụ mênh mông phải giã từ mặt đất, cất cánh theo chim trời. Nếu con sâu cứ lặng lẽ sống dưới mặt đất với loài trùng, thì nó chẳng có lý do để oán trách sao cuộc đời chung quanh chỉ là mùi ẩm của đất, mùi mốc của cỏ. Nó phải hóa thân thành cánh bướm. Và, lúc đó người ta sẽ ngước mắt nhìn theo. Tất cả vũ trụ là của nó. “Trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi từ khi mới là thai nhi trong lòng mẹ” (Tv 51, 7). Ðó là hình ảnh tôi sinh ra trong thân phận sâu. Sinh ra trong thân phận sâu, nhưng lại không để làm sâu, mà được kêu gọi hóa thân làm bướm. “Ta đã chọn các ngươi từ giữa thế gian” (Ga 15, 19; 17, 16).

* * *

Lên đường nào cũng có giã từ, vì thế mới có ngần ngại. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Những rung cảm bất chính đã ở trong dòng máu của tôi. Bây giờ tôi phải từ bỏ. Những liên hệ không ngay lành, nhưng cho tôi thú vui trần thế. Bây giờ tôi phải cắt đứt. Lười biếng là một thứ quyến rũ như bếp lửa trong chiều đông, nó giữ chân tôi lại. Bởi, lên đường là mở cửa đi ra, ngoài kia có gió lạnh làm tôi ngại ngùng. Muốn được người ngưỡng mộ, tôi tạo ra khuôn mặt đẹp mà tâm hồn tôi không có. Bây giờ, lên đường, nghĩa là tôi phải sống thật với tôi. Trở về chấp nhận khuôn mặt nghèo nàn của mình là điều tôi không muốn. Ðể người biết khuôn mặt thật của mình là điều tôi không dám. Bước tới để thay đổi tâm hồn là một giá tôi phải trả. Là một lên đường đòi nhiều can đảm.

Những biến cố thay đổi cuộc sống của một tâm hồn trong Phúc Âm đều là những biến cố lên đường. Chúa đã dùng những hình ảnh lên đường cụ thể, lên đường bằng đôi chân bước trên cát bụi để diễn tả cuộc lên đường nội tâm. “Ði dọc theo bờ biển Galilêa, Ngài thấy Simon và Anrê dang quăng chài dưới biển. Ðức Yêsu nói với họ: Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi là ngư phủ bắt người. Tức khắc, họ đã bỏ chài lưới mà theo Ngài. Ði xa một ít, Ngài thấy Yacôbê và Yoan em ông, cả hai đang vá lưới dưới đò. Ngài gọi họ. Và họ đã bỏ cha họ và những người làm công mà theo Ngài” (Mc 1, 16-20). Phúc Âm thuật lại, sau khi theo Chúa rồi, nhiều lần Phêrô vẫn còn thả lưới. Như vậy, đáng lẽ Chúa phải bảo Phêrô mang lưới theo kẻo mai mốt lại tốn tiền mua lưới khác. Nhiều lần Chúa phải dùng thuyền mà đi. Sao Chúa không dặn Phêrô giữ lấy thuyền vì mai mốt cả Thầy trò vẫn còn cần tới.

Họ đã bỏ lại tất cả.

Họ đã bỏ lại tất cả, phải chăng lưới mà Yacôbê đang vá lưới của những toan tính thiếu niềm tin vào Chúa, là mạng nhện đam mê gắn liền với tâm hồn tôi như áo tôi mặc. Tôi chẳng muốn bỏ. Mỗi mũi kim vá là một lần tôi níu kéo, bám theo . Phải chăng thuyền của Phêrô là những nét xấu như một thứ quê hương tôi đang sống ở trong. Tôi đang an phận với quê hương ấy?

Lạy Cha, Simon và Anrê, Yacôbê và Yoan đã lên đường. Khi nghe Cha gọi, họ đã tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Không lưỡng lự. Dứt khoát. Hình ảnh của những cuộc lên đường đẹp quá. Lên đường của những kẻ muốn tung cánh trong tự do bát ngát như thập giá không chịu khuất phục sự chết. Lên đường của những bàn chân không biết mỏi khắp cánh đồng Galilêa. Lên đường không phân vân như mặt trời bình thản đẩy bóng tối lại đàng sau.

  • * *

Lạy Cha, nếu không lên đường, chắc hẳn Phêrô chẳng gặp Cha, đã không được Cha huấn luyện và tâm hồn Phêrô đã nghèo nàn lắm. Trong cuộc sống của con, Cha đã gọi. Con cũng đã lên đường, nhưng con không can đảm như Anrê, như Yacôbê. Lưới đời của con dầy mắt, những mắt lưới mà con nghĩ là sẽ bắt được nhiều cá: cá bằng cấp, cá danh vọng, cá sắc đẹp, cá giàu có, cá tình yêu. Mỗi lần bắt hụt vì lưới bị rách là con lại cặm cụi ngồi vá. Có bao giờ con đã quá chú ý cúi mặt vá lưới đến nỗi Cha đi qua, Cha gọi mà con chẳng nghe gì?

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

 “Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

            Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai”.

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá lược dịch

Ngoảnh mặt làm ngơ, và vô tình trêu ai, còn là tâm-trạng của người nghèo hèn ở trình-thuật.

Trình thuật hôm nay, kể về hai người đàn bà nghèo, góa bụa. Làm thân góa bụa hồi đầu thế kỷ, các bà vốn rất nghèo. Nghèo tiền nghèo của, nghè cả chức phận, lẫn công danh. Ở xã hội Do Thái thuở trước, mồ côi, góa bụa, nghèo nàn, cả ba đều bị liệt vào giai cấp cùng đinh, mạt rệp. Vị thế của họ vẫn cứ hèn và mạt đến độ không ngóc đầu thoát khỏi kiếp vong mạng, nơi bùn đen. Kiếp người của họ luôn trái ngang, gặp cảnh chê bai, miệt thị.

Lối hành xử đầy khinh chê mà các bà gặp phải, hiện diện cả trong giới linh thiêng nhà Đạo, nữa. Trình-thuật kể rằng: Đức Kitô xếp loại các thủ-lĩnh, kinh-sư thời Ngài vào cùng một hạng với những người, ta cần dè-chừng. Dè-chừng, không chỉ vì họ luôn tìm ra phương-cách khai-thác, bóc-lột giai-cấp cùng đinh mạt rệp, mà thôi. Dè-chừng, còn vì các thái-độ khinh-chê, miệt-thị và bóc-lột vẫn hủy-hoại tình người. Thứ tình cần đến cơn mưa yêu thương, lắng đọng.

Với Đức Kitô, thái độ “xúng xính”, “bóc lột” là lối hành-xử giả-hình, không chấp-nhận được và cần đổi-thay. Với Tin Mừng Nhất Lãm, cả ba thánh-sử thỉnh thỏang vẫn kể lại hành-vi kiêu-căng, ngạo mạn của các đấng kinh sư nhà Đạo, lúc bấy giờ. Nghĩa là, hành vi của những người này trái ngược hẳn lối xử-sự của đám nghèo hèn/cùng đinh, như các bà góa. Hành-vi yêu-thương luôn giùm giúp những ai đang cần. Kinh nghiệm chính bản thân mình, Đức Giêsu đã triền-miên chịu-đựng mọi khổ-đau vì người đời. Ngài vẫn không thể chấp-nhận nổi phong-cách “làm bộ đọc kinh nhiều giờ” của đám Kinh sư, Biệt phái.

Là môn-đồ Đức Chúa, dù ở cương-vị nào, chắc hẳn ta cũng không chấp-nhận nổi thái-độ trịch-thượng, dễ gây xa cách ấy. Thật ra, tạo cho mình có được của cải, quyền-bính này khác, tự nó không có gì xấu xa.

Vấn-đề đặt ra, là: khi tiếp-nhận quà tặng từ Trên, dù quà đó có là quyền-thế hay của cải/tiền bạc, ta vẫn có thể sống đúng tư-cách của người công-chính, được như thường. Hệt như phương-châm: hãy nói tôi nghe bạn sử-dụng quà tặng như thế nào, tôi sẽ cho biết bạn là ai. Ở đây nữa, quyền-bính và của cải/tiền bạc vẫn là “bát cơm đong dầy”, ta phải luôn cầu Trời mới mong có.

Trớ trêu thay, mọi quyền-uy con người tạo được, dù ở chính-trường, nơi nhà Đạo hoặc trong gia-đình, ngoài xã-hội, cộng thêm sự giàu sang từ đó có được, vẫn là những thứ hấp-dẫn, khó chối-từ. Càng có nhiều uy-quyền, người người càng tạo nhiều của cải. Càng có nhiều của cải, người người những tưởng: mọi sự đều thuộc về mình.

Không ai có quyền gỡ bỏ hoặc rút đi. Và, một khi có nhiều quyền-hành và tiền của, người ta sẽ dễ trở nên kiêu-căng, thích bóc-lột người khác, những nghèo và hèn hơn mình. Lúc ấy, họ sẽ quên đi lời nhắc nhở dặn dò, rằng: tất cả đều là quà tặng, từ Trên. Và, khi đã quên lời nhắc-nhở từ Trên, người ta có khuynh-hướng quên luôn cả Đấng đã nhắc nhở mình. Để cho mình mọi uy quyền và của cải ấy.

Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô ghi lại lời nhắc nhở ngợi khen phong-thái của người cùng đinh/nghèo hèn, như bà góa. Đức Chúa khen ngợi các bà thuộc giai cấp thấp hèn không phải vì các bà vốn người đốn mạt, nghèo hèn.

Điều mà Đức Kitô ngợi khen, chính là phong-cách độ-lượng, thương-yêu giùm-giúp của các bà, những người chị, người em đang sống cuộc đời nghèo/hèn, tận-tuyệt. Nghèo hèn tận tuyệt, là: biết mình cũng chẳng là gì, chẳng hơn ai. Nhưng, vẫn biết người, biết mình. Luôn khiêm tốn. Vẫn thân thương. Thân-thương trong thái-độ nhớ đến người khác. Nhớ đến những người còn nghèo/hèn tận-tuyệt, hơn mình.

Biết người biết mình, là: lâu nay tuy bị bóc-lột đến cùng cực, rất túng thiếu, nhưng vẫn lẳng-lặng yêu-thương, đùm bọc. Không hợm hĩnh, khoe khoang. Có biết mình và biết người như thế, mới nói được rằng: kẻ cao sang, quyền quý dù biết nhiều học rộng, vẫn cần học và hỏi nhiều nơi người nghèo hèn. Học và hỏi, không phải kiến thức khoa bảng, nở rộ. Học và hỏi về phong cách nhẹ khi thương yêu đùm bọc, cả vào lúc quyên góp.

Nơi cuộc sống Đạo-đời, vẫn là chuyện thường nếu lâu nay các đấng bậc cao-sang quyền-quý vẫn cứ dạy và dỗ đám dân nghèo, thấp hèn. Điều khác lạ nơi Tìn Mừng hôm nay, chính là bài học này: hãy để cho lớp người cùng đinh/thấp hèn có cơ-hội minh-chứng dỗ-dạy các đấng bậc quyền-quý, rất cao sang. Các đấng đang ngự-trị nơi: chính trường, nhà Đạo. Hoặc, tại khắp chốn như: xã hội, gia đình.

Và, đó là điểm sáng Tin Vui rất an bình mà trình thuật thánh Mác-cô muốn gửi đến người đọc. Nơi dân-gian trần-thế, có vài truyện kể cũng mang dáng dấp an vui Tin Mừng, ta vẫn nghe. Như truyện kể hôm nào, về đối chất thần-học giữa vị Hồng y nhà Đạo và tín đồ nghèo Do Thái giáo.

Nhiều năm về trước, giới nhà Đạo ở La Mã có quyết-định: người Do thái phải rời bỏ thủ-đô này, không được sống gần người nhà Đạo. Cộng đồng bạn tỏ ra bất-bình trước quyết-định gay-gắt ấy. Thấy thế, Đấng bậc nhà Đạo bèn giải hoà, bằng đề-nghị: nếu cộng-đồng bạn toàn-thắng cuộc thi-đấu kiến-thức thần-học, họ được ở lại.

Phía nhà Đạo, vị được cử lên thi đấu lại là Hồng y chủ quản; giáo hội bạn, chỉ đề cử tín-đồ nghèo hèn, tên Môsê. Sợ mình không thể đối nhanh đáp lẹ, kẻ hèn Môsê đề-nghị cuộc thi diễn ra trong im lặng. Chỉ giơ tay, ra dấu. Hai bên đồng ý, nhập cuộc.

Bắt đầu, Vị Hồng y đưa tay lên cao, giơ 3 ngón. Tín đồ Môsê chỉ giơ một ngón, rất gọn. Hồng y nhà ta dùng tay vẽ vòng cầu, trên đỉnh đầu. Còn, Môsê lấy tay chỉ xuống đất chỗ mình ngồi, không chậm trễ. Hồng y bèn đem bánh miến rượu nho, một lượng nhỏ, cung-kính lĩnh nhận.  Trong khi đó, tín đồ Môsê lại mang trái táo xanh, dự tính ăn. Cuối cùng, vị Hồng y đứng dậy, vội nói: “Tôi xin thua. Người này quá tốt lành, anh ta thắng”.

Thế là, cộng đồng người Do thái được quyền ở lại. Vài giờ sau, các đồng-nhiệm đến hỏi vị Hồng y:  sao, lại như thế? Vị Hồng y đáp: trước hết, tôi giơ tay 3 ngón ý nói Đức Chúa Trời có Ba ngôi, thì anh ta chỉ giơ ra có một, ý muốn nhắc nhở tôi: Đạo của chúng ta đều chỉ tin một Chúa. Thế rồi, tôi ra dấu đánh vòng trên đỉnh đầu, ý muốn bảo: Đức Chúa đang hiện-diện quanh ta, thì anh chàng lại chỉ tay xuống đất, ý rằng: đúng đấy thưa ngài, Đức Chúa đang có mặt ở đây, ngay lúc này.

Cuối cùng, tôi đem rượu cùng bánh có ý nhắc: sùng kính Thánh Thể Cha, là việc rất phải. Phần anh, anh lại lấy táo xanh đem ra nhắc tôi: về tội nguyên tổ, ta cần đề cao. Tóm lại, anh ấy có giải-đáp rất nhanh về mọi vấn-đề.

Cùng lúc, bạn bè trong cộng-đồng Do thái rất thân, bèn quây quần bên người thấp-hèn Môsê, mà hỏi: này anh bạn già thấp kém như thế mà sao anh thắng được đấng bậc đạo-mạo bên ấy. Anh thưa: có gì đâu. Lúc đầu, ỗng bảo tôi: cộng đồng mình có 3 ngày để dời đi nơi khác. Tôi thưa ngay: không một người nào trong bọn tôi, sẽ ra đi. Rồi ông thêm: trọn thành này sẽ sạch bóng người Do thái, là các anh đấy. Tôi bèn cho biết: không đâu, bọn tôi đóng trụ trên đất này, chẳng đi đâu cả. Cuối cùng, có người hỏi: Môsê, thế rồi sao? Môsê nói: tôi cũng chẳng biết nữa. Tự nhiên thấy ỗng lấy đồ trưa ra ăn, tôi cũng lấy táo xanh của mình ra, đánh chén thế thôi.

Qua truyện kể, phong-cách hành-xử giải-quyết vấn-đề giữa vị chóp bu nhà Đạo và đạo-hữu thấp hèn Môsê, rất khác-biệt. Khác-biệt, không có nghĩa lọai bỏ, tru diệt lẫn nhau. Khác biệt, là cần thắc-mắc, cần học-hỏi do đâu. Khác-biệt, không phải để so-sánh, phân-tranh ngôi vị. Vì, so sánh phân tranh không là giải đáp tốt, ở nhiều trường-hợp.

Thông thường và thích đáng hơn, vẫn là thái-độ biết học và hỏi. Biết áp-dụng lối xử-sự, phương-cách sống của người khác. Chí ít, của người nghèo hèn, tận tuyệt. Phương cách sống và lối xử sự ấy, không nhất thiết phải như đấng bậc phú quý, ở trn cao. Cách hành động và đối xử thích hợp, vẫn có thể và vẫn nên như cách thế của kẻ nghèo hèn, tận tuyệt.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong cho cộng-đoàn thân thương của ta có được phong-cách hành-xử, rất thư-thái xứng-hợp. Thư-thái, như dân thường ở huyện, chốn dân-gian. Những kẻ thấp hèn luôn mong chờ mưa xuống. Mưa hồng-ân. Mưa cứu-độ vẫn đi kèm theo mỗi quà tặng thông-thường, ta nhận-lĩnh. Một khi có được phong-cách nhẹ-nhàng thoải-mái như kẻ nghèo hèn, cùng đinh, ta sẽ thư-thái ngâm lại lời thơ trên, mà rằng:

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,

Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai.

Mưa đầy tóc gió đầy vai,

Sầu treo bốn hướng trôi dài tâm-tư.” (Vũ Hoàng Chương – Bơ Vơ)

Sầu treo bốn hướng/bơ vơ, là tình-trạng người nghèo-khó ở mọi thời vẫn cần mọi người giùm giúp đỡ đần. Và, đỡ đần/giùm giúp, lại là thực-chất lòng đạo không chỉ người Công giáo, hoặc Do thái mới có. Mà là, lòng mọi người ở đời vẫn luôn đùm bọc giùm giúp, hết mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn  

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mt 5: 1-12a)

Một hôm, thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.

Người mở miệng dạy họ rằng:

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.

Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Trả lại anh, câu yêu mà anh đã tặng,

“Trả lại anh, câu yêu mà anh đã tặng,”

Trả lại anh, nhớ nhung mặn nồng cay đắng.

Trả lại anh thư xanh, màu xanh ái ân.

Dĩ vãng buồn, giống nghĩa trang.

Cô đơn, như mộ không tên.”

(Đức Quỳnh – Trả Lại anh)

(1 Phêrô 5: 1-4) 

Trần Ngọc Mười Hai

Anh hay em, mà lại hát câu ca này, rõ ràng như thể bảo: thôi “anh đường anh, tôi đường tôi; tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi!, cho rồi.” Bởi, có hát những câu hay ho/đẹp đẽ như thế, nay đâu còn hợp thời-trang, tình-tự được nữa đâu, cơ chứ!

Không tin ư? Mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp đôi ba ca-từ đến “phát khiếp” như sau:

“Trả lại anh câu yêu em, tình yêu bất diệt.

Trả lại anh với câu xây nhà bên suối.

Trả lại anh hoa khô cài bên bướm xanh.

Đây trang nhật ký đôi ta.

Đang ghi sao đành dở dang.

Khi em yêu anh còn cô gái thơ ngây.

Nay em xin anh trả em lúc ban đầu.

Yêu anh em đâu ngờ duyên kiếp ba sinh.

Van anh quên đi như khi ta chưa hề quen.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Quả là, rất đúng. Hôm nay đây, ở thời buổi này, lại vẫn có những sự thể, thật dễ nói câu “van anh quên đi khi ta chưa hề quen”. Bởi, có quen nhau cho lắm, rồi cũng thấy rối-rắm như trang-huống đang xảy ra ở nhà Đạo.

Trang-huống hôm nay, lại đã có những lời/lẽ rất thương đau như tin tức được loan-truyền trên báo/đài truyền-thông, như sau:

“Đức Tổng Giám-mục Charles Chaput cảnh-giác việc phân-cấp cho các Hộ-đồng Giám-mục có được một số quyền-về kỷ-luật bí-tích, đã phát-biểu:

Giáo-hội là ‘Công-giáo’ còn gọi là ‘phổ quát’. Đúng là chúng ta cần tôn-trọng sự khác-biệt về tính-cách văn-hoá giữa các tín-hữu. Nhưng, ta đang sống sống trong thời-đại có nhiều đổi-thay trên qui-mô toàn-cầu có những rối-loạn và bất-ổn. Nhu-cầu cấp-thiết của ta là sự đoàn-kết. Và nguy-hiểm lớn nhất của ta là sự phân-cấp.

Hỡi anh em,

Ta cần phải rất thận-trọng về việc phân-cấp các vấn-đề về kỷ-luật và tín-điều quan-trong cho phép các Hội-đồng Giám-mục ở các quốc-gia và khu-vực, đặc-biệt khí có áp-lực buộc ta theo chiều-hướng đó kèm một tinh-thần tự khẳng-định và đề-kháng…

500 năm trước, ở vào thời-điểm giống hệt hôm nay, Erasmus của Rotterdam đã viết rằng: sự hiệp-nhất của Hội-thánh là đặc-trưng quan-trọng vào bậc nhất. Ta có thể tranh-luận về những gì Erasmus tin-tưởng thực-sự; và, những gì ông nói trong bài viết của ông. Nhưng, ta không thể tranh-luận về những hậu-quả xảy đến khi sự hiệp-nhất cần-thiết của Giáo-hội bị bỏ qua. Trong những ngày sắp tới đây, xin chúng ta nhớ rằng: tầm quan-trọng của sụ hiệp-nhất và những gì nó đòi hỏi nơi ta, và những gì mất đoàn-kết trong các chuyện nghiêm-trọng như thế có thể mang lại. ” (X. www.Tâmlinhvaodoi.net, Tóm-lược diễn-tiến Thượng Hội-đồng Giám-Mục về Gia-đình, 17/10/15)

Thật ra thì, Thượng Hội Đồng Giám Mục 2015 diễn-tiến cũng không tệ. Chỉ mỗi điều, là: các nghị-phụ nhà mình, nay có quyền phát-biểu/tỏ-bày ý-kiến tư-riêng của các phe/nhóm khác nhau trong Hội-thánh thế giới. Không chia rẽ hoặc phân-biệt mà chỉ mỗi khác nhau về chánh-kiến/lập-trường. Và, khi đã đi vào hiện-thực, thì phe/nhóm nào cũng sẻ-san đường-lối cũng rất chung, thôi.

Đó là điều, mà nhiều đấng bậc lâu nay vẫn tỏ-bày ý-kiến về các khó-khăn của Giáo hội khi tiếp-cận các vấn-đề nhức-nhối về người Đồng-tính luyến-ái.

Giám mục Geoffrey Robinson từng viết nguyên cuốn sách để bàn về vấn-đề này, vào lúc trước khi Thượng Hội Đồng Rôma  khai mạc hồi tháng 10/2015 mà Chuyện Phiếm Đạo Đời đã trích-dịch nhiều qua các bài phiếm lai rai, đây đó. Nay, lại xin tiếp tục triển-khai thêm một số lý-chứng từng tạo khó-khăn cho Giáo-hội khi cần thay-đổi giáo-huấn mình vẫn dạy.

Để bà con có thể bàn-bạc chuyện gay-go theo chiều-hướng nhẹ-nhàng, xin mạo muội, đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu chuyện tiếu-lâm chay ở dưới, khi kể về những cái khó trong chung sống:

Lão vốn mang tiếng cả khu chung cư là sợ vợ và đang di căn sang giai đoạn cuối là khiếp vợ, thế mà tối nay thấy tiếng lão quát vợ rung chuyển các tầng. Kính trọng quá đi. Đàn ông là phải thế chứ.

Nhà cháu chạy sang đứng ngoài cửa.

-Choang!Choang! (Tiếng bát vỡ kinh quá)

-Bụp! (Một cú đá chéo góc).

– Im mồm, tôi bảo cô im đi cơ mà…Im để cho tôi nói, cô đã làm nhơ cái mặt tôi ở khu chung cư này rồi, ai cũng bảo là: tôi sợ vợ, ngay cả lão Vinh kia hễ gặp tôi là nói kháy, là đá đểu rằng tôi sợ vợ. Bây giờ thì đừng hòng. Hôm nay tôi phải dạy cô một lần cho biết.
– Choang! Rắc! Ùm! (tiếng bát vỡ, và cả tiếng ly/cốc, chân bàn gãy, nghe kinh khủng quá)
– Tôi đi ra khỏi nhà là cô la, về muộn một tí thì cô chửi, gặp phụ nữ thì cô cho là tôi đã cặp bồ, cái ví của tôi cô xẻo hết từng đồng tiền lẻ, cái máy điện thoại của tôi mang về, là cô kẹp chặt trong nách, cô một vừa hai phải thôi, nhớ rõ chưa? Nhớ chưa? Há miệng ra mà vâng trước mặt tôi ngay, há ngay ra!

– Bốp. Bốp. Bốp. (Rõ ràng có tiếng đánh từ bàn tay phải của lão đập vào má trái người vợ).

– Cô ngó lên tầng 15 mà xem, cái lão dê già ấy đấy, ai không biết là lão sát gái, vợ lão cũng biết mà có dám hó hé gì, đâu? Tôi nói thế có đúng không? Thế mà, mới thấy tôi búng vào má em nào một phát, vỗ lưng, vuốt tóc một cái thì cô lồng lộn lên là thế nào? Cô chửi tôi cứ như đảng và nhà nước chửi bọn phản động, thế nghĩa là thế nào? Từ giờ trở đi, chừa ngay cái thói bắt nạt chồng nghe chưa, chồng thay cha thay mẹ, hễ nói một câu là vợ phải dạ một câu, nghe chưa?

Viu…viu…viu…(Ôi giời đá gió đây, gọi là song phi đấy!

– Cô đưa con dao cho tôi, đưa đây! Tôi sẽ chặt ngón tay của cô để cô luôn nhớ rằng, cô là vợ, tức là ở dưới cơ chồng, cô hiểu chưa, đưa dao đây!

Nhà cháu hoảng quá, phải cứu cô ấy chứ, nhà cháu xô cửa lao vào trong. Lão hàng xóm đằng đằng sát khí đứng giữa phòng, bát chén, cốc ly vỡ tung tóe cứ như trung tâm thủ đô Kiev. Nhà cháu ôm ghì lấy lão:

-Ấy… Bình tĩnh đã… Ai lại đánh mắng vợ con như thế hả giời?…

-Nhưng em không thể chịu được, điên lắm rồi, phải dạy vợ cho ra dạy bác ạ.

-Thế cô ấy đâu, cô ấy đâu?

-Cô ấy về quê hôm qua rồi bác ạ.” (trích truyện kể của Nguyễn Quang Vinh)
Kể truyện tiếu-lâm chay như thế, chỉ để nói lên điều này, là: trong đời người, vấn-đề nào cũng có mặt phải/mặt trái của nó, hết. Việc gì đề ra, cũng có người thuận, có người chống lại ý-tưởng của người khác, có khi cả ý-tưởng của chính mình vừa nói xong cũng chống hết.

Để chuyện phiếm hôm nay thêm phần đa-dạng, xin bạn và tôi, ta nghe thêm đôi điều về một nhân-vật lỗi lạc ở trời Tây nuớc Nga, đó là nhà văn Leon Tolstoy cũng có ý-kiến rất “thực” về nền thần-học Hội-thánh rất chung, như sau:

“Cuối thời mình, đặc-biệt là vào lúc ông viết truyện giả-tưởng nổi tiếng hồi thập niên 1860 và 1870, lúc ấy ông cho xuất-bản cuốn “Chiến-tranh và Hoà-bình” cũng như cuốn “Anna Karina”, tác-giả Leon Tolstoy đã bị rung-động bởi cơn khủng-hoảng cá-thể và về tinh-thần, đến độ ông đã phải dừng lại không viết tiểu-thuyết nữa. Khi ấy, tưởng chừng như ông đang rơi vào nỗi rã-rờituyệt-vọng, đến khủng-hoảng, cứ bận-tâm nhiều với chuyện chết choc và tự vẫn. Và khi ấy, ông lại đã trải-nghiệm một hiện-hữu rất đơn-huầnvề một niềm tin vô-vọng, cứ nghĩ mình chỉ là mớ bòng bong, hỗn-tạp, sống không mục-đích. Và khi ấy, ông thấy cuộc đời con người đích-thị là ác-thần/sự dữ, rất không sai. Trong nỗi hốn-cùng sâu lắng về hiện-sinh, Leon Tolstoy đã nhớ về Đạo Chúa mà ông từng sống vào thời thơ-ấu. Và rồi, ông tìm lại được một vài hy-vọng nhỏ trong liên-tưởng đến tín-hữu chân-phương, giản-dị mà ông đã cùng sống cũng như lớn lên với họ, trong quá-khứ.

Ông nhìn thấy nơi tín-hữu bình-dị ở quê nhà, một gương sáng sống đời người đích-thực, đầy đặn. Và, nỗi nhớ này đã khích-lệ ông khởi-đầu suy-tư/học-hỏi sâu-sắc về giáo-huấn trong Đạo mà ông gặp được ở Tin Mừng. Khủng-hoảng về linh-đạo và hệ-quả nó dẫn đến được ông ghi lại từng chi-tiết trong các tác-phẩm không giả-tưởng chút nào, được ông dùng để làm lực đẩy cho các bài viết cùng các sách về cuộc sống tâm-linh cụ-thể, như: Một lời xưng thú: Những gì tôi tin” và “Vương Quốc Nước Trời, ở bên trong con người quí vị.” (x. Leon Tolstoy, The Life of Jesus The Gospel in Brief, Harper Perennial 2011, Foreword, tr. Vii)

Sau đến, là ý-kiến của Gm Geoffrey Robinson khi ông nói đến khó-khăn trong giải-quyết vấn-nạn/đòi hỏi phải có thay-đổi trong chính-sách đối xử và suy-tư về người đồng tính luyến-ái, lý thừ như sau:

“Lý-do khác khiến ta cần đổi thay giáo-huấn Hội-thánh Công-giáo, là vì giáo-huấn ấy chỉ là những tuyên-ngôn mang tính khẳng-định từ trên hơn là chú-trọng vào bàn-luận, thương-thảo.

Yếu-tố hiệp-thông và cộng-sinh, là khía-cạnh thiết-yếu làm nền cho hôn-nhân giữa hai người, miễn là họ theo-đuổi những điều sau đây:

– chúng phải là yếu-tố thiết-yếu cho từng cuộc hôn-nhân riêng-rẽ, không cần biết hoàn-cảnh của mỗi cặp có ra thế nào đi nữa, phải thế chứ?

– chúng phải là những yếu-tố thiết-yếu cho mỗi động-tác xác-thịt chứ? Động-tác thực-hiện dựa trên căn-bản nào?

Như, trường-hợp cặp hôn-nhân đặc-biệt nọ được các chuyên-gia y-tế khuyên can đừng nên có con, nếu không trẻ bé sẽ phải bị bệnh nghiêm-trọng và tật nguyền bảm-sinh/di-truyền, nên họ đi đến quyết-định nuôi con nuôi hơn là có con do mình sinh. Làm thế, họ có chống lại ý Chúa không? Có cặp khác nghĩ rằng mình đã có khá nhiều con rồi, nên không có khả-năng tài-chánh và tâm-lý để có thêm con nữa sợ rằng sẽ nặng gánh gia-đình. Dựa trên căn-bản nào ta khẳng-định rằng họ làm thế là chống lại ý Chúa, đây?

Rất nhiều trường-hợp khó-khăn khi nhiều người vẫn tuyên-bố là họ biết ý của Chúa, nữa. Vậy thì, nếu ta khẳng-định rằng đó là ý của Chúa và cũng là trật-tự thiên-nhiên, vậy thì cả hai khía-cạnh hiệp-thông và cộng-sinh đều nhất-thiết phải có mặt trong mỗi động-tác ăn-nằm xác thịt như một hành-xử được chứng-thực hoặc là khẳng-định chân-phương, giản-dị chứ? Nếu đó là hành-động được chứng-tực, thì đâu là chứng-cớ? Thế, tại sao tài-liệu của Giáo-hội lại không đưa chứng-cứ nào như thế? (*6) Phải chăng bất kỳ chứng-cứ  nào cũng phải bao gồm kinh-nghiệm từng-trải của hàng triệu người trong cố-gắng phối-hợp dục-tình, thương-yêu và việc cộng-tác sản-sinh cuộc sống mới trong bầu khí hỗn-độn của dục-tính con nguời và tính phức-tạp nơi sự sống con người chứ? Phải chăng lý-tưởng bao giờ cũng lẫn lộn với thực-tại?

Nếu giáo-huấn của Hội-thánh chỉ là khẳng-định từ trên ban xuống, thì có chăng lý-do hỏi rằng tại sao ta lại không được phép áp-dụng nguyên-tắc hợp lý cứ luôn bảo: những gì dễ khẳng-định cũng dễ dành bị bác-bỏ, không? Nếu chuyện ấy không hơn gì một khẳng-định, thì việc  thực-sự quan-trọng là: ai là khẳng-định hoặc làm sao mà việc ấy lại được khẳng-định ras61t thường như thế? Đâu là lý-sự có lợi cho sự việc khẳng-định rằng việc ấy sẽ thuyết-phục được một lương-tâm cởi mở và lương-thiên, đây? (Xem thêm Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod: The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ARF 2015, tr.15-16)

Nói cho cùng, có bàn-thảo nhiều về vấn-đề sống cùng và sống với những người đồng-tính luyến-ái và/hoặc chuyệnvợ-chồng đã ly-dị rồi tái-giá, có được hiệp-thông rước lễ hay không vẫn là luật lệ có từ một khẳng-định từ trên phán xuống.

Nói cho cùng, thì có đụng chuyện trong chung sống hoặc phải giải-quyết những nố khó-khăn trong sống đời thực-tế hôn-nhân, luyến ái, mới thấy rằng: chuyện đời thật không dễ. Không dễ hiểu, cũng chẳng dễ cảm-thông nếu mình không ở cùng một hoàn-cảnh, với người trong cuộc hoặc bị-động.

Nói cho cùng kỳ lý, thì: tất cả chỉ để bạn và tôi, ta có cơ-hội đểm phiếm ba điều bốn chuyện, không phải của do mình hoặc thiết-thân với chính mình, gia-đình mình.

Nói cho cùng và chon gay, chi bằng ta cứ vào vườn hoa Lời Chúa có những Tin Mừng để đời như tác-giả người Nga ở trên từng trải-nghiệm.

Nói cho cùng, cũng nên nhìn về quá-khứ trong đó mình từng được nghe nhiều và học nhiều, những điều do bậc thánh-hiền vẫn từng bảo:

“Cùng các bậc kỳ mục trong anh em,

tôi xin có mấy lời khuyên nhủ,

vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục,

lại là chứng-nhân những đau khổ của Đức Kitô

và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai.

Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em:

lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng,

nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn,

không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn,

nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ.

Đừng lấy quyền mà thống-trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em,

nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.

Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện,

anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.”

(1 Phêrô 5: 1-4)

Nói theo nhà Đạo, thì như thế. Như thế, tức làm sao để các bậc kỳ-mục/thủ-lãnh cũng như dân-gian dưới trướng được sống đời thoải-mái trong yêu thương. Chứ không chỉ câu-nệ luật lệ, mà thôi. Dù luật ấy có là giáo-luật. Dù điều ấy có là giáo-huấn rất “khẳng-định” từ trên phán xuống.

Nói theo kiểu người ngoài luồng, ngoài đời là nói bằng cung-giọng/điệu hát có lời ca rất âm-thầm, nhè nhẹ đầy chất thương yêu như người thường ở huyện, vẫn cứ hát những câu như:

“Trả lại anh câu thơ người em tóc thề

Trả lại anh khóc thương cho phận con gái

Trả lại anh tương tư mà anh đã trao

Bên nhau tình nhớ với thương

Xem như cơn mộng mà thôi

Coi nhau như bạn mà thôi.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Hát thế rồi, ta lại tìm đến những truyện kể do bạn-bè/người thân những sưu-tầm để ta viết phiếm. Viết cho đời thêm phấn-chấn. Nghe kể, cho đời mình được nhiều tiếng cười vẫn quẩn quanh đâu đó, những muốn vui, như sau:

“Cô sinh viên nọ, bận tâm về chuyện bồ-bịch và gia-đình, nên đã biên thư hỏi ý mẹ như sau:

-Kính thưa mẹ, mọi việc đang diễn ra tốt đẹp ở trường. Con đã gặp một anh sinh-viên tuyệt-vời nhất từ trước tới nay. Anh ấy học năm thứ ba. Anh ấy chơi bong đá, đang học để chuẩn-bị ra trường làm bác-sĩ, đạt hạng xuất-sắc, dáng người cao ráo, đẹp trai. Con đã hẹn đi chơi với anh ấy 8 bận  rồi và đã mặc 8 chiếc áo đầm mà con có. Giờ, thì con cần thêm một chiếc áo nữa, để cho buổi hẹn sắp tới, bởi vì anh ấy đã mời con đi xem hát với anh ấy. Mẹ có vui lòng gửi cho con 25 đôla, để con mua một chiếc áo mới được không, hả mẹ?

Bà mẹ trả lời:

-Đâu cần phải mua áo mới làm chi cho rắc rối thế con. Hãy tìm một bạn trai mới và làm lại từ đầu, thế thôi!” (truyện kể trên mạng, không ghi tên tác-giả)

Truyện kể ở trên mạng, có thể cũng là chuyện đời người rất kinh-nghiệm. Kinh-nghiệm của người mẹ ở trên chưa chắc đã là “giáo-huấn” ở đời, như một khẳng-định từ trên xuống. Cũng có thể, chỉ là chuyện thời xưa thích-hợp cho thế-hệ già nua, tuổi tác, rất khô-cứng. Chí ít, là chuyện luật và lệ ở nhà Đạo, dành cho người đi Đạo, sống đời thực-tế rất lâụt-lệ, mà thôi.

Nói thì nói thế, chứ cũng tùy bạn tùy tôi, ta đứng từ góc độ nào mà nhìn đời, rồi xử-thế.

Nói thì nói thế, nay xin bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang bước vào giòng đời dù đổi-thay hay vẫn thế, cũng cứ mặc. Cứ hát lên, câu ca/điệu nhạc dù buồn phiền hay phấn khởi, vẫn cứ hát cho đời lên hương. Để rồi, ta sẽ cùng sống với mọi người, suốt những ngày còn lại trong cõi đời đầy đổi thay, như thế này:

“Trả lại anh câu yêu em, tình yêu bất diệt.

Trả lại anh với câu xây nhà bên suối.

Trả lại anh hoa khô cài bên bướm xanh.

Đây trang nhật ký đôi ta.

Đang ghi sao đành dở dang.

Khi em yêu anh còn cô gái thơ ngây.

Nay em xin anh trả em lúc ban đầu.

Yêu anh em đâu ngờ duyên kiếp ba sinh.

Van anh quên đi như khi ta chưa hề quen.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã trải-nghiệm những ngày buồn

Có câu ca, bài hát rất không vui

Như mọi ngày.

Tam giác nghi vấn

Tam giác nghi vấn

TRẦM THIÊN THU

Con người luôn thắc mắc về chính mình, về nguồn gốc và về đích đến – tức là thắc mắc về quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là một tam-giác-nghi-vấn khiến con người lao tâm khổ tứ và tốn công hao của. Các chuyên ngành – từ khoa học tới y học, từ vật lý học tới thiên văn học, từ nhân chủng học tới khảo cổ học,… – vẫn không ngừng nỗ lực tìm kiếm từ xưa tới nay, thế nhưng con người vẫn không thể tìm ra đáp án nào thỏa mãn nhất. Không thấy đạo nào nhắc đến nguồn gốc của con người, chỉ nói đến giáo lý của đạo hoặc học thuyết, nhưng Kitô giáo mạch lạc “hai năm rõ mười”.

Con người là ai?

Ngày xưa, trong chương trình giáo dục tiểu học có ngụ ngôn “Con trâu, Con cọp và Con người” thế này:

Ngày xửa ngày xưa, khi dắt trâu ra ruộng, người ta thường lấy dây buộc vào sừng trâu mà kéo đi. Một hôm, có con chim đậu ở bụi cây, thấy người nông dân dẫn trâu đi như vậy, bèn hỏi: “Sao ông không thọc lỗ ở mũi trâu mà dắt đi?”. Người kia bèn buộc con trâu vào gốc cây, đâm thủng mũi trâu, xỏ dây và dắt đi. Sau đó có nhiều người bắt chước theo. Một hôm, sau buổi cày, khi người chủ nghỉ ngơi, còn trâu đang gặm cỏ, thì có một con cọp đến hỏi trâu: “Này trâu, sao mày to xác như vậy mà lại để cho một thằng người bé nhỏ xỏ mũi kéo, đánh đập, mà mày cứ chịu lép vế sao?”. Trâu trả lời cọp: “Tuy bé nhỏ nhưng con người có trí khôn to lớn”.

Vừa lúc ấy, người đi cày trở lại, cọp bèn hỏi: “Nghe trâu nói là người tuy bé nhỏ nhưng có trí khôn. Vậy trí khôn đâu, cho tôi xem với”. Người đi cày đáp: “Trí khôn tôi để ở nhà”. Cọp bảo: “Hãy về nhà lấy trí khôn cho tôi xem”. Người nông dân trả lời: “Được chứ! Nhưng e rằng trong lúc tôi vắng mặt thì ông cọp ăn mất trâu của tôi. Vậy, cọp có bằng lòng cho tôi trói lại đã, rồi tôi về nhà lấy trí khôn cho mà xem được không?”. Cọp bằng lòng ngay.

Người đi cày lấy dây thừng cột cọp thật kỹ vào gốc cây, rồi ông lấy một chiếc gậy to vừa đánh vào đầu cọp vừa nói to: “Trí khôn của tao đây này”. Trâu thấy vậy, cười ngả nghiêng, híp mắt vào nên đập hàm vào đất, gãy cả hàm răng trên. Do đó, loài trâu sau này không còn hàm răng trên nữa. Còn loài cọp thì bị rằn rện, lông có những vết sọc đen trên mình là dấu tích bị loài người đánh.

Giết một con vật thì không có tội, nhưng giết một con người thì tội tày trời. Giết một con vật mà có tội chỉ vì con vật đó thuộc loại quý hiếm, nhưng tội giết động vật quý hiếm cũng chỉ là khinh tội, không như tội giết con người. Thậm chí chỉ đối xử tệ với con người cũng là trọng tội, vì con người là động vật cao cấp nhất, mỗi người đều có trọn vẹn một nhân vị, một nhân phẩm và đầy đủ nhân quyền.

Dù chỉ là động vật, sống theo bản năng, không biết lý luận, nhưng con chó bị dồn vào góc tường thì nó cũng chống trả bằng cách cắn lại ngay cả chủ của nó. Những người làm xiếc có khi cũng “sinh nghề tử nghiệp” vì chính con vật mà mình đã thuần hóa. Nói chung, loài vật không biết phân biệt điều thiện hay điều ác. Ngược lại, con người biết phân biệt và biết suy nghĩ, có người phản ứng mạnh nhưng có người lại nhịn nhục – như tục ngữ nói: “Một sự nhịn chín sự lành”. Thế mới là con người.

Con người đến từ đâu?

Người ta cho rằng con người tiến hóa từ loài khỉ. Nói như vậy nghĩa là con người xuất xứ từ loài khỉ, và như vậy khỉ là tổ tiên của con người. Nói vậy thì bạn sẽ tự ái và nói: “Khỉ làm sao có thể là tổ tiên của tôi?”. Đúng vậy, nhưng khi bạn công nhận con người tiến hóa từ loài khỉ – dù gián tiếp hay trực tiếp, nghĩa là bạn đã chấp nhận “khỉ là tổ tiên của mình”.

Có 3 loài chính: Thực vật, Động vật và Con người. Thực vật có sinh hồn, tức là chỉ sống mà không có cảm giác; động vật có giác hồn, tức là sống và có cảm giác, chỉ sống theo bản năng sinh tồn; con người có linh hồn, tức là không chỉ sống và có cảm giác mà còn có trí khôn, biết sáng tạo, biết phân biệt thiện và ác.

Loài này không thể là loài kia – dù là động vật: Con vật không thể là con người, và tất nhiên con người không thể là con vật. Con nòng nọc biến hóa thành con nhái, con ếch, dù hai con khác nhau nhưng vẫn là “loài tương cận”. Cũng vậy, con ngài biến thành bướm, nhưng chúng vẫn chỉ là loài động vật có giác hồn. Con chó có hình dáng giống con bò, con trâu, nhưng mãi mãi là loài chó; con cọp có dáng giống con beo nhưng không bao giờ là con beo. Con tinh tinh nhìn giống con vượn nhưng khỉ không thể là vượn. Sáo có thể bắt chước âm gần giống tiếng người, cà cưỡng cũng có khả năng đó, nhưng sáo là sáo và cà cưỡng là cà cưỡng. Những loài gần giống nhau nhưng không cùng “họ hàng thân thuộc” mà chỉ là “những con tương cận”.

Kitô giáo tin rằng Thiên Chúa dựng nên con người, có nam có nữ, theo hình ảnh của Ngài (St 1,26-27), Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người (đàn ông), rồi thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7). Rồi Ngài thấy con người ở một mình không tốt (St 2,18) nên Ngài lấy xương sườn của người đàn ông để tạo nên phụ nữ (St 2,21-22).

Chắc chắn rằng loài khỉ không thểkhông bao giờ là tổ tiên của loài người. Và chắc chắn bất kỳ ai cũng không hề muốn chấp nhận loài khỉ là tổ tiên của mình! Con người phải xuất xứ từ một Đấng Tạo Hóa quyền năng và vô thủy vô chung, đó là Ông Trời, đó là Thiên Chúa.

Con người đi về đâu?

Khởi đầu cuộc đời bằng tiếng khóc, kết thúc cuộc đời bằng giọt nước mắt. Sinh ra trắng tay, chết cũng trắng tay. Được tạo nên từ bụi đất thì sẽ trở về với bụi đất, nơi mình xuất phát. Đó là điều chắc chắn!

Nhưng đó là theo nhãn quan trần thế. Chó chết thì hết chuyện. Con người chết không hết chuyện. Cọp chết còn để da huống chi con người. Chó chết không ai xây mộ, lập bàn thờ hoặc thắp nhang trước di ảnh… chó. Nhưng con người chết, dù là ai, cũng được tổ chức đám tang trang trọng, được lập mộ, được lập bàn thờ và được thắp nhang trước di ảnh, thậm chí còn được cầu khấn xin phù hộ. Ngay cả những người không có niềm tin tôn giáo cũng lâm râm khấn vái với người quá cố. Lạ thật!

Từ 1 tới 8-11, khi lãnh ân xá để cầu cho các linh hồn nơi luyện hình, chúng ta đọc Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau”. Đó là đích đến của mỗi người, nghĩa là hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa đời đời trên Thiên quốc. Nếu không được làm công dân Nước Trời là chúng ta phụ tình Chúa, là uổng phí Ơn Cứu Độ, vì chính Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân kia mà. Lòng Chúa Thương Xót ngoài sức tưởng tượng của con người. Mừng lễ chư thánh là mừng Giáo Hội Khải hoàn, cầu cho các linh hồn là chia sẻ yêu thương và là nhiệm vụ của chúng ta đối với Giáo Hội Đau khổ, đồng thời chúng ta cũng cầu cho chính mình là những thành phần của Giáo Hội Chiến đấu. Đó là Giáo Hội hiệp thông với 4 đặc tính: uy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.

Với con người bình thường thì “đau đầu” vì tam-giác-nghi-vấn kia, nhưng với người có niềm tin vào Thiên Chúa thì đó là một hành trình thú vị và đầy ý nghĩa vậy. Bởi vì Thiên Chúa đã khuyến khích: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1,17-18).

TRẦM THIÊN THU

Hồng Y Dòng Tên từng nhặt rác và tù đày dưới thời cộng sản đã về với Chúa

Hồng Y Dòng Tên từng nhặt rác và tù đày dưới thời cộng sản đã về với Chúa

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2015/10/RV10442_Articolo.jpg

NITRA. Đức Hồng Y Dòng Tên Ján Chryzostom Korec đã từ trần vào lúc 13h30 ngày 24.10.2015, hưởng thọ 91 tuổi. Ngài nguyên là Giám mục Nitra, thuộc Cộng Hoà Slô-va-ki-a, và là nhân vật thuộc giai đoạn tiên khởi của công cuộc đấu tranh của Giáo Hội Công Giáo cho sự tự do và chế độ dân chủ ở Tiệp Khắc cũ trong suốt thời gian của chế độ cộng sản. Đây là ai tín được Phòng báo chí của Hội đồng giám mục Slô-va-ki-a phát đi hôm 24.10.2015.

ĐHY Korec sinh tại Bosany, thuộc giáo phận Nitra, ngày 22.01.1924. Ngài gia nhập Dòng Tên ngày 15.09.1939, rồi bị ngắt quãng việc học triết học năm 1950, do chế độ cộng sản tiến hành giải tán các dòng tu tại nước này. Ngài thụ phong linh mục ngày 01.10.1950, và rồi ngày 24.08.1951, ở tuổi 27, được truyền chức giám mục trong âm thầm dưới sự chủ phong của Đức Cha Pavel Hnilica. Nơi nhà máy trong 9 năm liên tục, ĐHY đã thi hành cách âm thầm thừa tác vụ linh mục và giám mục của mình mà không bị phát giác, mãi cho đến lúc bị bắt và bị kết án 12 năm tù vì bị gán ghép tội phản bội, vào ngày 11.03.1960. Trong tù, ĐHY đã gặp gỡ cỡ chừng 200 linh mục và 6 giám mục.

Ngài được phóng thích năm 1968 trong thời kỳ “Mùa xuân Prague” khi đang mắc bệnh nặng. Cùng năm đó, lần đầu tiên, ngài cử hành thánh lễ công khai. Ngài được phục chức năm 1969, và cầm hộ chiếu đi Roma để gặp gỡ Đức Thánh Cha Phaolô VI. Cũng trong dịp đó, ngài đã lãnh nhận chính thức huy hiệu giám mục của mình, 18 năm sau ngày chịu chức giám mục, nhưng ngài chỉ có thể mặc phẩm phục Giám mục trong năm 1989. Sau khi được phóng thích Ngài đã làm việc như người nhặt rác ở Bratislava, rồi làm việc như một công nhân trong ngành công nghiệp hoá chất. Sự phục chức cho Ngài bị huỷ bỏ vào năm 1974 và rồi Ngài lại bị kết án thêm bốn năm tù giam. Sau đó Ngài lại được phóng thích vì lý do sức khoẻ, nhưng không thể tiếp tục công việc nhặt rác nên từ đó ngài thất nghiệp. Sau đó, ngài quay trở lại làm trong ngành công nghiệp hoá chất mãi cho đến năm 1984. Dưới chế độ cộng sản, Đức Cha Ján Chryzostom Korec đã truyền chức âm thầm cho khoảng 120 linh mục.

Ngài làm giám mục Nitra từ 06.02.1990 đến 09.06.2005 và là chủ tịch Hội Đồng Giám mục Slô-va-ki-a từ 1990-1993. Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vinh thăng Hồng Y trong Công nghị Hồng y ngày 28.06.1991, với hiệu toà nhà thờ Thánh Fabiano và Thánh Venanzio ở Villa Fiorelli. Ngài là tác giả của rất nhiều tác phẩm, trong số đó nổi tiếng nhất là tác phẩm “Đêm tối của những kẻ Barbarians” (Tập Hồi ký ghi lại những bách hại của chế độ cộng sản đối với Đức Hồng Y Slô-va-ki-a) đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bất kể tuổi già và những vấn đề về sức khoẻ, ĐHY vẫn tiếp tục xem là một trong số những nhân vật có uy thế và thẩm quyền luân lý trong xã hội Slô-va-ki-a. Năm 2014, nhân dịp 90 năm sinh nhật của ĐHY, ngành bưu chính Slô-va-ki-a đã cho ra đời một con tem có in hình ngài.

Với sự qua đời của ĐHY Kocec, Hồng y đoàn chỉ còn 218 vị, trong đó có 118 vị Hồng Y cử tri.

Jos. Nguyễn Huy Mai

Tháng 10 Kính Đức Mẹ Mân Côi

 Tháng 10 Kính Đức Mẹ Mân Côi

Tháng 10 được dành để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi.  Ngày 7 tháng này được giáo hội mừng kính Đức Mẹ Mân-côi.

Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa Minh (Dominic) thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Albigensianism (*).

Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi.  Đức Mẹ bảo thánh Đa Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.

HOLY ROSARY OF VIRGIN MARY

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội.  Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.   Rất nhiều lần Đức Mẹ hiện ra đều cho thấy tay Mẹ cầm chuỗi tràng hạt Mân Côi.

Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi khi ngài đi bách bộ.  Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi.  Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.

Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng thánh Giáo-hoàng Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571.  Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary confraternities) tại Rôma và những nơi khác.  Do đó, thánh Giáo-hoàng Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.

Năm 1573, Đức Giáo-hoàng Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi.

Năm 1671, Đức Giáo-hoàng Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha sau chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày 5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary).

Do đó, Đức Giáo-hoàng Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.  Từ ngày ấy đến nay, giáo-hội hoàn vũ đặc biệt kính Đức Mẹ Mân Côi vào tháng 10 và tất cả mọi tín hữu có thói quen đua nhau đọc kinh Mân-Côi trong tháng này.

Lm. William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống Chúng ta” (Mary in Our Lives) như sau :

      “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ.  Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không những vì mong được lợi cho mình, cho gia đình, cho giáo-hội và cho thế giới…mà trước tiên vì lòng yêu mến Chúa và Mẹ Maria chân thành.

(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).

Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

Sưu Tầm và Tổng Hợp từ bài của Trầm Thiên Thu

TÔI VẪN LUÔN CHỜ BẠN…

TÔI VẪN LUÔN CHỜ BẠN…

Tri’ch EPHATA 664

CHO BANSáng nay, khi Bạn vừa thức dậy, Tôi nhìn Bạn và chờ đợi Bạn nói với Tôi đôi lời: để cám ơn về những điều tốt lành Bạn đã gặp được ngày hôm qua, hoặc để hỏi xem Tôi có ý kiến gì giúp Bạn cho ngày hôm nay hay khơng… Đôi lời ngắn ngủi thôi cũng được… Nhưng Bạn mải lo mở tủ tìm chọn bộ quần áo vừa ý… Nên Tôi lại phải chờ.

  1. Bạn đã mặc quần áo xong, Bạn còn 15 phút rảnh rỗi. Tôi hy vọng Bạn sẽ lên tiếng chào Tôi. Nhưng không, Bạn lại ngồi xuống chiếc ghế bành, im lặng, thanh thản. Tôi vẫn kiên nhẫn chờ.
  2. Chợt Bạn đứng lên. Tôi tưởng Bạn sẽ lại gần Tôi và nói đôi lời gì đó. Thế nhưng Bạn lại tiến về phía chiếc máy điện thoại để bàn, quay số đến một người Bạn thân, hai người đấu láo với nhau một hồi. Và Tôi vẫn tiếp tục chờ.
  3. Rồi đến giờ Bạn xuống khỏi căn hộ chung cư, dắt chiếc Honda ra và nổ máy… Bạn đến chỗ làm. Và tôi tiếp tục chờ Bạn suốt buổi sáng.
  4. Đã đến giờ ăn trưa. Bạn ngồi vào bàn ở căn-tin, rảo mắt nhìn quanh. Bạn thấy vài người ở những bàn bên cạnh cúi đầu thầm thì nói với Tôi đôi lời trước khi ăn. Tôi tưởng Bạn cũng sẽ làm thế. Nhưng không, Bạn bắt đầu ăn ngay bữa trưa một cách ngon lành ! Và Tôi lại tiếp tục chờ.
  5. Ăn xong, Bạn còn một khoảng thời giờ thảnh thơi. Tôi thầm mong Bạn sắp nói gì đó với Tôi. Nhưng chẳng có một lời nào cả. Tôi vẫn phải chờ…
  6. Buổi chiều, tan sở, Bạn lên xe về nhà. Chắc hẳn có biết bao điều Bạn sẽ kể cho Tôi nghe. Tôi chờ. Nhưng Bạn chạy thẳng một mạch với tới chung cư, đi thang máy, lên tới căn hộ nhỏ của Bạn. Rồi Bạn lao ngay vào phòng tắm… Và Tôi vẫn chờ.
  7. Bạn đã cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Nhưng Bạn không thấy Tôi đang chờ. Bạn chỉ nhìn thấy cái TV. Bạn mở máy xem trực tiếp một trận bóng đá giải ngoại hạng Anh, để mặc Tôi tiếp tục đợi chờ.
  8. Rồi Bạn lên giường, suy nghĩ mông lung trong khi chờ giấc ngủ đến. Bạn nhớ lại đủ thứ chuyện, đủ thứ người, chỉ trừ mỗi Tôi là Bạn quên mất. Có lẽ vì Bạn không biết Tôi vẫn luôn ở bên cạnh Bạn. Bạn không thấy Tôi, nhưng Tôi vẫn luôn ở kề bên Bạn, yêu thương Bạn, rất muốn nói chuyện với Bạn, để an ủi, để chia sẻ, để góp ý, để động viên… Bạn không biết, không để ý gì cả. Và Bạn thiếp dần vào giấc ngủ. Tôi vẫn nhẫn nại đợi chờ…
  9. Một ngày mới lại bắt đầu. Bạn vừa thức dậy… Tôi hy vọng hôm nay Bạn sẽ dành ra đôi phút để nói điều gì đó với Tôi. Tôi vẫn chờ Bạn đấy. Chúc Bạn một ngày tốt đẹp…

Biên tập lại từ GÓP NHẶT CÁT ĐÁ