Tình đã đến trong những ngày độc dược,

“Tình đã đến trong những ngày độc dược”,

trong những ngày rữa nát mọi tinh hoa

trong những ngày sự sống diễn ra

bằng điên dại dẫm bừa lên sự sống!…

nhìn nhau đi em để thấy những giòng xanh

hạnh phúc trần gian đang lăn từ khóe mắt.

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá lược dịch

Nhìn nhau đi, để thấy được giòng xanh hạnh phúc. Giòng xanh hạnh phúc ấy, có lẽ ta rất dễ thấy nơi dân gian cuộc đời. Một cuộc đời luôn có Chúa, có Mình và Máu Thánh. Trình thuật hôm nay, nói về quà tặng Chúa ban nơi Mình Ngài, bàn tiệc Thánh. Tiệc lòng mến, rất agapè.

Mừng tiệc thánh agapè mỗi tuần, cộng đoàn nơi tôi ở vừa tái cấu trúc nguyện đường cho an toàn, hợp lý. Một trong những điều tôi cảm thấy lạ, là: cửa Nhà Tạm Chúa ngự được làm bằng kính, rất sáng trong. Trong đến nỗi, ánh sáng bên ngoài có thể lọt vào, để lộ hiện nguyên hình chén thánh. Và đây cũng là lần đầu, tôi cảm thấy yếu tố này đã đánh động, thu hút lòng Đạo nơi tôi và chắc cũng là của một số anh em.

Phản ứng của anh em chúng tôi cũng đa dạng, đôi lúc thật lạ lùng. Người cho rằng: làm thế không trang nghiêm, thiếu tôn kính. Kẻ bảo là: lập trường cấu trúc cũng không tệ. Tựu trung, đa số đã bày tỏ sự đồng thuận, là: hãy nên để thế. Để như thế, vì Mình Thánh Chúa là Thực phẩm nuôi sống chúng ta, mỗi ngày. Mỗi ngày, ta nhìn thấy Ngài, rất muốn sẻ san. Ngài là thực phẩm, nên cũng cần mang dáng dấp chào mời, dễ bẻ vụn và phải đổ tràn ra bên ngoài bằng yêu thương, vô bờ bến. Đó, chính là động tác Chúa thực hiện vào Tiệc Thánh, chiều Thứ Năm. Hôm trước ngày khổ nạn. Và, đó cũng là việc ta vẫn làm mỗi tuần, ngày của Chúa.

Ngày của Chúa, nhiều vị thường diễn tả việc dự Tiệc thánh như thói quen nguyện cầu, dâng tiến. Tệ hơn, có người lại coi việc cử hành Tiệc như màn độc diễn của vị chủ tế trên bàn thờ. Giáo dân  tham dự chỉ với tính cách người dự khán, thôi. Nghĩa là, chỉ đến rồi đi. Đi xem lễ. Đến nhà thờ. Nhất nhất, để thực hiện tổng cộng những sáu điều Hội thánh khuyên răn. Không đi không đến e sẽ mắc tội. Và, là tội trọng.

Vốn mang trong người phong thái ấy, nhiều người vẫn hay đến trễ, về sớm. Chỉ đứng xa hoặc loanh quanh ở ngoài, hút thuốc nói chuyện hoặc liên tưởng chuyện làm ăn nào khác. Tuyệt nhiên, không mang dáng dấp tích cực, hợp tác nơi bàn tiệc.

Tiệc Thánh, trước tiên và nhất thiết phải là động thái tích cực của cả cộng đoàn. Bởi, tự bản chất, ý nghĩa của Tiệc là như thế. Chí ít, ta tham dự Tiệc là để thật sự ăn Mình Máu Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu, như được dạy. Nói cho cùng, tham dự Tiệc không là chuyện đơn độc riêng lẻ, nhưng là việc của cả cộng đoàn tình thương dự Tiệc lòng Mến rất đông. Rất tích cực.

Dự Tiệc ngày của Chúa, ta cùng nhau đến vì Thân Mình Ngài. Cùng đến, như những người thân yêu chung tình, cùng ăn cùng uống. Cùng chung sức sống. Đến để bày tỏ lòng biết ơn chân thành, đối với Ngài. Đến, vì “Thánh Thể” thật sự mang ý nghĩa một cảm tạ. Ta đến, không phải vì sợ phạm vào điều khuyên thứ ba Hội thánh luôn răn giữ. Ta đến, không vì sợ tội. Không vì sợ vi phạm giới răn Hội Thánh Chúa, khuyên giữ. Ta đến, cũng chẳng phải là giữ chỉ để giữ. Giữ vì sợ mắc tội. Giữ, nhưng không mảy may thuyết phục. Thành thử, có người cứ đến trễ và về sớm. Cũng chẳng thấy cần phải lưu lại đôi phút để hàn huyên, chia sẻ những tâm tình người đồng Đạo.

Đến dự Tiệc lòng mến, tuyệt nhiên không là đi “xem lễ”, như nhiều người lầm gọi. Bởi, đi xem là xem vị chủ tế độc diễn màn dâng tiến một mình, trên bục cao. Ngược lại, đến dự Tiệc Thánh là việc tham gia vào việc chung. Tham dự và gia nhập tiệc vui rất chung. Ăn chung uống chung, cũng một Mình Máu Rất Thánh của Chúa. Ăn và uống chung, rất công khai. Đầy hưng phấn.

Như Chúa từng bày tỏ:

Bằng vào việc này, mọi người sẽ biết các anh là môn đệ của Thầy, anh em hãy thương yêu nhau” (Yn 13: 35). Và:

“Xin cho chúng nên một để thế gian biết Cha đã gửi Con đến”

(Yn 17: 21-23)

Đến dự Tiệc, mà mang tâm trạng đơn độc lặng thinh, là chưa hiểu ý nghĩa của sự đồng tâm cộng lực,chung lòng mến. Đến dự Tiệc, là cùng mang tâm tưởng thâm sâu đượm tình mật thiết của cộng đoàn kẻ tin. Tiệc Thánh, không là thời điểm ta tác tạo nên cộng đoàn, mà thôi.

Nhưng, là thời gian giúp ta cử hành mừng kính đặc điểm cùng nhau chung phần vui hưởng của cộng đoàn. Thật đáng tiếc: hơn bốn thập niên thời hậu Công Đồng đã trôi qua, mà nhiều vị vẫn còn nhấn mạnh đến yếu tố tu đức cá thể. Chỉ nhắm mục đích tìm sự “rỗi linh hồn”, riêng mình ta thôi.

Vì thế, người dự Tiệc ngày của Chúa vẫn cứ hành xử như khách lạ, vừa đến thăm. Khách đến, thiếu vắng cả nụ cười, tối thiểu. Thiếu tình thương. Thiếu hợp tác, đùm bọc. Cả khi, lời “chúc bình an, tay nắm tay” trao cho nhau, cũng chỉ là động tác lấy lệ. Chỉ như phản xạ tự nhiên, rất quen làm. Khác hẳn tâm tình người dự tiệc mừng ngày sinh, rất thân thương.

Nói rộng hơn, dự Tiệc Thánh không chỉ đến để nhận bánh thánh hiệp thông, rất giản đơn. Mà, để chia sớt và cùng sẻ san một Bánh Thánh là Mình Ngài, một biểu-tượng. Cùng uống chén Máu cứu độ của chính Ngài. Mình và Máu Đức Chúa đã Phục sinh. Mình Thánh Chúa ta lãnh nhận, không chỉ riêng Mình Đức Kitô thôi, nhưng còn là thân mình của cả cộng đoàn, vẫn được coi như chi thể thân thương đã tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô, đang hiện hữu.

Qua sẻ san Mình và Máu Thánh Chúa, cộng đoàn tình thương mới nhận ra rằng: không chỉ riêng có Đức Kitô đến với ta, mà thôi. Nhưng, là cả Thân Mình Ngài có cộng chung chi thể, là cộng đoàn thân thương ta sống cùng, và sống với. Ở một số cộng đoàn, nhiều vị có thói quen bái gối trước khi đón nhận Bánh Thánh. Nếu đây là cử chỉ thông thường nhằm tỏ lòng tôn kính, tưởng cũng nên bái gối trước cộng đoàn đang xếp hàng đón nhận Thân Mình Chúa vào bên trong mọi người.

Nói tóm lại, hiệp thông nhận đón Mình Máu Chúa, không là riêng mình Đức Kitô đến với ta mà thôi. Mà còn là, cả cộng đoàn tình thương đã ở trong ta. Với ta.

Thành thử, khi nhận Bánh Hằng Sống vào lòng bàn tay và đáp lời “Amen”, ta đã nghiêm chỉnh nhận lời mời cùng nhau trở thành thân mình của Đức Chúa, ta vừa nhận. Thân Mình Ngài, đã bẻ vụn thành tình thương yêu. Máu Thắm của Ngài đã đổ tràn thành hy vọng. Nhờ đó, thế giới hôm nay được cứu thóat khỏi chính con người mình. Khỏi cái “mình” xấu xa, đớn hèn bấy lâu nay. Và từ đó, tìm được sự sống trọn vẹn nơi Đức Kitô.

Có Chúa ở với và ở cùng, khi đón Mình Máu Ngài, ta ngân vang lời thơ từ thi sĩ họ Hàn, rằng:

Ta há miệng cho Nguồn Thơm trào vọt:

Tứ thời Xuân! Tứ thời Xuân non nước!

Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang,

Thiên hạ bình và Trời tuôn ơn phước

Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.

Ta cao ngân giọng vô cùng thanh thoát

Khiến châu thân rung động thể tơ trăng.

(Hàn Mặc Tử – Nguồn Thơm)

Vâng, đúng thế. Nguồn Thơm đã thấm nhập vào châu thân rung động của chính ta. Của cả cộng đoàn. Và mãi mãi, ta sẽ vui vầy Tiệc Thánh. Tiệc mến yêu Mình Máu Chúa, rất agapè.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Hạnh Phúc Gia Đình

Hạnh Phúc Gia Đình

Giuse Thẩm Nguyễn

Gia đình là cơ cầu nền tảng của Giáo Hội và xã hội, vì thế gia đình có một vị trí rất quan trọng trong việc đào luyện và cung cấp cho Giáo Hội và xã hội những thành viên ưu tú trong tương lai.

Ý niệm về gia đình đã bị bóp méo khi mà có sự cho phép hôn nhân giữa hai người cùng phái. Danh từ vợ chồng thân thương đã bị thay thế bằng bên A và bên B trong một hợp đồng sống chung. Gia đình kiểu này không đáp ứng mục đích của gia đình lúc ban đầu là ” hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất…”(ST 1,28). Hai anh đực hay hai chị cái sống với nhau như vợ chồng thì làm sao có con được, có chăng là sự vay mượn, lấp liếm điền vào chỗ trống qua việc nhận con nuôi… mong thỏa mãn nỗi khát khao được làm cha mẹ.

Đó là cái nhìn về gia đình hiện nay mà xã hội chúng ta phải đối diện. Nhưng trong phạm vi chia sẻ cảm nghĩ về gia đình, tôi xin thu hẹp cái nhìn của mình vào gia đình, một gia đình Công Giáo mà thôi.

Tôi đã có dịp tham gia các cuộc hội thảo về gia đình. Buổi hội thảo nào cũng rất hay, cũng hữu ích cho các cặp hôn nhân. Các diễn giả trình bày về tâm lý người nam, tâm lý người nữ, cách giáo dục con cái, nhưng tôi có cảm tưởng là họ thiếu tâm lý Giê-su. Khoa tâm lý chỉ đưa ra cách giải quyết cái ngọn trong khi cội nguồn của hạnh phúc là chính Đấng Tạo Hóa thì bị quên lãng. Người ta chỉ có thể đem áp dụng kiến thức hôn nhân gia đình khi chúng ta có tình yêu nơi Chúa Giê-su. Vì Chúa là tình yêu, cho nên ta không yêu Chúa là Đấng Tạo Hóa thì ta không có khả năng yêu con người, một thụ tạo bằng tình yêu chân thật được. Do vậy mà tham gia hội thảo hoài, học hỏi mãi mà gia đình vẫn không có hạnh phúc?

Có lẽ những lý thuyết về tâm sinh lý, cách cư xử, điều nên làm, việc cần tránh… để có hạnh phúc thì ai cũng biết, nhưng từ cái biết, cái kiến thức đến việc thực hành có vẻ như rất xa. Các nhà tâm lý có câu “Con đường dài nhất của thế giới là con đường 18 inches từ cái đầu đến trái tim của bạn” hay là “ Khả năng biến đổi từ sự hiểu biết đến hành động là một quá trình vô cùng khó khan”. Vâng quả là khó khăn lắm đến nỗi có chuyện ngược đời là một nhà tâm lý kia khi thao thao thuyết giảng về cách bảo vệ hạnh phúc gia đình thì ông ta đang chờ ngày ra tòa ly dị vợ mình.!

Thật ra chúng ta chỉ có khả năng biến đổi, nhất là biến đổi mình để được yêu thương hơn, hạnh phúc hơn nơi Chúa Giê-su.

Là người Công Giáo, chúng ta biết rằng Giáo Hội khuyên chúng ta học hỏi và noi gương mẫu của gia đình Narazeth. Trong các lễ cưới, cha chủ tế thường hay lấy hình ảnh Thánh Gia làm khuôn mẫu cho đôi tân hôn. Vậy gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria, Chúa Giê-su có những bí quyết gì để chúng ta học hỏi.

Trong thời Thánh Giuse chắc là chưa có các nhà chuyên môn về tâm sinh lý, chưa có các chuyên viên về gia đình, chưa có sách học bí quyết sống hạnh phúc gia đình. Vậy thì trong hoàn cảnh đó gia đình Narazeth, tôi nghĩ sẽ không rành về tâm sinh lý, sẽ không đọc sách dạy khôn chuyện gia đình, sẽ không tham gia hội thảo như bây giờ.

Bởi đâu mà gia đình Thánh Gia hạnh phúc và nêu gương mẫu cho chúng ta. Trả lời của tôi cho câu hỏi này không biết đến từ đâu, có thể từ Kinh Thánh, từ lời dạy của Giáo Hội, từ những kinh nghiệm thực tế của cuộc sống? Nhưng tôi cảm nhận được rằng:

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có Chúa Giê-su hiện diện. Chính Chúa là nguồn yêu thương, chính Chúa là cội rễ của mọi nguồn an vui hạnh phúc. Chúng ta không tìm được hạnh phúc nơi gia đình vì gia đình mình vắng bóng Chúa Giê-su.

Vì không có Chúa nên gia đình luôn bất an tựa như con thuyền mong manh tròng trành, nhấp nhô giữa sóng đời. Tính ích kỷ, thói ghen tuông, lòng tham lam đố kỵ làm rạn nứt mối quan hệ gia đình. Sự thiếu cảm thông, thiếu hy sinh, thiếu quan tâm, thiếu tôn trọng đào sâu thêm những rạn nứt càng ngày càng trầm trọng hơn và hậu quả tất yếu là gia đình thành bãi chiến trường: những cuộc khẩu chiến, những thắng, thua, hơn, thiệt, chán nản, ngoại tình, hận thù và tan vỡ.

Khi chúng ta dọn đến một căn nhà mới, người Công Giáo thường mời linh mục đến làm phép nhà rồi sau đó là tiệc mừng. Nhưng làm phép nhà để làm gì? Phải chăng làm phép nhà là mời Chúa vào ở với mình? Khi có Chúa hiện diện, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương, sẽ ngọt ngào trong cách cư xử, sẽ nhận ra nhu cầu của người khác, sẽ biết cho đi hơn là nhận. Không những chúng ta cần Chúa hiện diện trong căn nhà mình đang sống (house), mà chúng ta cũng cần Chúa hiện diện nơi gia đình (home), nơi tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình. Ý thức về sự hiện diện của Chúa giúp chúng ta rất nhiều trong việc biến đổi cách sống mỗi ngày.

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có một gia trưởng là Thánh Giuse, một người công chính. Người công chính là người luôn trung thành thờ phượng Thiên Chúa, luôn tìm kiếm và thực thi theo ý muốn của Thiên Chúa. Khi biết mẹ Maria có thai, không phải là con của mình, Thánh Giuse không điên tiết, ghen tuông, hành động cục cằn thô lỗ, mà ngài âm thầm tìm hiểu sự thật qua cầu nguyện, lắng nghe ý Chúa. Ngài nghĩ tốt về Mẹ Maria, về người bạn trăm năm của mình. Khi được Thiên Thần báo mộng, Thánh Giuse chấp nhận và làm theo ý Chúa. Ngài làm thợ mộc để nuôi vợ là Maria và con là Chúa Giê-su. Ngài kiếm tiền bằng sức lao động của mình và dạy con bằng chính đời sống của mình.

Gia đình Thánh Gia hạnh phúc vì có người vợ, người mẹ dịu hiền và khiêm nhường là Mẹ Maria, một phụ nữ được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ Maria là một người mẹ can đảm,sẵn sàng chấp nhận hy sinh và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ Maria phục tùng chồng là Thánh Giuse và cậy dựa vào sự bao bọc của chồng. Nơi Mẹ toát ra sư yêu thương ngọt ngào làm cho Thánh Giuse quên hết sự vất vả lao động hằng ngày. Mẹ không than trách, không nhiều lời trước những biến cố trong gia đình.. Mẹ giữ lấy trong lòng những biến cố buồn vui ấy và gói ghém như món quà dâng lên Chúa.

Trong phúc âm, Chúa Giê-su đã nhiều lần nhắc đến việc Ngài đến thế gian để làm theo ý Chúa Cha. “vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38).Trong hôn nhân, Thánh Giuse cũng luôn tìm hiểu và làm theo ý Chúa. Mẹ Maria cũng luôn chấp nhận và làm theo ý Chúa. Trong cuộc sống gia đình, để có được hạnh phúc chúng ta cũng phải tìm kiếm, chấp nhận và làm theo ý Chúa như trong Kinh Lạy Cha “Xin cho ý­­ Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Làm theo ý Chúa thì sẽ đẹp ý chồng, trong ý vợ, được ý con.

Quả thật, Giáo Hội đã rất khôn ngoan khi dạy con cái mình noi theo gương mẫu Thánh Gia để xây dựng hạnh phúc gia đình. Thiên Chúa là cha yêu thương sẽ ban cho chúng ta mái gia đình hạnh phúc nếu chúng ta biết mở lòng đón Chúa ngự vào. Người làm chồng hãy sống như Giuse, người làm vợ hãy sống như Mẹ Maria, người làm con hãy sống như Chúa Giê-su. Hạnh phúc gia đình nằm trong tầm tay, chúng ta chỉ cần giơ tay đón lấy.

Lạy Thánh Gia xin nâng đỡ và bảo vệ hạnh phúc gia đình chúng con. Amen

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?

Đỗ Trân Duy

Đối với Kitô hữu, có lẽ ai cũng nghĩ rằng mình biết Thiên đàng ở đâu, dĩ nhiên là ở trên trời. Tin như vậy là đủ, chẳng ai cắc cớ thắc mắc thiên đàng ở chỗ nào trên trời. Vả lại ai có thẩm quyền trả lời cho một thực thể siêu hình đó. Cuối cùng chỉ những tay vô thần sừng sỏ nêu ra vấn đề này với thâm ý bắt bí tín lý Thiên Chúa giáo. Vấn đề xem ra không đơn giản, vì gần đây chính một số nhà tư tưởng Công Giáo cũng nói về “nơi chốn” của thiên đàng. Vậy chúng ta phải hiểu về chốn thiên đàng như thế nào? Bài viết này không dám trả lời cho vấn đề lớn đó. Đây chỉ là một chú giải nhỏ, phụ theo lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mà thôi.

Thiên đàng hiểu theo truyền thống

Thiên đàng, theo đức tin truyền thống Việt Nam, là một nơi chốn cụ thể và được đồng hóa với cõi trời. Trong kinh “Lạy Cha” câu mở đầu nói rõ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.  Rồi những khóm từ như “Đức Mẹ lên trời”, “lễ Thăng Thiên”, “hoan hô Chúa trên các tầng trời”… tất cả đều xác định thiên đàng là cõi trời. Trong những truyền thống đức tin khác, như của Âu Mỹ, họ không dùng chữ “trời” mà dùng danh xưng “heaven” (thiên đàng). Cũng trong kinh “Lạy Cha”, câu mở đầu là “Our Father who art in heaven.” Theo tiếng Hebrew, heaven có nghĩa là “trên cao” (Catholic Encyclopedia). Tuy heaven không xác định là ở trên trời, nhưng vẫn được hiểu ngầm như vậy. Trong thánh kinh có rất nhiều trình thuật gợi ý như “Hãy nhìn lên thiên đàng mà xem các tầng mây cao hơn ông biết mấy!” (Yob 35:5). Thánh Stêphanô nói, “Này tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (CV 7:56). Thánh Gioan miêu tả cảnh phục sinh: “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ thiên đàng: ‘Hãy lên đây’, và các ngài lên thiên đàng trong đám mây, trước mặt thù địch của các ngài” (KH 11:12). Sách Tông đồ công vụ miêu tả rõ hơn, “Khi Chúa Giêsu được đưa lên cao, các môn đệ nhìn theo Chúa cho đến khi một đám mây che kín mất Ngài” (CV 1:9).
Nếu chúng ta đi tìm lời nói của Đức Giêsu về vấn đề này, chúng ta không thấy có chỗ nào Người nói thiên đàng ở trên trời. Đức Giêsu cũng không đồng hóa Thiên Chúa với thiên đàng (hay trời). Lời cầu nguyện của vua Salômôn chứng tỏ người xưa cũng ý thức như vậy: “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!” (1 Vua 8:27)

Đại chúng cho rằng có thể suy diễn vấn đề trên qua nguyên tắc: thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự, vậy nếu biết Thiên Chúa ở đâu, ta sẽ biết thiên đàng ở đâu. Người ta cũng đã tưởng rằng chỉ có ba câu trả lời cho vấn đề ấy. Thứ nhất, thuở xưa người ta tin Thiên Chúa tạo ra vũ trụ nhưng Chúa là Đấng siêu việt vượt trên vật chất, nên không đồng hóa với vũ trụ. Thiên Chúa ở ngoài vũ trụ. Đến thế kỷ 18, con người khám phá ra vũ trụ vô cùng lớn, lớn đến mức dù ta có di chuyển với tốc độ ánh sáng, qua hằng ngàn năm, cũng chưa tới biên giới của nó. Con người không chấp nhận nổi có chỗ nào gọi là bên trên hay bên ngoài vũ trụ. Vả lại nếu Thiên Chúa ở bên ngoài vũ trụ, vậy vũ trụ càng lớn, Chúa lại càng ở rất xa con người. Làm sao con người có thể gần Thiên Chúa để cầu nguyện.

Câu trả lời thứ hai, người ta đặt Thiên Chúa vào bên trong vũ trụ. Do đó mà có niềm tin thiên đàng ở trên trời, tức là ở bên trong vũ trụ. Nhờ thế mà con người có thể gần với Thiên Chúa. Quan niệm này cũng không ổn, vì nếu ở trong vũ trụ Thiên Chúa phải là một sinh thể của vũ trụ. Có lý nào Thiên Chúa là một phần của vũ trụ mà vũ trụ ấy lại do chính Ngài tạo ra. Những niềm tin sơ thuần cho rằng Thiên Chúa ở bên ngoài hay bên trong vũ trụ đều đẩy trí thức đến ngõ bí vì kết quả vô lý của suy luận.

Câu trả lời thứ ba dựa vào tín lý. Trong lãnh vực này, chúng ta thấy có hai phe. Phe thứ nhất, đại diện là Joseph Campbell, tin rằng con người không thể nào biết được Thiên Chúa là ai. Vì vậy không nên đặt vấn đề sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh kinh cũng nói: “Thiên Chúa vượt xa hơn và vượt trên tất cả những gì chúng ta có thể tưởng nghĩ về Ngài” (GLCG 2794). Thần học gia Paul Tillich phủ nhận lối diễn tả “hiện hữu của Thiên Chúa”. Ông cho rằng nói như vậy chúng ta đã mặc nhiên cho Thiên Chúa là một phần thực thể của thiên nhiên. Bởi vì “hiện hữu” có nghĩa là đang có và đang biệt lập đứng lơ lửng ở đâu đó ngoài mặt đất. Ông đổi ý niệm “hiện hữu” (exist) bằng ý niệm Thiên Chúa “thường hằng” (God is). Nhóm thứ hai cho rằng Thiên Chúa mang bản chất pantheism, nghĩa là mọi thứ đều ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở khắp mọi nơi (omnipresence) vì Ngài là Đấng vô hạn (immensity) (Council of Lateran, c. “Firmiter”; Vatican Council, Sess. III, c. 1.).  Như vậy vũ trụ ở trong Thiên Chúa. Tóm lại, như chúng ta thấy, với những nhận định trên, câu trả lời về “thiên đàng ở đâu” vẫn còn bỏ ngỏ.

Điểm thời sự không thể tránh

Trong buổi cầu nguyện với quần chúng ngày 21 tháng 7 năm 1999, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tạo nên vấn đề thời sự. Ngài nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống (state of being) chứ không phải là một nơi chốn (place) theo nhận thức của ngôn ngữ loài người.”  Giáo hoàng nói rõ thêm,“Thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng hay là một địa điểm cụ thể trong những cụm mây, nhưng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần.” (1) Đối với giới truyền thông ngoài Công Giáo, lời tuyên bố này quá bất ngờ vì đi ra ngoài nhận định về thiên đàng của truyền thống.

Mười một năm sau, 2010, dưới triều Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Tòa Thánh cho phát hành cuốn YOUCAT (Youth Catechism – Giáo Lý Công Giáo cho Giới trẻ). Trong tập sách này, hiện thực của thiên đàng được lập lại và chính thức đưa vào mục giáo lý. Theo đó thiên đàng không phải là một nơi chốn mà là một trạng thái sống (a kind of life) trong ý thức về Thiên Chúa hiện diện. Sự hiện diện này không lệ thuộc vào không gian và thời gian (không-thời gian). (2) Như vậy cả hai đức Giáo Hoàng, những vị có thẩm quyền tông truyền, đều quan niệm về “nơi chốn” thiên đàng như nhau.

Sự tiếp nhận

Ngay sau khi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phát biểu, không ít người sửng sốt và phản đối. Có người dè dặt cho rằng, “Có lẽ Giáo hoàng có một mạc khải tư nào đó về thiên đàng chăng.” Đa số tín hữu vướng mắc trong  những sự kiện như: Đức Mẹ hồn xác lên thiên đàng (trời), hay: đến ngày tận thế xác chết sống lại, kẻ lành lên thiên đàng… Họ cho rằng vì thể xác là vật chất, nếu không có nơi chốn thì thể xác sẽ tồn tại ở đâu. Ngoài ra những khóm từ gợi hình trong thánh kinh như: mở cửa thiên đàng, tầng trời mở ra, ngự bên hữu Chúa Cha… tất cả đều trình bày theo kinh nghiệm ở trong một nơi chốn.

Mặc dù thánh Phaolô đã giảng thân xác phục sinh là một thân xác thần linh (celestial bodies) không phải là thân xác huyết nhục. (1 Côr 15: 35-44) Thân xác Chúa Giêsu phục sinh là một điển hình. Chúa chợt “xuất hiện” để nói chuyện với hai đệ tử trên đường đến Emmaus, rồi “tan biến” khi tới nơi. Chúa cũng “hiện ra” giữa các môn đệ đang họp trong gian phòng cửa khóa kín, rồi cũng “biến mất” sau khi chúc lành cho họ. Xem thế, thân xác thần linh không cần một nơi chốn cụ thể để trú ngụ. Đa số tín hữu quen trong giới hạn của không gian 4 chiều, nên muốn giới hạn thiên đàng và Thiên Chúa trong không gian 4 chiều. Họ không thể tưởng tượng nổi một thân xác thần linh và một thiên đàng không có nơi chốn. Họ hoang mang đối diện với sự kỳ diệu của thực thể vô không-thời gian mà con người khó diễn tả và trí tưởng tượng phải dừng lại nơi giới hạn của nó.

Đàng khác cũng có rất nhiều người tiếp nhận lời giảng của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II một cách dễ dàng. Họ cho rằng Giáo Hoàng đưa ra một nhận thức thần học đúng, nhưng tạo ra dao động chỉ vì ngài thiếu phần chú giải đi kèm. Nhận xét này rất chính xác. Chúng ta có thể đặt chú giải cho nhận thức đó qua nhận định về bản thể của thân xác hiển linh. Có lẽ không hình ảnh nào cụ thể hơn là bánh và rượu trong thánh lễ. Nếu thân xác Chúa Giêsu bị giới hạn trong thể chất, và trong không-thời gian, làm sao chúng ta có Mình Máu Chúa Giêsu, trong dạng bánh và rượu, hiện diện cùng lúc ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bàn về thân xác hiển linh của Đức Mẹ, chúng ta cũng biết Đức mẹ đã hiện ra và biến mất rất nhiều lần. Mỗi lần hiện ra chỉ vài người tuyển chọn mới có diễm phúc chiêm ngưỡng Đức Mẹ. Chẳng hạn lần hiện ra ở Fatima, mặc dù có rất nhiều người đứng tại chỗ Đức Mẹ hiện ra, nhưng chỉ có 3 em nhỏ nhìn thấy Đức Mẹ. Như vậy thân xác Đức Mẹ vừa là hữu hình vừa là vô hình tùy theo liên hệ với từng cá nhân. Nếu xác Đức Mẹ là thể chất vật lý, mọi người đều phải thấy như nhau. Rõ ràng là thân xác phục sinh không bị trói buộc bởi bất cứ một luật lệ vật lý nào. Suy ra mối kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa (thiên đàng) là một trạng thái sự sống riêng tư, chứ không theo bất cứ luật lệ vật lý nào.

Chân lý bao gồm cả đức tin lẫn kiến thức, nên tín hữu chúng ta buộc phải học hỏi tìm hiểu. Ðó là lý do Thánh Phêrô đã dạy, “Hãy nỗ lực bổ sung đức tin với nhân đức, và bổ sung nhân đức với sự hiểu biết” (2 Phê 1:5). Năm 2000, ký giả vô thần Peter Seewald hỏi Hồng y Ratzinger “Thiên đàng ở đâu?” Hồng y trả lời, “Những từ như ‘mây’ và ‘thiên đàng’ chỉ là cách nói mà con người muốn tìm cho Thiên Chúa có một nơi chốn. Đúng ra cách nói ‘Chúa Giêsu lên thiên đàng’ chỉ có nghĩa là không còn nhìn thấy trên mặt đất chứ không phải không còn hiện diện trên mặt đất.” (3) Bởi vậy vẫn có người tuyển chọn có ơn phước nhìn thấy Chúa Giêsu, chẳng hạn thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh Padre Pio…

Quan điểm thần học

Chúng ta hãy bắt đầu bằng một tín lý quen thuộc và đặt tín lý đó vào một tam đoạn luận đơn giản: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Vậy thiên đàng ở khắp mọi nơi.

Như vậy phải chăng giữa thiên đàng và con người không còn ranh giới? Theo thần học, đoạn lý luận trên vô giá trị, bởi vì đã không thấy thiên đàng là ơn phước. Thiên đàng không phải là kết quả của một điều kiện hay của một định luật vật lý. Mặc dù Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nhưng Chúa tỏ lộ vinh quang của Người qua phương cách ơn phước đặc sủng. Theo thần học gia Gerhard Ebeling, “Không phải Thiên Chúa ở đâu, thiên đàng ở đó, mà là thiên đàng ở đâu Thiên Chúa ở đó” (not that God is where heaven is, but rather heaven is where God is). Vì là ơn phúc nên phải có sự kết hợp sống động giữa cá nhân và Thiên Chúa. Cũng không phải ai cũng có mức độ ơn phước giống nhau. Gọi là thiên đàng, hay trời, chỉ là cách biểu đạt bất toàn của ngôn ngữ loài người về trạng thái cá nhân “hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi” (GLCG 1024). Nói cách khác, không hề có một thiên đàng tĩnh, tồn tại bất biến ở nơi nào đó trong vũ trụ.

Tình kết hợp giữa cá nhân và Thiên Chúa biểu lộ giáo huấn vô cùng quan trọng về tính tự do của con người. Tính tự do đặt con người ở thế chủ động trước ơn phước của Thiên Chúa. Ta muốn liên kết với Thiên Chúa hay không là tùy ở ta. Bởi vì Thiên Chúa chỉ “hiện diện” ở những nơi đạo đức tốt lành. Thiên Chúa không “hiện diện” ở nơi tội lỗi sa đọa. Đức Giêsu đã nói, “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa (Mat. 5:8). Tuy nhiên lại phải hiểu rằng “hiện diện” không nằm trong bất cứ phạm trù nào thuộc không-thời gian. Lm Phan Đình Cho tóm tắt rằng thiên đàng phải hiểu là một ơn phước mà Thiên Chúa dành cho người tốt lành và hoả ngục là một thái độ con người tự do từ chối ơn phước đó. (4)

Vài sự kiện trong hạnh các thánh có thể làm rõ hơn về ý tưởng thiên đàng là một ơn phước của Thiên Chúa.  Các vị thánh cao trọng như Gioan Thánh Giá (John of the Cross), Têrêsa Lisieux, và thánh Têrêsa  Calcutta đã trải qua một khoảng thời “mất ơn phước vì bị Thiên Chúa bỏ rơi”. Thánh Gioan Thánh Giá gọi kinh nghiệm này là “đêm đen của linh hồn”. Thiên Chúa cố tình không “đến” với họ khiến tâm hồn họ lạc lõng, trống rỗng, tối đen và đau khổ. Thiên Chúa dành riêng cho một số vị đặc sủng ơn thử thách “đêm đen” này. (5) Nhưng đây là một chủ đề khác, chúng ta không muốn đi ra ngoài chủ đề hôm nay.

Trở lại với tín lý “Thiên Chúa ở khắp mọi nơi”. Thần học dạy rằng chúng ta phải thấy tín lý đó theo hướng nhìn về ơn sáng tạo và ơn cứu độ phổ quát. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi có nghĩa Thiên Chúa nâng đỡ sự hiện hữu của vũ trụ. Bởi vì duy chỉ có Thiên Chúa là Hữu. Không gì có trước Hữu, nên Thiên Chúa là Đấng tự Hữu, Hữu Tuyệt Đối. Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ từ hư vô. Nghĩa là mọi vật từ hư vô nhờ Hữu, qua Hữu mà được thành hữu thể. Vì từ Hữu mà ra, nên mọi hữu thể đều thuộc về Hữu, và hiện tính của Hữu có trong mọi hữu thể. Vì vậy mọi hữu thể đều ở trong Hữu. Nếu Thiên Chúa vắng mặt mọi thứ trở thành hư vô ngay tức khắc.

Nếu cảnh giới thiêng liêng nằm ngoài không-thời gian, thì hiển nhiên thiên đàng không nằm trong vũ trụ vật chất. Vì ngôn ngữ của lời cầu nguyện, bắt buộc chúng ta phải xưng hô với Thiên Chúa như một Đấng ở đối diện, nhưng không phải như vậy. Thánh Augustine đã nói những lời cảm khái, “Chúa ở bên trong và luôn luôn ở cùng tôi.” Thánh Phaolô đã có lần đứng giữa chợ trong thành Athens giảng đạo. Thánh nói, “Họ đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa đâu có ở xa chúng ta. Chúng ta sống và sinh hoạt trong Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta hiện hữu” (CV 17:27). Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói, “Nếu Thiên Chúa là một đối tượng cụ thể có thể thấy được thì người đó không phải là Thiên Chúa.”

Điều mà hai Giáo Hoàng đưa ra đã được các thần học gia nói tới từ thời thánh Augustinô cho tới ngày nay. Thiên đàng là “điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không thể nghĩ tới, lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Ngài” (1cor 2:9). Vì vậy, hiện tại con người chỉ có thể “thấy” Thiên Chúa bằng đức tin mà thôi. Cho nên “thấy qua đức tin” là một trạng thái của sự sống. Cái thấy này khác với cái thấy trọn vẹn “mặt giáp mặt”, trong cõi vĩnh hằng, khi con người có thân xác phục sinh hiển linh. Khi đó con người không những kết hợp với Thiên Chúa, mà còn kết hợp với các thánh và với các thiên thần (GLCG 962). Thời điểm vĩnh hằng đó, đối với kinh nghiệm hạn hẹp của con người tại thế, chỉ có thể hình dung bằng cách đặt toàn bộ vào một nơi chốn. Theo truyền thống, ngôn ngữ loài người gọi “nơi chốn” đó là thiên đàng. Thiên đàng là một huyền nhiệm không thể nói rõ ra được.

Đỗ Trân Duy
————–
(1) Xin đọc “Heaven”, L’Osservatore Romano, Weekly Edition in English. 28 July 1999.
(2) Xin đọc các câu hỏi 52, 123, 158, 242, 285, và 518 về thiên đàng trong YOUCAT. 2011. Ignatius Press, San Francisco
(3) Xin đọc “Where is God?” P. 105, God and the World. 2002. Joseph Ratzinger. Ignatius Press, San Francisco.
(4) Phan Đình Cho. 2000. Câu hỏi 47, Giải đáp 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng. University Press. New York, USA.
(5) Mẹ Têrêsa Calcutta. Come Be My Light. 2007. Brian Kolodiejchuk chủ bút. Nhà xuất bản Doubleday. Đồng thời để hiểu rõ hơn ý nghĩa của “đêm đen” xin tham cứu bài “On A Dark Night” trong sách The Ascent To Truth. 1981. Thomas Merton. Nhà xuất bản Harcourt Brace & Company, San Diego, California.

Cuộc đời

Cuộc đời

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi một trẻ thơ lọt lòng mẹ, người ta nói: em bé “chào đời”. Khi một người trút hơi thở cuối cùng, người ta bảo: người này “tạ thế”. “Chào” là tâm tình của người mới đến. “Tạ” là cử chỉ của người sắp đi xa. Khi chào đời, em bé nào cũng có bàn tay nắm chặt; khi tạ thế, người nào cũng để bàn tay buông xuôi. Bàn tay nắm chặt là bàn tay tự tin, muốn khẳng định mình; bàn tay buông xuôi là bàn tay mệt mỏi, thấy mọi sự đều vô nghĩa. Khoảng thời gian từ lúc chào đời đến khi tạ thế, người ta gọi là cuộc đời. Cuộc đời có khi ngắn, có khi dài. Có những người trường thọ cao niên, sống đến trên một thế kỷ, nhưng cũng có người đoản mệnh duyên đơn, chỉ sống một thời gian rất ngắn. Dù đời ngắn hay dài, đã sống trên đời, con người cần phải biết đối nhân xử thế. Dù trường hay đoản thọ, con người sống phải nhân có nghĩa với người xung quanh. Không chịu học hỏi, khi vào đời sẽ gặp những thất bại cay đắng. Thiếu kinh nghiệm, khi lập nghiệp sẽ phải trả giá khôn lường.

Cuộc đời này cũng được gọi là thế gian. Nơi đó con người, dù muốn hay không, đều bị thảy vào “chợ đời” đầy bon chen tính toán. Cái “chợ đời” này rất mênh mông và oan nghiệt. Vì là “chợ đời”, nên người ta lấy lời lãi, vật chất làm tiêu chuẩn cho mọi mối tương quan. Anh em, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp bỗng trở nên những đối tác, những bạn hàng trong vòng xoay của cơm áo gạo tiền. Vì tiền bạc, tình vợ chồng trở nên phai nhạt đến mức không thể chung sống. Vì đất đai, anh em huynh đệ trở thành kẻ thù đến độ chẳng muốn thấy mặt nhau. Vì cuộc đời nghiệt ngã như vậy, nên càng có tuổi, người ta càng còng lưng xuống. Còng lưng là biểu hiện của đau xương cốt, nhưng cũng là hậu quả của gánh nặng cuộc đời.

Lúc chào đời cũng như lúc tạ thế, người ta đều khóc. Khởi đầu cuộc sống, đứa trẻ khóc trong tiếng cười của cha mẹ và người thân. Kết thúc cuộc đời, người ra đi trong tiếng khóc của gia đình, làng xóm. Khóc là biểu hiện của nỗi buồn, nhưng cũng là dấu hiệu của niềm vui. Có thể tiếng khóc chào đời là vì nhận ra cuộc sống đầy đau khổ. Có thể giọt lệ khi hấp hối là giọt lệ của niềm vui vì đã có một cuộc đời mãn nguyện. Thế rồi, suốt thời gian gọi là cuộc đời ấy, nước mắt với nụ cười đan xen với nhau, xem ra nước mắt nhiều hơn nụ cười. Người có chí khí biết cười trong mọi hoàn cảnh. Sau mỗi lần gục ngã, họ chỗi dậy, tiếp tục bước đi, lấy những thất bại làm bài học kinh nghiệm, lấy những khó khăn luyện rèn ý chí. Lửa thử vàng, gian nan thử đức, qua những thất bại đau khổ, con người như thép đã tôi, trở nên cứng cáp vững vàng. Đã sinh vào cuộc đời, cần phải chấp nhận lao vào gian khó, như miếng thép phải chấp nhận vào lò lửa và rèn giũa để trở nên khí cụ sắc bén, nhờ đó mà trở nên hữu dụng trong đời. Khi tạ thế, có những người mãn nguyện bình an, nhưng cũng có những người trăn trở khó nhắm mắt. Có thể đó là những “món nợ” đời chưa trả, bởi mình đã trót “vay”. Có thể đó là trách nhiệm chưa vuông tròn đối với những gì mình được trao phó. Khi hiện hữu trong cuộc đời này, mỗi người đều có bổn phận phải hoàn thành. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng là lúc được triệu hồi để làm một cuộc thống kê về những điều đã làm hay đã không làm khi sống ở đời.

Đối với người tin Chúa, khoảng giữa từ khi “chào đời” cho đến “tạ thế”, họ còn qua một cuộc “tái sinh”, đó là bí tích Thanh Tẩy. Nhờ nước và Thánh Thần, họ được sinh ra một lần nữa để làm con cái Chúa. Khi được thanh tẩy, họ khởi đầu hành trình Đức Tin. Hành trình này song song với hành trình cuộc đời. Phép Thanh Tẩy cũng cho họ tước vị làm “công dân Nước Trời”, nghĩa là tuy sống dưới trần thế, họ đã thuộc về vương quốc của Chúa Giêsu, trở nên môn đệ của Người. Tuy vậy, nguyên việc được thanh tẩy chưa đủ để họ được bước vào vương quốc vĩnh cửu ấy. Bởi lẽ ai muốn vào Nước Trời phải qua cửa hẹp. Cửa rộng rất thênh thang, dễ vào nhưng lại dẫn tới trầm luân, đau khổ. Cửa hẹp chật chội, khó qua nhưng lại dẫn tới niềm vui, sự sống. Nhờ Đức Tin, người tín hữu sống giữa đời mà không hoàn toàn thuộc về đời, như bông hoa sen từ bùn vươn lên mà thanh thoát chẳng vương mùi bùn. Người tin Chúa sống giữa cõi trần, mà có một trái tim thanh sạch, giữa bon chen mà tâm hồn thanh thản, giữa thung lũng nước mắt mà vẫn có thể nở nụ cười.

Cuộc đời con người, từ khi “chào đời” đến khi “tạ thế” cũng đươc ví như một cuốn sách. Mỗi ngày sống là một trang. Nội dung cuốn sách ghi lại những lời nói việc làm, những tâm tư tình cảm. Ta có thể viết những trang thật đẹp, khi đó là những hành động nghĩa hiệp, cao cả, mang lại niềm vui cho đời, nhưng ta cũng có thể viết những trang rất xấu khi đó là những hành động ích kỷ, gây tai họa cho người xung quanh. Đáng tiếc, trên đời này, người ta học cái xấu thì chăm hơn cái tốt, người ta tiếp thu lối sống láu cá, mưu mô thì dễ hơn tập luyện đạo đức, thân thiện. Giữa chợ đời bon chen, tiếng ồn ào của dối gian luôn mạnh mẽ hơn tiếng nói của công lý, kẻ mạnh luôn chèn ép người yếu thế nghèo nàn. Vì vậy mà cuốn sách cuộc đời còn mang nhiều trang tối tăm nhơ nhuốc.

Con người sinh ra ở đời, có lúc chào đời và có khi tạ thế. Vì vậy, người ta gọi cuộc sống là “chốn khách đày”. Đời chỉ là chốn tạm, người ta đến rồi đi, chẳng phải là nơi vĩnh cửu, cũng không là quê hương mãi mãi. Tuy chỉ là đời tạm, những ai đi qua đều có thể để lại dấu ấn đời mình cho các thế hệ mai sau. Có những người đã để lại cho hậu thế tấm gương tốt đẹp về lòng nhân ái bao dung, hễ nhắc đến tên người ta ngả mũ chào; nhưng lại có những kẻ sống ác đức, các thế hệ sau nhắc đến tên để phỉ nhổ. Có những người suốt đời cống hiến hy sinh, để lại những công trình đem lại ích lợi cho toàn thể nhân loại, nhưng lại có những người để thời gian trôi đi vô ích, không làm được gì ngay cho bản thân và gia đình. Người công giáo tin rằng, lúc tạ thế không phải là chấm dứt, nhưng đó là một cánh cửa mở ra để bước vào cuộc sống mới. Người công giáo cũng tin rằng, những điều tốt đẹp ta làm ở đời này, sẽ đi cùng với ta về đời sau, nơi đó, hạnh phúc sẽ tràn trề, vinh quang sẽ bất diệt và tình yêu tồn tại mãi mãi. “Hổ chết để lại da, người ta chết để lại tiếng”. Điều còn lại khi thân xác đã tiêu tan trong lòng đất, đó là lòng nhân hậu, sự thánh thiện và tình yêu mến ta dành cho mọi người khi còn sống. Những điều này không tiêu tan với thời gian, nhưng muôn đời tồn tại.

Cuộc đời này chỉ là chốn tạm. Nước Trời là quê hương vĩnh cửu, là hạnh phúc Chúa dành cho những ai yêu mến và trung thành với Ngài. Chúa Giêsu cam đoan với chúng ta, Người đi trước để chuẩn bị cho chúng ta chỗ ở trong nhà Cha của Người (x. Ga 14,1-4). Ở nơi quê hương vĩnh cửu này, bàn tay không còn nắm chặt để khẳng định uy quyền, cũng không còn buông xuôi vì ê chề thất vọng, nhưng sẽ giơ cao để ca tụng Chúa, trong tình hiệp thông với các thiên thần và các thánh nam nữ trên trời.

Bàn tay buông xuôi khi lìa đời nhắc bảo ta rằng, con người chẳng có công trạng gì trước mặt Chúa, nhưng mọi sự ta làm đều do ơn Chúa thương ban. Vì thế, nếu thân phận con người còn nhiều tội lỗi, Chúa lại nói với Chúng ta: “Đức tin của con đã cứu con” (x. Mc 5,34). Lòng nhân hậu bao dung của Chúa giúp chúng ta nghị lực để tiếp tục bước đi trong cõi đời đầy gian nan này.

(Nguồn: WHĐ)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

THỨ SÁU TUẦN 7 PS

Th. Ri-ta Ca-xi-a, nữ tu

Ga 21,15-19

BẠN CÓ YÊU CHÚA KHÔNG?

Chúa Giê-su hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,17)

Suy niệm : Phê-rô, vị tông đồ đã từng bạo miệng nói với Chúa Giê-su trước khi Thầy bị bắt: “Dù có phải chết với Thầy con cũng không chối Thầy,” bây giờ lại lúng túng khi được Chúa Ki-tô phục sinh hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” Câu trả lời trải lòng của Phê-rô: “Thầy biết mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy” muốn nói lên rằng “Thầy biết rõ con đã chối Thầy, và Thầy cũng biết con vẫn yêu mến Thầy dù con còn nhiều yếu đuối. Chỉ xin cho con biết yêu Chúa với lòng khiêm tốn, sẵn sàng hoán cải mỗi khi vấp ngã, lỗi lầm.

Mời Bạn : Giả như Chúa Giê-su phục sinh hiện ra hỏi bạn, hỏi tôi như đã hỏi Phê-rô: “Con có yêu mến Thầy không?” có lẽ chúng ta còn lúng túng gấp bội. Bởi vì chúng ta không chỉ yếu đuối mà còn vì cuộc đời chúng ta bị bao vây bởi bao mối quan hệ, bị nhấn chìm giữa bao công việc, đến nỗi chúng ta đánh mất ý thức rằng Chúa yêu chúng ta nên đã chết để cứu chuộc ta, Ngài đã sống lại để ban cho chúng ta hạnh phúc sự sống đời đời cũng vì yêu thương ta.

Sống Lời Chúa : Mỗi sáng thức dậy, bạn quì gối và nói với Chúa: Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa là Chúa con, con yêu mến Chúa.

Cầu nguyện : Lạy Chúa Giê-su Phục Sinh Quyền Năng, con tin Chúa đang sống bên cạnh cuộc đời con, nhưng con chưa dám trao phó đời con cho Chúa, nên quyền năng của Chúa không thể thi thố trong con được. Con xin thờ lạy Chúa, xin giúp con nhận ra quyền năng Chúa trên cuộc đời con, và để con nói: Con cám ơn Chúa, con yêu mến Chúa. Amen.

PhutCauNguyen:

http://phutcaunguyen.net/BDCN/T7PS/T6T7PS.mp3

Xin mở lòng chúng ta ra, thủ thỉ với Chúa qua những lời ca tiếng hát này:

1. Con chỉ là Tạo Vật:

https://www.youtube.com/watch?v=oU7IzmoppRk

2. Lỗi hẹn:

https://www.youtube.com/watch?v=NNDuqphaUGk

3. Phó Thác:

https://www.youtube.com/watch?v=R8j0UCziJjM

4. Biết Chúa, biết con:

https://www.youtube.com/watch?v=ZnPyABeahXc

5. Tình ca vô tận:

https://www.youtube.com/watch?v=X9kmb8ROHr0

6- Bao la tình Chúa – Hiền Thục

https://www.youtube.com/watch?v=y3m10xlaEcw

God bless,

Hai

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

LUÔN LUÔN ÐỒNG HÀNH VỚI CHÚA THÁNH THẦN

Một trong những bức họa nổi tiếng nhất của thiên tài MichelAngelo còn lưu giữ nơi nhà Nguyện Sixtine của Ðức Giáo Hoàng, trong nội thành Vatican, là bức tranh mô tả việc Thiên Chúa Cha tạo dựng con người.  Cần phải đích thân chiêm ngắm bức họa nổi tiếng nầy, ta mới cảm nghiệm được trọn cả sức thu hút của nó.  Ðể trình bày ý của mình về việc Thiên Chúa tạo dựng con người như thế nào, thiên tài Michelangelo chọn một biểu tượng, một cử chỉ đặc biệt của Thiên Chúa Cha.  Và toàn bức họa chỉ hướng về một cử chỉ duy nhất nầy mà thôi; đó là cử chỉ Thiên Chúa Cha, được mô tả như một Cụ Già oai phong đưa thẳng cánh tay mặt về phía con người còn non yếu chưa có sự sống, với ngón tay trỏ của bàn tay mặt chạm vào ngón tay trỏ của bàn tay trái của con người, để thông ban sức sống của mình sang cho con người.  Ðây là một cử chỉ thật là hùng dũng, đầy ý nghĩa.  Và nếu tập trung chú ý đến hình dạng của hai ngón tay trỏ nầy, chúng ta cũng có thể quan sát một sự khác biệt.  Ngón tay trỏ của Thiên Chúa đưa thẳng ra, trông có vẻ đầy quyền lực, để nói lên sức sống mạnh mẽ của Thiên Chúa.  Còn ngón tay trỏ của con người thì trông thật yếu ớt, chưa đủ sức chỉ thẳng ra, và được thả cho xệ xuống, để nói lên ý nghĩa con người yếu đuối chưa có sự sống, cần lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa.

Ðó cũng là hình ảnh cho tác động đầy quyền năng của Chúa Thánh Thần trên con người.  Chúa Thánh Thần được diễn tả ở đây như là “ngón tay trỏ quyền năng của Thiên Chúa.”  Trong lời kinh “Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến”, được sáng tác vào thế kỷ thứ 9, thì cách nói “ngón tay trỏ của Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ về Chúa Thánh Thần.

“Chúa là ngón tay hữu Chúa Cha phép tắc, (digitus paternae dextrae)
Mọi ơn phước, mặc thửa lượng Người liệu định phân ban.”

Hành động đầu tiên của Chúa Thánh Thần, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, là trao ban sự sống cho con người.  Không có sức sống ban cho, con người có chi là cao trọng xứng đáng!  Trong kinh tin kính của công đồng Nicêa, chúng ta tuyên xưng: Tôi kính Ðức Chúa Thánh Thần, là Chúa và là Ðấng ban sự sống.”  Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống, là chính sự Sống.  Trên bình diện thần học, chúng ta cần lưu ý thêm là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha ,Con và Thánh Thần, là nguồn mạch sự Sống và cùng trao ban sự sống cho con người.  Nhưng một cách đặc biệt, trong ngôn ngữ chúng ta dùng, thì chúng ta muốn phân biệt mỗi Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đều có một sứ mạng riêng, và thường được chúng ta phân biệt nói đến như sau: Thiên Chúa Cha tạo dựng, Thiên Chúa Con cứu chuộc, và Thiên Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa.

Trong những chia sẻ nầy, chúng ta hướng về Chúa Thánh Thần, trong sứ mạng riêng của Ngài, Ðấng ban sự sống, Ðấng ban ơn thánh hóa con người, Ðấng làm cho ơn cứu chuộc đã được Chúa Giêsu thực hiện, được hữu hiệu mỗi ngày một hơn nơi mọi tín hữu.  Tuy sứ mạng được nói riêng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng nói cho cùng thì đều quy về một Thiên Chúa Ba Ngôi, không có sự tách biệt phân rẽ nào cả.

Chúa Thánh Thần là Ngón Tay hữu của Thiên Chúa quyền năng, chạm đến chúng ta để thông truyền cho chúng ta sức sống của Thiên Chúa.  Thật là một điều có ý nghĩa, khi Giáo Hội chọn Thánh Thi cho giờ kinh thứ ba (tức lúc 9 giờ sáng trong ngày, giờ Chúa Thánh Thần Ngự Xuống, trong Biến Cố Hiện Xuống khai sinh giáo hội) là một Thánh Thi dâng lên Chúa Thánh Thần.  Thánh Thi đó như sau:

Lúc nầy đây, lạy Thần Linh cực Thánh, dủ tình thương ngự đến tâm hồn, cùng Chúa Cha và hợp với Chúa Con, tỏa bao la rạng ngời muôn ánh sáng.  Ðể chúng con, trong lòng như ngoài miệng, trót cuộc đời cùng trót cả tấm thân, Bừng cháy lên lửa yêu Chúa vô ngần, mà sưởi ấm tha nhân bằng thương mến.  Xin nhận lời muôn lạy Chúa toàn năng, cậy nhờ Ðức Kitô Con Một Chúa, Ðấng trị vì cùng với Chúa Thánh Thần, tự ngàn xưa tới muôn đời muôn thuở.  Amen.

Còn có lời Kinh đầy ý nghĩa khác được Giáo Hội dùng trong những cử hành long trọng.  Ðó là kinh Veni Creator, Spiritus.  Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, xin hãy ngự đến.

Trong lời kinh nầy, Giáo Hội hướng về Chúa Thánh Thần, Ðấng Sáng Tạo, Creator.  Và thật vậy, Chúa Thánh Thần đều có mặt và tác động trong hai công cuộc sáng tạo.  Công cuộc sáng tạo lần thứ nhất, sáng tạo vũ trụ và con người, như được nhắc đến nơi những dòng đầu tiên của Sách Sáng Thế; và Ngài hiện diện và tác động trong công cuộc sáng tạo lần thứ hai, được bắt đầu với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, trong cung lòng Mẹ Maria, cho đến khi hoàn tất nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua, chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta hãy dành những phút hồi tâm chiêm ngắm sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong công cuộc sáng tạo thứ nhất, lúc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người.  Ðó là giây phút quan trọng nhất, được linh ứng cho tác giả sách Sáng Thế để ghi lại nơi những câu đầu tiên của sách Sáng Thế như sau:  Khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất.  Ðất thời trống không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang.  Và Thần Khí là là trên mặt nước. (STK 1,1-2).

Câu Kinh Thánh diễn tả sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần nơi công cuộc tạo dựng đầu tiên là câu: “Thần Khí là là trên mặt nước.”  Nguyên ngữ Do Thái được dùng nơi đây là: RUAH, và có thể được chuyển dịch theo hai từ hai nghĩa: là Gió, là Hơi Thở, là Thần Khí, là Thần Khí của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, mạc khải của Cựu Ước về Thiên Chúa Ba Ngôi nói chung và về Chúa Thánh Thần nói riêng, chưa được rõ ràng.  Chúng ta chỉ có được mạc khải rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Chúa Thánh Thần, nhờ qua mạc khải của Chúa Giêsu Kitô trong Tân Ước.  Nhưng những gì được linh ứng để nói ra nơi Cựu Ước, đều có hàm chứa những dấu chỉ, những ý nghĩa cho phép ta hiểu trước về thực tại được mạc khải trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô.  Các nhà chú giải ngày nay, gần như đa số, đều công nhận những câu đầu tiên của Sách Sáng Thế có hàm chứa ý nghĩa nói đến sự hiện diện tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng lần thứ nhất.  Vì thế các nhà chú giải và dịch giả Kinh Thánh không dùng từ “Luồng Gió Mạnh” mà dùng từ rõ ràng hơn là Thần Khí, hay Thánh Thần của Thiên Chúa.  Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo.  Ðấng ban sự sống, Ngài hiện diện và tác động để vạn vật vũ trụ nầy được sinh động trong trật tự, được lãnh nhận và phản ánh vinh quang Thiên Chúa.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi mọi tạo vật.  Ngài đã hiện diện và tác động ở đó trước chúng ta, trước khi chúng ta hiện hữu.  Xin Ngài giúp chúng ta được nhìn thấy ngài và dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.

Sáng Danh Cha và Sáng Danh Con, Sáng Danh cả Thánh Linh Thiên Chúa.  Từ muôn đời và chính hiện nay. Và luôn mãi thiên thu vạn đại. Amen.

R. Veritas

RA ĐI THA THỨ

RA ĐI THA THỨ

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.

Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.

Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.

Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

THẦN KHÍ

THẦN KHÍ

Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa?” Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh Phaolô hỏi họ về Chúa Thánh Thần.

***

Bạn thân mến! Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.

Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.

Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.

Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó là dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ của tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?

Thực ra, Chúa Thánh Thần không phải là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?

***

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên con để giúp con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian này, Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

KHÔNG CHẠY THEO ĐÁM ĐÔNG

Trong Phúc âm, từ “đám đông” gần như luôn luôn được sử dụng với ngụ ý chê bai, thường xuyên đến mức lúc nào nhắc tới nó thì bạn liên tưởng đến tính từ “vô tâm”.

Đám đông không có tâm trí.  Họ được châm ngòi và thôi thúc bởi bất kỳ loại năng lượng gì đang phổ biến, đang phóng đại, thói thời thượng, đua đòi theo ý thức hệ, hay trong cơn cuồng loạn.  Trong Phúc âm, loại năng lượng này được gọi là “sự kinh ngạc.”  Rất nhiều trường hợp khi Chúa Giê-su nói hoặc làm điều gì gây ngạc nhiên cho đám đông, thì hầu như bao giờ cũng có câu này theo sau: “và đám đông kinh ngạc.”  Hiếm khi đó là một điều hay.

Tại sao?  Có vấn đề gì sai trái hay nguy hiểm về năng-lượng-đám-đông này?

Năng-lượng-đám-đông nguy hiểm bởi vì, trong hầu hết mọi trường hợp, nó không suy nghĩ.  Nó chỉ đơn thuần là dẫn và truyền đi năng lượng chứ không suy xét và chuyển hóa năng lượng.  Một hình ảnh minh họa thích hợp cho năng-lượng-đám-đông, sự kinh ngạc theo nghĩa trong kinh thánh, là sợi dây điện.  Sợi dây điện đơn thuần là để tải năng lượng đi qua.  Nó không phân biệt loại năng lượng đó tốt lành hay có tính hủy diệt.  Nó là vật dẫn thuần túy.  Bất cứ cái gì đi vào thì chính cái đó đi ra.

Các đám đông có xu hướng hành xử giống nhau.  Họ để năng lượng đi qua mình mà không phân biệt và suy xét năng lượng đó tốt hay xấu.  Ví dụ, chúng ta thường nói bị/được cuốn theo vào một loại năng lượng nào đó.  Đôi khi đó là năng lượng tốt, khi đám đông được cuốn theo một loại năng lượng tích cực, giúp xây dựng cộng đồng.  Ví dụ, trong mấy tuần qua, dân chúng trên thế giới cuốn theo cuộc giải cứu những người thợ mỏ bị mắc kẹt dưới hầm mỏ ở Chi-lê, và năng lượng chung đó đã giúp tạo ra một cộng đồng xuyên qua ranh giới các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo và chính trị.  Chúng ta cũng thấy hầu hết các năng-lượng-đám-đông tích cực xung quanh các sự kiện thể thao chẳng hạn như Giải Vô địch Bóng đá Thế giới World Cup, giải Vô địch Bóng chày Thế giới World Series of Baseball, hay nhiều giải quần vợt.

Nhưng hầu hết năng lượng của đám đông mang tính cách tiêu cực, năng lượng của ý thức hệ, của chủ nghĩa nguyên giáo, phân biệt chủng tộc, thói thời thượng, và sự phóng đại.  Năng-lượng-đám-đông là năng lượng thúc đẩy cưỡng bức tập thể.  Đó cũng là năng lượng đằng sau việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá.  Vấn đề sáng tỏ khi nhìn đám đông đó trước và trong cuộc đóng đinh trên thập giá. Năm ngày trước khi bị đóng đinh, Chúa Giê-su bước vào thành Jerusalem và đám đông cuồng nhiệt hô vang lời tán tụng, muốn tôn người lên làm vua của họ.  Năm ngày sau, hầu như chẳng có gì thay đổi, cũng cùng đám đông đó la hét: “Đóng đinh hắn vào thập giá!  Đóng đinh hắn vào thập giá!”  Đám đông hay thay đổi vì đám đông không suy nghĩ.  Họ chỉ đơn thuần truyền tải bất cứ năng lượng gì đang bao phủ họ.

Phúc âm kể câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình và bị đám đông nhiệt tình dẫn đến gặp Chúa Giê-su, ở đây chúng ta thấy một minh họa trọn vẹn nhất cho loại năng lượng không suy xét, nguy hiểm của đám đông tương phản với loại năng lượng có suy xét của cá nhân.  Câu chuyện kể đám đông dẫn người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su và yêu cầu Ngài phải đồng ý với họ về mặt luân lý rằng phải ném đá bà ta cho đến chết.  Nhưng Giê-su, với lời thách thức nổi tiếng, bảo họ rằng: “Ai thấy mình không có tội thì ném trước.”  Phản ứng của họ là: “Họ bỏ đi, từng người một, đầu tiên là người lớn tuổi nhất.”  Một đám đông vô tâm, bị cuốn theo cơn bốc đồng về luân lý, đã đem người phụ nữ tới trước mặt Chúa Giê-su.  Nhưng họ bỏ đi với tư cách cá nhân, từng người một, không còn bị cuốn đi trong cơn bốc đồng kinh ngạc đó nữa.

Tuy nhiên, cần phân biệt hết sức rõ ràng giữa kinh ngạc với ngưỡng mộ (wonder) và thán phục (awe). Ngưỡng mộ và thán phục là phản đề của kinh ngạc.  Trong kinh ngạc, năng lượng chảy xuyên qua bạn. Trong ngưỡng mộ và thán phục, năng lượng làm bạn sững sờ, tê liệt, và giữ chặt bạn lại.  Danh hài George Carlin châm biếm một cách sắc sảo về sự khác biệt này:  Khi giải thích tại sao ông vốn nghi ngờ phần lớn những người “tái sinh”, Carlin đã châm chọc như sau – rất nhiều người biết đến lời nổi tiếng này: “Tôi không tin những người tái sinh vì họ nói quá nhiều.  Khi tôi sinh ra tôi choáng váng tới mức không thể nào nói được gì trong hai năm liền!  Khi một người có một trải nghiệm tâm linh đủ mạnh mẽ để khiến họ im bặt trong vài năm, thì tôi mới tin họ!”

Có một thách thức trong những lời đó: Hãy ý thức về loại năng lượng phát ra từ đám đông.  Hãy ý thức về các thói thời thượng.  Hãy ý thức về mọi thể loại cường điệu.  Hãy ý thức về những người cổ vũ cho cả phe tự do lẫn phe bảo thủ.  Hãy ý thức về bất cứ đám đông nào muốn ném đá một ai đó cho tới chết nhân danh Chúa.

Hãy nghĩ lại tất cả những lần đóng đinh người khác trên thập giá mà bạn đã tham gia, và hãy nhớ lại, sau đó, khi tỉnh táo và nhìn nhận rõ ràng trong một bầu không khí khác, bạn đã tự hỏi mình:  Làm sao mình lại có thể sai lầm đến vậy?  Tàn nhẫn đến vậy?  Ngu dại đến vậy?  Hãy đọc lại những câu chuyện trên báo chí và trên internet về những thanh niên có tâm tốt, đàng hoàng, bị cuốn theo năng lượng đám đông, đã tấn công qua mạng (cyber-bully) một người nào đó đến mức người đó phải tự vẫn.  Hãy suy nghĩ, trong mỗi trường hợp, nhiều người có trách nhiệm cuối cùng đã bỏ đi như thế nào, từng người một, tỉnh táo hơn nhiều và suy xét chính chắn hơn nhiều so với khi họ bị cuốn đi trong năng lượng vô tâm của đám đông.

Sau đó, có lẽ, một cách nhẹ nhàng hơn, bạn hãy bày ra những bức ảnh cũ chụp các kiểu tóc, kiểu áo quần của bạn qua nhiều năm, thì bạn sẽ có tất cả những lời nhắc nhở cần thiết rằng năng lượng của phút giây đó dễ thay đổi và vô tâm đến như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

VỀ TRỜI

VỀ TRỜI

Tác giả: Lm. Vinh Sơn, scj

Lễ Thăng Thiên B

Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

Gia đình Hersten là một gia đình Do Thái thuê Sophie Beranska về chăm sóc cho mấy đứa trẻ trong nhà họ. Ngay hôm đầu tiên khi biết được Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là nàng không được “giảng đạo” cho con cái ông. Sophie nhận lời. Và chiều hôm ấy, lúc còn lại một mình trong phòng, nàng lấy một mảnh giấy nhỏ, viết một dòng chữ xếp lại và bỏ vào chiếc huy chương cha nàng để lại, rồi mang vào cổ. Lũ trẻ trong nhà nhiều lần đòi Sophie cho coi chiếc huy chương ấy nhưng nàng nhất định không cho vì đó bí mật của đời cô!

Dưới sự chăm sóc chỉ bảo của Sophie, lũ trẻ hiếu động trong gia đình của Hersten càng ngày càng trở nên ngoan ngoãn. Cuộc sống đang lặng lẽ trôi qua thì một hôm, tai họa dồn dập xảy đến: Bé Naim đau nặng, cả nhà cuống quít đưa đi bệnh viện. Sophie tình nguyện túc trực ngày đêm ở đó. Rồi thêm hai đứa nữa cũng ngã bệnh. Gánh đã nặng thì càng nặng thêm trên đôi vai Sophie. Tuy nhiên nàng vẫn tận tình phục vụ cách vui vẻ cho đến khi 3 đứa nhỏ trở lại bình thường. Rồi một hôm, kết quả của những ngày lao nhọc thức khuya dậy sớm, Sophie ngã bệnh và từ trần.

Hai năm trôi qua… vào ngày giỗ của Sophie Beranska. Người ta thấy cả gia đình Hersten dậy sớm và cùng nhau đến một nhà thờ Công giáo dự thánh lễ…

Sau khi Sophie đã mất được ít lâu, tình cờ khi mở chiếc huy chương của nàng mà tụi trẻ đã vất lăn lóc từ lâu trong một hộc tủ, ông Hersten rút ra được một mảnh giấy trên có ghi dòng chữ: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo của tôi trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”.

Ông và gia đình hết sức bàng hoàng và cảm phục. Sau đó cả gia đình Hersten đến nhà thờ xin được học đạo và lãnh nhận bí tích Rửa tội…

Sophie Beranska sống trách nhiệm của người môn sinh mà Chúa Giêsu khi về Trời đã lệnh truyền cho các môn đệ: “…hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15). Vâng theo lệnh truyền của Thầy, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (Mc 16,20). Sứ mạng ra đi loan báo đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Chúa Giêsu hứa sẽ ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế trong sứ mạng các tông đồ ra đi loan báo (x. Mt 28,20). Sophie Beranska đã loan báo cả cuộc đời…

Kinh Thánh nhấn mạnh: Chúa Giêsu lên trời 40 ngày sau khi Ngài phục sinh (Cv 1,3). Tin Mừng Marco nhấn mạnh tóm lược các sự kiện trước khi Chúa Về Trời, sau khi Ngài Phục sinh bốn sự kiện:

· Sự kiện thứ nhất (x. Mc 16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18).

· Sự kiện thứ hai (x. Mc 16,12-13) tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus mà Tin Mừng Luca kể chi tiết (x. Lc 24,13-35).

· Sự kiện thứ ba (x. Mc 16,14-18) Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43).

· Sự kiện thứ tư (x. Mc 16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Cv 1,9-11).

Thánh Ambrôsiô nối kết giữa sự kiện Chúa Phục sinh và biến cố Thăng Thiên trong đời sống của người tín hữu: “Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta đều là ảo tưởng (x. 1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.

Tin Mừng Marco nhấn mạnh Chúa Giêsu được đưa lên trời (Mc 16,19a), về Trời là trở lại nơi Người đã xuất phát mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (x. Mc 1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Chúa Cha, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Được lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc 16,19b), từ ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành của Thiên Chúa (x. Mc 14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1) như Đức Giêsu trả lời với các thầy Thượng tế: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14,62).

Cho nên, Chúa Thăng Thiên, nghĩa là Ngài được tôn vinh. Chính vì thế Thánh Vịnh đã cất lời ca ngợi sự vinh hiển của Đức Giêsu từ ngàn xưa :

“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!

Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!

Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,

là Vua Cả thống trị khắp địa cầu”

(Tv 47,2-3).

Vì thế, hoan ca chúc tụng Đấng về Trời là “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ nhất” vì Ngài là Đức Chúa hiển trị ở bên hữu Thiên Chúa Cha:

“hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa,

đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!”

…Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân,

Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả”

(Tv 47,7.9).

Trời là nơi xuất phát của Ngôi Hai Thiên Chúa, đó là quê hương của mọi người tin vào Ngài phải hướng đến, như Ngài đã gợi mở: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14,1-3). Cho nên, Trời là quê hương mà chúng ta phải hướng về như Thánh Phaolô đã xác tín: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Trời là phần thưởng dành cho những ai tin và bỏ mọi sự theo Chúa Kitô đã hứa : “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12).

Để được về quê Trời, sống theo ý của Thiên Chúa, Đức Giêsu phán: “Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27). Vì thế, với chúng ta như Thánh vịnh khẳng định :

“Tuân theo thánh ý Chúa,

con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể”

(Tv 119,14).

Xin cho chúng con biết sống tinh thần ngóng vọng về Trời dù sống trong hiện tại trần thế, vì:

“Ðức Ki-tô niềm tin của thế giới

Lên cõi trời ngợp vinh hiển cao sang”.

(Thánh Thi Kinh Sáng lễ Thăng Thiên)

Lm. Vinh Sơn scj, Sài gòn

Đức Giáo Hoàng phong hiển thánh cho 4 nữ chân phước

Đức Giáo Hoàng phong hiển thánh cho 4 nữ chân phước

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ phong thánh cho các nữ chân phước tại Vatican, ngày 17/5/2015.

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ phong thánh cho các nữ chân phước tại Vatican, ngày 17/5/2015.

17.05.2015

Bốn nữ chân phước, trong đó có hai người Palestine, vừa được tôn phong hiển thánh của Giáo hội Công giáo La mã.

Ðức giáo hoàng Phanxicô vừa làm lễ tôn phong hiển thánh cho các nữ chân phước này hôm nay, Chủ nhật, ở Vatican.

Hai nữ chân phước Mariam Bawardy và Marie Alphonsine Ghattas ở nơi mà hồi thế kỷ thứ 19 là nước Palestine.

Lễ tôn phong hiển thánh  cho hai nữ tu này được xem như là một sự kích lệ cho người Công giáo trên khắp Trung Ðông đang đối diện với làn sóng bức hại của các phần tử cực đoan Hồi giáo. Đây là những vị thánh đầu tiên trên Đất Thánh kể từ những năm đầu đời của Kitô giáo.

Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas tham dự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Một nữ chân phước người Pháp và một nữ chân phước Italia cũng được tôn phong hiển thánh hôm Chủ nhật. Cả hai nữ thánh này là người sáng lập ra các tổ chức giáo dục cho người nghèo.

Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên!

“Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên!”

ca ngợi quê hương.. của chúng ta

bằng niềm tin chứa chan trong tim..

người thanh niên.”

(Lê Hựu Hà – Bài Ca Tuổi Trẻ)

(Mt 8: 26/Mc 4: 40)

Trần Ngọc Mười Hai

Quả rất đúng! Là thanh niên, hay bạn hiền của mọi người, có gì mà sợ cơ chứ! Sợ cũng đâu giải quyết được gì, cho nên tội!

Quả là, người đời có sống ở đời rất nhiều năm, vẫn cứ sợ. Sợ ma. Sợ quỷ. Sợ bóng, sợ vía, sợ cả những gì chẳng đáng sợ, rất bao giờ.

Quả thật nhà Đạo xưa nay nhiều người cũng có sợ. Sợ tội, sợ lỗi, sợ cha cố, sợ cả ma sơ vốn rất hiền như được kể ở bài hát “Em hiền như ma sơ”. Nói chung là sợ tất cả mọi ông lơ mơ/lờ mờ, rất linh mục. Không tin ư? Vậy thì, mời bạn/mời tôi, ta theo dõi những giòng kế tiếp, hạ hồi sẽ hiểu.

Vâng, cứ như người nghệ sĩ ngoài đời, ta nên hát đã rồi tính sau. Hát rằng:

“Một nụ hoa trên mái tóc hững hờ

một tình thương cho cuộc sống đang chờ đang đợi ta

đừng vùi tương lai kiếp sa hoa

đừng vì tin yêu trong e ngại với rụt rè hỡi những người thân tuổi trẻ

Đừng nhìn tương lai với những lo sợ

đừng nhìn tha nhân trong nỗi nghi ngờ hay dèm pha

đừng sợ chông gai vướng chân ta

đừng ngại gian lao suốt tâm hồn sáng chân người

đang trên đường dựng đời mới

(Lê Hựu Hà – bđd)

Hát thế rồi, lại cứ thêm đôi câu “rất không sợ”, như sau:

“Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên

ca ngợi quê hương.. của chúng ta

bằng niềm tin chứa chan trong tim..

người thanh niên

Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên

cuộc đời đang.. dang tay đón ta

bằng yêu thương ta đi xóa tan..

mọi căm hờn.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Hãy đứng thẳng lên” mà “ca ngợi quê hương chúng ta”. “Hãy đứng thẳng lên” vì “cuộc đời đang dang tay đó ta bằng yêu thương”.

Vâng. Đừng sợ bạn ạ! Hãy cứ hát những câu như:

“Đừng ngồi yên nghe tiếng khóc quanh mình

đừng ngồi yên trên nhung gấm vô tình hỡi bạn thân

đừng vùi lương tri dưới gót chân

đừng nhìn tha nhân đang kêu gào chống ngục tù xin công bằng

đòi cơm áo

Đừng đùa vui khi đói khát vẫn còn,

đừng đùa vui khi áp bức vẫn còn nhân loại ơi!

đừng làm quê hương thêm tả tơi,

đừng khoe khoang trên những xác người,

đã ngã gục chết cho đời được thêm vui.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Quả thật có như thế. Như thế giống như thể nhà Đạo mình, cũng thấy đôi ba sự-kiện khiến bạn và tôi, ta suy-nghĩ thêm để rồi có quyết định chính-đáng cho đời mình. Những quyết-định như vừa rồi, bần đạo bắt gặp được đôi giòng chảy ở đây đó, những bảo rằng:

Đừng bao giờ trách móc bất cứ ai trong cuộc sống của bạn. Người tốt sẽ cho bạn Hạnh Phúc.  Người xấu cho bạn Kinh Nghiệm.  Người tệ nhất cho bạn đôi bài học. Và,  người tuyệt vời nhất sẽ cho bạn nhiều kỷ niệm.

Đừng hứa khi đang vui! Đừng trả lời khi đang nóng giận! Đừng quyết định khi đang buồn! Đừng cười khi người khác không vui! Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ. Ba năm học nói, một đời học cách lắng nghe. Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng 1 bước đi. Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi họ chẳng có lỗi gì cả đối với ta.

Rừng tuy có nhiều cây đại thọ sống cả ngàn năm, nhưng người sống thọ chỉ 100 tuổi, cũng không nhiều. Bạn có thọ lắm cũng chỉ sống đến 100 tuổi, tức: một tỷ-lệ 1 trên 100.000 người mà thôi. Nếu sống được những 70 tuổi, bạn sẽ còn 30 năm nữa. Nếu bạn thọ 80 tuổi, bạn chỉ còn 20 năm. Vì lẽ bạn không còn bao nhiêu năm để sống và bạn không thể mang theo các đồ vật mình có; thế nên, đừng tiết kiệm quá mức. Ttrên 50, hãy mừng từng năm; qua 60, ta mong hàng tháng, đến tuổi 70 ta đếm mỗi tuần, và ở tuổi 80 ta đợi vài ngày, 90 tuổi, ta ngơ ngác một mình với những phút giây dài thăm thẳm!  Bạn nên tiêu bớt những món cần tiêu thụ và thưởng thức những gì nên thưởng thức, rồi tặng cho thiên hạ những gì mình có thể cho đi, nhưng đừng để lại cho con cháu thứ gì hết. Bởi, chẳng bao giờ ta muốn chúng trở thành kẻ ăn bám.

Đừng quá lo những gì sẽ xảy đến với chính mình sau khi bạn đã ra đi, vì một khi đã trở về với cát bụi, bạn sẽ chẳng còn bị ảnh hưởng bởi lời khen hay tiếng chê bai nữa đâu, mà sợ.

Đừng lo nhiều về con cái bởi chúng có phần số của chúng và chúng sẽ  tự tìm cách sống riêng tư của chúng. Đừng trở thành nô lệ của con cái. Cũng đừng mong chờ nhiều ở con cái. Con cái, chúng biết lo-toan cho cha mẹ, dù chúng có lòng nhưng vẫn bận rộn với công ăn việc làm hoặc ràng buộc nào khác nên chúng không thể giúp gì cho bạn được. Con cái, chúng thường vô tình, nên có thể sẽ tranh giành của cải của bạn, ngay cả khi bạn còn sống. Và có khi chúng còn muốn cho bạn chết sớm để thừa hưởng tài-sản của bạn. Các con của bạn lại sẽ cho rằng việc chúng thừa hưởng gia-sản là chuyện dĩ nhiên nhưng, ngược lại, bạn không thể đòi dự phần vào tiền bạc của chúng được.

Với những người thuộc lứa tuổi 60 như bạn, đừng đánh đổi sức khoẻ với    tài-lực nữa. Bởi lẽ, tiền bạc có thể vẫn không mua được sức khoẻ, dù một chút.

Khi nào thì bạn thôi làm giàu? Và, có bao nhiêu tiền mới cho là đủ? Tiền muôn, tiền triệu hay cả mấy chục triệu? Dù bạn có cả ngàn mẫu ruộng, cũng chỉ ăn khoảng 3 lon gạo mỗi ngày mà thôi. Dù có cả ngàn dinh cơ/biệt-thự, bạn cũng chỉ cần  một  chỗ chừng 8 mét vuông để ngủ/nghỉ ban đêm. Vậy, bao lâu bạn có đủ thức ăn và tiền bạc để tiêu pha là tốt rồi. Nên, bạn hãy sống cho vui vẻ. Gia đình nào cũng đều có chuyện buồn phiền  riêng của mình.  Đừng so sánh với người khác về danh vọng và địa vị trong xã hội và con ai thành đạt hơn, nhưng hãy so sánh hạnh phúc, sức khỏe và tuổi thọ, thôi.

Đừng lo nghĩ những chuyện mà bạn không thể thay đổi vì sẽ chẳng làm được gì, lại còn làm hại cho sức khỏe của mình nữa. Bạn phải tạo an-lạc và tìm hạnh phúc cho chính mình. Hãy luôn phấn-chấn, chỉ nghĩ đến chuyện vui sống và làm những việc mình muốn làm mỗi ngày một cách thích thú; có như thế, thì bạn thật đã hạnh phúc sống từng ngày rồi.

Một ngày qua đi là một ngày bạn để mất rất nhiều thứ, nhưng một ngày trôi qua trong hạnh phúc là một ngày bạn có được rất nhiều sự. Khi bạn vui thì mọi bệnh tật sẽ lành lặn. Khi bạn hạnh phúc thì mọi bệnh sẽ chóng hết. Khi bạn vui tươi/hạnh phúc thì bệnh tật sẽ chẳng héo lánh, đến bao giờ. Với tính khí vui tươi cộng với thể thao/thể dục cho thích-đáng, thường xuyên ra ánh sáng mặt trời, thay đổi thực phẩm đủ loại, uống thuốc bổ vừa phải, hy vọng bạn sẽ sống thêm 20 hoặc 30 năm tràn-đầy sức khỏe. Hãy biết trân quý những gì tốt đẹp ở quanh mình. Còn bạn bè/thân thuộc nữa, họ đều muốn bạn thấy trẻ trung và có người cần đến mình. Không có họ, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng. (trích bài của vô danh)

Chuyện vui sống ở đời, lại đã có lời khuyên răn cũng khá dài như ở trên, tức: không sợ tuổi giả, cả đến cái chết, cũng đều thế.

Ở nhà Đạo khi xưa cũng có trường hợp sợ và hãi như trình thuật Tin Mừng từng ghi lại, rằng:

Các ông lại gần đánh thức Người và nói:

“Thưa Ngài, xin cứu chúng con,

Kẻo chúng con chết mất!”

Đức Giê-su nói:

“Sao nhát thế,

hỡi những người kém lòng tin!”

(Mt 8: 26)

Nhà Đạo hôm nay không còn thấy những chuyện sợ sệt này/khác, như sợ ma/sợ quỷ, sợ tội/sợ lỗi hoặc không hiểu lẽ Đạo, trong đời. Nhưng, nay lại có nỗi sợ rất đáng sợ, là: chuyện nhiều đấng bậc giảng-dạy nhiều điều về Lời Chúa, như câu nói:

Nước Thiên Chúa giống như hạt cải,

lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất.

Nhưng khi gieo rồi,

thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ,

cành lá xum xuê,

đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.”

(Mc 4: 31-32)

Làm sao hiểu tường-tận Lời Vàng ghi ở trên?

Rất may là, ở trời Tây, có bậc thày thần-học, lại đã diễn và giảng đôi điều về Nước Trời bằng những lời cụ-thể, để mọi người hết sợ. Thế nên, trang mạng www.TâmLinhVàoĐời.net có chuyển cho bần đạo đôi ba ý/lời giảng giải của đấng bậc thày dạy thần-học Kinh-thánh ở Hoa-kỳ có giòng chảy về Vương Quốc Nước Trời, như sau:

Ngay ở đây, ta thấy vấn-đề cần định-nghĩa cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời”, một lần nữa! Tựa hồ như tác-giả Mátthêu thường tránh-né không nêu danh-tánh Chúa ra mà không tỏ lòng tôn-kính tính thánh-thiêng của Ngài.

Thế nên, thay vào đó, tác-giả lại đã sử-dụng thành-ngữ “Vương Quốc Thiên-Đàng” cách rõ ràng. Thế nhưng, ta vẫn có khuynh-hướng hiểu Thiên-Đàng là Vương Quốc, như thể Đức Giêsu cốt ý đề-cập đến những gì không phải ở dưới đất này, mà chỉ nói chuyện trên trời, mà thôi. Hoặc, Ngài cũng không nói đến cuộc sống đời này mà là sự sống mai ngày sẽ xảy đến. Điều đó, cũng không xa sự thật, chút nào hết.

Muốn hiểu ý Đức Giêsu cho thật rõ, ta cũng nên tách-bạch hai chuyện tôn-giáo và chính-trị, và chuyện luân-thường đạo-lý cũng như kinh-tế thế-giới hồi đầu thế-kỷ, cho rõ ràng. Đúng ra thì, “Vương Quốc Của Chúa” mà ta có thói quen gọi là “Vương Quốc Nước Trời” là thế-giới này, ở nơi đây. Là, chốn miền trong đó Chúachứ không phải Cesar, đang ngự-trị trên ngai vàng của Ngài ở trạng-thái như thế ấy. Và, rõ ràng là: Thiên-Chúachứ không phải Cesar, đã mở rộng vòng tay yêu-thương và Ngài đảm-trách việc quản-cai “Vương-Quốc” này thật trọn-hảo.

Cùng lúc, đây là ý-niệm hoàn-toàn có tính tôn-giáo và chính-trị, thôi. Cũng cùng lúc, thành-ngữ này lại mang tính-chất rất đạo-đức và kinh-tế-học. Thiên-Chúa quản-trị thế-giới cách ra sao? Ngài muốn cai-quản thế-giới này như thế nào, ư? Có thế nào đi nữa, thì dứt-khoát đấy không là thiên-đàng hiểu như nơi chốn ở trái đất này, mà thôi.

Như ta thấy, với nhóm người sống ở Do-thái, tức: các vị chủ-trương khải-huyền như ông Gioan từng chứng-tỏ, thì “Vương Quốc Nước Trời” khi trước được hiểu như thực-tại xảy đếntrong thời tương lai. Điều này thật không đúng! Bởi, đó không là chuyện tương-lai mai ngày, mà là thực-tại tùy việc Thiên-Chúa can-thiệp bằng quyền-uy cao-cả của Ngài trong mọi vấn-đề liên-quan đến nhân-loại, để Ngài mang hoà-bình và công-chính đến với thế-gian đang sa-lầy trong áp-bức/bất công gần như tuyệt-vọng.

Phần lớn các kẻ tin đều được chuẩn-bị giúp-đỡ để “Vương Quốc” của Ngài thành hiện-thực. Sự việc này, hoàn-tất tốt đẹp hay không, chỉ do quyền-uy/sức mạnh của Thiên-Chúa mà thôi. Và, dù các vị chủ-trương khải huyền một cách không mấy sáng-sủa về “Vương Quốc” đang trờ tới, thì các ngài vẫn nhận-thức rõ là điều ấy sẽ khách-quan và hữu-hình đối với mọi người, theo cách khác biệt, có tốt/có xấu.

`Tuy nhiên, việc này lại góp thêm một cung-cách khác để diễn-nghĩa về “Vương Quốc Nước Trời”. Thế tức là, thay vì ta chờ Chúa can-thiệp khải-huyền, thì chính Ngài là Đấng đang đợi ta khởi-đầu cuộc cách-mạng xã-hội. Thật ra, cả hai cách diễn-nghĩa thế nào là “Vương Quốc, Nước của Chúa” dù theo phương-pháp nào đi nữa, đều là giải-đáp khả-thi, nếu như nhân-loại có cố-gắng.

Và, sự việc Thiên-Chúa can-thiệp theo cách khải-huyền lại khác với cuộc cách mạng xã hội do Ngài thực-hiện. Và Đức Giêsu, bằng vào sự việc dứt-bỏ hy-vọng của ông Gioan nhờ khả-năng riêng của con người, Ngài đã loan-báo quyết-định của Thiên-Chúa rồi.

Sao ta dùng cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời” thay cho “Cộng đồng dân Chúa”, tức từ-vựng mang ý-nghĩa về một thế-giới do nam-nhân độc-trị như “vua/quan”, lãnh chúa”, chứ?

Có nhiều lý-do để bảo rằng: cụm-từ “Vương Quốc” tạo vấn-đề như Tân-Ước bản Hy-Lạp đã chuyển từ tự-vựng “basileia” ra. Có điều là: chữ “Vương” là tự-vựng mang tính “kẻ cả”. Thêm vào đó, chữ “quốc” lại là thành-phần ngôn-ngữ khiến cho tự-vựng này thêm phần “nổ lộp độp”, dù ta nói đến nơi-chốn, địa-danh hay tên gọi của khu-vực địa-lý nào đó, cũng vậy.

Và, thêm một vấn-đề nữa, là: nói như thế tức như thể ta đang sử-dụng ngôn-ngữ của thế-giới hiện-thời mình đang sống, lại xuất-hiện vị vương-quân nào đó đang cai-trị hết mọi người. Để cho chắc, ta cứ thử nhìn vẻ xa hoa tráng-lệ ở các lễ hội mừng chúc vua quan/lãnh chúa còn sót lại với thế giới hôm nay, như: nữ-hoàng Êlisabét đệ II của nước Anh chẳng hạn, vai-trò của bà chí mang ý-nghĩa truyền-thống và lễ-tân thôi, chứ bà không có quyền-hành gì thực-thụ.

Với thế-giới Địa-Trung-Hải, là khu vực quanh đó Đức Giêsu hạ sinh, thì: vua quan/lãnh chúa thực-sự vẫn có uy có quyền. Và, điều này không chỉ ngôn-sứ khải-huyền người Do-thái mới quan-tâm đến qui-định của vua, tức “Basileia” ở thế-kỷ đầu, thôi. Cụm-từ “Basileia”, là chủ-đề thường thấy ở thế-giới Hy-Lạp. Và vấn-đề đặt ra là thế này: làm sao quyền-lực trần-gian lại thực-hiện theo cách công-bình đầy nhân-tính, được? Tin Mừng do các tác-giả viết, vẫn cứ phải vật-lộn mọi tương-phản nên mới bảo rằng: quyền-lực chốn gian-trần và uy-quyền của Thiên Chúa vẫn có thể thành chuyện hiện-thực được hết.

Khi Đức Giêsu sử-dụng cụm-từ “Vương Quốc Nước Trời”, là Ngài muốn nói đến thế-gian do Thiên-Chúa trực-tiếp đảm-trách, ngay lập tức. Thế-gian sẽ ra sao, nếu Thiên-Chúa ngồi trên ngai của Cesar? Chính vì thế, nên “Vương Quốc Nước Trời” là biểu-tượng lý-tưởng nhất để diễn-tả cuộc sống con người vốn vinh-thăng, được kêu gọi vào qui-định của con người cũng như trật-tự ở xã-hội. Cụm-từ nào không có nghĩa là “vương-quốc” giống như thế, có thể sẽ làm mất đi tính thách-thức cả về chính-trị lẫn tôn-giáo, nữa.

Có thành-viên nọ thuộc nhóm “Chuyên Đề về Đức Giêsu” đề-nghị: ta nên dịch tự-vựng Hy-Lạp nào có nghĩa “qui-định ở đế-quốc của Thiên-Chúa” để nhấn-mạnh sự tương-phản đối lại với qui-định về lề-luật ở đế-quốc La Mã của Cesar. Có điều là, khi ta sử-dụng hình-thái đường ranh xã-hội mang tính then-chốt cốt lật-đổ nền chính-trị nào đây, bởi thế nên tôi chủ-trương duy-trì cụm-từ “Vương Quốc” chứ không phải từ-vựng “Cộng-Đồng” như thành-viên nọ đề-nghị.

Khi dùng từ-vựng “Cộng-Đồng” để diễn-tả tính thân-ái, có lẽ tôi sẽ để mất đi tính thách-thức về chính-trị và tôn-giáo nơi lời dạy của Đức Giêsu. Nhưng các từ-vựng như: Vương-quốc, Quyền-uy và Vinh-quang là có ý gì? Điều đó, có phải để nói về Thiên-Chúa hay Cesar, không? Dù sao đi nữa, nếu sử-dụng cụm-từ “Cộng-đồng” thay cho “Vương quốc” thì cũng được, nhưng với điều-kiện là cụm-từ này phải bao gồm ý-nghĩa thách-thức lật-đổ tình-trạng xã-hội và tính chính-trị then-chốt có trong từ-vựng ấy, mới được.

Dùng ví-dụ cụ-thể, ta sẽ hiểu rõ hơn. Hãy tưởng-tượng trường-hợp cộng-đoàn tín-hữu ở Đức hồi thập niên 1930’ lại cứ gọi danh-hiệu Đức Giêsu bằng từ “der Fũhrer” chẳng hạn, đồng thời còn nhấn mạnh là: trên đời này duy-nhất chỉ có một “Fuhrer” mà thôi, thì tự thân, tiếng Đức thường có từ-vựng cũng mang nghĩa “lãnh tụ” giống như thế. Vậy thì, khi Hitler xuất-hiện trên chính-trường, rõ ràng là các tín-hữu Đạo Chúa chỉ muốn coi  Đức Giêsu là lãnh-tụ của họ mà thôi, chứ không phải Hitler hoặc ai hết.

Bởi thế nên, ta có thể sử-dụng bất cứ bản dịch nào để nói về “Vương Quốc Nước Trời” đều được cả, nhưng nên nhớ: điều đó sẽ lại có nghĩa phụ-thuộc và mang âm-hưởng của một bội-tín cũng rất cao. Cũng hệt thế, khi gọi Đức Giêsu là Chúa, là ta có ý bảo: Cesar kia không phải thế.

Hãy dịch cụm-từ “Đức Chúa” bằng thành-ngữ đương-đại nào ta cho là thích-hợp đều được, với điều kiện là người dịch có gọi như thế, cũng không bị những người phía bên kia ám-hại, là được. (x. Cựu lm John Dominic Crossan, Đức Giêsu từng giảng và dạy những gì, www.tamlinhvaodoi.net 29/4/2015)

Thành ra, trong cuộc sống ở đời hoặc trong Đạo, luôn có vấn-đề hiều lầm hoặc hiểu sai lạc những gì được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, qua các bài chia sẻ Lời Chúa ở bục giảng.

Để thay đổi bầu khí về Nước Trời cho nhẹ nhàng, nay lại xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm một truyện kể ngăn ngắn có những giòng kể lể như sau:

“Trưa hôm ấy, trên đường đi làm, trong đầu tôi đang miên man nghĩ đến hoàn cảnh của anh Huỳnh Hữu Hội mà quý bạn đang nhắc nhở với sự luyến tiếc… Đến đường Nguyễn Đình Chiểu (Phan Đình Phùng cũ), tôi chợt thấy bên đường có một chị bán vé số vừa đi vừa gõ cây gậy để dò đường. Nhưng lạ là trông mặt chị ấy có vẻ tươi vui rạng rỡ mặc dù trời đang nắng như đổ lửa.

Không dằn lòng được, tôi cởi xe lên lề và dừng chị lại bằng cách cầm cậy gậy của chị rồi mua vé số cho chị. Ngày thường, tôi mua vé số giúp người mù, trả lại vé số cho họ, vậy là xong, rồi đi. Không hiểu sao lần này tôi lại hỏi:

– Chị ơi, chiều tối làm sao chị về nhà được ?

– Dạ quen rồi.

– Ủa mà nhà chị ở đâu ?

– Dạ ở Củ Chi ?

– Chà, xa quá rồi làm sao chị về? (Củ Chi cách SG khoảng 30 km)

– Dạ quen rồi.

– Thôi chị cất tiền vô túi xách đi. Chị cất luôn vé số đi, tặng lại chị …(Thấy túi xách xẹp lép, hình như không có gì hết). Chị không đem theo nước uống sao ?

– Dạ quen rồi.

– Thôi chị lấy chai nước này nghen. Để tôi chế thêm chút trà.

– Dạ …

Tôi lên xe chạy trước, đến ngã tư, dừng đèn đỏ, tôi lại leo xe lên lề nhìn ngược lại xem chị bán vé số ra sao. Chị ấy đang đi đến dần. Đúng là chị ấy luôn tươi cười rạng rỡ, cứ gõ gậy mà đi từ từ chớ không lên tiếng rao bán vé số gì hết…

Sau khi rời chị bán vé số, tôi lại nghĩ về anh bạn thân nọ và không khỏi có sự đối chiếu về số phận. Vậy là ai khổ hơn ai ? Rồi tôi không khỏi liên tưởng tiếp về các anh bạn khác cũng đã ra đi cùng một cách. Mỗi người hẳn có một hoàn cảnh nào đó mà chúng ta đều thông cảm và tôn trọng. Nhưng có lẻ quý bạn ấy đều không “quen” với hoàn cảnh mới thời kỳ đó nên các bạn ấy đã chọn giải pháp để ở lại vĩnh viễn với tuổi đôi mươi.

Ngẫm lại mẫu đối thoại ngắn ngủi mà tôi đã trao đổi với chị bán vé số , tôi thấy chính mình phải xem xét lại nhiều điều mà tôi đã thường xem là chân lý: Đối với tôi, nhu cầu số 1 đối với cơ thể là không khí – còn nước là nhu cầu cấp thiết số 2 , không thể thiếu: sai rồi! Khi cần đi tìm chỗ mới lạ tôi đều dò xem bản đồ trước, hoặc tìm trong Google, ghi lại địa chỉ vào giấy cho dể tìm v.v…  không cần vậy!

Đến tuổi này, không còn ganh đua với ai nữa, nên tìm cho mình một triết lý sống : có cần chăng? Đối với những người sáng mắt như chúng ta có khả năng nhận biết được nhiều màu sắc. Nhưng sự phân biệt hai màu xanh đỏ đã làm khổ hàng chục triệu con người trong hàng chục năm và gây bao nhiêu cảnh sanh ly, tử biệt. Còn đối với chị bán vé số, màu xanh hay màu đỏ đều không có ý nghĩa gì hết. Tình người đối với chị là quan trọng hơn cả. Điều này đáng để chúng ta suy gẫm.

Tạo hóa không ban cho chị đôi mắt nên cũng không cho chị nước mắt để khóc. Ông trời chỉ cho chị cái miệng nguyên vẹn để cười mà thôi ! Chúng ta chỉ cần làm một phép tính đơn giản sẽ giật mình vì với nụ cười không bao giờ tắt trên môi ấy, mỗi tháng chị có thể di chuyển đoạn đường dài bằng từ Sài Gòn ra Hà Nội !

Trong nghề kinh doanh “sự may rủi” của chị, chị bán vé số chỉ có một triết lý đơn giản để vượt qua mọi nhọc nhằn là: quen rồi! Chị chỉ có ước mơ là bán hết xấp vé số. Việc này được hay không cũng tùy thuộc sự may rủi của chị mỗi ngày, nhưng đối với chị, được hay không thì cũng “quen rồi!” Ôi! Đối với triết lý sống rất đơn giản “Quen rồi” của chị, tôi chỉ còn biết nói là:                                                                                 Thương quá!

Xin cám ơn chị đã cho tôi thêm một bài học về cách sống ở đời : hãy sống đơn giản với những gì tạo hóa ban tặng và làm quen với mọi nhọc nhằn hay nghịch cảnh để có thể vượt qua tất cả mọi thử thách trong đời.” (truyện kể trích từ điện-thư do bạn bè gửi)

Đọc truyện trên thư-điện, hẳn bạn và tôi, ta đều đã nghe quen những chuyện như thế. Nhưng vẫn thấy nó làm sao ấy. Nếu vậy, nay đề-nghị tôi và bạn, ta quay về bài hát của nghệ sĩ họ Lê khi xưa vẫn từng hát để làm kết luận bài phiếm “rất đáng sợ” vì hơi bị “vớ vẩn”, như sau:

Đừng sợ bạn ơi hãy đứng thẳng lên

cuộc đời đang.. dang tay đón ta

bằng yêu thương ta đi xóa tan..

mọi căm hờn.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Thật đúng thế. Chỉ “bằng yêu thương ta đi xoá tan mọi căm hờn”, xoá cả nỗi sợ sệt vì mọi lý-do, trong đó có cả lý lẽ do những người tưởng rằng đã hiểu nhưng chưa biết ngọn ngành về lý-tưởng của Vương Quốc Nước Trời, đó chính là tình yêu-thương hết mọi người mà thôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Khi xưa vẫn rất sợ đủ mọi thứ

Nay chỉ còn mỗi một nỗi

Sợ rằng cứ làm thinh và làm biếng mãi,

Sẽ không xong.