CHIẾC VISA NƯỚC TRỜI

CHIẾC VISA NƯỚC TRỜI

Tác giả: Huệ Minh

Trong đời sống thường nhật, ta rất quen và rất gần với chiếc thẻ visa. Để được vào một nước nào đó hẳn nhiên ta phải có visa được cấp từ nước mà ta muốn đến, Và, hẳn nhiên muốn có visa ta phải hoàn tất một số thủ tục bắt buộc là xin đơn, điền đơn …

Kitô hữu, ắt hẳn ai ai cũng biết rằng đất nước mà ta đang sống đây phải chăng chỉ là tạm bợ mà thôi. Điều này ai cũng rõ cả vì trần gian này chỉ là “chiếc lều tạm” trong cuộc hành hương trước khi vào Nước Thiên Chúa – nơi mà người Kitô hữu hướng đến.

Để vào Nước Trời, dĩ nhiên cũng phải có những điều kiện để vào đó. Điều kiện để có một chiếc “visa Nước Trời” được chính Chúa Giêsu trước khi về cùng Cha – về Nước Trời – đã chỉ cho các môn đệ cũng như những ai muốn vào.

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dừng lại để làm một cử chỉ mà các môn đệ và nhất là Phêrô – người môn đệ trưởng – cũng hết sức ngạc nhiên : “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 6).

Trước thái độ ngạc nhiên đó, Chúa Giêsu nói :  “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu”. Phêrô cũng chẳng yên “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Ta thấy Chúa Giêsu lại nói : “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Và rồi Phêrô “tham quá” !,  liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa”.

Cũng dễ hiểu thái độ của Phêrô bởi lẽ ông là người bộc trực, bốp chát và nóng nảy. Và ta thấy hhi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. (Ga 13, 12-15)

Đau ở chỗ “Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa”. Chúa Giêsu làm như vậy để chứng minh con người thật của mình và đã làm chứ không phải nói.

Đỉnh điểm của những lời yêu thương đó là : Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 13, 34)

Chỗ mà mỗi người Kitô hữu buộc lòng phải điền vào cái đơn xin “visa Nước Trời” là chỗ đó đó, là cái chỗ mà yêu thương nhau như Thầy đã yêu.

Cái tình yêu mà Thầy đã yêu đó không giống như tình yêu của con người dành cho nhau, không phải tình yêu của mắt đền mắt, răng đền răng, không phải là yêu kẻ yêu thương mình … mà là yêu cho đến tận cùng, yêu cả kẻ thù của mình, kẻ đã sát hại mình.

Thật ra mà nói, không thể nào lý giải được cái tình yêu lạ lùng đó nhất là khi Chúa Giêsu đến trần gian này để cứu nhân loại mà đâu phải là cứu cái nhân loại tốt lành mà là cứu cái nhân loại đầy tội lỗi, đầy bợn nhơ và chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm : “Ðức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. (1 Tm 1, 16)

Tình yêu Giê su thật đẹp ! Tình yêu ấy được linh mục nhạc sĩ Thành Tâm khơi dòng cảm hứng :

Trên đồi cao, trong gió lao xao gọi mời tình yêu
Giêsu gục ngã, treo thân thập giá dang cánh tay ôm tội đọa đầy
Thân tàn hơi con Chúa Trời nghe hồn chợt đơn côi
Ôi nhân loại hỡi, sao chưa hoài tới mà nỡ quên ân tình biển khơi

Chỉ vì tình yêu Chúa chịu nhục thân chết cho trần gian
Vì Ngài chỉ đến sống cho tình yêu, chết cho tình yêu
Để cứu muôn người lỗi tội
Đưa về trời đẹp tươi

Căn cốt của chuyện Chúa Giêsu đến trong trần gian này, sống trong trần gian này và chết cho trần gian này cũng chỉ vì chữ Yêu mà thôi. Và hẳn nhiên, điều mà Thầy truyền lại cũng như điều kiện để vào Nước Trời đó là người nào muốn vào là phải yêu.

Yêu ! Nhìn thấy thoạt dễ nhưng nhìn kỹ lại một tí thật khó ! Khó bởi lẽ trong nội tại con người ai ai cũng có cái tôi đôi khi nặng hơn cả ký lô thân xác mình đang sở hữu.

Thế nhưng, xét cho bằng cùng cũng là dễ nếu như ta chịu khó nhìn lên trên đỉnh đồi Gôngôta ngày thứ Sáu Tuần Thánh và chiêm ngưỡng bậc thầy của tình yêu chịu treo trên đó. Ta nhìn, ta ngắm, ta suy ta sẽ thấy bậc thầy đó yêu ta đến mức nào ngay khi ta còn là một tội nhân, là một con người thậm chí chẳng ra gì.

Rõ ràng nhất trong cuộc sống, ta chẳng là gì cả nhưng chẳng hiểu tại sao mọi người lại yêu ta đến như thế ?

Cứ ngẫm xem có phải đúng hay không khi ta đặt mình trước mặt ông thầy của tình yêu, ta đặt mình trước mặt ta và ta đặt mình trước mặt những người thân yêu nhất là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con, là bạn bè thân hữu …

Có đôi khi ta chợt nhận ra rằng ta là một chồng thất tín bất trung, sáng xỉn chiều say lè nhè lem nhem đó nhưng rồi người vợ hiền và đàn con thân yêu vẫn yêu thương bao bọc ta và luôn luôn đón nhận ta khi ta trở về với gia đình.

Có đôi khi ta chợt nhận ra rằng ta là bà vợ lắm lời nhiều tiếng và không chu toàn bổn phận của người vợ, người mẹ trong gia đình nhưng người chồng và những đứa con ngoan trong gia đình vẫn yêu mẹ chúng lắm !

Có khi ta là những đứa con bất hảo và cả bất hiếu với cha với mẹ và hành xử chẳng ra gì với anh chị em trong gia đình nhưng rồi chẳng hiểu sao cha mẹ và anh chị em thương ta quá !

Có đôi khi trong cơ quan, trong trường học, trong công sở ta sống ích kỷ, thu vén và đôi khi cùng kỹ năng để hơn người này thắng người kia nhưng rồi đồng nghiệp, đồng bạn vẫn bao dung yêu thương đón nhận ta.

Có đôi khi ta là thành viên trong cộng đoàn tu trì sống chẳng ra một cung cách của nhà tu là ích kỷ, giận hờn, gian tham, thu vén, cửa quyền, độc ác nhưng cộng đoàn lại yêu thương ta cách là lùng mà ta không hiểu.

Tình yêu mà thầy Chí Thánh Giêsu vẫn len lỏi đâu đó từng ngỏ ngách trong cuộc đời ta mà ta không hay không biết để rồi ta lại cứ ngang ngang, tàng tàng, bướng bướng độc ác với anh chị em đồng loại.

Ngày hôm nay, nhìn lại cử chỉ của vị linh mục chủ tế rửa chân cho các môn đệ ta lại được nhìn lại cử chỉ yêu thương của Chúa bên đời ta qua người vợ, người chồng, người con, người đồng loại đang sống bên cạnh ta.

Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm ! Câu nói thật dễ thương !

Ta cứ yêu đi rồi ta làm gì thì làm ! Đúng như thế ! Ta hãy quay lại với tình yêu nguyên thuỷ mà Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn ta để ta yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa đã yêu thương ta.

Giữa cuộc sống bôn ba bề bồn với cơm áo gạo tiền, trái tim của ta bị phủ đầy những lớp bụi của tham sân si, của hờn ghen, của thu vén để không còn đủ sự tinh tuyền thuở ban đầu mà Thiên Chúa tạo dựng.

Hẳn nhiên ta cần cơm áo gạo tiền cho cuộc sống hiện tại, cho những gì cần để nuôi thân ta. Nhưng, ta nên nhớ và phải nhớ một điều rằng cuộc sống của ta chỉ là những chuỗi ngày lữ thứ tha hương, nước chúng ta cần đến, cần vào đó là Nước Trời.

Khi ta nhắm mắt xuôi tay, Chúa sẽ chẳng hỏi ta điều gì khác ngoài lời đáp trả yêu thương mà Chúa mời gọi vào chiều hôm Tiệc Ly thứ Năm Thánh.

Có thể ta có nhà lầu, xe hơi, biệt thự, quyền cao chức trọng nhưng nếu ta đánh mất đi tình yêu hay nói cách khác ta không điền vào cái đơn xin visa Nước Trời chữ Yêu mà Chúa Giêsu đã mời gọi thì thật là đáng tiếc.

Sống ở đời, căn cốt không phải là giàu hay nghèo, sang hay hèn, là đại gia hay tiểu gia. Căn cốt của đời này là ta có đạt được Nước Trời, nơi chính là cùng đích của đời ta hay không mà thôi.

Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối tham sân si, hay giận hờn, hay ghét ghen, hay hơn thua, hay chà đạp người khác … Ta hãy nhìn lên hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương ta đến dường nào để ta loại bỏ dần những tính hư tật xấu nhất là nghịch về giới răn yêu thương mà Chúa đã mời gọi chúng ta.

Và ta nên nhớ lời trăn trối dễ thương : Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”. (Ga 13, 35)

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết yêu thương nhau như Thầy đã yêu để ta có một tấm visa Nước Trời và là môn đệ thật của Thầy Giêsu.

Huệ Minh

Phải rửa chân cho nhau

Phải rửa chân cho nhau

Thứ năm Tuần Thánh

(ngày mai 2 tháng 4)

Dongten.net

LỜI CHÚA:  Ga 13, 1-15

1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.

2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su.3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa,4 nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng.5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? “7 Đức Giê-su trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.”8 Ông Phê-rô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! ” Đức Giê-su đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa.”10 Đức Giê-su bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! “11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”

12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?13 Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa.14 Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

SUY NIỆM

Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.

Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.

Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.

Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
“Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.

LỜI NGUYỆN

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Bạn biết gì về Thứ Sáu Tuần Thánh?

Bạn biết gì về Thứ Sáu Tuần Thánh?

– Tin nổi bật, Công Giáo Trẻ

VRNs (01.04.2015) – Sài Gòn – Thứ Sáu Tuần Thánh là một ngày khủng khiếp nhất trong năm. Bạn đã xem phim “The Passion of the Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) chưa? Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày mà Chúa Giêsu chịu sự bất công oan sai nhất: bị phản bội, bị chế nhạo, bị nhục nhã, rồi bị giết chết bằng cách chịu đóng đinh vào Thập Giá – loại hình phạt tệ nhất dành cho các tử tội dạng “đại ca” thời đó. Tiếng Anh gọi Thứ Sáu Tuần Thánh là Good Friday – Thứ Sáu Tốt Lành. Thứ Sáu Tuần Thánh có là Ngày Tốt Lành không? Sao người ta sợ Thứ Sáu ngày 13 vậy?

Tại sao người ta cho rằng cái chết của Chúa Giêsu là ngày TỐT LÀNH trong khi lại là ngày Đại Tang của Kitô giáo?

150330016

Thứ Sáu Tuần Thánh đã được hoạch định

Từ đầu, Thiên Chúa đã biết những gì sẽ xảy ra nên Ngài đã hoạch định phương cách. Ngài hóa thân làm người để giải quyết tất cả mọi khúc mắc. Chúng ta đã biết điều này, đúng không? Nhưng đôi khi chúng ta bỏ lỡ Phụng Vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Thiên Chúa biết rõ: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:30).

Khi Chúa Giêsu trở nên của lễ cứu chuộc, tất cả đã xong. Những gì còn dở dang cũng được hoàn tất. Cái chết của Ngài là “chất xúc tác” làm cho mọi điều nên trọn. Sự sống lại, Chúa Thánh Thần hiện xuống, sự tái lâm của Chúa Giêsu. Khi cái chết xảy ra, mọi thứ khác cũng được thực hiện theo cách nhìn của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi hướng thượng để được vào Nước Trời. Ngài muốn chúng ta hy vọng sự sống lại và mong đợi ngày Ngài tái lâm. Ngài đã hoàn tất mọi sự, không còn gì dở dang. Sự chết không còn quyền gì đối với linh hồn chúng ta, vì mọi sự đã hoàn tất. Tội lỗi không còn có thể làm chúng ta dơ bẩn khi Thiên Chúa nhìn chúng ta, vì mọi sự đã hoàn tất.

Ngày duy nhất không có Thánh Lễ

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hợp với truyền thống cổ xưa: Không có Thánh Lễ – tức là không có truyền phép Thánh Thể. Tuy nhiên, Thánh Thể vẫn được giữ từ Thánh Lễ hôm trước, và chúng ta vẫn được đón nhận Thánh Thể. Các bí tích khác vẫn được cử hành trong trường hợp khẩn cấp, như rửa tội cho người hấp hối hoặc xức dầu cho người bệnh nặng. Nghi thức an táng được cử hành nhưng không có đàn hát hoặc chuông.

Chúa Giêsu bị phản bội hai lần

Lần thứ nhất là Tông đồ Giuđa Ítcariốt. Ông nhận 30 đồng bạc, tiền “bán đứng” Thầy mình, ở một góc tối trong Vườn Ghếtsimani, nơi Chúa Giêsu thường tới cầu nguyện vào ban đêm. Lúc đó Giuđa thay đổi ý định, nhưng không thể được. Vì thất vọng, Giuđa đã treo cổ tự kết liễu đời mình. Lần thứ hai là Tông đồ Phêrô. Chỉ vài giờ sau khi Chúa Giêsu bị bắt, ông đã sợ nên chối phăng là không biết Thầy Giêsu khi có người nhận ra ông là người đi theo Chúa Giêsu. Ông không chối một lần mà chối tới ba lần. Khi bị dẫn đi, ánh mắt Chúa Giêsu đã nhìn Phêrô với ánh mắt nghiêm nghị và đầy lòng trắc ẩn.

Sự phản bội đã biến đổi Phêrô

Sau khi thấy ánh mắt Chúa Giêsu, Phêrô sợ hãi và hoảng hốt vì tính hèn nhát của mình, ông bật khóc ăn năn. Ông được Chúa tha thứ và can đảm rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của ông vào ngày lễ Ngũ Tuần đã khiến 3.000 người xin được rửa tội. Ông trở nên giáo hoàng tiên khởi và chịu tử đạo tại Rôma. Khi người Rôma đóng đinh ông vào thập giá, ông cảm thấy mình không xứng với Chúa Giêsu nên xin được đóng đinh ngược. Quân lính đã lật ngược thập giá theo ý ông muốn. Hằng trăm năm sau, các Kitô hữu bị bách hại đã bí mật đến viếng mộ Thánh Phêrô, và rồi Kitô giáo được công nhận thời Hoàng đế Constantine. Hài cốt Thánh Phêrô được cải táng về Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày nay, Vatican lưu giữ những gì được tin là hài cốt Thánh Phêrô, được phát hiện những năm trước đây tại hầm mộ bên dưới bàn thờ của đền thờ này.

Không ăn uống gì từ 12 giờ tới 15 giờ

Ăn chay và kiêng thịt là truyền thống ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Tại sao? Vì đây là ngày Thiên Chúa bị phản bội, hạ nhục, hành hạ, mỉa mai bởi chính đám người mà mới vài ngày trước tung hô vạn tuế Ngài, rồi giết chết Ngài như một tên tội phạm. Truyền thống nói rằng Chúa Giêsu bị treo Thập Giá từ trưa cho tới 3 giờ chiều. Đây là khoảng thời gian nắng gay gắt. Đây cũng là khoảng thời gian tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn cứu độ, nhưng chúng ta đã rũ bỏ. Để nhớ ba tiếng đồng hồ ghê rợn này, nhiều người nhịn ăn uống bất cứ thứ gì. Tại sao? Để than khóc chính mình, để đền tội mình, để thông phần đau khổ với Chúa Giêsu, đặc biệt là để sám hối về những lần chúng ta đã hèn nhát, không dám đứng lên bảo vệ sự thật, không dám đấu tranh chống lại bất công, hoặc không dám tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Tôn kính Thánh Giá

Trong Giáo Hội Công giáo, Thứ Sáu Tuần Thánh không cử hành Thánh Lễ, nhưng có nghi thức tôn kính Thánh Giá để tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu. Nghi thức này thường được cử hành lúc 3 giờ chiều, giờ Con Thiên Chúa trút hơi thở trên Thánh Giá. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh, có thể cử hành trễ hơn, nhưng phải trước 9 giờ tối.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Tử thần chiến bại

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày ảm đạm, ngày đại tang, nhưng lại là ngày tốt lành vì Con Thiên Chúa đã hoàn tất mọi sự. Chính cái chết của Ngài khiến Tử Thần phải bó tay, đành thua cuộc. Kẻ thù vẫn tìm cách hãm hại chúng ta, muốn kéo chúng ta về phe chúng, nhưng chúng không thể chiến thắng vì chúng đã thua Con Thiên Chúa.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Khởi đầu phục sinh

Thứ Sáu Tuần Thánh là khởi đầu của sự chết, nhưng cũng chính là khởi điểm của sự phục sinh. Alleluia, Chúa Giêsu đã sống lại vinh quang!

Người ta sợ Thứ Sáu ngày 13 vì người ta thấy trong Bữa Tiệc Ly có 13 người: Chúa Giêsu và 12 môn đệ. Giuđa Ítcariốt là người phản bội, bị coi là người mang “bí số” 13. Đừng dị đoan nhảm nhí mà “sợ” ngày này. Thứ Sáu nào cũng tốt lành, Thứ Sáu Tuần Thánh càng tốt lành hơn!

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo Beliefnet.com)

Xem phim “The Passion of the Christ” của đạo diễn Mel Gibson: httpv://www.youtube.com/watch?v=o-ZcbjLBtls&list=PL-dE3EzobLKc2rbRuakYsRNpwta9zSR2I

*HÃY TRẢ LỜI CHO CHÍNH BẠN…*


*HÃY TRẢ LỜI CHO CHÍNH BẠN…*

*Cố G.S.Trần Duy Nhiên*

*Cuộc đối chất giữa một giáo dân thế kỷ 21 và nhân vật lịch sử Philatô*

*Thanh nữ*: Này ông Philatô! Theo tôi, chính hành động trốn trách nhiệm của
ông đã giết chết Chúa chúng tôi.

*Philatô*: Tôi không hề thấy mình trốn trách nhiệm. Sở dĩ tôi rửa tay là vì
không muốn liên can đến những vấn đề mà tôi cho là chuyện nội bộ Do Thái
giáo.

*Thanh nữ*:  Ông biết rõ ràng là Đức Giêsu vô tội.  Chính ông đã tuyên bố
với mọi người là ông không thấy Người ấy có tội.  Thế mà ông vẫn tuyên án
tử hình.

*Philatô*:  Tôi đã làm đủ mọi cách để trả tự do cho Giêsu.  Tôi cho đánh
đập thê thảm để kêu gọi lòng từ tâm của dân chúng.  Nhưng họ không buông
tha.  Tôi lợi dụng thông lệ Vượt Qua để họ chọn lựa trả tự do hoặc cho
Giêsu hoặc cho Barabas, tên tử tội ghê gớm nhất tôi đang cầm giữ và họ đã
chọn Barabas.  Chị còn đòi hỏi tôi làm gì nữa?

*Thanh nữ*:  Tất cả những việc đó chỉ là mánh khóe.  Điều tôi mong là ông
áp dụng luật pháp cho đúng đắn, nghĩa là trả tự do cho một người vô tội mà
không cần một điều kiện gì.

*Philatô*:  Tôi không có quyền đó.

*Thanh nữ*:  Thế ông không phải là người đại diện La mã để duy trì luật
pháp sao?

*Philatô*:  Chính vì tôi là người đại diện La mã mà tôi không có quyền tha
bổng Giêsu.

*Thanh nữ*:  Tôi không hiểu ông muốn nói gì.

*Philatô*:  Chị hiểu rõ câu nói của tôi.  Điều chị không hiểu là nhiệm vụ
của tôi.  Tôi là một nhà chính trị chứ không phải là một nhà luân lý.  Bổn
phận của tôi là duy trì an ninh trật tự một nước thuộc địa của Mẫu quốc La
mã.  Chúng tôi để cho người Do Thái thờ Giavê và tiếp tục lễ nghi của họ
trong khi chúng tôi thờ thần Jupiter.  Chị tưởng chúng tôi làm thế là vì
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người Do Thái à?  Nghĩ như thế là
lầm.  Chúng tôi làm như thế vì lợi ích của chúng tôi, những người La mã.
Nếu cấm đoán, họ có thể nổi dậy làm loạn…

*Thanh nữ*:  Ông nói những điều đó để đi đến đâu?

*Philatô*:  Để chị hiểu vì sao tôi không có quyền tha Giêsu.

*Thanh nữ*:  Nhưng ông biết rằng Đức Giêsu không hề xúi dân làm loạn.  Và
trong giờ phút đau đớn đó Ngài không có lấy một người lính, thậm chí một
người bạn cũng không cơ mà.

*Philatô*:  Chính vì thế mà tôi không có quyền chọn lựa.  Nếu dân chúng ủng
hộ Giêsu, và cái chết của Giêsu có thể đem đến một sự nổi loạn, thì tôi
phải suy nghĩ.  Đàng này mọi người đã bỏ rơi Giêsu. Trong khi đó nhóm biệt
phái xúi dục dân chúng lên án Giêsu vì những chuyện riêng tư của tôn giáo
họ.  Nếu tôi buông tha Giêsu, họ sẽ bất bình và có thể làm loạn.

*Thanh nữ*:  Vì thế mà ông đã tuyên án Chúa chúng tôi à?

*Philatô*:  Tôi đã nói rằng tôi không tuyên án kết án ai cả.  Tôi trao
Giêsu lại cho người Do Thái để họ làm gì mặc họ.

*Thanh nữ*:  Ông là một người vô liêm sỉ.

*Philatô*:  Đấy chỉ là vấn đề quan điểm.

*Thanh nữ*:  Quan điểm gì nữa? Ông đã không dùng quyền hạn mình để bảo vệ
một người mà ông biết là vô tội.  Không quan điểm nào cho phép một bất công
như thế.

*Philatô*:  Với tư cách cá nhân, tôi thấy rằng người ấy vô tội, nhưng với
tư cách là Tổng trấn La mã, tôi không có quyền để những tình cảm cá nhân
len vào.  Tôi chỉ có quyền làm những gì có lợi nhất cho Hoàng Đế của tôi mà
thôi.

*Thanh nữ*:  Tôi không cần biết ông nhân danh gì mà hành động. Tôi chỉ biết
rằng nếu Chúa Giêsu vô tội thì ông là kẻ có tội.

*Philatô*:  Sao chị lại buộc tội tôi?  Tôi chỉ là một người bên ngoài giáo
hội Do Thái, làm việc theo lập trường của mình.  Những người có tội là
những người nhân danh Thiên Chúa của họ để giết Giêsu.  Chính những hạng
người như chị đã đặt tôi vào tình trạng không thể buông tha Giêsu.

*Thanh nữ*:  Ông là một người thủ đoạn. Ông muốn bịt miệng tôi bằng cách
buộc tội tôi, dù ông biết rằng ông không có cơ sở.

*Philatô*:  Có chứ!… Ngày Giêsu vào Giêrusalem thì một số người hăng hái
tiếp đón Giêsu, hô to khẩu hiệu. Và một tuần sau thì cũng chính những người
đó hét to hơn ai hết: “*Hãy thả Barabas. Hãy đóng đinh Giêsu vào thập giá*.”
Tôi thấy lợm giọng, chị à!  Hôm nay cũng vậy, giữa những thân hữu của chị,
chị cũng ra vẻ bênh vực Giêsu và mạt sát tôi…  Tôi thấy sợ!  Tôi thấy
mình trở lại cái ngày hôm ấy.  Ngày xử án Giêsu, khi tôi lên tiếng hỏi,
không có một nhân chứng nào bênh vực cho Giêsu! Ngày hôm đó, tôi chỉ thấy
những kẻ chứng gian, những người phẫn nộ, những bọn tò mò, còn những người
có cảm tình với Giêsu thì trốn biệt tăm tích.  Ngày hôm đó, *chỉ có* *một
mình tôi*, chị nhớ cho, *tôi*, *Phongxiô Philatô,* người mà chị vừa gọi là
vô liêm sỉ đấy, *chỉ có một mình tôi* là *người duy nhất* nói rằng *Giêsu
vô tội*.  Nếu hôm đó chị có mặt, chị sẽ là ai?  Chị sẽ là một người trốn
biệt hay một người la hét?  Chị đừng nói rằng chị sẽ bênh vực, vì không có
ai bênh vực Giêsu, ngoài *tôi*.  Nếu chị gọi tôi là vô liêm sỉ thì chị sẽ
là gì?  *Chị tự xét lấy, đừng trả lời tôi, hãy trả lời cho chính chị*!

*Trần Duy Nhiên*

Chị Ngyễn Kim Bằng gởi

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

Thứ Năm Tuần Thánh được bắt đầu bằng Thánh lễ Truyền Dầu, và ban chiều, khởi đầu Tam Nhật Vượt qua, Phụng vụ đưa mỗi người đến bữa Tiệc Li của Đức Giê-su, diễn tả việc Người rửa chân cho các môn đệ, tưởng niệm việc Chúa lập phép Thánh Thể và chức vụ Linh mục.  Như vậy có quá nhiều đề tài cho người ta khai thác, học hỏi.  Tuy nhiên, giờ đây mỗi người được mời đi sâu vào cội rễ của các tưởng niệm trên, đó là tình yêu của Chúa Kitô đối với loài người.

Nhiều người đặt vấn đề, có cần Chúa phải làm việc hèn hạ, là rửa chân cho các môn đệ không?  Có phải đây là kiểu xu nịnh, như nhiều người thường đi bằng hai đầu gối để đạt mục tiêu không?  Liệu Chúa có đối xử gì tệ bạc với Giuđa không, mà sao ông lại có hành vi tồi tệ và đê hèn, đến nỗi bán Thầy của mình với giá bèo bọt 30 đồng bạc?

1. Trong bữa Tiệc Li

Đức Giêsu đã cùng ăn bữa tối quan trọng với các môn đệ, để chuẩn bị cho việc ra đi của Người.  Tất cả những sự kiện báo trước đang diễn ra trong bữa Tiệc Li này, đó là Giuđa phản bội bán Thầy với giá 30 đồng bạc, đó là Phêrô môn đệ thân tín nhất sẽ chối Chúa 3 lần.  Đề tài chủ yếu trong Phụng vụ chiều nay cũng như tuần Tam Nhật Vượt qua là tình yêu.  Tất cả việc Chúa lập phép Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh, đặc biệt là cử chỉ khiêm nhường rửa chân cho môn đệ, đều xuất phát từ tình yêu cao vời của Thiên Chúa.

Đức Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể: Chúa đã nhập thể để đến với nhân loại, Chúa đã sinh ra trong nghèo hèn để cảm thông cuộc sống với con người, Chúa đã giảng dạy để kêu gọi và mở ra con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực, Chúa chịu chết để cứu độ tất cả mọi người.  Nhưng như thế chưa đủ, Chúa muốn làm hơn thế, để chứng tỏ tình yêu của Người: đó chính là phép Thánh Thể, mà Chúa lấy chính Máu Thịt mình để nuôi loài người.  Tình yêu của Người luôn được tiếp tục bằng việc cung cấp thức ăn thiêng liêng cho nhân loại.  Chúa muốn đi sâu vào thân xác, thấm vào máu thịt, để biến dòng máu đen ngòm tội lỗi của con người, thành dòng máu tươi hồng trong sạch của Chúa, Chúa muốn con người có sức mạnh phi thường, để họ có đủ sức vượt dặm trường, chống lại những vật cản tiến về Nước Chúa.

Đức Kitô đã lập ra chức vụ linh mục: Ôi lạ lùng huyền nhiệm, Chúa đã nên lương thực qua đôi tay linh mục thừa tác viên để phục vụ, để ban phát hồng ân, để tha thứ lỗi lầm, để giải hòa với Chúa và với nhau.  Qua tác vụ linh mục, người tín hữu được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, làm của ăn tinh thần, được giao hòa với Thiên Chúa tình yêu, được ánh sáng và sức mạnh để thăng tiến cuộc sống con người.

2. Rửa chân cho các môn đệ

Trong bữa Tiệc Li, Đức Giêsu còn thể hiện cử chỉ rất đặc biệt:  rửa chân cho các môn đệ.  Bỏ qua mọi rào cản,  những kinh nghiệm đau thương, và những mất mát sẽ diễn ra, Đức Giêsu đã đứng dậy, cởi áo ra, lấy chậu nước và rửa chân cho các môn đệ.  Người ta rất ngạc nhiên, cũng như Phêrô đã rất ngạc nhiên, tại sao Chúa làm như vậy?  Đây là một việc làm của một tên nô lệ theo thói quen người Israel. Mỗi người có thể hiểu được việc làm này của Chúa vì nhiều lí do:

Trước hết là để ứng nghiệm những gì đã viết về Đức Kitô:  Chúa là Người Tôi Tớ Thiên Chúa trong sách Isaia, Đấng đã chuộc lại loài người bằng những hy sinh của Người.  Việc Chúa tự động đứng dậy rửa chân cho họ, cũng để chứng tỏ rằng Người tự nguyện chịu chết để cứu độ nhân loại.  Những từ “cởi ra” “mặc vào” nói lên việc Người chịu chết và sống lại, việc con người đánh mất Hồng Ân Chúa khi phạm tội, và Đức Kitô đã chuộc lại ơn làm nghĩa tử của Chúa.

Việc rửa chân là bài học giáo dục, Đức Giêsu muốn nêu cao tấm gương trong cách sống mà các môn đệ phải noi theo: Sống để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, “Thầy nêu gương cho anh em, để anh em hãy làm cho nhau” (Ga.13, 15).

Rửa chân bằng nước còn nói lên việc thanh tẩy; Đức Giêsu muốn nói với con người rằng, Chúa đến để làm mới lại con người, thanh tẩy tội lỗi họ, để không những thân xác, chân tay, mà cả tâm hồn cũng nên trong sạch, loại bỏ những hiềm khích, đam mê, tội lỗi…

Việc rửa chân dạy loài người bài học khiêm nhường: Con người muốn làm lớn thống trị người khác, như hai anh em con ông Giêbêđê muốn chỗ nhất nhì trong Nước Trời.  Quyền lực vẫn là cái gì làm cho người ta cuồng nhiệt tranh giật, ngoài xã hội cũng như trong tôn giáo, xưa cũng như bây giờ, Đức Giêsu dạy các môn đệ muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ trước đã.

Cuối cùng, Đức Giêsu muốn chứng tỏ tình yêu trổi vượt của Người với nhân loại:  Chúa muốn làm tất cả vì yêu.  Một thứ tình yêu mãnh liệt không đắn đo tính toán, đã khiến Người có thể làm những điều người ta không tưởng, đó là việc quỳ xuống rửa chân cho môn đệ của mình.

3. Tình yêu đáp trả

Qua những hành vi trên đây, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy đáp trả tình yêu của Người dành cho họ:

Trước hết là hãy đón nhận: Qua việc cúi xuống rửa chân cho đầy tớ, Đức Giêsu muốn nhắc con người: những gì là trịch thượng, quyền thế, là cái tôi, là hạ cố, cần phải loại trừ:  Một Thiên Chúa quỳ xuống, để ngước mắt nhìn lên loài người, nhằm dạy người ta phải khiêm nhường đón nhận những ân sâu tận Trời của Chúa.  Chỉ khi con người biết khiêm nhường, họ mới gặt hái thành công, mới có thể đạt mục tiêu Nước Trời.  Thế gian chỉ biết hưởng thụ, chờ mong người khác hầu hạ.  Người ta thường bị cám dỗ bởi tiền bạc vật chất, ăn trên ngồi trốc.  Chúa không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ, vậy con người là ai, mà chỉ muốn người khác hầu hạ mình?

Hãy tôn vinh Thánh Thể Đức Kitô: Thánh Thể là kết quả tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Qua Thánh Thể, con người được nên một với Người, sống với Người.  Chính vì thế, Thánh lễ trở thành trung tâm Phụng vụ.  Đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội để tận hưởng lương thực thần hiệu này, hãy để Chúa sống với mình hằng ngày, hãy lắng nghe tiếng Chúa mời gọi:  Hãy đến mà ăn.  Đừng để Chúa cô đơn và nhục mạ bằng việc từ chối của mình.

Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người sống khiêm nhường, hi sinh và phục vụ để xứng đáng làm môn đệ Đức Kitô.

Lm Jos. Trần Xuân Chiêu

VIẾT LẠI CUỘC XỬ ÁN CỦA CHÚNG TA

VIẾT LẠI CUỘC XỬ ÁN CỦA CHÚNG TA

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Khi kể về cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu, Thánh Kinh tập trung rất nhiều vào cuộc xử án Ngài, mô tả dài và chi tiết.

Và mô tả đó thật vô cùng sâu cay.  Chúa Giêsu bị xử án, nhưng lại được viết ra như thể, tất cả mọi người đang bị xử án, chứ không phải Ngài.  Các nhà cầm quyền Do Thái, những người đã lên kế hoạch bắt Ngài đang bị xử án vì lòng ghen tức và bất lương của họ.  Nhà cầm quyền Rôma, những người nắm quyền quyết định trong vụ này, đang bị xử án vì sự mù quáng về đạo của họ.  Các đồng bạn và những người đương thời của Chúa Giêsu đang bị xử án vì sự yếu đuối và phản bội của họ.  Những người thách Chúa Giêsu thể hiện quyền năng thiêng liêng của mình để xuống khỏi thập giá, họ bị xử án vì đức tin thiển cận của họ.  Và, cuối cùng nhưng không phải nhẹ tội, là chính mỗi chúng ta đang bị xử án vì sự yếu hèn, ghen tương, mù quáng tôn giáo và đức tin thiển cận của mình.  Đoạn viết về cuộc xử án Chúa Giêsu đọc ra như một bản kể tội phản bội của chúng ta.

Gần đây, Giáo hội đã cố để giúp chúng ta nắm bắt được điều này bằng cách đọc các đoạn Thương khó trong ngày Lễ Lá và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.  Ngày nay, trong nhiều nhà thờ, bản Thương khó được đọc theo cách phân vai, một người kể chuyện, một người đóng vai Chúa Giêsu, vài người khác đóng vai những người tham dự trong việc bắt giữ và xử án Chúa, và cả cộng đoàn đọc to lời của đám đông. Làm thế này không thể nào hợp lý hơn được nữa, vì một cộng đoàn trong bất kỳ giáo hội Kitô nào, và chúng ta, từng người trong cộng đoàn đó, bằng hành động hay lời nói, theo vô số cách khác nhau, đang họa lại hoàn hảo những hành động và lời nói của những người đương thời với Chúa Giêsu cùng với sự yếu hèn, phản bội, ghen tức, mù quáng tôn giáo, và đức tin sai lầm.  Chúng ta cũng vô số lần lên tiếng buộc tội Chúa Giêsu bằng chính lối sống của mình.

Ví dụ như, đây là cách chúng ta làm thế trong lời nói: Trong trình thuật theo thánh Matêô, trong cuộc xử án, Philatô ra trước mặt dân, những người chỉ mới năm ngày trước đã tung hô Chúa Giêsu là vua, nói với họ rằng, theo thông lệ vào ngày lễ Vượt qua, ông sẽ thả một tù phạm Do Thái.  Lúc đó, trong tù có một tên sát nhân hết sức bỉ ổi là Barabbas.  Philatô hỏi đám đông: “Ta sẽ tha cho ai, Giêsu thành Nazareth hay Barabbas.”  Đám đông la lên: “Barabbas!”  Philatô mới hỏi họ: “Vậy ta sẽ làm gì với Giêsu thành Nazareth?”  Đám đông đáp lời: “Dẫn hắn đi.  Đóng đinh hắn!”  Chúng ta có thể làm một phép ngoại suy rất rõ ràng thế này: Trong mọi lựa chọn luân lý của mình, lớn hay nhỏ, xét cho cùng, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện cũng là câu mà Philatô đã hỏi đám dân: Ta sẽ thả ai cho các người, Giêsu hay Barabbas?  Lòng nhân từ hay thói bạo lực?  Bỏ mình hay quy kỷ?

Cũng đám dân đó đã nói với Philatô rằng: “Chúng tôi chẳng có vua nào cả, ngoại trừ Ceasar!”  Khi nói thế, họ đang chối bỏ niềm hi vọng của mình về Đấng Messiah để đổi lấy sự an toàn tạm thời.  Chúng ta cũng nói như thế, mỗi khi, vì lợi lộc của mình, chúng ta bán rẻ những lý tưởng cao hơn, và chọn lấy cái thứ yếu.

Cũng vậy, quá thường xuyên, chúng ta lặp lại những lời của đám dân đang thách Chúa Giêsu bị treo trên thập giá bằng những lời: “Nếu ngươi là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá, cứu lấy chúng ta, và cứu cả ngươi nữa.”  Chúng ta cũng nói như thế bất cứ lúc nào chúng ta cầu nguyện như thể đang thẩm xét sự hiện hữu và tốt lành của Thiên Chúa, nếu chúng ta có một câu trả lời theo ý mình thì đó là Chúa yêu chúng ta, còn không, chúng ta sẽ bắt đầu hoài nghi Ngài.

Dĩ nhiên, cũng như vậy với hành động của chúng ta:  Như các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có xu hướng ở bên Ngài khi mọi chuyện tốt đẹp, khi cám dỗ không quá mạnh, và không phải đối diện với những đe dọa thực sự, trực tiếp đến mình.  Nhưng cũng như môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có khuynh hướng chối bỏ và phản bội khi mọi chuyện trở nên khó khăn và nguy hiểm.  Hơn nữa, như các người có quyền đến bắt Chúa Giêsu với đèn đuốc sáng, chúng ta cũng thường thích soi rọi ánh sáng của mình lên Đấng là Ánh sáng của mọi Ánh sáng, và như những người đến bắt Chúa Giêsu, chúng ta có khuynh hướng mang theo gậy gộc và gươm giáo, sẵn sàng giao tranh, khi đến gặp Vua Hòa bình.

Nói chung, khi đọc trình thuật về Cuộc Thương khó và Cái chết của Chúa Giêsu, khuynh hướng bộc phát của chúng ta là lên án gay gắt những người dự phần trong việc bắt giữ, xử án, và kết án Ngài: Làm sao họ không nhìn ra được mình đang làm gì?  Tại sao họ quá mù quáng và ghen tức như thế?  Làm sao họ chọn lấy một bảo đảm sai lầm thay vì chốn nương ẩn vĩnh hằng bên Chúa?  Làm sao họ chọn một kẻ sát nhân thay vì Đấng Messiah?  Làm sao mà các môn đệ quá dễ dàng chối bỏ Chúa?

Đã qua hơn 2000 năm, nhưng chẳng có nhiều thay đổi đâu.  Chọn lựa của những người trong cuộc xử án và kết án Chúa Giêsu, cũng chính là những chọn lựa mà chúng ta đưa ra ngày hôm nay.  Và gần như mọi ngày, chúng ta chẳng làm gì tốt đẹp hơn họ, vì, với sự mù quáng và tư lợi, chúng ta vẫn và quá thường xuyên, nói rằng: Dẫn hắn đi.  Đóng đinh hắn vào thập giá!  Thế đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

1,062 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới trong thời gian từ 1980 đến 2014

1,062 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới trong thời gian từ 1980 đến 2014

Nguyễn Việt Nam

3/24/2015

Ngày 24 tháng 3, Giáo Hội tại nhiều nơi trên thế giới kỷ niệm ngày “Các Nhà Truyền Giáo Tử Đạo” là ngày cầu nguyện và ăn chay để tưởng nhớ các nhà truyền giáo đã thiệt mạng trên bước đường rao giảng Chúa Kitô cho muôn dân.

Đây là một sáng kiến của phong trào thanh niên của các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, được cử hành đúng vào ngày Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng Giám Mục San. Salvador bị giết chết. Ngài sẽ được phong chân phước vào ngày 23 tháng 5 tới đây.

Theo thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, trong thập niên từ năm 1980 đến 1989, có115 nhà truyền giáo bị giết. Thập niên tiếp theo, tức là từ năm 1990 đến Năm Thánh 2000 con số này tăng lên gần gấp 6 lần với 604 nhà truyền giáo bị sát hại. Sự đột biến này chủ yếu là kết quả của tội ác diệt chủng ở Rwanda, với 248 nhà truyền giáo bị giết tại đây.

Trong thời gian từ năm 2001 đến cuối năm 2014, 343 nhà truyền giáo bị thiệt mạng vì bạo lực chống lại đức tin Kitô. Riêng trong năm qua 2014, 26 vị đã bị giết bao gồm 17 linh mục, 1 thầy, 6 nữ tu, 1 chủng sinh, và 1 giáo dân.

Phép lạ tại Napoli nhân dịp Đức Thánh Cha viếng thăm thành phố

Phép lạ tại Napoli nhân dịp Đức Thánh Cha viếng thăm thành phố

dongten.net

Pope_Francis_and_Cardinal_Sepe_with_St_Januarius_relic_in_Naples_cathedral_March_21_2015_Credit_CTV_CNA

NAPOLI. Hôm thứ 7, 21.3 vừa qua, khi Đức Thánh Cha Phanxicô đang chia sẻ với các tu sĩ, linh mục và chủng sinh tại Napoli, một phép lạ đã xảy ra: bình đựng máu khô của một vị thánh từ thế kỷ thứ tư đã hóa lỏng.

Hiện tượng này được cho là thường xảy ra tại đây ba lần trong một năm, vào ngày 1.5, ngày 19.9 (lễ kính thánh nhân) và ngày 16.12.

Lần cuối cùng hiện tượng này xảy ra đối với một vị giáo hoàng là vào năm 1848 với Đức Piô IX. Phép lạ này đã không xảy ra khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến viếng thăm thành phố Napoli vào tháng 10.1979 và cả dịp Đức Biển Đức XVI vào tháng 10.2007.

Máu này là máu của thánh Januarius, từng là giám mục Napoli và tử đạo vào thế kỷ thứ IV, bây giờ là bổn mạng xứ Napoli. Xương của ngài vẫn còn được bảo tồn trong Nhà thờ Chánh Tòa. Người ta tin rằng ngài đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách đạo dưới thời Hoàng đế Roma Diocletian, người thoái vị vào năm 305.

Vào ngày 21.3, vào cuối buổi gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và chủng sinh tại nhà thờ chánh tòa ở Napoli, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chúc lành cho thánh tích này. Khi Đức Hồng Y của giáo phận, Đức Crescenzio Sepe, nhận lại thánh tích, máu đã hóa lỏng một nửa.

Khi Đức Thánh Cha vừa quay đi, Đức Hồng Y nói với ngài rằng: “Dường như thánh Januarius yêu mến Đức Thánh Cha, vì máu thánh đã hóa lỏng một nửa rồi.”

Để phép lạ xảy ra, cần phải đợi vài phút trước khi khối máu đỏ và khô tiếp xúc với một phía của bình đựng hóa thành máu lỏng lan ra toàn bộ bình thủy tinh.

Đức Phanxicô hóm hỉnh trả lời: “Các bạn thấy là thánh nhân chỉ yêu mến chúng ta một chút thôi. Chúng ta cần phải hoán cải nhiều hơn.” Mọi người cười rộ lên.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

(theo http://www.catholicnewsagency.com)

Tình như thoáng mây,

“Tình như thoáng mây”,
Tình đến cùng ta, âm thầm không ngờ
Tình như cánh hoa, tình chiếm hồn ta đâu ngờ là tình.

Tình như mưa gió, thoảng vào trong tim.
Tình như cánh chim, bay đến trong ta sao nghe bồi hồi?

(Nhạc: Nino Rota Speak Softly Love – Lời: Trường Kỳ: Thú Yêu Thương)

(1Timothê 4: 4-6)

Trần Ngọc Mười Hai

Nói gì thì nói, nếu cứ nói những chữ như “thương” như “yêu” của cuộc tình, thì đó có thể vẫn là điều thích thú, dù ta có gọi đó là thú yêu thương hay đau thương, gì cũng được.

Hát gì thì hát, nếu cứ hát những lời chỉ về cái “thú yêu thương” như người viết lời Việt ở đây từng ỉ ôi hát rằng: “Tình đến cùng ta, âm thầm không ngờ”, lại sẽ là điều cần nói và hát. Nói không nhiều lời, nhưng bằng tiếng ai ca, với giọng hát như sau:

“Có biết đau thương mới hay là tình.

Say đắm trong đời thì mới là yêu.

Tình như đớn đau.

Tình xé lòng nhau, muôn đời không lành.

Tình như ngất ngây.”

(Lời Việt Trường Kỳ – bđd)

Nói hoặc hát vào lúc khề khà phiếm Đạo hoặc lạo xạo những nói năng, là nói và hát cũng rất nhiều điều. Những điều như đấng bậc chóp bu nhà Đạo, từng nói về nhóm hội Đạo mình có những căn bệnh toàn những nói năng, cũng rất nhiều. Nhiều, ở chỗ: có những 15 căn bệnh hiểm nghèo cũng nghe quen. Nhưng hôm nay, thiết tưởng bạn và tôi cũng chỉ nên tập-trung vào một hai điều tiêu biểu gọi là “căn bệnh”, như sau:

“Lên tiếng trong dịp Giáng sinh 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh đến sự kiện Giáo triều Rôma tạo thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa. Ngài nói: “Giáo triều được kêu gọi cải tiến, và tăng trưởng tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng, cũng như thân thể con người, giáo triều cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê một vài căn bệnh có thể mắc phải, tức bệnh của giáo triều, là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ Chúa.

Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thay thế và lơ là kiểm điểm. Một giáo triều không tự phê, canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Nếu có cơ hội ghé thăm nghĩa trang, ta sẽ thấy tên của rất nhiều người, cả những người mà ta nghĩ họ bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế! Đó là bệnh của người thanh niên giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh cửu (Lc 12:13-21) và của những người trở thành chủ nhân ông, thấy mình cao trọng hơn ai hết, chứ không là kẻ phục vụ mọi người. Bệnh này xuất phát từ bệnh “cửa quyền”, tự cho mình là kẻ ưu-việt có thái độ tự-ái/vị-kỷ, say mê ngắm nhìn con người mình mà không thấy hình ảnh của Thiên Chúa hằn in nơi diện-mạo của người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng cực.

Thuốc chữa bệnh này là ân-huệ lành thánh biết mình là kẻ yếu kém nên thành tâm nói: “Ta chỉ là đầy tớ vô dụng. Ta làm những việc mình phải làm” (Lc 17:10). (trích phát biểu của Đức Phanxicô trong buổi tiếp kiến các vị lãnh đạo Giáo triều Rôma hôm 22/12/2014)

Bệnh, thì ai cũng mắc bệnh dù ít/nhiều, nặng/nhẹ, dù không chỉ và không phải là bệnh nói nhiều và hát nhiều. Nhưng vấn đề, là: ta có làm như người nghệ sĩ từng làm bằng lời hát, sau đây không thôi:

“Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời.

Tình như giông bão, dập vùi yêu thương

Tình như tiếng ca

Theo gió phương xa cho nhau lời chào.

Có biết đau thương mới hay là tình

Say đắm trong đời thì mới là yêu.

Đời không thiết tha vì có tình yêu,

Không còn là đời

Người không sót xa vì mất tình yêu

Không còn là người.”

(Lời Việt: Trường Kỳ – bđd)

“Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời”, ôi thôi, phải chăng đó là “thú yêu thương”, hay “thú đau thương”? Có thể cả hai đều có nghĩa và đúng ý. Thế nhưng, hãy cứ nghe câu hát cuối, hạ hồi sẽ rõ:

“Đời ta muôn kiếp đã trôi theo tháng ngày
Tình như khói sương bay thoảng trong mơ
Ngàn đời vu vơ…”

(Lời Việt: Trường Kỳ – bđd)

Có thể là, ca-từ ở trên diễn-tả nhiều ý-nghĩa trong nhiều trường, cũng rất hợp và rất trùng.

Có thể là, lời phát-biểu của đấng bậc trên cao ở nhà Đạo cũng khá trùng và khá hợp với trường-hợp của cơ-quan/chức-sắc nào đó trong nhà Đạo, chứ không chỉ mỗi Giáo triều Rôma, mà thôi.

Có thể là, ngôn-từ và ý-nghĩa của lời Đức “ngài” nói cũng làm đau nhói cơ-phận thể-lý của ai đó, rất con người.

Có thể là, Đức Phanxicô nói thay và nói giùm cho đấng bậc lành thánh nào đó từng căn dặn, nhắn nhủ bà con, anh chị em đồng Đạo/đồng thuyền rất chí tình như sau:

“Thật vậy,

tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt,

và không có gì phải loại bỏ,

nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ,

vì lời Thiên Chúa và lời cầu nguyện thánh hoá những thứ đó.

Nếu anh trình bày cho anh chị em những điều ấy,

thì anh sẽ là người phục vụ tốt của Đức Giêsu Kitô,

một người thấm nhuần lời đức tin

và giáo lý cao đẹp mà anh đã trung thành noi theo.”

(1Timôthê 4: 4-6)

“Và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri-ân, cảm tạ” phải chăng là châm-ngôn, tâm-tình và là thực tế cuộc sống ở đời, nhiều năng-nổ. “Vì lời Thiên-Chúa và lời cầu-nguyện thánh-hoá những thứ đó.”

Thật quá đúng, khi thánh-nhân còn nhấn-mạnh: “Nếu anh trình-bày cho anh chị em những điều ấy, thì anh sẽ là người phục-vụ tốt của Đức Giêsu Kitô”… Bởi, ta và người chỉ có thể bảo mình và bảo mọi người là kẻ phục-vụ tốt của Đức Giêsu Kitô, khi biết dùng lời nói hay tiếng hát “trong tâm-tình tri-ân, cảm tạ”.

Thật quá đúng, khi đấng bậc được gọi là Đức-thánh-là-Cha Phanxicô lại dám nói thêm căn bệnh thứ 7 khác, được gọi bằng danh từ “cạnh tranh và háo danh” với lời lẽ cũng rất thật, như sau:

“Khi cái vẻ bề ngoài, qua mầu áo và huy-hiệu sặc-sỡ trở-thành đối-tượng ưu-tiên của cuộc sống, lại quên đi lời thánh Phaolô từng dặn dò: ” Anh em đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”(Phillípphê 2: 3-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở-thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo. Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ “kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần-thế này, mà thôi.” (Philípphê 3: 19)

Xem như thế, kể cũng đúng. Bệnh cạnh tranh, kiêu hãnh và háo danh, vẫn là bệnh là tật của nhiều người, vào mọi thời. Không chỉ ở mỗi Giáo triều Rôma mà thôi, nhưng còn ở mọi đấng-bậc có quyền hành dù vẫn mang danh “đầy-tớ của các tôi-tớ Chúa” nơi Giáo-hội sở tại, rất địa phương.

Xem thế thì, căn-bệnh quái-ác kể trên còn gặp thấy ở nhiều người có quyền ăn quyền nói và quyền được hành kẻ thuộc cấp, rất bé mọn.

Xem thế thì, chỉ mỗi hai căn-bệnh quái-ác trên đây cũng đã làm kiệt quệ guồng máy cồng kềnh bảo là để phục vụ mọi người trong thánh hội, nhưng thực tế là như căn-bệnh cuối cùng trong danh-sách được liệt kê hôm ấy như sau:

“Sau cùng là bệnh “tìm kiếm lợi-lộc trần-tục và phô trương”.

Khi vị tông-đồ biến việc phục-vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng-hóa để kiếm tìm lợi-lộc phàm-tục được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia-tăng quyền-lực cách vô độ. Và, nhằm đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh-danh người khác, thậm chí cả trên truyền-thông/báo chí, dĩ nhiên chỉ để biểu-dương chứng-tỏ mình có khả-năng hơn người. Bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho chính bản thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện-minh/biện-hộ cho việc mình có thể sử-dụng bất kỳ phương-thế nào hầu đạt được mục tiêu mình đặt ra, thường họ nhân-danh công-lý và sự minh bạch. Ở đây, tôi nhớ đến linh mục nọ đã gọi các ký giả đến để kể cho họ một điều do chính vị linh-mục này bịa đặt về chuyện riêng tư của linh mục khác và của giáo dân. Linh mục này, chỉ muốn xuất-hiện trên trang nhất của báo-giới mà thôi; và như thế, đã thấy mình quyền-năng và chiến-thắng, nhưng lại tạo ra bao nhiêu đau khổ cho người khác và cho cả Giáo Hội nữa! Thật đáng thương!

Ngoài ra, Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn nhận xét rằng các căn bệnh và cám dỗ kể ở trên lại cũng là nguy cơ cho mỗi Kitô hữu, giáo xứ, cộng-đoàn, dòng tu, phong-trào đoàn-thể trong Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn, nữa”. (trích lời phát-biểu của Đức Phanxicô như đã dẫn)

Trích-dẫn ở trên, hôm nay, không để kể tội của ai đó nơi quyền cao chức trọng của Giáo-hội, nhưng chỉ để nói lên đôi điều như nhận-định của một người vừa chuyển cho nhau những điều hệ-trong trong cuộc sống, bằng lời lẽ như sau:

22 câu nói có thể làm thay-đổi cuộc đời của bạn. Bởi thế nên, xin bạn hãy chú ý học-tập mọi điều ở bên dưới, đặc biệt là 1, 2, 3 và 19 rất hay, cần chú ý:

  1. 1. Đồng tiền xu luôn gây ra tiếng động… nhưng tiền giấy lại luôn im lặng. Vì thế khi

giá trị của bạn tăng lên, hãy giữ cho mình luôn khiêm tốn và nói ít đi!

2. Càng nói ít, càng nghe được nhiều. – Alexander Solshenitsen

3.  Khi người khác hỏi những điều mà bạn không muốn trả lời, xin hãy cười và nói

“tại sao bạn lại muốn biết điều đó?”

4. Không ai cần đến một nụ cười nhiều như người không thể cho đi nụ cười.

5. Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần bị vấp ngã!

6. Rất nhiều người không dám nói lên những gì họ muốn. Đó là lý do tại sao họ không có được chúng.- Madonna

7. Khi trưởng thành, tôi ngày càng ít quan tâm đến những gì mọi người nói. Tôi chỉ xem những gì họ làm được.– Andrew Carnegie

8. Kiên trì làm việc tốt sẽ mang lại nhiều thứ. Như mặt trời có thể làm tan băng, lòng tốt có thể làm bốc hơi sự hiểu lầm, hoài nghi và thù địch.- Albert Schweitzer

9. Cuộc sống giống như một cuốn sách. Một vài chương khá buồn, một số chương hạnh phúc và một số chương rất thú vị. Nhưng nếu bạn chưa bao giờ lật thử một trang bạn sẽ không bao giờ biết được những gì ở chương tiếp theo!

10. Bạn có thể kết bạn được nhiều hơn trong vòng hai tháng bằng cách quan tâm đến người khác hơn là hai năm cố gắng bắt người khác quan tâm đến bạn. – Dale Carnegie

11. Tình bạn là một tâm hồn trú ngụ trong hai cơ thể. – Aristotle

12. Tôi tiến bộ bằng cách ở cạnh với những người tốt đẹp hơn mình và lắng nghe họ. Và tôi giả sử rằng mọi người đều tốt đẹp hơn tôi ở một mặt nào đó.– Henry J. Kaiser

13. Tranh cãi với một kẻ ngốc sẽ chứng minh rằng có hai kẻ ngốc.– Doris M. Smith

14. Những người làm việc cùng bạn phản ánh chính thái độ của bạn.- Beatrice Vincent

15. Đừng quá khắt khe với chính mình. Thậm chí những sai lầm cũng có nghĩa là bạn đang cố gắng!

16. Không có hành động tử tế nào, dù nhỏ, lại bị xem là lãng phí.– Aesop

17. Bất luận lúc nào khi bạn nghe điện thoại, khi nhấc điện thoại lên xin bạn hãy cười lên, vì đối phương sẽ cảm nhận được nụ cười của bạn!

18. Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó!- Bill Gates

19. Lưỡi không xương nhưng đủ cứng để làm vỡ nát một trái tim… vì thế hãy cẩn thận với ngôn từ của bạn!

20. Đừng bao giờ cố giải thích con người bạn với bất cứ ai. Vì những người tin bạn không cần điều đó, còn những người không thích bạn sẽ không tin lời bạn đâu!

21. Nhu cầu cơ bản nhất của con người là nhu cầu thấu hiểu và được thấu hiểu.- Ralph Nichols

22. Hãy ghi nhớ 3 điều: Cố Gắng, Kiên Định, Tin Tưởng. Cố gắng cho một tương lai tốt hơn,  KIÊN ĐỊNH với công việc, TIN TƯỞNG vào bản thân. (trích từ điện thư bạn bè gửi cho nhau, đến quá nhiều)

Hôm nay đây, bần đạo có trích dẫn nhiều, cũng chỉ để đề-nghị với bạn và tôi, ta cứ hiên ngang mà hát mãi lời ca ở bên dưới làm lời cuối cho nhau hầu kết-luận đôi giòng chảy lững lờ một chuyện phiếm rất hững hờ rằng:

“Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời.

Tình như giông bão, dập vùi yêu thương

Tình như tiếng ca

Theo gió phương xa cho nhau lời chào.

Có biết đau thương mới hay là tình

Say đắm trong đời thì mới là yêu.

Đời không thiết tha vì có tình yêu,

Không còn là đời

Người không sót xa vì mất tình yêu

Không còn là người.”

(Lời Việt: Trường Kỳ – bđd)

Quả thật rất đúng. “Tình đến cùng nhau, mang nhiều tuyệt vời!” cũng giống hệt như câu nói của ai đó, hình như là thánh Augustinô đại để vẫn cứ bảo: “Hãy yêu nhau đi, rồi muốn làm gì thì làm”. Nói thế là bởi, tình yêu con người sẽ làm nên nhiều điều rất tuyệt vời. Ở mọi nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn công-nhận

những chuyện như thế

ở đời mình.

Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,

Hạt răng đều chới với đứa ngồi trông”.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mai Tá lược dịch

Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát. Hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc, như bài hát ở các xứ Đạo nói tiếng Anh vẫn ca vang: “How Great Thou Art” nghe chưa được chuẩn cho lắm. Chí ít, là tiểu khúc 3 như tác giả dẫn ý: “Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau” vẫn cứ là. Là, Con Một Hiền lành theo cõi chết, Ôm trọn tội người, trọn ý Cha.

Vâng, tiểu khúc trên, dù mang cả một truyền thống ý nghĩa, vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như hành động chuộc tội, do Cha muốn.

Nhận định như vậy, tức bảo: khổ đau và sự chết của Giêsu Đức Chúa lại là giá chuộc mạng mà Ngài đã thanh trả cho bọn xấu, để ta có thể chia xẻ sự sống với Cha. Như chọn lựa, cái chết của Đức Giê-su phải được coi như hành động duy nhất làm Cha nguôi giận về tội người. Chính vì thế, mà Cha vẫn tiếp tục thương yêu loài người như khi trước.

Nghe nhạc ướt át như thế, đôi lúc làm ta sợ. Có lẽ, nên kiểm xem lời ca ý nhạc, có chuẩn hợp với nền thần học ta được dạy, không. Một đằng, thần học khẳng định rằng: tình thương yêu đặc biệt Chúa ban, rất cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, ngang qua mọi thăng trầm của cuộc sống, khi vui lúc buồn.

Đằng khác, khi hát, ta kể nhiều về nỗi khó khăn, buồn phiền mà Đức Giê-su gánh chịu. Xem như thế, há chẳng phải ta chủ trương: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao dung, vẫn đẩy Người Con Thân Yêu vào nỗi chết, có tủi nhục? Há ta coi đây như phương cách duy nhất khiến Ngài hài lòng, sao?

Áp dụng vào xử án, đôi lúc cũng nên hỏi: quan án có để cho đương can vô tội chết lặng trong lỗi phạm? Và như thế, Đức Chúa, vị Quan Án Tối Cao, có quyền bính gì trên sự dữ/ác thần, chăng? Đây là cách duy nhất để Ngài kiểm nghiệm sự hy sinh cao cả của Con Yêu Dấu của Ngài, sao?

Các vấn nạn ấy, gây ảnh hưởng lên đời sống đức tin của người đi Đạo. Đôi lúc, điều này làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay thường được nhắc nhớ, rằng: Chúa trên cao vẫn thương mọi người, dù cho con người có lầm lỡ, lỗi phạm nhiều điều.

Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, trong nhiều trường hợp, việc ấy không do họ. Mà, do người khác đối xử không theo lẽ Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người”, lạ kỳ, buồn bã. Người khác đây, vẫn là người biết nhiều, hiểu nhiều.

Nhưng, đứng ở góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình cho rằng: Đức Kitô là nạn nhân của thánh ý Cha. Khi Ngài chấp nhận khổ đau, và nỗi chết. Hiểu như thế, tức cho rằng: Cha vẫn muốn có hy sinh. Vẫn muốn chuộc mạng, để đổi chác lấy tội con người, hòng tha thứ?

Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ nhận rằng: mình là nạn nhân của Chúa, không chừng. Nếu Cha muốn Đức Kitô phải khổ và chết, thì phía ta, sao lại buồn khi lĩnh nhận thánh giá tưởng-chừng-như-là-quá-nặng?

Suy tư theo chiều hướng này, sẽ thêm nghi ngờ, là bài Thương khó thánh Mác-cô ghi lại, có thể đã nhấn mạnh tính miễn cưỡng của Chúa khi Ngài chấp nhận khổ ải. Quả là, thánh sử có nhắc việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo, túi cơm. Làm bạn với bọn phản phé. Làm thầy những người chối bỏ sự thật, bỏ của chạy lấy người… Nhưng không thể hiểu như thế. Không thể theo khuynh hướng này.

Bằng không, sẽ có người ngờ: thánh Mar-cô ám chỉ Chúa hoảng sợ trước cái chết ô nhục, gần kề. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng “Lạy Cha”, tức là Ngài kêu lên lời ai oán để cứu mình khỏi cơn buồn phiền, sao? Cuối cùng, hiểu theo chiều hướng này, sẽ có người nghĩ rằng: Đức Kitô nhận “làm theo ý Cha”, nhưng phút cuối, vẫn thấy như mình bị bỏ rơi trên thập giá? Không. Đó không phải là thần học.

Suy cho kỹ, hiểu theo các chiều hướng này, chắc chắn có sai sót. Đọc kỹ, đoạn Chúa chấp nhận thánh ý Cha tại Vườn Âu Sầu, thay vì hiểu theo hướng xấu, đổ riệt mọi lỗi cho Cha, có lẽ nên coi đây như một khẳng định. Khẳng định rằng: Đức Kitô một lòng chung thuỷ với đường lối Ngài tuân theo, trong hành xử với Cha. Với con người. Ngài vẫn một mực tuân phục Cha. Tuân phục đến chết. Vẫn thương yêu con người, và yêu thương đến hơi thở cuối cùng.

Có thế, Đức Kitô mới trấn át giới chức đạo-đời, thời bấy giờ. Ngài qui chiếu khẳng định nòng cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được, ngoài chuyện ra tay ám hại Ngài. Xem thế, qua việc chấp nhận cái chết trong tuân phục, Ngài hy sinh đến phút cuối. Ngõ hầu chứng tỏ cho mọi người thấy: Ngài thương yêu loài người đến cùng.

Điều này cho thấy: Chúa đã sống thực. Sống tư cách rất “người”. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền lực đen tối sự dữ/ác dẫn đến nỗi chết về thể xác. Chết rất nhục.

Hôm nay, có kinh qua thống khổ của thập giá; và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá phải trả, khi giáp mặt thực trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu cầu của Vương Quốc Nước Trời. Vương Quốc bình an và công chính.

Tuần thánh năm nay, ta cử hành tuyên xưng mầu nhiệm sống xứng hợp Đạo. Bằng vào cử hành tưởng niệm sự sống, nỗi chết và sự sống lại của Chúa, ta cầu mong được chuyển thể từ tâm trạng sai lầm -nghĩ mình là nạn nhân do Chúa muốn ta hy sinh, đau khổ- để tiến tới trở thành kẻ có ý thức chọn lựa. Chọn lối sống mẫu mực yêu thương của Chúa, Đấng suốt đời trung thành, thuỷ chung. Trung thành trong thuần phục. Thuỷ chung trong thương mến.

Cầu và mong, cho ta biết trân quý sự sống. Vì, có trân quý, ta mới thực sự từ bỏ thái độ tiêu cực của những người luôn nghi kỵ, chống đối. Chống Vương Quốc Nước trời, ở trần gian. Ở đây. Bây giờ. Cầu và mong, ta dõi bước chân mềm của Chúa. Biết rập khuôn bắt chước lối sống thuỷ chung, trong hành xử giữa Cha và Con. Dù, sự việc có xảy đến thế nào, đi nữa. Dù, đường đời còn lắm gian nan, khổ ải.

Bởi, có Đức Kitô là mẫu mực cho sự thủy chung, tuân phục, thì dù gặp muôn vàn khổ ải đến cùng cực, ta vẫn cứ đầu cao mắt sáng, hiên ngang lên mà chúc tụng. Chúc tụng Ngài, cả vào lúc cộng đoàn kẻ tin đang sầu buồn, than khóc ngày Chúa chịu khổ nạn. Bởi, với người dõi bước theo Chúa, sẽ chẳng có gì là tang tóc. Khóc than. Tất cả, vẫn là yêu thương. Đồng cảm.

Đạo Chúa là Đường dẫn ta đi. Đi vào đời, còn lắm gian nan. Nhưng không nhuốm mầu tang chế. Nghĩ thế rồi, ta cứ thế mà hát hò rong chơi với những lời như thi sĩ từng hát xướng để rồi vào cuộc tưng bừng đón rước Đấng Mêshia hoà mình với muôn người, rằng:

“Hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ,

Hạt răng đều chới với đứa ngồi trông”.

(Nguyễn Tất Nhiên – Bài Đầu Năm Tình Yêu)

Nở nụ cười cả vào lúc chay kiêng, tịnh khẩu để nguyện cầu ngày Chúa đi vào với Lễ Vượt Qua nóng bỏng, đầy thách thức. Nở nụ cười, suốt đời người dù đau đớn, thống khổ để rồi sẽ “Vượt Qua” như Đấng Mêsia hoàn-tất ý-định của Thiên-Chúa-là-Cha rất thương yêu, đợi chờ trong vui cười, suốt một đời.

Lm Richard Leonard sj –

Mai Tá lược dịch

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

dongten.net

Là một giáo sĩ Hồi giáo, Mario Joseph thành thạo kinh Koran và trong giáo lý của đạo Hồi. Thực tế, chính kinh Koran đã đưa anh đến một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và với chân lý của đức tin Công giáo. Nhưng cuộc cải đạo của anh không phải dễ dàng, và vì nó mà anh đã trải qua những cuộc bách hại khắc nghiệt Làm thế nào anh đạt được tình yêu mãnh liệt với Thiên Chúa, Giáo Hội, Thập Giá và Thiên đàng?

httpv://www.youtube.com/watch?v=N-78Nwboka0

Mario Joseph

https://www.facebook.com/pages/Mario-Joseph/1524660227763417

SÓNG VÀ BỜ….

SÓNG VÀ BỜ….

Thầy kính mến!

Con đang sống trong tâm tình của mùa chay.  Con đang suy niệm về tình yêu cao cả mà Thầy đã và còn đang ban tặng cho con.  Tình yêu của Thập Tự đã chưa một lần kết thúc, bởi vì tình yêu ấy vẫn còn dở dang.  Tại sao tình yêu ấy vẫn còn dang dở ư?  Cũng bởi vì mối duyên tình sâu thẳm ấy vẫn đang được trao ban từng giây, từng phút trong cuộc sống của con đây.  Một mình lang thang dọc bên bờ biển dài, tâm tư con ngẫm suy về mối tình thiêng liêng cao quý ấy.  Con thấy mình bỗng dưng hạnh phúc dâng trào.

Con ngắm nhìn kỳ công của Đấng Tạo Hoá, con xin thú nhận rằng con chẳng có thể tìm nổi từ ngữ nào để diễn tả hết sự thán phục của con về vẻ đẹp của tạo hóa.  Còn đẹp hơn biết bao nhiêu Người đã tạo ra chúng.  Chưa bao giờ con thấy vốn từ của con lại nghèo nàn như bây giờ.  Nhưng con biết chắc một điều, Chúa tạo nên tất cả  vạn vật cho chúng con được làm chủ.  Một tình yêu cho đi một cách nhưng không.

Con viết vài chữ trên mặt cát trắng.  Có con sóng kia sô bờ, xoá sạch mọi tì vết.  Rồi sóng ra xa, chỉ còn lại một bãi cát trắng tinh tuyền không để lại bất kỳ một dấu tích nào của những gì con vừa viết lên cát.  Con chợt ngộ ra, mối tình giữa Thầy và con cũng như sóng và bờ cát trắng vậy.

Con – Chúa tạo nên con tinh tuyền như bờ cát trắng.  Năm tháng dài, con quên mất mối tình xưa.  Con đeo bám theo những đam mê của xác thịt con.  Con làm cho bờ cát tinh tuyền ấy trở nên ố mờ.  Bờ cát trắng nay đã vẩn đục.

Thầy – như là những ngọn sóng yêu thương vẫn ngày đêm chung thuỷ vỗ về, mời gọi con gội sạch tội đời.  Rồi ngày kia khi con đến bên toà giải tội.  Thầy, như một con sóng lớn ôm trọn lấy, không phải để huỷ diệt nhưng là để thanh tẩy, để ôm lấy con – bờ cát trắng đã uế màu vì tội lỗi.

Thầy yêu mến!  Dù bờ cát trắng như con có bị hoen úa vì tội lỗi, mặc dầu con đã viết lên bờ cát trắng ấy đủ các thứ tội, nhưng tình yêu của Thầy cao cả và bao dung như đại dương đã hoá thân thành những ngọn sóng để ôm lấy, để thanh tẩy, để xoá đi mọi ngăn cách, để mặc lại cho con chiếc áo tình tuyền của thuở ban đầu.  Con xin cảm tạ mối tình sâu thẳm từ muôn thuở ấy.  Xin cho con trong mùa chay này nhận ra rằng tình yêu không bờ bến của Chúa như là những con sóng lớn đang dang rộng để ôm lấy con, để yêu con, để tha thứ tội lỗi con.   Xin ban cho con luôn dìm mình trong bể lớn tình yêu của Thầy.

Gửi Thầy Giêsu yêu mến của lòng con,

Con Dom Stone