CÁI GIÁ CỦA CHÂN LÝ

Nhà tu đức học nổi tiếng là Cha Anthony de Melo có viết một bài thơ ngụ ngôn nội dung như sau:

Một hôm lang thang trên đường phố, tôi bỗng thấy có một cửa hiệu với hàng chữ: “Tại đây có bán Chân lý”. Tôi tò mò bước vào hiệu, cô bán hàng niềm nở tiếp đón tôi và hỏi:

– Ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?

Tôi trả lời:

– Dĩ nhiên là tôi đi tìm thứ chân lý toàn diện. Một thứ chân lý không pha trộn giả dối, một thứ chân lý mà lý trí tôi hoàn toàn đầu hàng vô điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện.

Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu và chỉ sang một cửa tiệm khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang tìm kiếm. Người đàn ông đứng coi hàng nhìn tôi với tất cả thương cảm, ông chỉ cho tôi giá biểu món hàng mà tôi muốn mua rồi nói với tôi với một giọng đầy ái ngại:

– Thưa ông, giá của món hàng rất cao.

Đã cương quyết mua cho bằng được chân lý toàn diện tôi liền hỏi:

– Giá bao nhiêu, xin cho tôi biết?

Người bán hàng trả lời:

– Nếu ông muốn mua chân lý này ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông.

Tôi ra khỏi tiệm, lòng buồn rười rượi. Tôi nghĩ rằng: Tôi có thể mua chân lý toàn diện bằng một giá rẻ mạt. Thì ra, tôi chưa sẵn sàng để đón nhận chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào những xác tín của tôi.

***

Qúy vị và các bạn thân mến,

Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn nói lên thái độ của nhiều người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta chưa tin tưởng đầy đủ và sống trọn vẹn cho Ngài. Là chân lý nhập thể, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi con người một sự gắn bó mật thiết với Ngài bởi vì chỉ trong Ngài con người mới có thể biết được mọi mầu nhiệm về Thiên Chúa và về con người.

Là con đường duy nhất, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi con người một niềm tin tuyệt đối. Bởi vì chỉ trong Ngài con người mới có thể tìm được cứu cánh của mình.

Là sự Sống đích thực, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi con người một tình yêu không chia sẻ. Bởi vì chỉ trong Ngài, con người mới tìm được sự sống, niềm hạnh phúc đích thực.

Được tạo dựng cho Thiên Chúa vốn khát khao chân lý, Thiên Chúa của Tình Yêu và Hạnh Phúc, nhưng con người lại lầm lạc và khốn khổ. Chinh phục được vũ trụ, nhưng con người vẫn lạc lối chưa biết đường về cõi sống. Có được tiền rừng bạc bể nhưng con người vẫn không mua được niềm hạnh phúc đích thực. Chúa Giêsu đã tuyên bố: An tin vào Ngài thì được sống đời đời. Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.

Đi theo Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ bảo làm cách nào để được sự sống đời đời, nhưng khi nghe Ngài tuyên bố về bán của cải cho người nghèo rồi đi theo Ngài thì chàng thanh niên nhiệt tình, tốt lành kia đã buồn rầu bỏ về.

Con người khao khát chân lý toàn diện, nhưng khi phải đón nhận chân lý ấy con người lại chùn bước vì không muốn chấp nhận những đòi hỏi của chân lý. Chân lý không chỉ để tin mà còn để sống và thực thi.

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con, không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là đương nhiên được vào Nước Trời mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa Cha. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm và sống theo ý Chúa cho dẫu có phải chịu thiệt thòi mất mát. Xin cho chúng con không chờ đợi một phần thưởng nào khác hơn là biết rằng: Chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen!

Ngọc Nga sưu tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi

SỐNG LẠI

SỐNG LẠI

song-lai

Trong chương trình “Những điều bạn có thể chưa biết” của đài VTV3 có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu cơ tim.  Chị tắt thở.  Chị đã chết.  Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại.  Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy.  Chị trả lời: chị thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế.  Chị cũng nhìn thấy một chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy giày.  Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn khoăn để ý tìm kiếm.  Một hôm vị bác sĩ đi qua tòa nhà đối diện nhìn sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của tòa nhà, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai đã đặt ở đó tự hồi nào.  Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại: chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày.

Đó là một trong 1370 trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều tra.  Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì: Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.  Và sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa.  Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.  Tất nhiên đây chưa phải là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại.  Nhưng nó rất gần với mặc khải của Lời Chúa hôm nay.  Và kinh nghiệm hiếm có của họ rất có thể hữu ích cho ta.  Kinh nghiệm của họ nói với ta hai điều:

1) Có cuộc sống khác ở bên kia cái chết.  Kinh nghiệm của họ phù hợp với niềm tin dân gian, nhất là của người Việt Nam vẫn tin rằng: thác là phế thách, còn là tinh anh.  Vì tin có sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng quảy, giỗ chạp.

Niềm tin ấy phù hợp với giáo lý của Chúa.  Khi Môsê thấy Chúa hiện ra trong bụi gai cháy đỏ.  Ông hỏi Chúa là ai.  Chúa trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp”.  Vào thời của Môsê, Abraham đã qua đời được 5, 6 trăm năm.  Vậy mà Chúa vẫn tự giới thiệu là Thiên Chúa Abraham, tức là Abraham vẫn sống, đang sống bên Chúa.  Vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ chết.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc đến cuộc sống sau cái chết như dụ ngôn người giàu có và Lagiarô, trong dụ ngôn về ngày phán xét, dụ ngôn lúa đồng và cỏ dại.

Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới.  Trong thư Rôma, Ngài viết: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người.  Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy.  Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23).

Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải.  Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau.  Đời sống này là thời kỳ thai nghén.  Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.

2) Cuộc sống ở bên kia rất khác với cuộc sống hiện tại.  Khi Chúa Giêsu trả lời người Sadducêô, Chúa Giêsu đã mặc khải ba chân lý.

Chân lý thứ nhất: Chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa.  Sự sống đời sau có đó.  Nhưng không phải ai cũng vào được.  Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào.  Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này.  Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu.  Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương.

Chân lý thứ hai: Người ta sẽ giống như thiên thần.  Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất.  Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống.  Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa.  Nếu vậy, trên trời ta có còn là ta nữa không hay ta trở thành một người khác, một kiếp khác?  Thưa, tuy có khác nhưng ta vẫn là ta.  Đứa bé bụ bẫm hôm nay chẳng có gì giống với cái bào thai ngọ nguậy trong bụng mẹ hôm qua.  Nhưng cả hai chỉ là một.  Bà cụ 90 tuổi hôm nay chẳng còn gì giống với cô thiếu nữ mà bà đã là cách nay 70 năm.  Nhưng cả hai vẫn là một.  Chú bướm xinh đẹp nhởn nhơ bay lượn trên khóm hoa hôm nay chẳng có gì giống với gã sâu xấu xí lê la trên đất hôm qua.  Nhưng cả hai vẫn chỉ là một.

Trên trời, ta sống một cuộc sống khác, không ăn uống, không lấy vợ lấy chồng.  Nhưng ta vẫn là ta.  Có khác biệt nhưng vẫn có liên tục.

Chân lý thứ ba: Ta sẽ trở thành con Thiên Chúa.  Sống lại rồi, ta như đứa con bấy lâu phiêu bạt xa quê nay được trở lại nhà cha mẹ.  Tâm hồn luôn bị dằn vặt vì niềm khao khát vô biên, nay mới được no thỏa: Thiên Chúa chính là hạnh phúc lấp đầy được vực thẳm khao khát vô biên của ta.  Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.  Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.  Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là cội nguồn hạnh phúc, nên thánh Phaolô đã nói: “Những đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì so với hạnh phúc sau này ta sẽ được.  Và mọi tạo vật mong tới ngày được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,22).  Vì hạnh phúc ấy mà tám mẹ con trong bài đọc thứ nhất đã cam chịu mọi khổ hình.

Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng.  Chúa cho ta biết, đời ta sẽ không đi trong bất định, lạc vào hư vô, nhưng đời ta có một cùng đích, đó là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta.  Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên hạnh phúc, hạnh phúc làm con Thiên Chúa, hạnh phúc chia sẻ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.  Đời ta như vậy sẽ không đi vào mạt kiếp lụi tàn, nhưng sẽ triển nở trong vinh quang tự do.  Đúng như lời thánh Phaolô nói: “Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,43-44)

Lạy Chúa, xin cho con biết sống ở đời này theo đúng Lời Chúa dạy, để mai sau con xứng đáng được trở nên con của Chúa.  Amen.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Một trong những trường hợp trở về từ cõi chết, đó là trường hợp của mục sư Don Piper, tác giả cuốn sách “Khi Đức Tin Chiến Thắng: Câu Chuyện Có Thật Về Sự Sống Và Cái Chết”, New Yor Times Best Seller, kể về trải nghiệm của mình về những khoảnh khắc của “cuộc sống sau cái chết”.  Mời bạn đón đọc tại đường link:

http://suyniemhangngay.net/ 2016/10/16/khi-duc-tin-chien- thang/

Langthangchieutim gởi

“Vẫn biết trên cõi đời thường yêu thường mơ lứa đôi”

  “Vẫn biết trên cõi đời thường yêu thường mơ lứa đôi”
Nếu biết sống giữa trời tình yêu là con nước trôi
Trôi lang thang qua từng miền
Lúc êm ái xuôi đồng bằng.
Cũng có lúc thác gập ghềnh chia từng con nước xuôi
Mời bạn nghe chuyện thê lương
Khóc cho người lỡ yêu đương
Trời già nhưng còn ghen tương
Cách chia người trót thương.”

(Trần Thiện Thanh – Chuyện Tình Mộng Thường)

(Tôbia 12:15)

 Trần Ngọc Mười Hai

Đây là chuyện tình thời chinh-chiến khói lửa của thiếu-uý Biệt Động Quân tên là Phạm Thái với người con gái nhỏ phương xa là tiếp viên hàng không Air Vietnam xinh đẹp tên là Nguyễn Thị Mộng Thường.

Thôi thì, trích dẫn bài ca nói về chuyện tình da diết thời chiên-chinh cũng để mời bạn và cũng mời tôi, ta nghe thêm đôi giòng nhạc khá lỉnh kỉnh kiểu Nhật-Trường/Thiên-Thanh ở một thời cũng rất “chiến”, như sau đây:

Em xinh em tên Mộng Thường Mẹ gọi em bé ngoan.
Em xinh em tên Mộng Thường cha gọi em bé xinh.
Đến lúc biết mơ mộng như những cô gái xuân nồng.
Nàng yêu anh quân nhân Biệt Động trong một ngày cuối đông.
Chuyện tình trong thời giao tranh vẫn như làn khói mong manh.
Chàng về đơn vị xa xăm nàng nghe nặng nhớ mong.

Yêu nhau lúc triền miên khói lửa.
Chuyện vui buồn ai biết ra sao.
Nhìn quanh mình sao lắm thương đau.
Khi không thấy người yêu trở lại.
Tình không tìm ra dấu ban mai.
Người không tìm ra dấu tương lai.
Nhưng không chết người trai khói lửa.
Mà chết người em nhỏ phương xa.
Một đêm buồn có gió đông qua.

Xin cho yêu trong Mộng Thường

nhưng mộng thường cũng tan.
Xin cho đi chung một đường 

sao định mệnh chắn ngang.
Xin ghi tên chung thiệp hồng

bỗng giây phút nghe ngỡ ngàng.
Cô dâu chưa về nhà chồng
Ôi lạnh lùng nghĩa trang.
Chàng thề không còn yêu ai

dẫu cho ngày tháng phôi phai.
Nhiều lần chàng mộng liêu trai
Chàng hẹn nàng kiếp mai…”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Khởi đầu chuyện phiếm hôm nay, có vị gửi về bần đạo một đề-nghị cho đăng bài viết của một bé học sinh lớp 9b ở Hải Dương Việt Nam là Nguyễn Thị Thu Trang, viết bài đoạt giải như sau:

 “Thiên đàng, ngày 1/1/2016.

Xin gửi lời chào tới anh bạn tương lai của tôi!

Vậy là đã gần bốn tháng kể từ ngày tôi rời xa dương thế. Có lẽ sự từ giã trần thế quá sớm khiến tôi trưởng thành hơn để hôm nay tôi viết bức thư này cho anh. Tôi – bé Aylan Kurdi 3 tuổi người Syria – được cả thế giới biết đến với giấc ngủ vĩnh hằng trên bờ biển Bodrum Thổ Nhĩ Kỳ, viết cho anh – là tôi của tuổi 45 còn sống nơi trần thế.

Nghe có vẻ vô lý anh nhỉ? Tôi đã chết thì làm gì có anh! Nhưng tại sao lại không thể khi mọi thứ đều trong một giấc mơ – cả tôi và anh. Những thiên thần sẽ giúp tôi gửi bức thư này đến anh. 

Anh bạn thân yêu! Giờ đây tôi đang ở trên thiên đàng – một thế giới kì diệu lung linh biết mấy. Nơi này chẳng có ngày hay đêm. Mặt trời, vầng trăng và cả những vì sao lấp lánh cùng nhau tỏa sáng, không gian lúc nào cũng trong veo như pha lê. Mẹ và anh trai tôi đang mỉm cười cùng những linh hồn khác. Chúng tôi không có quốc gia, không phải di cư, không phân biệt tôn giáo, không có khủng bố hay bạo lực… Tất cả đều như nhau – những linh hồn bay nhẹ nhõm, thanh thản và bình yên. 

Giờ đang là giao thừa. Từ trên đây, chúng tôi có thể ngắm nhìn cả trái đất. Ngắm nhìn những chùm pháo hoa lộng lẫy bung nở trong màn đêm và lắng nghe tiếng chuông ngân vang. Dưới đó là những mảng màu tương phản. Có những nơi rực rỡ trong ánh sáng, lại có những mảng tối im lìm đâu đó. Tiếng chuông lẫn trong tiếng súng, hạnh phúc ở cùng với bất hạnh, thù hận đi liền với tình yêu… Chao ôi, cuộc sống nơi trần thế! Giờ thì tất cả đã quá xa vời. 

Anh bạn tuổi 45 ơi, anh còn nhớ chứ! Chúng ta theo cha mẹ chạy trốn khỏi chiến tranh và bạo lực đẫm máu nơi quê nhà Kobani với giấc mơ về “miền đất hứa” ở trời Âu. Vậy mà, giấc mơ ấy chấm dứt chỉ 20 phút sau khi chiếc thuyền khởi hành. Biển dậy sóng, thuyền lật úp, bàn tay bé nhỏ của tôi buông rời tay mẹ. Tôi đã hét lên: “Bố ơi, xin đừng chết!”. Tôi đã vật lộn với những con sóng, đã cố bấu víu lấy sự sống mong manh, đã vẫy vùng trong tuyệt vọng. 

Nhưng đứa bé ba tuổi thì có thể làm gì được giữa biển cả mênh mông trong đêm tối mịt mù? Và rồi… biển cả rộng mở đón tôi vào lòng. Biển cả cũng rất khoan dung khi thay vì nhấn chìm tôi đã đưa tôi vào bờ, nằm yên trên nền cát. Hẳn anh còn nhớ hình ảnh của tôi khi ấy. Bé bỏng. Áo màu đỏ và quần xanh lam. Chân đi giày. Hai tay xuôi theo chiều chân. Tôi nằm yên trên bãi biển. Mặt úp xuống bờ cát hiền hòa như đang say ngủ. Xung quanh, những con sóng vỗ về. Một giấc ngủ dài. Vĩnh viễn. 

Hình ảnh tôi được chia sẻ rộng rãi trên các trang mạng xã hội và các phương tiện truyền thông. Họ đã nói những gì? “Thảm họa nhân đạo mang tính toàn cầu”, “Biểu tượng của nỗi đau mà người dân Syria phải hứng chịu cũng như nỗ lực tuyệt vọng để thoát khỏi nỗi đau ấy” rồi “khiến thế giới câm lặng” hay “thức tỉnh lương tri”.  

Và người ta còn vẽ lên bức hình tôi đôi cánh của thiên thần. Đây, dĩ nhiên không phải là cách người ta “cường điệu hóa” hay “thi vị hóa” một cái chết. Đây là sức lay động từ một cái chết và là cách người ta làm dịu lại nỗi đau. Nhưng dù thế nào đi nữa thì một sự thật vẫn luôn hiện hữu. Một cuộc đời đã chấm dứt. Đứa trẻ mãi mãi tuổi lên ba. Tôi và gia đình đã sống sót qua mưa bom bão đạn ở Syria bất ổn, nhưng lại bỏ mạng khi đang trên đường tìm một nơi bình yên khác để sống. Cái chết quá sức đau đớn và quá sức vô lý.  

Chao ôi, 3 năm – một cuộc đời! Giá không có chiến tranh và bạo lực; giá tôi được đi trên chiếc thuyền chắc chắn hơn; giá bố mua được cho tôi chiếc áo phao; giá các nước châu Âu mở rộng đường biên giới; giá như… thì có lẽ tôi đã không phải chết! 

Giờ thì thân xác tôi đã được trở về nơi quê nhà. Một hành trình trở về đất mẹ gian truân, nhọc nhằn. Nhưng là trở về sau khi đã chết. Trở về cái nơi tôi đã tháo chạy. Trở về chỉ đề nằm dưới lòng đất. Đúng là một kiếp người dạt trôi, một phận người bèo bọt! 

Nhưng anh ạ, dù sao thì tôi cũng được nhiều người biết đến, được an ủi. Còn hàng nghìn, thậm chí hàng triệu cái chết khác thì sao? Hàng nghìn người di cư đã bỏ mạng khi vượt Địa Trung Hải, hàng nghìn đứa trẻ đã chết vì đói, vì rét, vì bệnh tật, hàng trăm người đã chết vì khủng bố. Có những người biết là sẽ chết khi phải vượt biển di cư nhưng không làm khác được.  

Một người đồng hương Syria của tôi đã viết thế này trước khi chết chìm anh ạ “Cảm ơn biển cả đã chào đón chúng tôi mà không đòi hỏi visa… mà không hỏi tôn giáo của tôi là gì…”. Thế đấy, có những cái chết được người ta xoa dịu. Có những cái chết được người ta tưởng nhớ. Nhưng cũng có cái chết bị bỏ rơi, quên lãng. Chao ôi, chỉ có chết mới hết bất công sao? Hay đến chết cũng chưa hết bất công? 

Và từ nơi đây, từ trong đau đớn, tột cùng của một đứa trẻ đã chết, từ trong yên bình, nhẹ nhõm nơi thiên đàng, tôi viết thư cho anh – là tôi, 45 tuổi còn sống nơi trần thế. Anh sẽ hỏi sao không phải một độ tuổi nào khác? Anh bạn, tôi chọn anh – tuổi 45 – là bởi khi ấy ta đã định vị được bản thân trong cuộc đời. Khi tôi 45 tuổi, còn sống – là anh – ta sẽ thế nào nhỉ? Một ông bố? Một công chức bình dân? Hay một nhân vật có khả năng thay đổi thế giới?  

Anh biết đấy, Steve Jobs của Apple cũng là con một người di cư. Và ta sẽ sống ở đâu? Trở về quê hương Syria hay ở miền đất hứa trời Âu? Thế giới khi ấy sẽ ra sao? Có như thiên đàng tôi đang sống không? Tuổi 45 ngỡ sẽ đến như một lẽ tự nhiên ư?  

Không! Có những tuổi 45 mãi mãi chỉ là ước mơ không thành hiện thực. Ai sẽ cho tôi và những đứa trẻ như tôi tuổi 45? Ai sẽ cho chúng tôi cuộc đời? Làm sao để tất cả mọi người đều có tuổi 45, tuổi 55 và hơn thế nữa? Câu hỏi ấy ai sẽ trả lời cho tôi – thưa anh! 

Thân ái!

Tôi – là anh từ trên thiên đàng”. (Theo Infonet) 

Bài viết của người trẻ hôm nay, thoạt nghe đã thấy lạ. Lạ ở chỗ, bé em học trò đây viết không thua gì người lớn cả xác lẫn hồn và lớn cả tư-tưởng lẫn những tư-duy tưởng chừng chừng như đã mai một dần với thế-hệ cao niên dần dà biến mất. Không phải thế. Phải nói rằng thế-hệ già trẻ một ngày kia rồi cũng sẽ biến mất, nhưng tử-tưởng chín mùi sẽ còn tồn tại mãi mãi, chẳng biến dạng.

Suy-tư những giòng chảy như thế, lại khiến bần đạo bầy tôi đây nghĩ nhiều về các thế hệ trẻ mãi đến sau này. Một thế-hệ không còn tin vào những chuyện tưởng chừng như “không tưởng”, như không còn tưởng-nghĩ như người xưa nữa.

Cũng thế, ở nhà Đạo thời hôm nay, còn ai đâu mà tin vào chuyện thiên-thần với thần-sứ mà đức thày John Flader lại đặt vấn-đề “Thế nào là thiên-thần và tổng-lãnh thiên-thần giữa các thánh”! Thôi thì, đức thày có viết lách cũng chỉ để phục-vụ các vị nay đã hết thời tin-tưởng vào những chuyện “không tưởng” tượng được như lời hỏi/đáp ở bên dưới:

“Thưa Cha,

Sao ta cứ gọi thần-sứ Gabriel và Raphael là “tổng-lãnh thiên-thần” mãi vậy? Và, tại sao Giáo-hội lại vẫn cử-hành mừng lễ các vị ấy mỗi năm, vậy chứ?”(Câu hỏi của một vị không ghi danh tánh)

Có ghi tên không, thì bạn và tôi ta cũng nghĩ là Đức Thày John Flader của The Catholic Weekly chế ra cho đầy mặt báo, chứ giờ này làm gì có ai thắc-mắc với vấn-nạn chuyện thần-thoại như thế. Thôi thì, các cụ đã tự hỏi, thì nay ta cứ xem các cụ trả lời/trả vốn ra sao, là được.

Và, đấng bậc vị vọng là Đức thày John Flader trả lời nhưng không trả vốn, như sau:

“Hệt như anh/chị vừa đề-cập ở câu hỏi, thường thì ta dung cụm-từ “thánh” là cho các vị sống lành/thánh hạnh-đạo rất gương mẫu, được Giáo-Hội công-nhận là bậc thánh-hiền, mà thôi. Nhưng, nếu hỏi: sao ta đưa cả các đấng bậc thiên thần nói ở trên vào cùng hàng với bậc lành/thánh như thế được? Câu trả lời chỉ chấp-nhận được nếu ta quay về với truyền-thống Giáo-hội kéo dài nhiều thế-kỷ, trong đó lại kể đến thần-sứ hoặc thiên-thần cùng bậc hiển-thánh có danh-xưng như thế cũng dễ hiểu. 

Nếu gọi là thánh, tức: ám-chỉ các vị có cuộc sống thánh-thiện thì đương nhiên là các thần-sứ còn gọi là “tổng-lãnh thiên-thần” thì không thể thích-hợp như thế được. Điều này, lại càng không thể để ta bắt chước cuộc sống giống với thiên-sứ được. Bởi lẽ, các ngài chỉ là bậc linh-thiêng vốn có khả-năng làm những việc mà con người chúng ta không thể làm được. Tuy nhiên, ta vẫn có thể khẩn cầu các đấng can-thiệp cầu-bàu cho ta mỗi khi cần. 

Thế còn, hỏi rằng tại sao ta lại mừng lễ các vị ấy mỗi năm, là làm sao? Thì, có thể trả lời rằng: mỗi vị như thế đều được nêu tên trong Kinh thánh, nên ta cũng nên đem lòng sùng kính các ngài như Giáo-hội có thói quen làm thế biết bao nhiêu năm trời nay.  

Nói chung thì, các vị này đều là bậc lành thánh từng chống trả ma quỷ như sách Cựu Ước từng diễn-tả, bấy lâu nay. Đặc-biệt là thánh Mi-ca-e từng được nhắc đến nhiều lần ở sách Đanien đoạn 12 câu 1.  

Ở Tân-Ước, thư thánh Giuđê gọi ngài là Tổng-lãnh thiên-thần từng đánh chống ác-thần quỷ dữ. Và, sách Khải-Huyền ở nhiều đoạn như đoạn 12 câu 7-9 còn kể chuyện thánh thiên-thần đây đạp dẹp loài rồng/rắn hãm hại cả và thế-gian nữa.

 Riêng thánh Gabriel là Đấng thánh mang tên có nghĩa là “Quyền-uy sức mạnh của Thiên-Chúa” xuất-hiện cả ở Cựu Ước lẫn Tân-Ước, khi ngài cắt-nghĩa thị-kiến của tiên-tri Đanien như sách này từng nói ở các đoạn 8 câu 15-26 và đoạn 9 câu 20-27,vv… Đặc-biệt là ở Tân-Ước thán thiên thần này từng xuất-hiện với ông Zakaria để loan-báo việc sinh-hạ ra ông Gioan Tẩy Giả là do Chúa sắp-đặt. 

Danh tánh của thánh thiên-thần Raphael có nghĩa “Thiên-Chúa chữa cho mọi người được lành/sạch” hoặc còn gọi là “Thuốc chữa của Thiên-Chúa”. Thánh thiên thần này xuất-hiện ở sách Tôbia từng tháp-tùng trê Tôbia trong hành-trình hoàn-trả tiền bạc còn thiếu nợ người cha của ông. Để rồi, cuối cùng bèn thốt lên những lời rằng: 

“Tôi đây là Raphaen,

một trong bảy thiên-sứ luôn hầu-cận

và vào chầu trước nhan vinh-hiển

của Đức Chúa.” (Tôbia 12:15)

Vì được coi là thánh, nên đấng bậc đây cũng được mừng vào thế-kỷ thứ 16 ở nhiều địa-điểm được coi là nơi các ngài xuất-hiện. Theo lịch La Mã, thánh-nhân được mừng kính từ năm 1921. Mãi cho đến năm 1969, lễ này được mừng vào ngày 24 tháng 10. Và sau đó, được dời vào ngày 29/9 mỗi năm. Tắt một lời, truyền-thống Giáo-hội xưa nay vẫn trân-trọng sự thánh/thiêng của mỗi đấng, là như thế. (X. Lm John Flader, Why do we include angels and archangels among the saint, The Catholic Weekly 02/10/2016, tr. 26)           

Nói cho cùng, thì: Giáo-hội có thói-quen sùng-kính/nguyện-cầu cùng các đấng bậc lành-thánh từng sống hoặc chết theo cung-cách hạnh-đạo, dù chỉ một số ít các ngài là người dấn bước theo chân Đức Kitô. Thế nhưng, theo Kinh/Sách, thì tất cả mọi tín-hữu đều được gọi là thánh, dù có vị thiếu trưởng thành về mặt thiêng-liêng hoặc kiến-thức lành/thánh nữa. Chẳng thế mà thánh Phaolô tông-đồ mỗi lần viết cho thành-viên giáo-đoàn khác nhau ở Rôma, Êphêsô hoặc Côrinthô hoặc nhiều nơi khác vẫn gọi tất cả tín-hữu Đức Kitô là các “thánh”.

Nói cho cùng, thì “thánh-nhân phải là những người đang còn sống thánh-thiện, hạnh-đạo chứ không thể là các đấng đã chết rồi, hoặc thần-sứ trên trời xuất-hiện ở nhiều nơi, như ta vẫn gọi. Nói cho cùng, thì tập-tục này khi xưa bắt nguồn từ đạo-giáo bên ngoài Đạo Chúa hoặc Do-thái-giáo dù có truyền-thống rất lâu đời.

Xem thế thì, ngoài Đạo Chúa ra, cũng có rất nhiều vị, nhiều đấng bậc từng sống rất hạnh-đạo, làm gương cho người đồng thời hoặc sau này theo đó mà bắt chước.

Bên ngoài Đạo Chúa của ta, lại cũng có rất nhiều truyện kể về nhân-sinh, cuộc sống mỗi con người đều khác nhau. Khác rất nhiều, dù chữ “thánh/thiêng” hoặc “thánh/thiện” “hạnh-đạo vẫn có nơi họ. Người đời gọi đó là cái “tâm” rất lành và cũng “mạnh”, như truyện kể để hầu người đọc tìm ra ý-nghĩa của mỗi sự việc trong đời người, như sau:

“Người phụ nữ nọ phải làm việc 8h/ngày lại còn chăm sóc gia đình và làm hết mọi công việc của một người nội trợ! Một ngày nọ cô mệt nhoài với hàng tá công việc ở cơ quan khiến cô có cảm giác như kiệt sức! Về nhà cô còn phải dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn cho chồng và con của cô! Khi người chồng đón con từ trường về, cũng là lúc cho nướng xong mẻ bánh quy trong lò! Thế nhưng vì quá mệt nên cô đã để quên nó một lúc khiến cho một vài chiếc bị cháy!

Lúc ăn tối, đứa con quan sát xem có ai nói gì về những chiếc bánh cháy đó không nhưng chẳng có ai lên tiếng cả! Khi dọn bắt đĩa, người vợ ngỏ ý xin lỗi về những chiếc bánh cháy nhưng người chồng dịu dàng nói: có gì mà em phải xin lỗi chứ, hơn nữa mùi vị nhưng chiếc bánh ấy rất ngon! Người vợ mỉm cười hạnh phúc!

Khi đưa con đi ngủ, nó thì thầm hỏi bố nó:

-Có thật bố thích ăn bánh quy cháy không? 

-Không con ạ, anh ta nói với con! Nhưng hôm nay mẹ con rất mệt mà vẫn phải chuẩn bị bữa ăn cho bố con chúng ta! Không nên làm mẹ buồn mà một vài chiếc bánh cháy có ảnh hưởng đến ai đâu. chứ!

Thế đấy, có bao nhiêu người không để ý đến một vài chiếc bánh cháy trên đĩa bánh? Không nhiều lắm phải không bạn! Cũng như vết mực đen trên tờ giấy trắng! Có lúc chúng ta chỉ biết nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác để rồi lên tiếng chỉ trích mà quên rằng họ đã cố gắng rất nhiều! (Truyện kể trích từ điện-thư vi-tính)

Lại một truyện kể khác, nói rõ hơn về tâm-tánh cũng “rất thánh” của mỗi người, như sau:

“Một thanh niên trẻ nọ đang muốn tìm kiếm sự thành công liền đến thỉnh-giáo vị thiền-sư từng dạy mình. Thiền sư liền đưa cho anh một hột đâu phộng rồi bảo:
– Con hãy dùng sức mà vê nát nó ra!
Người thanh niên dùng sức vê nát hạt lạc, vỏ hạt lạc bay ra và còn lại cái nhân.
Vị thiền sư lại nói với người thanh niên trẻ tuổi:
– Con hãy dùng tay chà xát hạt lạc này ra.
Người thanh niên lại làm theo và kết quả vỏ hạt lạc lại rơi ra và còn lại một hạt lạc trắng không có vỏ. Vị thiền sư lại bảo người thanh niên hãy dùng tay vê nát hạt lạc trắng đó ra, và bất luận anh ta dùng sức thế nào cũng không vê nát được nhân của hạt lạc ra.
Lúc này vị thiền sư mới nói:
– Mặc dù nhiều lần gặp phải trắc trở, và cũng bị mất mát rất nhiều, nhưng phải có một cái tâm không bị khuất phục mới mong thành công được!
Người thanh niên nghe xong và vui mừng vì hiểu được ý tứ của vị thiền-sư.”
(Truyện kể cũng ráu từ một nguồn-gốc)

Xem thế thì, cứ gì phải là thiền-sư hay đấng bậc lành/thánh mới hạnh-đạo, đáng kính nể, để mọi người bắt-chước như đấng thánh. Xem thế thì, từ nay, hẳn cũng nên gọi nhau bằng các cụm-từ như: “Đấng thánh họ Nguyễn” “Thánh-nhần họ Trần”, chứ đâu chỉ mỗi Giuse hoặc Maria gì đó, mới là thánh-nhân hiền-lành trong Đạo!

Vậy thì, nay xin phép các thánh-nhân nam/nữ đang đọc mấy giòng chữ còn con này cho phép bần đạo được kết thúc ở đây với lời chào “rất thánh”, mãi mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Có những thời những buổi

Chẳng thấy mình thánh-hoá 

hoặc “thánh goá” gì hết

Thế có chết không cơ chứ. 

“Con nhìn ảnh Chúa rồi con khóc,”

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 31 thường niên năm C 30/10/2016 

Tin Mừng (Lc 19:1-10) 

Sau khi vào Giêrikhô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Dakêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Ngài sắp đi qua đó.  

Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Ngài nhìn lên và nói với ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Ngài. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” 

  •    *     *      *

“Con nhìn ảnh Chúa rồi con khóc,”

Trăm thảm nghìn thương mắt mỏi mòn.

Chuông ngọ từng hồi chuông ngọ đổ

Từng hồi chuông ngọ, đổ chơi vơi.

Con nghe chuông ngọ đổ, rồi con khóc.

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!

(Dân từ thơ Nguyễn Bính)

Nhìn ảnh Chúa, có thế thôi, mà sao nhà thơ bật lên thành tiếng khóc? Khóc xong nghe chuông ngọ đổ, thi sĩ họ Nguyễn mới nguyện-cầu Chúa cứu rỗi linh hồn mình. Phải chăng đây, một nghịch-lý của người đời?

Với nhà Đạo, nghịch-lý còn được thấy ở dụ-ngôn “người thu-thuế giàu có rất Da-kêu. Vì xưa nay, Chúa vẫn bảo: “Người giàu có, rất khó mà vào Nước Trời.

Hôm nay, trình thuật-thánh Luca lại đã ghi: “Chúa ghé nhà người thu thuế, không chỉ là người giàu có bình thường, mà là trưởng-ban thu thuế, rất đáng chê. Câu truyện Tin Mừng hôm nay, lại cũng giống nhiều truyện kể ở đời, rất như sau:

“Phú Nguyễn đi dần vào những ngày cuối, trước buổi mãn khoá đại học. Đã từ lâu, anh vẫn đến phòng trưng bày xe của công ty nọ, để mơ ước. Anh vẫn biết, nếu chịu khó học và đậu cao, thế nào ba cũng mua tặng một chiếc, hệt như thế. Nhưng không hiểu, sao đến giờ này vẫn chẳng thấy cha tiếp xúc với người bán để đặt cọc.  

Cuối cùng, ngày “N” cũng đến. Cha cho người gọi anh vào để chúc mừng. Ông bảo: ông rất tự hào về thành quả anh đạt được. Nói rồi, ông trao cho anh hộp quà bọc giấy rất đẹp. Phú Nguyễn mở quà ra xem, chỉ thấy mỗi quyển Thánh Kinh bìa da gáy mạ vàng có khắc tên anh ở trên đó. Giận quá, chẳng buồn lấy sách ra khỏi hộp, anh chỉ kịp ngước nhìn cha, gằn giọng nói: “Thế này, mà Ba gọi là giữ lời hứa hôm trước sao?” Nói rồi, chẳng kịp nghe ba anh phân bua đến một lời, anh chạy một mạch khỏi nhà, lên xe biến mất. Chẳng thèm bốc di động trả lời khi cả nhà tìm anh, hoảng hốt. 

Chiều tối đến, khi cơn giận đã lành, anh trở về thì được bảo cha vừa bị cơn đột quỵ, đã ra đi. Theo bệnh án, ông cũng từng bị nhồi máu cơ tim như thế, rất nhiều lần. Giọng mẹ buồn, bảo anh đi lấy cuốn thánh kinh bằng da cha cho xem ông có để lại đôi giòng nào trong đó không. Tìm được cuốn sách anh đã ném lên bàn của cha, trước khi đi. Giọt vắn giọt dài, anh mở đại cuốn sách, đọc mấy hàng chữ gạch mực đỏ trong đó thánh Mátthêu ghi: “Các ngươi, tuy là ác, mà còn biết lấy của lành làm quà cho con, thì huống hồ là Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, sẽ ban của lành cho những ai xin Người.” (Mt 7: 11) 

Đọc tới đó, tức thì có chùm chìa khoá rơi từ sau Sách. Trên chùm khoá, lại thấy tên và địa chỉ của nhà buôn từng trưng bày chiếc xe anh ao ước, cộng thêm hàng chữ ghi rõ: “Mừng ngày con tốt nghiệp. Mọi lệ phí, cha đã thanh trả hết.” Đọc xong, Phú Nguyễn gục đầu khóc nức nở. Thấy đã muộn. Nghe truyện kể, chắc có người sẽ tự hỏi: đã bao lần, ta để luột mất chúc lành bình an từ Đức Chúa, vì không thấy chúc lành ấy được gói ghém theo cung cách ta vẫn mong. 

Phúc Âm ta vừa nghe hôm nay, cũng nói về “cách đáp trả” của anh hùng người lùn tên Dakêu. Dakêu là tên của anh thu thuế rất nhỏ thó, ở thị trấn Giêrikhô cũng bé nhỏ, nhưng lại cả gan dám rước Chúa về nhà, mà dùng bữa.

Ở đây nữa, theo như trình thuật truyện kể, được đón tiếp Chúa là điều tuyệt diệu vẫn còn lại nơi tâm tưởng, của riêng ông. Tâm và tưởng, chỉ những tưởng được nhìn Chúa đi trên đường làng, đà mãn nguyện. Đâu ngờ, còn được Chúa thân chinh đoái hoài đến ghé thăm, và dùng bữa. Quả là ân huệ, quá mức tưởng tượng.

Với Đức Giêsu thì khác, nhân cơ hội trưởng ban thu thuế Dakêu trịnh trọng đón tiếp Đấng Nhân Hiền, Ngài tỏ bày cùng mọi người chốn Nước Trời về tính hiếu khách, mở rộng vòng tay đón chào ngươi người ghé viếng.Vì tính hiếu khách ít thấy nơi người thu thuế, mà cộng đồng Do Thái nay oán ghét cả đám người phục vụ ngoại bang, trong đó có Dakêu.

Nhưng ở đây, Đức Giêsu đã làm một công đôi việc: thứ nhất Ngài gọi đích thị tên anh. Và, còn cùng bàn với cả đám người thuộc loại “giáo gian”, nữa.

Bằng vào động-thái bước qua ngưỡng cửa nhà của người tội lỗi, Chúa lại đã đem họ ngang qua ngưỡng cửa tình thương, nhà của Ngài. Ngài còn ra tay nâng đỡ, giúp Dakêu tội lỗi đối đầu với chính hiện trạng rất gian manh của ông để rồi đưa ông về với ơn cứu chuộc, thật hy hữu.

Chúa vẫn làm thế, với hết mọi người trong chúng ta. Ngài mở rộng đôi tay thân thương đón nhận hết mọi người bằng vào động thái biết dùng mắt để thấy, dùng tai để lắng nghe. Và, Chúa cũng đến với ta qua những người rất khác thường. Tại nơi chốn rất khác lạ. Và, ở thời điểm không ai ngờ trước.

Là thành viên gia đình chung của Ngài, Chúa vẫn gọi mời hết mọi người đích thị theo tên, để thân hành đến dùng bữa với chúng ta, cũng bình thường như ta vẫn nhận lời ngồi cùng bàn với Ngài.

Tuy nhiên, mọi việc đều có giá của nó. Có giá, nghĩa là: ta vẫn tự coi mình như nhân vật khác biệt trong hội ngộ. Có giá, tức là: cứ nên độ lượng với mọi người. Để có thể mở lòng ra với thế giới.

Để, tỏ bày sự trong sáng trong quan hệ mình vẫn có. Với nhau. Không cần biết mình bị cuốn hút, biệt tăm, xa xăm đến độ nào. Chẳng cần hiểu, mình đã phải trèo lên cây cao cỡ từng mây. Chỉ cần nhớ, rằng: cả vào lúc mình ân hận khi có nhận xét quá đáng đối với người nhận quà tặng Chúa phú ban.

Bởi, khi ban quà tặng, Chúa vẫn gọi danh tánh từng người. Và, ngài vẫn mời gọi mọi người đến tham dự bàn tiệc, đã bày sẵn. Đến tham dự, để còn biết: ơn cứu độ đã nằm trong tầm tay ta, rất gần kề.

Lời Chúa hôm nay, còn được tỏ bày nơi Tiệc Thánh. Có Chúa. Có cả thành viên cộng đoàn Nước Trời. Cả khách lạ/người dưng, từng bị quên sót, bỏ bê, khen chê.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn

Mai Tá lược-dịch

MẸ LÀ SAO BIỂN

MẸ LÀ SAO BIỂN

   me-la-sao-bien

Cuộc đời này được sánh ví như đại dương bao la.  Mỗi ngày sống là một ngày vượt trùng khơi, vật lộn với sóng cả ba đào để tới bến bờ.  Có những hành trình êm ả thuận lợi, nhưng cũng có những hành trình vất vả gian nan.  Trong hành trình vượt đại dương cuộc đời, người tín hữu Công giáo có Đức Mẹ là “Đấng chỉ bảo đàng lành”.  Như ngôi sao sáng dẫn chỉ lối giữa đại dương bao la, Mẹ Maria cũng được tôn vinh là “Ngôi Sao Biển – Maris Stella”.

Ai đã từng vượt biển mới cảm nghiệm nỗi kinh hoàng khi đại dương rùng mình dậy sóng.  Khi chuẩn bị bước sang thế kỷ 21, một số nhà nghiên cứu đã tổng hợp các sự kiện đáng ghi nhớ của dân tộc Việt Nam.  Biến cố vài trăm ngàn người Việt bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở, vượt biển ra nước ngoài được coi như một sự kiện “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử dân tộc Việt Nam của thế kỷ 20.  Người vượt biển phải đối diện với biết bao nguy hiểm, lằn ranh giữa sự sống và cái chết rất mong manh.  Không ai thống kê được con số người đã bỏ mạng trên biển, vì đói khát, vì bão tố phong ba và vì hải tặc.  Nhiều người may mắn thoát chết đã bị ám ảnh suốt đời vì những gian nan đã trải qua.  Trong hành trình vượt biển này, có nhiều người đã được ơn lạ của Đức Mẹ.  Người viết bài này có dịp tiếp xúc với một số người quen biết hiện sinh sống tại Hoa Kỳ, nghe họ kể về những trường hợp lâm nguy, trên những con thuyền mong manh như chiếc lá giữa đại dương.  Trong giờ phút nguy khốn ấy, họ đã kêu cầu Đức Mẹ.  Trong số đó có những anh chị em ngoài Công giáo.  Có người hứa với Đức Mẹ, nếu thoát mạng, sẽ xin nhập Đạo.  Sau này, khi đến đất nước thứ ba, họ đã giữ lời hứa ấy và trong số đó có người đã làm linh mục.  Họ là chứng từ sống động về tình thương Thiên Chúa và về lời cầu bầu hiền mẫu của Đức Mẹ.  Đức Trinh nữ Maria quả thực đã là ngôi sao biển dẫn đưa những người có niềm cậy trông về bến an toàn.

Khi tôn vinh Đức Mẹ là ngôi Sao Biển, chúng ta thể hiện lòng cậy trông của chúng ta đối với Đức Mẹ.  Bên chân thập giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan, đồng thời Người cũng trao phó Thánh Gioan cho Đức Mẹ.  Cử chỉ ấy muốn nói lên rằng, trong đời sống của người môn đệ Chúa Giêsu, từ nay có Đức Mẹ đồng hành.  Thánh Gioan ghi chú thêm: “Kể từ giờ đó, người môn đệ đón Đức Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).  Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Thư Chung công bố đầu tháng 10-2016 vừa qua, cũng mời gọi các tín hữu Việt Nam hãy “đón Mẹ về nhà” và yêu mến Đức Mẹ với trọn tình con thảo.  Quả thật, có Đức Mẹ hiện diện, chắc chắn đời chúng ta không còn cô đơn.  Trên hành trình vượt biển cuộc đời, Đức Mẹ hiện diện ở đó để hướng dẫn chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa.  Nhờ Đức Mẹ chỉ bảo, con thuyền cuộc đời của chúng ta biết “bát, cạy”, tức là biết lái sang bên phải hoặc bên trái, với mục đích đem lại cho chúng ta hạnh phúc niềm vui trong cuộc sống và ân sủng từ trời.

Trong buổi lễ kết thúc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II vào ngày 21-11-1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã chính thức tuyên bố Đức Maria là Mẹ Giáo Hội.  Sau khi tuyên bố Đức Maria là một “thành viên trổi vượt”, là “kiểu mẫu” và “gương sáng” của Giáo Hội, Công đồng viết: “Giáo hội Công giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với người Mẹ rất đáng mến yêu” (LG 53).  Mẹ là Mẹ của Giáo Hội lữ hành đang vượt biển trần gian.  Giáo Hội vẫn được trình bày như con thuyền căng buồm lướt sóng ra khơi, giữa biết bao sóng cả ba đào.  Cờ hiệu của con thuyền Giáo Hội là cây thập giá, dấu chỉ của chiến thắng và hy vọng.  Trên con thuyền Giáo Hội, có Mẹ ở đó, hiện diện âm thầm, để dõi theo từng bước đi của Giáo Hội, như Mẹ đã âm thầm dõi theo từng bước đường truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, Con của Mẹ.  Hình ảnh Đức Mẹ hiện diện giữa các tông đồ, chìm sâu trong lời cầu nguyện, được Thánh Luca kể lại trong sách Công vụ Tông đồ, cho thấy, Giáo Hội của Đức Giêsu không cô đơn, vì có Đức Mẹ đồng hành (x.  Cv 1,12-14).  Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều ấy.  Trên thế giới, có nhiều địa điểm được Đức Mẹ thăm viếng, và nhanh chóng trở thành những linh địa, những điểm hành hương nổi tiếng.  Tuy vậy, người tín hữu luôn tin rằng, dù không được đến những địa điểm hành hương nơi Đức Mẹ đã hiện ra, ở bất cứ nơi nào, nếu họ tin tưởng phó thác và kêu cầu sự bảo trợ của Đức Trinh nữ, thì Đức Mẹ vẫn hiện diện trong cuộc đời của họ.  Đó là sự hiện diện thân thương mà đầy quyền năng, đem lại cho tâm hồn người tín hữu ấm áp và an bình.

Một câu chuyện rất cảm động kể về lòng can đảm của một phụ nữ xóm chài: Trong lúc mọi ngư dân đang đánh cá ngoài khơi, thì bỗng một cơn bão lớn nổi lên.  Chiều đã tới và màn đêm buông xuống mà bão tố vẫn chưa tan.  Những người phụ nữ và trẻ em đều nóng lòng sốt ruột ngóng trông ra biển, vì hầu hết những người đàn ông và thanh niên trai tráng đều ở ngoài khơi, và giờ đây họ đang chống chọi với bão tố để tìm đường về.  Bà con làng chài đốt những bó đuốc lớn với hy vọng những người thân ngoài khơi nhận ra hướng đất liền để trở về.  Một người phụ nữ nhanh trí đã phóng lửa đốt cả ngôi nhà mình, mong tạo lên mội khối lửa khổng lồ, vượt xuyên màn đêm tối.  Nhờ khối lửa khổng lồ này, những ngư dân đã trở về đất liền an toàn.  Người phụ nữ đã hy sinh tất cả, với ước nguyện cứu sống những người thân.

Hình ảnh người phụ nữ xóm chài gợi lại cho chúng ta người mẹ đứng dưới chân thập giá trên đồi Canvê năm xưa, đó là Đức Trinh nữ Maria.  Mẹ đã hy sinh tất cả, đã âm thầm cầu nguyện trong đau đớn, để cùng với Con của mình dâng hy tế cứu độ trần gian.  Nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, nhân loại được hưởng niềm vui và hạnh phúc.  Đức Giêsu là tất cả của Mẹ.  Người là sự sống, là niềm vui, là niềm an ủi, là trọn niềm yêu thương.  Đức Maria đã can đảm hiến dâng người con ấy, để cho trần gian được cứu rỗi.

Ý thức được mình đang được ngôi Sao Biển có tên là Maria hướng dẫn, chúng ta không sợ lạc đường, nhưng an tâm bước đi trong cuộc sống mỗi ngày.  Như người lữ hành vượt trùng khơi, chúng ta phải luôn ngước mắt nhìn ánh sao biển để nhận biết phương hướng cho cuộc hành trình.  Cũng vậy, tôn vinh Đức Mẹ là Sao Biển không phải là một khẩu hiệu rỗng tuếch, nhưng đó phải là tâm tình yêu mến cậy trông.  Ngày hôm nay, Mẹ vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để dặn dò chúng ta như Mẹ đã dặn dò những người giúp việc trong tiệc cưới ở Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!” (Ga 2,5).  Đúng vậy, khi chuyên tâm thực thi ý Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được hướng đi cho đời mình.  Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu Lời Chúa, như Mẹ đã chiêm niệm, suy tư và ghi nhớ Lời Chúa trong lòng.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong Thông điệp “Chúng ta được cứu rỗi trong hy vọng – Spe Salvi” đã tôn vinh Đức Mẹ với tước hiệu “Ngôi Sao Hy Vọng”.  Ngài viết: “Còn ai hơn được Mẹ Maria, là ngôi sao của hy vọng cho chúng ta? Khi Mẹ “Xin Vâng” Mẹ đã mở cửa thế giới của chúng ta cho chính Thiên Chúa; Mẹ trở nên Hòm Bia Thiên Chúa sống động, trong đó Thiên Chúa nhập thể, trở nên một con người như chúng ta, và dựng lều ở giữa chúng ta (x.  Ga 1,14)” (Số 49).

Hành trình vượt biển là một hành trình dài, đầy những sóng xô nghiệt ngã và thử thách gian nan.  Mẹ Maria là ngôi Sao Biển rạng ngời hướng dẫn chúng ta.  Có Mẹ đồng hành, chúng ta không còn sợ nguy biến.  Nghe Mẹ chỉ bảo, chúng ta sẽ cập bến.

  Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Tháng Mân Côi 2016

“Tôi cúi mặt, lời nguyện cầu rất khẽ,”

 Video : Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui  –  Trịnh Công Sơn –

Quốc Thiên, Tiêu Châu Như Quỳnh  –  Gala Nhạc Việt 8

httpv://www.youtube.com/watch?v=tcQURRzBo8s

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 30 thường niên năm C 23/10/2016

Tin Mừng (Lc 18: 9-14)

Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:

“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế.

Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng:

“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:

“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

 *   *    *

“Tôi cúi mặt, lời nguyện cầu rất khẽ,”

Cầu cho người và nguyện ước cho tôi.

Linh-hồn tôi nay đã khác xưa rồi,

Cũng rạo-rực bao đam-mê trần thế.”

(Dẫn từ thơ CV)

Trình thuật hôm nay, Chúa kể về phương-cách nguyện cầu nơi nhà Đạo.

Nhà tỉ phú nọ, có lần bị nhồi máu cơ tim, tưởng đã chết. Sau khi khỏi, ông được đài truyền hình địa phương mời xuất hiện trên chương trình “Chuyện Trò cùng Dân Chúng” để xin ông kể về nỗi niềm người vừa chết. Có một lúc, phóng viên hỏi: ông có kinh nghiệm gì về nỗi chết khi bị nhồi máu cơ tim, không? Nghe hỏi, nhà tỷ phú bèn đứng dậy làm động tác đi đi lại lại rồi bảo: Nói theo nền y học hiện đại, thì tôi như người chết đã đi về phía bên kia, nay trở về phía bên này để nói với quý vị là bên đó, cũng chẳng có gì!”

Sự thực đúng như lời ông nói: ở bên đó, cũng chẳng có gì hết. Câu trả lời của ông làm tôi nhớ về nhóm Biệt Phái, được thánh sử trích trong đoạn Phúc Âm hôm nay đây. Từ đó, tôi “ngộ” ra được một điều là: một trong các bẫy cạm mà sự thành công của con người vẫn đem lại là lòng tự cao/tự đại luôn đính kèm. Người Pharisêu trong trình thuật hôm nay cũng thế. Ông là người thành công trên đưòng đời. Nghĩa là, ông cũng có đời sống dễ chịu. Có lòng thành và sự hăng say của người đam mê/nhiệt nồng. Nhưng, ông lại tự đề cao chính mình để rồi coi mọi người như cỏ rác.

Khi nguyện cầu cũng vậy, “ông” Biệt Phái còn cả gan nhắc nhở Chúa rằng “ông” mới là người tốt lành, so với đám khác. Con người thu thuế, quỳ mọp ở dưới/sau. Có điều lạ, là: làm thân “ông” Biệt Phái rất sáng giá, thế mà “ông” vẫn đến đền thờ, để nguyện cầu. Nguyện cầu đấy, nhưng nào nhớ đến Chúa. Đến Cha. Như nhà tỷ phú nói ở trên, “ông” Biệt Phái lại quá tin vào tài của mình. Vào sự công chính mình vẫn có, khiến trình thuật/truyện kể, nghe hơi lạ. Lạ hơn nữa, là: làm thân anh thu thuế, xưa nay chỉ nể trọng mỗi đám thực dân/quân phiệt người La Mã, cũng đến đền thờ, cùng một lượt với Biệt Phái, để cầu kinh.

Ở Palestine ai cũng rõ: dân thu thuế không được mọi người trọng vọng. Bởi, họ chỉ là đám công chức chuyên khai thác rút rỉa dân hèn địa phương bằng những khoản thuế vô tội vạ. Chẳng thế mà, biết phận, anh thu thuế cứ là quỳ mọp ở phía sau, cuối đền thờ.Có thể là, anh đang ở vào lúc hồi tâm tỉnh trí, nên mới đến. Đến, để nhận ra những sứt mẻ của đời mình. Đến, để thành tâm khẩn nguyện Chúa.

Với cộng đoàn thánh Luca thời tiên khởi, động thái của anh thu thuế hèn mọn kia là mẫu mực để cộng đoàn hành xử. Thành tự cuộc sống, người người đều có niềm say mê sốt sắng mà nguyện cầu, đâu gì xấu. Ngược lại, về đạo đức, vẫn dẫy đầy những hiểm nguy khi thực hiện mọi công việc trong đời, đều phải nhường bước trước áp lực của đường đời, như phần vụ thu thuế đòi hỏi. Thành thử, anh đành chấp nhận làm “giáo gian” phục vụ đám ngoại bang.

Điều Chúa cảnh giác, là những gì mà thực trạng cuộc sống của hai nhóm người kể trên, vẫn đem đến cho chính họ. Thực trạng nói ở đây, là: tính khiêm hạ của kẻ bị đẩy ra khỏi xã hội, mình đang sống, khiến “ông” Biệt Phái càng hợm hĩnh cho mình thuộc giới cao sang, quý phái người người đều biết đến. Từ lâu, ai cũng tưởng tính khiêm hạ khiến ta cứ là khúm núm , ở cấp dưới. Cứ cho rằng mình chẳng là gì cả. Chẳng có công lênh gì. Động thái ấy, chẳng bao giờ là lòng khiêm hạ đích thực, ở Đạo Chúa.

Sống khiêm hạ, không có nghĩa bắt ta phải giấu mình ở ẩn hoặc làm giảm suy mọi quà tặng Chúa ban. Dù, đó có là khả năng hay tài cán rất sáng láng. Khiêm hạ đích thực, chỉ có nghĩa nếu ta biết vinh danh hết mọi người, bằng vào sẻ san cho người, đủ mọi thứ . Sẻ san và nâng nhắc những người đang túng bấn, để họ cũng được hưởng những “hoa thơm cỏ lạ” do Đấng Nhân Lành, vẫn ban phát.

Cụm từ “khiêm hạ” xuất từ tiếng La tinh “humus”, có nghĩa: gần sát địa cầu. Trái đất. Anh thu thuế hèn, là người sống gần cận với trái đất, nhất. Vì thế nên, anh dễ dàng mở lòng mình ra mà hồi hướng. Trở về. Có làm thế, anh mới được Chúa nhấc nân cao. Còn “ông” Biệt Phái lại thành công quá mức trong đời đạo hạnh, ông gần gũi. Cũng là thứ “gần chùa gọi bụt bằng anh”, nên mau chán. Chán khiêm hạ. Nguyện cầu. Chán tinh thần cao. Tức, ở vào thái cực đối đầu với anh thu thuế. Nếu tự kiểm, chắc rằng đa số người người trong chúng ta đang ở giữa hai thái cực ấy.

Tham dự Tiệc Thánh hôm nay, cầu mong sao để ta biết đường mà mở rộng lòng mình để, một lần nữa, hồi hướng trở về, mà đem hết khả năng/tài cán mình nhận lãnh ra mà phục vụ Vương Quốc Nước trời. Làm như thế, ta sẽ ra về mà chứng tỏ rằng mình đích thực khiêm hạ, như Chúa dạy. Làm như thế, để khi nằm xuống, ta sẽ nhận ra cuộc sống tràn đầy hạnh phúc đang chờ đón ta ở đầu phía bên kia. Bên, mà nhà tỷ phú nói ở trên cho là chẳng có gì. Mà thực có rất nhiều. nhiều cái “có” của Đức Chúa.

Lm Richard Leonard sj

ĐGH GIOAN PHAOLO II VÀ BỨC ẢNH MỚI ĐƯỢC CÔNG BỐ

ĐGH GIOAN PHAOLO II VÀ BỨC ẢNH MỚI ĐƯỢC CÔNG BỐ

Vào ngày 13.5.1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhĩ Kỳ, đã cố ý giết chết Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô ở Roma.  Mãi cho đến hôm nay nguyên nhân vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II của Ali Agca vẫn chưa được hoàn toàn giải thích một cách rõ ràng, mặc dù người ta đã biết được rằng Agca thừa hành lệnh của mật vụ Bảo Gia Lợi (Bulgarie).  Có sự nghi ngờ cho rằng vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là được cơ quan mật vụ Liên Sô KGB ở Mạc Tự Khoa trao cho mật vụ Bảo Gia Lợi thi hành, đã lan rộng ra liền ngay sau vụ ám sát.

Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát.  Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ.  Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005.

Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.

ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất:

“Tại sao Ngài lại không chết? – Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích.  Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn.  Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?”

Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế.  Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma – ngày 13 tháng 5 năm 1981 – cũng chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 năm 1917.  Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài.

Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ.  Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy.

duc-phao-lo-2
Và đây là bức ảnh mới được công bố gần đây, cho thấy sự can thiệp nhiệm mầu của Đức Mẹ Maria vào ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô bị ám sát, ngày 13 tháng 5 năm 1981

Chúng ta không hiểu tại sao Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã muốn cất dấu tấm hình chụp nầy trong nhiều năm.  Vatican đã vừa mới công bố tấm hình chụp nầy lần đầu tiên.  Tấm hình được một vệ sĩ của Người chụp ngay chính lúc Đức Thánh Cha bị tấn công và đang ngã xuống trong chiếc xe đặc chế (papamobil) của Người.  Các bạn có thể nhìn thấy đau đớn hiện trên mặt Người.

Joaquin Navarro Valls, phát ngôn nhân Toà Thánh vào thời gian đó, đã tuyên bố người ta mất nhiều năm để nghiên cứu tấm hình chụp khó tin nầy và tất nhiên là về chất lượng rửa hình, vì khi được chuẩn bị kỹ càng, không ai có thể nhìn rõ ràng bởi vì tấm hình không sáng sủa.  Cuối cùng, sau nhiểu kiểm duyệt và tìm tòi, dưới sự kiểm soát của các chuyên gia nhiếp ảnh trên thế giới, họ đã quyết định không hề có “giả mạo’ thuộc thuật nhiếp ảnh và ngày nay họ cho chúng ta món quà đẹp đẽ nầy về Mẹ Thiên Chúa.

Các bạn có thể nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa ôm Đức Gioan-Phaolô II trong tay Mẹ.

Lm Nguyễn Hữu Thy

Langthangchieutim gởi

TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

Vũ Duy Thống, Gm 

Trong kho tàng truyện kể về đời thánh nữ Têrêsa Avila, có một truyện được nhiều tác giả nhắc đến, vừa như một điển hình đời sống thiêng liêng, vừa như một tính cách rất riêng của thánh nữ.  Đó là truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Chắc nhiều người đã biết?  Truyện kể: Trong lần xuất thần, thánh nữ nhìn thấy tình trạng tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa ghê gớm quá, nặng nề quá.  Thế là thánh nữ buồn bã vật vã ba ngày liên tiếp không ăn uống gì.  Cuối ngày thứ ba, Chúa Giêsu hiện ra, dáng vẻ dịu hiền, an ủi bằng cách trao cho thánh nữ một miếng bánh và một ly nước.  Nhưng thánh nữ làm mặt giận chối từ.  Chúa Giêsu dỗ dành: “Con không biết rằng Cha thường đối xử với bạn bè bằng cách gửi cho họ Thánh giá sao?” Và thánh nữ trả lời: “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Vâng, chỉ với mẩu truyện đó thôi, có lẽ người ta cũng nhận ra tính cách của Têrêsa Avila.  Đó là sự nhạy cảm.

  1.  Nhạy cảm trước tình yêu bao la của Thiên Chúa.

Đọc Phúc Âm, ai trong chúng ta cũng biết định nghĩa nổi tiếng của thánh Gioan “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nhưng để cảm nghiệm thế nào là sức nặng của định nghĩa vắn gọn và tầm cỡ này, đó lại là chuyện không chỉ dừng lại trong ngôn từ sách vở một thời, mà còn cần đến cả một đời dấn bước kiếm tìm, thậm chí vào sinh ra tử nữa kìa.  Thánh Gioan Tông đồ được Chúa Giêsu yêu dấu, nên từ cảm nhận tới cảm nghiệm có thể là vắn gọn như chính định nghĩa về Thiên Chúa của ông, nhưng với Têrêsa Avila lại là cả một sự vật lộn giữa sóng gió cuộc đời vừa hoạt động để kiếm tìm, vừa chiêm niệm để chiêm ngưỡng.

Trên bức tượng “Ecce Homo – Này là Người” (Ga 19,5) trình bày Chúa Giêsu vì yêu thương loài người mà chịu khổ nạn, để nên tình yêu lớn nhất của người dám chết vì người mình yêu, Têrêsa đã gặp được “tiếng sét ái tình” vào năm 1545, để nghiệm ra rằng: nếu Chúa vì yêu con người mà phải chịu khổ, thì con người cũng phải làm sao đáp lại cho cân xứng, với tình yêu của Chúa dành cho mình.  Và thế là khởi đi từ sự nhạy cảm trong nhận thức ấy, thánh nữ đã tìm ra nẻo đi của riêng mình là “lấy tình yêu đáp trả tình yêu,” và cứ thế, như ngọn lửa một khi đã bừng lên thì không gì có thể dập tắt được nữa, thánh nữ làm tất cả mọi sự do tình yêu thúc đẩy và dâng hiến tất cả cho tình yêu.

Chả thế mà người ta vẫn bảo: đường nên thánh của Têrêsa là con đường “bốc lửa”: lửa chiêm niệm tìm ra ý Chúa mãnh liệt đến độ thường xuyên xuất thần mỗi khi cầu nguyện, và lửa yêu thương tìm gặp gỡ Chúa khít khao như lòng với lòng, đến nỗi có cảm tưởng rằng cuộc đối thoại giữa thánh nữ với Chúa không khác chi những lời gần gũi giữa cánh bạn bè, của người bạn dành cho bạn mình.

  1.  Nhạy cảm trước tội lỗi của con người.

Một khi đã coi “phải làm sao cho xứng với tình yêu của Chúa” như một hướng sống, một hướng nên thánh, một hướng cải cách đời tu, thì tâm hồn Têrêsa Avila bỗng trở nên nhạy cảm vô cùng trước những gì được xem là không xứng với tình yêu ấy, trong đó tội lỗi là điều đáng buồn nhất, không phải vì nó xúc phạm tới Thiên Chúa tối cao cho bằng nó phản bội lại Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã làm tất cả vì con người và cho con người.

Phản bội trong chính trường được xem là mưu mô, phản bội trong thương trường được coi là mánh mung, nhưng phản bội trong tình trường, dù là tình Chúa hay tình người đi nữa, cũng vẫn là điều đáng buồn nhất.  Chính Chúa Giêsu đã buồn rầu hỏi Giuđa trong vườn Cây Dầu là “anh lấy cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48) vì Giuđa là kẻ phản bội.  Và trong truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn” kể trên, Têrêsa buồn bã những ba ngày liền, không phải vì tội mình mà vì tội tình của người khác, đã cho thấy một con tim nhạy cảm, không rỗi hơi thương vay khóc mướn, mà chỉ vì tê tái quặn đau thấy người ta phản bội tình yêu của Chúa, còn mình trong tư cách là bạn tâm giao lại chẳng có cách nào mà can ngăn.

Rõ ràng, Têrêsa là một tâm hồn nhạy cảm.  Từ nhạy cảm ngây ngất trước tình thương xót khôn cùng của Chúa, một tình yêu dám từ bỏ “lá ngọc cành vàng” để đành đoạn ôm lấy “phận cỏ mình rơm” cho rặm bụng một đời cứu thế, Têrêsa tự nhiên nhạy cảm khổ đau trước sự khốn cùng của tội lỗi nhân sinh, tội bạc tình, một thứ tội làm tê dại cõi lòng.  Hoá ra, ai càng nhạy cảm với tình thương xót của tấm lòng Thiên Chúa, càng nhạy cảm hơn với sự khốn cùng của tội lỗi con người.

  1.  Nhạy cảm trước đường nên thánh là đường Thánh giá.

Đã có lần Chúa Giêsu bảo “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13), để rồi từ đó trở thành quy luật của muôn đời cho những ai dám gán đời mình cho tình yêu Thiên Chúa hoặc mon men muốn nên bạn hữu của Ngài.  Vâng, “yêu ai yêu cả đường đi”, yêu Chúa cũng yêu cả con đường Chúa đi năm xưa là đường Thánh giá, không phải là “mười bốn chặng đường” ngắn ngủi êm ả dễ chịu trong giáo đường, mà là những cảnh đời thường lặp đi lặp lại mỗi ngày, ở đó ý Chúa như búa đập trên ý mình và ý mình như kình chống lại ý Chúa.

Nếu “yêu là chết ở trong lòng một ít”, thì yêu Chúa cũng là phải chết đi ít một trong ý riêng để ý Chúa được thể hiện từng ngày.  Như lương thực hằng ngày của “Kinh Lạy Cha” mà người theo Chúa phải làm quen dần dần từ những bước chập chững đầu tiên cho đến khi thuần thục nhuần nhị để có thể hiên ngang tiến tới trên đường trọn hảo.  Đó là đường tình yêu.  Mênh mông tình Chúa, mong manh tình người, nên cũng là đường Thánh giá, đường Thương khó.

Đó, “yêu Chúa” nói và hát thì dễ, nhưng khi dấn bước vào, người ta mới thấy những nỗi đa đoan vất vả không bao giờ hết, mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm mới có thể dự đoán và an tâm bước đều.  Chúa chúng ta kỳ lắm.  Người yêu những kẻ đóng đinh Người và tha thứ cho họ dễ dàng, nhưng Người lại đóng đinh những kẻ Người yêu và tặng những kẻ yêu Người Thánh giá, không chỉ một lần mà xem ra còn dai dẳng hoài hoài trong đời.  Bằng một tâm hồn nhạy cảm thánh đức, Têrêsa đã hiểu đó là lộ trình nên thánh cho bất cứ ai chọn đi theo Chúa.

Tóm lại, ba nét nhạy cảm: với tình yêu vô biên của Thiên Chúa, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, hy vọng đã một phần nào phác vẽ lên cách đơn giản chân dung của một vị thánh lớn, thánh Têrêsa mẹ, vị anh thư cải cách dòng Cát Minh thế kỷ XVI tại Tây Ban Nha, vị tiến sĩ đã để lại cho Hội Thánh bí quyết chinh phục đỉnh cao tình yêu Thiên Chúa, và cũng còn là vị thánh thân thương có một tâm hồn nhạy cảm phi thường muốn đem tình yêu Thiên Chúa nhân rộng đến hết mọi người.

Xin nhờ lời chuyển cầu của ngài, cho cộng đoàn Cát Minh và cho những ai chân thành yêu mến thánh nữ, được luôn nhạy cảm bền bỉ khơi lên ánh lửa yêu mến trước tình yêu Chúa, để đến khi Chúa muốn, Người sẽ cho biến thành những đám cháy kỳ diệu có khả năng thiêu huỷ tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn và lôi cuốn người ta đến với tình yêu thánh hoá, cho dẫu trước mắt vẫn còn là ngổn ngang những Thánh giá của mùa xây dựng, nhưng trong lòng đã nóng bừng hy vọng.  Mong rằng câu nói “Hèn chi Chúa có ít bạn” không phải là một chân lý bất biến, nhưng là một câu nói đang chờ sự đáp ứng, để một khi mọi người đều nhạy cảm quan tâm trở nên bạn hữu của Chúa, thì thay vì ba ngày buồn bã, có lẽ Têrêsa Avila sẽ có nhiều lần ba ngày vui vẻ vì ngỡ ngàng thấy Chúa luôn có nhiều bạn mới.

Vũ Duy Thống, Gm 

Langthangchieutim gởi

Ban điều hành mới của Hội đồng Giám mục VN

Ban điều hành mới của Hội đồng Giám mục VN

Xuân Nguyên, thông tín viên RFA
2016-10-10

Đại Hội lần thứ XIII Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM VN) diễn ra tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Tp.HCM.

Đại Hội lần thứ XIII Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM VN) diễn ra tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Tp.HCM.

Photo courtesy of tinconggiao.org

Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa ra mắt Ban Thường vụ và các Chủ tịch của các Uỷ ban mới cho nhiệm kỳ 2016–2019.

Niềm hy vọng cho Giáo dân

Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 10 năm 2016, Đại Hội lần thứ XIII Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGM VN) diễn ra tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Tp.HCM đã thành công tốt đẹp. Ban Thường vụ và các Chủ tịch của các Uỷ ban cho nhiệm kỳ 2016–2019 đã được công bố.

Ban thường vụ mới bao gồm Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh đảm nhiệm vai trò chủ tịch; Đức Cha Giuse Nguyễn Năng giữ vai trò Phó chủ tịch; Đức Cha Phê rô Nguyễn Văn Khảm đảm nhận vai trò Tổng thư ký; và Phó tổng thư ký là đức Cha Vũ Văn Thiên, và Chủ tịch các Ủy ban thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng được bầu lại. Đáng chú ý là Đức cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình.

Từ Giáo xứ Đức Lân, giáo phận Vinh, tỉnh Nghệ An anh Chu Mạnh Sơn cho biết, Anh luôn tin tưởng vào HĐGM VN, đặc biệt qua kết quả bầu cử vừa rồi anh càng thêm vững tin và hy vọng về một giáo hội Công giáo Việt Nam đang dần khởi sắc, Anh chia sẻ:

“Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh được tín nhiệm, làm chủ tịch Hội đồng Giám mục, và Đức Giám mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ủy ban Công lý và Hòa bình. Qua đó để thấy rằng Giáo hội đứng về phía người dân, đồng hành cùng với người dân, cách riêng là với con cái Kitô hữu. Tôi nhận thấy đây là dấu hiệu khởi sắc, để rồi Giáo hội phải là người dẫn thân, phải là người chịu đau khổ. Ta không thể định nghĩa khởi sắc là gì, nhưng ta hy vọng Giáo hội Công giáo, nhất là người mục tử phải là người sát cánh cùng đoàn chiên, chịu đau khổ cùng đoàn chiên, đó mới là Giáo hội.”

Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh được tín nhiệm, làm chủ tịch Hội đồng Giám mục, và Đức Giám mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ủy ban Công lý và Hòa bình.
– Anh Chu Mạnh Sơn

Là một người con thuộc giáo phận Thanh Hóa, nhà hoạt động Lê Văn Sơn thấy rằng, việc có ban điều hành HĐGM VN mới sẽ đem lại sự gần gũi giữa người mục tử và cộng đồng dân Chúa, người mục tử sẽ đồng hành, chịu đau khổ cùng với người dân Việt Nam, đặc biệt là những ki tô hữu. Anh nhận định:

“Có Đức cha Linh, Đức Cha Hợp, Đức Cha Thiên, Đức Cha Năng… Chúng ta nhớ lại một chút, từ lâu nay những quý Đức Cha này đã lên tiếng cho những sự việc xảy ra trong Giáo hội, cũng như xã hội ở Việt Nam. Các Đức cha đều luôn luôn lên tiếng bênh vực cho người nghèo, người bị áp bức và bất công… Đoàn dân Chúa đang chờ đợi các Đức Cha giải phóng con cái của mình khỏi ách xiềng gông của tội lỗi và thế lực vô thần”.

Khi biết được tin HĐGM VN có ban điều hành mới và Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp tiếp tục được làm chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình. Không giấu được cảm xúc, ông Nguyễn Thành Lạng – Hội đồng Mục vụ giáo xứ Quý Hòa, Kỳ Anh chia sẻ:

“Bác là một người giáo dân, một người con cái của Ngài, bác rất mừng. Bác vẫn dâng lời cầu nguyện, dâng kinh nguyện cầu xin Chúa soi sáng cho các Ngài sáng suốt, dẫn đường cho con cái trong giáo phận nói riêng, cũng như người Công giáo Việt Nam nói chung để đưa Giáo hội Công giáo đi lên, để có tiếng nói của Ngài, Ngài bảo vệ công lý và hòa bình, Ngài giúp đỡ con cái Giáo hội Việt Nam”.

Từng bị tù đày vì bày tỏ quan điểm, cựu tù nhân Lê Văn Sơn cho biết, khi anh và 14 Thanh niên Công giáo bị bắt, Đức cha Nguyễn Chí Linh đã tìm mọi cách để lên tiếng cho anh bạn bè. Cho nên anh rất tin rằng, Đức cha Nguyễn Chí Linh sẽ luôn đứng về phía những người nghèo khổ, những người cùng cực trong xã hội, bởi vì Ngài là một người con của xứ Ba Làng, và đã từng bị tù đày dưới chế độ này chỉ vì dạy Giáo lý, và vì thế nên Ngài quá hiểu bản chất của chế độ Cộng sản. Anh Lê Văn Sơn chứng minh điều đó qua lá thư chung của HĐGM VN mà Đức cha Nguyễn Chí Linh đảm nhiệm vai trò chủ tịch:

“Thư chung của HĐGM VN gửi Cộng đồng dân Chúa nói rằng, HĐGM VN ước mong được chia sẻ trong sự ưu tư và lo lắng của cộng đoàn dân Chúa và người dân Việt Nam nói chung. Và chỉ ra được những hiện tình của đất nước, tức là những lo lắng, băn khoăn, âu lo trước tình hình đạo đức xuống cấp trầm trọng, tội ác gia tăng, rồi nạn phá thai, nghiện ngập, rồi quốc nạn tham nhũng đang trở nên trầm trọng, tiếp đến là hạn hán, ô nhiễm môi trường biển tại miền Trung… Tôi thiết nghĩ rằng đây là một bức thư chung (sau năm 1975 đến bây giờ) rất là cụ thể, tỉ mỉ để nói lên thực trạng của xã hội và các ngài đã can đảm nhiều hơn, đã truyền tải tinh thần của các ngài đến cộng đồng dân Chúa nhiều hơn”.

Tương tự, anh Chu Mạnh Sơn cũng từng bị nhà cầm quyền Hà Nội bỏ tù vì bày tỏ quan điểm của mình, trong thời gian bị giam giữ, Đức Giám mục Phaolo Nguyễn Thái Hợp, Ủy ban Công lý và Hòa bình giáo phận đã nhiều lần lên tiếng cho anh và những người bạn. Đặc biệt qua sự kiện Formosa Hà Tĩnh, anh càng mong muốn được đồng hành với Ngài nhiều hơn. Anh nói:

“Thời gian gần đây, khi Ngài hiểu về bản chất cộng sản, và bản chất của nhà cầm quyền, nên Ngài đã có thái độ cứng rắn, yêu cầu nhà cầm quyền phải tôn trọng người dân, tôn trọng những đàm phán giữa hai bên và bắt buộc họ phải thực thi. Với tư cách là giáo dân Giáo phận Vinh, tôi luôn ủng hộ trước những phán quyết của Ngài”.

Giáo dân hy vọng gì?

Chia sẻ về những mong muốn HĐGM VN sẽ làm gì cho Giáo hội Công giáo Việt Nam và người dân Việt Nam?

Từ trung tâm ‘thảm họa ô nhiễm môi trường biển’ Vũng Áng, Kỳ Anh, ông Nguyễn Thành Lạng mong muốn:

Có Đức cha Linh, Đức Cha Hợp, Đức Cha Thiên, Đức Cha Năng… Chúng ta nhớ lại một chút, từ lâu nay những quý Đức Cha này đã lên tiếng cho những sự việc xảy ra trong Giáo hội, cũng như xã hội ở Việt Nam
– Anh Lê Văn Sơn

“Chẳng những bác nói riêng mà tất cả mọi người Công giáo trong nước Việt Nam nói chung đều mong muốn Đức Cha, rồi các Cha đứng lên để làm sao cho Formosa: Một là rời khỏi Việt Nam, hai là đóng cửa Formosa. Ai cũng mong muốn như vậy. Đức Cha và các cha chắc chắn sẽ thực hiện ý muốn của giáo dân.”

Còn nhà hoạt động Lê Văn Sơn ước mơ:

“Chúng ta biết rằng Giáo hội Công giáo là Giáo hội sống và xây dựng Giáo hội thực tại nơi trần thế, mục đích duy nhất là phục vụ nhân vị và phẩm giá của con người. Chính vì thế, HĐGM VN đã có những hướng đi, có những suy nghĩ trăn trở đối với xã hội thì tôi tin rằng HĐGM VN truyền tải những trăn trở đó thành hiện thực. Đó chính là sự gần gũi của HĐGM VN, của các Đức Cha đối với cộng đồng dân Chúa và đối với người dân ở Việt Nam nói chung.”

Những giáo dân mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc đều cho biết, họ tin tưởng vào Ban điều hành mới của HĐGM VN nhiệm kỳ 2016 – 2019, và họ hy vọng rằng, HĐGM VN sẽ luôn đồng hành với giáo dân, sống và chịu đựng nỗi đau cùng với giáo dân và người dân Việt Nam, đặc biệt là ngư dân trong vùng thảm họa, bởi họ đang phải đối đầu với thủ phạm Formosa và cả lực lượng công an, quân đội hùng hậu đang ngày đêm canh giữ, bảo vệ cho công ty Formosa xả thải chất độc ra môi trường biển miền Trung.

“Tình đã len trong mầu nắng mới,”


“Tình đã len trong mầu nắng mới,”
Lòng anh buồn vời vợi em ơi
Niềm ái ân rung động trên môi
Tình đâu khôn lựa nên lời thắm tươi.”

(Nhạc: Phạm Duy/Lời: Lưu Trọng Lư – Thú Đau Thương)

(Rm 5: 2-5)

 Trần Ngọc Mười Hai

Vào lúc bần-đạo ngồi viết những giòng chữ này, thì bên ngoài trời đất rất Sydney đang đi vào những ngày đầu Xuân, tiết trời thật dễ chịu có ánh nắng chan-hoà với không khí nhẹ êm mà lại phải nghe đi nghe lại, dù rất hay, những lời ca về một Thú đau thương” tơi bời dù thật tuyệt ở đêm nhạc “Hát Cho Nhau nghe” ở Sydney hôm 03/7/2016 như sau:


“Ðã héo lắm nụ cười trong mộng

Ðã mờ dần hình bóng thân yêu

Ðã lam tím cả cảnh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

Ðể gối chăn nằm yên chốn cũ

Hãy lịm người trong thú đau thương.


Tình đã không một lần nữa tới

Nhìn nhau buồn vời vợi em ơi

Rượu ái ân em cạn trên môi

Lệ anh xin nhỏ nên lời đắng cay.

 

Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Ðừng thương nhau đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

Thành kiếp sao còn băng mãi mãi

Ðể lòng buồn mãi mãi không thôi.”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – bđd)

“Kiếp sau không còn băng mãi mãi, để lòng buồn mãi mãi không thôi” ư? Khiếp! Sao mà buồn đến thế? Phải chăng là, “thú đau thương” vẫn là cái thú rất buồn sầu của đời người, rất nên nỗi?

Vâng. Thú gì thì thú, có đau thương mãi mãi hay “thuyền yêu không ghé bến sầu” đi chăng nữa, vẫn chỉ là những chuyện ở tiểu-thuyết hoặc truyện kể về cuộc đời chứ chẳng phải là cuộc đời chính-hiệu, mãi thế đâu. Không tin ư? Mời bạn và mời tôi, ta cứ ghé mắt nhìn vào Lời Vàng bậc thánh-hiền từng khẳng-định, như sau:

“Nhưng không phải chỉ có thế;

chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng:

ai gặp gian truân thì quen chịu đựng;

ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên;

ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy.

Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng,

vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta,

nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.”

(Rôma 5: 2-5)

Tương-quan ta có đối với nhau, không chỉ là các giao-dịch qua đó ta chuyển-tải cho nhau các sự/việc cùng lợi ích rất tích-cực mà thôi. Nhưng còn là chốn miền trong đó người người hành-xử với nhau và cho nhau rất độ-lượng theo cung-cách cho đi chính con người mình. Và, người người còn đại-độ đến mức-độ tha-thứ cho nhau khi gặp sự xấu mình vẫn áp-đặt vào nhau và cho nhau như thế.

Tương-quan ta có với nhau như thế, sẽ là và vẫn là những gì duy-trì được tình-yêu thương/mẫn cảm của con người đối với con người, trong mọi tình-huống cuộc đời, rất hôm nay.

Có tương-quan là có đời sống chung-đụng giữa người cận thân và cận lân, không phải lúc nào cũng tốt đẹp, hoặc trôi chảy như truyện kể ở bên dưới:

“Tôi đón cha lên thành phố. Nếu nói là đón mẹ lên thì thích hợp với hoàn cảnh hơn. Nhưng mẹ tôi đã xa cõi đời từ lúc tôi lọt lòng. Sự ra đi của mẹ, trong thâm tâm tôi vẫn luôn là một sự đánh đổi quá khắc nghiệt của tạo hóa, mà nỗi đau đớn còn dành lại một vị đắng ở đầu môi. Và người ở lại phải sống tốt cho cả hai phần đời. Tôi đã có thật nhiều cố gắng.


Cha tôi, người đàn ông lam lũ. Cha gầy, gầy lắm, mà không phải chỉ gầy do sức khỏe, mà thời gian đã ngấm dần trong từng thớ thịt cha, già cỗi và yếu ớt. Người đàn ông cô độc ngần ấy tháng năm của tôi.


Bao nhiêu lần ôm cha ngủ. Từ bé, lúc lớn lên đi xa trở về, hay khi tôi đi làm có tiền thường gọi điện cho ông:“cha, lên thành phố với con, con lo được mà”. Ông hỏi dò “có thiệt không đó, cu con, không để tiền cua gái hả?” Rồi ông cười khà khà. Hôm sau đã có mặt ở nhà tôi. Mang nào gà, nào vịt, nào trái cây. Và không quên mang theo một cúc rượu để cha con nhâm nhi.

 Nhưng sao lần này, nằm cạnh ông, nhìn ông ngủ, tôi …tôi không diễn tả nỗi cảm xúc của mình. Nước mắt ở đâu cứ như nước sôi đang đun trào, cứ thế đẩy vung mà ra. Chắc vì tôi mới được làm cha, chắc lẽ thế.


Tôi lấy vợ rất muộn. Vợ là người thành phố, con nhà danh giá. Nhưng với nỗ lực và cố gắng của mình, tôi độc lập về kinh tế, không phải dựa bóng nhà vợ.


Khi mọi người quây quần quanh thằng Mỏ(con trai yêu quý của tôi), nhìn nó kháu khỉnh đáng yêu quá. Nhà vợ rất đông người tới. Ai cũng đòi được bế thằng Mỏ nụng nịu. Bà ngoại thằng Mỏ (là người rất khó tính) nói “ông Nội bế cháu đích tôn một chút này”, cha đưa tay ra định bế thì bà ngoại khựng lại.


“Trời ơi, tay ông nội sao thế, thế thì hỏng da của cháu mất….”. Bà ngoại giữ thằng Mỏ lại trong lòng, vừa nói vừa nhìn bàn tay cha tôi dò xét.


“Ờ….vâng, tôi lỡ…để tôi…đi rửa..”. Cha tôi ấp úng rồi đi ra nhà sau để rửa tay.


“À, chắc ông mới làm than đó má”. Tôi nói đỡ, rồi theo cha ra sau. Mọi người lại xúm lại đòi bế thằng Mỏ. Cha tôi rửa tay, và đúng là ông làm than thật. Tức là ông phơi mớ than củi mang từ quê lên để cho vợ tôi nằm hong, khỏi nhức mỏi đau lưng sau này. Nhưng ông làm xong từ sáng sớm rồi kia mà, lẽ nào cha tôi đã già nên lẫm cẫm rồi, chẳng còn nhớ mà rửa tay nữa. Cha ơi…


Thấy ông đứng cặm cụi rửa tay, khó nhọc. Tôi tiến lại “cha, để con rửa cho cha”.

 “Thôi đi cu con, hồi bé cha rửa tay rửa chân cho mày, giờ học đòi à, nhưng chưa đến lúc đâu….”.
“Đưa con coi nào”, tôi giằng lấy tay ông. Trời ơi, hai bàn tay ông chai sần, những lớp da bị tróc mẻ, nham nhỡ đỏ lừ.


“Cha bị sao thế, cha đừng rửa bằng xà bông nữa”…Tôi nói.

“Ờ, hồi trước, hồi trẻ ấy, cha mày đi xây, bị xi ăn, bị dị ứng. Hôm qua tao thấy trước sân nhà mày có chỗ bị hỏng, tao hòa ít xi gắn lại. Ai ngờ lâu thế mà nó cũng bị lại…”


Ông nói rồi lững thững đi vào. Vừa đi vừa chùi chùi hai bàn tay vào áo, cái dáng còng còng như oặn trĩu bởi yêu thương. Cha bước đi không còn vững nữa rồi, năm tháng ơi.…..


Là trưởng phòng kinh doanh một công ty, tôi đi tối ngày, tranh thủ chạy về lúc trưa, lúc tối muộn. Nên cha làm gì, mọi người làm gì tôi cũng không rõ hết. Nhà tôi ở ngoại ô. Có một khoảng sân nhỏ, trồng một ít cây cối. Trong những tháng ngày này, được làm cha, được sống trong cảnh gia đình sum vầy thế này. Tôi ngỡ cuộc đời như một giấc mơ. Hay đúng hơn là cuộc đời ai rồi cũng đến lúc sống đúng như một giấc mơ, khi đã cố gắng thật nhiều.


Từ chuyện bàn tay, mà cha chưa bế cháu Mỏ một lần nào. Không chỉ vì ánh mắt e dè của bà ngoại thằng Mỏ. Mà có lẽ ông tự ái(bệnh người già mà), ông muốn mọi người được vui. Và hơn hết ông thương thằng Mỏ, như bà ngoại nói “da cháu còn nhạy cảm, như thế là không tốt”. Tôi cũng chỉ im lặng. Vì nghĩ mọi thứ đều hợp lý. Hay tại vì cha là đàn ông(yêu thương để trong lòng), ít ra cha cũng không như bà ngoại, khi một ngày không ẵm thằng Mõ vài lần nũng nịu là ăn cơm không nổi.


Thế là cha tôi, ngày ngày lầm lũi ngoài khoảng sân nhỏ. Ông nấu nước Vằng (một loại lá cho người đẻ uống rất tốt), ông quét sân, thỉnh thoảng qua chỗ mấy ông già cùng khu phố ngồi chơi. Rồi lại thỉnh thoảng về ngắm thằng Mỏ. Vợ tôi còn bảo “ở nhà ông còn giặt cả tả, quần áo cho Mỏ”.

 Mặc dù có bà ngoại, hay mấy cô em vợ tôi, mà họ toàn giặt máy. Nhưng khi chưa kịp bỏ vào máy là ông lại bê đi giặt tay. Bà ngoại cũng không muốn ông phiền lòng, nên cũng đành im lặng. Nhưng tôi biết sau đó bà ngoại lại lén bỏ vào máy giặt lại, may mà bà không để cha biết….


Thời gian cứ thế trôi đi, cuộc sống bình lặng êm đềm. Nhưng tình cảm trong tôi đang dậy sóng, vì từ Cha thiêng liêng, mỗi lúc vợ hay bà ngoại bế thằng Mỏ đều chỉ vào tôi bảo “gọi ba đi, ba ba, ba ba”. Thằng bé chỉ nhìn rồi cười, đáng yêu vô vàn vô tận.


Cho đến một ngày, khi tôi đang đi công tác tỉnh, vợ gọi điện “chồng, về nhà đi, ông nội vào viện rồi”. Tôi về ngay, về liền. Cha tôi đứng lên chiếc ghế đẩu để phơi tả cho thằng Mỏ, bị trượt ngã. Khi tôi về đến nơi ông đã tỉnh, bác sĩ bảo chỉ bị chấn thương nhẹ, cần điều trị vài ngày là hết. Tôi thở phào. Bà ngoại và vợ nhìn tôi ái ngại.


Tôi về nhà lấy đồ cho cha. Tôi lục túi của ông. Một ít quần áo, một tút thuốc quê đã hút phần nữa (cha tôi nghiện thuốc lá). Và…một cuốn sổ, nhỏ bằng lòng bàn tay, màu nâu cũ kỹ, một chiếc bút được kẹp ở giữa. Tôi tò mò, tôi mở nó ra, mở ngay trang đang kẹp bút. Tôi đọc:


“Vậy là cháu nội tôi đã chào đời được một tuần. Nhìn con trai vui, mới biết mình đã già, đã sống hết phần đời mình mất rồi. Buồn vui lẫn lộn. Khi về bên kia gặp vợ, có thể an lòng. Nhưng mà sao già này buồn quá. Muốn được ôm thằng Mỏ vào lòng quá. Mà….Già này nhớ những tháng ngày xưa, khi vợ bỏ lại hai cha con ra đi, một mình nuôi con trai. Một mình bế nó trên tay, một mình cho nó uống sữa, một mình ru nó ngủ, trong đêm thâu. Ôi mới như hôm qua đây thôi, mà sờ lên mái tóc đã bạc trắng mất rồi. Con trai à, cháu Mỏ à, già này yêu hai cu lắm….Bàn tay chết tiệt này,sao mày lại giở chứng đúng lúc thế….”


Tôi lật tiếp những trang viết đầu, những ngày tháng đầu đời:

“Vợ anh nhớ em, nhớ nhiều…anh không có gì để ví được”….

“Em yên lòng, anh sẽ nuôi con, anh sẽ sống cho cả hai cuộc đời, anh sẽ làm được…”
“Vợ, anh không chịu được nỗi đau này…..”

“Vợ ơi…”


Dài lắm, tôi đọc mãi, đọc mãi, đến lúc những dòng chữ ngoệch ngoạc của cha nhòa đi bởi nước mắt tôi nhỏ xuống. Tôi mới dừng lại. Cha viết nhật ký. Ông giấu tôi kỹ quá, giấu tài quá. Đàn ông như cây Lim cây Táu, mà tâm hồn ông như Liễu như Mai, rũ xuống vì yêu thương, rũ xuống vì tình cảm, rũ xuống vì cô độc. Ôi, cha già của con!


“Anh ơi làm gì lâu thế, làm đưa đồ vào cho nội thay đi, anh còn ngủ ư”. Vợ tôi kêu vọng lên lầu.

“Ờ…anh biết rồi….”. Tôi quẹt nước mắt. Gấp nhật ký của cha, bỏ lại cẩn thận.


Tôi phải lén đi ra, bởi không muốn ai nhìn thấy mình đang khóc, rồi phi ngay xe tới bệnh viện. Cứ tưởng được làm cha, cảm thấu được nổi thương xót khi cha mình đã ở tuổi xế chiều. Nhưng mà, thực sự giờ tôi mới nghiệm ra một điều, là với cha mẹ, dù mình có đi mòn cả lối đời cũng không thể nào thấu hết những tình thương yêu mà họ dành cho con cái. Không thể hết được đâu. Cho nên, dù ở vị trí nào, cũng chỉ biết sống cho tốt, cho thật tốt, thế mà vẫn cảm tưởng như tình cảm mình đáp lại cho mẹ cha cũng chỉ là gáo nước giữa đồng khô nắng cháy mà thôi. Những hình ảnh về cha hiện lên trong đầu, mắt tôi đỏ ngầu hoen lệ, chứa chan.


“Cha…”, tôi mở cửa phòng bệnh viện.

“ Gì đấy cu con, cha đây mà, cha có trốn đi đâu chớ, cái thằng này”. Cha vẫn gọi tôi như thế. Cả phòng bệnh đông lắm. Cha tôi ngồi dựa vào tường, tay đưa gói bánh cho đứa trẻ con ai ở giường bên, cha bụm bụm vào má nhóc con đó.


Tôi chạy lại, mặc kệ ai nhìn, mặc kệ là gì đi nữa, tôi ôm lấy cha. Tôi quay mặt vào tường, cho những giọt nước mắt lăn chảy không ai thấy, tôi nói trong tiếng nấc:


“Cha, xin lỗi cha, con đã quên……”.

Bệnh viện, âm thanh ồn ả vốn dĩ, mà sao tôi nghe yêu thuơng đập đầy nơi tim. …….

 

Đúng thế. Có trở-thành người cha, mới thấu-hiểu được lòng của Ông/Bà như câu truyện ở trên. Về lại với Đạo Chúa, niềm tin chỉ có được cách vững-chãi một khi ta nếm trải và thấy được Thiên-Chúa ngang qua các ẩn-dụ như thể Chúa đang đi cạnh ta, kể truyện và nếm được mùi vị ngọt-ngào của Ngài và ta được tháp-nhập vào với Chúa, như đoạn trích-dẫn dưới đây:

“Rất nhiều lần, ta cứ bị rơi vào bẫy-cạm của ngôn-ngữ nên đã sử-dụng đường lối rất thân quen về những chuyện đại loại như thế. Nhưng, tất cả vẫn là giòng chảy, không đổi thay. Và, ta không thể bắt chụp hoặc giữ chặt nó được. Đó, là thứ không-gian lưng chừng ở ngưỡng cửa phía dưới thấp, tục gọi là Chora (tức chốn miền thị-trấn rất quê nhà). Và khi đó, lại như thể có người đi bên cạnh cứ nói chuyện dụ-ngôn cho mình thưởng-lãm. Đây, là cảm-nghiệm về sử-dụng ngôn-ngữ một cách rất khác hẳn. Kiểu cách này, thường khiến ta bị xúc-động đến độ phải ngồi xuống một chốc lát, chẳng nói gì.

 Thế đó, là phản-ứng “nội-tại”, rất chức-năng. Người kể, lại sử dụng từ-vựng hoặc tuyên ngôn cùng dấu hiệu theo cung-cách riêng-tây của họ. Tức, đã ngưng không còn theo kiểu-cách của người kể hoặc sử-dụng ngữ-pháp theo phương-thức bình-thường nữa, nhưng lại nhìn thẳng mặt vào nữ-thần Medusa để thấy như thể bà ta vẫn chưa chết, nhưng rất đẹp. Và, miệng bà cười rất tươi, như reo vui thật diễm kiều… (x. Helene Cixous,The Laugh of Medusa). Kể truyện dụ-ngôn theo kiểu như thế, sẽ đặt mọi người vào trạng-thái có chút “nếm trải” cũng rất hay.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Niềm Tin: Nỗi-Niềm của Con Tim, Chương 2 Phần Iwww.giadinhanphong.com)

Và, nếm trải niềm tin-tưởng như một cảm-nghiệm khác theo nhận-định của đấng bậc trên ghi như sau:

“Các sử-gia xưa nay thường triển-khai ý-nghĩa của “viễn cảnh”. Đó là ảnh-hình mang tính thị-giác bao hàm một luận-cứ rất ưu-việt. Đôi lúc, nó rất xa vời lại không có rào cản nào xuất hiện ở chính giữa. 

Thật ra thì, sử-gia nhà ta lại ưa-thích lối viết đầy ẩn-dụ nhằm nắm-giữ sự vật xa vời qua một chọn-lựa mang sắc-mầu riêng-tư, đầy ẩn-dụ ức. Đó, là thực-tại khác hẳn tầm-nhìn của người ở vị-thế đứng trụ mà quan-sát. Tất cả, đều nhận ra điều này khi xem xét sự-việc theo “viễn cảnh” cũng rất thật. 

Có vị coi đó là chuyện “nếm trải”, tức: sử-dụng thứ ẩn-dụ khác hẳn. Bởi, “nếm trải” chẳng làm sao có được nghĩa đúng-đắn của thứ ngôn ngữ ta thường dùng. Xưa nay, ta vẫn ưa vẫn thích “mùi ngon/vị ngọt”, nhưng không “nếm trải” được gì, nếu không đưa nó vào miệng rồi nuốt ực, ngõ hầu thưởng thức nó cách tận tình. Và khi đó, ta lại sẽ kêu lên: “Ôi chao là ngọt!” hoặc: “Úi chà! Sao mà đắng thế?” Hoặc: “Cay ơi là cay!”… Cũng có thể, chất ta “nếm trải” lại không thuận/hợp với ta; hoặc: ta chẳng ưa thích nó chút nào. Vấn đề là: mùi ngon/vị ngọt ấy, sẽ loại bỏ mọi khoảng cách, để rồi có người lại dõng-dạc tuyên-bố: “Ăn gì, bạn sẽ là người ấy!” 

Thời Trung-cổ, truyền-thống phổ-đại chuyên sử-dụng ngôn-ngữ ẩn-dụ, như từ-vựng “nếm trải” ta nghe/biết về Chúa. Đây, là khía-cạnh phổ-cập cũng rất thường, vào buổi trước; tức: thời, mà con người có “cảm-giác linh-thiêng” như vật-thể hữu-hình, tựa hồ như thế. “Cảm-giác linh-thiêng”, điều-động bằng giác-quan tổng-thể hệt như một giao-hưởng-khúc gồm đủ mọi giác-quan thay cho ẩn-dụ. Chìa khoá chính cho giác-quan tổng-thể này, không là thị-kiến tạo nên vị-giác tổng-hợp, nhưng là thứ vị-giác thiêng-liêng linh-đạo. Xem như thế, ta trở thành bản-vị có đính-kèm vật-thể mà ta lĩnh-hội được theo cung-cách linh-thiêng giống hệt như thế. 

Nói tóm lại, Chúa để lại “mùi ngon/vị ngọt” nơi ta. Chúa có “mùi vị ngon ngọt” của riêng Ngài, ở mọi thời. Truyền-thống nhận định theo giác-quan như thế lại rực-sáng hơn, khi các đan-sĩ khổ-hạnh như người anh em hèn mọn Dòng Xitô lưu ý (đặc biệt là thánh Bernađô thành Clairvaux, đấng thánh hiền lành được biết nhiều dưới danh hiệu là “Tiến-sĩ-Mật” rất nổi cộm mà anh em đồng môn gọi ngài bằng danh-xưng rất gọn như: “Mật Huynh” cho “tiện bề sổ sách”; và truyền thống này, lan tràn sang các nữ-tử dòng Bê-ganh cũng như các tu-sinh dòng nữ ở mạn Bắc nước Đức, rất đặc biệt.” (Nguồn:“Hãy nếm và xem Thiên Chúa ngọt ngào dường bao.”(Tv 33: 9): The flavour of God in the monastic West,Rachel FultonJournal of Religion vol. 86, N.2, p. 169-ff)

Và, thêm một “nếm trải” khác cũng lạ-kỳ không kém, vẫn được đấng bậc ở trên khẳng-định rằng:

“Ẩn-dụ “nếm trải” được diễn-tả như vui thích, thoải mái mang tính-chất rất chữa lành ngõ hầu dẫn đưa người hiệp-thông rước Chúa sẽ được tháp-ghép vào cơ thể Ngài để gắn bó cho chặt. Tin như thế, là hiểu rằng: để được sống còn, ta cần có và cần chọn cảm-giác ngọt ngào, vẫn rất ngon. Ta còn tiến xa nhiều hơn là chỉ “nếm trải” Chúa rất đích thực, đến độ ta trở nên giống như Chúa. Trở nên con cái của Chúa. Bởi, khi có được sự khai sáng ấy, đã thấy nhiều người có được chọn lựa cả về thị giác lẫn vị-giác, tức tập trung không chỉ vào “nhãn quan”, mà thôi. Một khi ta gặp loại hình thực phẩm mới mẻ nào đó và được mời ăn thử, thì cũng sẽ có đổi thay cũng rất mới.

 Như thế là, ta có thể tháp-ghép vào chính con người mình những gì khả dĩ giết chết hoặc chữa lành, những gì làm cho ta thêm bệnh hoạn hoặc nuôi ta cho tốt. Có chuyện ngộ nghĩnh là chất đường ngọt ngào lần đầu tiên được sản xuất theo số lượng lớn lao, là vào thế kỷ thứ 19-20 tại Anh quốc và nước Mỹ: cũng vào thời bấy giờ người người đã thấy mất mát đáng kể về tôn-giáo, lẫn niềm tin.

 Ngôn-ngữ sử dụng cho giòng chảy ở dưới mang một chút dáng dấp có hơi Mỹ-quốc, nhưng cũng là lập trường đáng để ta quan tâm.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Thế đó là những ví-dụ cụ-thể về tương-quan có “nếm trải” ở cuộc đời con người. Tương-quan giữa người với người được diễn-tả bằng những lập-luận về đạo-đức, triết-lý, và cả đến truyện kể ở chốn dân-gian phàm trần nhiều trải-nghiệm. Tương-quan ấy, còn được toả-lan rộng khắp bằng 4 bộ-môn nghệ-thuật như cầm, kỳ, thi, hoạ. Chí ít là, thi-ca và âm-nhạc như ca-từ được dẫn sau đây:

“Tình đã len trong mầu nắng mới,”
Lòng anh buồn vời vợi em ơi.
Niềm ái ân rung động trên môi,
Tình đâu khôn lựa nên lời thắm tươi.

Ðã héo lắm nụ cười trong mộng

Ðã mờ dần hình bóng thân yêu

Ðã lam tím cả cảnh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

Ðể gối chăn nằm yên chốn cũ

Hãy lịm người trong thú đau thương.


Tình đã không một lần nữa tới

Nhìn nhau buồn vời vợi em ơi

Rượu ái ân em cạn trên môi

Lệ anh xin nhỏ nên lời đắng cay.

 Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Ðừng thương nhau đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

Thành kiếp sao còn băng mãi mãi

Ðể lòng buồn mãi mãi không thôi.”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – bđd)

 Quyết thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta cứ thế mà hiên-ngang tiến về phía trước mang theo trong mình những quan-điểm/lập-trường mình sẵn có. Để rồi, sẽ cùng người anh người chị ở thánh-hội Nước Trời mãi mai vui tươi thực-hiện một sống đạo rất tuyệt vời.

Thế đó, là ý/lực xin được gửi tới mỗi người và mọi người thích đọc những giòng chảy rất phiếm, hôm nay và mai ngày, trong cõi thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn chỉ muốn chuyển-tải

Những gì mình tâm-niệm

Bấy lâu nay

Mà thôi.

Đạo tại Tâm

Đạo tại Tâm

Dongten.net

dao-tai-tam

“Đạo Tại Tâm” là câu nói cửa miệng của nhiều người xưa nay, nó đã trở nên một thành ngữ phổ biến trong dân gian, từ người bình dân cho đến người có học. Nó quá quen thuộc đến nỗi người ta đã hiểu sai cái ý nghĩa đích thực của nó, rồi mỗi người hiểu theo ý riêng của mình, sinh nhiều lạm dụng và tranh cãi, cho cả người ủng hộ lẫn người phản đối.

CÁCH HIỂU ĐẠO TẠI TÂM NƠI MỘT SỐ NGƯỜI

Người ta hiểu “đạo tại tâm” nhiều cách khác nhau, đôi khi trái ngược nhau. Có người hiểu Đạo là giữ trong lòng chứ không cần thiết phải phô trương bên ngoài. Người khác lại hiểu giữ đạo cốt ở tâm hồn, còn cái bề ngoài chỉ là phụ thuộc, có cũng được, không có cũng chẳng quan trọng. Lại có cách hiểu Đạo là cái lõi, kiểu giữ đạo là vỏ, chỉ là phụ, nên cái vỏ chỉ có giá trị nhất thời. Cũng có người hiểu Đạo Tại Tâm là cách ngụy biện của kẻ “vô đạo”, cho rằng giáo lý tôn giáo của họ không có chuyện Đạo Tại Tâm. Một cách hiểu dung hòa cho rằng Đạo (tại tâm) là nội dung, còn giữ đạo là hình thức, đạo chú trọng về nội dung nên nói vậy, nhưng cần có cả nội dung lẫn hình thức mới được hoàn hảo. Và còn nhiều cách hiểu khác nhau, tùy theo ý niệm hoặc thành kiến để hiểu Đạo và Tâm theo nhãn quan của mỗi người .

Người đả phá việc theo “đạo tại tâm” cũng tìm những lý lẽ, viện những câu chuyện ví dụ làm luận cứ cho cái tiền đề khá mơ hồ theo cách hiểu của họ. Khái niệm hoặc định nghĩa về Đạo Tại Tâm không được đề ra một cách thỏa đáng, không dựa trên nguồn gốc có cơ sở trên lãnh vực đạo học và văn hóa tư tưởng, nên cách giải thích và phản bác của mỗi người khác nhau, cái lý đưa ra khiến người nghe không thỏa mãn, dù họ khó phản biện được.

Như vậy nếu hiểu Đạo, hiểu Tâm theo ý mỗi người thì không còn biết chân lý nằm ở chỗ nào, cũng chẳng nhận ra bản thể của Đạo, và cũng không tìm thấy cái Tâm Nguyên Bản của nó.

Vậy Đạo và Tâm từ đâu và bản chất của nó như thế nào?

ĐẠO VÀ TÂM

Ngoài Ấn Độ theo Ấn giáo, Do Thái giáo của Israel và một số quốc gia theo Hồi giáo, hầu hết các nước Á châu đều thấm nhiễm triết lý, tư tưởng và luân lý của Khổng, Lão và Phật. Vì vậy muốn hiểu Đạo và Tâm theo nghĩa “đạo tại tâm”, không gì hơn là tìm đến Đạo học Đông phương, nơi xuất xứ ra thành ngữ này. Nơi đây, cái gốc được căn cứ trên cơ sở của “Tam giáo Đồng nguyên”, tức Khổng, Lão và Phật.

– Nho Giáo:

Đức Khổng Tử nói: “Thiên mệnh vị chi Tánh, suất tánh vị chi Đạo, tu Đạo vị chi Giáo” (Cái mệnh Trời phú cho gọi là Tánh, theo Tánh gọi là Đạo, sửa mình cho đúng Đạo gọi là Giáo –  sách Trung Dung).

Nho giáo cho rằng theo Đạo là tuân thủ theo Thiên lý, mà Thiên lý với bản tánh con người là một, cho nên theo Đạo là cốt để sửa cái tính con người cho hợp với Thiên lý. Nên Đạo với con ngưòi là một.

Đức Khổng nói rằng: “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo” (Đạo không xa rời bản tánh con người, nếu theo Đạo mà để xa cái bản tánh con người, thì không phải là Đạo –  sách Trung dung).

Cũng như: “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn, sự tại dị nhi cầu chư nan” (Đạo ở gần sao lại đi tìm ở xa, sự việc dễ sao lại làm cho nó khó – Mạnh tử). Ở gần là ở trong ta (tâm), việc dễ vậy mà lại tự gây (khi hành đạo) cho nó phức tạp.

Do đó Đạo luôn gắn bó với con người, nằm trong con người, đó chính là lương tâm, thiện tánh.

Cho nên:  “Đạo bất khả tu du ly dã, khả ly phi Đạo dã” (đã là Đạo thì không giây phút nào xa lìa được, nếu xa lìa được thì không phải là đạo – sách Trung dung).

Theo Nho giáo thì Tâm và Tánh là thần minh, là linh giác của con người, cũng còn gọi là linh tâm, giác tánh.

Nho giáo xem Tâm và Tánh ban đầu vốn lành, nhưng sở dĩ con người có tâm tánh độc ác, là do càng ngày càng tập nhiễm những điều xấu, mà xa dần cái tánh bổn thiện. Nên bài học vỡ lòng của đạo Nho là: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện; Tánh tương cận, tập tương viễn ” (Tánh thuở ban đầu của con người vốn lương thiện, luôn gần gũi với điều lành, nhưng vì tập nhiễm tánh xấu, nên xa dần điều lương thiện – Tam Tự Kinh).

Cũng như thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” của Vương Dương Minh  (14721528), một nho gia nổi tiếng đời nhà Minh, Trung Quốc, nói cái Tâm là cái “Trí lương tri” của con người đã được phú bẩm, cần quay về mình (tâm) để tìm lại nó, nhờ sự soi sáng và dẫn dắt của nó mà thi hành đạo.

Vì vậy phương châm tu hành của Nho giáo dạy phải: “Tồn Tâm Dưỡng Tánh”, tức là giữ cái thiện tâm luôn tồn tại, và nuôi dưỡng cái tánh vốn lành của mình, đừng cho tiêm nhiễm những điều xấu. Nó được căn cứ trên LÒNG NHÂN (cái tâm), thể hiện qua TAM CƯƠNG và NGŨ THƯỜNG (thực hành đạo).

– Lão Giáo:

Đức Lão Tử cho Đạo là tinh thần, là Bản Nguyên của trời đất, vạn vật, nên trời đất vạn vật là bản thể của đạo, vì thế Đạo lưu hành trong vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu của Đạo bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo không có hình tướng, rất khó diễn tả, nên con người chỉ lấy Tâm để cảm nhận và hình dung Đạo mà thôi.

Còn Tâm Tánh là Thiên lương (Tâm nguyên thủy), có sẵn trong con người, còn gọi là Lương tâm và Thiện tánh, cứ nhìn thẳng trở vào Tâm Tánh của chính mình thì sẽ thấy Đạo.

Tâm Tánh có sẵn trong mỗi người ban đầu, nó hồn nhiên, vô tư vô dục, lương thiện như tâm hồn của đứa trẻ con mới sinh ra, nên Lão Tử so sánh cái Thiên lương của con người như là tâm của đứa con đỏ, gọi là “Xích tử chi tâm”. Cái Tâm phát sinh ra các tư tưởng, làm chủ cái thân, là cái hồn của con người. Nhưng trong tâm lại có động, có tịnh. Ý động thì khí hành, ý tịnh thì khí lặng, cho nên khí hành hay lặng đều từ cái Ý của Tâm mà ra.

Nhưng sở dĩ có sự biến dạng thành hung ác, là do tập nhiễm vật dục làm thay đổi từ tốt trở nên xấu. Vì vậy con người trở thành thánh nhân cũng do bởi Tâm, mà sống như thú vật cũng do cái Tâm sai khiến. Nên đường hướng tu hành của Lão giáo lấy sự hư tĩnh để tu luyện đó là: “Tu tâm luyện tánh” (sửa tâm và trau dồi tánh).

Tu Tâm là sửa lòng cho trong sạch, cốt làm cho tâm con người luôn thanh tịnh, làm chủ được bản thân mình, không để thất tình lục dục dẫn dắt. Luyện Tánh là tập cái tánh trở thành không không, đừng để ảnh hưởng bởi thất tình (hỉ, nộ, ái ố, ai, cụ, dục), lúc đó con người sẽ được cái Tâm sáng tỏ soi dẫn, hành động sẽ theo sự tự nhiên của cái lý Vô Vi, có nghĩa là không làm, tức là không can thiệp vào quy luật tự nhiên, để con người sống theo tự nhiên, để cùng với tự nhiên mà tiến hóa (vô cầu, vô tranh, vô đoạt, vô chấp).

– Phật Giáo:

Đạo đối với Đức Phật rất đơn giản, đó là “Không được bám víu vào bất cứ gì cả”, nghĩa là để cho cái Tâm trở nên hư không. Trong quá trình tu tập, Phật tử phải quay về tìm cái “Tâm Phật” của mình. Nhà Phật gọi Tâm và Tánh là Chân như, Chân tâm, Phật tánh… Trong mỗi chúng sanh đều có Chân tâm và Phật tánh. Cái Tâm Chân bất sanh bất diệt, nên cũng gọi là Thường trụ Chân tâm. Vì vậy phương hướng tu hành của Phật giáo dạy phải: “Minh Tâm Kiến Tánh”, nghĩa là làm cho sáng cái Tâm thì sẽ thấy rõ cái Tánh.

Về cái Tâm, Ðức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy lo tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn thứ tâm rộng lớn không đo lường được”. Đó là các Tâm: “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở rộng bốn Tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu sinh ở khắp bốn phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối sống của bậc thánh. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “Tứ Vô Lượng Tâm”, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, thành phần, đẳng cấp trong xã hội thì mỗi người sẽ trở thành một “thánh nhân” trong một thế giới hòa bình, an lạc.

Người Phật tử lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.

Người phật tử thực hành giáo lý nhà Phật gọi là “hành giả”, dù niệm Phật để thanh tịnh hư không – gỡ khỏi mọi ràng buộc – dù  hành giả ra đi để cứu nhân độ thế, cũng đều là thực hành tâm linh tìm về Chân tánh để gặp Đạo. Như vậy Đạo với đời sống tâm linh cũng chỉ là một chứ không có sự tách biệt.

– Hệ kết:

Tóm lại các pháp môn tu luyện để ngộ đạo và đắc đạo của Tam giáo tuy danh xưng và phương tiện thể hiện có khác nhau, nhưng tựu trung cũng khuyên người thực hành đạo phải:

– “Tồn tâm dưỡng tánh” đối với Nho giáo

– “Tu tâm luyện tánh” đối với Lão giáo

–  “Minh tâm kiến tánh” đối với Phật giáo

Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà nơi kết quả sự thật mình làm, chẳng phải nơi câu kệ câu kinh mà phải thể hiện ra. Nếu chỉ nghiên cứu suông kinh điển để làm một kẻ trí đạo “năng thuyết bất năng hành” thì cũng chẳng khác gì người ngồi đó chỉ biết diễn tả phân tích đủ thứ món ăn tuyệt diệu trên đời, nhưng rốt cuộc bụng họ vẫn đói meo, hoặc như con lạc đà trên lưng mang nặng trĩu gỗ trầm hương, nhưng chẳng bao giờ nó thưởng thức được hương thơm của trầm cả. Phải biến nhận thức của mình thành hành động cụ thể. Có như vậy mới đi đúng đường và mang lại lợi ích thực sự.

Để đi vào đạo, con người chỉ cần biết thức tỉnh quay vào chính mình thì sẽ nhận ra “Chân tánh”, được “Tính bản thiện”, được cái “Thiên lương”, lúc đó sẽ được nó soi tỏ và dẫn dắt, đồng thời sẽ gặp được Đạo.

Như vậy Đạo với đời sống tâm linh là một, mà hoạt động tâm linh không hề tách biệt với đời sống thực tại, cũng như tâm linh luôn gắn liền với thể chất như bóng với hình, vì Tâm và Vật không thể phân chia. Nói cách khác, hoạt động tâm linh luôn hiện hữu trong đời sống con người, tức là đạo không lìa xa cuộc sống. Vì thế người theo đạo không có nghĩa là phải từ bỏ các hoạt động hằng ngày, để theo đuổi một cái gì xa vời ngoài cái thực tại. Sống theo đạo là sống một cuộc sống cho ra sống, đáng sống với cuộc đời, sống một cách có ý thức và chủ động trong mọi sinh hoạt, chứ không phải sống một cách máy móc thụ động.

Muốn được vậy thì con người phải lấy Tâm làm gốc, Đạo làm nền, là trung tâm trong đời sống tâm linh, mà cũng là trung tâm của tất cả hoạt động của đạo được thể hiện ra bên ngoài. Nên Đạo Nho mới nói: “Đạo bất khả tu du ly dã” (đạo không giây phút nào xa lìa được), và “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn” (đạo ở gần đừng tìm nơi xa).

“Tam giáo đồng nguyên” chính là vậy.

CÔNG GIÁO VỚI ĐẠO TẠI TÂM

Căn cứ trên Kinh Thánh và Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG), “Thuở ban đầu con người đơn sơ trong trắng như trẻ thơ vô tội, chưa bị rối loạn vì tội lỗi. Con người sống an bình hoà hợp với Thiên Chúa, với mọi người, và với bản thân mình” (St 2).

Cũng như: “Con người đầu tiên không những được tạo dựng là tốt lành, mà còn được sống trong tình thân nghĩa với Đấng Tạo Hóa của mình, trong sự hài hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh. Tình thân nghĩa và sự hài hòa này chỉ thua kém vinh quang của công trình tạo dựng mới trong Đức Kitô” (GLHTCG số 374).

Và: “Hội Thánh, khi giải thích một cách chính thống ngôn ngữ biểu tượng của Thánh Kinh dưới ánh sáng của Tân Ước và Truyền Thống, dạy rằng: nguyên tổ chúng ta, ông Ađam và bà Evà, đã được tạo dựng trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy. Ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy đó là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa” (GLHTCG số 375).

Đặc biệt hơn, Sách Sáng Thế 1, 26 – 27 nói: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Trong các loài Chúa đã dựng nên, chỉ có con người được Thiên Chúa ban cho linh hồn thiêng liêng, bất  tử.  Nhờ đó, con người có khả năng hiểu biết, chọn lựa điều hay lẽ phải và quyết tâm loại trừ điều xấu để hướng đến hạnh phúc đích thực và trọn vẹn”. Vì linh hồn thiêng liêng, có trí tuệ, ý chí và tự do, nên con người có khả năng hướng về sự thiện đích thực và hạnh phúc muôn đời.

Cái Tâm của con người được hiểu là toàn thể cõi lòng, đó là lương tâm ngay lành, là ý chí (ý muốn), là sự tự do, trong đó có cả sự nhận thức thông qua trí tuệ của con người – vì không thể tách trí tuệ ra khỏi cái Tâm được – đã được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn. Đó là hình ảnh của Thiên Chúa, dù một thai nhi hay trẻ sơ sinh cũng hội đủ tố chất của cái Tâm này.

Kinh Thánh và GLHTCG nêu trên cho biết, cái Tâm nguyên thủy của con người hoàn toàn tốt lành, thiện hảo chứ không yếu đuối, mê muội, nhiều dục vọng xấu xa… Nó được hòa nhập vào thân xác không thể phân chia, trở thành một bản tính, như GLHTCG số 365 nói: “Sự thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được coi là “mô thể” của thân xác; nghĩa là, nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được cấu tạo bằng vật chất, là một thân xác nhân linh (corpus humanum) và sống động; tinh thần và vật chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết hợp của chúng tạo thành một bản tính duy nhất”.

Tình trạng ban đầu của vạn vật là tốt lành, không có đau khổ và sự dữ. Chính tội lỗi của con người đã làm hỏng sự tốt lành nguyên thuỷ và làm con người mất hạnh phúc. Tuy nhiên tình trạng đau khổ của con người không đến nỗi tuyệt vọng như người ta đáng phải chịu, bởi vì Thiên Chúa nhân từ sẽ tìm cách cứu vớt. (St 1)

Công giáo là đạo được Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người mạc khải, gọi là Đạo Từ Trời. Thiên Chúa Là Tình yêu (Ga 4, 16), Người đã hoàn tất trong lề luật “Mến Chúa yêu Người”, nên cũng được gọi là Đạo Yêu Thương, Bác Ái. Vì vậy Đức Ái là trung tâm điểm của đạo, xuất phát từ cái Tâm yêu thương, thể hiện qua hành vi bác ái. “Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3).

Cũng như, “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21), ngoài ý nghĩa cho mọi người, còn nói lên ở trong lòng, trong tâm mỗi người nữa, nơi đó tình yêu ngự trị  trong tâm hồn mỗi người. Nước Thiên Chúa chính là mọi người yêu thương và sống bác ái với nhau, trong Đức Kitô.

Bác ái được căn cứ và xuất phát từ cái Tâm, nên câu nói “Đạo tại tâm” xuất phát từ Đạo học Đông Phương không những không mâu thuẫn hay trái với đạo Công giáo, mà nó còn am hợp một cách diệu kỳ, khá thú vị.

KẾT LUẬN

Có thể nói trong suốt dòng thời gian xưa nay, vấn đề “đạo tại tâm” luôn được nhiều người nhắc tới  như một sự “cảnh tỉnh” về đạo, với nỗi suy tư khác nhau, tùy theo góc độ nhìn nhận và hiểu biết nơi mỗi người, nhiều khi vô tình đi đến sự lệch lạc mà không biết. Chính vì vậy mới có tình trạng tự mâu thuẫn trong lý do của những người ủng hộ “đạo tại tâm”, cũng như nơi những người đả phá nó. Nếu sự nhận thức về đạo mà thiếu thành tâm thiện chí thì dễ dẫn đến cực đoan, đưa đến những ngõ ngách, sinh ra sự cố chấp vô lối, như “bốn người mù xem voi” vậy.

Như đã trình bày, Đạo và Tâm gắn liền với nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt. Bởi vì cái Tâm (心) mới là nơi ở (tại – 在 ) của cái Đạo (道). Mà đạo là sống, là hành, là thi thố ra bên ngoài, gọi là hành đạo (hành giả).

Còn theo sự nhận thức bình dị nhất, đạo là việc đạo đức, còn tâm là lòng dạ, nó được thể hiện trong cuộc sống. Nó cũng đúng, vẫn thuận hợp và có ý nghĩa với cụm từ “đạo tại tâm”, vì phải có lòng mới làm việc đạo đức được.

Con người theo đạo dễ lâm vào một số trường hợp, như giữ đạo theo kiểu giả hình, kiêu kỳ, vụ lợi, hình thức, lập dị, đồng bóng… Vì vậy dễ bị người khác chống đối, mà cách lên án thông thường nhất là nại vào câu nói “đạo tại tâm” để phản kháng. Cũng có những người lợi dụng câu này để che lấp, bào chữa cho những cái vô tâm và bê bối trong việc sống và giữ đạo.

Thực ra ít có người xuyên tạc hay hiểu lầm câu “đạo tại tâm” một cách thành tâm, thành thật với bản thân. Vì một khi có sự thành tâm thành ý tìm Đạo thì tự nhiên trong Tâm của con người sẽ thấy cái Đạo ló dạng, và họ sẽ không ngần ngại thi hành đạo đã chiếu soi trong tâm hồn của họ.

Như vậy, ĐẠO TẠI TÂM  (道 在 心) đã được trình bày khái quát trên cơ sở từ nguồn gốc của nó (tam giáo), cũng như xem xét qua mạc khải trong Thánh Kinh của Kytô giáo. Vấn đề đã tạm ổn trong sự nhận thức và hiểu biết hạn hẹp về Đạo và Tâm. Đây là vấn đề mà con người khó thấu triệt, dành cho các vị đã “đắc đạo” và những thánh nhân mới có thể quán thông được nó. Tuy vậy ai cũng có thể dùng cái Tâm của mình để gặp được Đạo, tùy theo cơ duyên tu dưỡng nơi mỗi người để được nhiều hay ít. Như trong Công giáo là tùy thuộc vào ân ban của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, với điều kiện là phải thành tâm với chính mình để tìm đạo, sẽ gặp được hình ảnh củaThiên Chúa trong chính mình và nơi tha nhân.

Hàn Cư Sĩ

(Bài viết được tác giả gửi đến dongten.net)

Sách tham khảo:

-Tứ Thư trọn bộ (Dịch giả: Đoàn Trung Còn)

– Đạo Đức Kinh (Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê)

– Phật Học Tinh Hoa (Nguyễn Duy Cần)

– Sách Giáo Lý Công Giáo và nguồn internet.

MẸ MÂN CÔI – MẸ CHIẾN THẮNG

 MẸ MÂN CÔI – MẸ CHIẾN THẮNG

 ĐGM Vũ Duy Thống

Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ.  Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời.  Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến.  Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi.  Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo.  Người ta mở lễ ăn mừng.  Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.

kinh-man-coi

Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng.  Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn.  Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng.  Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.

1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”.  Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người.  Điều này thật quan trọng và chính yếu.  Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa.  Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.

“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa.  “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi.  “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh, hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn.  “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.

Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria.  Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.

Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”.  Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất.  Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức.  Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria.  Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.

Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ.  Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.

Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng.  Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ.  Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.

Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.

3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi

Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.

Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ.  Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người.  Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.

Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng.  Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực.  Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.  Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.

Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình.  Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra.  Khối kẻ u đầu sứt trán.  Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy.  Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ.  Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.

Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.

 ĐGM Vũ Duy Thống

(trích trong “Với Cả Tâm Tình”)

Langthangchieutim gởi