“Xuân vương trên ngàn hoa,”

 Xuân vương trên ngàn hoa,”

nhắc bao sầu nhớ mơ màng
mây buông trong chiều vắng

như luyến tiếc giấc mơ đã tàn
nhớ dưới xuân năm nào

lòng say ước mơ sống trong mộng vàng.”

(Hoàng Bách – Nhớ Bạn)

(1Cor 1: 10-13)

 Trần Ngọc Mười Hai

Có lúc buồn, bọn tôi thường nhớ nhiều đến nhạc bản “Nhớ Bạn” do ca sĩ có giọng trầm buồn rất dễ thương là: Sĩ Phú. Nghe Sĩ Phú hát, bọn tôi thường mường-tượng về buổi thính-phòng nào đó, trong quá khứ. Có thể là phòng-trà “Đêm Mầu Hồng” hoặc quán “Ritz” ở Sàigòn thập-niên 1960s lúc thị thành còn sôi-động.

Giọng trầm và ấm của Sĩ Phú vẫn đưa lòng người về với nhớ nhung. Nhớ rất nhiều, là đám bầu bạn thân-thương thuở cắp sách đến trường. Nhớ, bạn cùng trang-lứa có những ngày trốn học rủ nhau đi Xinê, nghe nhạc hoặc tìm nơi chuyện trò cũng dễ thương. Nói chung, bọn tôi “Nhớ Bạn” cũng rất “khủng” tưởng chừng như sẽ không còn gặp lại nhau, bao giờ nữa.

Quả, như lời bài hát vẫn đưa bọn tôi vào chốn thân quen bàng bạc một tình-tự, như sau:

“Chiều nay niềm ái ân xưa

tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương

lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương.

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa,
Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt,
muôn đường tơ vương,
sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.

Bóng dáng xa khuất ngàn

trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương
cung đàn lỡ bao nhịp

luyến thương đường đời vạn nẻo
nhuốm mối đau thương
nhớ phút giây êm đềm say đắm
tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng
xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa
lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”

(Hoàng Bách – bđd)

Nỗi nhớ niềm thương ở đời, là như thế. Niềm thương/nỗi nhớ đầy ân-huệ ở nhà Đạo, lại khác thế cũng rất nhiều. Khác, như vừa rồi ở trời Tây bên ấy, đã có đấng bậc nọ từng dẫn-giải tình-tự đầy tiếc nuối, như sau:

“Hôm ấy, nhân kỷ-niệm 500 năm cải-cách của giới Thệ-Phản, lm Raneiro Cantalamessa có nói rằng: lãnh-đạo Kitô-giáo phải tập-trung nhiều hơn vào niềm tin mình đang san-sẻ hơn là cãi-tranh nhau về công-thức đạo-lý/tín-điều. Linh mục này có nói:

Cùng lúc có các cuộc bàn-luận về tín-lý, ta phải có cuộc đại-kết giáp-mặt riêng tư thân-thiện và hòa-hợp tâm-can, thì tốt hơn. Bởi, có như thế ta mới lôi kéo cộng-đồng Đạo Chúa xích lại gần nhau hơn như đã xảy ra trong vài thập-niên vừa qua. Lâu nay, giữa người Công-giáo và Thệ-Phản vẫn có xung-đột dựa trên nền-tảng không hiểu rõ ràng thông-điệp của thánh Phaolô về những sự việc như thể để biện minh cho mình luôn là đúng.

 Khi xưa, thánh Phaolô tông-đồ, qua thư Rôma ở chương 3, chỉ muốn khẳng-định rằng những gì ta biện-minh/bào-chữa cho chính mình bằng niềm tin chính là biện-minh niềm tin vào Đấng Kitô. Thường thì, ta cũng không mấy đặt nặng việc mình bào chữa nhờ ân-huệ cho bằng nhờ ân-huệ do Đấng Kitô ban cho ta. 

Bằng vào việc tin-tưởng vào Đấng Ki-tô, người Công-giáo cũng như Thệ-Phản mới có thể lướt thắng khác-biệt của nhau. Nay, không còn chiến-tranh tôn-giáo giữa người Công-giáo và Thệ-Phản nữa rồi. Nên, cần nghĩ đến những việc tốt đẹp nào khác để làm hơn là cãi-vã hoặc tranh-luận với nhau nữa. (x. phần tin: Focus on beliefs, not doctrine, says papal preacher, trên The Catholic Weekly này 27/3/2016, tr. 12) 

Nếu cứ xét chuyện đạo-lý thần-học trong Giáo-triều đầy quyền-bính, hẳn là người Đạo Chúa sẽ thấy rằng: mọi sự trong Đạo không phải lúc nào cũng mang dáng-dấp mầu hồng, bao giờ hết. Đó, còn là ý-tưởng được Đức Giáo Tông nói lên vào một buổi triều-yết có giảng-giải ở Rôma, được các phóng-viên ghi lại qua tiêu-đề là Nhưng bên trong Giáo hội, con đường không đầy màu hồng với Đức Phanxicô” như sau:

Lúc Đức Bênêđictô XVI thoái vị, Giáo triều Roma, nội các của giáo hoàng với các hồng y và giám mục điều hành thể chế Giáo hội ở trong cơn khủng hoảng. Các tin đồn về nạn đấu đá và vấn đề tài chính đáng ngờ đang nhan nhản. Quản gia riêng của Đức Bênêđictô đã phản bội ngài, ông tiết lộ các tài liệu nội bộ cho truyền thông. 

Trong những ngày trước khi xảy ra mật nghị hồi tháng ba năm 2013, các hồng y, những người chịu trách nhiệm trong việc bầu giáo-hoàng ý-thức mình phải làm gì đó. Vatican cần một người đến từ bên ngoài, một người không ngại lay chuyển mọi sự và đưa nhà Giáo hội vào trật tự. Người đó, tất nhiên, là Đức Giáo hoàng Phanxicô. 

Được bầu lên như một nhà cải cách ở tuổi 76, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhận ngai tòa Phêrô với ý thức rằng mình không có nhiều thời gian để tạo nên sự khác biệt. Nên ngài vận động nhanh chóng, lập các văn phòng mới để quản lý tình trạng tài chính khó kiểm soát của Vatican. Ngài giới hạn quyền lực của Giáo triều bằng cách lập nhóm chín hồng y cố vấn, họp thường xuyên để định hướng công việc. Và ngài cắt bớt vây cánh của những người đối lập muốn tìm cách phá hoại các nỗ lực của ngài. 

Là những con người của Chúa, các hồng y và giám mục đột nhiên bị tước quyền này, họ nuốt kiêu hãnh xuống và cùng chung sức làm việc với Đức Phanxicô, lãnh đạo mới của mình. Nhưng không phải ai cũng thế. Một số không đi chung đường với Đức Phanxicô, họ mở một chiến dịch xì xào với đủ kiểu đàm tiếu và ước-đoán, để làm giảm giá trị các cải cách của Đức Giáo hoàng. Những lời ám chỉ, tin đồn, và dối trá trắng trợn mà một vài cấp lãnh đạo trong Giáo hội đã tiết lộ cho truyền thông làm Vatican phải hổ thẹn.

 Một trong những người cốt cán được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Ngân hàng Vatican, bị cáo buộc là có quan hệ đồng tính. Về sau, trong Hội đồng Gia đình, các giám mục có cảm tình với cải cách tự do trong Giáo hội bị cáo buộc là hấp tấp phát hành một báo cáo hội đồng với ngôn từ thân thiện với những người đồng tính và những người ly dị rồi tái hôn.

 Lại có lời đồn rằng phòng thư từ Vatican đã không chuyển các quyển sách mang tính bảo vệ giáo huấn của Giáo hội hiện thời cho các thành viên hội đồng. Khi các cải cách tài chính của Đức Giáo hoàng được đẩy lên cao độ, thì nhân vật cốt cán được ngài giao phó kiểm tra chuyện tiền bạc, bị đồn là tiêu xài hoang phí cho trang trí văn phòng và trang phục. Đàm tiếu đang hung hăng vượt lên, muốn diệt các đồng minh của Đức Phanxicô. 

Một hồng y người Mỹ có uy-thế ở Vatican, trở thành biểu tượng cho những người nghi ngờ cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng. Hồng y này nói là “nhiều” người bày tỏ “quan ngại” về Đức Giáo hoàng Phanxicô.

 Trong buổi phỏng vấn ngày 30 tháng mười, với tờ báo Công giáo Tây Ban Nha Vida Vueave, hồng y này nói, “có một suy nghĩ mạnh cho rằng giáo hội như con thuyền không bánh lái.” Ông nói rằng đây không phải là cảm giác của riêng ông, nhưng là của một người khác, với ý muốn làm rõ là những người chỉ trích Đức Giáo hoàng sẽ có một đồng minh mạnh ở Roma.

 Chuyện này không kéo dài lâu. Khoảng một tuần sau, ông bị đẩy khỏi vai trò lãnh đạo Tòa Thượng Thẩm, và được bổ nhiệm vào một vai trò mang tính hình thức là tuyên úy cho Hội Hiệp sĩ Malta. Trường hợp đặc biệt này cũng là trường hợp cực đoan nhất, khi một hồng y đầy uy-thế công-khai chất vấn cương vị lãnh đạo của Đức Giáo hoàng và không lâu sau bị thuyên chuyển chức vụ, nhưng không phải là duy nhất.

 Một giám mục Hoa Kỳ nói rằng Đức Phanxicô đang hạ bệ những người Công giáo bảo thủ. Một hồng y khác chất vấn không biết Đức Giáo hoàng có thực sự hiểụ được các bài diễn văn và bài giảng của ngài có tác động toàn cầu thế nào hay không. Và nhiều linh mục cũng như giáo dân, tiếp tục tỏ ra khó chịu mỗi khi Đức Phanxicô bỏ qua bài soạn sẵn, mà nói tự phát, từ trái tim và làm cho báo giới tốn nhiều giấy mực.

 Vài người ở Vatican nghĩ, cách tốt nhất để chống lại các thay đổi của Đức Giáo hoàng là làm rò rỉ thông tin và nói bóng gió cạnh-khoé để loại trừ các đồng minh của Đức Phanxicô. Những chiến thuật này thường được các chức-sắc muốn giữ ghế áp dụng, và đôi khi bất chấp tác hại của nó với công việc phúc âm hóa. Đức Phanxicô đã có một thông điệp gởi đến các giám mục này: hãy thôi đi.

 Các câu tweet của Đức Giáo hoàng về ngồi lê đôi mách cũng giống như “quả trứng Phục Sinh” với nhiều ẩn nghĩa mà tôi đã mô tả trong chương trước, và thực sự có tác động đến những người này. Chỉ có hai tweet trực tiếp nói về thói đàm tiếu, nhưng khi hiểu được những gì sau màn ảnh, chúng ta thấy đây là cú đấm mạnh hơn nhiều.

 Đức Phanxicô muốn các giám mục hãy thôi ám ảnh về quyền lực và danh tiếng của mình, và phải biết đi vào trong thế giới. Chặn đứng thói đàm tiếu là một trong các bước đầu tiên của ngài. Nhưng ngài không tweet về đàm tiếu chỉ để chấn chỉnh hàng ngũ (dù chắc chắn là chúng có tác động tốt này). Nhưng ngài muốn mỗi một tín hữu biết noi gương Chúa Giêsu hơn nữa, mà chuyện đàm tiếu lại kéo chúng ta đi ngược lại con đường này.

 Cuộc Cách mạng Phanxicô không diễn ra với những thay đổi lớn trong giáo huấn của Giáo hội, hay bán các tác phẩm nghệ thuật vô giá để lấy tiền phát cháo cho người nghèo. Nhưng cuộc Cách mạng Phanxicô sẽ đến khi các tín hữu bắt đầu sống giống Chúa Giêsu hơn, từ những giáo dân bình thường cho đến các hồng y cao cấp của Giáo triều.”

Muốn diễn-đạt tình-trạng sống Tin Mừng ở nhà Đạo, theo cách người ngoài đời vẫn làm, tưởng cũng nên quay về với truyện kể ngắn gọn nhưng bàn về “cái thâm thúy của người xưa”, từng sống đời thực-tế như sau:                                                                                                        

 “Cao nhân chân-chính, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại.

 Thế nào gọi là cao nhân? Tương truyền, Tả Tông Đường rất thích chơi cờ vây, hơn nữa còn là một cao thủ, gần như không có ai là đối thủ của ông.

 Có một lần, Tả Tông Đường cải trang trước khi xuất chinh đánh trận, trên đường bỗng nhìn thấy một ngôi nhà tranh, trên xà nhà có treo tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ”. Tả Tông Đường thấy thế thì trong lòng không phục, liền đi vào trong để cùng chủ nhân ngôi nhà đánh ba ván cờ.

 Vị chủ nhà đánh ba ván đều thua, Tả Tông Đường cười nói: “Ông nên tháo tấm biển kia xuống đi!” Nói xong, Tả Tông Đường tràn đầy tự tin, cao hứng bừng bừng mà rời đi.

 Không lâu sau, Tả Tông Đường thắng trận trở về, lại đi ngang qua ngôi nhà ấy, thấy tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ” vẫn chưa được gỡ xuống, Tả Tông Đường tức giận đi vào trong nhà để cùng vị chủ nhân tỷ thí ba ván cờ nữa.

 Lần này, Tả Tông Đường thua cả ba ván. Tả Tông Đường vô cùng kinh ngạc, liền hỏi vị chủ nhân tại sao lại như vậy. Vị chủ nhân đáp:

 -Lần trước, ngài tuy mặc thường phục nhưng ta đã sớm biết ngài là Tả Công, ngài mang trên mình nhiệm vụ đánh giặc, ta không thể dập tắt nhuệ khí chiến đấu của ngài. Lần này, ngài đã chiến thắng trở về, ta đương nhiên toàn lực ứng phó, việc đáng làm thì ắt phải làm, không thể nhượng bộ!

 Cao thủ chân chính trên thế gian, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại, ấy là vì có tấm lòng khiêm nhượng, thiện tâm với người.

 Cuộc sống chẳng phải là như vậy sao? Thông minh không nhất định là có trí tuệ, thế nhưng trí tuệ thì nhất định bao quát thông minh. Người thông minh tâm nặng chuyện được mất, người trí tuệ có thể dũng cảm xả bỏ. Tai thính thật sự thì có thể nghe được tiếng lòng, mắt sáng thật sự thì có thể nhìn thấu tâm linh.

 Chứng kiến, không có nghĩa là nhìn thấy.

Nhìn thấy, không có nghĩa là nhìn rõ.

Nhìn rõ, không có nghĩa là hiểu được.

Hiểu được, không có nghĩa là hiểu rõ.

Hiểu rõ, không có nghĩa là đã thông suốt.

 Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Không có văn hóa thì thật đáng sợ!”. Thế nhưng “văn hóa” ấy rốt cuộc là gì? Là bằng cấp hay kinh nghiệm? Hoặc sự từng trải? Câu trả lời: tt cả đều không phải! Ngày hôm nay, coi như chúng ta đã được thấy một lời giải thích thuyết phục, “văn hóa” ấy chính là biểu đạt bởi bốn điều sau đây:

 1.Đào sâu vào tu dưỡng nội tâm.

2.Tự giác không cần nhắc nhở.

3.Lấy ước thúc làm tiền đề cho tự do.

4.Suy nghĩ lương thiện vì người khác.  (Dịch giả: Minh Nữ)

 “Văn hóa” nhà Đạo, nay cũng thế. Cũng có khi, người nhà Đạo quyết-chí đào-sâu tu-dưỡng nội-tâm. Cũng có lúc, hơi bị “chểnh mảng” đi chệch ra ngoài mục-tiêu và mục-đích do Đạo đề ra. Thế nên, cũng phải tự-giác, lấy ước-thúc làm tiền-đề cho tự-do và suy-nghĩ lương-thiện vì người khác.

Nhà Đạo mình, nhiều lúc cũng quên đào sâu tư-tưởng và chiều-hướng được nhấn mạnh ở lời vàng thánh kinh, nên mới thế. Đào sâu tư-tưởng ở thánh kinh, ta sẽ thấy đấng thánh nhân hiền từng bảo rằng:

“Tôi khuyên tất cả anh em

hãy nhất trí với nhau

trong lời ăn tiếng nói,

và đừng để có sự chia rẽ

giữa anh em,

nhưng hãy sống hoà thuận,

một lòng một ý với nhau.”

(1Cor 1: 10-13)

Như thế có nghĩa: chuyện chia rẽ giữa anh chị em cùng thờ một Chúa, là chuyện thường ngày ở huyện từng xảy ra trước đây, ở Corintho6 và nhiều nơi khác. Xảy ra, là bởi vì người cùng một Đạo Chúa hay đạo làm người đã không còn biết sống hòa-thuận/một lòng một ý với nhau, như được khuyên.

Như thế tức là, ở mọi thời đều có những vấn-đề cần giải-quyết. Cả vấn đề sống đạo hoặc giữ gìn lời nói với nhau, trong mọi sự.

Nói như thế, tức là mọi chuyện xung khắc xảy ra trong đời người, phần lớn là do lời nói, tư-tưởng hoặc lối đối xử không nhất trí theo cùng một tinh-thần nương-tựa giùm giúp và sẻ san điều hay điều tốt với nhau, mà thôi.

Trong nhận thức rất như thế, nay mời bạn và mơi tôi, ta lại cất lên tiếng hát trích-dẫn ở trên để nhớ đời, rồi sống. Hát, là hát những lời như sau:

“Chiều nay niềm ái ân xưa tìm đến bên ai

kể nỗi nhớ thương lời thề cùng cánh hoa rơi

tàn úa bên song dưới ánh tà dương.

Xuân nay bao sầu nhớ xuân xưa,
Tiếc mối tình phai hương đan lòng hầu dứt,
muôn đường tơ vương,
sầu vương áng mây bao nhuốm màu tang.

Bóng dáng xa khuất ngàn

trùng dương nhớ nhung càng suy lòng vấn vương
cung đàn lỡ bao nhịp luyến thương đường đời vạn nẻo
nhuốm mối đau thương
nhớ phút giây êm đềm say đắm
tiếc bao giờ mơ màng dưới trăng
xa kìa bướm ong đùa cùng với muôn hoa
lòng mơ ước thầm ai say hòa nhân duyên.”

(Hoàng Bách – bđd) 

Trần Ngọc Mười Hai

Có những lúc những thời

Vẫn liên-tưởng

đến những khó khan

trong đời đi Đạo

vốn dĩ là thế.  

“Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,”

 “Lòng ta tha-thiết đượm tình yêu,”

Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều.

Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,

Phút giây chừng mỏi gót phiêu-lưu.”

(Dẫn từ thơ Thế Lữ)

 Mai Tá lược dịch.

Phiêu-lưu, mạo-hiểm mòn bước chân, là chuyện đã đành. Phiêu-bạt đây đó làm chứng cho Lời của Chúa đâu nào thấy mỏi. Phiêu-lưu lên đường rao truyền Lời Chúa là bổn-phận Chúa vẫn kêu mời, từ ngàn xưa.

Trình thuật Lời Chúa hôm nay, mở cho thấy khoảnh khắc rất quan trọng, trong cuộc đời Đức Kitô. Gần đến ngày Ngài được cất nhắc về cùng Cha, Đức Giê-su cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Với Tin Mừng thánh Luca, Giêrusalem là điểm tập trung toàn bộ cuộc đời của Chúa. Toàn bộ tập trung, vì đây là nơi chốn Ngài hoàn thành công trình cứu độ. Và, cũng từ Giê-ru-sa-lem, công trình của Ngài lan rộng khắp mọi nơi, trên thế giới.

Quyết lên đường, Đức Giê-su đưa ra mẫu mực thử thách đến với ta, để ta tham gia công trình hầu chấp nhận làm mọi việc được ủy thác. Điều trớ trêu, là: ngày Ngài lên đường vào làng Samaritanô, nhiều người ở đây không tiếp nhận Ngài. Và, Ngài đi Giêrusalem, là để chấm dứt tình trạng rẽ chia, đang lan tràn. Ngài quyết phá đổ mọi rào cản chia cách mọi người. Và, đem bình an và hòa hợp đến với mọi người.

Tin mừng “đi Giêrusalem”, nhắm vào trọng tâm ý nghĩa của Tiệc Thánh, thời buổi này. Tin Mừng cũng nhằm vào sự đáp trả của mỗi người trong ta, khi Chúa kêu mời cùng Ngài lên đường. Thấy Ngài lên đường, nhiều người cũng muốn đi theo như vẫn thấy dẫy đầy ngày hôm nay. Vẫn thấy, nhiều người trong cộng đoàn dân con Đức Chúa, chỉ biết đi là đi. Chứ chẳng hiểu tại sao lại “đi Giêrusalem”. Đi như thế, có ý gì? Với Chúa. Với những người đi theo Ngài.

Có 3 loại người muốn theo Ngài. Và, có lẽ một hoặc hai người trong số này, có thái độ giống như ta, hôm nay. Thành thử, hãy xét thử xem sao, thái độ của những người dự tính đi theo Chúa. Người thứ nhất tuyên bố: Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo! Nói là nói thế, nhưng những người theo dạng này, không am-tường thực-tế Ngài phải đối đầu. Và, câu đáp trả của Đức Giêsu làm họ không mấy hứng thú. Dấn thân làm ngôn sứ, như Ngài, tức biết mình sẽ không nhà không cửa, không chốn tựa đầu, đâu nào dám theo.

Loại người thứ hai cũng muốn đi. Nhưng, vẫn nại vào lý do khiến Chúa không thể trách móc. Để rồi, cuối cùng cũng bỏ cuộc. Và, thái độ đáp trả của Chúa thoạt nghe, có vẻ nghịch lý/nghịch thường, nhưng lại là điều kiện cho những người dấn bước theo chân Đức Ngài. Theo chân Chúa, là: hãy để lại mọi sự bỏ đó mà ra đi loan báo Nước Trời, cho mọi người. Ở đây nữa, có thể: thân phụ của người thanh niên trong trình thuật, thật sự đâu đã chết. Anh chỉ muốn chờ khi báo hiếu cho cha xong xuôi, rồi mới quyết định. Và, đây là lý do chính đáng để khước từ lời Chúa mời. Và, đây cũng là trở ngại khác, khiến người quyết tâm không thấy vững chí, mà ra đi.

Trả lời cho những người như thế, Đức Kitô chỉ muốn xem con người đặt sự việc nào ưu tiên hơn cả, ở đời mình. Và, ý Ngài là: ta vẫn được mời gọi thực hiện việc dựng xây Nước Trời, ở trần gian, ngay trước mắt. Làm xong việc ấy rồi, mọi sự cũng sẽ “bất chiến, tự nhiên thành”. Bởi, Nước Trời chính là: thế giới của sự thật, của lòng xót thương, công chính. Của tự do và an bình. Của, thế giới nhất định sẽ xẩy đến với gian-trần.

Loại người thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa, thật đấy. Nhưng, lại vẫn phải quay về từ biệt bạn bè người thân, xong cái đã. Thái độ này, có nghĩa là: người như anh, chỉ muốn có cuộc sống vui nhộn với bà con bạn bè, mà thôi. Trong khi đó, muốn trở thành đồ đệ của Chúa, buộc lònh mọi người phải có quyết tâm. Không do dự. Lời Chúa mời gọi, là: lời mời ở đây, hôm nay. Và, lời đáp trả phải là lời ứng-đáp tự do ngay ở đây, hôm nay; chứ, không là chuyện xảy đến trong tương lai. Đề cập đến chiếc cày, là Chúa ám chỉ lời tiên tri Isaya ở bài đọc 1.

Bài đọc 1, Êlisha đáp ứng lời kêu gọi làm ngôn sứ, ngõ hầu tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm mình là: tiên tri Êlya. Đệ tử Êlisha cũng muốn giã từ cha mẹ. Và, ông cũng đã về nhà, để giết bò, đốt cháy chiếc cày, rồi tay không đến với sư phụ của mình, là Êlya. Tin Mừng Chúa, được viết không phải để ta hiểu từng chữ, theo nghĩa đen. Nhưng, thánh sử muốn để người nghe có dịp suy nghĩ về những điều Chúa đề cập.

Thật ra, thì điều thánh sử muốn nói, tức: vật chất, tình cảm và tri thức đều có thể là rào cản ngăn chặn khiến ta không thể đi theo Chúa một cách vô điều kiện. Đời người hôm nay, lại có quá nhiều thứ để ta vui chơi hưởng thụ dễ biến Lời Chúa nên nhạt-nhoà, mờ dần; chẳng còn bận tâm gì chuyện tham gia, dính dự vào đời người vốn đã có quá nhiều thứ để bận tâm, lo lắng và tiếc-nuối. Nuối-tiếc nhiều, những chuyện xảy ra, trong quá khứ; vẫn cứ lo-ngại không ít, về những chuyện sắp xảy đến, trong lai thời.

Các yếu tố nêu trên, đều khiến cuộc sống càng thêm phức tạp, trục trặc. Phần đông trong chúng ta, mới chỉ sống có phân nửa cuộc đời, hoặc đang sống cuộc đời của người khác. Chứ, chưa hẳn là đã và đang thực sự sống đời mình, cho riêng mình. Và, đó cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn Galát: ”Quả thế, anh chị em đã được gọi để hưởng sự tự do.” (Gl 5: 13)   

Sở dĩ thánh Phaolô phải nói lên điều đó, vì có nhiều vị ở nơi đây là người Do thái, đã trở lại. Và xem ra, nhiều người trong số đó chỉ muốn quay về với truyền thống Do thái giáo, thời xưa cũ. Trớ trêu thay, đối với mọi người, xưa cũng như nay, tất cả đều đã và đang lo sợ. Lo và sợ, vì mình đang có quá nhiều tự do.

Nhưng, tự do thực sự, không phải là thách thức quyền bính. Cũng không là, tự cho mình có quyền tha hồ vui thú, hưởng thụ; tha hồ phiền hà người khác. Tự do, cũng không là thái độ cứ ưỡn ngực tuyên bố: tôi có quyền mở to máy hát, chẳng cần biết rằng hàng xóm mình đang khổ sở vì âm thanh, tiếng nhạc.

Hoặc, cứ đua xe trên đường phố, chẳng sợ ai, chẳng san sẻ đường đi nước bước, với mọi người. Người có tự do đích thực, là người biết quan tâm đến tha nhân; biết để ý xem tha nhân có cần mình giúp đỡ gì không. Tự do, là biết rằng những người thân-cô-thế-cô, đang đau khổ. Là, biết đối xử với những người đó như người anh/người chị, cùng nhà.

Thánh Phaolô còn thêm: “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt; nhưng hãy lấy tình thương mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5: 13) Tự do như thế, không là thái độ trốn tránh thực tại sống. Nhưng, biết giáp mặt, đối đầu với cuộc sống. Tự do thực, là dám nhận lãnh trách nhiệm chăm lo cuộc sống của chính mình.

Và, không đem khó khăn riêng tư của mình mà đổ lên đầu người khác. Không coi họ như mối oan khiên như con dê tế thần, chịu hết mọi trách nhiệm. Tự do, còn có nghĩa: không đeo bám vào các tiện nghi vật chất. Vào mọi sự ở ngoài, như: tiền tài, nhà cửa, chức vụ, cùng công danh/sự nghiệp, hệt như thế.

Kỳ lạ thay, người tự do đích thực sẽ làm được những gì mình mong muốn. Bởi, những điều họ mong và muốn, là: dựng xây thế giới tôn trọng sự thật. Thế giới biết san sẻ, chăm sóc lẫn nhau. Biết tạo cho nhau, sự an bình hiền hoà, trong nội tâm. Người có tự do, là người rất tách bạch, không lấy đi mọi thứ tốt đẹp, của người khác. Vì làm thế, không là san sẻ thị kiến chung, của mọi người. Nhưng, biết được khó khăn của người khác để giúp đỡ. Để, coi nhẹ khó khăn mình đang gặp.

 Lm Richard Leonard sj biên-soạn

  Mai Tá lược dịch.

CHIẾC BỊ

CHIẾC BỊ

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Một thi sĩ Pháp đã tả lại cuộc từ bỏ để đi theo Chúa qua một bài thơ dí dỏm mang tựa đề: “Chiếc bị” (La besace).  Thi sĩ coi Chúa như một người bạn và tâm sự rằng.

“Hôm ấy, tôi đang mê mải bóp trán nặn vần thơ thì tôi nghe tiếng Bạn mời.  Tôi vội vã đi theo.

Tôi bỏ vào trong chiếc bị một sống tiêu bằng trúc, nhiều áo quần và cả một tập thơ, một album kỷ niệm thân thương, với nhiều kỷ vật quý giá.

Tôi cùng Bạn lên đường khi mặt trời vừa hé.

Bạn đi trước, tay không nhẹ nhõm,

Tôi theo sau với chiếc bị nặng trĩu trên vai.

Chân kéo lê trên một quãng đường dài.

Một ngày đã trôi qua trên cánh đồng gió thoảng.

Mỏi vai, tôi xin dừng lại giữa đường.

Mở bị ra tôi quăng bớt áo quần, rồi cùng Bạn tôi rảo bước.

Vẫn tay không, Bạn nhẹ nhàng đi trước,

Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo ngoài.

Sắp lên cầu để vượt khỏi dòng sông,

Tôi quăng đi tập thơ và sáo trúc, rồi cùng Bạn đi tiếp tục.

Đường lên cao dốc giác và uốn khúc quanh co.

Ôi cánh tay mỏi rã rời, tôi nài xin Bạn cho tôi dừng nghỉ một chút để tìm lại tấm hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất đời, chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi.

Nhưng tấm hình không còn nữa, nó đã bay mất.

Tôi bỗng buông xuôi, mắt tôi tối tăm lại giữa mặt trời đúng ngọ.

Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló trên những giọt sương rơi,

Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường.

Nắm tay Bạn nhanh chân tôi đi tiếp.

Nhưng bỗng nhiên Bạn bảo tôi ngừng bước.

Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng,

Bạn cười tươi nhè nhẹ vỗ vai tôi và nói: Hãy dừng chân vì chúng ta đã đến nơi rồi.”

 Anh chị em thân mến,

Muốn theo Chúa Giêsu đến cùng, phải ra đi tay không, phải bỏ lại đằng sau cả hành trang, kỷ vật và người thân.  Khi đã mất hết, chỉ còn lại một mình Ngài, cuộc hành trình sẽ kết thúc êm đẹp.  Đó cũng là những đòi hỏi mà Chúa Giêsu ngỏ cùng những người muốn đi theo Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay:

Thánh Luca kể lại, khi Chúa Giêsu đang tiến lên Giêrusalem, nơi Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu thế bằng tử nạn thập giá, thì một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin theo Thầy.”  Chúa Giêsu không vồn vã cũng không xua đuổi, nhưng nói lên thân phận của Ngài để giúp cho người kia ý thức rõ ràng những gì chờ đợi anh ta, nếu anh ta muốn theo Chúa một cách dứt khoát và tuyệt đối như vậy, Ngài nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có chỗ dựa đầu.”  Điều nầy Chúa Giêsu đã thực hiện ngay từ lúc Ngài sinh ra: “không có chỗ cho ông bà trong quán trọ,” và Ngài đã được thân mẫu vấn tã đặt nằm trong máng cỏ.  Cuối cùng, trên thập giá, chúng ta cũng đã thấy tất cả sự khốc liệt của lời tuyên bố nầy.  Trong Tin Mừng thứ ba, không bao giờ thấy nói đến một ngôi nhà riêng của Chúa Giêsu hoặc của nhóm môn đệ.  Thực tế là vậy đó, muốn theo hay không tùy ý.

Một người khác lại được Chúa Giêsu ngỏ lời trước: “Hãy theo Tôi.”  Nhưng anh ta lại xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã.  Chúa Giêsu không nhượng bộ: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh, hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa.”  Sứ mạng loan báo Nước Trời là ở cõi chết. Hãy để những người ở ngoài Nước Trời chôn cất những người ở ngoài Nước Trời.  Còn người đã được gọi phục vụ Nước Trời thì hãy lo bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì.  Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.

Người thứ ba đến xin theo Chúa Giêsu thì vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện:“Thưa Thầy, con xin đi theo Thầy, nhưng xin cho phép con về từ giã gia đình trước đã.”  Chúa Giêsu nói thẳng cho anh ta biết rằng thái độ ấy không xứng đáng với Nước Thiên Chúa.  Câu chuyện nầy cho ta liên tưởng đến câu chuyện ông Êlia gọi ông Êlizê mà chúng ta vừa nghe trong Bài đọc I: Ông Êlizê được gọi, xin về từ giã cha mẹ trước đã.  Ông Êlia đồng ý ngay.  Còn ở đây, Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mãnh liệt hơn đòi hỏi của Cựu Ước.  Toan đi theo Chúa Giêsu mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa Giêsu thì khác nào kẻ đã cầm cày mà còn ngoái cổ lại đằng sau.  Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được.  Muốn theo Chúa Giêsu thì không được quyến luyến cái gì khác, kể cả cha mẹ.

Ba mẫu đối thoại nầy đặt chúng ta trước ánh sáng chói lòa của những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa.  Muốn theo Chúa Giêsu thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài: Nghèo khó, trần trụi, không nhà riêng, không trụ sở, không có gì bảo đảm cho mình ở trần gian nầy; phải coi nhiệm vụ rao giảng Nước Trời là nhiệm vụ trên hết.

Chúa Giêsu không nhượng bộ nửa bước trước những bổn phận chính đáng nhất như mai táng, từ giã cha mẹ.  Chính Ngài đã cư xử như vậy lúc Ngài ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi.  Thánh Giuse và Đức Mẹ đã đau điếng về chuyện nầy.  Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu thật khó hiểu: “Ông Bà không biết rằng tôi phải lo việc của Cha tôi sao?”  Đức Mẹ đã ghi nhớ và nghiền ngẫm câu ấy suốt đời.  Những lời tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây cũng làm cho chúng ta choáng váng chẳng khác Đức Mẹ và Thánh Giuse lúc ấy.  Muốn hiểu được, chúng ta phải im lặng suy đi nghĩ lại trong lòng.

Đối với những người được mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, những lời nầy mời gọi kiểm điểm lại thái độ sống của mình.  Chúa Giêsu và Nước Trời đã thực sự độc chiếm tâm hồn và cuộc đời của mình chưa?  Đối với mọi Kitô hữu, những lời nầy cũng có ý nghĩa, vì tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu trên con đường tới vinh quang đều phải coi Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả, nếu còn ngoái cổ lại đằng sau, còn coi một cái gì hơn Chúa Giêsu thì không xứng đáng vào Nước Thiên Chúa.  Thánh Phaolô đã sống điều nầy và đã phát biểu: “Tất cả những cái tôi coi là mối lợi cho tôi, thì vì Đức Kitô, tôi đã coi như bất lợi.  Chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy như thua lỗ, bất lợi hết, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi.  Vì Ngài, tôi đành bị tổn hại về mọi sự và xem như rác rưởi tất cả, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3, 7-13).

Theo Chúa thì có nhiều người muốn theo.  Nhưng lại chỉ muốn theo Chúa như quan niệm và ý muốn của mình, chứ không theo Chúa như Chúa muốn.  Vì thế, có khi mắc phải ảo tưởng là mình đang theo Chúa, nhưng thật ra họ đang theo mình và bắt Chúa theo mình.  Theo Chúa đúng nghĩa là phải chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, mất gốc; phải từ bỏ tất cả những gì không phù hợp với ý Chúa, với sự thánh thiện của Ngài, phải từ bỏ những gì là nguy cơ làm cho ta xa Chúa hay cản trở ta kết hợp mật thiết với Chúa.  Theo Chúa là phải hoàn toàn tín nhiệm vào Chúa và thuộc trọn về Chúa.

Việc tham dự tích cực và trọn vẹn vào mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô được tái diễn trên Bàn Thánh nầy sẽ giúp chúng ta sống một cuộc đời thuộc trọn về Chúa mãi mãi.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

From: langthangchieutim

Ngôi nhà tạm

Ngôi nhà tạm

Mưa!…

Tôi chạy nhanh thật nhanh vào trong nguyện đường để trú mưa, thế là cơn mưa đầu tiên của mùa hạ lại đến thật thật vội vã. Mưa lộp độp bên cánh cửa sổ, mùi mưa thật dễ chịu và thật bình yên. Tôi đứng lặng người nhìn xung quanh, tĩnh lặng và thật nhẹ nhàng. Bất chợt, tôi thấy 1 luồng ánh sáng vàng chiếu qua mắt tôi, ánh sáng nơi Thánh Thể Chúa.

Nhìn ngôi nhà tạm bé nhỏ có một Giêsu đang ở đó cô đơn đợi tôi, một Giêsu đã từ bỏ ngai vàng quyền quý của một vị Vua để khiêm nhường đến với con người tội lỗi và sống cùng họ, cùng trải qua những gian khổ, khó khăn chỉ với một mong ước đưa họ trở về , để họ được tự do với tội lỗi và sống hạnh phúc làm con Thiên Chúa.

TroChuyen-Voi-Chua

“ Chúa chờ con có lâu không? ”

Đó là điều tôi muốn thưa cùng Chúa, tôi thấy một cảm xúc lâng lâng khó tả nhưng rồi lòng tôi lại rối bời và chẳng thể tập trung lại nữa. Cảm xúc chợt đến như cơn mưa đầu mùa hạ kia và lại đi thật nhanh khiến lòng tôi trống rỗng. Phải chăng những lo lắng việc học hành, lo toan của cuộc sống làm tôi trở nên bộn bề và chẳng còn một góc nhỏ nào cho Chúa nữa. Cả ngày loay hoay trong đống giấy tờ và ôm chiếc máy tính ngồi làm đồ án để rồi tôi chẳng biết rằng những giờ cầu nguyện hay viếng Chúa nơi nhà nguyện tôi cũng dành tâm trí cho đồ án luôn.

Lặng yên nhìn vào đền thờ trong lòng tôi, tôi chợt hỏi mình đã bao lâu rồi tôi không dành giờ để dọn dẹp, sửa sang ngôi nhà tạm bé nhỏ đơn sơ này, ở nơi đó vẫn có một Giêsu chờ tôi từ lúc sớm hôm đến khi đêm về. Nơi nhà tạm bé nhỏ đấy tôi đã thưa bao điều cùng Chúa, những lúc vui, lúc buồn, những lúc yêu mến hay thất vọng.

GMVNGHCGTG_Full_734232424

“Chúa ơi, sao con lại tính toán thời gian với Chúa cơ chứ?”

Tôi thấy lòng mình nhẹ lại, một cảm giác yên vui và bình an đang lan truyền trong con người.

Là một Ứng Sinh đang trong quá trình tìm hiểu Ơn gọi, chắc chắn sẽ có lúc này lúc khác, những khi tôi thấy mình tràn đầy niềm vui và tình yêu Chúa. Tôi nghĩ rằng sẽ chẳng có gì có thể làm mất đi tình yêu của tôi đối với Ngài. Nhưng không phải, cũng nhiều lần lòng tôi thật trống trải cô đơn, để tôi nhận ra rằng chính những giây phút đó dặn tôi phải bám chặt vào Chúa hơn hơn nữa.

maxresdefault

Lạy Chúa, con biết con yếu đuối lắm, đã không biết bao nhiêu lần con đã phản bội Ngài u mê trong tội lỗi. Xin đưa tay để dắt con đi qua những nẻo đường đầy gian khó, xin dạy con biết sắp xếp thời gian để chẳng khi nào con quên Chúa dù 1 giây, để ngôi nhà tạm của lòng con luôn có Ngài và con cùng trò chuyện. Amen.

TMD

“Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng”

 “Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng”
Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê.
Non nước ơi! Hồn thiêng của núi song.
Kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa.”

(Nguyễn Văn Đông – Mấy Dặm Sơn Khê)

 (Cách Ngôn 31: 10-31)

Trần Ngọc Mười Hai

Thế đó, một tưởng tượng! Khi bọn đàn em bé nhỏ là chúng tôi, cuối cùng lại cũng được tin Đức Giáo Tông nhà mình lập ban nhiên-cứu cho phép phụ-nữ làm Phó Tế.

Ấy đấy, một hiện-thực! Khi đám con cháu trong nhà bọn tôi, nhân chuyến “hành-hương đô-thị” sà vào quán sách nhỏ có bầy bán một số “cảo chỉ” về thần-học. Và, cháu “tóm” được cuốn “Mary Magdalene, her story and myths revealed”

Này đây, một thao-thức! Bỗng nảy-sinh trong đầu của bầy tôi đây là bần-đạo cứ mải suy về thân-phận và vai-trò của bậc nữ-lưu lâu nay cứ là “thấp cổ bé họng” về tư-tưởng.

Nhưng thật ra, các vị này mới là người sâu-sắc nhưng ít nói, chỉ mỗi làm và làm. Và, khi các vị đã làm là làm cho ra nhẽ. Rất thật tình. Đâu ra đó.

Và đây, một ý-lực! Vốn dĩ hiển-hiện từ câu hát tưởng chừng như vẩn vơ, chinh-chiến, chóng qua. Nhưng, đích-thực là tâm-huyết của giới văn-chương, văn-nghệ chỉ thích hát và hát. Hát, nhưng lời “vẩn vơ”/”vớ-vẩn”! Ai hiểu được thì tốt. Ai chậm hiểu hay không không hiểu, cũng không sao. Ý-lực ấy, nay như thế này:

“Bao giấc mơ giữa khung trời phiêu lãng,
Chờ mùa Xuân tươi sang,

những mùa thắm chưa sang
Anh đến đây, rồi anh như bóng mây,
Chốn phương trời ấm lạnh

hòa chung mái nhà tranh.

Anh như ngàn gió,

hát ngược xuôi, theo đường mây,
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương,
Nước non còn đó một tấc lòng,
không mờ xóa cùng năm tháng,
nhớ ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên,

Khoác lên vòng hoa trắng,

cầm tay nhau đi anh
Tơ trời quá mong manh
Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh,
giữa khung trời gió lộng,

nghìn sau tiếc nghìn xưa.”

(Nguyễn Văn Đông – bđd)

Vâng. Đúng thế. “Anh như làn gió, hát ngược xuôi, theo đường mây…” Ôi! Toàn là những lời nhè nhẹ, bay bổng theo làn gió, “giữa khung trời phiêu-lãng…” Và những là: “Cầm tay nhau đi anh! Tơ trời quá mong-manh!”, “Vui đấu tranh”, “Nghìn sau tiếc nghìn xưa!”

 Quả có thế. Nghìn sau/hôm nay, sẽ lại có người tiếc nghìn xưa sao không hát “Chị hỡi chị!” , “Chờ mùa Xuân tươi sáng”, “Những mùa thắm chưa sang!..” Ấy đấy, có hát hoặc có nêu lên những ý-lực đầy “phiếm” hôm nay, cũng chỉ để “phiếm” chuyện đời rồi sẽ “phiếm” cả chuyện Đạo, về những điều “lạo-xạo” đáng phiếm, rất hôm nay. Như chuyện nữ-phụ nhà Đạo nay được nâng nhấc lên bậc “Nữ-phó-tế”, như thông-tin vừa hé mở.

Thế nhưng, ở Đạo mình, vẫn thường có những đấng bậc rất-ư-là “Kỳ-đà cản mũi” cũng tiêu-cực không kém ai, qua luận-điệu sau đây:

“Ở thời đầu, Giáo-hội ta có nhiều phụ-nữ làm phó-tế, hoặc nói đúng hơn, nhiều Nữ thừa-tác-viên năng-nổ. Thế nhưng, các bà đây lại không là phó-tế theo nghĩa thời hiện-đại, tức quyền-năng hoặc chức thánh như Phó-tế đích-thực. Các bà vẫn chỉ mang tư-cách giáo-dân, mà thôi. Cũng nên biết rằng: theo tiếng Hy-Lạp, thì danh-xưng Phó-tế hoặc “diakonos” là ngôn-từ nói chung mang ý-nghĩa của người nâng-dỡ/giùm giúp hoặc tôi-tớ, chứ không nhất thiết bao-hàm việc nhận-lãnh chức thánh, nào hết.

 Thánh Phaolô cũng nhắc đến các nữ thừa-tác-viên trong thư ông gửi giáo-đoàn Rôma, vào thời đó, như sau:

 “Tôi xin giới thiệu với anh chị em đây, chị Phêbê, người chị em của chúng ta, là nữ-trợ-tá Hội-Thánh Kenkhơrê. Mong anh chị em tiếp đón chị trong Chúa cách xứng-đáng, như dân thánh đối-xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh chị em, xin anh chị em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo-trợ nhiều người, kể cả tôi nữa.”

Xem thế thì, cụm-từ “Nữ trợ-tá” dịch ở đây, vào thời đó, chỉ có nghĩa như người nữ chuyên phụ-giúp công-việc này khác, theo nghĩa rộng, mà thôi.

 Kịp đến thế-kỷ thứ 3, nhiều xứ/nhiều vùng ở trời Đông, cũng thiết-lập hoặc ủy-thác chức Nữ-Phó-tế như thế để trợ-giúp các công việc như: bảo-ban/dạy dỗ hoặc thanh-tẩy phụ-nữ, thăm kẻ liệt là nữ-phụ cần tắm gội/chùi rửa thân mình hoặc trao ban Mình Thánh Chúa cho những người như thế. Vậy nên, các vị náy bèn thiết-lập một nhóm-hội/đoàn thể trong Giáo-hội như Hội Phụ-nữ chuyên-trách lo cho các bà góa. Ở một số chốn miền, các nữ-phụ gia-nhập nhóm/hội này đều trải qua nghi-thức có dính-dự động-tác đặt tay lên thân mình người cần đặt.

 Các nữ-phó-tế như thế, không lĩnh-nhận chức thánh nào hết và hoàn toàn khác với linh-mục hoặc phó-tế thực-thụ theo nghĩa đã định ở tông-sắc Apostolic Constitutions ban hành vào năm 400 sau Công-nguyên…

 Chức-năng, vai-trò và ý-nghĩa của nữ-phó-tế lại rất cao được tạo cho vai trò khác nhau tùy nơi tùy vùng. Riêng Hội thánh Ai Cập, Maronite và Slav khi trước tuyệt nhiên không thấy có vai-trò và sự hiện-hữu của chức sắc nào như thế. Và Hội thánh La-tinh ở 5 thế-kỷ đầu đời, cũng không thấy có chức-vị nữ-phó-tế nào như thế hết. Các khác-biệt này, cho thấy: ở các phần đất Giáo hội La-tinh không thấy có chức-năng nữ-phó-tế nào giống thế. Về ý-nghĩa cũng như vai-trò của chức này này, rõ ràng còn chứng-tỏ rằng không có bí-tích nào tạo cho vai-trò của các vị này, do bởi thần-học và kỷ-luật cần-thiết của các thánh-tích đều mang tính phổ-cập trên khắp miền đất của Giáo-hội Đạo Chúa.” (X. Lm John Flader, Why women won’t be deacons”, The Catholic Weekly Question Time 22/5/2016, tr. 8).    

 Giả như ngài là đấng bậc thanh-thoát, phóng-thoáng như tác-giả cuốn “Mary Magdalene, her history and myths revealed” , rày đã bộc-lộ những điều như: “Vốn dĩ từng bị Giáo-hội Công-giáo La-Mã đẽo/gọt và tạo chân-dung như người tội-lỗi, Maria Magđalêna nay được hồi-phục chức-năng về vị-thế đáng kính-trọng tước-vị và năng-lực của Chị suốt thời Cổ Sử rất trang-trọng. Thậm chí, ngày hôm nay, rất nhiều đấng/bậc công-nhận Chị, là: vào buổi Đức Chúa sinh-thời, Chị từng là môn-đệ gần cần Đức Giêsu nhất hạng và là người được chỉ-định công-việc chuyển-tải thông-điệp của Ngài vào với thế-giới, cách đặc-biệt.” (X. Karen Ralls, Mary Magdalene, her history and myths revealed, Shelter Harbor Press 2013, bìa 4)

Và, đúng như nhận-định của vị Tổng Giám mục nọ khi bàn về tính-chất “tiêu-cực” mà nhiều đấng bậc trong Đạo vẫn coi người nữ-phụ là “nguồn-cội” của ác-thần/sự dữ, như sau:

“Ngang qua truyện ở vườn Địa-Đàng, hình-phạt đã được định rõ cho con người. Với Ađam, hình-phạt dành cho ông là phải “cạp đất: để kiếm sống. Qua nhân-vật Evà, từ nay mọi nữ-phụ sẽ phải kéo dài sự đau-khổ khi sinh đẻ. Riêng loài rắn, sẽ phải bò sát bụng trên mặt đất đến muôn đời. Và, mọi loài phải rời bỏ chốn Địa Đàng, không còn sống ở hoa vườn nữa.

 Và cuối cùng, mọi loài cùng giòng dõi/cháu con của chúng được lập-trình đi vào cõi chết. Từ nay, sự chết trở-thành phận hèn của mọi loài. Tính phổ-cập của sự chết rày sẽ chứng-thực cho tính phổ-cập của lỗi/tội đầu thời nguyên-tổ đem chết chóc đến với thế-giới của Thiên-Chúa. Lỗi/tội ban đầu ấy được coi như bản-chất con người làm sa-đoạ mọi nhân-thân khiến cuộc sống con người không còn khả-năng tái-lập quan-hệ mật-thiết với Thiên-Chúa, được nữa.

 Câu truyện về “Địa-đàng Trần-gian” này, đã đi vào lịch-sử nguyên-thủy từng làm, tức bảo rằng: lý do khiến ác-thần/sự dữ và cái chết là những dấu-hiệu hằn in lên nhân-loại là sự bất-tuân của phụ nữ. Tông-đồ Phaolô chắc-chắn đã đóng góp vào định-nghĩa nói ở trên.

 Cả đến bậc hiền-nhân quân-tử tử như đấng thánh Âu-Tinh vốn dĩ từng là Giám-mục thành Hippo cũng làm thế vào thế-kỷ thứ 5. Ngài làm thế, đến độ trở-thành “đá tảng” cho tư-duy của mình. Và qua ngài, lại được trù-định để thống-trị tư-tưởng của mọi Kitô-hữu suốt ngàn năm có lẻ. Mãi đến hôm nay, lối đối-xử một cách tiêu-cực với phụ-nữ và giới-tính đã trở-thành đặc-trưng lớn, nếu không muốn gọi là hùng-vĩ, trong cuộc sống đạo-đức của con người.

 Cả một hệ-thống rộng lớn về thần-học vẫn dựng-xây trên cốt truyện được kể lại như thế. Ta vẫn có thói-quen qui-chiếu phụ-nữ với cái-gọi-là con quỉ dữ cám-dỗ đám đàn ông thanh-tao, lịch-lãm. Phụ-nữ vẫn được gọi là “trái cấm không nên đụng tới”, là thứ mà thân-xác đàn ông vẫn thèm thuồng. Nữ-phụ lâu nay vẫn được định-nghĩa như con người đồi-bại, như kẻ gây ô-uế phá-hủy sự lành-thánh của nhân-loại. Các bà còn bị phiền-trách như người làm cho phái nam ra bất-lực.

 Do bởi câu truyện lỗi/tội đầu đời này mà tính lành-thánh nơi văn-minh Âu-Tây bị liên-lụy, luôn tìm cách tránh né phụ-nữ, và đi đến tình-trạng vô-giới-tính. Lòng trung-trinh nơi phụ-nữ và tình-trạng độc thân/sống một mình nơi nam-nhân được coi như cung-cách cao-sang hơn. Ngay đến hôn-nhân, cũng được coi là một nhượng-bộ tội/lỗi, như ta thấy trước đây, như chọn-lựa ban đầu dành cho người yếu kém, mềm dịu.

 Thánh Giêrônimô khi xưa là người dịch Kinh thánh khá xuyên-suốt, nhưng ông sẽ được nhớ nhiều do bởi trường-hợp ông cũng đã rơi vào tình-trạng bế-tắc trong lúc dịch-thuật, nhất thứ là khi ông nhận thấy rằng hôn-nhân chỉ mang tính cứu-độ là khi “sản-sinh ra quá nhiều trinh-nữ”. Tuyên-bố này đã khiến tôi phải nhắm mắt làm ngơ đâm nghi-ngờ tài dịch kinh-thánh của nhiều học-giả.     

 Xem như thế, thì phụ-nữ quả thật từng là sự dữ/ác thần đến tận xương-tủy. Và, đó cũng là thông-điệp của Đạo Chúa và điều đặc-biệt là sự/việc ấy lại xây-dựng trên câu truyện của Evà.” (X. TGm John Shelby Spong, The Sins of Scripture, HarperCollinsPublishers, 2005 tr. 91)

Nói gì thì nói, chừng như nhiều vị đi Đạo quên rằng Kinh-thánh Cựu-Ước cũng từng tuyên-dương đặc-tính khôn ngoan/tốt-đẹp của phụ nữ trong câu nói nổi bật ở sách Châm-ngôn sau đây:

“Tìm đâu ra một người vợ đảm đang?

Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,

chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc

chứ không gây tai hoạ cho chồng.
Nàng tìm kiếm len và vải gai,

rồi vui vẻ ra tay làm việc.
Giống như những thương thuyền,

nàng đem lương thực về từ tận phương xa.
Nàng thức dậy khi trời còn tối,

cung cấp phần ăn cho cả nhà,

và sai bảo con ăn đứa ở.
Nàng để mắt đến một thửa ruộng và tậu lấy;

nàng dùng huê-lợi đôi tay mình làm ra
mà canh tác một vườn nho.
Nàng thắt lưng cho chặt,

luyện cánh tay cho mạnh-mẽ dẻo-dai.
Nàng thấy công việc sinh nhiều lợi nhuận,

đèn trong nhà thắp sáng thâu đêm.
Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,

và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ

và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
Nàng không sợ người nhà bị lạnh vì tuyết sương,

bởi cả nhà đều được mặc hai áo.
Nàng tự tay làm lấy chăn mền,

nàng mặc toàn vải gai, vải tía.
Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành

khi ngồi chung với hàng kỳ-mục trong dân.
Nàng dệt vải đem bán,

cung cấp dây lưng cho nhà buôn.
Trang-phục của nàng là quyền-uy danh-giá,

nàng mỉm cười khi nghĩ đến tương-lai.
Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói

và dịu-hiền khi dạy-dỗ bảo-ban.
Nàng để mắt trông nom mọi việc trong nhà,

bánh nàng ăn là do mồ hôi nước mắt nàng làm ra,
con nàng đứng lên ca-tụng nàng có phúc,

chồng nàng cũng tấm-tắc ngợi-khen :
“Có nhiều cô đảm-đang,

nhưng em còn trổi-trang gấp bội.”
Duyên-dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.

Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa

mới đáng cho người đời ca tụng.

Hãy để cho nàng hưởng những thành-quả tay nàng làm ra.

Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng

do những việc nàng làm.”

(Châm ngôn 31: 10-31)

Nhận-định của nhà Đạo từ ngàn xưa là như thế. Như thế, cũng không có nghĩa là sự thể vẫn cứ thế đối với mọi người ở Đạo Chúa đến bây giờ. Chí ít, là các đấng bậc vị vọng trong Giáo Hội Công-giáo La Mã.

Thế nên, Đức Phanxicô nay ngỏ ý muốn thiết-lập một Ủy-ban Giáo-hoàng chuyên nghiên-cứu tái-lập chức-năng/vai-trò của Nữ Phó-Tế xưa, chửa biết chừng. Có thể, là: các vị ấy sẽ là Thừa-tác-viên nữ năng-nổ như Thánh-Nữ Maria Magđalêna, là cộng-sự-viên thân-cận với Đức Giêsu. Cũng có thể, các vị đây sẽ được phong-chức Phó-tế vĩnh-viễn, cũng rất hay. Dưới ánh mặt trời này, chẳng có gì là không-thể-và-có-thể, hết.

Hãy cứ đợi chờ, để rồi sẽ xem sự việc diễn-tiến theo cách nào. Trong khi chờ và đợi việc Giáo-hội mình trả lại chức-năng/danh-dự lẽ đáng phải có từ hệ-cấp thần-quyền Vatican, tưởng cũng nên quay về với vườn hoa truyện kể, để xem người ngoài Đạo nghĩ gì và nói gì các nữ-phụ ở trần-gian lan-man, đôi lời rằng:

      “Trong một chiều đi dạo quanh công-viên, ông Jones tình cờ gặp gỡ và có cuộc trò chuyện vô cùng ăn ý với một bà lão. 

 Chỉ sau 15 phút, cả hai phát hiện ra họ có rất nhiều điểm chung về tuổi tác, khu vực sinh sống, sở thích, và đều đang độc thân. Đến khi trời sụp tối, ông Jones nhìn bà lão thật lâu và nhẹ nhàng nói:

-Marcia, thú thật từ trước đến nay tôi chưa bao giờ gặp được người nào hợp với mình như bà vậy. Tôi có thể mạo muội hỏi bà hai câu hỏi rất quan trọng này không?

 Bà lão nghe thế cảm-động đáp:

-Dĩ nhiên là được rồi! Ông đã cho tôi một khoảng thời gian thật sự rất thoải mái.

-Tôi thấy chúng ta vô cùng hợp nhau, vậy liệu bà có đồng ý dọn về sống chung với tôi suốt quãng đời còn lại không? – Ông Jones khẽ cầm tay Marcia khẩn thiết nói.

Bà lão thẹn thùng gật đầu rồi hỏi:

-Thế còn câu hỏi quan trọng thứ hai là gì?

Ông Jones liền thở phào nhẹ nhõm, từ tốn nói tiếp:

-À, chẳng qua là bây giờ bà đỡ tôi đứng dậy được không? Tôi ngồi lâu quá không đứng dậy được nữa rồi!” (Truyện kể gặp thấy tràn lan trên trang mạng, rất vi-tính)

Nói gì thì nói, khi đến lúc và đã đến thời, người người, nhất thứ là nam-nhân, lại sẽ tâm-sự rất thật với nữ-phụ nọ, dù chưa quen biết nhiều, để đòi một sự hỗ-trợ cần-thiết như bao giờ, trong đời.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta lại sẽ hiên-ngang hát lên những ca-từ dù rất buồn để thấy rằng: khi có người đến thăm, dù là chiến-hữu hoặc thần dân thôi, ai cũng vẫn nhận ra rằng:

“Bao giấc mơ giữa khung trời phiêu lãng,
Chờ mùa Xuân tươi sang,

những mùa thắm chưa sang
Anh đến đây, rồi anh như bóng mây,
Chốn phương trời ấm lạnh

hòa chung mái nhà tranh.

Anh như ngàn gió,

hát ngược xuôi, theo đường mây,
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương,
Nước non còn đó một tấc lòng,
không mờ xóa cùng năm tháng,
nhớ ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên,

Khoác lên vòng hoa trắng,

cầm tay nhau đi anh
Tơ trời quá mong manh
Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh,
giữa khung trời gió lộng,

nghìn sau tiếc nghìn xưa.”

(Nguyễn Văn Đông – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn hát lên

Những lời nhẹ nhàng như thế,

Rất triền-miên

ở đời người.

“Tay run-rẩy, nhưng không vì gió lạnh,

“Tay run-rẩy, nhưng không vì gió lạnh,

Bỗng để rơi trên cỏ nắm vàng hương.

Ta vừa thấy một linh-hồn mỏng-mảnh,

Níu vai ta, đòi trả lại yêu-đương.”

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương) 

Mai Tá lược dịch.

Linh-hồn mỏng mảnh, là những thứ người người vẫn để rơi. Rơi gì thì rơi, đừng rơi vãi hoặc đòi trả lại yêu-đương là thứ cả người đời lẫn trong Đạo, vẫn trân-trọng.

Cảnh huống những “rơi vãi” cũng đã diễn ra trình thuật hôm này, là bối-cảnh trong đó Đức Giêsu ngồi một mình, nơi chốn vắng để nguyện cầu. Chúa làm thế, mỗi khi có sự kiện quan trọng xẩy đến với Ngài ở trần thế.

Có thể, nhiều người sẽ hỏi: nếu quả thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, sao Ngài lại phải nguyện cầu? Ngài cầu với ai? Cho ai? Cầu, là cầu chuyện gì? Những câu hỏi đại loại, đều do ý niệm ta có, rất hạn hẹp. Nguyện cầu, trước hết và trên hết, là: hiệp thông mật thiết với Chúa. Trong đó, bao gồm cả việc lắng tai nghe, cùng chuyện vãn. Nhiều tình huống nguyện cầu, trong đó ta chẳng cần nói lên điều gì. Nguyện cầu, có thể chỉ là: chìm đắm trong bối cảnh vây quanh bằng sự hiện diện của Chúa, mỗi thế thôi.

Rõ ràng là, Đức Giêsu vẫn nguyện cầu cùng Cha Ngài. Ngài cầu nguyện, để được đối thoại chuyện vãn với Cha Ngài. Để, có được sự hài hoà kết hợp với những điều Cha vẫn muốn Ngài có và làm. Cả vào lúc Ngài thực hiện những điều lạ kỳ như nhân rộng cá, và bánh cho người người, ăn đỡ đói. Cả khi dân con tính chuyện tôn vinh Ngài làm Vua.

Cả lúc ấy, Ngài vẫn ẩn mình, thoát nhanh lên đồi cao chốn vắng, mà nguyện cầu. Nguyện cầu, ở Vườn Lặng Thinh trước ngày dấn bước vào cuộc Thống Khổ, buổi Tiệc Cuối. Ngài vẫn luôn nguyện cầu, vào mọi lúc. Nguyện và cầu cho môn đệ cho kẻ tin, những người dõi bước chân mềm của Ngài, thời mai hậu.

Trình thuật hôm nay, không chỉ diễn tả mỗi việc nguyện cầu, của Đức Chúa. Nhưng, còn tỏ cho mọi người biết: Ngài là ai. Thế nên, khi Ngài hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?” thánh Phêrô đã trả lời thay cho tất cả.

Trả lời, là mô tả mối tương quan giữa môn đệ/người người với Thiên Chúa: “Ngài là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa!” Công khai nói điều này, thánh Phêrô muốn minh xác rằng: Thầy là Đấng Thiên Sai, mọi người hằng đợi trông. Tuy nhiên, Thầy căn dặn: nay chưa là lúc để nói cho mọi người biết, về Thầy.

Phải nhận rằng, đã từ lâu đồ đệ Chúa vẫn được dạy: các con là muối cho đời. Là ánh sáng cho muôn dân. Rằng: người người chưa sẵn sàng để nhận biết Tin Vui Bình An ấy. Người người vẫn chưa rõ biết Tin Mừng về Đấng Mêsia đã đến. Người người còn ngong ngóng Đấng Thiên Sai nào khác khả dĩ giải thoát họ khỏi ách thống trị của kẻ thù. Để, có thể trở về trong chiến thắng, như lòng mong ước.

Ở đây lại thấy khác: Chúa lại chọn hoàn tất cuộc khổ nạn. Lại để người đời coi như tội phạm. Chỉ lúc ấy, đồ đệ Ngài mới được phép tiết lộ Ngài là Đấng Mêsia, mà nguời người lâu nay trông ngóng.

Cũng vào lúc ấy, mọi người bắt đầu sửng sốt khi Ngài khẳng định: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều. Bị kỳ mục thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9: 22). Từ lúc ấy, đồ đệ Chúa nhận ra rằng: Đấng Mêsia không là vị anh hùng cái thế. Cũng chẳng là thủ lãnh của nhóm hội nào nổi dậy chống lại thế lực thù địch, đang trấn áp. Ngài là Đấng bị dân con đầu đàn chối bỏ, xử tội và hành quyết. Nhưng, Ngài vẫn được sức mạnh quyền uy Ở Bên Trên tôn vinh. Bằng chiến thắng.

Chiến thắng, với Đức Kitô, chỉ mang trọn ý nghĩa khi Ngài hoàn tất trong yêu thương. Trung tín. Bất bạo động. Ý nghĩa này, được bài đọc I diễn tả bằng từ ngữ rất ngôn sứ: “Thiên Chúa sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và cư dân Giêrusalem (và các thế hệ tiếp nối). Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đâm thấu, như người ta khóc than đứa con một.” (Dcr 12: 10). Lời sấm đây, được thánh Gioan trích dẫn ở bài Thương Khó, mãi về sau.

Cử hành Tiệc Thánh mỗi tuần, vẫn chưa đủ. Bởi, một khi đã nhận biết Chúa là Đấng Mêsia. Đã, cảm xúc/xót thương thấy Ngài bị nhục mạ, khổ hình đến nỗi chết và sống lại. Ta còn được kêu mời làm đồ đệ dõi bước theo Ngài, nữa. Theo ngài, ngang qua biến cố thời đại. Bằng phương thức thực tiễn. Nghĩa là: biết từ bỏ chính mình. Biết vác lên vai thập giá cuộc đời mỗi ngày. Biết theo chân Chúa, mà rao truyền Tin Vui An Bình.

Với người đời, từ bỏ chính mình là chuyện không dễ thực hiện. Và, không phải lúc nào cũng có thể làm được. Với nhà Đạo, từ bỏ chính mình là chấp nhận con người mình để khuyến khích lòng tự tin, nơi ta.

Bởi, một khi đã tự tin, ta sẽ tự khẳng định. Và, tìm ra phương cách tốt đẹp hầu thực hiện điều mình nhất quyết. Quyết loan truyền sự thật. Quyết thực hiện tình thương. Tôn trọng tự do. Có thế, ta mới có thể làm mọi việc vì người khác, cho người khác chứ không chỉ riêng mình. Ở đây nữa, yêu thương nhận thức và chấp nhận chính con người mình không là quay trở ngược về lại chính mình. Hoặc, phát triển lòng vị kỷ, nhỏ nhen. Nhưng, có yêu mình trước, mới yêu mến người khác.

Vác lên vai thập giá cuộc sống mỗi ngày, là: mở lòng mình ra với giá trị Tin Mừng Chúa gửi đến cho mình. Vác thập giá, không có nghĩa là: ra đi tìm những gì khiến mình/khiến người khổ đau, buồn phiền. Mà là, chấp nhận những gì đến với mình bằng đường lối tích cực dựng xây. Biết nhận ra tình yêu và ân huệ của Chúa, qua kinh nghiệm hằng ngày, dù đắng cay.

Bước theo Chúa, như thánh Phaolô khuyên nhủ, là: “mặc lấy” Đức Kitô. Mặc lấy, như ta mặc chiếc áo trắng tinh ngày thanh tẩy, khi bước ra khỏi giếng rửa tội. Bởi, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy, ta đã gia nhập vào gia đình thánh thiêng, có người anh/người chị, là con chung của Đức Chúa.

Bởi, nơi gia đình Ngài, không phân biệt ai Do Thái, ai Hy Lạp. Nơi gia đình con cái Chúa, chẳng hề có chuyện kỳ thị nam/nữ, nô lệ hay tự do. Nhưng, tất cả đã là người anh, người chị, người em cùng nhà. Không thành kiến cũng chẳng rẽ chia, bè phái, đố kỵ. Tất cả đem đến cho nhau tình yêu. Đem cho nhau công lý hòa hợp và bình an. Cho hết mọi người. Ở đời.  

Trong suy-tư/cảm-nghiệm về tình-huống rất như thế, ta hãy trở về với lời thơ được trích-dẫn, để thấy được lòng người cũng có lúc, rất khôn nguôi, rằng:

“Ta vừa thấy một linh-hồn mỏng-mảnh,

Níu vai ta, đòi trả lại yêu-đương.

Lòng chơ-vơ, rùng-rợn nỗi kinh-hoàng,

Lòng cay-đắng tưởng vô-cùng bất-tuyệt.”

Chơ-vơ, rùng-rợn và kinh-hoàng, còn là tình-huốn người để luột mất ý/lời của Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu, rất vấn-vương mọi người, trong cõi đời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

NHẬN DIỆN ĐỨC KITÔ

NHẬN DIỆN ĐỨC KITÔ

 ĐTGM Ngô Quang Kiệt

DUC KITO

Đức Kitô là ai?  Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc.  Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu.  Là Đấng được Thiên Chúa sai đến.  Là Đấng dân Do Thái mong đợi.  Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ.  Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới.  Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng.  Thoạt tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận.  Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.  Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại.  Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô.  Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín.  Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”  Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy.  Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì.  Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực.  Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

 

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.”  Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô.  Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì.  Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua.  Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.  Như thế là sai đường lối của Chúa.  Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

 Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”  Đó là con đường tủi nhục.  Con đường khổ nạn.  Con đường chết chóc.  Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang.  Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc.  Sau chết chóc là phục sinh.  Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng.  Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.  Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”  Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa.  Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời.  Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang.  Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì.  Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào.  Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào.  Nhận diện Đấng Kitô đã khó.  Đi vào con đường của Người còn khó hơn.  Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi.  Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.

 ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Langthangchieutim gởi

NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO VÀ TIN LÀNH

NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA CÔNG GIÁO, CHÍNH THỐNG GIÁO VÀ TIN LÀNH

Tác giả:  Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Hỏi: Trong bài trước cha đã nói  đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích,  phụng vụ .v.v. Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.
Trả lời:

Vâng,  như đã giải thích trong bài trước, cả ba Nhánh Kitô Giáo trên đây, từ đầu,  đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là Kitô Giáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian,  đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms ) hoặc những cải  cách tôn giáo  (reformations) đáng tiếc xảy ra trong thế kỷ  16, khiến cho KitôGiáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma,chỉ vì Tòa Thánh La Mã ( Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, mới chỉ có một số khá đông giáo sĩ và tín đồ Anh Giáo và Tin Lành  trở về với Giáo Hội Công Giáo,  còn các nhóm ly khai trên  vẫn chưa hiệp thông trọn vẹn được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được.. Nguyên nhân thì có rất nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

I- Chính Thống  (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã ( Roman Catholicism) ra sao?

Trước hết, danh xưng Chính Thống “Orthodoxy“, theo ngữ căn (etymology) Hy lạp ” orthos-doxa“, có nghĩa là  “ca ngợi đúng” (right-praise), “tin tưởng đúng ” ( right belief) . Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn Kitô Giáo đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính (sound doctrines) , tinh tuyền của KitôGíáo được truyền lại từ các Thánh Tông Đồ để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy)

Do đó,trong bối cảnh này, từ ngữ “orthodoxy” được dùng để chỉ các giáo đoàn có chung lập trường bảo vệ các chân lý tinh tuyền của Kitô Giáo để đối nghịch với  lý thuyết của cá nhân hay của nhóm nào  bị coi là lạc giáo hay tà giáo .

Nhưng  sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội  Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople( tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã ( Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054  giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo hoàng Leo IX, vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học  và quyền bính, thì  danh xưng “Chính Thống” ( orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã ly khai không còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã  nữa . Sau này, Giáo Hội “Chính Thống” Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia,  Lithuania,  Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine…Vì thế,  ở mỗi quốc gia này đều  có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện.Nghĩa là không có ai là  người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã.(Tây Phương)

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul  được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương. Cách nay 6 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô 16 ( đã về hưu)  đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh  em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn “lôi kéo” các  tín hữu  Chính Thống Nga vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã năm 1991, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga công khai  hành Đạo.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo Đông-Tây năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương ( The Greek Church and the Holy See=Rome)  nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh  em  này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng  đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong em ngài, Thánh Anrê (Andrew)  sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó trong phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội KitôGiáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có chung nguồn gốc Tông đồ thuần túy ( Apostolic succession) -và do đó- có các Bí tích hữu hiệu như nhau.

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây

1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là  Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople-  bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “ Filioque” ( và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi  Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương chỉ muốn nói : Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần đồng bản thể trong Mầu Nhiệm Thiên  Chúa Ba Ngôi ( Holy Trinity) là điều Giáo Hội Công Giáo cũng tuyên xưng, nhưng  Chính Thống Đông Phương chỉ  không đồng ý với Công Đồng Nicêa tuyên xưng :” Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra“.

Ngoài ra , Giáo Hội Chính Thống  cũng không công nhận các tín điều về  Đức Mẹ  Vô Nhiễm  Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố  với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội  thì họ  dùng  nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

2- Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp  khi cử hành phung vụ  trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu trên thế giới.

3- Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ:  Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại  được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (pernanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế,  giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiêp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x.SGLGHCG, số 838).

II- Tin lành ( Protestantism) và những khác biệt với Công Giáo.

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíáo đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli  và các nước Bắc Âu và bắc Mỹ  sau đó.

1- Ở góc độ thần học,

Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại  việc ban ân xá (indulgences) và vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể,  Xức dầu thánh, chứng hôn).

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi, hay nhờ ân xá để được tha các hình phạt hữu hạn  đều vô ích và vô giá trị. Họ chủ trương  chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura).

Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ: “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21).

Nói khác đi, không phải cứ rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi sẽ ra vô ích.

Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và Kinh Thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác.Điển hình, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng Kinh Thánh  vì họ chỉ  tin có Kinh Thánh ( Sola Scriptura) mà thôi.

2-  Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo hội Công Giáo.

Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi ai dưới đất  là cha là thầy vì anh  em chỉ có một Cha là Cha trên trời” mà thôi. Vì họ hiểu câu này hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “ Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này,  Công Đồng Vaticanô II,  trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium,  đã dạy rằng; “ Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô  vì đã sinh  ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu Kinh Thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người, thì Đức Mẹ cà các môn đệ của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng:

Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng  Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood)  và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành.

Sau hết, về mặt quyền  bình, các giáo phái Tin lành đều biệt lâp nhau và cùng  không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.Và đây là trở ngại lớn cho việc hiệp thông (communion) và hiệp nhất (unity) với Giáo Hội Công Giáo.

3- về bí tích:

Tất cả các nhóm Tin Lành đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession) do đó, không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.

Đa số các nhóm này  chỉ có phép rửa ( Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) thì không thành sự ( invalidly) . Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người tân tòng.(catechumen). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi.

Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo hội đã theo đuổi và cầu nguyện  trong nhiều thập niên qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng đang không hiệp thông (communion) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng các Tông đồ.

Ước mong những giải thích trên thỏa mãn câu hỏi được đặt ra.

Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

“Loài cỏ cây man rợ”

 “Loài cỏ cây man rợ”

Loài ma quái ngu si!
Ta yêu em lầm lỡ
Bây giờ đường nào đi!”

(Nhạc: Phạm Duy – Ta Yêu Em Lầm Lỡ)

 (1Corintô 11: 8-9)

Trần Ngọc Mười Hai

Nếu chỉ nghe có bấy nhiêu câu thôi, thì cũng chẳng có gì là lầm lỡ. Chẳng có gì để hát được rằng: “Em là cây cỏ úa, ta là loài ma hoang!”.

Thế đấy, là tình-tự âm nhạc, rất lầm lỡ, chỉ thấy những: “cỏ úa” với “ma hoang”. Nhưng, nếu bạn và tôi, ta cứ thế đi vào giòng nhạc có những ca-từ kỳ lạ, như: “man-rợ”, “sầu bi”, “ngu si” lại sẽ còn nghe các chữ với nghĩa ghê rợn đến như sau:

 “Em yêu ma quỷ dữ
Đã đến gieo sầu bi
Em là cây cỏ úa
Em đến gieo buồn thương!
Ta cho em tất cả
Hỡi nụ hôn tình đầu!
Bây giờ tình tan vỡ
Ta còn lại thương đau.”

(Phạm Duy – bđd)

Thế đấy là lời lẽ trong âm-nhạc của nghệ sĩ họ Phạm, rất ghê rợn. Nhưng, không ghê và cũng chẳng rợn bằng những lời được phát-biểu ở nhà Đạo rất Rôma, ngày hôm ấy, như sau:

“Hôm 25.05.2015  Đức Hồng Y Turkson, Chủ Tịch Hội Đồng Toà Thánh về Công Lý và Hoà Bình đứng ra tổ chức Hội Nghị Quốc Tế về chủ đề “Phụ Nữ và Lộ Trình Phát Triển Hậu 2015: Những Thách Đố Cho Những Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững” từ ngày 22 đến 24.5 vừa qua. Đây là một Hội nghị bàn về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội và Xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô là vị Giáo Hoàng rất quan tâm đến vị trí của phụ nữ trong Giáo hội và xã hội hôm nay. Ngài dự định sẽ có những thay đổi lớn lao trong Giáo triều khi đặt phụ nữ làm trưởng một văn phòng nào đó tại Vatican.

 Trong một đoạn thư gửi đến Hội nghị, ĐTC đã có những lời khích lệ như sau: “Nhiều người nam nữ muốn đóng góp cho Lộ Trình này, khi họ làm việc để bảo vệ và cổ võ sự sống, và chiến đấu chống đói nghèo, những hình thức nô lệ và những bất công mà người phụ nữ ở mọi thời đại, và trên khắp thế giới phải gánh chịu thường xuyên.”

 Người phụ nữ đang phải đối diện với nhiều thách đố và khó khăn khác nhau tại nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Ở Phương Tây, đôi khi họ vẫn còn bị đối xử phân biệt trong công việc; họ vẫn thường bị buộc phải chọn lựa giữa công việc và gia đình; họ thường xuyên phải chịu đựng tình trạng bạo lực gia đình trong vai trò là vợ sắp cưới, vợ, người mẹ, người chị em và bà. Ở các nước nghèo và đang phát triển, phụ nữ mang lấy những gánh nặng nề nhất: chính họ là những người phải vượt nhiều dặm đường để kín nước, cũng là những người thường phải chết khi sinh, là những người bị bắt cóc cho những khai thác tình dục hoặc buộc phải kết hôn khi còn trẻ hoặc ngược lại với ý muốn của họ. Đôi khi họ thậm chí bị khước từ quyền sống chỉ đơn giản vì là phái nữ.”

 Hội nghị cũng bàn về việc bảo vệ sự sống và khuyến khích cộng đồng quốc tế cùng nhau tôn trọng sự sống của con người ngay từ lúc thụ thai. Sự sống là quyền bất khả xâm phạm và ai được phép tước đoạt quyền này.

 Trong lá thư, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng tái khẳng định như sau: “Sự sống tự bản chất có liên hệ với các vấn đề xã hội. Khi chúng ta bảo vệ quyền sống – từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên– là chúng ta bảo vệ phẩm giá con người. Bảo vệ con người thoát khỏi những thảm hoạ của đói và nghèo, bạo lực và bách hại.”

 Đức Phanxicô cũng có những lời khích lệ công việc của Hội Đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình, cách riêng cá nhân Hồng Y Turkson như sau: “Xin cho công việc của hiền đệ được đánh dấu trước hết và trên hết bởi một khả năng chuyên môn, không tìm tư lợi hay những hoạt động giả tạo, nhưng bằng sự cống hiến đại lượng. Bằng cách này hiền đệ sẽ làm tỏ lộ muôn vàn ơn huệ mà Thiên Chúa ban tặng là những điều mà phụ nữ phải mang lại, trong khi khích lệ những người khác cổ võ sự nhạy bén, hiểu và đối thoại trong những mâu thuẫn lớn nhỏ đang cần giải quyết, trong việc chữa lành các vết thương, trong việc nuôi dưỡng hết mọi hình thức sự sống ở mọi cấp độ xã hội, và trong việc mặc lấy lòng thương xót và sự dịu dàng là điều mang lại sự hoà giải và hiệp nhất cho thế giới của chúng ta. Tất cả điều này là một phần của “sự khôn ngoan nữ tính” là điều mà xã hội của chúng ta đang rất cần đến.” GNsP (theo news.va)

 Các đấng bậc trong nhà Đạo có phát-biểu hoặc nói năng với con dân mọi người, thì cũng chỉ đến thế là cùng. Còn gì ghê rợn bằng ta nghe thêm lời thơ ở ca-từ nhạc-bản trên, như sau:

Ta yêu em lầm-lỡ,

Ôm vòng tay dại-khờ.

Em là loài hoang-thú

Ta vất vả tinh-khôn.

Loài phù-hoa mắt mờ.

Bạc vàng phấn son mơ.

Nơi mộ hoang lạc thú.

Em bước hỏng lửng-lơ

Ôi! chông gai đầy lối

Cất bước đi về đâu?

Một lần ta lầm-lỡ

Trăm đường còn sầu đau!

(Phạm Duy – bđd)

Nói cho đúng, những ca-từ hoặc tâm-tình phát-biểu của đấng bậc trong Đạo/ngoài đời, cũng chưa ghê và rợn bằng truyện kể nhẹ từng định-nghĩa với định-hình người nữ-phụ ở trần-gian như sau:

“Nữ-phụ là cái chi chi? Dẫu có ra gì, cũng chẳng làm sao.

Phụ-nữ người/ngợm thế nào? Cứ để mắt đọc và rồi thấy ngay.

Thấy là thấy thế này đây:

 Phụ nữ là gì ư?

Là thiên-thần, nắm giữ sự thật và giấc mộng nhiều giả-tưởng.

Nữ-phụ, là mớ bong-bong toàn những mâu-thuẫn với đối-chọi,

Là, kẻ sợ bóng sợ gió, sợ cả con ong vò vẽ lẫn chuột bọ.

Nhưng, nàng lại có thể một mình ra tay tóm cổ tên vô-lại đột-nhập vào nhà.

Nàng chua như giấm, ngọt như nụ hồng,

Nàng hôn ta có thể cả giây phút dài, rồi lại hỉnh mũi như người không quen.

Gặp cơn giận dữ, nàng dập ta như chơi, nhưng có lúc lại nhẹ nhàng như tơ lụa

Nàng mạnh hơn cả rượu nồng, êm hơn giòng sữa óng ả, buổi nắng ráo.

Đôi lúc nàng cũng trả đũa lẫn trả-thù, có khi nàng cũng buồn/vui lẫn lộn,

Nàng thù ghét ta như thứ nọc độc nhưng lại yêu ta như mụ điên…

Và, nàng còn là gì nữa? Hãy cứ tự tiện mà thêm thắt…”

(trích điện-thư cổ mang giòng chữ rất Anh-ngữ: What a woman!)

Ấy đấy, một định nghĩa về…nữ-phụ. Nhưng, không phải thứ nào cũng đúng hết. Bởi, có lập cả ngàn trang tự-điển cũng không thể nào nói hết về phụ-nữ với nữ-phụ chốn dân-gian, phàm trần.

Không tin ư? Bạn và tôi, ta cứ mở email hàng tuần mà các lão ông gửi tung-toé, đến tràn đồng. Hãy cứ đọc rồi ắt biết, không cần phê. Và, đọc thêm nữa, sẽ thấy những giòng chảy như câu hát, rất thế này:

 “Ta yêu em vất vả
Ôi! lần cuối lần đầu
Em là cành gai sắc
Cho thịt nát xương đau.

Yêu em nên mất cả
Vỡ nụ hôn tình đầu
Yêu là sầu chất chứa
Yêu còn được là bao?
Người ngoảnh lưng dấu mặt
Cuộc đời mới đi xây
Đi van xin hạnh phúc
Nô lệ nào rủi may.

Ta thương em nhỏ bé
Với giấc mơ bạc vàng
Em là cây cỏ úa
Ta là loài ma hoang.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Hát, thì hát thế. Chứ, có ma nào lại tin như thế?

Vâng. Thôi thì, có hát mấy cũng cứ kệ. Chỉ xin bạn và tôi, ta cứ đi vào giòng chảy âm thầm gồm những lời lẽ rất ghê rợn về nữ-phụ ở ngoài đời, đến độ thế. Cũng có thể, thân-phận người nữ-phụ ngoài đời, hoặc trong Đạo còn tệ hơn thế đấy.

Thôi thì, tệ hay không tệ hơn thế, ta vẫn cứ tìm-hiểu thêm đôi chút để còn cảm-thông/thông-cảm với người chị, người em ở chốn Nước Trời là thánh-hội rất hôm nay, như thế này. Trước hết, là lời Kinh Sách rất như sau:

“Đức Chúa là Thiên-Chúa phán: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ cho nó một trợ-tá tương-xứng với nó. Đức Chúa là Thiên-Chúa lấy đất nặn ra mọi dã-thú, chim trời và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh-vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và dã-thú, nhưng con người không tìm được cho mình một tr-tá tương-xứng. Đức Chúa là Thiên-Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên-Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn-bà, vì đã được rút từ đàn-ông ra.” (Sáng Thế Ký 2: 18-23)

Và, thư thứ nhất thánh Phaolô gửi cộng-đoàn Côrintô, lại cũng viết:

“Thật vậy, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. Cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam” (1Corintô 11: 8-9)

Theo Kinh Sách Do-thái-giáo, người nữ được tạo-thành không theo hình-ảnh Thiên-Chúa, mà chỉ là “chiếc-xương-sườn-cụt-của-nam-nhân mang-ảnh-hình Thiên-Chúa. Thế nên, sở dĩ có ác-thần/sự dữ nơi gian-trần này, là doqua ngươi phụ nữ. Nói cách khác, với thế-giới do nam-nhân khuynh-loát đồng thời là thần-thánh sánh với mọi loài, cả đến nữ-phụ, thì: phụ-nữ đồng-nghĩa với những gì thấp kém, yếu hèn, hoặc hạ tầng bết bát.

Truy-tầm nền văn-minh phương Tây cũng như đạo-giáo thời kim/cổ, phần lớn đều nói lên cùng một ý-niệm thuần-nhất, rất như thế. Chẳng hạn như, triết-gia Plato trích lời Socrates khi xưa bảo: “Anh có biết là trong thế-gian này, người nam bao giờ cũng tốt/lành nhiều bề hơn người nữ chứ?” Triết-gia Xenôphôn vốn là học trò của Socrates lại cũng bảo: “Đàn-bà lý-tưởng là người thấy càng ít càng tốt, nghe càng ít càng hay và đừng hỏi gì nhiều, mới là điều tuyệt-diệu.”

 Kinh/Sách Ấn-giáo có nói: “Với người nữ, thì: việc cao-cả nhất là tự-diệt mình, khi chồng chết.” Trong khi đó, truyền-thống Ấn-độ lại cũng khuyên: “Lề-luật cấm phụ-nữ không được làm học-trò Đức Vệ-Đà.” Và, luật Manu Ấn-độ cũng khuyên-răn: “Khi nhỏ, phận gái phải làm tôi đòi cha đẻ của mình. Đến khi khôn lớn, thuộc về chồng và khi chồng chết, lại tùy thuộc con cái. Là đàn-bà, không ai được sống tách riêng một mình, bao giờ hết.”

 Theo Phật-giáo, sở dĩ đàn-bà phải sống đời nữ-lưu khổ sở, là bởi kiếp trước họ nặng nợ nhiều thứ. Thế nên, kinh Phật cũng có lời: “Con mong đời sau sống kiếp nam-nhân người phàm.” Đến như kinh Koran của đạo Hồi, cũng quan-niệm người nữ chỉ bằng phân nửa nam-nhân; và đàn bà bao giờ cũng là người hay quên sót. Bởi, bản-chất con người họ lại rất kém khi phân-biệt tốt/xấu.

Tìm-hiểu nguyên-do tại sao người nữ lại chịu cảnh “thấp cổ bé họng” đến như thế, các nhà nghiên-cứu nhận ra rằng: rất nhiều lý-do ta có thể nại ra, viết không hết. Tựu-trung thì, mọi việc tập-trung vào các lý-do chính sau đây: thời xưa, nhân-số phụ-nữ gia-tăng không nhiều như nam-giới là vì mỗi khi phải đấu-tranh thi-đua với nam-nhân, phụ-nữ bao giờ cũng thua thiệt và luôn luôn thuộc giai-cấp thấp/hèn ở dưới. Đằng khác, do cơ-thể các bà dễ bị thương-tổn khi cưu-mang sinh đẻ và cho con bú, nên các bà bao giờ cũng bị gọi là “phái yếu”, hết.

Tóm lại, từ thời tiền-sử cho đến thời du-mục/nông-nghiệp, phụ-nữ được ví như “Bà Mẹ Đất” tượng-trưng cho sự sinh-sôi/nảy-nở và phát-triển. Khi nam-giới trở-thành thần-thánh sống ở cõi trên cao chót vót chín tầng mây vần-vũ, họ mới ban ơn “mưa móc” rắc/tưới tinh-khí cho nữ-giới thụ-thai, sinh-sản làm lợi cho nghề nông cung-cấp ngũ cốc, thực phẩm nuôi sống rất nhiều đời.

Có nhiều thời, nữ-giới được coi là “người tù của chiến-tranh” biến thành chiến-lợi-phẩm cho đám quân/binh dành chiến-thắng. Do đó, họ có rất ít quyền-hành, cả quyền được sống ngang bằng, đồng-đều trong xã-hội do nam-nhân quản-cai. Ở vào lợi-thế như thế, nam-nhân lại coi đó như quyền-lợi Trên ban khiến họ có quyền được hưởng như thế, không áy náy.

Xem thế thì, vô hình chung, tác-giả kinh-thánh Do-thái-giáo lại vẫn coi nữ-giới ngang bằng loài thú, dù cũng do Đức Chúa tạo-thành. Mà, đã là loại thú, thì họ thuộc quyền nam-nhân đầu đời là Ađam. Ađam đặt tên cho người nữ cũng một kiểu như ông đã đặt tên cho mọi loài.

Duy có điều là: người nữ không được phép san-sẻ cùng một trạng-huống, vinh-quang và hình-ảnh của Thiên-Chúa. Ađam do Thiên-Chúa tạo thành, còn Evà-nữ-nhân-đầu-đời lại là khúc xương sườn cụt, rút từ cơ-thể của Ađam là nam-nhân. Dù, Evà là người có quan-hệ bàng-tộc với Ađam, tức hơn hẳn mọi loài nào khác, nhưng bà vẫn cứ phải theo lệnh của người bạn đời mình, đem cho anh ta mọi hạnh-phúc, sướng vui cả thể xác lẫn tinh-thần.

Thế đó, câu truyện tạo-thành của hai nhân-vật nam và nữ mang tính rất hư-cấu, nhưng lại được nền văn-minh cũng như đạo-giáo Đông/Tây ấp-ủ tự ngàn xưa, khó phai nhạt. Và, họ vẫn coi đó là thứ “sự thật” khó vứt bỏ. Và, đó lại là nền-tảng của thứ thần-học xưa cổ trong thánh hội, qua nhiều thời-đại. Và, đó cũng lại là triết-thuyết về sự sống, rất văn-minh theo Âu/Mỹ ta không thể xoá bỏ được.

Tốt hơn hết, chi bằng ta cứ trở về với đời sống bình-thường của thời-đại cách-mạng khoa-học vi-tính/truyền-hình; để rồi hy-vọng vào ngày mai sáng sủa lại có cuộc cách-mạng lớn vực dậy khúc xương sườn cụt nay trở-thành lý-tưởng cho đời sống rất nam-nhân, của con người. Quyết thế rồi, nay mời bạn và tôi ta đi vào vùng trời truyện kể có những chương-đoạn làm nền hỗ-trợ cho một cuộc vui sống rất nên làm.

Truyện kể nhẹ, là giòng chảy đầy kể lể như thế này:

“Truyện rằng:

 Hôm ấy, người vợ đang nấu ăn trong nhà bếp, ông chồng bèn chạy đến đứng ngay bên, nhắc tuồng bằng những câu nghe quen quen:

-Này em! Hãy cẩn thận khi nấu nướng. Ơ kìa, giời ơi! Sao em lại cho ít muối thế, làm sao ngon được?” “Ấy chết! Nước sôi rồi, em cho thịt vào nổi đi kẻo muộn.

Người vợ lúc nào cũng nghe bấy nhiêu câu liên quan đến chuyện bếp núc là nghề của nàng, bèn đáp:

-Anh làm ơn bước ra ngoài nhà một chút có được không? Nấu nướng là nghề của em mà!

-Ấy! Ấy! Em có biết là các tay đầu bếp giỏi, nổi tiếng trên thế-giới đều là đàn ông không? Anh cũng thuộc một trong những người như thế đấy.

-Thế, anh có biết biệt-tài của đàn-bà phụ-nữ ngoài chuyện để đái ra, còn hơn đàn ông biết nhiều chuyện không? Đầu bếp đàn ông chỉ được vài mống, còn đàn-bà chúng em ai cũng làm được nhiều thứ mà đàn ông không biết làm. Lại chẳng được cái tích-sự gì, chỉ mồm mép thôi, không?

-Ừ đúng đấy! Lâu rày mình đâu biết những chuyện rõ như ban ngày ấy, nhỉ?…”  

 Vâng. Có những chuyện khác-biệt giữa đàn-ông/đàn-bà rõ như ban ngày, mà đàn ông nhiều người đâu đã biết. Biết thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta hãy hát ca-từ vui/buồn ở trên như chấp-nhận cuộc sống có vui/có buồn rất đầy đủ. Để rồi, lại sẽ ngẩng đầu cao hướng về phía trước mà tự-hào. Tự hào rằng, dù nam hay nữ, ta vẫn hiên-ngang sống vui, sống mạnh, sống vững-chãi mãi về sau.

Vâng. Hiểu thế rồi, nay ta lại hát những câu như:

“Ta yêu em vất vả.
Ôi! lần cuối lần đầu,
Em là cành gai sắc.
Cho thịt nát xương đau.

Yêu em nên mất cả.
Vỡ nụ hôn tình đầu.
Yêu là sầu chất chứa.
Yêu còn được là bao?
Người ngoảnh lưng dấu mặt.
Cuộc đời mới đi xây.
Đi van xin hạnh phúc.
Nô-lệ nào rủi may.

 Ta thương em nhỏ bé
Với giấc mơ bạc vàng
Em là cây cỏ úa
Ta là loài ma hoang.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Dù, có là hay không là “cỏ úa” hay “ma hoang”, ta đây đàn-ông vẫn là đàn-ông, hoặc đàn-bà vẫn cứ là đàn-bà, chẳng ai thua ai kém ai đến một chữ.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết tâm

Coi mọi người không thua mình.

“Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết,

 “Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết,

Trước dung-nhan Thượng-Đế, xét tội/công.

Xin tha-thứ bao tội lỗi chất-chồng

Những chối bỏ, khinh chê người tật/bệnh.

Kẻ già nua, thơ trẻ Ngài truyền lệnh

Người bơ-vơ hèn mọn chính là Ta.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Đỗ)

Mai Tá lược dịch.

Bơ vơ hèn mọn. Tật bệnh, lũ trẻ thơ. Và, người nữ-phụ chất-chồng nhiều tội-lỗi, Chúa thứ tha. Chúa tha thứ, Ngài thẩm-định mọi việc không do quá-khứ, hệ-lụy mà do biết từ-bỏ những gì lôi kéo người người xuống bùn đen. Bùn đen hôm nay, mon men đến gần với Chúa, để được tha-thứ. Tin Mừng cho thấy diện-mạo hai nhân-vật: một Biệt-phái tên Simôn, một nữ-phụ gọi tắt là Maria. Biệt-phái theo ngôn-ngữ Do-thái-giáo, là “người tách riêng”. Vào thời của Chúa, người Biệt phái như thế rất đông. Đông đến 6 ngàn người. Và, họ ở rải-rác trên toàn cõi Palestine.

Hôm nay, Biệt Phái Simôn mời Đức Kitô đến nhà, phải chăng để huênh hoang khoe chòm xóm: mình quen lớn. Hay, chỉ muốn thách thức thái độ và lời dạy của Đức Kitô, thôi? Điều này, không rõ. Nhưng, chúng ta đều biết, Đức Giê-su không chọn người để đến thăm. Ngài nhận lời đến với người giàu – kẻ nghèo, dù Biệt Phái. Với giới kinh sư, thu thuế, và người phạm tội, rất đáng ghê. Vào nhà Biệt Phái Simôn, ta thấy dường như ông ta cố ý để ngỏ cửa, và tiếp đón hời hợt như muốn đặt Đức Kitô vào tình trạng lúng túng, khó xử. Cửa để ngỏ, khiến người nữ phụ tội lỗi dễ đi  thẳng vào bên trong, để gặp Chúa. Dù không đuợc mời, nhưng chị vẫn đến. Chị đến, để xem Đức Kitô đối xử ra sao với đám tội phạm. Lạm dụng tình.

Cử chỉ của người nữ phụ tội lỗi, những là: xõa tóc, đổ dầu thơm lên chân. Rồi còn, hôn chân Chúa và khóc lóc, làm đẫm ướt chân Ngài. Cảnh tượng này, có lẽ đã gây xúc phạm đối với những người công chính hiện diện, buổi hôm ấy. Trình thuật kể rõ chi tiết, để nêu lên hai thái cực của hai loại người tội lỗi. Hai thái cực này, có thể gây khó chịu cho nhân vật chính được mời, là Đức Kitô.

Lỗi của Biệt Phái Simôn, là: tuy mời Đấng Thiên Sai Đức Chúa, nhưng ông lại không làm thủ tục xã giao đúng với qui cách của nhà chủ, tức: ông ta đã không rửa chân, không ôm hơn hoà bình. Không đổ dầu lên tóc. Cả đến cử chỉ sám hối – ăn năn, cũng không. Cảnh trí trong truyện, còn dẫn đến tình huống gay hơn: khi Chúa quay về phía người nữ phụ từng phạm lỗi khi trước, Ngài nói: “Tội của chị nhiều thật đấy, nhưng đã được tha; bằng chứng là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7: 47)

Trình thuật Phúc âm, ngay từ đầu cho thấy: các xử sự của Đức Kitô rất nhẹ nhàng. Tự do. An bình. Ngài không tỏ dấu hiệu bất an. Lúng túng. Cũng chẳng ra lệnh cho người nữ phụ phải ngưng ngay các hành vi dễ gây ngộ nhận, ra như thế. Bởi, với người đời, chị luôn bị coi là người tội lỗi, mà lại dám có cử chỉ khiếm nhã, với Đấng Hiền Từ, Yêu Thương là Đức Kitô, sao? Thay vì nổi giận hoặc ngượng ngùng trước những động tác hơi xỗ sàng ấy, Đức Kitô đã không khiển trách chị; trái lại, Ngài tuyên bố: tội của chị đã được tha. Tuyên bố như thế, chẳng phải là: Chúa muốn chứng tỏ quyền uy của Ngài, là tha tội. Nhưng, qua hành động ấy, Ngài muốn nói với mọi người, rằng: lòng tin-yêu và hối cải của người phạm lỗi đã đem lại cho họ sự thứ tha. Tha thứ ấy, nay được thể hiện qua việc đổ tràn tình thương tiếp diễn, ngay sau đó.

Tình yêu và tội lỗi, hai điều không thể đi chung, cùng sống tương hợp với nhau. Càng không thể hiện diện trong cùng một nhân vị. Nhưng ở đây, người nữ phụ đã bày tỏ lòng chị đã tin-yêu Chúa thật sự. Nên, vì tình thương ấy, mọi lỗi phạm của chị đã trở thành những sơ xuất chị làm trong quá khứ. Hiện tại, khi được thứ tha, tâm hồn chị trở nên trong trắng. Rất nhiều. Xem thế thì, tình thương yêu xóa bỏ được mọi tì vết dù rất lớn, trong quá khứ. Quá khứ, không quan trọng. Hiện tại, mới cần quan tâm.

Thời nay, người đời thường chú trọng đến những gì người khác đã làm trong quá khứ. Vẫn cứ chụp lên đầu những người làm điều sai quấy bằng các nhãn hiệu/tên gọi rất khắt khe. Dù, họ đã biết đổi thay. Khắt khe quá, khiến đương sự dù có muốn, cũng không thoát khỏi các tai tiếng về các lỗi phạm, thời quá khứ. Và cứ thế, tiếng xấu cứ đeo bám họ suốt chuỗi ngày còn lại. Với Chúa, quá khứ tội lỗi không còn là vấn đề. Điều Ngài quan tâm, là: biết hối hỗi. Và, từ nay không làm thế.

Trong tâm tình này, tay trộm nghèo treo cạnh Chúa trên đồi cao hôm ấy, cũng đã ý thức. Hắn biết kêu gọi tình thương Chúa tha thứ. Nên, được Chúa hứa cho về với Ngài, nơi cõi phúc. Có lẽ, nhiều người sẽ cho đây là chuyện bất công, Chúa đã làm? Nhưng hãy nhớ rằng: ý niệm công bằng của Chúa, không là công bằng trần gian, ta vẫn hiểu. Thử hỏi: nếu Chúa không tha thứ; không đặt nặng đến hành vi ta làm trong hiện tại, thì e rằng người người sẽ không khỏi lúng túng về các lỗi phạm thời đã qua, của mình.

Đây còn là ý chính ở bài đọc 1. Nếu chỉ kể những việc mình làm trong quá khứ, thì Đavít sẽ là tay tội phạm tày trời. Hết cướp vợ người khác, lại giết người không gớm tay, không buông tha cả những đầu xanh vô tội. Nhưng, Đavít đã biết sám hối và đổi thay, nên ông được Yavê Chúa thứ tha. Nhờ sám hối – đổi thay, Đavít đã đi vào vòng tay ôm thương yêu của Chúa. Đúng như lời tiên tri Nathan nói: “Về phía Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài rồi.” (2Sm 12: 13).

Một lần nữa, Thiên Chúa cho thấy: Ngài muốn cải hóa người phạm lỗi, chứ không xử phạt. Xử phạt là hành vi hủy hoại. Chúa chẳng bao giờ hủy hoại ai. Một thứ gì. Ngài muốn mọi người trở nên một. Một thân mình. Một cộng đoàn yêu thương. Cộng đoàn biết sống hài hoà. Bình an. Trong nội tâm.

Tư tưởng này, thánh Phao lô cũng bộc bạch ở bài đọc 2. Tất cả mọi người hãy củng cố niềm tin vì đã có tình thương yêu tha thứ của Chúa, với mình. “Người được nên công chính không phải nhờ đã làm những gì luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô.” (Gl 2: 16). Đó là khác biệt giữa lối hành xử của Simôn Biệt Phái và Maria, người nữ phụ đầy lỗi phạm.

Hôm nay, tất cả mọi người, công chính cũng như có tội, nhờ có niềm tin thương mến nơi Chúa, nên đã được cứu rỗi. Tin, không là động thái của tri thức. Tin, cũng không phải là mớ tín điều mọi người cần giữ. Nhưng, trước hết và trên hết, tin chính là hành động của những người biết yêu thương. Tin tưởng vào điều gì. Vào người nào.

Nếu agapè (lòng mến) là ngôn từ chỉ định tình Cha thương yêu, thì pistis (lòng tin), là đường lối để ta đáp lại tình yêu thương ấy. Ta không thấy Chúa, cũng không bao giờ biết được Ngài, nhưng vẫn tin vì đã dựa vào các trình thuật/truyện kể, nơi Phúc Âm. Ở nơi đó, Chúa đến với ta,qua xác hèn phàm trần bằng xương bằng thịt, của Đức Kitô. Nhờ đó, ta có bước dài củng cố lòng tin mà dâng hiến trọn mình để Ngài chăm sóc. Mến thương. Tựa như người nữ phụ tội lỗi đã làm, hôm nay. Và như thánh Phaolô khuyên nhủ, tin vào Đức Kitô đã cải hoán cuộc đời của chúng ta.

Như thánh Phaolô, luật lệ không còn mang ý nghĩa gì, đối với ta. Luật lệ, sẽ không là chuyện cần thiết ta phải có, khi cuộc sống của mọi người đã có tình thương yêu hướng dẫn. Ai yêu thật sự, chẳng bao giờ làm điều sai quấy. Ác độc. Dù họ có vi phạm những chấm phết của luật lệ. Và, khi đã yêu, thì luật lệ tự khắc sẽ được tuân thủ. Nói khác đi, nếu chỉ giữ luật mà không yêu thương, thì kết cuộc cũng sẽ đưa đến những hậu quả thảm khốc, không ngừa trước.

Chính vì thế, mà thánh Phaolô  -người Biệt Phái hăng say săn bắt người phạm luật Do Thái thuở trước-  đã biết từ bỏ luật lệ của nhóm mình để trở về hiến tặng trọn đời mình cho Đức Chúa. Và khi đã hiến trọn chính mình, thánh nhân dám nói lên câu để đời: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2: 20). Hôm nay, cuộc sống và lời rao giảng của thánh nhân đã trở thành gương sáng, cho ta theo.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN

HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN

Trong tiểu thuyết “Giường đàn bà” đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố.  Tình yêu chỉ là một món hàng mà người có tiền hay không có tiền đều dùng nó để mua bán trao đổi.  Câu chuyện xoay quanh các nhân vật: Mạch – một phóng viên trẻ, đang học đại học, là nhân tình của một tổng biên tập giàu có và đa tình – người trả tiền nhà và đóng học phí cho cô.

Sau khi tan vỡ mong ước được làm mẹ do người tình một mực đòi cô phá thai, cuộc sống tinh thần của Mạch bị đảo lộn.  Cô quyết định trả thù người tình bằng cách cặp với Bob – một nhà văn nghèo đang tìm kiếm vốn tài trợ cho bộ phim mà anh chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết của mình.

Tình yêu khó khăn giữa Mạch và Bob vừa nhen nhóm đã bị những giá trị vật chất trong cuộc sống lấn lướt và dập tắt.  Bob phải ngủ với bà Thẩm Xán – một chủ doanh nghiệp giàu sang để hòng moi tiền đầu tư làm phim.  Mạch bị sự giàu sang và phong trần của giám đốc đẹp trai Trần Tả – chồng của Thẩm Xán – quyến rũ.  Bob chấp nhận cầm tiền của Trần Tả để bỏ rơi Mạch. Mạch bị Thẩm Xán đánh ghen tới trụy thai…

Tiểu thuyết hé lộ một phần sự thật về cuộc sống tàn nhẫn ở các thành phố lớn, hiện đại – nơi giá trị vật chất chiến thắng giá trị đạo đức và con người không vượt qua nổi chính mình.  Đồng tiền trôi nổi cũng kéo theo phận người nổi trôi đầy sóng gió nghi nan.  Con người lao vào vòng xoáy của vật chất đến vong thân chính mình.  Con người đã quên mất mục đích sống của mình nên cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.

Nhân loại hôm nay dường như người ta chỉ cần tiền và bằng mọi cách kiếm ra tiền.  Vì tiền mà người ta bỏ ra ngoài tất cả những giá trị đạo đức, tình yêu, lòng chung thuỷ….  Cuộc sống nếu đề cao đồng tiền lên trên mọi thứ luân lý, đạo đức thì đó là một xã hội suy đồi, nơi đó con người khó mà có những giây phút hạnh phúc đích thực, mà chỉ là những hạnh phúc giả tạo, mong manh dễ tan vỡ mà thôi.

Điều đáng tiếc cho xã hội hội hôm nay là người ta mất ý thức về tội.   Người ta đề cao tự do đến nỗi luôn làm theo ý mình mà gạt bỏ lề lật của Chúa hay những luân thường đạo lý.  Người ta luôn dùng mục đích để biện minh cho phương tiện, cho dù đó là phương tiện xấu xa, đê tiện.  Có biết bao cô gái trẻ bán thân vì lý do để lấy tiền trang trải cho gia đình, hay cho việc học bản thân.  Có biết bao người ngoại tình vì để đền ơn cho kẻ giúp đỡ thi ân.  Có biết bao người phá thai vì đông con, vì nghèo đói…  Có phải vì nghèo đói để rồi mình có thể làm tất cả mọi chuyện cho dù đó là những chuyện phi nhân thất đức hay không?  Có phải vì tiền mà mình có thể loại bỏ luân thường đạo lý hay không?  Cuộc sống nếu không còn những giá trị đạo đức sẽ là một bể khổ đối với con người.  Vì con người luôn phải đối đầu với biết bao con người xấu, với biết bao tệ nạn xấu.  Xã hội loài người sẽ hỗn loạn nếu con người đặt vật chất lên trên mọi giá trị tinh thần.  Nếu con người đề cao vật chất thì người ta sẽ dễ dàng chà đạp lên nhau chỉ vì một chút vật chất tầm thường mau qua.

AN NAN

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng sám hối chân thành như Đa-vít, hay như người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa.  Họ đều là những con người có quá khứ tội lỗi.  Họ đều mang thân phận yếu đuối của con người.  Họ đã phạm tội nhưng họ đã biết trỗi dậy.  Cuộc đời họ đã ngụp lặn trong biết bao đam mê lầm lạc nhưng lương tâm luôn làm họ cắn rứt.  Họ đã từng chọn những phù phiếm trần gian hơn là những giá trị đạo đức.  Thế nhưng, họ không có bình an tâm hồn khi sống xa luật Chúa để lao vào những chuyện phi nhân thất đức.  Họ đã trở về với lòng sám hối chân thành.  Đa-vít đã mặc áo nhặm để sám hối ăn năn.  Người phụ nữ đã quyết tâm đập bể bình ngọc như phá bỏ những hào nhoáng, phù phiếm mau qua.  Họ đã nhận ra giá trị đích thực của con người là biết làm chủ chính mình, biết giữ được phẩm giá làm người của mình.  Một con người có lý trí để biết đâu là thiện là ác, có ý chí để hướng dẫn hành vi mình đi theo lẽ phải.  Giá trị của con người là biết làm chủ bản thân để sống đúng với phẩm giá làm người, với luân thường đạo lý.  Nếu con người không còn khả năng làm chủ bản thân để đi theo lề luật thì con người đâu hơn loài vật.  Nếu con người sống chỉ biết tranh giành nhau danh lợi thú trần gian thì con người đang tự đầy đọa mình trong khổ ải trần gian.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian.  Ước gì mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng nói sự thật như Đa-vít để thật lòng ăn năn trở về với Chúa.  Nguyện xin Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót xin giúp sức để chúng ta can đảm sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn.  Amen.

LM Jos Tạ Duy Tuyền

“CÒN NHẢY KHẬP KHIỄNG CHO ĐẾN BAO GIỜ ?”

“CÒN NHẢY KHẬP KHIỄNG CHO ĐẾN BAO GIỜ ?”



Tuần lễ thứ 10 mùa Thường Niên và một nửa tuần 11 năm chẵn, bài đọc một trong mỗi Thánh Lễ hằng ngày kể cho chúng ta câu chuyện về Ngôn Sứ Elia trong sách Các Vua quyển thứ nhất, thuộc phần thứ hai (1V 17, tt.).

Elia là một ngôn sứ “lớn” nổi tiếng thời Cựu Ước, với thân phận Ngôn Sứ, ông đã trải qua biết bao gian khổ khi thi hành sứ mạng của mình, Khi mở ra những trang Kinh Thánh trong những ngày này, mới thấy Lời Chúa có sức mạnh sống động làm sao, chúng ta cùng nhau đọc để suy nghĩ và chọn lựa cách sống hôm nay.

Tên tuổi Elia gắn liền với tên tuổi một vị vua tên là Akháp, vị vua này nổi tiếng là gian ác và bạc nhược, triều đại của Akháp là triều đại mở màn dẫn đến cuộc lưu đày đau đớn của dân tộc Do Thái ở Babylon bởi một “con hùm xám miền cận đông” Nabucôđônôso. Dưới thời Akháp, Israel phân rã, bên trong thì kinh tế phá sản, đạo đức suy đồi, luật pháp rối loạn, luân lý xuống cấp, lòng người chán nản, phân rẽ dân tộc, bất công lan tràn, ngoài biên cương thì Babylon gầm gừ đe dọa thôn tính.

Bạc nhược, Akháp, vị vua đắm mình trong tửu sắc, ông xây dựng cung điện nguy nga với những vật liệu quý hiếm mà ông mua được bằng sưu cao thuế nặng của dân. Vàng bạc, đá quý ông thu tích về để tận hưởng sự giàu sang, tài sản của ông kếch sù, đất đai của ông rộng mênh mông…

Gian ác, Akháp là thủ phạm trong vụ án cướp đất của ông Navôt. Lòng tham không đáy của Akhap được sự tiếp ứng đầy thủ đoạn hèn mạt của hoàng hậu Isave, Họ đã dựng lên vụ án vu khống ghép tội Navôt rồi cướp vườn nho của Navôt, vườn nho là gia sản kế thừa của gia tộc Navôt, là đất thiêng, là linh vật của tổ tiên Navôt truyền lại. Điều đau đớn là “dân chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà Isave” (1V 21, 11).

Suy đồi, Akháp xây đền thờ cho Baal, tổ chức lễ bái, buộc dân phải cúng tế trong các đền thờ của dân ngoại mà Akháp đã xây để thỏa lòng các bà vợ dân ngoại của Akháp. Khi được nhắc nhở trở về với Chúa, ông còn lươn lẹo: “Tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7, 12).

Không quan tâm đến vận mệnh đất nước, Akháp mải mê vui thú với những trò chơi hoang tưởng của mình, say sưa bên các mỹ nhân, để mặc bọn quan quyền địa phương tung hoành ức hiếp người, gây bất công tràn lan trên cả dân tộc.

Giữa tình trạng nhiễu nhương đó, Ngôn Sứ Elia xuất hiện, dù rất cô độc nhưng ông vẫn mạnh mẽ lên tiếng cảnh báo Akháp. Kết quả là Elia phải chạy trốn quyền lực thế gian mà sống cô độc trong một khe núi. Trong cơn túng cực, Kinh Thánh nói Đức Chúa nuôi Elia bằng cách cho một con quạ đen mang bánh và thịt đến cho ông.

Ông uống nước nơi khe núi, nhưng đến một ngày, nước trong khe ấy cũng cạn khô. Dám chống lại cường quyền, Elia đã phải trả giá bằng một cuộc lẩn trốn trong gian nan (17, 2 tt.).

Không từ bỏ sứ mạng ngôn sứ của mình, một lần nữa Elia xuất hiện, trong cuộc thách đố sống còn giữa việc thờ phượng Thiên Chúa và bái lạy Baal. Đứng trước một lực lượng thật đông đảo của đối phương, 450 thầy cúng của Baal, phía sau họ là thế lực của hoàng hậu Isave, Elia không khiếp sợ,

Elia cất tiếng cảnh báo toàn dân và nặng lời với sự hèn nhát, ngu xuẩn và lòng dạ hẹp hòi mà người dân cứ mãi câm lặng chịu đựng: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho đến bao giờ ?” (18, 21). Nhảy khập khiễng, cách nói về một lối sống hèn nhát, tư lợi, ích kỷ, thiếu tầm nhìn, chấp nhận thỏa hiệp với thần ngoại, thỏa thuận với sự dữ.

Giận bọn bái lạy thần ngoại một, Elia giận dân Israel mười. Tuy chiến thắng lẫy lừng hiển nhiên trong cuộc thách đố, nhưng dân vẫn không mở mắt. Một lần nữa, trong cô đơn, Elia trốn chạy cuộc truy sát của bà Isave. Trốn ở núi Carmen, ông than thở: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi, xin cất mạng tôi…” Chỉ còn Chúa cho Thần Sứ đến an ủi ông, mang bánh và sữa đến cho ông và nhắc nhở ông “phải ăn và uống, đường còn quá dài”, ông ngồi dậy, chấp nhận ăn uống và tiếp tục chấp nhận sứ mạng ngôn sứ đầy cay đắng của mình (19, 1 – 8).

Câu chuyện về một vị Ngôn Sứ còn dài, kéo theo những chi tiết chuyển tải nhiều giá trị thiêng liêng mà lúc này đây sao quá sống động với thực tế của quê hương đất nước. Mỗi người tin được mời gọi đọc và chọn lựa thái độ của mình trong xã hội. Chẳng có thể tách chuyện Đức Tin ra khỏi những vấn đề xã hội, chẳng thể tách chuyện tinh thần ra khỏi chuyện sống chết cơm áo gạo tiền, chẳng thể tách chuyện chính trị ra khỏi chuyện thiêng liêng mầu nhiệm.

Khi đọc Kinh Thánh thấy có cái gì đó cay nồng trong khóe mắt như những giọt nước của biển mặn đau thương.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

10.6.2016