Ta có gì đâu ngoài trái tim,

 “Ta có gì đâu ngoài trái tim,”

Đem phơi hệ luỵ giữa thanh-thiên.

Ngờ đâu thiên-hạ vô tâm quá,

Mua vui trên những nỗi đoạn-trường.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá lược dịch.

Thiên-hạ vô-tâm quá, đâu ngờ ta còn có trái tim. Vậy mà thiên-hạ vẫn cứ ngờ và làm ngơ cảnh đoạn-trường giữa thanh-thiên ban ngày như truyện Chúa kể ở dụ-ngôn về người Samaritanô không vô-tâm trước nỗi đoạn-trường của người dưng bên vệ-đường, rất thương tâm.

Có lần, cựu thủ-tướng nước Anh là bà Margaret Thatcher đã méo mó nghề chính-trị, khi bình-luận truyện người Samaritanô nhân-hiền theo nhãn-giới chính-trị. Bà cho rằng: sở dĩ người Samaritanô làm phước làm đức là vì ông vốn dĩ là người lao-động cật-lực, năng dành-dụm tiền của, nên mới có khả-năng giúp đỡ người khác, ở vệ đường. Và, bà còn bảo: trọng-tâm của dụ-ngôn Chúa kể, là bằng chứng để bà khuyến-khích người thất-nghiệp ở nước Anh hãy hăng say làm việc cật-lực ngõ hầu tạo được an-sinh cho xã-hội.

Kể ra thì, nữ thủ-tướng này chỉ nói đúng có một phần, mà thôi. Đúng, là đúng theo tầm-nhìn méo mó của chính-trị-gia chuyên nói-dối và bẻ quặt sự thật, dù đó có là sự thật của Phúc Âm hoặc gì khác chỉ với mục-đích quyết đạt cho được điều mà cá-nhân hoặc đảng-phái của mình từng muốn thế. Thực-tế cuộc đời, lại hoàn-toàn khác. Với Tin Mừng thánh Luca, người Samari đại diện cho nhóm người ngoài Đạo, ngoài đời. Những người không có thái độ vênh vang, tự hào cho rằng mình chỉ biết có luật là luật.

Về việc tốt lành người Samaritanô ngoài Đạo làm, thánh Tôma Aquinô giải thích: hành động bác ái chính là mẹ hiền của các nhân đức. Đức bác ái, sẽ giải quyết mọi ước nguyện để giúp ta nhìn rõ những điều ta thực sự muốn làm. Người có lòng từ tâm bác ái, thấy được nhu cầu phải yêu thương mọi người. Nhu cầu ra tay giúp đỡ những ai cần mình giúp.

Truyện kể hôm nay, cho thấy có bốn loại người dính dự trong cuộc. Trước nhất là vị tư tế chuyên hành thiện, rồi đến đấng bậc Lêvi tử tế vào bậc thày, người Do Thái bị nạn, và cuối cùng là người Samari, ngoài Đạo đang đi trên đường. Có lẽ ông ta chỉ là nhà buôn đi ngang, thấy chuyện bất bình, nán lại mà giúp đỡ, thế thôi.

Kể về ông, người nghe tuyệt nhiên không biết gì về tín ngưỡng niềm tin của ông. Ở đây nữa, lý lịch, tôn giáo, và chính kiến lập trường hay ý thức hệ, không là điều hệ trọng. Chuyện hệ trọng ở đời, thật ra luôn là vấn nạn: người người ở thế gian có còn tình người nữa hay không, thôi. Và, chuyện quan trọng khác, cũng nên hỏi, là: bạn này/người kia, hoặc chính ta hôm nay, có còn lòng tốt/lòng Đạo, nữa hay không.

Đặc điểm của lòng tốt/lòng Đạo, là lòng xót thương công chính, khả dĩ giúp ta nhìn thấy mọi chuyện theo chiều hướng yêu thương, tử tế. Mọi chuyện đây, là: luật dân sự cũng như tôn giáo, đều là chuyện cần, nhưng không thể ngăn chặn công lý/lẽ phải. Không thể ngăn chặn ta xử sự cho tốt đẹp với người khác, chí ít, là người bị nạn cần giúp đỡ.

Sở dĩ người Samaritanô tuy ngoài Đạo nhưng tốt bụng, không vì ông đã làm việc cật lực nên mới có của dư của để, hầu có khả năng thực hiện những điều trái mắt ông nhìn thấy, ở dọc đường. Nhưng, sở dĩ ông có lòng tốt, là vì ông có mắt để thấy, và nhìn ra những việc nên làm. Tức, có cái nhìn đúng nghĩa.

Lòng tốt theo nhà Đạo, không là khoảnh khắc thấy vui trong lòng vì mình tốt bụng. Mà là, kinh nghiệm mình có được/tạo được, vì đã biết đến đổi thay, trong cuộc sống. Hiểu theo nghĩa này, người Samari tốt bụng sẽ là gương sáng về lòng bác ái, rất tốt. Điều này trái với lối diễn nghĩa của vị nữ lưu có thời từng làm thủ tướng nước Anh.

Truyền thống trong Đạo vẫn dạy ta, là: lòng tốt bụng/xót thương, tạo chính nghĩa, vẫn quyện vào nhau. Thánh Tôma Aquinô còn nói: lòng xót thương giúp ta biết nghe, và biết nhìn. Còn, sự công chính phải đạo kêu mời chúng ta làm việc tốt.

Người Samari thấy được những gì ông có thể làm và phải làm, nơi hiện trường ông chứng kiến. Và, ông tạm thời giúp người bị nạn và đem nạn nhân đến quán trọ để săn sóc. Ông không chỉ nhìn và thấy sự việc xảy đến thôi, nhưng còn biết phán đoán và hành động cách thức thời nữa.

Người Samari có thể đã không học luật như thầy Lêvi. Có thể, ông cũng không là người hành Đạo như các vị Tư tế, rất hiền lành. Nhưng, ông đã phá vỡ được các chấm phết vô tri, vô mộ của luật lệ trong Đạo/ngoài đời, nơi sách vở. Ông có lòng xót thương/bác ái, bằng hành động. Đặc điểm của lòng thương xót bác ái và sự công chính giúp ta nhìn thấy mọi sự, xấu cũng như tốt, một cách rõ ràng. Thấy được cả những rào cản nào không giúp ta đến với sự công chính của Chúa. Bởi, lề luật không quan trọng bằng lòng thương xót, bác ái.

Cuối cùng ra, ta có thể nói: toàn bộ mọi chương sách của Tin Mừng thánh Luca đều nhắm vào việc chuyển đổi người nhà Đạo về sự hệ trọng cần thay đổi quan điểm lập trường. Thay đổi niềm tin tưởng cá nhân khi nghĩ rằng ‘chỉ mỗi tôi và Chúa đã hợp lòng đối nghịch phàm trần’. Thay đổi, thành con người mới không chỉ mỗi ngồi suy nghĩ mà thôi; nhưng phải có hành động thiết thực, đầy xót thương, công chính.

Bằng vào dụ ngôn hôm nay, Đức Kitô đề nghị với mọi người –chí ít, là người nhà Đạo- bài học thực tế về lòng xót thương, công chính. Thương, những người ở bên trong cũng như bên ngoài nhà Đạo, đang khốn khó. Xót thương, những người đang có nhu cầu. Thương xót, giúp đỡ hết mọi người. Dù, điều đó không thấy có trong sách luật.

Truyện kể về người Samari tốt bụng, phải làm sống lại lòng bác ái/xót thương, và sự công chính vẫn có nơi người nhà Đạo. Truyện kể còn thách thức ta biết nhìn ra những ai cần được ta cưu mang, đùm bọc trên đường thực thi rao giảng Tin Mừng, của Chúa.

Hơn nữa, dụ ngôn hôm nay còn giúp ta nhớ rằng: Đức Kitô không dạy ta bài học tôn giáo cho thiểu số ưu việt được chọn. Nhưng, Ngài dạy mọi người biết cách mà sống đúng với phẩm giá con người. Nói cách khác, Ngài có kêu mời ta nhưng không để ta sống theo mẫu siêu nhân, phản tự nhiên. Nhưng, sống đích thực và trung thực với xác tín sâu xa về chính bản chất của mình. Bản chất dân con nhà Đạo.

Trong quyết-tâm làm được như Lời Ngài khuyên dạy, ta hãy cứ hiên-ngang hướng về phía trước, miệng nghêu-ngao hát lên bài ca của nghệ-sĩ trẻ ngày trước vẫn hát rằng:

“Đừng ngồi yên nghe tiếng khóc quanh mình.

            Đừng ngồi yên trên nhung gấm vô-tình, hỡi bạn thân!

            Đừng vùi lương-tri dưới gót chân.

            Đừng nhìn tha-nhân đang kêu gào chống ngục-tù xin công-bằng, đòi cơm áo.

Đừng sợ bạn ơi, hãy đứng thẳng lên, cuộc đời đang giang tay đón ta

            Bằng yêu-thương ta đi xoá ta …mọi căm hờn.”

            (Lê Hựu Hà – Bài Ca Tuổi Trẻ)

Vâng. Bằng tình thương-xót, ta không xoá tan được mọi hờn-căm, nhưng còn làm cho mọi người không còn “mua vui trên những nổi đoạn-trường” ở trần-gian. Trần-gian hôm nay, sẽ còn nhiều Samarita-nô nhân-hiền, tốt bụng không vô-tâm.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  

Mai Tá lược dịch.

BÀI HỌC TRỰC QUAN VỀ LÒNG YÊU THƯƠNG

BÀI HỌC TRỰC QUAN VỀ LÒNG YÊU THƯƠNG

LM Inhaxiô Trần Ngà

Tại một khúc đường vắng trên con đường từ Giê-ru-sa-lem đến Giê-ri-cô có một khách bộ hành bị trọng thương đang quằn quại rên siết.  Khúc đường nầy xưa nay vẫn thường xảy ra những vụ cướp của giết người nghiêm trọng.  Hẳn đây lại là một nạn nhân khác do bọn cướp gây ra.

Một hy vọng loé lên trong đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang tiến lại gần.  Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao vì đây là một vị Tư Tế.  Ngài vốn thông làu lề luật yêu thương, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh ta.  Nhưng rồi vị Tư Tế cố tình rảo bước cho nhanh, lánh qua một bên mà đi thẳng, để mặc anh nằm đó.

Một lát sau, có một thầy Lê-vi đi qua, vị nầy đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, nhưng rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh, có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn lảng vảng đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia.  Thôi, khôn hồn thì rảo bước cho nhanh, mau qua khỏi nơi nguy hiểm nầy.

Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp đâu đây vọng lại, rồi vị khách đi đường thứ ba xuất hiện. Đây là người dân Sa-ma-ri.  Chẳng hy vọng gì nơi hạng người như thế, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là quân lạc đạo chẳng ra gì.

Thế nhưng, người Sa-ma-ri nầy lại cho lừa dừng lại, bước xuống cúi mình trên nạn nhân, cảm thương thân phận người xấu số.  Ông mở hành trang lấy rượu rửa sạch vết thương, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay trở về quán trọ.  Đến nơi, ông lo liệu cơm cháo thuốc men, săn sóc nạn nhân như lo cho người thân yêu của mình.  Sáng hôm sau, vì công việc gấp rút đòi buộc, ông phải vội lên đường; nhưng trước khi ra đi, ông trao tiền cho chủ quán và dặn dò: “Xin ông lo chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông”.

***********************************

Điều tuyệt vời nơi con người nhân ái nầy là đức tính sẵn sàng phục vụ.  Phục vụ tức thời không so đo tính toán.  Phục vụ bất cứ lúc nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Đang lúc phải đi về Giê-ri-cô cho nhanh trước khi trời tối, mà phải dừng lại tại một nơi không ngờ trước, bày tỏ tình thương mến một nạn nhân xa lạ bằng những chăm sóc hết sức ân cần chu đáo, bất chấp hiểm nguy cho tính mạng mình, chấp nhận mất mát thời giờ, tiền của, đành để cho vợ con chờ đợi sốt ruột ở nhà, gác bỏ qua bên bao nhiêu công việc cấp bách… thì đây quả là một con người hy sinh cao thượng hiếm có.

Bài dụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành nầy đáng được xem là tinh hoa của lề luật, là cốt tuỷ của nền luân lý ki-tô giáo, là minh họa hay nhất cho lề luật yêu thương, là tấm gương soi cho tất cả những người con cái Chúa.

Giữ luật yêu thương không chỉ là tâm niệm luật ấy trong lòng đêm ngày như những kinh sư và biệt phái.  Giữ luật yêu thương không phải là lặp lại luật ấy trên môi, đeo câu luật yêu thương trên tay, trên trán hay dán lên khung cửa ra vào như những người Do Thái xưa kia thường làm.

Nhưng giữ luật yêu thương chủ yếu là cúi xuống trên những mảnh đời bất hạnh để ủi an chăm sóc, là chia cơm sẻ áo, là trở thành người tôi tớ phục vụ tha nhân bất cứ khi nào họ cần.

***********************************

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là bậc Thầy khôn ngoan lỗi lạc.  Qua bài Tin Mừng nầy, Chúa dạy chúng con  một bài học trực quan rất sinh động về yêu thương: Yêu thương là cúi xuống chăm sóc người bất hạnh bất cứ lúc nào, bất kể nơi nào, như người Sa-ma-ri đã thực hiện.

Xin ban thêm cho chúng con đức tin và lòng yêu mến.  Tin Chúa hiện diện nơi mọi người, đặc biệt là nơi những người cùng khổ và đem hết khả năng để phục vụ và yêu mến họ, vì khi thực hành như thế là chúng con đang làm cho chính Chúa.

LM Inhaxiô Trần Ngà

Anh chị Thụ & Mai gởi

NHỮNG ĐÒI HỎI THIẾT YẾU ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ TRƯỞNG THÀNH

 NHỮNG ĐÒI HỎI THIẾT YẾU ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ TRƯỞNG THÀNH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Trong quyển tiểu sửcủa mình, Morris West cho rằng, ở một độ tuổi nhất định nào đó của cuộc đời, tự điển tâm linh của chúng ta đơn giản chỉ còn ba câu: Cám ơn!  Cám ơn!  Cám ơn!  Ông đúng nếu chúng ta hiểu trọn vẹn thế nào là sống với tấm lòng biết ơn.  Biết ơn là đức hạnh cao nhất, là nền tảng cho các thứ hạnh khác, kể cả tình yêu.  Và nó còn đồng nghĩa với thánh thiện.

Biết ơn không chỉ là điều xác định sự thánh thiện, mà còn xác định cả sự trưởng thành.  Chúng ta trưởng thành khi đạt đến mức độ biết sống biết ơn.  Nhưng điều gì sẽ cho chúng ta được như thế?  Điều gì cho chúng ta một sự trưởng thành nhân bản sâu sắc hơn?  Tôi muốn nêu ra đây mười đòi hỏi chính yếu cả trong sự trưởng thành nhân bản lẫn trưởng thành Kitô giáo:

  1. Sẵn sàng đảm nhận hơn nữa những phức tạp đời sống với lòng cảm thông: Trong cuộc sống, có rất ít điều trắng đen hoặc đơn giản là xấu tốt rõ ràng, kể cả trong tâm hồn và động cơ của chúng ta.  Sự trưởng thành làm cho chúng ta nhìn nhận, thông hiểu và chấp nhận sự phức tạp này với lòng cảm thông để, như Chúa Giêsu, chúng ta khóc những giọt nước mắt thông hiểu cho những đô hội hỗn loạn và những tâm hồn phức tạp của chính chúng ta.
  2. Ghen tương, giận dữ, chua cay, thù ghét phải được biến đổi, không ăn miếng trả miếng. Bất kỳ nỗi đau hay áp lực nào không được biến đổi, thì chúng sẽ được chúng ta lan truyền tiếp.  Khi đối diện với ghen tương, giận dữ, chua cay, thù ghét, chúng ta phải như người lọc nước, giữ độc tố bên trong, chỉ để cho giòng nước tinh khiết chảy ra ngoài, chứ đừng làm như sợi dây điện, cứ để điện năng xuyên qua mà không lọc.
  3. Hãy mềm dẻo chịu đựng hơn là để tâm hồn chai cứng: Chịu đựng và khiêm nhường luôn có trong chúng ta, nhưng cách chúng ta đáp trả, tha thứ hay chua cay, sẽ định rõ mức độ trưởng thành và chân tướng của chúng ta.  Đây có lẽ là phép thử cao nhất cho đạo đức của chúng ta: Liệu lòng khiêm tốn của tôi sẽ làm mềm dịu hay chai cứng tâm hồn tôi đây?
  4. Tha thứ: Đến cuối cùng, chỉ có một điều kiện để được vào thiên đàng (cũng như để sống trong cộng đồng nhân loại), chính là sự tha thứ.  Có lẽ trong nửa sau cuộc đời mình, việc khiến chúng ta phải đấu tranh nhiều nhất chính là hành động tha thứ: Tha thứ cho những ai đã làm chúng ta tổn thương, tha thứ cho bản thân vì những khiếm khuyết, và tha thứ cho Thiên Chúa vì dường như Ngài đã bất công để chúng ta kiệt lực khi đối diện với thế giới này.  Trong tất cả, đòi hỏi đạo đức lớn nhất chính là đừng để mình chết đi với một tâm hồn chua cay và bất dung.
  5. Sống biết ơn: Là một vị thánh nghĩa là được kích động bởi lòng biết ơn, không hơn không kém. Đừng để ai lừa mình với tư tưởng cho rằng lòng sốt sắng với chân lý, với giáo hội, và ngay cả với Thiên Chúa có thể cao hơn hay ít ra cũng ngang với đòi hỏi không nhân nhượng là chúng ta phải luôn luôn biết sống trong tâm tình biết ơn.  Thánh thiện là sống biết ơn.  Không có lòng biết ơn, chúng ta sẽ thấy mình đang làm những điều đúng cho những động cơ sai lầm.
  6. Chúc phúc hơn là chúc dữ: Chúng ta trưởng thành khi chúng ta khẳng định mình bằng điều mà chúng ta hướng đến hơn là điều mà chúng ta chống lại và đặc biệt sự trưởng thành của chúng ta được đánh dấu khi chúng ta, như Chúa Giêsu, biết tìm đến tha nhân và nhìn họ với cặp mắt chúc lành (“Xin Chúa chúc lành cho bạn!”) hơn là chúc dữ (“Bạn nghĩ bạn là ai vậy”?)  Có khả năng khen ngợi hơn là phê phán là dấu hiệu cho thấy mức độ trưởng thành của mỗi người.
  7. Sống minh bạch và lương thiện: Chúng ta không bình thường khi khư khư ôm giữ các bí mật bệnh hoạn nhất của mình, nhưng chúng ta sẽ sống lành mạnh khi chúng ta sống lương thiện.  Như Martin Luther đã từng nói, chúng ta cần “phạm tội một cách dũng cảm và chân thật.”  Sự trưởng thành không có nghĩa là chúng ta trở nên hoàn hảo hay vô tội, nhưng có nghĩa là chúng ta sống chân thật.
  8. Cầu nguyện bằng cảm xúc lẫn theo nghi thức: Nguồn năng lượng chúng ta cần để cho mình sống trong lòng biết ơn và tha thứ không nằm ở sức mạnh của ý chí nhưng ở ân sủng và cộng đoàn.  Chúng ta được vậy là nhờ cầu nguyện.  Chúng ta trưởng thành khi biết mình bất lực và biết nhờ đến sức mạnh Thiên Chúa, cũng như khi biết cầu nguyện với tha thân để cho toàn thế giới cũng sẽ cầu nguyện như vậy.
  9. Mở rộng vòng tay hơn bao giờ hết: Chúng ta trưởng thành khi định nghĩa được ai là gia đình mình (Ai là anh chị em tôi?) theo một cách đại kết, liên tôn, không phân biệt tư tưởng, không kỳ thị.  Chúng ta chỉ trưởng thành khi biết thương xót như Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mặt trời chiếu cho cả người mình thích và không thích.  Đến một lúc, chúng ta phải thay thế các áp phích cổ động yêu thương bằng những cái chậu cái khăn để cùng tắm chung một dòng nước.
  10. Hãy ở đúng vị thế của mình, và để Thiên Chúa bảo vệ bạn:  Xét tận cùng, tất cả chúng ta đều yếu ớt, chỉ nhờ vào may rủi, và vô vọng, không bảo vệ những người chúng ta yêu mến, và cả chính chúng ta nữa.  Chúng ta không thể bảo đảm sự sống, an toàn, ơn cứu rỗi, hay sự tha thứ cho chính mình hay cho những người mình yêu thương.  Sự trưởng thành dựa trên việc chấp nhận sự thật này hơn là cứ mãi lo lắng về nó.  Chúng ta chỉ có thể làm hết sức mình, bất kể quãng đời nào, vị thế nào, giới hạn hay khiếm khuyết của mình, và tin rằng như vậy là đủ, tin rằng nếu chúng ta ngã xuống nơi chiến điểm của mình, trong chân thật, trong khi đang làm nhiệm vụ được giao, thì chính Thiên Chúa sẽ lo cho phần còn lại.

Thiên Chúa là một bậc cha mẹ yêu thương vô vàn, tràn đầy thông hiểu, và hoàn toàn cảm thông. Chúng ta trưởng thành và tự do thoát khỏi những lo lắng sai lầm, khi chúng ta hiểu được và tin tưởng sự thật đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ANH EM HÃY RA ĐI

ANH EM HÃY RA ĐI

Ai được mời gọi gặt lúa?  Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ. Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước.  Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.  Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt.  Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.

Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.  Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.  Một thứ hành trang nhẹ tênh: Không túi tiền, bao bị, giày dép.  Một việc phải làm: Chữa lành những người ốm đau.  Một thái độ phải có: Khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.

Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì?  Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác.  Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.

Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại.  Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.  Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.

Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói.  Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: Khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.  Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy.  Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối.

Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.

*******************************

Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: Rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.

Trích dẫn từ “Manna”

“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,”

 “Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,”
“Ngỡ như đất trời giao hòa.
Và tai nghe thấy một rừng âm vang
khúc hát dâng đời ta.”
(Nhạc ngoại quốc – Lời Việt: Nỗi Đau Dịu Dàng)

(Mt 23: 11-12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Mấy hôm nay, gặp ngày trời mây trong sáng, mà lại nghe anh/chị hát khúc “thiên tình ca” như thế thì bần đạo đây thấy đời bỗng nhiên tuyệt đẹp. Đẹp nhiều và đẹp lắm, chí ít là khi thấy câu hát những ca-tụng “đất trời giao-hoà”, “một rừng âm vang khúc hát dâng đời ta”, nữa.

Chả nói giấu gì bạn đọc và cả những bạn không chịu đọc, rằng thì là: đất trời của ta, ít khi nào chịu giao hoà, hết ráo trọi. Và, rừng của ta cũng ít khi “âm vang khúc hát dâng đời” người và đời ta, bao giờ hết. Gọi là ít khi nghe như thế, rồi lại nghe câu hát tiếp những lời “bóp nát” rất như sau: 

“Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca”
“Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc
Bằng lời dịu dàng anh giết em, giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê, và xót xa nhắm mắt với nỗi đau
Ngọt lịm da.”

(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)

Nghe nhạc ngoại quốc có giòng nhạc thong thả rất êm ả chứ đâu “lã chã” đầy những lời “bóp nát sức sống”, đến như thế. May thay! Mấy câu tiếp nghe cũng không đến nỗi nào, như sau:

 Cỏ cây muôn loại đều hân hoan
Nhưng riêng em tưởng như anh

Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc
Bằng lời dịu dàng anh giết em,
giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê,
và xót xa nhắm mắt với nỗi đau
Ngọt lịm dạ.”

(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song- bđd) 

Kể lể hơi dài giòng như thế, là để dẫn nhập đôi câu quyết bảo rằng: trong đời người, và cả đời nhà Đạo, lại có nhiều điều nghe qua bỗng thấy như bị “bóp nát sức sống” của mọi người. Thôi thì, đã trót nghe nhạc rồi, xin cứ tiếp tục nghe cho hết, rồi hẵng tính. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe tiếp cho hết nhưng câu như:

Rồi khi cơn sốt đun tình tôi
Bỗng theo cõi nhạc xa vời
Và anh lên tiếng gọi hồn em
đang khóc bên con vực sâu
Hãy mau lên đường về uyên uyến
Khi nghe thân xác nài van

 Giờ đây ai hát thiên tình ca
Khiến tôi thêm nhiều xa lạ
Lời ca âu yếm vỗ về
êm nhưng vẫn thấy xa thật xa
Thiếu anh khúc nhạc thành vô duyên
Tim em vẫn còn nghe.”

(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)

Nghe thế rồi, nay mời bạn và mơi tôi ta đi vào chuyện Đạo, có những vụ việc rất “lạo xạo” như sau:

Vừa rồi, bần đạo gặp được ông bạn già tên là Nguyễn Văn Tạ, cựu sinh viên “Giáo Hoàng Học Viện ĐàLạt” đến gần bên gạn hỏi: Này, anh đã đọc bài của tác giả Ralph Woodrow hỏi rằng: Ông Phêrô có là vị Giáo Hoàng La Mã đâu tiên không? Anh thấy bài ấy thế nào?

Nghe hỏi, bần-đạo thấy bỗng dưng chột dạ, bèn lần lữa, khất hẹn với anh bạn già rằng thì là: để tớ kiếm giờ đọc xong, rồi sẽ tính. Nói của đáng, đọc rồi mới thấy: Ôi thôi rồi, nồi xôi! Bài viết xem ra: rất ư là … nổi cộm. Thôi thì, xin bạn và tôi cứ để bần đạo đây tìm dịp thông và dịch cho chuẩn-xác rồi sẽ thưa thốt sau.

Thôi thì, quí bạn đang đọc những hàng chữ này nếu nghe có chói tai hoặc trái khuấy thế nào cũng cứ xin để đó, hạ hồi phân-giải nhé. Nhưng, trước khi dịch và thuật cho thông, xin bầu bạn hãy cùng tôi nghe thêm câu truyện kể khá đáng kể, để cho “nhẹ lòng tướng quân”, rồi sẽ tính.

Truyện kể, là kể những điều như sau:

“Ngày 31/5/2016 vừa qua, tại bệnh viện Koln ở Đức đã có một trái tim nhỏ ngừng đập ở tuổi 77. Một người ra đi ở tuổi gọi là thất thập cổ lai hy, điều đó có gì để gây xôn xao! Vì trên hành tinh này mỗi ngày có hơn 150,000 người từ trần với nhiều nguyên nhân!

            Nhưng đây là một tin gây rúng động cho nhiều cộng đồng, đặc biệt là người VN di tản hiện đang sống tại Đức, vì người đó  là Tiến sỹ Rupert Nudeck, một nhà thần học Thiên-chúa-giáo, một nhà báo, nhà hoạt động xã hội.

            Rupert Nudeck, ông là ai?

            Thú thật trước đây, Anh Tri đây cũng chưa biết đến tính danh của ông, nhưng tình cờ  nhận một email của một cộng đồng người Việt ở Đức đang kêu gọi nhau đến dự lễ cầu nguyện ông vào ngày 14/6/2016, tôi mới tò mò tìm hiểu tại sao  một người Đức qua đời mà cộng đồng người Việt lại xôn xao báo tin và kêu gọi nhau đến nơi sẽ an táng ông để dự lễ tưởng niệm vậy!

            Càng tìm hiểu về ông tôi lại càng say mê và ngưỡng mộ về những gì ông đã làm cho đồng bào của tôi trong thập niên1970s, khi hàng ngày ở miền Nam có hàng trăm người vượt biển đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ!

            Thời đó, do phương tiện truyền thông bị hạn chế, cũng như tin tức về người vuợt biên rất nhạy cảm theo quan điểm của nhà cầm quyền, nói chung chưa có face book, Twitter… như thời bây giờ! Nên những vụ đắm tàu, cướp biển tấn công, hãm hiếp người di tản, một số nước châu Á cho tàu quân đội ra xua đuổi tàu chở thuyền nhân khi vào lãnh hải của họ… ít người biết đến!

            Nhưng lúc đó, ở các nước phương Tây tin tức này là thời sự, nó cũng như cảnh ta đang xem trên tivi mới đây về những  người dân Somali, Lybia vượt biên chết hàng loạt trên biển! Tình cảnh thê lương cùng đường bị xua đuổi  như tội đồ đã đánh động trái tim của tiến sỹ Rupert Nudert. Nó thúc đẩy ông dấn thân hành- động bằng cách kêu gọi chính quyền Đức, cộng đồng xã hội,tôn giáo, các  bằng hữu hãy cứu  giúp những thuyền nhân VN đang bị nạn như thuyền hết xăng dầu, lương thực,  chết máy,  bị cướp bóc đang lênh đênh trên biển! 

            Khi bị nhà cầm quyền từ chối, ông không nản lòng mà đã cầm cố ngôi nhà của mình, kêu gọi bạn bè thân nhân góp tiền của để đóng thuyền ra khơi cứu người Việt Nam ! Câu chuyện về người có trái tim nhân ái này được ông Franz Alt, sau này là giám đốc đài truyền hình Baden kể lại vô cùng ấn tượng đối với tôi: “Ông ấy gõ cửa xin tôi phát lời kêu gọi cộng-đồng, tôi bảo không thể làm thế được, vì một ý-kiến cá-nhân!”. Ông ấy kêu gào: “Chẳng lẽ chúng ta cứ nhìn thảm- cảnh như vậy mỗi ngày sao?” tôi trả lời: “Tôi có thể làm được gì?” ông trả lời: “Tôi có thể cầm-cố ngôi nhà đang ở để khởi-sự cho chuyến đi biển”. Tôi đành nhượng bộ trước quyết tâm của con người này và cho ông ấy 2 phút để phát song!!!

            Đúng vậy, sau lời kêu gọi trên đài, chỉ 3 ngày sau cả nước Đức đã hưởng ứng với số tiền đóng góp lên đến 1.3 triệu mác (tiền Đức thời bấy giờ)- để thuê chiếc tàu CAP ANAMOUR đầu tiên ra khơi vào ngày 9/8/1979 với sứ mệnh cao cả là cứu vớt người VN gặp nguy khốn trên biển Đông! Tiếp theo đó, là thêm 2 chiếc Cap Anamur được hạ thủy nhờ vào sự ủng hộ của những người có lòng từ tâm!

            Trong thời gian 7 năm hoạt động (1979-1986) tổ chức Cap Anamour đã cứu vớt được 11.300 người vượt biển trên 223 chiếc ghe/thuyền và hầu hết được định cư tại nước Đức! Để làm được việc này chính ông, cùng với nhà văn Heinrich Boll, đoạt giải Nobel năm 1972, cùng thân hữu đã thuyết phục thành công chính quyền Đức cho thuyền nhân Việt Nam được nhập-cư vào nước này! Được biết, ngoài việc cứu giúp cho người Việt; tổ chức do ông sáng lập đã có nhiều hoạt động giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc tại Somali, châu Phi, Afganistan, Pakistan . Để tỏ lòng trân trọng công lao to lớn của ông mà nhà cầm quyền Đức đã tặng ông huân-chương Chevalier cao quý, nhưng ông đã hai lần từ chối nó.

            Chính ông đã đánh động lương tâm nhiều người, trong đó có người Mỹ và người Việt Nam sống tại Mỹ! Năm 1979, chính tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã ra lệnh cho 5 tuần-dương-hạm đi cứu-vớt các thuyền-nhân và cho họ được nhập cư vào đất Mỹ!

            Hãy tưởng tượng, từ 11.300 người suốt từ năm 1979 đến nay cũng gần 40 năm, số người như thế đã tăng lên biết bao nhiêu? Nếu tính luôn việc họ bảo-lãnh người thân từ Việt Nam sang, thì hẳn có hàng chục ngàn số phận đã đổi thay từ cơ-duyên này!

            14/6 năm nay, sẽ diễn ra lễ tưởng-niệm một con người vĩ-đại, nói như lời của ông thị-trưởng thành-phố nơi ông qua đời, rằng: “ông Rupert Nudeck đã làm công việc cao-cả của con người, là cứu- vớt nhiều mạng người. Nước Đức rất tự-hào về ông!”

            Sẽ còn nhiều người Việt-Nam và con cháu họ chịu ơn cứu-tử của ông từ khắp nơi trên nước Đức đến dự lễ tưởng-niệm! Sẽ có nhiều lời tri ân, cảm phục tấm-lòng nhân ái của ông! Riêng tôi, dù không là thuyền nhân trên các chuyến tàu thập-tử-nhất-sinh đó, tôi vẫn ngưỡng mộ ông như một nhân cách cao quý, một trái tim vĩ đại! Ông sẽ sống mãi trong lòng của những người tử tế biết trân quý tinh cảm, có lòng nhớ! 

Tôi cũng muốn chia xẻ thêm tin về thời niên thiếu của ông: Lúc còn bé, thời đệ nhị thế chiến, ông và gia đình đã nhỡ một chuyến tàu tỵ nạn và chuyến tàu xấu số đó trúng thuỷ lôi của hồng quân Liên-xô chìm ngoài biển mang theo hơn 9000 người. Có lẽ biến cố này đã gây ấn tượng lớn với cậu để khi trưởng thành nó đã thôi thúc ông làm nghĩa cử gì đó cho nạn-nhân trên biển cả chăng?

            Vĩnh-biệt tiến-sỹ Rupert Nudeck! Ông đã ra đi về nơi thanh-nhàn sau khi làm được công việc tốt đẹp của Thượng-Đế, là: đem sự sống lần thứ hai cho hàng chục ngàn người! Và nhờ đó ông trở thành bất-tử!” (Anh-Tri 7/6/2016) 

Với nhà Đạo, thì chắc hẳn Ts Rupert Nudeck đã là thánh-nhân được sống cạnh bên Thiên-Chúa ngay khi ông nhắm mắt lìa đời! Ghi lại câu truyện về bậc vĩ-nhân rất ân-cần với nhiều người, là để sánh-ví và tưởng/nhớ các vĩ-nhân khác, trong đời người. Chí ít, là đời người đi Đạo. Nói xa/nói gần, chi bằng nói thẳng/nói thật. Và, nói thật đây, là nói về vĩ-nhân nhà Đạo mà mọi người có thói quen gọi ngài là Đức Giáo Tông, hay Đức Giáo-hoàng của La Mã.

Nói về Giáo hoàng của nhà Đạo, nhiều người vẫn nói nhiều và nói quá lời, để đến nỗi quên cả lịch-sử hoặc sự-tích về nhân-vật vĩ-nhân, vĩ-đại ấy. Nên, hôm nay, có đề-nghị với tôi và với bạn, rằng: ta nên có một chút gọi là “đôi giòng lịch-sử” cũng rất lịch-sự để rồi nói thật và nói thẳng về nhân-vật mà ta quen gọi là Đức Giáo-Tông hay Giáo-hoàng của Công-giáo, như sau:

“Theo đạo-lý/tín-điều của Công-giáo thì “đầu não” của Giáo-hội ở dưới thế và là người kế-vị của thánh Phêrô. Vốn tin là thế, người đi Đạo cứ nghĩ là Đức Kitô đã chỉ-định thánh Phêrô là vị Giáo-hoàng tiên-khởi và đã đi Rôma nhậm-chức cùng làm việc tại nơi đó, suốt 25 năm. Nhưng, hỏi rằng sách thánh có chỗ nào nói về chức-năng của vị Giáo-hoàng, hoặc Giáo-Tông như thế không? Và, tín-hữu thời tiên-khởi có công-nhận thánh Phêrô là thế chứ?

 Ngược lại, Kinh thánh rõ ràng cho thấy rằng: khi xưa, thành-viên Hội-thánh đều có chức-năng đồng đều, và Đức Kitô mới là “đầu não” của Giáo-hội mọi thời, chứ không phải Đức Giáo Hoàng, như thánh Phaolô có viết ở thư Êphêsô đoạn 5 câu 23.

 Trong Tân Ước, có lần thánh Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu hỏi xin Ngài cho mỗi vị được ngồi bên phải và bên trái Ngài nơi Vương-quốc của Ngài. Nên nhớ, ở các nước Đông-phương, hai vị bộ-trưởng quan-trọng đều ngồi bên tay phải và tay trái của nhà vua.

 Giả như điều mà Đạo Công-giáo La Mã chúng ta nói đúng, thì: xem ra Đức Giêsu đã phải cắt nghĩa là Ngài đã dành chỗ bên tay phải cho ông Phêrô và không có ý-định đặt ai bên tay trái hết.. Nhưng ở đây thì ngược lại, câu trả lời của Ngài ở Tin Mừng theo thánh Mác-cô rày đã viết:

     “Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” 

Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”

 Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”

Thế nhưng, người Công-giáo chúng ta lại được giới-chức trong Đạo dạy bảo rằng: thánh Phê-rô được ở vào vị-trí gọi là toàn Giáo-hội được dừng xây trên vị-trí của ông. Câu kinh-thánh mà Giáo-hội Công-giáo vẫn qui về là đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu đoạn 16 câu 18 như sau:

 “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây dựng Hội Thánh của Thầy, và quyền-lực tử-thần sẽ không thể thắng nổi.”  

Xét kỹ câu này, ta sẽ thấy là Giáo-hội của Chúa không dựng-xây trên thánh Phêrô mà trên Đức Kitô. Ở giòng chữ trước câu ấy, Đức Giêsu có hỏi các môn-đệ Ngài xem thiên-hạ nói Ngài là Ai? Có người bảo: là, ông Gioan Tẩy Giả, có người nói là ngôn-sứ Êlya; người khác lại cho rằng Ngài là ngôn sứ Giêrêmia hoặc một trong các Tiên-tri của thời trước đó. 

Khi ấy, Đức Giêsu mới hỏi: “Thế còn anh, anh bảo Ta là ai?” Nghe lời này, ông Phêrô mới thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên-Chúa Hằng Sống.” Và khi đó, Ngài mới bảo cùng thánh Phê-rô rằng: “Anh là Đá (“Petros”, tiếng Hy-Lạp gọi đây là viên đá, hòn đá) và trên đá này (chữ “đá” đây là: “ Petra ”, tiếng Hy-Lạp là “tảng đá”, tức: thứ đá tảng thật lớn của “sự thật” mà thánh Phêrô vừa bày-tỏ), Ta sẽ dựng-xây Giáo-hội của Ta.”

 Đá tảng, mà trên đó Giáo-hội đích-thực được dựng-xây đã nối-kết với câu nói của thánh Phêrô, tức câu trả-lời, rằng: “Thày là Đức Kitô” và như thế là nền-tảng đích-thực trên đó Giáo-hội được dựng-xây chính là Đức Kitô, chứ không phải thánh Phêrô. 

Ngay đến thánh Phêrô cũng tuyên-bố rằng Đức Kitô là tảng đá khổng-lổ làm nền-tảng ở thư thứ I Phêrô đoạn 2 câu 4-8 và ở sách Công-vụ Tông-đồ đoạn 1 câu 11, 12 cũng nói như sau:

 “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, tảng đá sống-động bị người ta loại-bỏ, nhưng đã được Thiên-Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên-Chúa dùng anh em như những tảng đá sống-động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng-liêng, và hãy để Thiên-Chúa đặt anh em làm hàng tư-tế thánh, dâng những lễ-tế thiêng-liêng đẹp lòng Ngài, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một tảng đá quý được lựa-chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất-vọng. Vậy vinh-dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì đá mà thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là tảng đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số-phận của họ là như vậy.” (1P 2: 4-8)

 Thật ra thì, mãi cho đến thời của Giám-mục Calixtô từng là Giám-mục thành La-Mã từ năm 218 đến 223, đoạn phúc-Âm trên đây của thánh Mát-thêu mới được sử-dụng để xác-chứng là Giáo-hội được dựng-xây trên thánh Phê-rô và từ đó Đức Giám-mục thành La Mã được gọi là vị kế-tục thánh Phê-rô trong chức-vụ này.

 Để ý kỹ các đoạn Kinh-thánh nói về thánh Phêrô, ta thấy rõ-ràng thánh-nhân đây chưa từng là Giáo-Hoàng bao giờ hết. Hơn nữa, xét từng luận-điểm ở bên dưới, ta còn thấy rõ hơn, rằng:

 Thánh Phêrô là người có gia-đình. Điều này không phù-hợp với vai-trò của Đức Giáo-chủ của Công-giáo. Các đoạn Kinh-thánh như Mátthêu đoạn 8 câu 14, và nhất là đoạn thư thứ nhất Côrintô ở đoạn 9 câu 5, thánh Phaolô có nói rằng các tông-đồ đều có vợ.

  1. Thánh Phêrô không bao giờ để mọi người cúi gập người chào thánh-nhân. Điều này thấy rõ nhất khi ông Cornêliô phủ-phục kính-cẩn thánh nhân (x. Cv 10: 25, 26)
  2. Thánh Phêrô không đặt truyền-thống ngang tầm mức với Lời Chúa, Ngược lại, thánh-nhân ít tin vào truyền-thống của các tổ-phụ như có viết trong thư thứ nhất Phêrô đoạn 1 câu 18.
  3. Thánh Phêrô không là Giáo-hoàng, bởi thánh-nhân chưa từng đội vương-miện hoặc mũ/mão Giáo-hoàng bao giờ hết. Ở thư thứ nhất Phêrô đoạn 5 câu 4, tác-giả giải-thích rõ rằng: “Khi Vị Mục-Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.” 

Quả là, vào những ngày đầu của Giáo-hội, thánh Phêrô đã có địa vị cao-cả trong hàg các thánh tông-đồ. Thánh-nhân luôn dẫn đầu đội ngũ các tông-đồ và là người cất lời giảng rao đầu tiên vào Lễ Ngũ Tuần sau khi Thánh Thần Chúa đổ tràn ơn mưa-móc xuống trên 3000 người có mặt. Nhưng, không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng thánh Phêrô là Giáo-hoàng tiên-khởi hoặc là Giám mục của các Giám mục trên thế-giới hết. 

Thật ra thì, dù thánh Phêrô đứng đầu danh-sách các thánh Tông-đồ, nhưng thánh Phaolô mới là người có tác-vụ thừa-sai cao-cả nhất. Chẳng hạn, về việc viết Tân Ước, trong khi thánh Phaolô viết lên khoảng 100 chương gồm 2,325 câu, thì thánh Phêrô chỉ viết có 8 chương bao gồm 166 câu mà thôi.

 Đằng khác, nói theo Kinh thánh, không có chứng-cớ nào quả-quyết rằng: thánh Phêrô từng đi gần đến Rôma! Mà, Tân Ước chỉ nói cho ta biết thánh-nhân mới đến Antiôkia, Samaria , Joppa, Cêsarê và vài nơi khác chứ không phải Rôma hoặc La-Mã. Nếu các tác-giả Tân Ước đã quên sót không đề-cập, thì đây quả là lãng quên thê-thảm chưa từng thấy, bởi Rôma (hoặc La-Mã) là thành-phố quan-trọng vào bậc nhất, với thế-giới…” (X. Ralph Woodrow, Was Peter the First Pope? Trong cuốn “Babylon Mystery Religion”, Ralph Woodrow Evangelistic Association, Inc. 1966 tr. 74-78)

Nói thế rồi, nay ta đi vào vùng trời truyện kể để xem thiên-hạ có kinh-nghiệm gì về các bậc trưởng-thượng nào khác, trong đời hay không.

Truyện rằng:

 “Ông bà nọ tên là Quỳnh có 4 người con, 2 trai 2 gái. Hai đứa trai là bác sĩ y khoa, còn 2 đứa gái, một là dược sĩ và một nha sĩ. Khoảng thời gian khi đứa con gái út vừa rời trường trung học thì 2 vợ chồng ông ly dị, và chỉ một năm sau, bà đã tái giá với một bác sĩ Mỹ già đã về hưu.

 Vì mục đích chính trong đề tài này nói về chữ “hiếu”, nên tác giả xin phép không trình bày lý do vì sao 2 vợ chồng ông bà Quỳnh lại ly dị.

 Ông Quỳnh là một nhà thương gia tài giỏi, thành công ngay từ hồi còn ở Việt Nam . Khi sang tới Hoa Kỳ thì ông tiếp tục xây dựng lại sự nghiệp thương mại, và mọi sự còn thành công nhiều hơn hồi ông còn ở Việt Nam . Chả thế mà vợ ông không cần phải đi làm việc, chỉ ở nhà và phụ giúp ông săn sóc 4 đứa con cho tới khi chúng khôn lớn, 3 đứa học hành thành tài và một đứa út ra trường trung học với hạng tối ưu. Gia đình ông quả là một hình mẫu mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng mong muốn.

 Sau một năm sau ngày vợ chồng ly dị, ông bị bệnh nặng không đi đứng bình thường và không thể tự săn sóc vệ sinh cho mình. Ông phải vào sống trong một “nursing home” vì 3 đứa con lớn đều đã lập gia đình, còn đứa út thì được học bổng phải đi học xa nhà. Về vấn đề vật chất, quả thực ông không thiếu thốn bất kể thứ gì, nhưng về mặt tinh thần thì ông có tâm sự cho tôi biết rằng ông rất cô đơn. Đứa con út bận học hành ở xa, một năm chỉ có thể về thăm ông tối đa là 2 lần. Còn 3 đứa lớn, mặc dù sống chung một thành phố với ông nhưng chúng chỉ đến thăm ông mỗi tháng 1 lần, mỗi lần từ 30 đến 60 phút. Chúng nó viện đủ mọi lý do như bận rộn công việc, con cái…

 Có lần, ông tâm sự với những giọt nước mắt chảy dài trên hai gò má gầy gò, nhăn nheo: “Thầy có biết không, lắm lúc tôi ngồi một mình nghĩ lại, cả một cuộc đời của tôi làm việc vất vả để kiếm đủ tiền mang về nhà phụng dưỡng cha mẹ già của mình. Cho đến khi cha mẹ tôi qua đời, sau đó 2 năm tôi mới lập gia đình và vợ tôi sinh cho tôi được 4 người con. Tôi lại làm việc vất vả, cố gắng kiếm được nhiều tiền hơn trước để cho vợ và 4 con của tôi được vui hưởng một cuộc sống sung túc, không thiếu thốn bất cứ một thứ gì, không thua kém bất cứ ai. Thế mà bây giờ Thầy thấy đấy, tôi thân tàn ma dại, bị vợ bỏ, con cái không đoái hoài gì đến, một mình lủi thủi trong viện dưỡng lão.

 Ba đứa lớn, cả tháng chúng mới tới thăm tôi một lần chớp nhoáng, đến cho có lệ. Còn đứa út nó bận học hành tôi không trách cứ. Không biết kiếp trước tôi có làm điều gì ác độc, hay cha mẹ tôi có làm gì sai quấy không mà ngày hôm nay tôi phải chịu cảnh này. Nhiều khi buồn quá tôi chỉ muốn chết sớm ngày nào tốt ngày ấy…”(Truyện kể ở trên mạng rất hà rầm, tha hồ đọc).

Mỗi người mỗi ý và mỗi cảnh, nhà Đạo của ta vẫn cứ dạy: mọi sự là do thánh-ý Chúa. Nhưng, tận thâm-tâm, ta có tin thế không hay chỉ là lời an-ủi, một hy-vọng? Hôm nay, về với Hội-thánh Chúa lại có người hỏi là: thánh Phêrô có là Giáo-Hoàng đầu-tiên không, dù có hay không, tưởng cũng không nên quên lời vàng Kinh Sách vẫn bảo rằng:

“Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh-đạo,

vì anh em chỉ có một lãnh-đạo, là Đức Kitô.

Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ anh em.

Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống;

còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”  

(Mt 23: 11-12)

Thành ra, cứ như lời dặn của Đấng Thánh hiền trên đây, hẳn bạn và tôi, ta lại cũng quyết-tâm coi nhau như ngang-hàng, cùng một cấp. Không ai hơn ai. Cũng chẳng có ai thua thiệt, làm bề tôi của ai. Nhưng, hãy cứ tay trong tay hướng về phía trước mà sống nhanh, sống mạnh, sống vững chãi trong niềm tin của người đồng đồng Đạo, và đồng hàng.

Nghĩ thế rồi, hãy cứ hiên ngang hát lên ca-từ rất “hết biết” hoặc đáng sợ, ở trên mà rằng:

“Ngồi nghe anh hát thiên tình ca,
Ngỡ như đất trời giao hòa.

Và tai nghe thấy một rừng âm vang
khúc hát dâng đời ta.

Cỏ cây muôn loài đều hân hoan,

Nhưng em tưởng như anh

Bóp nát sức sống em bằng tiếng ca
Bóp nát sức sống em qua điệu nhạc
Bằng lời dịu dàng anh giết em,
giết chết trái tim em
Bằng tiếng ca ru em trong u mê,
và xót xa nhắm mắt với nỗi đau
Ngọt lịm dạ…”

(Nhạc ngoại quốc: Killing me softly with his song)

 Trần Ngọc Mười Hai

Có những lúc

Thấy đời người và đời mình

Cũng nản chí nam nhi

Vì những chuyện như thế.

Nhưng không sao.. .

“Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!

 “Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!

Ta đi thuyền trên mặt nước long ta.

Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại!

Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 Mai Tá lược dịch.

Ngông cuồng và rồ dại. Ai dám bảo, thế đó là thái-độ của riêng ta. Ngông cuồng và rồ dại, vẫn có thể là lối sống của nhiều người. Những người “nằm chờ sung rụng” như truyện kể, ở dưới.

Trình thuật, nay cũng đề cập đến một dại khờ. Thứ khờ dại chẳng ai muốn có, là dại và khờ của những người vẫn cứ cư xử với lời của Chúa theo thói “nghe qua rồi bỏ”. Nghe, thì cũng có nghe đấy, nhưng chẳng tha chẳng thiết chuyện đưa Lời Ngài vào hiện thực. Lời Chúa nhắn, nay chừng đã nghe quen: “lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.”

Rõ ràng là, lời Chúa phù hợp với tình huống cuộc sống của dân con, thời tiên khởi. Là cộng đoàn nhỏ, dân con Chúa vẫn phải chung đụng sống với đoàn người hầu hết là dân ở ngoài. Những vị ấy, thường dị đoan mê tín, tin vào thuyết “định mệnh đã an bài”, khó chữa. Thời ấy, Hội thánh tương tự như hạt cải nhỏ bé; như dúm men trong bột đầy ắp niềm tin khác biệt. Khác, ở ảnh hình lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt chuyên chăm, thì lại ít. Rất ít, vào thời Chúa sống. Thời, mà dân con theo Ngài vẫn là thợ gặt quí giá nơi cánh đồng truyền Đạo, tràn ngập những đợi mong, được thuyết giảng.

Cho đi, dân con nhà Đạo mình có triển vọng và ý thức trở thành thợ gặt trong khả năng mong ước, của chính mình. Thợ gặt đích thực, không duy nhất chỉ mỗi giám mục/linh mục/tu sĩ, hoặc nữ tu, thôi. Thánh Phaolô kia, là ví dụ rất cụ thể cho sự “rồ dại” mà người ngoại vẫn gán cho dân con nhà Đạo, rất hiển nhiên. Sự dại khờ của người nghe Lời Chúa trên đây, không như nhà triệu phú được kể, chỉ muốn làm chyện thật dễ, để rồi chẳng còn tâm trí mà nhận lời mời từ Đức Chúa. Chẳng nhận làm thợ gặt cho cánh đồng đầy lúa; dù chỉ với tư cách giáo dân chân phương, khiêm hạ.

Theo sự hiểu biết của mọi người, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy gia nhập đàn con của Chúa, người người đều đã nhận trong bài sai Chúa ủy thác. Nhận, là quyết sống thực những điều Ngài dạy dỗ. Quyết sống và rao truyền Lời Chúa gồm tóm Tin-vui-an-bình. Tin vui, vì được dạy, là: hãy khởi đầu hành trình đưa dẫn các người anh/người chị trong cộng đoàn kẻ tin vào với cuộc sống an bình, hài hoà. An-bình hài- hòa, là sống cả với người ở bên trong cũng như bên ngoài nhà Đạo. Sống an bình hài hoà như thế, đòi hỏi các kẻ tin phải biết canh cải cuộc đời mình.

Canh cải, để sống theo điều được Chúa nhủ khuyên, nơi sách thánh. Canh cải, là bởi nếu không, tất cả sẽ bị phê bình chỉ trích, như Mahatma Gandhi có lần từng nói: “Tôi sẽ hứng nhận từng giọt vắn giọt dài nơi giếng rửa của Đạo Chúa, nếu tôi thấy được những người trong Đạo biết sống điều Thầy của họ khuyên bảo.”

Đây, là điều thánh Phaolô tông đồ từng khẳng định khi thánh nhân có thư cho cộng đoàn kẻ tin ở Galát: “Anh chị em hãy cùng nhau trở nên thụ tạo đã đổi mới.”(Gl 6: 14-18) Bởi, nếu không canh cải trở thành người đổi mới, thì Bí tích Thanh Tẩy sẽ không còn giá trị và Đạo Chúa sẽ kết cuộc ở cuối đường hầm, đầy tăm tối. Đạo của Ngài, đích thực là đường lối hữu hiệu giúp những ai theo Ngài, biết canh cải chính mình để trở thành người mới. Mới vừa thay da đổi thịt. Thay, như lời Đức Kitô vẫn khuyến cáo, vào mọi lúc. Đổi, để sống cuộc đời trọn vẹn, trung thực hơn. Sống trọn vẹn và trung thực hơn, với lòng thương biết quan tâm đến mọi người. Biết sống an bình, tự do.       

Rõ ràng, bằng vào trình thuật hôm nay, Chúa lại nhắc:“Các con đừng mang theo túi tiền. Bao bị. Giầy dép…” (Lc 10; 2). Nói thế, là bởi an toàn Ngài đem đến cho mọi người không nhất thiết sẽ hiển hiện nơi những gì mình đang có, như: tiền tài, nhà cửa, công cuộc đầu tư, tín dụng… An toàn thực sự không gắn liền quyền bính, chức vụ hoặc ảnh hưởng mình đang có, với người khác. An ninh/an toàn thực sự, nằm ở nội tâm con người. Không ai và không hoàn cảnh nào có thể cất nó, bỏ đi được.

Mặt khác, sự an ninh/an toàn, là cụm từ được lập đi lập lại nhiều lần trong cả 3 bài đọc. Với Isaya, thì:“Ta sẽ làm cho bình an chảy đến với nó như con sông.”(Ys 66: 12). Còn thánh Phaolô, lại vẫn chúc:“Bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó.” (Gl 6: 16). Quả là, an ninh/an toàn sẽ không tùy thuộc tình hình ở ngoài đời. Nhưng, vẫn là sự an bình/an vui Chúa đã cảm nghiệm ở vườn Cây Dầu, Ngài cầu nguyện. Và, là sự an bình mà thánh Phaolô đã chia sẻ cùng với thập giá của Chúa.

Thành thử, công tác và phần vụ Chúa gửi dân con nhà Đạo, vẫn là: “đem bình an đến chốn u sầu”. Bình an của cuộc sống hài hoà không còn căng thẳng, giận hờn hoặc tham vọng làm giầu, làm lớn. Tức, vừa làm vừa reo vang những hời hợt chóng qua của tiền tài, dục vọng hoặc vật chất. Lời mời gọi nay Chúa gửi đến với các thợ gặt trần gian ở xã hội nhiễu nhương ta đang sống. Đó là lời mời khẩn thiết ta hãy dấn bước ra đi. Ra đi, mà cải hoán xã hội trần gian thành chốn tràn ngập giá trị cao quý, của Phúc Âm. Lời gọi mời mà chỉ ít người biết đáp ứng. Bởi, họ vương vấn quá nhiều vào những thứ gây lo toan, bịn rịn.

Lời mời gọi: “Các con hãy đi!”  Tức, cứ đi mà rong ruổi chốn bụi trần. Rong ruổi, để đem Chúa đến với mọi người. Và, cùng đi. Cùng nhau rao truyền Lời Chúa. Cùng sống thực Lời Ngài dặn dò, từ nhiều năm. Và, như bẩy mươi hai môn đồ của Ngài khi trước, nay ta cũng ra đi. Đi, để rồi sẽ trở về, với lòng vui mừng hớn hở, mà nói: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng đã vâng phục chúng con.” (Lc 10: 17).

Hôm nay cũng thế, khi đón nhận lời mời từ Thầy Chí Thánh mà ra đi, ta sẽ hái/sẽ gặt thật nhiều đồng lúa chín. Sẽ hân hoan hát bài ca an-bình như người nghệ-sĩ khi xưa vẫn hát:

“Ngàn lời ca dâng lên say sưa,

Dù bình-minh hay trong đêm mưa

Ta hát vang vang ngập muôn lối

Gió mát lác đác hương quê êm dâng

Có tiếng ríu rít rì rào chào mừng

Mừng tự-do về trên quê hương.” (Văn Phụng – Ta vui ca vang)

Vâng. Con tim đã đổi mới, thì người người sẽ hát lời chào mừng tự-do. Tự-do và an-bình, nay đến với người anh, người chị đã chọn lựa theo Chúa ra đi về cánh đồng ngập tràn những lúa chín. Ở nơi đó, không còn những ngông-cuồng/rồ-dại, khi xưa nữa. Nhưng đã vui, đã an-bình vì có đổi mới, yêu thương, đỡ đần hết mọi người, trong cũng như ngoài nhà Đạo.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn – 

 Mai Tá lược dịch.

BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI ?

BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI ?

Hôm nay, một ngày hết sức đặc biệt trong Năm Phụng Vụ. Hôm nay, ta được Giáo Hội mời gọi cùng chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau nhưng cũng rất giống nhau. Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình. Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ. Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào, về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu khi Ngài còn sống. Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng. Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi.

Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ những văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý tưởng. Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.

Thánh Phêrô vốn bản chất dân chài lưới, trực tính và nghiêng về thực tiễn. Còn thánh Phaolô là người trí thức, hay lý luận và thích đào sâu giáo lý. Thánh Phêrô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người đạo cũ, nên không muốn sửa đổi nhiều những gì vốn có kẻo phật lòng họ.

Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa. Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano. Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con”.

Thánh Phaolô là người biệt phái đã từng bách hại môn đệ Chúa, thái độ đó được biểu lộ khi ông đồng tình trong vụ ném đá Stêphanô. Đang khi ông hăng say phi ngựa trên đường Damas để bắt đạo, Phaolô được Chúa Kitô Phục sinh gọi và thanh luyện, một quầng sáng đã bao ttrùm ông, khiến ông bị mù lòa đôi mắt thân xác sau khi ngã ngựa, nhưng đồng thời quầng sáng ấy đã mở cho ông cặp mắt đức tin, ông đã thực sự tin tưởng vào một Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là chính Đấng mà Phaolô đang bắt bớ trở thành Đấng mà “không ai và không gì có thể tách ông ra khỏi lòng mến của Ngài”.

Thánh Phaolô nhằm truyền bá đức tin cho các dân ngoại, nên muốn bỏ đi những lề luật của đạo cũ không còn thích hợp, kẻo nặng gánh cho những người dân ngoại xin tòng giáo.

Thánh Phêrô là Giáo hoàng, nhưng không vì thế mà áp đặt ý kiến của mình. Thánh Phaolô là Giám mục, nhưng không vì thế mà không thẳng thắn trình bày quan điểm riêng của mình, để trao đổi và bàn luận. Thánh Phêrô là người đã có lần chối Chúa vì yếu đuối và đã ăn năn sám hối do cái nhìn xót thương của Chúa. Còn thánh Phaolô đã có lần bắt bớ đạo Chúa vì lầm lạc và đã trở lại nhờ sự giúp đỡ của một môn đệ Chúa.

Phaolô, sau khi gắn bó với Chúa Kitô một cách mật thiết, ông đã lao mình về phía trước như một vận động viên, và dùng chính sự nhiệt thành của mình đi bất cứ nơi đâu vào bất cứ ngóc ngách nào, bất chấp mọi gian khổ tù đày do quyền bính trần thế gây ra, miễn là từ cánh đồng dân ngoại đem về cho Chúa các linh hồn. Phaolô cũng dùng chính khả năng tri thức của mình để trở nên lợi khí phổ biến Tin Mừng cho những vùng đất mới, coi việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận và niềm hạnh phúc của mình: “Vô Phúc cho tôi nêu tôi không rao giảng về Đức Kitô”, ông không hổ thẹn về Tin Mừng bở vì Tin Mừng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, đến với những người tin.

Dẫu rằng Thánh Phêrô và Thánh Phaolô tin Chúa rất mãnh liệt, nhưng đức tin các Ngài cũng không ngừng bị thử thách. Đức tin Phêrô còn phải là nên tảng nâng đỡ đức tin Giáo hội, nên đức tin đó bị thử thách rất nhiều. Phêrô đã từng tin vào Chúa, nhưng mới trước được Chúa khen tặng là đá tảng thì liền sau đó bị Chúa quở trách là Satan hãy lui ra, đã có lần thề hứa “dù phải chết với Thầy con không chối Thầy” mới hứa đó thì liền sau đó ba lần chối Chúa, mới phút trước ung dung bước đi trên ngọn sóng thì phút sau bị chìm vì nghi ngờ. Rỡ rằng là nhiều khi Phêrô nói mà chẳng hiểu mình nói gì, và chính cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu là một thử thách có tính quyết định đối với niềm tin của Phêrô. Cuộc đời theo Chúa của Phêrô đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở thành đá tảng vững chắc, trên đó Đức Giêsu Kit xây dựng Hội thánh Người. Phêrô chỉ có thể nâng đỡ Đức tin cho anh em sau khi trở lại từ kinh nghiệm yếu đuối sa ngã của mình.

Thánh Phêrô và Thánh Phaolô liên kết trong niềm tin, lòng mến Chúa Kitô và Giáo hội, Phaolô luôn hướng về Phêrô như nền tảng cho niềm tin và thế giá Tin Mừng mà ông rao giảng. Nền tảng Pherô cũng là định hước cuộc tiến bước trong đức tin và đảm bảo sự thống nhất dân Chúa trong lòng mến. Điều mà minh chứng hùng hồn nhất đức tin của Phêrô và Phaolô rao giảng đó là việc hai Ngài cùng hội tụ tại Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu đào của mình. Phêrô và Phaolô đã làm thành khuôn mẫu cho việc rao giảng niềm tin cho mọi người.

Nhìn lại cuộc sống, chắc chắn ai cũng đã hoặc đang ít nhất một lần trải qua những đau khổ như: nghèo đói, bệnh tật, thất vọng… Trước những nghịch cảnh đó chúng ta có đứng vững hay bị chao đảo nghi ngờ đức tin? Nếu vẫn còn một niềm tin sắc con thì hãy làm chứng đức tin của mình cho người khác như mẫu gương của Phêrô và Phaolô.

Chúng ta mỗi người tuy khác nhau, nhưng có cùng một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy sống liên đới hiệp nhất với nhau, kiên vững trong đức tin, sẵn sàng minh chứng đức tin của mình qua đời sống cụ thể hằng ngày, điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi người biết siêng năng cầu nguyện, múc lấy nguồn sức mạnh nơi bí tích Thánh Thể, luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, để lời tuyên xưng của Phêrô trở thanh kinh nghiệm riêng cho mỗi người: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai?”.

Giữa những đảo điên của cuộc sống, giữa những quyễn rũ của trần thế, nhờ lời bầu cử của hai thánh Phêrô và Phaolô, chúng ta hãy xin Chúa hãy cũng cố niềm tin nhỏ bé của chúng ta.

Tác giả:  Huệ Minh

LỜI CẦU NGUYỆN !

LỜI CẦU NGUYỆN !

Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời

chẳng khác nào đi trên mặt nước. 
 Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con

cũng kéo ghì con xuống.
Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi. 

 Xin cứu con khi con hầu chìm
.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh

mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen. 

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

DANH NGÔN CÁC THÁNH

Dựa vào sức riêng, không ai được bằng an; nhưng họ sẽ được bằng an nhờ vào ân sủng và lòng thương xót của Chúa.

(Thánh Cyprian)

From: KittyThiênKim

THẦY BIẾT CON YÊU MẾN THẦY

THẦY BIẾT CON YÊU MẾN THẦY

 LM Giuse Trương Đình Hiền

THANH PHERO

Hôm nay, Hội Thánh hân hoan và long trọng mừng kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô, hai cột trụ đã được chính Đức Kitô cắt đặt để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính máu của mình như lời Ca Nhập Lễ mà Giáo hội hát lên trong phụng vụ thánh lễ hôm nay:

“Đây là hai vị Tông Đồ đều anh dũng

Dâng máu đào xây Giáo Hội ngàn thu

Chén đắng Thầy trao, uống cạn chẳng từ

Chúa ưu đãi, nâng lên hàng tâm phúc”

Trong ý nghĩa đó, tất cả mọi Kitô hữu chúng ta hôm nay đều được thừa hưởng và dự phần vào công trình và công nghiệp của hai vị Đại Tông Đồ này.  Xin dâng lên các Ngài tâm tình yêu mến và tri ân cảm tạ.  Tâm tình này chắc chắn sẽ đặc biệt hơn, nồng thắm hơn nơi tất cả những ai, những cộng đoàn, những tổ chức… đã chọn hai Thánh Phêrô – Phaolô làm Vị Bổn Mạng của mình.

Chắc chắn không phải tình cờ, khi phụng vụ chọn đọc các trích đoạn Lời Chúa trong ngày Đại lễ kính hai Thánh Tông Đồ hôm nay: Bài Đọc 1 : Sách Công Vụ kể lại: từ ngục tù, Thánh Phêrô đã được giải cứu để lên đường làm chứng đức tin giữa những lời cầu nguyện thiết tha của cộng đoàn Hội Thánh.  Trong khi đó Bài đọc 2, cũng từ tù ngục, Thánh Phaolô sắp sửa hoàn tất cuộc hành trình chứng tá, cuộc chiến đấu của niềm tin mà lời nhắn gởi cho người môn đệ yêu dấu Timôthê mang âm hưởng của một lời trăn trối.  Và rồi, Lời Chúa đã liên kết hai cuộc đời, hai cá tính, hai sứ vụ xem ra khác biệt của Phêrô và Phaolô thành một đáp án duy nhất qua 2 câu trả lời: một của Phêrô dành cho Chúa Giêsu: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và một của Chúa Giêsu dành cho Phêrô: “…Trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”  Quả thật, sứ vụ Tông Đồ, cuộc hành trình chứng tá và tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu và Hội Thánh, phải chăng là những điểm chung cốt yếu đã đem hai Vị Tông Đồ tương đối dị biệt này tiến lại gần nhau, gần nhau cho đến độ cả hai đã cùng hội tụ tại kinh thành Rôma để cùng làm chứng đức tin cách trọn vẹn và anh hùng trong cùng một thời điểm: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu và Phaolô bị xử trảm.

Mừng lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô – Phaolô có lẽ là dịp tốt nhất để chúng ta cùng khám phá những chứng từ sống động nơi hai cuộc đời vĩ đại đã cùng nhau thiết kế Ngôi Nhà Giáo Hội và chuyển tải cho muôn thế hệ những sứ điệp tuyệt vời của Lời Mặc khải của Thiên Chúa.

  1. Hai cuộc đời khác biệt:
  2. Trên bình diện cội nguồn và cá tính:

– Thánh Phêrô là người thành Bétsaiđa, miền Galilê, xuất thân từ môi trường bình dân, ít học, làm nghề đánh cá (Mt 4, 18).  Trong khi đó, mặc dù là gốc dân do Thái, Phaolô lại sinh tại Tarsô (Cv 9, 11), mang quốc tịch Rôma (CV 16, 37), được học hành đến nơi đến chốn với danh sư biệt phái Gamaliel (CV5, 34; 22, 3).

– Nếu Phêrô luôn trung thành với lề luật và gắn bó với môi trường xã hội Do Thái như những người mộ đạo đương thời: giữ luật cắt bì, coi trọng việc qui định sạch dơ về đồ ăn thức uống… (Cv 10, 14), thì Phaolô, cho dù có nhiệt thành với luật Môsê, nhưng vì được hấp thụ nền văn hóa Hy Lạp, lại sinh trưởng nơi môi trường hải ngoại, nên có cái nhìn thông thoáng và cởi mở hơn đối với thế giới lương dân.

  1. Trên bình diện ơn gọi và sứ vụ:

– Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên đi theo Chúa và đã dấn thân trong ơn gọi này với tất cả lòng nhiệt thành và bộc trực của mình.  Trích đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe đã minh họa rõ nét: chính lòng nhiệt thành và tính bộc trực đã thúc đẩy Phêrô vượt trên anh em để tuyên xưng niềm tin: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.”  Một lời tuyên tín sâu sắc tuyệt vời, là kết quả của ơn mặc khải của Thiên Chúa cùng với cảm nhận của riêng mình đã khiến Chúa Giêsu khen ngợi và đặt Ngài làm đá tảng xây nền Giáo Hội.  Nhưng “Đá Tảng” ấy vì đã vội “bốc đồng”, muốn chơi trội định ngăn cản Đức Giêsu thực thi chương trình cứu độ, nên đã bị Chúa quở trách là Satan.  Mà nào chỉ có lần này!  Chuyện trên Biển Hồ đêm nào vẫn còn đó: Đầu tiên, khi con hướng về Chúa, Phêrô đã bước những bước an toàn trên sóng nước.  Nhưng sau đó, suýt nữa đã chìm nghỉm yếu đuối của mình.  Nhưng thê thảm nhất phải là chuyện xảy ra trong biến cố khổ nạn: Chính tại bàn tiệc ly, Phêrô đã thách thức: “Dù cho mọi người vấp ngã, nhưng con thì không…!  Dù phải chết với Thầy, con sẽ không chối Thầy.” Thế nhưng, trong chính đêm định mệnh ấy, Phêrô đã run sợ chối Thầy ba lần chỉ vì lời nói của một người đầy tớ.  Nhưng thật may mắn cho Phêrô khi ông vẫn còn lẽo đẽo theo Thầy để cuối cùng nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ để rồi, cũng tại nơi Biển Hồ Tibêriat, sau ngày Chúa sống lại, Phêrô hết còn tự tin nơi chính mình mà chỉ biết phó thác nơi sự khôn ngoan của chính Chúa: “Thầy biết hết mọi sự.  Thầy biết con yêu mến Thầy.”  “Tảng Đá” Phêrô đã vỡ vụn hôm nào tưởng đâu sẽ bị loại bỏ; ai ngờ Đức Kitô đã hàn gắn lại để ân cần trao cho Ông sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên.

– Ơn gọi của Thánh Phaolô lại không đơn giản như thế.  Trước khi trở thành một Tông Đồ nhiệt thành sâu sắc của Đức Kitô, thì Phaolô đã là một Pharisiêu cương quyết loại trừ Kitô giáo với tất cả nhiệt tình và suy nghĩ chín chắn.  Với niềm tin được cắm rễ vững chắc trong truyền thống lề luật Môsê, làm sao Phaolô lại chấp nhận một tên Giêsu Nadarét nào đó vi phạm luật ngày Sabát?  Và còn hơn thế nữa, làm sao chịu được những luận điệu tuyên truyền của đám dân chài Galilê, đồ đệ của Giêsu cho rằng Ngài đã sống lại và đang sống!  Đồng tình trong vụ ném đá chết Stêphanô chưa đủ đâu!  Phaolô còn hung hăng đi truy bắt các Kitô hữu để tiêu diệt mọi mầm mống có nguy cơ phát sinh một tôn giáo mới, ngược lại tôn giáo cựu truyền của cha ông.  Nhưng rồi, một ánh sáng diệu kỳ đã đánh mù đôi mắt xác thịt trần tục của ông để mở ra cho ông một nguồn sáng mới.  Tên Pharisiêu cực đoan bài xích Kitô giáo hết cỡ, thì với biến cố Damas, giờ đây đã trở thành “người loan báo Chúa Kitô hăng nồng như một “vận động viên lao về phía trước” (Pl 3,13), như một chiến sĩ “chiến đấu ngoan cường trong trận chiến chính nghĩa”(Thư gởi Timôthê trong BĐ 2) mà không một trở lực nào, dù bắt bớ tù đày, dù đòn vọt khổ đau, dù sống hay chết… có thể “tách Phaolô khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô.”  Và cuộc sống của Phaolô từ đó đã xoay quanh chân lý nền tảng này: “Tôi sống đây, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).

  1. Hai cuộc đời hiệp nhất trong Đức Kitô:

Qua vài phân tích sơ lược trên, quả thật “Hai Cột trụ” của Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt mà chính Kinh Tiền Tụng trong phụng vụ hôm nay đã nhắc tới: “Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân.  Như vậy các Ngài đã dùng đường lối khác biệt, để qui tụ một gia đình duy nhất cho Đức Kitô…”  Quả thật, chính niềm tin, lòng yêu mến Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài, đã đem Phêrô và Phaolô lại gần nhau.  Chính Phêrô đã không bao giờ nhân danh quyền thủ lãnh để áp đặt Phaolô, nhưng đã biết khiêm hạ nhìn nhận khuyết điểm (Gl 2, 2tt).  Cũng thế, Phaolô không bao giờ nại vào trình độ văn hóa, khả năng suy tư để xem thường Phêrô.  Phaolô luôn ý thức vai trò củng cố đức tin và sứ mệnh chăn dắt Giáo Hội của Phêrô được chính Chúa Kitô trao phó.  Và nhất là, cho dù ở hai lãnh vực hoạt động khác nhau, nhưng niềm tin và lòng yêu mến đã thúc đẩy Phêrô – Phaolô cùng hội tụ tại thủ đô Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu của mình.  Phêrô bị đóng đinh ngược đầu còn Phaolô bị xử trảm.

  1. Bài học hôm nay:

Gần 2000 năm qua rồi nhưng cuộc đời của Phêrô – Phaolô vẫn còn là một gợi hứng đầy sinh động và cuốn hút cho Dân Chúa nói chung và cho mỗi một người chúng ta nói riêng.  Bài học lớn đầu tiên mà Hội Thánh rút ra từ hai cuộc đời vĩ đại này phải chăng là “Sự hiệp nhất trong đa dạng.”  Đa dạng trong tính tình, khuynh hướng, trình độ tri thức lẫn phương cách hoạt động nhưng Hai Vị Tông Đồ lại hiệp nhất trong cùng một đức tin và một lòng yêu mến.  Sự hiệp nhất như thế thật sự là quá cần thiết cho Giáo Hội muôn nơi và muôn thuở.  Cho dù hôm nay, Giáo hội có tỏa lan cỡ nào, có vươn dài đến mọi biên giới của muôn dân tộc, quốc gia, thì sự khác biệt mãi mãi sẽ không làm cho Giáo Hội chia rẽ, phân tán, nhưng càng thêm phong phú tốt tươi vì mọi phần tử được liên kết với nhau trong một mối dây thâm sâu nhất đó là tình yêu và lòng trung tín đối với Chúa Kitô, đối với Hội Thánh của Ngài.

Cách riêng đối với mỗi người chúng ta, chỉ cần nhớ lại một đôi câu nói của Hai Ngài, chúng ta cũng có thể tìm thấy cả một linh đạo cần thiết cho hành trình đức tin của mình:

– Để sống khiêm hạ: “Lạy Thầy xin hãy xa con, vì con là người tội lỗi…” (Phêrô); “Cho đến bây giờ chúng tôi đã nên như rác rưởi thế gian…” (Phaolô)

– Để vững lòng trông cậy: “Lạy Thầy cứu con” (Phêrô), “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (Phaolô)

– Để thuộc trọn về Đức Kitô như chọn lựa cuối cùng: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai…” (Phêrô), “Đối với tôi, sống là Đức Kitô…”, “Tôi sống đây không phải tôi nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Phaolô)

– Để yên mến Đức Kitô hết mình: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Phêrô), “Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Phaolô).

– Để trung thành với Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh: “Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Phêrô), “Tôi đã chạy đến cùng đường và giữ vững niềm tin” (Phaolô)

– Để vâng lệnh Chúa Kitô ra đi loan báo Tin Mừng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới” (Phêrô), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (Phaolô)

– Để củng cố và xây dựng Hội Thánh: “Anh em là Dân tộc thánh… là những viên đá sống xây dựng đền thờ Thiên Chúa” (Phêrô), “Anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (Phaolô)

 LM Giuse Trương Đình Hiền

langthangchieutim gởi

“Xuân vương trên ngàn hoa,”

 Xuân vương trên ngàn hoa,”

nhắc bao sầu nhớ mơ màng
mây buông trong chiều vắng

như luyến tiếc giấc mơ đã tàn
nhớ dưới xuân năm nào

lòng say ước mơ sống trong mộng vàng.”

(Hoàng Bách – Nhớ Bạn)

(1Cor 1: 10-13)

 Trần Ngọc Mười Hai

Có lúc buồn, bọn tôi thường nhớ nhiều đến nhạc bản “Nhớ Bạn” do ca sĩ có giọng trầm buồn rất dễ thương là: Sĩ Phú. Nghe Sĩ Phú hát, bọn tôi thường mường-tượng về buổi thính-phòng nào đó, trong quá khứ. Có thể là phòng-trà “Đêm Mầu Hồng” hoặc quán “Ritz” ở Sàigòn thập-niên 1960s lúc thị thành còn sôi-động.

Giọng trầm và ấm của Sĩ Phú vẫn đưa lòng người về với nhớ nhung. Nhớ rất nhiều, là đám bầu bạn thân-thương thuở cắp sách đến trường. Nhớ, bạn cùng trang-lứa có những ngày trốn học rủ nhau đi Xinê, nghe nhạc hoặc tìm nơi chuyện trò cũng dễ thương. Nói chung, bọn tôi “Nhớ Bạn” cũng rất “khủng” tưởng chừng như sẽ không còn gặp lại nhau, bao giờ nữa.

Quả, như lời bài hát vẫn đưa bọn tôi vào chốn thân quen bàng bạc một tình-tự, như sau:

“Chiều nay niềm ái ân xưa

tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương

lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương.

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa,
Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt,
muôn đường tơ vương,
sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.

Bóng dáng xa khuất ngàn

trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương
cung đàn lỡ bao nhịp

luyến thương đường đời vạn nẻo
nhuốm mối đau thương
nhớ phút giây êm đềm say đắm
tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng
xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa
lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”

(Hoàng Bách – bđd)

Nỗi nhớ niềm thương ở đời, là như thế. Niềm thương/nỗi nhớ đầy ân-huệ ở nhà Đạo, lại khác thế cũng rất nhiều. Khác, như vừa rồi ở trời Tây bên ấy, đã có đấng bậc nọ từng dẫn-giải tình-tự đầy tiếc nuối, như sau:

“Hôm ấy, nhân kỷ-niệm 500 năm cải-cách của giới Thệ-Phản, lm Raneiro Cantalamessa có nói rằng: lãnh-đạo Kitô-giáo phải tập-trung nhiều hơn vào niềm tin mình đang san-sẻ hơn là cãi-tranh nhau về công-thức đạo-lý/tín-điều. Linh mục này có nói:

Cùng lúc có các cuộc bàn-luận về tín-lý, ta phải có cuộc đại-kết giáp-mặt riêng tư thân-thiện và hòa-hợp tâm-can, thì tốt hơn. Bởi, có như thế ta mới lôi kéo cộng-đồng Đạo Chúa xích lại gần nhau hơn như đã xảy ra trong vài thập-niên vừa qua. Lâu nay, giữa người Công-giáo và Thệ-Phản vẫn có xung-đột dựa trên nền-tảng không hiểu rõ ràng thông-điệp của thánh Phaolô về những sự việc như thể để biện minh cho mình luôn là đúng.

 Khi xưa, thánh Phaolô tông-đồ, qua thư Rôma ở chương 3, chỉ muốn khẳng-định rằng những gì ta biện-minh/bào-chữa cho chính mình bằng niềm tin chính là biện-minh niềm tin vào Đấng Kitô. Thường thì, ta cũng không mấy đặt nặng việc mình bào chữa nhờ ân-huệ cho bằng nhờ ân-huệ do Đấng Kitô ban cho ta. 

Bằng vào việc tin-tưởng vào Đấng Ki-tô, người Công-giáo cũng như Thệ-Phản mới có thể lướt thắng khác-biệt của nhau. Nay, không còn chiến-tranh tôn-giáo giữa người Công-giáo và Thệ-Phản nữa rồi. Nên, cần nghĩ đến những việc tốt đẹp nào khác để làm hơn là cãi-vã hoặc tranh-luận với nhau nữa. (x. phần tin: Focus on beliefs, not doctrine, says papal preacher, trên The Catholic Weekly này 27/3/2016, tr. 12) 

Nếu cứ xét chuyện đạo-lý thần-học trong Giáo-triều đầy quyền-bính, hẳn là người Đạo Chúa sẽ thấy rằng: mọi sự trong Đạo không phải lúc nào cũng mang dáng-dấp mầu hồng, bao giờ hết. Đó, còn là ý-tưởng được Đức Giáo Tông nói lên vào một buổi triều-yết có giảng-giải ở Rôma, được các phóng-viên ghi lại qua tiêu-đề là Nhưng bên trong Giáo hội, con đường không đầy màu hồng với Đức Phanxicô” như sau:

Lúc Đức Bênêđictô XVI thoái vị, Giáo triều Roma, nội các của giáo hoàng với các hồng y và giám mục điều hành thể chế Giáo hội ở trong cơn khủng hoảng. Các tin đồn về nạn đấu đá và vấn đề tài chính đáng ngờ đang nhan nhản. Quản gia riêng của Đức Bênêđictô đã phản bội ngài, ông tiết lộ các tài liệu nội bộ cho truyền thông. 

Trong những ngày trước khi xảy ra mật nghị hồi tháng ba năm 2013, các hồng y, những người chịu trách nhiệm trong việc bầu giáo-hoàng ý-thức mình phải làm gì đó. Vatican cần một người đến từ bên ngoài, một người không ngại lay chuyển mọi sự và đưa nhà Giáo hội vào trật tự. Người đó, tất nhiên, là Đức Giáo hoàng Phanxicô. 

Được bầu lên như một nhà cải cách ở tuổi 76, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhận ngai tòa Phêrô với ý thức rằng mình không có nhiều thời gian để tạo nên sự khác biệt. Nên ngài vận động nhanh chóng, lập các văn phòng mới để quản lý tình trạng tài chính khó kiểm soát của Vatican. Ngài giới hạn quyền lực của Giáo triều bằng cách lập nhóm chín hồng y cố vấn, họp thường xuyên để định hướng công việc. Và ngài cắt bớt vây cánh của những người đối lập muốn tìm cách phá hoại các nỗ lực của ngài. 

Là những con người của Chúa, các hồng y và giám mục đột nhiên bị tước quyền này, họ nuốt kiêu hãnh xuống và cùng chung sức làm việc với Đức Phanxicô, lãnh đạo mới của mình. Nhưng không phải ai cũng thế. Một số không đi chung đường với Đức Phanxicô, họ mở một chiến dịch xì xào với đủ kiểu đàm tiếu và ước-đoán, để làm giảm giá trị các cải cách của Đức Giáo hoàng. Những lời ám chỉ, tin đồn, và dối trá trắng trợn mà một vài cấp lãnh đạo trong Giáo hội đã tiết lộ cho truyền thông làm Vatican phải hổ thẹn.

 Một trong những người cốt cán được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Ngân hàng Vatican, bị cáo buộc là có quan hệ đồng tính. Về sau, trong Hội đồng Gia đình, các giám mục có cảm tình với cải cách tự do trong Giáo hội bị cáo buộc là hấp tấp phát hành một báo cáo hội đồng với ngôn từ thân thiện với những người đồng tính và những người ly dị rồi tái hôn.

 Lại có lời đồn rằng phòng thư từ Vatican đã không chuyển các quyển sách mang tính bảo vệ giáo huấn của Giáo hội hiện thời cho các thành viên hội đồng. Khi các cải cách tài chính của Đức Giáo hoàng được đẩy lên cao độ, thì nhân vật cốt cán được ngài giao phó kiểm tra chuyện tiền bạc, bị đồn là tiêu xài hoang phí cho trang trí văn phòng và trang phục. Đàm tiếu đang hung hăng vượt lên, muốn diệt các đồng minh của Đức Phanxicô. 

Một hồng y người Mỹ có uy-thế ở Vatican, trở thành biểu tượng cho những người nghi ngờ cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng. Hồng y này nói là “nhiều” người bày tỏ “quan ngại” về Đức Giáo hoàng Phanxicô.

 Trong buổi phỏng vấn ngày 30 tháng mười, với tờ báo Công giáo Tây Ban Nha Vida Vueave, hồng y này nói, “có một suy nghĩ mạnh cho rằng giáo hội như con thuyền không bánh lái.” Ông nói rằng đây không phải là cảm giác của riêng ông, nhưng là của một người khác, với ý muốn làm rõ là những người chỉ trích Đức Giáo hoàng sẽ có một đồng minh mạnh ở Roma.

 Chuyện này không kéo dài lâu. Khoảng một tuần sau, ông bị đẩy khỏi vai trò lãnh đạo Tòa Thượng Thẩm, và được bổ nhiệm vào một vai trò mang tính hình thức là tuyên úy cho Hội Hiệp sĩ Malta. Trường hợp đặc biệt này cũng là trường hợp cực đoan nhất, khi một hồng y đầy uy-thế công-khai chất vấn cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng và không lâu sau bị thuyên chuyển chức vụ, nhưng không phải là duy nhất.

 Một giám mục Hoa Kỳ nói rằng Đức Phanxicô đang hạ bệ những người Công giáo bảo thủ. Một hồng y khác chất vấn không biết Đức Giáo hoàng có thực sự hiểụ được các bài diễn văn và bài giảng của ngài có tác động toàn cầu thế nào hay không. Và nhiều linh mục cũng như giáo dân, tiếp tục tỏ ra khó chịu mỗi khi Đức Phanxicô bỏ qua bài soạn sẵn, mà nói tự phát, từ trái tim và làm cho báo giới tốn nhiều giấy mực.

 Vài người ở Vatican nghĩ, cách tốt nhất để chống lại các thay đổi của Đức Giáo hoàng là làm rò rỉ thông tin và nói bóng gió cạnh-khoé để loại trừ các đồng minh của Đức Phanxicô. Những chiến thuật này thường được các chức-sắc muốn giữ ghế áp dụng, và đôi khi bất chấp tác hại của nó với công việc phúc âm hóa. Đức Phanxicô đã có một thông điệp gởi đến các giám mục này: hãy thôi đi.

 Các câu tweet của Đức Giáo hoàng về ngồi lê đôi mách cũng giống như “quả trứng Phục Sinh” với nhiều ẩn nghĩa mà tôi đã mô tả trong chương trước, và thực sự có tác động đến những người này. Chỉ có hai tweet trực tiếp nói về thói đàm tiếu, nhưng khi hiểu được những gì sau màn ảnh, chúng ta thấy đây là cú đấm mạnh hơn nhiều.

 Đức Phanxicô muốn các giám mục hãy thôi ám ảnh về quyền lực và danh tiếng của mình, và phải biết đi vào trong thế giới. Chặn đứng thói đàm tiếu là một trong các bước đầu tiên của ngài. Nhưng ngài không tweet về đàm tiếu chỉ để chấn chỉnh hàng ngũ (dù chắc chắn là chúng có tác động tốt này). Nhưng ngài muốn mỗi một tín hữu biết noi gương Chúa Giêsu hơn nữa, mà chuyện đàm tiếu lại kéo chúng ta đi ngược lại con đường này.

 Cuộc Cách mạng Phanxicô không diễn ra với những thay đổi lớn trong giáo huấn của Giáo hội, hay bán các tác phẩm nghệ thuật vô giá để lấy tiền phát cháo cho người nghèo. Nhưng cuộc Cách mạng Phanxicô sẽ đến khi các tín hữu bắt đầu sống giống Chúa Giêsu hơn, từ những giáo dân bình thường cho đến các hồng y cao cấp của Giáo triều.”

Muốn diễn-đạt tình-trạng sống Tin Mừng ở nhà Đạo, theo cách người ngoài đời vẫn làm, tưởng cũng nên quay về với truyện kể ngắn gọn nhưng bàn về “cái thâm thúy của người xưa”, từng sống đời thực-tế như sau:                                                                                                        

 “Cao nhân chân-chính, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại.

 Thế nào gọi là cao nhân? Tương truyền, Tả Tông Đường rất thích chơi cờ vây, hơn nữa còn là một cao thủ, gần như không có ai là đối thủ của ông.

 Có một lần, Tả Tông Đường cải trang trước khi xuất chinh đánh trận, trên đường bỗng nhìn thấy một ngôi nhà tranh, trên xà nhà có treo tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ”. Tả Tông Đường thấy thế thì trong lòng không phục, liền đi vào trong để cùng chủ nhân ngôi nhà đánh ba ván cờ.

 Vị chủ nhà đánh ba ván đều thua, Tả Tông Đường cười nói: “Ông nên tháo tấm biển kia xuống đi!” Nói xong, Tả Tông Đường tràn đầy tự tin, cao hứng bừng bừng mà rời đi.

 Không lâu sau, Tả Tông Đường thắng trận trở về, lại đi ngang qua ngôi nhà ấy, thấy tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ” vẫn chưa được gỡ xuống, Tả Tông Đường tức giận đi vào trong nhà để cùng vị chủ nhân tỷ thí ba ván cờ nữa.

 Lần này, Tả Tông Đường thua cả ba ván. Tả Tông Đường vô cùng kinh ngạc, liền hỏi vị chủ nhân tại sao lại như vậy. Vị chủ nhân đáp:

 -Lần trước, ngài tuy mặc thường phục nhưng ta đã sớm biết ngài là Tả Công, ngài mang trên mình nhiệm vụ đánh giặc, ta không thể dập tắt nhuệ khí chiến đấu của ngài. Lần này, ngài đã chiến thắng trở về, ta đương nhiên toàn lực ứng phó, việc đáng làm thì ắt phải làm, không thể nhượng bộ!

 Cao thủ chân chính trên thế gian, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại, ấy là vì có tấm lòng khiêm nhượng, thiện tâm với người.

 Cuộc sống chẳng phải là như vậy sao? Thông minh không nhất định là có trí tuệ, thế nhưng trí tuệ thì nhất định bao quát thông minh. Người thông minh tâm nặng chuyện được mất, người trí tuệ có thể dũng cảm xả bỏ. Tai thính thật sự thì có thể nghe được tiếng lòng, mắt sáng thật sự thì có thể nhìn thấu tâm linh.

 Chứng kiến, không có nghĩa là nhìn thấy.

Nhìn thấy, không có nghĩa là nhìn rõ.

Nhìn rõ, không có nghĩa là hiểu được.

Hiểu được, không có nghĩa là hiểu rõ.

Hiểu rõ, không có nghĩa là đã thông suốt.

 Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Không có văn hóa thì thật đáng sợ!”. Thế nhưng “văn hóa” ấy rốt cuộc là gì? Là bằng cấp hay kinh nghiệm? Hoặc sự từng trải? Câu trả lời: tt cả đều không phải! Ngày hôm nay, coi như chúng ta đã được thấy một lời giải thích thuyết phục, “văn hóa” ấy chính là biểu đạt bởi bốn điều sau đây:

 1.Đào sâu vào tu dưỡng nội tâm.

2.Tự giác không cần nhắc nhở.

3.Lấy ước thúc làm tiền đề cho tự do.

4.Suy nghĩ lương thiện vì người khác.  (Dịch giả: Minh Nữ)

 “Văn hóa” nhà Đạo, nay cũng thế. Cũng có khi, người nhà Đạo quyết-chí đào-sâu tu-dưỡng nội-tâm. Cũng có lúc, hơi bị “chểnh mảng” đi chệch ra ngoài mục-tiêu và mục-đích do Đạo đề ra. Thế nên, cũng phải tự-giác, lấy ước-thúc làm tiền-đề cho tự-do và suy-nghĩ lương-thiện vì người khác.

Nhà Đạo mình, nhiều lúc cũng quên đào sâu tư-tưởng và chiều-hướng được nhấn mạnh ở lời vàng thánh kinh, nên mới thế. Đào sâu tư-tưởng ở thánh kinh, ta sẽ thấy đấng thánh nhân hiền từng bảo rằng:

“Tôi khuyên tất cả anh em

hãy nhất trí với nhau

trong lời ăn tiếng nói,

và đừng để có sự chia rẽ

giữa anh em,

nhưng hãy sống hoà thuận,

một lòng một ý với nhau.”

(1Cor 1: 10-13)

Như thế có nghĩa: chuyện chia rẽ giữa anh chị em cùng thờ một Chúa, là chuyện thường ngày ở huyện từng xảy ra trước đây, ở Corintho6 và nhiều nơi khác. Xảy ra, là bởi vì người cùng một Đạo Chúa hay đạo làm người đã không còn biết sống hòa-thuận/một lòng một ý với nhau, như được khuyên.

Như thế tức là, ở mọi thời đều có những vấn-đề cần giải-quyết. Cả vấn đề sống đạo hoặc giữ gìn lời nói với nhau, trong mọi sự.

Nói như thế, tức là mọi chuyện xung khắc xảy ra trong đời người, phần lớn là do lời nói, tư-tưởng hoặc lối đối xử không nhất trí theo cùng một tinh-thần nương-tựa giùm giúp và sẻ san điều hay điều tốt với nhau, mà thôi.

Trong nhận thức rất như thế, nay mời bạn và mơi tôi, ta lại cất lên tiếng hát trích-dẫn ở trên để nhớ đời, rồi sống. Hát, là hát những lời như sau:

“Chiều nay niềm ái ân xưa tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương.

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa,
Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt,
muôn đường tơ vương,
sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.

Bóng dáng xa khuất ngàn

trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương
cung đàn lỡ bao nhịp luyến thương đường đời vạn nẻo
nhuốm mối đau thương
nhớ phút giây êm đềm say đắm
tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng
xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa
lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”

(Hoàng Bách – bđd) 

Trần Ngọc Mười Hai

Có những lúc những thời

Vẫn liên-tưởng

đến những khó khan

trong đời đi Đạo

vốn dĩ là thế.  

“Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,”

 “Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,”

Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều.

Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,

Phút giây chừng mỏi gót phiêu-lưu.”

(Dẫn từ thơ Thế Lữ)

 Mai Tá lược dịch.

Phiêu-lưu, mạo-hiểm mòn bước chân, là chuyện đã đành. Phiêu-bạt đây đó làm chứng cho Lời của Chúa đâu nào thấy mỏi. Phiêu-lưu lên đường rao truyền Lời Chúa là bổn-phận Chúa vẫn kêu mời, từ ngàn xưa.

Trình thuật Lời Chúa hôm nay, mở cho thấy khoảnh khắc rất quan trọng, trong cuộc đời Đức Kitô. Gần đến ngày Ngài được cất nhắc về cùng Cha, Đức Giê-su cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Với Tin Mừng thánh Luca, Giêrusalem là điểm tập trung toàn bộ cuộc đời của Chúa. Toàn bộ tập trung, vì đây là nơi chốn Ngài hoàn thành công trình cứu độ. Và, cũng từ Giê-ru-sa-lem, công trình của Ngài lan rộng khắp mọi nơi, trên thế giới.

Quyết lên đường, Đức Giê-su đưa ra mẫu mực thử thách đến với ta, để ta tham gia công trình hầu chấp nhận làm mọi việc được ủy thác. Điều trớ trêu, là: ngày Ngài lên đường vào làng Samaritanô, nhiều người ở đây không tiếp nhận Ngài. Và, Ngài đi Giêrusalem, là để chấm dứt tình trạng rẽ chia, đang lan tràn. Ngài quyết phá đổ mọi rào cản chia cách mọi người. Và, đem bình an và hòa hợp đến với mọi người.

Tin mừng “đi Giêrusalem”, nhắm vào trọng tâm ý nghĩa của Tiệc Thánh, thời buổi này. Tin Mừng cũng nhằm vào sự đáp trả của mỗi người trong ta, khi Chúa kêu mời cùng Ngài lên đường. Thấy Ngài lên đường, nhiều người cũng muốn đi theo như vẫn thấy dẫy đầy ngày hôm nay. Vẫn thấy, nhiều người trong cộng đoàn dân con Đức Chúa, chỉ biết đi là đi. Chứ chẳng hiểu tại sao lại “đi Giêrusalem”. Đi như thế, có ý gì? Với Chúa. Với những người đi theo Ngài.

Có 3 loại người muốn theo Ngài. Và, có lẽ một hoặc hai người trong số này, có thái độ giống như ta, hôm nay. Thành thử, hãy xét thử xem sao, thái độ của những người dự tính đi theo Chúa. Người thứ nhất tuyên bố: Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo! Nói là nói thế, nhưng những người theo dạng này, không am-tường thực-tế Ngài phải đối đầu. Và, câu đáp trả của Đức Giêsu làm họ không mấy hứng thú. Dấn thân làm ngôn sứ, như Ngài, tức biết mình sẽ không nhà không cửa, không chốn tựa đầu, đâu nào dám theo.

Loại người thứ hai cũng muốn đi. Nhưng, vẫn nại vào lý do khiến Chúa không thể trách móc. Để rồi, cuối cùng cũng bỏ cuộc. Và, thái độ đáp trả của Chúa thoạt nghe, có vẻ nghịch lý/nghịch thường, nhưng lại là điều kiện cho những người dấn bước theo chân Đức Ngài. Theo chân Chúa, là: hãy để lại mọi sự bỏ đó mà ra đi loan báo Nước Trời, cho mọi người. Ở đây nữa, có thể: thân phụ của người thanh niên trong trình thuật, thật sự đâu đã chết. Anh chỉ muốn chờ khi báo hiếu cho cha xong xuôi, rồi mới quyết định. Và, đây là lý do chính đáng để khước từ lời Chúa mời. Và, đây cũng là trở ngại khác, khiến người quyết tâm không thấy vững chí, mà ra đi.

Trả lời cho những người như thế, Đức Kitô chỉ muốn xem con người đặt sự việc nào ưu tiên hơn cả, ở đời mình. Và, ý Ngài là: ta vẫn được mời gọi thực hiện việc dựng xây Nước Trời, ở trần gian, ngay trước mắt. Làm xong việc ấy rồi, mọi sự cũng sẽ “bất chiến, tự nhiên thành”. Bởi, Nước Trời chính là: thế giới của sự thật, của lòng xót thương, công chính. Của tự do và an bình. Của, thế giới nhất định sẽ xẩy đến với gian-trần.

Loại người thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa, thật đấy. Nhưng, lại vẫn phải quay về từ biệt bạn bè người thân, xong cái đã. Thái độ này, có nghĩa là: người như anh, chỉ muốn có cuộc sống vui nhộn với bà con bạn bè, mà thôi. Trong khi đó, muốn trở thành đồ đệ của Chúa, buộc lònh mọi người phải có quyết tâm. Không do dự. Lời Chúa mời gọi, là: lời mời ở đây, hôm nay. Và, lời đáp trả phải là lời ứng-đáp tự do ngay ở đây, hôm nay; chứ, không là chuyện xảy đến trong tương lai. Đề cập đến chiếc cày, là Chúa ám chỉ lời tiên tri Isaya ở bài đọc 1.

Bài đọc 1, Êlisha đáp ứng lời kêu gọi làm ngôn sứ, ngõ hầu tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm mình là: tiên tri Êlya. Đệ tử Êlisha cũng muốn giã từ cha mẹ. Và, ông cũng đã về nhà, để giết bò, đốt cháy chiếc cày, rồi tay không đến với sư phụ của mình, là Êlya. Tin Mừng Chúa, được viết không phải để ta hiểu từng chữ, theo nghĩa đen. Nhưng, thánh sử muốn để người nghe có dịp suy nghĩ về những điều Chúa đề cập.

Thật ra, thì điều thánh sử muốn nói, tức: vật chất, tình cảm và tri thức đều có thể là rào cản ngăn chặn khiến ta không thể đi theo Chúa một cách vô điều kiện. Đời người hôm nay, lại có quá nhiều thứ để ta vui chơi hưởng thụ dễ biến Lời Chúa nên nhạt-nhoà, mờ dần; chẳng còn bận tâm gì chuyện tham gia, dính dự vào đời người vốn đã có quá nhiều thứ để bận tâm, lo lắng và tiếc-nuối. Nuối-tiếc nhiều, những chuyện xảy ra, trong quá khứ; vẫn cứ lo-ngại không ít, về những chuyện sắp xảy đến, trong lai thời.

Các yếu tố nêu trên, đều khiến cuộc sống càng thêm phức tạp, trục trặc. Phần đông trong chúng ta, mới chỉ sống có phân nửa cuộc đời, hoặc đang sống cuộc đời của người khác. Chứ, chưa hẳn là đã và đang thực sự sống đời mình, cho riêng mình. Và, đó cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn Galát: ”Quả thế, anh chị em đã được gọi để hưởng sự tự do.” (Gl 5: 13)   

Sở dĩ thánh Phaolô phải nói lên điều đó, vì có nhiều vị ở nơi đây là người Do thái, đã trở lại. Và xem ra, nhiều người trong số đó chỉ muốn quay về với truyền thống Do thái giáo, thời xưa cũ. Trớ trêu thay, đối với mọi người, xưa cũng như nay, tất cả đều đã và đang lo sợ. Lo và sợ, vì mình đang có quá nhiều tự do.

Nhưng, tự do thực sự, không phải là thách thức quyền bính. Cũng không là, tự cho mình có quyền tha hồ vui thú, hưởng thụ; tha hồ phiền hà người khác. Tự do, cũng không là thái độ cứ ưỡn ngực tuyên bố: tôi có quyền mở to máy hát, chẳng cần biết rằng hàng xóm mình đang khổ sở vì âm thanh, tiếng nhạc.

Hoặc, cứ đua xe trên đường phố, chẳng sợ ai, chẳng san sẻ đường đi nước bước, với mọi người. Người có tự do đích thực, là người biết quan tâm đến tha nhân; biết để ý xem tha nhân có cần mình giúp đỡ gì không. Tự do, là biết rằng những người thân-cô-thế-cô, đang đau khổ. Là, biết đối xử với những người đó như người anh/người chị, cùng nhà.

Thánh Phaolô còn thêm: “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt; nhưng hãy lấy tình thương mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5: 13) Tự do như thế, không là thái độ trốn tránh thực tại sống. Nhưng, biết giáp mặt, đối đầu với cuộc sống. Tự do thực, là dám nhận lãnh trách nhiệm chăm lo cuộc sống của chính mình.

Và, không đem khó khăn riêng tư của mình mà đổ lên đầu người khác. Không coi họ như mối oan khiên như con dê tế thần, chịu hết mọi trách nhiệm. Tự do, còn có nghĩa: không đeo bám vào các tiện nghi vật chất. Vào mọi sự ở ngoài, như: tiền tài, nhà cửa, chức vụ, cùng công danh/sự nghiệp, hệt như thế.

Kỳ lạ thay, người tự do đích thực sẽ làm được những gì mình mong muốn. Bởi, những điều họ mong và muốn, là: dựng xây thế giới tôn trọng sự thật. Thế giới biết san sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Biết tạo cho nhau, sự an bình hiền hoà, trong nội tâm. Người có tự do, là người rất tách bạch, không lấy đi mọi thứ tốt đẹp, của người khác. Vì làm thế, không là san sẻ thị kiến chung, của mọi người. Nhưng, biết được khó khăn của người khác để giúp đỡ. Để, coi nhẹ khó khăn mình đang gặp.

 Lm Richard Leonard sj biên-soạn

  Mai Tá lược dịch.

CHIẾC BỊ

CHIẾC BỊ

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace).  Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.

“Hôm ấy, tôi đang mê mải bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời.  Tôi vội vã đi theo.

Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.

Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.

Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,

Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.

Chân kéo lê trên một quãng đường dài.

Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.

Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.

Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.

Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,

Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.

Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,

Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.

Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.

Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.

Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.

Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.

Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,

Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.

Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.

Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.

Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,

Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi.”

 Anh chị em thân mến,

Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân.  Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp.  Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:

Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy.”  Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu.”  Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ,” và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ.  Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thấy tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy.  Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ.  Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.

Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi.”  Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã.  Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa.”  Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngoài Nước Trời.  Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì.  Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.

Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện:“Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã.”  Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.  Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã.  Ông Êlia đồng ý ngay.  Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước.  Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu thì khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau.  Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được.  Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.

Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa.  Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: Nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.

Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ.  Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi.  Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy.  Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”  Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời.  Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy.  Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.

Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình.  Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa?  Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa.  Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi.  Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi.  Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3, 7-13).

Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo.  Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn.  Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình.  Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa.  Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.

Việc tham dự tích cực và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

From: langthangchieutim