THÁNH MONICA

THÁNH MONICA

THANH MONICA

Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng, và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.  Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu.  Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng.  Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng.  Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người.  Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo.  Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.

Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh).  Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage.  Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng.  Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà.  Và rồi một đêm kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin.  Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con.  Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.

Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện.  Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè.  Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma.  Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo.  Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan.  Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.

Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica.  Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục, và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu.  Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.

Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục.  Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh.  Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu.  Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, “Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả.  Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất.”  Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.

Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.

Thánh Monica rất được mộ mến, nên nhiều người đã nhận tên Thánh Monica.  Giáo Hội tôn vinh ngài là bổn mạng của các bà mẹ, cách riêng các bà mẹ Công Giáo.  Nhiều đoàn thể hay thành phố lấy tên Ngài như thành phố Santa Monica, Los Angeles để kỷ niệm lần đầu tiên các nhà truyền giáo đến đây đúng ngày Lễ kính Thánh Monica 27/8.

Nhờ có được một Người Mẹ Tuyệt Vời, sau này Augustinô trở thành nhà giảng thuyết hùng biện, học giả uyên bác, một Thánh Giám Mục được phong là Tiến sĩ Hội Thánh.

Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền (instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn.  Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức.  Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn.  Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng, và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.

***************************** *********

Lạy Chúa, giữa những nghịch cảnh của cuộc sống gia đình, xin Chúa cho chúng con là những bà mẹ Công Giáo luôn biết siêng năng cầu nguyện.  Ngay cả đôi khi lời cầu nguyện của chúng con xem ra chưa được chấp nhận ngay, xin cho chúng con không sờn lòng nản chí nhưng biết phó thác vào ơn quan phòng của Chúa.  Xin cho chúng con hiểu rằng không phải những lời nói xuông của chúng con nhưng chính là những chứng tá yêu thương của chúng con trong những hy sinh hàng ngày mới đem lại ơn hoán cải cho những người xung quanh chúng con.  Amen!

Sưu tầm

From: Langthangchieutim

Chiều buông trên giòng sông Cửu Long

Chiều buông trên giòng sông Cửu Long
Như một cơn ước mong, ơi chiều.
Về đâu ơi hàng cây gỗ rong,
Nghiêng mình trên sóng sông yêu kiều.
(Phạm Duy – Chiều Về Trên Sông)

(1 Côrinthô 1: 17-18)

 Trần Ngọc Mười Hai

Chiều về đâu không về, sao cứ về trên sông, đến như thế? Nhất thứ là sông Cửu Long những chín con rồng có “ước mong”, có “gỗ rong” “nghiêng mình trên sóng sông (rất) yêu-kiều”.

Buồn đâu không buồn, sao lại “bỗng dưng theo đò ngang quá giang thương chiều” một nỗi buồn, tựa hồ như ca-từ còn hát tiếp ở bên dưới:

“Buồn tôi không vì sao bỗng dưng
Theo đò ngang quá giang thương chiều
Bởi vì thương nhiều nên nhớ (ơ) tình yêu
Bởi vì đời còn nhiều khi là mơ

Bởi vì đời còn nhiều khi thành thơ
Có khi vui lững lờ
Có khi tuôn sầu u
Bởi vì chiều buồn chiều về giòng sông
Bởi vì tình đời nào chỉ thù oán
Hãy cất tiếng ca cho đời thêm (ý) buồn
Hãy cất tiếng ca cho lòng thôi khô héo
Chiều buông trên giòng sông cuốn mau
Thương đời thương lẫn nhau trong chiều.”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Chiều buồn rất ư là như thế. Thế, có nghĩa: nếu cứ “giang” theo lời ca tiếng hát của nghệ-sĩ, văn-học, thì chắc người đọc và người nghe sẽ cứ thế mà hát mãi những câu ca “bọt bèo”, “mến yêu” như người hát cứ ca hoài ca mãi đến như sau:

 “Về đây bọt bèo muôn khắp nơi.
Vui buồn cho có đôi không nhiều.
Ngày mai sông về quê mến yêu.
Cho trùng dương cũng theo hương chiều.
Bể sầu không nhiều nhưng cũng (ư) đủ yêu..
(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Hôm nay, nhờ nghe đi nghe lại bài “Chiều Về Trên Sông” của nhạc sĩ họ Phạm tên Duy mà bầy tôi đây bèn nảy ra ý-định viết về những chuyện buồn xóm nhỏ đọc ở đâu đó, như một cảm-nghiệm ta truyền cho nhau, như sau:

“Truyện là truyện kể về ông bố dượng như thế này:

Ông ấy đã hơn 50 tuổi, lấy mẹ tôi cũng vì muốn tìm người bầu bạn lúc tuổi già. Ông không có điểm gì nội trội ngoài khả năng nấu ăn và tấm lòng chân thật, nhưng khi tiếp xúc với ông, tôi mới thật sự hiểu ra hai chữ “người nhà”.

Sau khi bố tôi mất được ba năm, ông ấy đã đến nhà tôi. So với người cha của tôi, ông ấy tầm thường đến nỗi chẳng có ưu điểm gì đáng để nói đến. Nhưng mà, người mẹ ngoài 50 tuổi cần có một người bầu bạn, mà yêu cầu của người già đã ngoài 50 tuổi đối với một nửa kia rất nhiều khi chỉ cần phẩm cách tốt là được rồi.

Về mặt này ông ấy có đủ điều kiện, bởi ông là người tốt nổi tiếng gần xa, là người thật thà chất phác. Cái hôm gặp gỡ lần đầu tiên với mẹ tôi, ông rất bối rối. Bởi vì ông biết rất rõ rằng mọi phương diện của mình đều không có ưu thế: nhà thì chật hẹp, tiền lương thì ít, chẳng qua chỉ là một công nhân phổ thông nghỉ hưu, hơn nữa nhà của cậu con trai vừa mới kết hôn cũng cần đến sự giúp đỡ của ông.

Nói thật lòng, mẹ tôi cũng chỉ là vì nể mặt người mai mối nên mới quyết định đến gặp ông ấy. Và cuối cùng mẹ đã sinh ra thiện cảm đối với ông bởi tài nghệ nấu nướng của ông.

Sau khi gặp mặt, ông ấy nói: “Bà Lý này, tôi biết điều kiện của bà rất tốt, không thiếu gì cả, thật tôi không có gì đáng để gửi tặng bà. Nhưng dù thế nào, chúng ta cũng hãy thử quen nhau xem sao, chiều nay bà hãy ở lại nhà tôi dùng bữa cơm đạm bạc nhé!”.

Tấm lòng chân thành của ông khiến mẹ tôi không nỡ từ chối, và bà đã ở lại. Ông không để bà động đến một tay, đã làm một bát canh với bốn loại rau, đặc biệt là món bí ngô nấu thịt, mẹ tôi đã ăn ngon đến không nỡ đặt đũa xuống.

Trước khi đi, ông đã nói với mẹ tôi rằng: “Sau này nếu như muốn ăn nữa, thì hãy đến đây. Nhà tôi tuy không khá giả lắm, nhưng chiêu đãi món bí ngô thì không tốn công phí sức chút nào”. Về sau, mẹ tôi lần lượt gặp mấy người lão niên khác nữa, nhưng mà, tuy điều kiện của mỗi người đều tốt hơn ông ấy, nhưng cuối cùng mẹ tôi vẫn chọn ông.

Lý do thật ra cũng được xem là ích kỷ, bà ấy đã phục vụ và chăm sóc ba tôi hơn nửa đời người rồi, lần này bà muốn một lần làm đối tượng được người ta chăm sóc lại. Cứ như vậy, ông ấy và mẹ tôi đã đến với nhau… Người ngoài hay là người nhà?

Hôm đó, ông ấy, mẹ tôi, thêm tôi nữa, còn có gia đình ba người của con trai ông cùng dùng một bữa cơm với nhau. Tôi đặc biệt sắp xếp bữa cơm này trong một khách sạn năm sao sang trọng, trên bề mặt thì thấy là vì để bày tỏ sự coi trọng đối với ông, thật ra là muốn thông qua đó mà thể hiện vai vế của mình.

Khi rời khỏi khách sạn, ông nhẹ nhàng nói với tôi: “Từ nay chúng ta đã là người nhà với nhau rồi, là hai bố con đấy! Sau này nếu con muốn mời bố ăn cơm thì chỉ việc đi đến những quán ăn bên đường là được rồi, ở đó bố sẽ ăn được thoải mái hơn, lòng không bị đau và cũng không thấy tiếc tiền”.

Chính biểu lộ tình cảm chân thành của ông đã làm tổn thương cái tâm hư vinh giả dối của tôi, khiến tôi cảm thấy đấu trí với một người thật thà, giống như một người lớn lấy kẹo để dụ dỗ một đứa con nít vậy, thật là vô sỉ chẳng còn gì để nói nữa.

Ông ấy đã chăm lo cho mẹ tôi rất tốt, bà ấy mỗi lần gặp tôi đều bảo cần phải giảm cân, đó là một giọng điệu hạnh phúc. Ông ấy nấu ăn thật sự rất ngon. Một lần nọ, khi cùng ăn cơm với mọi người, tôi không nhịn được nói với vợ rằng: “Lần sau khi chú Đường làm cơm, em hãy ở bên cạnh mà học hỏi một chút”.Trong sắc mặt của vợ vốn không hề có phần muốn học, trái lại còn có mấy phần tức giận.

Ông vội vàng đứng ra giải vây, ông nói: “Một đời này của bố đều không làm được gì tốt cả, chỉ có chút tài nghệ làm được mấy món ăn, các con đều là những người làm chuyện đại sự, tuyệt đối đừng có học theo ta, nếu như muốn ăn, thì hãy đến đây, đến bất cứ lúc nào cũng được. Làm cơm này, sợ nhất là cơm mình làm không có người ăn”.

Hôm đó khi chúng tôi đi về, ông ấy đã gói rất nhiều đồ do chính tay ông làm bảo chúng tôi mang về, vừa cầm lấy tay tôi vừa nói: “Đừng có khen cơm của bố nấu ngon nữa, nói thật lòng, hễ có người nói đến ưu điểm này thì bố thấy ngại lắm. Một người đàn ông chỉ biết nấu ăn, còn những phương diện khác thì lại không làm được trò trống gì cả, đây đâu thể nói là ưu điểm được”.

Trên đường về nhà, tôi đã kể lại cho vợ nghe những lời này của ông. Cô ấy nói: “Người như ông ta, trời sinh là số phải phục vụ người ta, trời sinh chính là bằng lòng cúi đầu đến sát mặt đất. Mẹ chúng ta có phúc khí, già rồi còn làm một hoàng thái hậu”.

Tôi vừa lái xe, vừa dùng mắt liếc nhìn vợ, cảm nhận sự khinh thường của vợ đối với ông ấy, trong lòng lại không biện giải gì cho ông. Rốt cuộc, ông trước sau vẫn là một người ngoài mà. Xấu hổ. Hôm tôi dọn sang nhà mới, ông ấy và mẹ tôi đã đến nung đáy nồi (một tập tục khi dọn nhà) cho chúng tôi. Ông đã làm theo tập tục nung đáy nồi một cách cẩn thận kỹ càng đâu vào đấy. Nhưng mà, đợi đến lúc ăn cơm, ông lại không xuất hiện trên ghế dành cho bề trên, tìm khắp nơi đều không thấy ông ấy, gọi điện thoại cho ông, cũng là ở trong tình trạng khóa máy.

Dường như đã tính toán kỹ thời gian, khi khách khứa đi hết cả, ông đã quay trở lại, cẩn thận dọn dẹp đống bát đĩa bừa bộn đó, đem những đồ ăn còn thừa lại đựng trong hộp cơm mà ông đã chuẩn bị sẵn, để đem về nhà ăn.

Mẹ không mong ông làm như vậy, cảm thấy tủi thân cho ông, ông nhỏ tiếng nói thầm với bà rằng:

-Buổi tối anh sẽ nấu cơm mới cho em, những cái này anh sẽ tự ăn hết.

Mẹ nói:

-Làm gì mà ngày nào cũng phải ăn cơm thừa rau thừa như vậy chứ? Anh có biết rằng em thấy anh làm như vậy, trong lòng rất khó chịu hay không?

Ông ấy đã an ủi mẹ tôi rằng:

-Em tuyệt đối đừng có thấy khó chịu, để anh nhìn thấy lãng phí như vậy, trong lòng anh mới không dễ chịu. Tiền của Thụ Tán (tên của tôi) đều rất vất vả mà đánh đổi lấy, chúng ta không giúp con nó được gì cả, vậy thì hãy gắng sức tiết kiệm thay cho nó.

Lời của ông khiến cho mẹ tôi day dứt, sau đó bà ấy quyết định nói với tôi. Nghe thấy mẹ nói thay cho ông ấy trong điện thoại, lúc đó cảm giác trong lòng tôi rất phức tạp, đồng thời cũng vì phần phức tạp này của mình mà cảm thấy rất xấu hổ.

Dần dần, thiện cảm đối với ông ấy mỗi lúc một nhiều hơn. Có những lúc, thậm chí có phần ỷ lại, ông ấy vẫn luôn âm thầm làm rất nhiều chuyện cho chúng tôi, thay ống nước bị hư trong nhà, mỗi ngày đưa cháu đến nhà trẻ và rước cháu về nhà, khi mẹ nằm viện ông ấy đã không ngủ không nghỉ mà chăm sóc bà, mãi đến sau khi xuất viện mới nói với chúng tôi.

Chỉ là không ngờ rằng có một ngày, ông cũng ngã bệnh, hơn nữa bệnh còn nghiêm trọng đến thế. Trên đường ông ấy đưa con của tôi đến nhà trẻ đã đột nhiên ngã xuống – bệnh tai biến mạch máu não, bán thân bất toại mà nằm trên giường.

Tôi, còn có con trai của ông ấy, ban đầu đều rất tích cực đối với việc trị liệu của ông, chúng tôi mong ông mau chóng khỏe lại, vẫn có thể chịu mệt nhọc vất vả mà phục vụ cho chúng tôi giống như trước đây. Nhưng mà, ông đã không bao giờ đứng dậy được nữa. Trước đây ông chỉ biết mỉm cười, không ngờ giờ đây đã biến thành yếu ớt như vậy, lúc nào cũng chảy nước mắt.

Mẹ chăm sóc cho ông, ông khóc; chúng tôi đẩy xe lăn dẫn ông đi chơi vùng ngoại ô, ông khóc; nhiều lần nằm viện, nhìn thấy tiền bị tiêu đi như nước, ông khóc. Cuối cùng có một ngày, ông đã dùng con dao cạo râu ra sức cắt cổ tay của mình. Cấp cứu trong suốt 5 giờ đồng hồ, ông mới giằng co từ trong cõi chết trở về, rất mệt mỏi, cũng rất tuyệt vọng.

Điều thật sự không ngờ rằng, người đầu tiên bỏ ông ấy đi lại chính là con trai của ông. Con trai của ông rất ít khi đến thăm ông, sau này còn không chịu ló mặt ra một lần. Mỗi lần gọi điện thoại anh ta đều nói rằng mình đã đi công tác, trở về sẽ ghé thăm ông.

Điều khiến tôi không ngờ hơn nữa, mẹ tôi vào lúc này cũng nói rằng bà muốn chia tay với ông. Hai người vốn dĩ cũng chưa có chính thức, chỉ là chuyện vỗ mạnh một cái mỗi người mỗi ngả. Mẹ nói với tôi rằng: “Mẹ đã già rồi, không lo nổi cho ông ấy nữa. Mẹ không giúp được gì cho con cả, nhưng cũng không thể lượm một người cha tàn phế về, làm liên lụy con được”.

Đây chính là hiện thực tàn nhẫn. Tôi không muốn để mẹ tôi làm người ác, thế là tôi đành phải nhẫn tâm đóng vai kẻ ác, quyết định tự mình đến nói ra chuyện chia tay này. Tôi nói với ông, người vốn đang nằm trong bệnh viện rằng:

-Chú Đường, mẹ con bệnh rồi.

Nước mắt của ông lại tuôn trào ra như mưa, tôi gắng sức nói ra những lời tàn nhẫn:

-Chú biết đấy, mẹ con cũng đã có tuổi rồi. Những ngày này, bà ấy đối với chú như thế nào, chú cũng đã thấy rồi. Chú tiếp tục chảy nước mắt gật đầu. Tôi lại nói tiếp:

-Chú Đường, chúng con còn phải đi làm nữa, mẹ con sức khỏe lại không được tốt. Chú xem như vậy có được không, sau khi xuất viện, chú hãy về nhà của chú, con sẽ thuê một người đến săn sóc cho chú. Đương nhiên, tiền sẽ do con trả, con cũng sẽ thường xuyên đến thăm chú. Khi nói đến đây, chú không khóc nữa. Chú gật đầu liên hồi, nói một cách cảm kích:

-Nếu được như vậy thì tốt quá, nếu được như vậy thật đúng là tốt quá. Không cần người giúp đỡ, thật sự không cần…

Tôi bước ra đến khuôn viên của bệnh viện lại chảy nước mắt, không rõ đó là cảm giác nhẹ nhõm sau khi được giải thoát, hay là trong lòng có nỗi day dứt không nói thành lời. Tôi đã mời một người giúp việc cho ông ấy, trả trước chi phí trong một năm. Sau đó, tôi lại đến nhà ông ấy, thuê công nhân tu sửa lại nhà của ông một chút, tôi đã cố gắng làm đến trọn nhân trọn nghĩa. Không phải vì ông, chỉ vì an ủi nỗi bất an trong lòng. Cái ngày ông ấy xuất viện trở về nhà, tôi không có đi, mà là bảo tài xế trong đơn vị đến đón ông.

Sau khi tài xế trở về đã nói với tôi rằng:

-Chú Đường nhờ tôi nói tiếng cảm ơn với anh, còn bảo rằng ngay cả con trai ruột của chú, cũng không làm được như vậy.

Những lời này, đã an ủi tôi ít nhiều, khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm phần nào, nhưng loại an ủi này vốn không có duy trì được bao lâu. Ngày xuân lạnh buốt. Ngày tết không có ông ấy ở nhà, chúng tôi thấy có chút buồn tẻ, không còn có một người bằng lòng vùi đầu vào trong nhà bếp, làm đủ các loại món ăn cho chúng tôi.

Chúng tôi ngồi ăn cơm tất niên trong khách sạn năm sao, nhưng lại không cảm nhận được cái hương vị nồng ấm của ngày tết nữa. Con trai trên đường về nhà nói:

-Con muốn ăn món cá chép do ông nội làm.

Vợ tôi nháy mắt ra hiệu cho con trai đừng có nói nữa, nhưng mà, con trai trái lại quậy càng dữ dội hơn:

-Tại sao mọi người lại không để cho ông nội về nhà đón tết, mọi người thật đúng là xấu xa mà!.

Vợ tôi tức giận giáng cho con trai một cái bạt tai thật mạnh. Nhưng cái bạt tai đó giống như là đang đánh vào mặt vậy, khắp mặt sưng lên đau đớn. Một câu nói của con trai, khiến cho điều chúng tôi tự thấy an ủi đều đã sụp đổ tan tành.

Tôi từ trong kính chiếu hậu, nhìn thấy đôi mắt của mẹ cũng đang đỏ hoe. Không nghĩ cũng hiểu, đó là ngày 30 tết buồn tẻ biết mấy. Tôi thấy rất nhớ năm ngoái, cái năm mà ông ấy vẫn còn ở nhà chúng tôi, một gia đình ấm cúng hạnh phúc, luôn được xây dựng trong sự phó xuất lặng lẽ của một người.

Không biết giờ này, chú Đường đang đón tết với ai? Liệu có nhớ đến chúng tôi chăng? Liệu có vì sự vô tâm của chúng tôi mà trong lòng cảm thấy tủi thân?

Về nhà. Sau khi tiếng trống đầu xuân vang lên, tôi lái xe đi đến chỗ của chú Đường. Ông ấy bước những bước chân tập tễnh ra mở cửa cho tôi, nhìn thấy tôi, miệng đang nở nụ cười, trong mắt lại đẫm lệ.

Đi vào ngôi nhà lạnh lẽo của ông, nước mắt của tôi cũng không thể ngăn lại được nữa. Tôi cầm điện thoại lên gọi cho con trai của ông ấy, sau khi mắng chửi cho anh ta một trận, bắt đầu gói sủi cảo cho ông.

Người giúp việc đã về nhà đón tết rồi, trên đầu giường đã chuẩn bị sẵn điểm tâm đủ cho ông ấy dùng đến ngày 15, trong lòng tôi cũng thầm trách mẹ. Những chiếc sủi cảo nóng hổi cuối cùng đã khiến trong nhà ông ấy có được một chút không khí ấm cúng của ngày tết. Chúng tôi cứ ăn một miếng sủi cảo, nước mắt của cả lại lã chã tuôn rơi.Buổi sáng tinh mơ của ngày mùng một, tôi lảo đảo rời khỏi căn nhà của ông, tôi đã uống rượu, đậu xe ngay dưới lầu của nhà ông ấy, một mình đi trên con đường lạnh tanh, trong lòng đầy rẫy thê lương. Điện thoại reo lên, là vợ gọi đến:

-Anh ở đâu vậy hả?

Tôi phát hỏa lần nữa:

-Tôi đang ở trong nhà của một ông lão cô độc, nghe rõ chưa hả? Chúng ta là loại người gì vậy hả?

Khi ông ấy có thể đi lại được, chúng ta lợi dụng người ta; bây giờ ông không cử động được nữa, chúng ta lại gửi trả về. Lương tâm của chúng ta phải chăng đã bị chó ăn mất rồi, vậy mà còn đòi học theo người ta nói nhân nghĩa đạo đức, tôi khinh!

Ở trên đường cái, tôi mắng chửi bản thân mình thật tệ hại, mắng đủ rồi, mắng mệt rồi, tôi không chút do dự mà chạy trở lại, cõng ông ấy trên lưng rồi đi ra bên ngoài. Ông giãy giụa, hỏi tôi:

-Con làm vậy là sao?.

Tôi lấy giọng điệu chắc nịch mà nói với ông rằng:

-Về nhà.

Ông nội mà, chính là để chúng ta yêu thương

Ông ấy đã trở về. Người cảm thấy vui nhất là con trai tôi. Nó vừa ôm vừa hôn ông, luôn miệng đòi ăn món cá chép, đòi ăn món bánh quai chèo, muốn làm thẻ siêu nhân.

Vợ lôi tôi vào trong phòng, hỏi tôi:

-Anh điên rồi sao? Ngay đến cả con trai ông ta còn không lo cho ông ta, anh dẫn ông ta về nhà làm gì vậy?

Tôi không còn nổi nóng nữa, ôn hòa nhã nhặn nói với cô ấy:

-Con trai ông ấy làm chuyện không đúng, đó là chuyện của anh ta, không nên lấy đó làm cái cớ để chúng ta bỏ rơi ông ấy. Anh không yêu cầu em phải xem ông ấy như bố chồng của mình, nhưng mà, nếu như em yêu anh, nếu như em biết nghĩ cho anh, thì hãy xem ông ấy như người nhà, bởi trong lòng của anh, ông ấy chính là người nhà, chính là người thân, bỏ rơi ông ấy thì rất dễ dàng, nhưng không giấu được nỗi day dứt trong tâm. Anh muốn tâm mình được thanh thản một chút, chỉ đơn giản vậy thôi.

Cùng một lời này, khi nói với mẹ, bà nước mắt như mưa, nắm chặt lấy tay tôi nói rằng: Con trai à, mẹ thật không ngờ con lại có tình có nghĩa như vậy.

Tôi nói: Mẹ, mẹ yên tâm đi. Nói hơi khó nghe một chút, cho dù sau này có một ngày, mẹ mà đi trước chú ấy, con cũng sẽ phụng dưỡng chú ấy đến cuối đời, với thu nhập của con hiện giờ, nuôi chú ấy nào là chuyện khó gì? Thêm một người thân, thì có gì không tốt chứ?

Một lúc sau, con trai tôi đi vào xin tôi: Bố ơi, đừng có gửi ông nội về nữa. Sau này, con sẽ chăm sóc ông ấy. Sau này bố già rồi, con cũng chăm sóc bố mà!

Tôi ôm con trai vào trong lòng, trống ngực đập thình thịch, thật may là vẫn chưa quá muộn, còn may chưa để lại một ý nghĩ bất hiếu trong lòng của con.

“Ông nội mà, chính là để cho chúng ta yêu thương, sao lại gửi đi được nữa!”. Tôi mở miệng nói đùa với con trai, để củng cố niềm tin vững chắc cho nó…

Đọc xong, bạn có lĩnh ngộ được đạo lý giản dị trong đó hay không? Thật ra cha mẹ vốn đòi hỏi không nhiều, chỉ là một lời chào hỏi: “Cha, mẹ hôm nay có khỏe không?”, chỉ cần mua một ít thức ăn khuya, nấu một bữa tối đơn giản, trước khi ngủ đắp chăn cho họ, trời lạnh thêm áo ấm, đeo găng tay giúp họ, chỉ những cử chỉ rất nhỏ thôi cũng sẽ khiến họ thấy ấm áp vui vẻ rất lâu.

Có những lúc, tôi thường hay nghĩ: “Tôi mong con cái của tôi sau này sẽ đối xử với tôi thế nào đây?”. Tôi tin rằng, đời người là một vòng tuần hoàn; bây giờ bạn đối đãi với cha mẹ như thế nào, sau này con cái của bạn cũng sẽ đối xử với bạn như vậy.

Bạn thân mến, trên đời này ân tình khó trả nhất chính là ân tình của cha mẹ, mong chúng ta đều có thể lấy tâm hiếu thuận mà chăm sóc cho cha mẹ, lấy tâm cảm ân mà hiếu thuận với cha mẹ!

Sinh mệnh không đòi hỏi chúng ta phải trở thành người tốt nhất, mà chỉ đòi hỏi chúng ta cố gắng hết sức mà thôi! Cây muôn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn tận hiếu nhưng song thân không còn nữa. Chuyện khó chờ đợi nhất trên đời này, chính là hiếu kính cha mẹ, đừng đợi đến khi mất đi rồi mới hối tiếc rằng bản thân ngày trước không biết trân quý…” (Tiểu Thiện chuyển dịch từ Cmoney.tw)

Vâng. Phiếm luận đường dài bao giờ cũng gồm đầy những truyện kể để kể cho nhau nghe. Không cần biết, nhà Đạo mình có thích nghe đọc truyện ấy hay không. Kể truyện ở đây, là để hợp giọng với Đức Phanxicô hôm ấy đã có lời khích-lệ giới trẻ ở Krakow, Ba lan nhân dịp Đại Hội Trẻ ở đây, rằng:

“Hôm ấy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô kể cho giới trẻ biết rằng các em được mời gọi không phải để trở thành những củ khoai nằm dài nơi ghế nệm ở phòng khách, sống cuộc sống nhàm chán/tẻ nhạt mà là để lại dấu vết tinh-hoa của mình với lịch-sử và không để ai khác định-đoạt tương-lai của chính mình.

 Tựa hồ trận đấu túc-ầu, cuộc sống “chỉ đưa người chơi bóng vào với lối chơi chủ-động chứ không phải ngả dài trên dãy ghế thưởng-thức, thật êm ấm”. Thế-giới hôm nay đòi hỏi các em đây giữ vững vai-trò chủ-đạo trong lịch-sử, bởi lẽ cuộc sống bao giờ cũng rất đẹp khi ta chọn sống cuộc sống của ta một cách trọn-vẹn và chọn để lại dấu-tích của mình ở trong đó…”

 Nói thế rồi, Đức Giáo Hoàng còn mời gọi mọi người có mặt ngày hôm đó, hãy nắm chặt tay nhau  mà nguyện-cầu trong thinh-lặng, trao về cho Thiên-Chúa cuộc phấn-đấu nội-tâm của chính mình, một phấn-đấu mà mỗi người trong ta vẫn mang nặng trong tâm can của chính mình. Đức Giáo-Hoàng còn cảnh-giác các bạn trẻ thuộc nhóm hành-hương hôm ấy là đừng để mình rơi vào cảnh bại-liệt rút từ sự lẫn-lộn giữa mối phúc-hạnh với “ghế nệm êm-ả”.

 Bởi như ngài nói: ghế nệm vẫn luôn hứa-hẹn sự êm-ả, thoải-mái và an-toàn trong khi nó chỉ là hình-thức âm-thầm của bại-liệt khiến cho các người trẻ, nam cũng như nữ, cứ trở-thành những người “đờ-đẫn”, đến chóng mặt…

 Đức Giáo-hoàng đã khích-lệ đám người hành-hương nhớ rằng mình không được gọi mời để sống “tẻ-nhạt” với đời và trong đời, nhưng để lại dấu-tích độc-đáo trong cuộc đời. Bởi, khi ta chọn lối sống êm-ả và thoải-mái, là ta sẽ phải trả giá rất cao là mất đi sự tự-do dành cho mình.

 Thay vào đó, ta được mời gọi dấn bước vào con đường đầy tính “khùng-điên” của Thiên-Chúa là đường hối-thúc mọi tín-hữu Đức Ki-tô thực-hiện việc từ-bi/bác-ái bằng cả thân-xác và thần-tính của chính mình. Thiên-Chúa muốn tất cả mọi người chúng ta thấy được rằng: cùng với ta, thế-giới này phải trở nên khác-biệt. Bởi, nếu ta không cống-hiến những gì tốt/đẹp nhất của chính mình, thì thế-giới này sẽ chẳng bao giờ trở nên khác-biệt hết.

 Và, Đức Phanxicô lại cũng kêu mời những người đã trưởng-thành hãy dạy-dỗ cho thế-hệ trẻ biết cách “sống có khác-biệt trong tương-quan đối-thoại, biết trải-nghiệm cuộc sống đa văn-hoá, đừng trở-thành mối đe-doạ cho ai hết nhưng là cơ-hội để mọi người vươn lên.

 Vì thế nên, người trẻ hôm nay sẽ là những người lên án chúng ta nếu ta chọn-lựa cuộc sống như bức tường/thành cứng-ngắc, thứ cuộc sống đầy hận-thù, một cuộc sống chiến-tranh, rất lạnh nhạt. Hãy có can-đảm mà bảo với chúng tôi rằng: xây nhiều cầu nối bao giờ cũng dễ hơn xây tường thành kiên-cố.” (X. Junno Arocho Estevez, Francis Urges Youth: Follow the ‘Path of Craziness’ of our God, The Catholic Weekly 07/8/2016, tr. 28)

Còn nhớ, thánh Phao-lô tông-đồ cũng từng gọi công cuộc giảng-rao tình thương-yêu của Thiên-Chúa như sự điên rồ đối với những người đang hư-đốn, như sau:

“Quả vậy,

Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa,

nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng,

và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo,

để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.

Thật thế,

lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ

đối với những kẻ đang trên đà hư mất,

nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ,

thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.”

(1 Côrinthô 1: 17-18)

Điều nghịch-lý/nghịch-thường ở cuộc sống hôm nay, là: rất nhiều người cứ trùm chăn êm ả ngả dài trên ghế dựa phòng khách, chứ không hăng-say lao mình vào công-cuộc giảng-rao như ngây như dại theo kiểu bậc thánh-hiền của Đức Chúa.

Thế nên, các đấng bậc nhà Đạo lại vẫn luôn kêu gọi hết mọi người già/trẻ, lớn/bé gái/trai hãy hăng say sống cuộc sống rất điên rồ trong rao-giảng tình-thương-yêu của Thiên Chúa với con người.

Hăng-say/rồ-dại như mô-tả của bậc thánh-hiền chốn nhà Đạo, còn là ảnh/hình về một động-thái phải có trong cuộc sống thường-nhật của mỗi người và mọi người. Hăng-say/rồ-dại, còn là mục-tiêu ta nhắm tới mỗi khi làm việc gì đó cho thế-giời cuộc-đời đang hăng-say/rồ-dại với những chuyện viển-vông, không tưởng chẳng mang lợi ích cho ai hết.

Hăng-say/rồ-dại còn là và phải là thái-độ sống rất “Tri-Thiên-Mệnh” như đề-nghị của một đấng bậc khác Đạo, khác văn-minh, văn-hoá ở trời Đông, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, như sau:

“Khi trong tay anh nắm chặt vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có được mỗi thứ ấy, vật ấy mà thôi. Nhưng, nếu anh chịu buông nó xuống, thì anh mới có cơ-hội chọn-lựa những thứ khác. Thế nên, Tri-Thiên-Mệnh là:

Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. 

Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. 

Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí. 

Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. 

Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. 

Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. 

Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. 

Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục .”

Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.

 Ra đời hai tay trắng. 

Lìa đời trắng hai tay. 

Sao mãi nhặt cho đầy. 

Túi đời như mây bay.”

 Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình. Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu.

Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong,  ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thươngđến muôn loài”.

Là con Phật, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác. Nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh.

Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác. Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. 

Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.” (Đức Đạt Lai Lạt Ma phát-biểu trong một bài pháp ngắn, nhưng thâm sâu)

 Ngắn, nhưng thâm-sâu, còn là ý-lực của bài hát ta đã trích. Nay, lại sẽ mời bạn và mời tôi, ta sẽ hát thêm và hát mãi lời bài hát “Chiều Về Trên Sông”, có nỗi buồn như sau:

“Chiều buông trên giòng sông Cửu Long”
Như một cơn ước mong, ơi chiều.
Về đâu ơi hàng cây gỗ rong,
Nghiêng mình trên sóng sông yêu kiều.

Buồn tôi không vì sao bỗng dưng.
Theo đò ngang quá giang thương chiều.

Bởi vì thương nhiều nên nhớ (ơ) tình yêu.
Bởi vì đời còn nhiều khi là mơ.
Bởi vì đời còn nhiều khi thành thơ.
Có khi vui lững lờ.
Có khi tuôn sầu u.
Bởi vì chiều buồn chiều về giòng sông.
Bởi vì tình đời nào chỉ thù oán.

Hãy cất tiếng ca cho đời thêm (ý) buồn.
Hãy cất tiếng ca cho lòng thôi khô héo.
Chiều buông trên giòng sông cuốn mau.
Thương đời thương lẫn nhau trong chiều.”

(Phạm Duy – bđd)

 Buồn, nhưng vẫn “thương đời thương lẫn nhau trong chiều”. Thế đó là lời kết đẹp, xin được gửi đến bạn, đến tôi và mọi người, ở trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn suy nghĩ rất lung

về lời kêu gọi của Đức Giáo Tông hay ai đó

rất an-toàn, cụ-thể, đầy thương mến.

“Trời có mây cao với gió thanh,

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 22 thường niên năm C 28/8/2016

                                                Tin Mừng: (Lc 14: 1, 7-14)

Một ngày Sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Ngài.

Ngài nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này:

“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.

Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Ngài rằng:

Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.

 

“Trời có mây cao với gió thanh,

Đất đầy sự nghiệp những tay lành.

Cũng như phơi phới đi vào tiệc,

Bữa tiệc đôi ta, một tâm-tình.”

(Dẫn từ thơ Xuân Diệu)

 Trình thuật hôm nay, thánh Luca không cũng có kể nhưng không chỉ mỗi tiệc về tiệc, về tình mà còn về Vương Quốc Nước Trời. Chính đó, là mục tiêu mà mọi con dân nhà Đạo đều nhắm tới. Về tiệc hôm nay, nhóm Pharisêu vẫn muốn xem Đức Chúa làm những gì, vào ngày Sabát. Và, Chúa có lẽ đã bị chỉ trích, vào lúc Ngài mở lời.

Lời Ngài mở, không nhằm đối đáp với bọn người xấu chỉ muốn hỏi xem Ngài có những hành vi chống lại lề luật không. Lời Ngài, là về dụ ngôn với những ảnh hình, rất thực tế. Thực tế như sự thực đang diễn ra trước mắt gồm các thực khách đến dự. Và một thực tế khác, là: Đức Chúa vẫn ngồi cùng bàn với đủ mọi hạng người: từ kẻ giàu sang quyền thế, đến người nghèo hèn, tội phạm. Ngài đến với hết mọi người. Ngài đến như giọt nắng giọt mưa đổ tưới trên đầu mọi thần dân.

Lời Ngài nói bằng dụ ngôn, nhằm đáp ứng lề lối mà thực khách thời đó vẫn hành xử, khi vào tiệc. “Họ chỉ muốn chọn chỗ nhất mà ngồi.”(Lc 14: 7)  Vào thời buổi này, các buổi tiệc do quan “lớn” khoản đãi, đều có định chỗ trước cho khách ngồi vẫn là chuyện thực tế, rất ý nhị. Các đấng bậc có vai vế quan trọng được xếp chỗ gần chủ nhà. Có tiệc, chủ nhà còn định chỗ bằng cách để thẻ bìa có đề tên.

Lời Ngài tỏ bày hôm nay, đảo lộn mọi trật tự của đời thường. Đức Chúa vẫn thường khuyên dạy: “khi được mời đi ăn, thì đừng ngồi vào chỗ nhất”. Làm theo như thế, kẻ bon chen cạy cục sẽ không tránh khỏi tình trạng khó xử.Và, đôi lúc cảm thấy phẩm giá con người bị xuống thấp. Nếu làm theo đề nghị của Ngài, chắc cũng có người sẽ coi đó như hành động dưới cơ, thiếu tự tin. Tình cảnh này được coi như một tai ương giao tế đến bất ngờ. Nhưng ở đây, khi Đức Giê-su kể dụ ngôn, Ngài không cố ý khuyên ta nên hành xử hoàn toàn từng chữ theo nghĩa đen.

Điều Ngài muốn nhủ, là: ở nơi Vương Quốc Nước Trời, việc chọn chỗ nhất nơi bàn tiệc là chuyện không nên, dễ ngộ nhận. Bởi, ý nghĩa và tinh thần của Vương Quốc Nước Trời không qui vào vị thế xã hội mà thứ đời phàm lúc nào cũng đổi thay. Với nhà Đạo, chuyện quan trọng chỉ nằm ở chỗ: làm sao duy trì được tương quan giữa chúng ta với Chúa, và với mọi người cho tốt đẹp.

Đừng quá bận tâm đến vị thế chỗ ngồi. Hoặc, thứ bậc, địa vị, sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp hoặc giai cấp. Vị thế đích thực trong tương quan với Chúa, không thể cân đo đong đếm bằng nghề nghiệp, chức tước hoặc danh xưng. Nhưng, bằng độ sâu độ dài của tình yêu. Bằng  quyết tâm phục vụ Chúa qua giao tế với người đời, sống quanh ta.

Điều quan trọng khác, không phải là: hỏi xem mọi người nghĩ thế nào về mình, coi mình là ai hoặc đối xử với mình như thế nào. Nhưng, là dựa vào mức độ chăm sóc tỏ bày tình thương yêu của ta đến người khác. Đến cả những người dưng khác họ, nữa.

Thái độ và lối hành xử mà Đức Chúa vẫn khuyên mọi người nên có, lại được củng cố thêm bằng lời thư thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Do Thái, rất rõ ràng: “Anh chị em đã lên núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa” (Dt 12: 22).

Đoạn cuối truyện kể hôm nay, Chúa hướng thẳng về phía người thủ lãnh nhóm Pharisêu. và bảo họ: “Khi các ông đãi khách ăn trưa ăn tối, thì đừng mời bạn bè, hay bà con láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại các ông”. (Lc 14: 12)

Thời buổi này, lời nhủ của Chúa có thể áp dụng cho các vị có chức, có tiền. Cả trong Đạo, lẫn ngoài đời ta chỉ nên mời những người nghèo khó, thân cô thế cô, những người không có khả năng tham dự bất cứ bữa tiệc nào. Dù linh đình hay thanh bạch hoặc chỉ nên mời mọc những người không có khả năng mời trở lại. Hoặc, những người không có ý định mua chuộc, hay tham ô, nhũng lạm. Tức, họ chẳng làm gì có sức có quyền để ta nhờ vả, thăng tiến bản thân trong thang cấp cầm quyền.

Điều mà trình thuật nay muốn nói, là: hãy hoạt động để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Xã hội mang hình vòng cung, hay quả cầu. Trong vòng cung trái cầu ấy, không ai ở quá cao. Cũng chẳng có người ở nơi rốt hết. Tức là, mọi người đều có quyền lợi đồng đều, như nhau. Mọi người đều ở vị thế tương đối khá, để có thể san bớt cho những người còn thiếu thốn, nợ nần. Và, nếu đặt một bàn tròn ở giữa, thì mọi người đều có thể với tay chung phần, dự tiệc vui không thua kém ai. Bữa tiệc mà trong đó mọi người đều ngang phần. Đó là Nước Trời ở trần gian.

Có lẽ, sẽ có người cho đây là chuyện viển vông, không tưởng. Chỉ là chuyện viển vông, nếu nghĩ rằng chuyện ấy sẽ xảy đến ngày một ngày hai. Hoặc, vào thế hệ kế tiếp. Thế nhưng, xã hội như thế là Nước trời đích thực, ta có thể bắt đầu trước nhất với mái ấm gia đình mình. Sau đó, lan tỏa ra từng nhóm nhỏ mà ta đang sinh hoạt, chung sống. Cộng đoàn giáo xứ tại địa phương là ví dụ rất cụ thể cho xã hội ấy. Một Nước Trời ở trần gian. Một xã hội có thể thực hiện được.

Vào Tiệc Thánh, ta vẫn thực hiện điều này khi san sẻ bánh và rượu đã thành Mình Máu Chúa. San sẻ thực phẩm nuôi sống linh hồn và cũng san sẻ chuyện trò tâm giao với nhau bên bàn tiệc của lòng mến, agapè.

Vào thời tiên khởi, cộng đoàn các thánh vẫn làm thế. Và ngày nay, nhiều nơi trong các giáo xứ, người đồng Đạo vẫn sống như thế. Đó là điều Chúa muốn mọi người thực hiện. Ai làm rồi, thì cứ tiếp tục. Đó là thực trạng của Hội thánh hôm nay. Đó là Nước Trời ở đây. Bây giờ. Là, tình huống rất Đạo. Là, bữa tiệc rất phải lẽ hợp với Đạo. Đạo của Chúa. Đạo làm người.

 Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch.

Đau khổ và Sự chết

 Đau khổ và Sự chết

Dongten.net

      Đau khổ và sự chết, một thực tại hiển nhiên mà không ai dám chối cãi, nhưng tâm lý chung thì ai cũng sợ và muốn quên nó. Chân lý hiển nhiên nhất lại là chân lý dễ quên nhất, để đến khi con người đối diện với sự chết thì mới giật mình tỉnh thức, như một khẩu ngữ trong dân gian: “chưa thấy quan tài thì chưa đổ lệ”. Đau khổ và Sự chết gắn liền với nhau như hình với bóng, nó là mối dây hệ lụy với nhau như nhân với quả hoặc như quả với nhân. Vậy con người nói chung nhìn vào đau khổ và sự chết như thế nào, nó có ý nghĩa và giá trị ra sao, cũng như con người cần phải chấp nhận đau khổ và sự chết bằng cách nào?

Alzheimer's patient in an emergency room near death while suffering from pneumonia
Alzheimer’s patient in an emergency room near death while suffering from pneumonia

NHẬN THỨC CHUNG CỦA CON NGƯỜI

Với cách nhìn nhận thông thường, chết là một cuộc vĩnh biệt đơn độc và hãi hùng nhất. Không ai có thể đau khổ và chết thay cho nhau, cho dù đó là người thân yêu nhất. Các triết gia xưa nay đều mải miết đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Con người từ đâu đến và đi về đâu? Tại sao con người lại đau khổ và phải chết? Nhiều triết thuyết ra đời để lý giải cho câu hỏi này. Những triết thuyết mang chữ “duy” không giải đáp rốt ráo về nguyên lý của sự chết. Những thuyết không tìm ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và sự chết thì thấy cuộc đời chỉ toàn bế tắc, có muôn vàn  mâu thuẫn và xáo trộn. Khi con người không nhận thức đúng đắn về nó thì tất nhiên họ chỉ lao vào danh  lợi, lao vào sự tranh chấp để được thỏa mãn những khát vọng thống trị và hưởng thụ, hoặc khinh thường sự sống đi đến sự khắc kỷ lệch lạc mất quân bình. Dù là tổng thống, là tỉ phú hay ăn mày thì cũng chỉ là kiếp người, để khi đối diện với sự chết cũng phải run giùng sợ hãi trở về tay không với bao tiếng khen chê, tốt xấu hay đáng nguyền rủa.

Đời được gắn liền với nước mắt:”Thoắt sinh ra thì đà khóc choé / Trần có vui sao chẳng cười khì” (Nguyễn Công Trứ) – ngay từ lúc sinh ra là đã phải đối diện với đau khổ rồi. Có lẽ không có sách nào suy xét, phân tích kỹ lưỡng và sâu sắc về đau khổ của con người cho bằng “Tứ Diệu Đế” trong kinh điển nhà Phật, nó xoay quanh một kiếp sống trong “Sinh-lão-bệnh-tử”, để rồi phải kết luận bằng một câu bất hủ: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn đại dương”. Con người luôn luôn gặp đau khổ hằng ngày, trong mọi nơi mọi lúc, và đau khổ tột cùng là sự chết. Đau khổ do mình bị lầm lỡ, do con người làm khổ lẫn nhau, do không được như ý muốn, do bị chia lìa người thân yêu, do tính toán thất bại, thất vọng, do bị hiểu lầm, bị phản bội, do tai nạn, do Tham-Sân-Si hoành hành… Đau khổ do nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, động đất, chiến tranh, do quy luật sinh tồn, luật đào thải, do muôn vàn những khắc nghiệt của nhiều sự dữ đang hiện diện.

Có sống được trăm tuổi cũng chẳng ra sao: Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy / cảnh phù du trông thấy cũng nực cười (C.B.Quát).  Như Hoàng đế Napoleon bị đày ở đảo St. Helena, chỉ có con rùa làm bạn với ông, cuối đời ông thốt lên: “Ôi nước Pháp ! Ôi Josephine”. Đau khổ dẫn ông về cõi ngàn thu. Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của ông đã tiêu ma. Lev Tolstoi, nhà qúy tộc, đại văn hào Nga, chết trên bãi tuyết, trong túi ông có mảnh giấy ghi câu: “Đừng để tôi gặp mặt vợ tôi”. Ôi thảm thương biết bao! Cũng như vua Salômôn, một Hoàng đế giàu sang, quyền thế, khôn ngoan và được toàn dân kính trọng, khi về cuối đời đã phải thốt lên: “phù vân, quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân – Vanitas vanitatum, ommia, vanitas”(GV 1, 2-3). Salômôn đã cảm nghiệm được cuộc đời chỉ có đau khổ và tất cả chỉ là ảo vọng, ông đã “ngộ” ra chân lý đời đời.

Xưa nay, con người  tìm đủ cách để chấp nhận hoặc để giải thoát đau khổ. Đạo gia Á đông đã thấy quy luật tổng quát và tương đối: “Hữu sinh tất hữu diệt; Hữu thành tất hữu huỷ”, và “Thuận thiên tri thiên mệnh”. Đức Phật muốn giải thoát chúng sinh qua biển khổ bằng cách tiêu diệt mọi ước muốn (diệt dục) để vào Niết Bàn, vì Ngài thấy rằng sự vật, sự việc ở đời chỉ là “giả huyễn”, để rồi sinh sinh tử tử nối tiếp nhau trong một đại dương đầy nước mắt do bị nô lệ vào dục vọng. Trang tử nhìn cuộc sống hư hư thực thực, ông thấy mình là bướm rồi lại thấy bướm là mình. Khi vợ chết, Trang tử lấy đàn ra gảy, ông thấy có cũng như không và không cũng như có. Lão tử lại thấy cuộc sống đầy rẫy những mầm loạn trong cái mê muội, nên ông chống lại mọi ý chí đấu tranh để chủ trương một đạo “vô vi”, tìm đến một lẽ sống tự nhiên về đạo an tịnh, để sống cũng như chết, mọi sự không thể tác động để gây đau khổ cho con người. Còn Khổng tử thì chủ trương một lối sống thực tế rất nhân bản và cao đẹp, một lối sống quân tử, vì “quân tử bất ưu bất cụ” (người quân tử không buồn lo, không sợ) và “quân tử thản đãng đãng” (người quân tử có sự bằng an thanh thản lồng lộng), nhờ đó tạo nên một trật tự mang lại an hoà cho con người và xã hội. Hiền triết Sorcates suốt đời tranh đấu cho sự thật, mong muốn cho con người thoát khỏi mê muội bằng cách “hãy tự biết mình”, ông rất thản nhiên trước đau khổ và sự chết. Ông tình nguyện (bị ép) uống thuốc độc rồi nhìn cái chết đến từ từ như nhìn một công việc đến hồi kết thúc phải có trong cái quy luật của nó.

Và dĩ nhiên, còn nhiều cá nhân, tín ngưỡng, tôn giáo từ đông tây kim cổ có những quan điểm hoặc niềm tin khác nhau về đau khổ và sự chết qua những ý niệm với nhãn quan riêng biệt.

ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT CÓ Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ KHÔNG

Con người đã tốn rất nhiều nước bọt và giấy bút để bàn về vấn đề này, nhưng đề tài vẫn không có đoạn kết. Xét rằng con người hầu như bất lực để hiểu thấu hay ít ra cũng không thể nói về nó một cách rốt ráo, dù rằng qua lịch sử, nhiều triết thuyết, nhiều tôn giáo đã tung hứng đủ lý lẽ để lý giải về vấn nạn này. Con người chỉ biết rằng nó đang hiện diện, như một chân lý không thể chối cãi. Người ta chưa biết rằng hai với hai là bốn từ đâu mà có, hoặc như bóng tối xuất hiện vì không có ánh sáng, đau khổ hiện diện vì thiếu hạnh phúc, sự dữ có mặt vì vắng bóng sự thiện… Nào ai có thể chứng minh được nó từ đâu mà có? Nó xuất hiện với mục đích gì? Có phải để tàn phá hay hủy diệt, hoặc để tồn tại và phát triển? Để làm quân bình như trong quy luật đào thải? Và muôn vàn vấn nạn trong những chuyện tương tự.

Con người nhận thấy rõ rằng, quy luật sinh tồn, quy luật đào thải là vô cùng khắc nghiệt, sinh muôn vàn đau khổ và sự chết cho mọi sinh vật. Ngay cả vũ trụ được ổn định cũng nhờ tiếng nổ vĩ đại làm vỡ tung khối hỗn mang (Big Ben), và thiên nhiên cũng chẳng khác: Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn. Mỗi bước chuyển tiếp là một cơn đau đớn, trong cái đã đến, đang đến và sẽ đến. Từ vi sinh vật, côn trùng, thú vật cho tới con người đều nằm trong quy luật sát phạt này. Nhưng đặc biệt, ai cũng nhận thấy rằng quy luật này rất hợp lý và hữu ích, vì nếu chỉ có yên lặng trong sự tĩnh mịch thì đồng nghĩa với sự chết, chẳng sản sinh ra được điều gì. Cá lớn nuốt cá bé, sinh vật này giết sinh vật kia để sống, nhờ thế hệ sinh thái mới được quân bình. Ai cũng thấy rằng, muốn đạt được điều gì tốt, phải vượt qua những khó khăn thử thách. Mỗi cá nhân muốn đạt được ước mong nào thì buôc phải trải qua gian nan thử thách, sau đó mới gặt hái được hạnh phúc của điều mà mình đã trả giá (ai nên khôn không khốn một lần). Người giàu có, người thành công hay thành đạt thì buộc phải chiến đấu qua gian khổ. Thế giới được nhiều thành quả và tốt đẹp như hôm nay, chính nhờ vào bao cố gắng, bao gian nan, bao đau khổ của nhiều cá nhân, của những cộng đồng tập thể qua nhiều thế hệ…

Nếu không có đau khổ, chắc rằng con người không cần cải thiện để bất chấp tất cả, sẽ tự bị hủy diệt, vì đâu còn lý do để khắc phục và xây dựng nữa. Nhất là không có đau khổ và sự chết thì con người sẽ mặc sức sống theo thú tính để thỏa mãn mọi ngạo mạn của mình, tất cả dục vọng nơi con người sẽ ngự trị, và như thế con người trở thành nô lệ, tàn sát lẫn  nhau, và như thế lại có sự nghịch lý không thể chấp nhận được.

Song song với nó là những dục vọng nơi con người, mà nhà Phật cho rằng đây là nguyên nhân chính tạo nên mọi nghiệp, mọi kiếp. Những thất tình (hỉ, nộ, ái, ố, ai, cụ, dục), lục dục-lục tặc (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) dẫn con người đến đau khổ và sự tiêu ma.

Quy luật sinh tồn và đào thải từ đâu mà ra, cũng như dục vọng nơi con người từ đâu mà có? Có thể nói đó là một bí nhiệm. Bí nhiệm như ánh sáng và bóng tối từ đâu. Chỉ biết chắc rằng quy luật mâu thuẫn luôn phải có thì mới sản sinh ra được điều kỳ diệu, nó nương tựa và đun đẩy nhau để phát triển (âm thịnh dương suy và dương thịnh âm suy). Đối cực này giải nghĩa và làm rõ cho đối cực kia chứ không thể lý giải hơn được. Triết lý Á đông nhận rằng đây là sự khiếm khuyết của trời đất nhưng lại mang được ý nghĩa để chấp nhận cặp đối lập trong niềm lạc quan tích cực. Nếu đứng ở góc độ lý trí con người, thì Đức Phật được xưng tụng là đại trí, Khổng tử là “vạn thế sư biểu”, Lão tử có trí huệ nhìn xuyên suốt được mọi quy luật để  thấy được cái “Đạo” là nguyên ủy và cứu cánh của mọi sinh vật, dù rằng bản thể của “Đạo” chưa ai giải thích và hiểu thấu được… Con người suy tư chỉ biết rằng đau khổ và sự chết bởi chính cặp mâu thuẫn mà ra, chứ không nhất thiết phải giải thích, càng không thể giải thích hơn được nữa, “ra sống thì vào chết; vào chết thì ra sống” (Lão) chính là vậy. Cũng như“Vật cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu” (kinh dịch) là như thế.

KITÔ GIÁO CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT BẰNG CÁCH NÀO

Như trên đã đề cập đến sự nhận thức và quan điểm của con người xuyên qua những cảm nhận và lý lẽ trong triết lý, trong đạo học cũng như trong những sắc thái của tôn giáo Á đông. Dù sao ta cũng nên nhìn nhận tính chất ưu việt từ trong các tôn giáo, vì chỉ có tôn giáo mới có đủ uy tín và thế giá để xác nhận những vấn đề thuộc tâm linh như việc chấp nhận đau khổ và sự chết bằng niềm tin nào đó, nhờ vào đấy biến nó thành niềm vui cho cuôc sống, còn hơn thế nữa, là tìm được hạnh phúc trong chính cái đau khổ và sự chết.

Dù chủ quan hay khách quan (theo niềm tin tự nhiên hay lý trí phân tích), nếu tìm hiểu kỹ lưỡng, ta nhận thấy rằng, đức tin trong Kitô giáo rất coi trọng giá trị của đau khổ và sự chết. Coi đây là một ân huệ, một phúc lộc của Thiên Chúa ban cho con người. Đau khổ và sự chết là hậu quả của tội lỗi: “lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta là cái chết” (Rom 5, 12).Nhưng chính nhờ đau khổ, cái chết và sự phục sinh, Đức Kitô đã biến nó thành hy vọng, thành niềm vui, thành niềm hoan lạc trong sự sống đời đời cho tất cả nhũng ai theo Người: “Ai muốn theo thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt, 24). Trong niềm tin, qua đau khổ và sự chết, chắc chắn con người sẽ được vinh quang và hưởng phúc lạc đời đời, vì “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống minh, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.(Ga 12,24-25).Trong cựu ước, ông Giop là người đau khổ tột cùng khó ai có thể chịu đựng được, nhưng ông vẫn vui lòng chấp nhận nó trong niềm tin yêu vững bền:  “Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ. Tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Chúa (G 1:21), và kết quả là ông  gặt hái được những thành quả mỹ mãn không ngờ được.  Bởi vậy một trong những điều kiện để đo lường sự thánh thiện trong đạo Chúa là xem người đó có bằng lòng chịu đau khổ hay không. Thiếu điều kiện này là chưa thể bảo đảm được sự thánh thiện.

Đau khổ và sự chết không ai có thể trốn tránh và chống lại nó, nếu chống lại, con người sẽ trở nên trống rỗng trong mọi sự, vì:“Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 18). Khi chống lại đau khổ, con người chỉ tìm cách ngủ yên trong cái vỏ ốc để bảo vệ cho mình được thoải mái, tránh mọi phiền phức bất cứ từ đâu đến. Lúc đó con người biến thành ích kỷ vô cùng, là điều nguy hiểm dẫn con người đến sự hư mất.

Người Kitô hữu dễ dàng chấp nhận những đau khổ và sự chết nhờ tin vào Đức Kitô và biết được mục đích cuộc sống ở trần gian này để làm gì (Sinh Ký Tử Quy là như vậy). Nếu con người bám vào tiền tài, danh vọng và chạy theo nó thì sẽ mắc vào sự mù tối (vô minh) tai hại, lúc đau khổ và thần chết đến, họ sẽ vô cùng hoảng hốt kinh hãi.

Sự sống đời đời nếu sánh với đời này thì như thánh Giacôbê nói: “Đời người chỉ như một chút hơi nước bay đi rồi biến mất”. Bởi vậy không lạ gì các thánh rất coi thường danh lợi thế gian, các ngài coi đau khổ và sự chết đời này là một phương tiện cần thiết quý báu để đến được cõi hoan lạc viên mãn. Thật cũng không lạ gì có bao vị thánh sung sướng chịu chết vì đạo, các ngài biết rõ”Quê hương chúng ta ở trên trời”(Pl3,20). Vì thế, chết là thay đổi chứ không mất đi, được biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác tốt hơn, hoàn hảo hơn, có được hạnh phúc bất diệt : “Tôi nói anh em biết mầu nhiệm này là, không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi”(1 cr 15, 51).

Đức tin của người Kitô hữu vượt trên lẽ thường tình đến nỗi người ta nhận thấy một sự nghịch lý : “khi Chúa thương gọi con về, lòng con hân hoan như trong một giấc mơ”. Đó là nhờ Đức Kitô đã dành cho những ai tin và sống trong người. Đau khổ và sự chết trở thành một bí nhiệm nên “bất khả tri”, như bác học Newton nói: “Điều tôi biết như giọt nước, điều tôi chưa biết như đại dương”.  Thiên Chúa đã gieo vào lòng con người những mối cảm thức tư duy để ít nhiều con người có thể cảm nghiệm được về đau khổ mang lại ơn ích và sinh ơn cứu rỗi cho họ, dù rằng nó khá mơ hồ và mênh mang. Khi cảm nhận được giá trị của nó thì đau khổ và sự chết trở thành vui mừng, vì được thanh lọc nên tinh tuyền và là giờ được huởng kiến Thiên Chúa là đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, toàn ái, gốc của mọi hạnh phúc. Thánh nhân đều nhận thấy như thế, như Thánh Têrêsa Avila mỗi khi nghe thấy đồng hồ đổ một giờ qua đi là ngài cảm thấy sung suớng vì giờ chết lại gần hơn để về với Chúa. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu cũng vậy, ngài nói:”với ý nghĩ được chết, tôi sung sướng lắm”.

Nếu con người nhìn nhận được giá trị, và nhất là có được niềm tin vào một Đấng là nguồn của sự thiện, là cứu cánh thông qua đau khổ và sự chết, thì chắc rằng con người sẽ được thanh thản trước cuộc sống trong bất cứ hoàn cảnh hay tình huống nào. Khi đó con người đã được giải thoát và tìm được hạnh phúc ngay từ cuộc sống đời này rồi. Nếu không nó sẽ làm cớ vấp phạm cho con người, để rồi đau khổ trở thành án phạt, từ đau khổ này chồng chất lên đau khổ khác, cho đến lúc phải quằn quại trong sự chết để chấm dứt một kiếp sống nô lệ và đọa đày.

Chung quy, người có đức tin và theo chân Đức Kitô thì dễ dàng đón nhận đau khổ và sự chết bằng niềm lạc quan và hy vọng, trong an bình và thanh thản.

Hàn Cư Sĩ

Giác Ngộ

  Giác Ngộ

Msgr. Petrus Nguyển Văn Tài

Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”… Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư  trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.

Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ… Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris . Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.

Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.

Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất… Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.

Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe… tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta…

“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”… Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.

Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành…

Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ… Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê…

Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ…

Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh PhúcAi muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất  mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại… Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.

Msgr. Petrus Nguyển Văn Tài

Anh chị Thụ & Mai gởi

TRÁCH NHIỆM

TRÁCH NHIỆM

Thiên Phúc

Có một ông phú hộ rất khô đạo, thường hay nói với người vợ mỗi sáng Chúa nhật khi bà và các con sửa soạn đi lễ:

– Em hãy đến nhà thờ dự lễ và cầu nguyện cho anh với nhé.

Mỗi lần gặp gỡ bạn bè nói về chuyện đạo, ông thường khoe với họ là ông không cần đến nhà thờ, cũng không cần phải đọc kinh dự lễ, vì đã có vợ ông dự lễ, đọc kinh và cầu nguyện cho cả hai rồi.

Ngày tháng trôi qua, một hôm ông nằm mơ thấy ông và vợ đứng xếp hàng trước cửa thiên đàng đợi đến lượt mình bước vào. Cửa trời mở ra và mọi người tuần tự vui vẻ tiến vào. Khi đến lượt ông thì thiên thần giữ cửa làm hiệu cho ông dừng lại. Thiên thần quay sang mỉm cười nói với vợ ông:

– Chị hãy vào thiên đàng thay cho cả chồng chị nữa!

Thế là chỉ có vợ ông tiến vào còn ông thì phải bơ vơ đứng ngoài. Vừa tủi thân vừa tức giận đã làm cho ông thức giấc. Ông không dám thuật lại giấc mơ cho vợ, nhưng điều làm cho bà vợ ngạc nhiên hơn cả là sáng Chúa nhật hôm đó, thay vì nói với bà như thường lệ, người phú hộ đến gần vợ và nói bên tai bà:

– Từ hôm nay, anh sẽ cùng với em đến nhà thờ dự lễ và cầu nguyện cho chính anh nữa.

 ***

Giây phút hiện tại chính là thời điểm Thiên Chúa đi vào cuộc đời ta và qua ta đi vào lòng thế giới. Thế nhưng Thiên Chúa không thể đi vào cuộc đời ta nếu không có sự đồng ý của ta. Thánh Augustino đã nói: “Khi tạo dựng nên ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến của ta, nhưng Người không thể cứu rỗi ta nếu ta không cộng tác với Ngài”.

Điều đó nói lên trách nhiệm của mỗi người về niềm hạnh phúc và phần rỗi cá nhân. Vốn biết rằng “không ai là một hòn đảo”, cũng không ai có thể sống riêng rẽ một mình. Việc tốt cũng như hành động xấu của người này có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với người kia. Thế nhưng, không phải vì thế mà chúng ta có thể ỷ lại vào việc lành phúc đức của người khác để trốn trách nhiệm của mình.

Mỗi giây phút hiện tại sẽ lần lượt qua đi mà không bao giờ trở lại. Mỗi người chúng ta đang đứng trước tương lai của mình, đang đối diện với vận mệnh mà Thiên Chúa đã trao tặng. Chúng ta phải sáng suốt lựa chọn sự sống hay cái chết, hạnh phúc bất diệt hay thú vui tạm bợ, Thiên Chúa và tình yêu hay cái tôi và tính ích kỷ.

Tất cả tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của ta. Không ai có thể sống thay cho ta hoặc chết thay cho ta. Thánh Phaolô đã viết: “Mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14, 12). Phải chấp nhận sự thật này là mỗi người chỉ sống một lần và chết cũng chỉ một lần. Ta phải chủ động chứ không thể đề cử ai thay thế ta được.

***

Lạy Chúa, xin giúp con xác tín rằng chính con phải lo phần rỗi con, không ai có thể sống đạo thay con. Chính con phải tuyên xưng lòng tin bằng đời sống và việc làm của con, để qua con, người khác sẽ nhận biết Chúa, và cảm nghiệm tình thương cứu độ của Ngài. Amen 

Thiên Phúc

Anh chị Thụ & Mai gởi

Anh Hề Ngây Ngô

Anh Hề Ngây Ngô

Kho truyện cổ tích Tây Phương có kể chuyện một anh hề được vua cho là ngây ngô khờ dại.  Anh ở ngay trong cung điện vua, được vua thương mến vì anh đã giải buồn phiền cho vua hằng ngày.  Nhà vua sống trên nhung lụa, chung quanh có cung tần mỹ nữ để vui chơi, có cao lương mỹ vị không còn làm vua thấy ngon miệng nữa.  Vua cũng có các quan trung tín lo chuyện quốc sự khiến vua chẳng phải làm gì mà cũng chẳng nghĩ được điều gì có lợi cho dân, cho nước.  Kho báu của cung điện vua chất chứa biết bao của quý, trong khi người nghèo trong nước túng thiếu cơ khổ.  

Một hôm, nhà vua gọi anh hề lại và nói: “Này là phủ việt của ta, đó là biểu tượng của vương quyền.  Ta cho phép ngươi giữ phủ việt này để làm trò hề cho ta vui… Khi nào ngươi tìm được một người ngây ngô, khờ dại hơn ngươi thì ngươi hãy trao lại cho nó”.

Từ đó, mỗi khi có thết đãi tiệc trong triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua.

Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại.  Vua buồn bã nói với anh hề: “Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm”.

Anh hề hỏi: “Nhà vua đi tận đâu lận?”

Nhà vua trả lời: “Ta chẳng biết nữa”.

Anh hề hỏi tiếp: “Nhà vua đi có lâu không?”.

Nhà vua đáp: “Đi hoài và không trở về đây nữa”.

Anh hề hỏi “Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?”

Nhà vua trả lời: “Chưa hề”.

Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:“Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy phủ việt nầy.  Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi”.

Từ xưa đến nay, con người những hăm hở chạy theo danh vọng bạc tiền là những thứ khiến tâm hồn ra u mê tăm tối không còn biết nghĩ đến cái gì là tốt hơn cho mình ở thế giới bên kia sự sống.  Những người không có đời sống tâm linh an bình thì dễ bị lôi cuốn vào hướng đi của những người chỉ khát khao đời sống vật chất danh vọng, giầu có…

Người Kitô-hữu không quên bài học trong Tin Mừng Luca (12: 13-21).  Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giầu có là ngu dại.  Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn (Luca 12: 16-21) là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không?

Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời.  Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính.

Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy.  Những giành giựt mưu sinh có thể biến chúng ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống.  “Cái khó không những bó cái khôn”, mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh hướng đi.  Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, ngây ngô; nhưng điều mà người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa.

Dù phải lội ngược dòng để trung thành với những giá trị Nước Trời, chúng ta cũng hãy can đảm tiến bước và tín thác vào Chúa.

Sưu Tầm và Tổng Hợp

From: KittyThiênKim 

Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng,

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 21 mùa thường niên C 21/8/2016 

“Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng,”
“Giọt nước mắt thương sông, ấp ủ rêu rong.
Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm.
Giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong.”

(Trịnh Công Sơn – Nước mắt cho quê hương)

 Trần Ngọc Mười Hai

Video Khánh Ly https://www.youtube.com/watch?v=DQy-rmCmphU

 httpv://www.youtube.com/watch?v=DQy-rmCmphU

(Mt 10: 34-36) 

Nếu như “quê hương” mà bạn hát ở đây là Nước Trời trong đó mọi người trên thế-giới đang nhỏ những giọt nước mắt thương-yêu, thì sao? Và, giả như “giọt nước mắt” mà mọi người đang nhỏ từng giọt và từng giọt, thì bạn đọc và bầy tôi đây, ta nghĩ sao về điều ấy?

Vâng. Nước mắt nhỏ giọt cho bất cứ ai, khóc cho quê hương nào đi nữa, thì người Tây/người Tầu hoặc dân ta vẫn cứ tiếp-tục nhỏ hoài/nhỏ mãi, như ca-từ còn hát tiếp ở bên dưới:

“Giọt nước mắt thương mây, mây ngủ trên ngàn
Giọt nước mắt thương cây, cây ngả trên non
Giọt nước mắt thương anh, khô giòng máu châu thân
Giọt nước mắt quê hương, ôi còn chảy miên man.

Ôi! giòng nước mắt chảy hoài
Giòng nước mắt đời đời
Giọt nước mắt thương ai

Ôi giòng nước mắt trong tim
Chảy lai láng vào hồn
Nửa đêm gọi đến mình”.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Vâng. Những giọt nước mắt như thế, vẫn còn nhỏ ở đây đó xuống mọi miền trên quê hương Nước Trời ở trần-gian, thôi. Cũng mới đây, hôm 27/7/2016 ở trời Tây bên ấy, chốn “Phú-Lăng-xa” đất miền rất Pháp Quốc, nhà Đạo mình lại đã nhỏ thêm nhiều giọt nước mắt còn nóng hổi cho vị linh-mục cao-niên bị giết chết ngay trong nhà thờ ở miền Bắc nước này.

Vâng. Nước mắt và nước mũi nhiều người vẫn nhỏ mãi không ngừng, chí ít là những người cùng thờ Thiên-Chúa nhưng khác phái lại cứ báng-bổ/kình-chống nhau, để rồi dẫn đưa nhau về cõi chết, rất buồn bực.

Vâng. Hôm nay ở chốn miền cùng cực phía Nam bên này, lại cũng thấy những người và người vẫn kình-chống nhau chỉ vì khác nhau điều gì đó. Khác, về niềm tin đi Đạo. Khác, hệ-cấp trên/dưới, khác cả hình-thức tổ-chức, lẫn cung-cách đối-xử với nhau và cho nhau, không còn mang tính đích-thật của chọn lựa ban đầu, nữa.

Vâng. Hôm nay đây, người người lại cứ nhân-danh điều này/chuyện nọ để ra tay hành-xử cách nào đó không còn mang tính từ-bi/hỷ-xả như nguồn-gốc của đạo-giáo mình chủ-trương.

Đúng thật thế. Hôm nay và có thể cả mai ngày, người người lại cũng chưa giải quyết được những xung-khắc do có khác-biệt về Đạo và đời; cả ý-thức-hệ lẫn đạo-đức/chức-năng… nay cũng khác.

Vâng. Vì có khác-biệt này/nọ ở nhiều địa-hạt, nên khi sự xấu xảy đến, lại có tình-huống chất đầy nước mắt như ca-từ hát thêm, ở bên dưới :

“Giọt nước mắt thương chim, chim bỏ xa rừng.
Giọt nước mắt thương đêm, đêm đẩy xe tang.
Giọt nước mắt thương em, trên vận nước điêu linh.
Giọt nước mắt không tên, xin để lại quê hương.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Khác-biệt đến độ, đã phải nhỏ những giọt nước mắt không tên để “thương em, thương vận nước điêu-linh”,thương đạo-giáo lình-xình nhiều tranh-chấp, vẫn là “Giọt nước mắt thương dân, đêm đẩy xe tang”, rất làng nhàng.

Vâng. Giọt nước mắt ấy, cứ nhỏ mãi khi có nguồn tin cũng rất “tức” gửi về từ chốn miền nhà Đạo rất Nước Trời, những hỏi rằng:

“Có chăng mối đe-doạ khủng-khiếp cho nền an-ninh thế-giới? Phải chăng đe-doạ ấy là từ ISIS ? 

Câu hỏi này, được đưa ra từ tháng 11 năm 2015 trên trang mạng MercatorNet, rất phổ-biến. Thế nhưng, trước đó từ tháng Bẩy/2015, Chánh Văn Phòng Hỗn Hợp của Hoa-Kỳ là Hải-quân Thiếu-tướng Joseph Dunford cũng từng đưa câu trả lời tương-tự gửi đến Quốc-Hội trả lời rằng: mối đe-doạ không lai ai khác ngoài Nước Nga.

Thế, Trung-Quốc thì sao? Và, Bắc Hàn nữa? Cả hai nước này, lâu nay, vẫn bị mọi người coi là mối đe-doa thật cho Tây Phương. Văn-minh Phương Tây luôn đối đầu với các “đe-doạ thực-sự” cả từ thay-đổi khí-hậu cho đến các hành-tinh nhỏ, từ nạn-dịch toàn cầu đến sự thông-minh nhân-tạo và cả chiến-tranh hạt-nhân, nữa. Đại-học Cambridge ở Anh đã nhận được đầy-đủ tài-trợ để lập nên Trung-tâm Nghiên-cứu về Nguy-cơ đích-thực hầu báo-động mọi người về các mối nguy-hiểm của các ngành Kỹ-thuật mới. Chừng như ta đã bị quấn chặt để biến các tai-hoạ nhỏ thành nguy-cơ hiện-hữu đối với con người. Có lẽ vì thế mà bộ phim “Zombie” và các bi-kịch thành chuyện bình dị ở đời… 

Thành thử, cũng không nên tỏ ra quá nhát gan hoặc ngây thơ đến độ phải lưu-ý đến việc chính-phủ Obama kêu-gọi đừng tỏ ra hãi sợ đối với Nhà Nước Hồi-giáo (IS) sau ngày Thứ Sáu 13 vừa rồi ở Paris . Tổng-thống Obama có nói: “Họ là một mớ các sát-nhân được giới truyền-thông xã-hội hỗ-trợ. Chuyện này cũng không kém ‘nguy-hiểm’, nhưng lối sống của ta lại mạnh hơn thế. Ta có nhiều thứ để đưa ra đề-nghị mà giải-quyết…” Và rồi, Phó Tổng thống Hoa-kỳ Joe Biden còn nhấn mạnh: “ ISIS không là mối đe-doạ cho sự sống còn của Nước Mỹ bao giờ hết…” (X. Michael Cook “Is ISIS an existential threat?” MercatorNet 23/11/2015)

Nói về “mối đe-doạ cho sự sống còn của thế-giới” phải chăng phát-xuất từ đạo Hồi? Theo kiểu của chính-trị-gia. Còn, quan-điểm chính rất công-khai của nhà Đạo mình về mối “đe-doạ” này, được Đức Phanxicô bày tỏ trong cuộc phỏng-vấn trên chuyến bày từ Krakow Ba-Lan về Rôma hôm 31/7/2016, như sau:

“Hỏi: Người Công giáo chúng ta đã bị cú “sốc” sau vụ sát-hại dã-man Linh-mục Hamel. Cha nói chúng con rằng tất cả mọi tôn-giáo đều kiến-tìm hòa bình, nhưng Linh mục Hamel bị giết dưới danh-nghĩa Hồi giáo. Tại sao cha không bao giờ nhắc đến Hồi giáo khi nói về chủ nghĩa khủng bố? 

Đáp: Cha không thích nói về bạo-lực Hồi-giáo, bởi ngày nào cha cũng thấy xảy ra bạo-lực mỗi khi điểm-báo ở Ý, đọc thấy chuyện ai đó giết bạn gái hay mẹ vợ, và đó là bạo-lực của những người Công-giáo đã rửa tội. Nếu Cha nói về bạo-lực Hồi-giáo, thì Cha cũng phải nói về bạo-lực Công-giáo nữa chứ?

Không phải người Hồi-giáo nào cũng tàn-bạo hết. Nó như món salad trộn hoa quả, đều có cái này cái kia. Và anh chị em thấy có những người tàn-bạo trong các tôn giáo khác nhau. Chỉ một điều chắc-chắn mà thôi, là luôn có một nhóm nhỏ gồm những người cực-đoan trong tất cả mọi tôn-giáo. Chúng ta cũng có những người cực-đoan/tàn-bạo như thế. Và, khi những người cực-đoan đi xa hơn đến độ tra tay giết người, có thể bằng miệng lưỡi mình, không phải Cha mà là tông-đồ Giacôbê đã nói vậy. Người ta cũng có thể giết người bằng gươm bằng giáo; thế nên thật không đúng chút nào khi đồng-hoá Hồi-giáo với bạo-lực. 

Cha từng đàm-đạo dài giờ với một giáo-chủ ở Đại học Al Azhar, họ tìm-kiếm hòa-bình và thông-hiểu nhiều chuyện. Sứ-thần tòa-thánh ở nước châu Phi nọ từng bảo với Cha rằng: ở thủ đô nước ông, có người luôn xếp hàng để đi qua cửa thánh, rồi có một số đi xưng tội. Nhưng hầu hết đều đi thẳng đến bàn thờ để cầu nguyện với Đức Mẹ; và đó là những người Hồi-giáo muốn mừng Năm Toàn xá. Khi đến Trung Phi, Cha có đi thăm một cộng-đồng Hồi-giáo, và vị Giáo-chủ Hồi-giáo ở đó cũng lên xe ngồi chung với Cha. Chung sống hòa-bình là chuyện có thể thực-hiện được. 

Nhưng các nhóm tàn-bạo cực-đoan có tồn tại không lại là chuyện khác. Cha tự hỏi vì sao nhiều người trẻ của chúng ta sống an-thân ổn-định, lại bị cướp mất đi lý-tưởng sống, đến độ họ đã chạy theo thuốc phiện, bia rượu, hoặc thậm chí đi đầu quân cho nhóm khủng bố, nữa. Đúng. Chúng ta có thể nói: ISIS là một nhà nước Hồi giáo, và đặc tính của ISIS là bạo-lực, bởi nó khoe với ta toàn những chuyện giết người. Nhưng, đây chỉ là một nhóm nhỏ, anh chị em không thể, không đúng, và cũng quan-niệm không thật lòng khi gọi Hồi-giáo là những người có đức tin khủng bố.’ 

Hỏi: Ngoài việc cầu nguyện và đối thoại ra, ta còn có sang-kiến cụ thể nào để đương đầu với bạo lực Hồi giáo không? 

Đáp: Chủ nghĩa khủng-bố có mặt ở khắp nơi, chỉ cần nghĩ đến chủ-nghĩa khủng-bố bộ lạc ở một vài nước châu Phi thôi cũng sẽ thấy. Chủ-nghĩa khủng-bố lớn lên khi không họ có chọn-lựa nào khác. Và giờ đây, Cha sẽ nói về chuyện có vẻ đầy những hiểm họa gây cho thế-giới. Khi anh chị em biến “thần tài” thành trọng-tâm kinh tế thế giới, chứ không phải con người, thì đó là hình-dạng đầu-tiên của chủ-nghĩa khủng-bố. Anh chị em đã xóa đi nét vẻ nguy-nga của tạo-vật, và thay vào đó, đặt tiền bạc vào vị-trí trọng tâm. Đây là cơ sở tiên-quyết của chủ-nghĩa khủng-bố. Anh chị em cứ nghĩ về chuyện ấy cho nhiều rồi sẽ thấy…’ (X. Phỏng-vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay trở về Rôma hôm 31/7/2016, theophanxicovn.net)

Lời Đức Phanxico6 quả cũng rất thẳng-thắn, mạnh-bạo, nhất là trong tình-huống có nhiều khủng-bố/bạo-động đang diễn ra. Tuy vậy, dù Cha hoặc con ở nhà Đạo, có nói mạnh-bạo thế nào đi nữa cũng sẽ không thay-đổi được tình-hình an-ninh/an-toàn trên thế-giới được. An-ninh/an-toàn cuộc đời với người nhà Đạo, có lẽ sẽ nằm ở chỗ khác, ở lập-trường khác vẫn âm-thầm chứ không ầm-ĩ, như ta tưởng. Đó, có lẽ là ý-tưởng của bạn đọc nọ sau khi suy-tư rất nhiều về kết-quả của kinh Lạy Cha áp-dụng cho mọi người ở đời. Chí ít, là đời đi Đạo, lại sẽ diễn-tả cách nhẹ-nhàng hơn, như sau:

“Ðể đọc kinh Lạy Cha mà không lừa dối Chúa và tự lừa dối mình:

Bạn đừng thưa “Chúng con”…
nếu bạn sống cau-có trong ích kỷ.
Bạn đừng gọi Ngài là “Cha”
nếu mọi ngày bạn không sống như người con.
Bạn đừng kêu Ngài là “Ðấng ngự trên Trời”
nếu bạn luôn nhắm toàn những chuyện dưới đất.

Bạn đừng nói “Xin cho Danh Cha cả sáng”
nếu bạn không kính-trọng từng con người.
Bạn đừng nói “Xin cho Nước Cha trị đến”
nếu bạn lầm-tưởng nó với những tham-vọng của riêng bạn.
Bạn đừng nói “Xin cho Ý Cha được thể hiện”
nếu như bạn không chấp-nhận thử-thách xuất tự nó.
Bạn cũng đừng thưa “Dưới đất cũng như trên Trời”
nếu bạn chỉ lo nhìn lên trời mà không thấy ai khác chung quanh bạn.
Bạn đừng nói “Cho chúng con” nếu bạn không cho người khác điều bạn có.

Bạn đừng nói “Hôm nay”
nếu như bạn chỉ hối-tiếc quá-khứ hoặc chỉ đeo-đuổi tương lai nào khác, tốt hơn thế.
Bạn đừng nói “Lương thực hằng ngày”
nếu bạn không chạnh lòng thương những người đang đói khát.
Bạn cũng đừng “Xin tha tội cho chúng con”
nếu bạn không thấy lỗi của chính mình với tha nhân.
Bạn đừng nói “Như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con”
nếu bạn chậm trễ không tha-thứ cho kẻ đã xúc-phạm bạn.
Bạn đừng nói “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”,
nếu bạn không sẵn-sàng chống lại sự dữ ấy.
Bạn đừng kết thúc bằng lời “Amen”
nếu bạn không trân-trọng những điều ghi trên đây ở Kinh Lạy Cha.”

(Sưu-tầm trên Facebook)

Và, nói đến và nói về an-ninh/an-toàn trong đời người, theo tâm-tưởng của nhà Đạo mình, cũng rất đúng với có thể là như thế. Nhưng, với người thường ở đời, có lẽ nên nói theo truyện kể, thì thích-hợp hơn.

Nhưng trước khi nói bằng truyện kể rất cụ-thể, tưởng cũng nên đi vào vườn hoa Lời Vàng của bậc thánh-hiền để có được những “cột/mốc” suy-tư, rồi đem áp-dụng cho đời mình. Một trong các Lời Vàng ấy gặp được ở sách Tin Mừng sau:

“Anh em đừng tưởng

Thầy đến đem bình-an cho trái đất;

Thầy đến không phải để đem bình-an,

nhưng để đem gươm giáo.

Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ

giữa con trai với cha,

giữa con gái với mẹ,

giữa con dâu với mẹ chồng.

Kẻ thù của mình chính là người nhà.”

(Mt 10: 34-36)

Kẻ thù của mình là chính mình, như ai đó từng hát những câu như: “Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai!” Phạm Duy – Kẻ thù ta).

Vâng. Chính thế. Kẻ thù là chính mình mà giết nó đi thì cái “mình” đâu còn nữa mà nói chuyện an-ninh với an-toàn. Đó, là chưa đổ tội cho người Hồi-giáo cực-đoan, bạo-loạn để đòi giết, hoặc tố-khổ.

Kẻ thù ta, hay kẻ thù của nền an-ninh/an-toàn trên thế-giới, chính là chính-sách/chiến-thuật của ai đó, hoặc sức mạnh hùng-hổ nào đây từng dấy lên cốt tạo sự bất-ổn trong mọi sự để còn khống-chế với cầm cân nảy mực, quyết thực-hiện cho bằng được.

Kẻ thù ta, hôm nay, chắc-chắn không phải và không bao giờ là thế-lực Hồi-giáo-khủng-bố hoặc mãnh-lực của ác-thần/sự-dữ hiện-thân nơi ai đó, bên ngoài con người mình.

Nhận-định thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vùng trời truyện kể để minh-hoạ cho lập-trường sống rất dễ dàng.

Nếu để ý, người đọc sẽ nhận ra rằng: cả hai truyện kể chẳng đi sâu/đi sát gì đề-tài ta bàn-luận, nhưng nếu nghĩ “trệch” khi bảo rằng: mọi chuyện trên đời xảy ra có lợi cho nền an-ninh/an-toàn của đời người hay không là tuỳ góc cạnh mình nhìn mà thôi. Nhìn theo góc cạnh ấy rồi, mình và người sẽ nhận ra một hay nhiều nhân-sinh-quan cuộc đời rất khác biệt. Thôi, xin mời bạn/mời tôi, ta bắt đầu kể:

“Truyện rằng: 

Ở nước Mỹ, trong một cửa hàng bách hóa, bởi trời đột nhiên đổ cơn mưa lớn, một bà lão ăn mặc giản dị, khắp người ướt sũng đi vào tránh mưa, gần như toàn bộ nhân viên bán hàng đều không muốn để mắt đến bà lão này. Có một chàng trai rất thành kính nói với bà rằng:

“Chào bà, tôi có thể giúp gì cho bà đây?”

Bà lão cảm thấy mượn chỗ của người khác để tránh mưa, trong lòng cũng có chút khó chịu, liền muốn mua một vài món đồ, nhưng đi vòng quanh mãi mà không biết mua gì nữa. Chàng trai này nhìn thấy liền nói với bà lão rằng:

“Bà không cần cảm thấy khó xử! Tôi đã để một chiếc ghế ở trước cửa, bà cứ yên tâm ngồi ở đó là được rồi.” 

Sau hai tiếng đồng hồ thì mưa đã tạnh, bà lão xin danh thiếp của chàng trai này rồi đi mất. Mấy tháng sau, chàng trai này đã được một cơ hội hiếm có, chính là được chỉ định làm đại biểu cho công ty bách hóa này đàm phán nghiệp vụ với công ty gia tộc lớn khác, lợi nhuận rất lớn. Về sau mới biết là bà lão đó đã cho cậu một cơ hội này, hơn nữa bà lão này không phải ai khác, mà chính là mẹ của “Vua Thép” Carnegie tỷ phú của nước Mỹ. 

Thế là, chàng trai này từ đây đã thuận buồm xuôi gió, một bước lên mây, trở thành trợ thủ đắc lực của “Vua Thép” Carnegie, đồng thời cũng là một trong số nhân vật trọng yếu giàu có bậc nhất, địa vị chỉ đứng sau Carnegie mà thôi.

 – Chẳng cần lời ngon tiếng ngọt, chỉ cần chân thành là tốt rồi;      

– Chẳng cần thề non hẹn biển, chỉ cần thật sự làm được là tốt rồi; 

– Chẳng cần oán trách lẫn nhau, chỉ cần hai bên hiểu nhau là tốt rồi;   

 – Chẳng cần ngờ vực lẫn nhau, chỉ cần tin tưởng lẫn nhau là tốt rồi; 

– Chẳng cần phải tức giận cả ngày, chỉ cần hiểu được bao dung là tốt rồi; 

– Chẳng cần gắn bó chẳng rời, chỉ cần trong lòng có nhau là tốt rồi. 

Giữa người với người, điều cần nhất chính là một tấm lòng chân thành kia vậy!

(Tiểu Thiện, dịch từ Cmoney.tw (VIETSTAR MEDIA) 

Và câu truyện kể thứ hai cũng dễ nể, như sau này:

“Lão là người duy nhất phải chăm lo từng “miếng ăn giấc ngủ” cho bà ở nhà nữa. Người chồng già nua này đang hãnh diện với công việc. Chăm sóc người vợ không còn một chút khả năng, nói đúng hơn là một “gánh nặng” đối với cách nghĩ của người khác. Riêng tôi, mọi dịp gặp hai vợ chồng này trên chuyến xe buýt, chưa bao giờ tôi thấy người chồng ra vẻ bực dọc bên chiếc xe lăn.

Có điều lão nói hơi nhiều!

Khi chiếc xe lăn được cột yên vào vị trí chỉ định, là lúc lão bắt chuyện ngay với người khác. Lão nói đủ thứ chuyện. Ai cũng nhận ra chút gì đó hưng phấn,vui vẻ, niềm hạnh phúc quá dễ dàng bắt gặp trên gương mặt xương xẩu , khô khốc kia. Phẩm chất một người chồng tận tụy, chung thủy đang thể hiện qua sự phục vụ cho một bà lão, khó tánh, hay gắt gỏng, do không còn một khả năng di chuyển, phải ngồi mãi trên chiếc xe lăn.

Người ta còn thêm một cảm nghĩ rằng: lão phục vụ người vợ, là niềm vui duy nhất,không thể thiếu và dường như lão “cần vậy” là đằng khác. Vui vẻ trên xe với mọi người; thỉnh thoảng lão cúi thấp, nho nhỏ nói vài câu với bà như “dỗ dành đứa trẻ”. Giọng ngọt ngào, mơn trớn. Hai hàm râu bên má lão rung rung theo lời nói, đôi khi tôi cảm thấy động lòng.

-Ước gì mình có một ít tính “kiên trì và chịu đựng” như lão! 

Có thể tôi sai, có phần xúc phạm với lão, giá như lão biết rằng tôi dùng hai chữ “chịu đựng”.

Hai vợ chồng đó hay xuống xe vào nửa đường, gần downtown San Jose . Bà tiếp tục càu nhàu ngay khi xuống trạm. Tôi ngoái theo nhìn. Dáng lão vừa đẩy xe cho vợ đi nhanh vừa chỉ trỏ như làm trò “con rối” cho bà vui. 

Mùa xuân năm nay, cũng trên chuyến xe 64 này tôi thấy vắng hình bóng vợ chồng kia cùng chiếc xe lăn. Bỗng một hôm, có một ông già lên xe. Sau vài phút để ý, tôi nhận ngay chính là lão già năm ngoái. 

Nhưng lần này lão lên xe một mình. Khuôn mặt ông già năm nay co rúm nhiều hơn. Màu râu nay bạc hơn, rậm rạp, lởm chởm đến mức độ “gớm ghiếc”! Hai con mắt ti hí đen thẩm, như một vũ trụ đen tối, sâu thẳm, càng khó đoán ông đang nhìn ai? 

Tôi nhận ra lưng lão gù hơn trước. Tay xách thêm một cái túi cũ mèm đựng những thứ lỉnh kỉnh, lão ngồi co ro đằng góc xa của dãy ghế trống do toán học sinh vừa xuống. Lão thỉnh thoảng nói lẩm bẩm, không ai nghe. Thỉnh thoảng lão húng hắng ho; có khi lão cố gắng dằn cơn ho lại sợ phiền lòng người khác.

Tôi cầm lòng không được:
-Chào ông , ông còn nhớ tôi không?

Lão ngẩng lên một lát:
– À…à! tôi nhớ anh… anh hay đi vè downtown; tôi thuờng gặp mà.

Tôi có cảm giác thân mật hơn khi lão nhận ra mình.
Ngần ngừ ít giây, tôi đánh bạo hỏi:
-thế thì vợ ông đâu?
Lão chợt chỉ ngón tay lên trời:
-bà ấy mất rồi.
-Ô! xin chia buồn cùng ông.
-Bà ấy ra đi ngay mùa Christmas năm ngoái anh à.
Tôi an ủi:
-Tôi tin bà lên thiên đường rồi ông ạ.

Bắt chước ông ta, tôi vừa nói vừa chỉ ngón tay lên trời. Bỗng lão chợt vui, đôi mắt như sáng hơn, rồi lại đưa ngón tay lên trời thêm lần nữa. Có điều tôi tin, ông già này hiện đang sống cô độc. Lão từng vui với công việc là người tự nguyện đẩy xe và săn sóc vợ. Giờ người vợ bệnh hoạn kia bỏ lão một mình để “lên thiên đường ” trước, thì sao lão tránh được buồn rầu và suy sụp?

Hôm nay tôi là người duy nhất bắt chuyện với lão. Trong tiếng ho kia, lão tự biết thân phận ngồi chỗ nào xa, kín đáo, để khỏi khó chịu cho ai. Tôi chào lão, nắm chặt song vịn sát trần, bước lui ít bước để khỏi làm phiền lão. 

Chiếc xe hàng ngày vẫn đón vài người tật nguyền đi xe lăn như người vợ quá cố của lão. Có những người già, những đứa bé, bị bệnh đi xe lăn. Anh tài xế vẫn kiên trì làm công việc thuờng nhật là móc dây an toàn cho từng người khách bệnh hoạn này khỏi chao chạnh lúc xe chạy. Giờ lão là ngườ “hết nhiệm vụ”. Người thân yêu nhất kia đã vĩnh viễn chia ra đi. Lão là người “ở lại” trên cõi trần này buồn nhiều hơn vui. Giờ con người này thật sự cô độc, trong một xã hội không có thứ văn hoá “tam đại, tứ đại đồng đường”. Bà lão còn sống, lão là người chăm sóc. Nay bà lão ra đi, để lão một mình trơ trọi, không ai săn sóc, không ai ở kề. 

Lão lại tiếp tục húng hắng ho, tiếp tục che miệng hay cúi gầm xuống lẩm bẩm nói một mình. Có thể ông già đang tâm sự với bà trong chốn vô hình nào chăng?

Nửa đường, ông già xuống xe. Cái túi đựng thức ăn của lão chợt lộ lên hàng chữ “Cơ Quan Cứu Tế CITY TEAM San Jose”; bên trong chắc hẳn là một số đồ hộp thức ăn cấp phát cho người nghèo. 

Chiếc xe tiếp tục chạy. Tôi ngoái lại nhìn , hình bóng con người cô đơn kia lảo đảo bước về huớng khác để lại cái bảng hiệu ngừng xe bơ vơ bên đường.” (Đinh Hoa Lư)

Kể như thế, cốt bảo rằng: an-ninh/an-toàn trong đời người cũng đều tuỳ tâm-trạng của người đời khi sống với người và với chính mình. Đó, cũng là đôi điều xin được đến bạn, đến tôi hôm nay và trong những ngày sắp tới của đời mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày

Cứ suy-nghĩ nhiều

Về Hồi-giáo, bạo-lực và sự tàn-bạo

trong tâm-khảm của chính mình.

CỨ CỬA HẸP MÀ ĐI ĐỂ VÀO

 CỨ CỬA HẸP MÀ ĐI ĐỂ VÀO

Tác giả:  Huệ Minh

Ở đời, người ta vẫn thường nói với nhau : “Cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền !”

Dù muốn dù không thì cái thực tế ê chề này nó vẫn đúng bởi đơn giản con người dù mạnh, dù lớn, dù khỏe cỡ nào đi chăng nữa cũng khó đứng vững trước sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền không chỉ mua được nhiều thứ mà nó có một sức mạnh có thể phá tất cả các cửa mà người ta muốn vào.

Là người dân, ta vẫn thường quen với các thủ tục hành chính mà người ta cũng hay đùa “hành là chính”. Đúng như vậy, để có một tờ giấy nào đó thì người dân phải đi qua các cửa. Là một bệnh nhân, khá kinh nghiệm về chuyện qua các cửa. Nếu vào các bệnh viện hay các cơ quan mà không quen biết hay không có tiền thì sẽ chậm chạp biết là dường nào. Khi đó, muốn qua các cửa dù hẹp cỡ nào đi chăng nữa thì chỉ cần xì tiền ra là có thể qua được hết.

Đời là như vậy, xã hội trần thế là như vậy nhưng Thiên Đàng, Nước Trời lại là khác. Cửa vào Thiên Đàng như Chúa Giêsu nói ngày hôm nay muốn vào thì phải qua cửa hẹp. Cửa ở trần gian có thể mua bằng quyền, bằng tiền hay người ta gọi là nhất thân nhì thế nhưng cửa Thiên Đàng thì đừng trông mong. Dù có tiền, dù có quyền đi chăng nữa cũng không thể nào qua được. Cửa này phải qua bằng nẻo đường duy nhất là tự lực cánh sinh của mỗi người và như Chúa nói cửa hẹp nên phải phấn đấu để mà vào. Phấn đấu này, chiến đấu này không phải chiến đấu với người khác mà là chiến đấu với chính bản thân mình.

Và, người ta cũng thường hay nói chiến thắng ai cũng được, chiến thắng cái bên ngoài thì dễ nhưng chiến thắng chính bản thân của mình không phải là chuyện đơn giản. Tề gia – trị quốc – bình thiên hạ. Muốn tề gia thì phải tề chính cái bản thân của mình trước đã.

Với thao thức được cứu độ, ta thấy có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Phải nói rằng ta phải thán phục người này bởi lẽ người này vẫn có một nỗi lòng canh cánh về ơn cứu độ.

Nhìn lại xã hội, tôn giáo thời Chúa Giêsu, ta vẫn thấy man mác một cảm thức tôn giáo, một tâm thức được cứu độ. Chính vì lẽ đó nên người ta mới hỏi Chúa Giêsu.

Ngày hôm nay, thật tình mà nói, cảm thức về tôn giáo, cảm thức về ơn cứu độ dường như nó nhạt nhòa ngay trong chính những người có đạo và thậm chí lãnh đạo tôn giáo nữa. Nói ra xem có vẻ đụng chạm nhưng trong thực tế thì không thể nào phủ nhận được một sự thật phũ phàng như thế này.

Giữa một thế giới vật chất là hàng đầu, hưởng thụ là hàng thứ nhất thì xem ra ơn cứu độ bị nhạt nhòa, xem nhẹ và thậm chí chẳng cần quan tâm.

Có một thực tế nói ra có thể đụng chạm nhưng cũng phải nói rằng đó là khi nhìn vào những gia đình giàu có, gia đình có địa vị một chút thì các đấng các bậc thường xuyên lui tới hơn. Và, kèm theo đó là những bữa tiệc xem ra hoành tráng và chúc tụng nhau. Còn những người nghèo thì dường như gia đình của họ chẳng bao giờ thấy bóng dáng của một vị mục tử, của các đấng các bậc trong Giáo Hội.

Nhiều gia đình khá giả không ngần ngại khoe những tấm hình lẽ ra không cần khoe về những tấm hình chung với những bậc vị vọng, có khi những tấm hình đó được ghi lại nơi những bàn tiệc sang trọng.

Dù muốn dù không, dù lấp liếm, dù che đậy nhưng các đấng khó có thể trả lời được sự hiện diện của mình nơi những gia đìng giàu có.

Tôi đã từng chứng kiến một người phụ nữ tạm gọi là quyền lực, bà có số tất cả các đấng các bậc và có thể gọi bất cứ lúc nào ngay trong khi các linh mục muốn gặp hay phone cho các vị chủ chăn còn e ngại ! Vì sao mà lại lộng như vậy ? Không cần nói nhiều thì ai ai cũng biết nguyên nhân là vì sao ?

Và, chính các vị chủ chăn làm luật đã đạp lên luật khi giỗ của mẹ một vị nhà giàu có đến 8 giám mục và ngoài 100 linh mục ! Trong khi đó,  đau đớn lòng mà nói những người nghèo thì đừng có mơ thấy hình dáng của các đấng.

Có người tự hào rằng quen gần hết các đấng trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Có người tự hào khoe rằng thích mời cha nào là cha đó phải đến nhà !!!??? Sự hiện diện như vậy dựa vào lý do nào ắt hẳn mọi người đã hiểu vì thật dễ hiểu. Nhà nghèo như nhà của tôi thì dù có nằm mơ 3 giấc cũng không thấy bóng dáng sự hiện diện của các đấng.

Chính vì thế, nhiều người đã lầm tưởng rằng nhà nào có các đấng hay đến, lễ nào các đấng đồng tế đông là người thân của mình sẽ được phần phước như người đời thường nghĩ. Nhưng không, trước mặt Chúa là phải vào cái cửa hẹp mới được vào chứ không phải chuyện là chết xong nhiều cha đồng tế là lên thiên đàng.

Nhiều người đã bé cái lầm khi nhìn và suy nghĩ rằng cửa thiên đàng sẽ rộng mở cho những người có quyền và có tiền. Người đời thì nghĩ vậy nhưng điều kiện vào Nước Trời của Chúa lại chính là sự hãm mình, là sự khổ chế bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá.

Ngày hôm nay, người ta tục hóa đời tu, tục hóa tôn giáo để rồi cảm thức vào Thiên Đàng, cảm thức ơn cứu độ không còn nữa. Chính vì xem thường giá trị cứu độ nên rồi người ta ầu ơ ví dầu với việc đạo nghĩa, với việc tham dự Thánh Lễ, các bí tích.

Còn nhớ thời bao cấp, thời khó khăn thì nhiều nơi như Kỳ Đồng, Bình Triệu, Đền Thánh Martino Ba Chuông … tấp nập người đến đó để học giáo lý, để tìm hiểu, bồi đắp thêm kiến thức và bồi bổ đức tin. Nhưng rồi, dường như thời buổi kinh tế khá ổn người ta không bận tâm đến Giáo Lý, đến đức tin nữa. Có chăng đến những nơi đó để xin xỏ mà thôi.

Ngày hôm nay, người ta không còn cảm thức đức tin để không còn phấn đấu để bước vào cửa hẹp nữa. Chính vì đi theo chủ nghĩa tương đối cũng như lý luận rằng sao cũng được để rồi người ta không còn thao thức, không còn bận tâm cửa hẹp nữa.

Đó là quan niệm chung chung, đó là quan niệm tự do của mỗi người nhưng chúng ta nên chăng nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu hơn một lần nói với chúng ta : “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì ?”. Câu nói đó dường như vẫn còn đâu đó văng vẳng bên tai của ta để nhắc nhớ ta rằng khi ta nằm xuống cuộc đời ta chẳng còn gì cả, còn chăng là ơn cứu độ, còn chăng là Nước Trời mà ta phải phấn đấu để bước vào.

Trang Tin Mừng ngày hôm nay nhắc nhớ phận người chúng ta và đặc biệt nhắc nhớ thái độ sống, tâm tình sống của chúng ta trước ngưỡng cửa Thiên Đàng. Thiên Chúa vẫn mở ngỏ, Thiên Chúa vẫn để cho ta tự do bước vào hay không và ta nên nhớ cửa vào vẫn là cửa hẹp.

Nhớ lại hình ảnh của các cửa trong Kinh Thành Cố Đô Huế, ta thấy các cửa đều hẹp để rồi ai muốn qua đó mà trước giờ đóng cửa hay sát giờ đóng cửa thì mọi người phải chạy và tranh thủ ép mình để được vào bởi cánh cửa rất hẹp. Muốn qua đó, con người phải bỏ lại những thứ cồng kềnh bên mình.

Cũng vậy, muốn vào Thiên Đàng, ta phải thao thức, phải có tâm thức hướng lòng về Thiên Đàng để rồi từ đó ta vất bỏ cái tôi nặng nề của ta, cái lòng hận thù, tham sân si của ta. Khi và chỉ khi tâm hồn ta thanh thoát, nhẹ nhõm thì ta mới có thể bước vào và qua cửa hẹp như Chúa mời gọi mà thôi.

Và rồi nhìn lại mình, ta vẫn thấy ta là con người mỏng dòn và yếu đuối, ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta nhất là ơn can đảm để ta từ bỏ những gì vướng víu ạnh ta như cái tôi, cái tính nóng nảy, cái tính ương ương dở dở của ta để ta thanh thoát bước vào cửa hẹp và vào Thiên Đàng như Chúa mời gọi.

Tác giả:  Huệ Minh

CHUYỆN NHÂN GIAN

CHUYỆN NHÂN GIAN

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Theo bản tin của Vatican (news.va  được Tìn Mừng cho Người Nghèo (GNsP) dịch lại, thứ năm 11.8.2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng bữa trưa với 21 người tỵ nạn Syria tại khu Nhà Khách Santa Marta. Trong bữa ăn trưa, cả người lớn và trẻ em đều có dịp được trò chuyện với Papa Phanxicô về cuộc sống họ mới khởi sự tại Ý. Những người tỵ nạn này hiện đang sống ở Roma và được cộng đoàn Thánh Egidio bảo trợ. Trong dịp Đức Phanxicô viếng thăm hòn đảo Lesbos vào ngày 16.4.2016 ( ảnh chụp ), ngài đã mang họ về Roma cùng với ngài. Nhóm đầu tiên đã đến Roma với ngài trên cùng chiếc bay dành riêng cho Giáo Tông, còn nhóm thứ hai đến Roma sau đó, vào giữa tháng 6 theo đề nghị của ngài.

Một lần nữa qua hình ảnh của một vị Giáo Tông, chứ không phải là một vị “Giáo Hoàng” như lâu nay vẫn quen gọi sai, chúng ta học được bài học yêu thương, đơn sơ, bình dị và chân tình rất cụ thể của một vị Cha chung như cách mọi người gọi ngài là Papa, Pape, Pope… Kể từ ngày nhận sứ vụ ngai tòa Phêrô, Papa Phanxicô đã có những chọn lựa cung cách sống gần gũi với mọi người, đặc biệt người nghèo, để nói lên tinh thần của Phúc Âm là Tin Mừng cho người nghèo.


Như chúng ta biết, vị Giáo Tông này đã không vào biệt điện dành riêng cho ngài nhưng đã sống ở nhà nghỉ Santa Marta. Từ đó ngài có dịp sống chung với những người cư trú tại đây, sinh hoạt với những người giúp việc, rồi mỗi sáng nếu không đi đâu, ngài sẽ dâng Thánh Lễ với họ, giảng dạy Lời Chúa cho họ. Không tách biệt với cộng đồng, Papa Phanxicô di chuyển đến văn phòng làm việc bằng chuyến xe buýt chung với các nhân viên của Vatican.

Với các phương tiện truyền thông hiện đại, vô tình ống kính đã ghi lại hình ảnh cổ tay áo của Papa Phanxicô đã bị sờn vải trong chuyến viếng thăm Mehico. Chắc chắn với cương vị của ngài, chuyện thay một chiếc áo mới chẳng phải là xa vời không với tới, thậm chí đó là chuyện quá nhỏ, nhưng vị Giáo Tông này đã sống một cách giản dị ngay cả trong những điều nhỏ nhặt nhất.

Chiếc cặp cầm tay trong mọi cuộc di chuyển đã là một hình ảnh trong chuỗi những hình ảnh đánh động mọi người. Tự tay ngài cầm lấy vật dụng cá nhân, mặc dầu ở cương vị của mình, có thể nhờ một tùy viên mang giúp.

Địa chỉ năng lui tới thăm viếng và cử hành Thánh Lễ của Papa lại là nhà tù, chứ không phải Đại Giáo Đường với đông đảo quần chúng, với cờ hoa rợp trời, kèn đồng vang dội. Đó là một ngôi nhà của tội nhân, với những căn phòng đơn sơ mộc mạc được canh gác nghiêm ngặt, ở đó ngài gặp gỡ những kẻ phạm pháp, những kẻ hèn mọn bị khinh miệt và tách biệt khỏi xã hội con người. Ngài đến đấy với tâm tình “mỗi khi bước qua ngưỡng cửa nhà tù, tôi ý thức chính mình là tội nhân, nơi đây phải là chỗ dành cho mình, nhưng Chúa thương tôi, tôi đến đây để tạ ơn Chúa và chia sẻ với những người ngồi tù thay tôi”, ngài đã trả lời như vậy khi được hỏi về lý do tại sao lại hay viếng thăm nhà tù.

Và nhiều hành động với cung cách sống như vậy nữa nơi vị Giáo Tông của thời đại này. Không cần nói nhiều chúng ta đều biết, thế gian đã chọn lựa khác ngài, chọn sự vinh quang, hưởng thụ, sang trọng cho có đẳng cấp, họ không chọn phục vụ, không chọn khó nghèo đơn sơ, không chọn gần gũi cộng đồng, đặc biệt là người nghèo khi họ có quyền có chức, cho dẫu chính họ xuất thân từ hạng người nghèo khổ. Cứ nhìn vào cuộc sống của các quan chức ở Việt Nam sẽ thấy rất rõ, chức và quyền cộng với tinh thần thế tục đã gây biết bao đau khổ cho người khác, đặc biệt là người nghèo. Trên các phương tiện truyền thông, vụ bắn chết viên Bí thư Tỉnh Ủy và Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Yên Bái vào ngày 18.8 vừa qua đã góp thêm những hình ảnh phơi bày sự tệ hại của tinh thần thế tục.

Đó là thế gian, đó là những người từ chối hoặc không có dịp tiếp cận Tin Mừng, nhưng chúng ta thì sao ? Hàng ngày chúng ta nghe đọc Lời Chúa, hằng ngày chúng ta lên tòa giảng, lên lớp giáo lý nói Lời Chúa, chúng ta chọn cung cách sống như thế nào ? Hãy nhìn vào những trang thiết bị, những cơ sở vật chất, những phương tiện di chuyển, những cách xử dụng phòng ốc, những chọn lựa trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta chọn điều gì ? Tu Viện hay pháo đài khi chúng ta xây dựng tường rào ? Tu Viện hay khách sạn khi chúng ta chọn lựa kiểu dáng và vật liệu xây dựng ? Nơi ở của những người tự đánh giá là “con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” hay biệt điện dành riêng cho ông hoàng bà chúa ?

Đừng tiếp tay với thế gian vốn đã quá gian xảo và lọc lừa, trước mặt Chúa chúng ta hãy thật lòng tự vấn lương tâm, thực hành sám hối và thay đổi cách sống trước khi những tai họa sẽ giáng xuống trên đầu chúng ta, nếu cứ… “đi lại làm điếm” với thế gian này.

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

19.8.2016

Mẹ Teresa va` Hillary Clinton

Mẹ Teresa va` Hillary Clinton

Người có Thiên Chúa thì có sự khôn ngoan, dù người đó chỉ là một đứa bé không biết chữ, cũng khôn ngoan vượt bực, hơn xa các Tổng thống, Khoa trưởng đại học, hoặc người có bằng cấp đầy mình… mà không có Thiên Chúa trong linh hồn.

Kẻ không có Thiên Chúa thì không có khả năng nhận biết đâu là chân lý. Tương tự, tên tướng cướp nói, thì lâu la của nó hoan hô, mặc dù tướng cướp đang ra kế hoạch cướp của giết người.

Người có Thiên Chúa trong linh hồn, mới có khả năng nhận biết đâu là chân lý; bởi khả năng nhận biết đâu là chân lý là do Thiên Chúa ban cho những ai tôn thờ Ngài.

Nhân dịp ĐTC Phanxicô phong thánh Mẹ Têrêsa, ôn lại câu chuyện giữa Mẹ Thánh và Bà Hillary ClintonĐại Hội Đảng Dân Chủ (ĐDC) tổ chức tưng bừng tại Philadelphia vài tuần lễ trước đã đồng loạt quyết định chọn Bà Hillary Clinton làm ứng cử viên (UCV) chính thức của ĐDC ra tranh chức vụ Tổng Thống (TT) Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đánh dấu một sự kiện chưa từng có trong lịch sử nước này, đó là có một phụ nữ ra tranh cử–và rất có thể–sẽ đắc cử vào chức vụ tối cao này. Bà Clinton là cựu Đệ Nhất Phu Nhân, cựu Nghị Sĩ Tiểu Bang New York, cựu ƯCV tranh chức TT cùng với đương kim TT Obama, và cựu Ngoại Trưởng. Bậc nữ lưu như thế dễ có mấy ai!

Chúa Nhật 4 tháng 9 năm 2016 sắp tới lại chính là ngày Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô ấn định cử hành đại lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta (xem tin trên trang VietCatholic ngày 8/8/2016). Đây là vị thánh của thời đương đại, tưởng chừng như không ai không biết đến, đó là chưa nói tới biết bao nhiêu người đã được nhìn thấy, chạm tay vào, hưởng nhận những giúp đỡ cụ thể từ chính bàn tay Mẹ, hoặc từ Hội Dòng Mẹ đã sáng lập, nơi con cái Mẹ nối bước tiếp nhận và xoa dịu những con người khốn khổ trong nhân loại hôm nay. Bậc nữ lưu như Mẹ tưởng cũng chẳng có ai!

Trước khi ôn lại câu chuyện giữa hai bậc nữ lưu nổi bật này, tưởng cũng nên biết rằng Hillary Clinton là người cầm chịch phong trào “phò chọn lựa” (pro-choice) nghĩa là chủ trương người phụ nữ có toàn quyền quyết định giữ lại hay phá bỏ thai nhi còn trong bụng mình. Lý do đơn giản là vì cái bào thai ấy—vốn chỉ là một cái bọc nhầy nhụa—không hề có một chút nhân quyền gì ráo trọi. Thành ra, sau khi “dính bầu,” người phụ nữ được hoàn toàn tự do quyết định về số phận cái bào thai ấy: nếu cho nó sống thì giữ nó lại, còn muốn cho nó chết thì đẩy nó ra. Nếu không đẩy được bằng cách này, thì cứ tự nhiên tìm cách khác–đừng đặt vấn đề về phương pháp hay kiêng dè vì độ non già của bào thai–miễn sao là tống khứ cái của nợ đó—có khác chi một thứ ung nhọt tai quái—ra khỏi cái cơ thể mà người phụ nữ hoàn toàn làm chủ là được. Đứa nào ngăn cản hay cấm đoán thì đã có pháp luật trừng trị. Phá thai hợp pháp cơ mà! Điều này đã được (các “Đấng) Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 1973 qua phán quyết ‘Roe vs. Wade.’

Trong khi đó, Mẹ Têrêsa–với tấm lòng khoan dung nhân hậu, giầu tình xót thương—đã nỗ lực tối đa để cứu các bào thai đó, trước khi các thai phụ thực hiện quyền tự quyết của mình. Đó là bối cảnh xẩy ra câu chuyện giữa hai người phụ nữ lừng danh.

Ngày 22 tháng 1 năm 1994, trong dịp gọi là “National Prayer Breakfast,” Mẹ Têrêsa được mời làm diễn giả chính. Ngay trước mặt TT Bill Clinton và Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton cùng quan khách, Mẹ Têrêsa dõng dạc vạch trần sự thối nát về mặt văn hóa nẩy sinh từ những tội ác chống lại các thai nhi. Mẹ Têrêsa nói như sau: “Tôi tin rằng thủ phạm tồi tệ nhất đang phá hoại nền hòa bình của ngày hôm nay chính là nạn phá thai, bởi vì đó chính là cuộc chiến tranh chống lại trẻ em, việc trực tiếp giết hại trẻ thơ vô tội, mà kẻ giết người lại chính là người mẹ của chúng. Nếu chúng ta đành tâm chấp nhận để cho người mẹ có thể ra tay sát hại con mình, thì làm thế nào chúng ta có thể nói cho người khác là đừng giết hại lẫn nhau? Làm cách nào chúng ta có thể thuyết phục một người phụ nữ đừng có phá thai? Lúc nào cũng thế, ta phải dùng tình yêu để thuyết phục họ, bởi vì tình yêu có nghĩa là sẵn sàng cho đi đến khi nào thấy nhói đau mới thôi. Quốc gia nào chấp nhận cho phá thai thì quốc gia ấy không hề dậy cho dân mình biết yêu thương, mà trái lại dậy cho họ cứ sử dụng bạo lực để đạt tới điều mình mong muốn. Đó là lý do tại sao thủ phạm tồi tệ nhất đang phá hoại tình yêu và nền hòa bình chính là nạn phá thai.”

Mẹ còn nói thêm: “Phá thai là chối bỏ giáo huấn của chính Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã dậy rằng ‘ai đón tiếp một em nhỏ, tức là đón tiếp chính Ta vậy.’ Rồi Mẹ kết luận: “Phá thai đúng là từ chối không tiếp nhận trẻ nhỏ, và do đó, cũng từ chối đón nhận chính Chúa Giêsu.”

Mẹ dừng lại giây lát để đón nhận những tràng pháo tay từ phía cử toạ đang nhất loạt đứng lên biểu tỏ lòng ngưỡng phục.

Chỉ có điều là cả Ông lẫn Bà Clinton đều không hề đứng lên và cũng chẳng hề vỗ tay.

Mẹ Têrêsa vẫn dõng dạc: “Tôi xin nói cho quý vị một điều đẹp đẽ. Chúng tôi chiến đấu chống nạn phá thai bằng việc tiếp nhận–tức là chăm sóc cho người mẹ và đón nhận thơ nhi…Xin đừng giết hại thơ nhi. Tôi muốn nhận thơ nhi. Hãy trao nó cho tôi. Tôi sẵn sàng đón nhận bất kỳ thơ nhi nào đang chờ bị phá bỏ để trao em cho một đôi vợ chồng đang sẵn lòng thương yêu trẻ thơ và được trẻ thơ yêu thương lại. Chỉ từ mái ấm tại Calcutta, chúng tôi đã cứu được hơn ba ngàn trẻ em khỏi bị phá bỏ. Các thơ nhi này đã đem lại tình yêu thương và niềm hân hoan vui sướng đến cho các cha mẹ nuôi của chúng. Chúng đã lớn lên đầy ắp yêu thương và hân hoan rạng rỡ.”

Tuy trong bụng không vui, nhưng Bà Clinton vẫn phải thốt lên: “Lời nói của Mẹ Têrêsa thật thẳng thắn, cho thấy rõ ràng Mẹ không cùng quan điểm với tôi.”

Nhưng cho dù nói năng thẳng thừng như thế, Mẹ vẫn cống hiến một điều gì đó mà Bà Clinton không thể chối từ, đó là đồng ý với Mẹ Têrêsa rằng việc tiếp nhận trẻ em chính là một chọn lựa khác, một chọn lựa tối hảo. Sau đó Mẹ Têrêsa đến gặp Bà Clinton để ngỏ ý xin thiết lập tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn một trung tâm tiếp nhận các trẻ thơ không ai muốn, các trẻ em côi cút và bị bỏ rơi. Mẹ đã nhờ Đệ Nhất Phu Nhân tiếp tay với Mẹ để làm việc này và mời Bà Clinton sang Ấn Độ để chứng kiến các công cuộc Mẹ làm tại xứ sở nghèo khổ này.

Cuộc vận động của Mẹ Têrêsa không hề vô ích. Sau khi về lại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Bà Clinton đã khởi sự giúp Mẹ xây dựng “Trung Tâm Têrêsa Nuôi Dậy Trẻ Thơ” vào năm 1995 tại vùng ngoại ô Hoa Thịnh Đốn. Bà Clinton đã mời Mẹ Têrêsa đến khánh thành cơ sở này hai năm trước khi Mẹ qua đời. Thế là trước khi về trời, Mẹ Têrêsa đã tỏ cho người phụ nữ đầy quyền lực này nhìn thấy một nét gì đó thật đáng chú ý nơi con người nhỏ thó của một nữ tu khiêm hạ tầm thường, và cũng đã gây cảm hứng cho Bà Clinton thực hiện một công trình tốt đẹp, cho dù vẫn cương quyết chủ trương “phá thai an toàn và hợp pháp,” điều mà nhóm “Cha Mẹ Có Kế Hoạch” (Planned Parenthood) vẫn đang thực hiện hàng ngày.

Rất tiếc, “Trung Tâm Têrêsa Nuôi Dậy Trẻ Thơ”—vốn được tưng bừng khai trương thế nào không rõ—đã “âm thầm đóng cửa” vào năm 2002.

Tháng Chín tới, Mẹ Têrêsa sẽ được tôn phong lên bậc hiển thánh. Tháng 11 sắp đến, liệu Bà Clinton có làm nên lịch sử khi đắc cử chức vụ Nữ Tổng Thống đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ hay không? Điều này đang được nói đến hàng ngày, nhất là trên các phương tiện truyền thông xã hội. Chưa bao giờ có cuộc tranh cử nào kỳ quái đến thế, khi hai đối thủ chửi nhau ra rả, bới móc nhau một ngàn lẻ một chuyện, từ đời tư ra đến đời công, không trừ một ngõ ngách nào! Trong khi chờ đợi lịch sử sang trang, thôi thì ta cứ ôn lại bài học lịch sử giữa hai người phụ nữ lừng danh mà ta đang nói tới: Mẹ Têrêsa Calcutta và Bà Hillary Clinton, qua giai thoại nhỏ để kết thúc câu chuyện hôm nay:

“Trong một bữa ăn trưa được khoản đãi long trọng tại Toà Bạch Ốc, Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton hỏi nhỏ một thực khách cùng bàn: ‘Bà nghĩ sao khi mãi đến hôm nay chúng ta vẫn chưa có được một người phụ nữ lên làm tổng thống?’ Người phụ nữ nhỏ thó đồng bàn với Bà Clinton không chần chừ trả lời: ‘Có lẽ bởi vì người phụ nữ ấy đã bị bóp chết ngay từ lúc còn là bào thai.”

Đúng là câu trả lời của một vị thánh. Phải, người phụ nữ đồng bàn nhỏ thó ấy chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Vọng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

08/14/2016

Nguyễn Kim Ngân

Anh chị Thụ Mai & gởi

Giáo Lý về Lòng Thương Xót Chúa trong Năm Thánh Thương Xót 2016

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – BUỔI TRIỀU KIẾN CHUNG HẰNG TUẦN

THỨ TƯ NGÀY 10-8-2016

DUC TC 10-8

 

 

 

 

 

 

 

     

Giáo Lý về Lòng Thương Xót Chúa trong Năm Thánh Thương Xót 2016

Bài 21

DUC TC 2

 

 

 

 

 

 

Lòng thương xót là con đường bắt đầu từ con tim đến bàn tay,

tức là đến các công việc của lòng thương xót”.

Xin chào Anh Chị Em thân mến!

DUC T C 3

Đoạn Phúc Âm của Thánh ký Luca chúng ta vừa nghe (7:11-17) cho chúng ta thất một phép lạ thực sự là lớn lao của Chúa Giêsu, đó là phép lạ hồi sinh một nam nhân trẻ trung. Tuy nhiên, tâm điểm của trình thuật này không phải là phép lạ mà là lòng êm ái dịu dàng của Chúa Giêsu giành cho mẹ của nam nhân trẻ ấy. Ở đây lòng thương xót mang danh nghĩa là một tấm lòng cảm thương cao cả đối với một người phụ nữ đã mất chồng và bấy giờ lại đang mang đứa con trai duy nhất của mình ra nghĩa địa. Chính nỗi sầu thương lớn lao này của bà mẹ đã tác động Chúa Giêsu và thúc đẩy Người làm phép lạ hồi sinh ấy.

Khi dẫn nhập vào trình thuật này, vị Thánh ký đã kể đến nhiều điều đặc biệt. Gặp nhau ở cửa ngõ của một tỉnh lỵ nhỏ bé, một thôn làng là hai đám đông qua lại ngược chiều nhau chẳng có gì là chung đụng nhau. Chúa Giêsu, theo sau là các môn đệ và một đám rất đông dân chúng, đang sắp vào thôn tỉnh ấy, trong khi đó thì một đoàn rước buồn thảm đang tiến ra khỏi cổng, một đoàn rước đang đưa đám kẻ chết, bao gồm người đàn bà góa ấy cùng với nhiều người khác. Gần cổng có hai nhóm người vừa băng ngang qua nhau, một nhóm theo chiều hướng của mình, nhưng vào chính lúc bấy giờ Thánh Luca ghi nhận cái cảm xúc của Chúa Giêsu: Nhìn thấy thế (thấy người phụ nữ góa) Chúa cảm thấy hết sức xót xa cho bà “mà nói cùng ba rằng: ‘Đừng khóc nữa’. Và Người đến gần chạm tới quan tài, khiến những ai khiêng quan tài đứng nguyên tại chỗ” (câu 13-14). Lòng cảm thương sâu xa đã hướng dẫn tác hành của Chúa Giêsu: Người đã chặn đám tang lại và chạm đến quan tài, để rồi được tác động bởi một lòng xót thương sâu xa đối với người mẹ, Người đã quyết định ra tay trực tiếp đối mặt với tử thần. Và Người đã trực diện đương đầu với nó một cách vĩnh viễn ở trên Thánh Giá.

Trong Năm Thánh Thương Xót này, thật là tốt đẹp, khi bước qua Cửa Thánh, Cửa Thương Xót, những ai hành hương hãy nhớ đến trình thuật Phúc Âm này, một câu chuyện xẩy ra ở cổng thành Naim. Khi Chúa Giêsu thấy người mẹ này khóc lóc thì bà đã động chạm đến lòng của Người! Mỗi người đi đến Cửa Thánh đều mang theo đời sống của mình, kèm theo những niềm vui của nó cùng với các nỗi đau của nó, những dự tính cùng với những thất bại, những nghi ngờ cùng với những sợ hãi, để dâng chúng lên cho lòng thương xót Chúa. Chúng ta tin rằng, ở tại Cửa Thánh, Chúa đến gần để gặp gỡ từng người chúng ta, để mang đến cho chúng ta và cống hiến cho chúng ta lời an ủi mãnh liệt của Người: “Đừng khóc nữa!” (câu 13). Đó là Cửa hội ngộ giữa nỗi đau đớn của nhân loại và lòng cảm thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy luôn nghĩ đến điều này: một cuộc hội ngộ giữa nỗi đau đớn của nhân loại và lòng cảm thương của Thiên Chúa. Bằng việc bước qua ngưỡng cửa này chúng ta hoàn trọn cuộc hành hương của chúng ta trong lòng thương xót Chúa là Đấng lập lại cùng tất cả chúng ta, như Người đã phán cùng nam nhân trẻ trung: “Ta truyền cho anh hãy chỗi dạy!” (câu 14). Hãy chỗi dậy! Thiên Chúa muốn chúng ta đứng. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta để đứng: bởi thế, lòng cảm thương của Chúa Giêsu mới tiến đến cử chỉ chữa lành, để chữa lành chúng ta, nên chữ chốt yếu ở đây là: “Hãy chỗi dậy! Hãy đứng lên, như Thiên Chúa đã tạo dựng nên anh chị em!” – Đứng. “Thế nhưng thưa cha chúng con thường hay sa ngã lắm” – “Cứ chỗi dậy!” Đó là những gì Chúa Giêsu luôn nói. Khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta hãy tìm cách nghe lại lời này trong lòng của chúng ta: “Hãy chỗi dậy!” Lời nói quyền lực này có thể làm cho chúng ta chỗi dậy và thực hiện nơi chúng ta cuộc vượt qua sự chết mà vào sự sống. Lời của Người làm cho chúng ta hồi sinh, cống hiến cho chúng ta niềm hy vọng, phấn khởi những tấm lòng mệt mỏi, mở rộng nhân sinh quan vượt lên trên đau khổ và chết chóc. Đối với mỗi người chúng ta thì kho tàng khôn dò của lòng thương xót Chúa được ghi khắc ở trên Cửa Thánh!

Nghe thấy lời Chúa Giêsu, “người chết đã ngồi lên và bắt đầu nói. Và Người đã trao anh ta cho mẹ của anh ta” (câu 15). Câu này thật là tuyệt vời: nó cho thấy nỗi êm ái dịu dàng của Chúa Giêsu: “Người đã trao anh ta cho mẹ của anh ta”. Người mẹ này được lại con của mình một lần nữa. Lãnh nhận con từ bàn tay của Chúa Giêsu, bà trở thành mẹ một lần nữa, nhưng người con trai bấy giờ được hồi sinh đã không nhận lãnh sự sống từ bà. Như thế bà mẹ và đứa con nhận được cái căn tính tương xứng của mình nhờ lời nói quyền năng của Chúa Giêsu cùng với cử chỉ yêu thương của Người. Bởi vậy, nhất là trong Năm Thánh, Mẹ Giáo Hội nhận lãnh con cái của mình, nhìn nhận nơi chúng sự sống được ban cho chúng xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa. Do bởi ân sủng này, ân sủng Phép Rửa, mà Giáo Hội trở thành Mẹ và từng người chúng ta trở thành con cái của Giáo Hội.

Trước nam nhân trẻ trung được hồi sinh và được trao trả về cho mẹ của anh ta như thế, “tất cả mọi người đều kinh sợ; và họ đã tôn vinh Thiên Chúa mà rằng: ‘Một vị đại tiên tri đã sống lại giữa chúng ta’ và ‘Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài!'” Bởi thế, những gì Chúa Giêsu đã làm không phải chỉ là một hành động cứu độ nhắm đến người mẹ góa và người con trai của bà mà thôi, hay là một cử chỉ nhân lành chỉ hạn hẹp cho thôn tỉnh này thôi. Trong việc phục hồi thương xót của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đến để gặp gỡ dân của Ngài; nơi Người tất cả ân sủng của Thiên Chúa tỏ hiện và sẽ tiếp tục tỏ hiện cho nhân loại. Khi cử hành Năm Thánh này, một năm thánh tôi muốn được sống động nơi tất cả mọi Giáo Hội riêng, tức là nơi tất cả mọi Giáo Hội trên thế giới, chứ không phải chỉ ở Roma, toàn thể Giáo Hội khắp nơi trên thế giới liên kết với nhau trong cùng một bài hát duy nhất chúc tụng Chúa. Cả hôm nay đây, Giáo Hội nhìn nhận bản thân mình được Thiên Chúa viếng thăm. Bởi thế, khi đến Cửa Thương Xót, mỗi người nên biết rằng họ tiến đến với tấm lòng nhân hậu của Chúa Giêsu: thật vậy, Người là Cửa đích thực dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và phục hồi sự sống mới cho chúng ta. Lòng thương xót, nơi Chúa Giêsu ở nơi chúng ta, là con đường khởi đi từ con tim tới đôi tay. Nghĩa là gì? Chúa Giêsu nhìn anh chị em, Người chữa lành anh chị em bằng lòng thương xót của Người, Người nói cùng anh chị em rằng; “Hãy chỗi dậy!” – và tâm can của anh chị em được đổi mới. Đâu là ý nghĩa của việc theo con đường từ con tim đến đôi tay? Nghĩa là với một con tim mới mẻ, một con tim được Chúa Giêsu chữa lành, tôi có thể thi hành các công việc của lòng thương xót nhờ đôi bàn tay của tôi, cố gắng giúp đỡ, chăm sóc cho tất cả những ai đang cần đến tôi. Lòng thương xót là con đường bắt đầu từ con tim đến bàn tay, tức là đến các công việc của lòng thương xót.

(Trước khi chào các phái đoàn hành hương trong ngày đang tham dự buổi triều kiến chung hằng tuần này, ĐTC đã dẫn giải thêm về mối liên hệ giữa con tim và đôi tay vừa được ngài đề cập tới ở phần kết bài giáo lý hôm nay, như sau:)

Tôi nói rằng lòng thương xót là con đường đi từ con tim đến đôi tay. Chúng ta lãnh nhận được trong con tim của chúng ta lòng thương xót của Chúa Giêsu, Đấng tha thứ cho chúng ta hết mọi sự, vì Thiên Chúa tha thứ hết mọi sự và hồi sinh chúng ta; Ngài ban cho chúng ta một sự sống mới và làm cho chúng ta nhiễm lây lòng cảm thương của Ngài. Từ con tim được tha thứ ấy và với lòng cảm thương của Chúa Giêsu, con đường này bắt đầu đến đôi tay, tức là đến các hoạt động thương xót. Một ngày kia có một vị Giám Mục nói với tôi rằng ngài đã thực hiện việc vào qua và đi ra các cửa thương xót ở Vương Cung Thánh Đường của ngài cũng như ở các nhà thờ khác. Tôi đã hỏi ngài: “Tại sao huynh làm như thế?” – “Vì một cửa để đi vào, để xin ơn tha thứ và lãnh nhận lòng thương xót của Chúa Giêsu; cửa kia là cửa lòng thương xót đi ra, để mang lòng thương xót cho người khác, bằng các công việc thương xót”. À thì ra vị Giám Mục này tinh khôn! Chúng ta cũng cần phải làm như thế bằng con đường đi từ con tim đến đôi tay, ở chỗ chúng ta tiến vào nhà thờ qua cửa thương xót, để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta rằng: “Hãy chỗi dậy! Hãy đi, đi!” – và với cái “đi” này – cái đứng – chúng ta đi ra qua ngõ thoát. Đó là Giáo Hội ra đi, là con đường thương xót đi từ con tim đến đôi tay. Hãy thực hiện đường lối này!

https://zenit.org/articles/gen eral-audience-text-on-crossing -the-holy-door-like-the-widow- of-nain/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chỗ tự ý nhấn mạnh

From: daminhmariacaotantinh