Gió lùa ánh sáng vô trong bãi

 Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 3 mùa Vọng năm A 11/12/2016

Tin Mừng (Mt  11: 2-11)

Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

“Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”

  •      *      *      *      *

 “Gió lùa ánh sáng vô trong bãi”

Trăng ngậm đầy song, chảy láng lai.

Buồm trắng phất phơ như cuống lá,

Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch

Trình thuật mùa đợi chờ hôm nay, làm phấn chấn hết mọi người. Người người hôm nay, được dặn dò: Hãy vui lên!. Vui, không vì “Nắng tươi đẹp, khung trời rồi rực sáng”. Mà vì, Đức Chúa Quang Lâm nay gần đến, sao vẫn buồn?

Với phụng vụ thời xưa, Mùa Vọng là mùa đền tội, khá nghiêm ngặt. Theo đó, con dân nhà Đạo tuần này được khuyên nên giữ chay lòng, khiết tịnh ít nhất ba ngày. Với Công Đồng Vatican II, Phụng vụ đã bắt đầu cho sử dụng mầu Hồng cho áo lễ. Mầu phấn khởi, nhắc nhở về lời khuyên của ngôn sứ Isaia:

“Vui lên đi, này đồng hoang cỏ cháy.” (Is 35: 1).

Hãy cứ vui, mà chào đón Đấng Nhân danh Chúa ngự đến” (Is 35: 2).

Ngài ngự đến, cứu chuộc hết anh em.” (Is 35: 4).

 Cứu rỗi hay cứu chuộc, là ơn chữa lành. Là, những trọn vẹn – lành thánh, đến với cuộc đời mỗi người và mọi người. Mọi người tuy được cứu rỗi, cũng đừng nên coi việc chữa lành đây mang tính xác phàm, thôi. Nhưng, còn mang cảm tính, ý nghĩa xã hội và tâm linh, nữa. Quả là, ta chỉ được kiến tạo thành người trọn vẹn, khi hạnh phúc hài hoà tuôn chảy vào chính con người mình, thôi.

Tin Mừng hôm nay, còn minh xác thêm một điều, là: ta tìm ra chính mình ngay trong cuộc đời của Đức Kitô. Điều này, được thánh Gio-an Tiền Hô công bố qua việc thánh nhân sai môn đệ mình đến hỏi Chúa:

“Thầy có thật là Đấng phải đến hay không?” (Mt 11: 3).

Câu hỏi, bao hàm hai việc: bản thân thánh nhân muốn biết về Đức Kitô; hoặc, chính thánh nhân muốn cho môn đệ mình hiểu về Chúa. Điều này hạ hồi sẽ rõ. Nhưng sau đó, thánh nhân lại đã công bố:

“Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi…

Ngài sẽ thanh tẩy anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11).

Và lúc đó, câu trả lời của Đức Chúa nói lên tính cách Thiên Sai của Ngài:

“Hãy về mà thuật lại với Gioan,

những điều mắt thấy tai nghe…” 

Câu trả lời của Đức Giê-su, ăn khớp với ý nghĩa bài đọc thứ nhất: công nhận Đức Kitô là Đấng Thiên Sai. Đấng “đến cứu anh em” (Is 35:4).

Tin mừng thánh Mátthêu lại cũng thực sự nói lên tính Thiên sai của Chúa. Và như thế, lời xác minh này ăn khớp với tinh thần của Mùa Vọng, mùa chờ đợi. Ta chờ ngày Chúa đến lại. Ngài đến lại, là đến một cách đầy đặn, trọn vẹn cho cuộc sống của ta. Như Kinh Nhập Lễ vừa nói rõ, ta vẫn cần “kinh nghiệm sống về niềm hân hoan Đấng cứu chuộc.”

 Cần ở đây, là cần Chúa mang đến cho mỗi người ơn cứu chữa rất trọn vẹn, lành thánh. Và, đây chính là điều mỗi người chúng ta cần làm. Cần, là làm sao để mỗi người đều có kinh nghiệm trở nên toàn vẹn trong Đức Kitô. Cần là bởi, nhiều người trong chúng ta vẫn chưa thực sự biến đổi chính mình, để trở thành “một Kitô” khác. Một Kitô đích thực, như Ngài muốn. Và, thời gian cứ kéo dài. Cứ chờ đợi ta.

Nhằm giúp ta làm được như thế, bài đọc thứ hai trích dẫn lời của thánh Gia-cô-bê, khuyên bảo:

 “Hãy kiên nhẫn, như nhà nông chờ đất trổ sinh hoa mầu.

Chờ cơn mưa đầu mùa. Mưa cuối vụ.”

(Gc 5: 8).

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng giới thiệu thánh Gioan Tiền Hô như vị thánh lớn, chưa từng thấy. Và, thánh nhân còn được thêm ưu điểm là được sinh ra cùng thời với Đức Chúa. Ưu điểm này, Đức Kitô cũng đã ban cho mỗi một người,chúng ta. Được ưu điểm ấy, ta cố gắng làm sao để Đức Kitô trở nên thành phần trong cuộc sống của mỗi người.

Thật ra, thánh Gioan Tiền Hô là nhân vật dũng mãnh, vẹn toàn. Thánh nhân không giàu có. Cũng chẳng tiếng tăm. Lại không là bậc siêu sao, thượng thặng. Nhưng, mọi người vẫn bước theo chân mềm của thánh nhân bước vào chốn hoang vu vắng lặng nơi sỏi đá khô cằn, để được nghe thánh nhân những giảng và dạy. Lời dạy rất thách-thức để đổi thay.

Cũng một kiểu tương tự, lời mời gọi vào chốn hoang vu, nay được gửi đến mỗi kẻ tin vào Đức Kitô, từ nhiều năm. Vẫn từ bao giờ, tín đồ của Chúa được kêu mời hãy dọn đường, và cũng dọn lòng, để Chúa đến với tâm can mỗi người. Hãy sửa soạn con tim của mọi người. Để rồi, mỗi người và mọi người đều hân hạnh có kinh nghiệm về “niềm vui cứu rỗi”. Niềm vui được ơn chữa lành, rất lành thánh, trọn vẹn. Có như thế, cuộc sống của chúng ta mới có ý nghĩa và đáng sống.

Giáng Sinh là thời của ân huệ/quà tặng, của hành động cho đi lẫn tiếp nhận. Hãy đảm bảo là các quà tặng ta trao nhau, bao gồm cả niềm vui đi Đạo, mọi người đang nhận lãnh. 

Lm Frank Doyle sj biên-soạn

Mai Tá lược dịch

THIÊN CHÚA TÌM KIẾM CON NGƯỜI

THIÊN CHÚA TÌM KIẾM CON NGƯỜI

thien-chua

Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều qúy giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy.

Người thứ nhất đi tìm viên ngọc qúy. Bất cứ nơi nào bán đá qúy, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc qúy, anh trở lại quê hương chờ bạn.

Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.

Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ đi tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.

Khi người bạn hỏi điều qúy mà anh đã tìm được là gì mà khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên:

– Điều qúy giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi.

***

“Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.

Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc.

Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về.

Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ

Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta” (Is 9,5).

Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa, thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12).

Giáng sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng qúy giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người (x Ga 3,16). Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu qúy, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài Nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài Nhi Giêsu đang mong đợi.

Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

***

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã tìm kiếm chúng con, đã cứu chuộc chúng con, và đã cho chúng con được làm con Chúa. Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình yêu bao la của Chúa bằng cách yêu thương anh em với tất cả trái tim nồng cháy của chúng con. Amen!

Thiên Phúc

MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG

MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

Nếu khởi đầu Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì ở giữa lòng Mùa Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng lực mới cho một cuộc đời mới.  Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả bằng một niềm vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để cùng với Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.

mua-vong

Vâng!  Màu hồng.  Nhưng không phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng không phải là thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà chính là màu hồng của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên sức sống và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.

Qua cách gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả của niềm hy vọng.

1) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một niềm vui chan hòa.

Không phải vô cớ mà thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình “Hãy vui lên!” cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu ý dàn dựng để làm nổi bật lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm đặt cận kề nhau, mà như hai yếu tố tương tại vào nhau của cùng một nỗi niềm duy nhất kết nên đời sống Kitô hữu.  Có hy vọng là có niềm vui.

Bởi có hy vọng nên đời tín hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời theo kiểu “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo dòng nước cuốn, mà là đón nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi.  Họ không chấp nhận nhìn môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết nhận ra đó chính là nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và làm con Chúa.  Cho dẫu cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao.  “Trong khi chưa có được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những điều mình đang có.”  Tôi muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là những mảnh đời chật hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách nới rộng đời mình ra.

Bởi có niềm hy vọng nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa.  Trong đại dương không ai là một hòn đảo.  Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là người lữ khách cô đơn.  Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những kẻ đồng hành và đồng hành cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về.  Cũng giống như tình yêu, hy vọng là rộng mở, là biết cho đi.  Trong đổi chác, không ai có thể cho cái mình không có, nhưng trong niềm hy vọng, không ai có thể có được điều mà mình không biết cho đi.  Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng niềm hy vọng biết cho đi thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ thường.  Nỗi vui cho đi sẽ thành nỗi vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm hy vọng biết cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống triển nở sinh sôi.

Rõ ràng là với niềm hy vọng, cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ tinh ròng mà vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc, nhưng đã hồng hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm hy vọng.

Chắc cộng đoàn còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I.  Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba ngày nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên.  Đó là hình ảnh của một Giáo Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài miệng.  Chính ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ là một nhân đức.  Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp vào hàng vĩ nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn, Mẹ bảo: “Hãy mỉm cười.  Cười là thông điệp hòa bình.  Cười là nếm cảm thực tại Thiên Chúa”.

2) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một chí bền chiến đấu.

Những lúc an bình, niềm hy vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách, niềm hy vọng lại trở nên sức mạnh kiên cường.  Chính vì thế, hy vọng không chỉ được xem là nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự chiến đấu trước những thách đố không thiếu trong đời.

Có những thách đố đến từ những nghịch lý trong đời sống đức tin thể hiện qua những câu hỏi “tại sao?” khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng.  Như câu hỏi tại sao của Cựu Ước: “Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ lại cứ phây phây?”  Như câu hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt muốn làm tôi lại chẳng làm, còn điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”  Như câu hỏi về Giáo Hội: “Tại sao Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn cứ mãi ghi dấu bằng những cuộc phân ly?”  Như câu hỏi của các bạn trẻ Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982: “Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo thành của Ngài lại có quá nhiều tội ác?”  Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao người ta cứ phải lo đề phòng đối phó mà không biết yêu thương nhau?”  Hay như câu hỏi mỗi người thường đặt ra với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?”  Những câu hỏi ấy được đặt ra và còn được đặt ra mãi mãi.  Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không tìm được giải đáp; nhưng sẽ không có câu trả lời đích thực nếu không nại đến niềm hy vọng vào điều toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống mai sau.

Có những thách đố đến từ những nghịch biến trong lối sống đạo như sự ly thân giữa giáo lý tốt lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín hữu, như cách sống thực dụng của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa đang có nguy cơ tràn lan, và phổ biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng dưng với đạo của một số kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai.  Sẽ là dị ứng co cụm nếu chỉ thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết vươn lên khẳng định niềm tin.

Và cũng có những thách đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như tai nạn bất ưng, như sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề, như những thất bại nhiều mặt.  Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của mình, nhưng sẽ là hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa thì ở đó vẫn cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.

Trọn trang Tin Mừng hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về một sự trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về Đấng Cứu Thế như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa nhân ái; công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa lúc mọi người xôn xao hạnh phúc.  Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi môn đệ đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách đố ấy, nơi Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ cậy trông.

Niềm hy vọng chính là sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.

Tóm lại, với hiệu quả của niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống của tín hữu đã được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn cả chính nỗi niềm của mình.  Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không chỉ là thiện hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no thỏa mà chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.

Và như thế, thiết tưởng đã đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?

Bài đọc thứ nhất nhắc nhở “Đừng sợ.”  Đừng sợ không có niềm hy vọng vì trước khi ta có thể hy vọng thì Chúa đã hy vọng vào ta.  Đó là một hồng ân.  Cũng đừng sợ mình mất niềm hy vọng như thể ta sống có một mình.  Có một Đấng cùng sống với ta và Đấng ấy không dễ gì để mất ta đâu.  Cũng đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả đời.  Điều đáng sợ đáng ngại và đáng đau khổ nhất là “thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời người”, nghĩa là người ta khước từ hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do hoặc danh lợi thú.

Bài đọc thứ hai khuyến khích “Hãy vui lên!” Vui vì ta là niềm hy vọng trong mắt nhìn cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng thắp sáng cho anh em mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui thế mà cười một mình” như Trần Tiến trong ca khúc “Thành phố trẻ,” mà còn để chuyển tải đến môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.

Ai đã coi cuốn phim “Cuộc đời Chúa Cứu Thế” chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời và lời trao sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân dung của Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng hoàng.  Không biết dụng ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa đem lại nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.

Mong rằng nụ cười thật lạ ấy cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể hiện niềm hy vọng.  Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm vui, và Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp thật tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc.

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

Langthangchieutim gởi

Tâm sự của người cha đạo đức có đứa con gái duy nhất gia nhập dòng kín

 Tâm sự của người cha đạo đức có đứa con gái duy nhất gia nhập dòng kín

Một nữ tu đang cầu nguyện – REUTERS

Ông Matthew Wenke là một tín hữu Công giáo đạo đức. Ông thường cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, nhưng ông không nghĩ chính Nora, người con gái duy nhất dễ thương của ông lại theo ơn gọi này. Nora gia nhập đan viện thánh Giuse của các nữ tu Passionist ở Kentucky và tháng 8 năm 2015, cô đã được lãnh tu phục và bây giờ được gọi là sơ Frances Marie. Ông Wenke  đã trải qua những giờ phút đau long từ khi con gái cưng bày tỏ quyết định đi tu. Ông đã phấn đấu và cầu nguyện rất nhiều để can đảm dâng con lại cho Chúa và cuối cùng ông đã có được niềm vui khi nhìn thấy con mình hạnh phúc trong ơn gọi đời thánh hiến. Ông đã chia sẻ những suy nghĩ của mình về câu chuyện này. Ông bắt đầu:

“Nếu con gái của những người khác thích đi tu, tôi sẽ không đặt câu hỏi gì cả. Tôi sẽ tôn trọng quyết định của họ và thật lòng vui mừng cho họ. “Đó là một ơn gọi cao trọng và đẹp đẽ!”, “Thật là một cuộc sống có ý nghĩa với mục đích thánh thiện!”, tôi không nghi ngờ chút nào về điều này. Nhưng khi tôi nghe biết ý định vào dòng kín của con gái tôi, ngay lập tức tôi nghĩ “Trời ơi, ba hy vọng con có ơn gọi … làm sao con có thể về thăm nhà thường xuyên?” Suy nghĩ đầu tiên của tôi không phải là về việc hoàn thành ơn gọi và đời sống thiêng liêng của Nora. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là tôi có thể sẽ thiếu vắng sự hiện diện của con gái tôi trong nhà của mình và sự đồng hành dịu dàng và vui tươi của nó. Tôi nghĩ những điều này vì tôi biết về đời sống đan tu khi tôi đọc cuốn “Nhật ký một tâm hồn của thánh Têrêsa, trong đó chị thánh kể khi vào đan viện, chị phải nói lời tạm biệt với người cha đang đau đớn và chị Celine. Tạm biệt luôn là thời khắc khó khăn đối với tôi.

Tôi quan sát sự tự tin và an bình thiêng liêng của Nora trong chọn lựa ơn gọi của nó, khi Nora lần đầu thăm các nữ tu dòng Passionist trong tuần phân định “Đến và xem” trong tháng 11 đến 12 năm 2013, rồi 3 tháng như thỉnh sinh từ tháng 2 đến 5 năm 2014. Tôi đã lo sợ rằng phải tạm biệt với đứa con gái duy nhất của tôi. Trong khi chờ đợi và cầu nguyện trong thời gian này, tôi tự hỏi: Tôi có nên thử giữ nó ở lại nhà? Tôi có nên làm cho nó thấy có lỗi với sự đau đớn và buồn sầu của tôi? … Tôi nghĩ ngợi về sự ích kỷ đó, sự kiểm soát và làm dụng quyền lực của tôi. Tôi nghĩ về tội lỗi mà tôi cảm thấy nếu tôi nhìn vào con gái của tôi, bị gài bẫy bởi sự ích kỷ của tôi. Ý tưởng này làm tôi hoảng sợ! Tôi cảm giác thế nào nếu ai đó đã gài bẫy tôi bằng tình cảm, không cho tôi tự do chọn ơn gọi và cách sống của tôi? Tôi biết là tôi có thể tức giận với người đó và cảm thấy đau đớn vì không đáp lại tiếng gọi yêu thương thu hút của Chúa. Tôi nhìn vào con gái tôi: một linh hồn trong trắng. Một phụ nữ có đời sống thiêng liêng sâu sắc, muốn phân định tiếng Chúa gọi một cách tự do. Nó ao ước hòa mình với ý muốn của Chúa mà tôi đã cầu nguyện, cho mọi con cái của tôi … trở thành những môn đệ đích thực, chúng tôi phải mở lòng với mọi chọn lựa, không chỉ cho chúng tôi, nhưng cho tất cả những người chúng tôi yêu quý.

Khi Nora trở về nhà sau 3 tháng thỉnh sinh ở Kentucky, nó không bao giờ trở về hoàn toàn. Thân xác nó ở nhà nhưng lòng nó thuộc về đan viện ở Kentucky. Nó yêu chúng tôi như trước và cố gắng để ở nhà. Tuy vậy, sau một hay hai ngày, nó nói với tôi, đây không còn là cuộc sống của nó nữa. Nó nói: “Con không có cuộc sống ở đây nữa; con cần đến với công việc mà Chúa dành cho con và nó không phải là ở đây nữa. Tôi bị sốc và phần nào mềm lòng bởi những lời của nó. Nhưng tận đáy sâu, tôi biết sự thật về chúng. Tôi bắt đầu chuẩn bị cho lần ra đi cuối cùng của nó vào cuối tháng 7, khi mà Nora sẽ bắt đầu năm đệ tử. Vào cuối thời gian này, nếu nó vẫn cảm thấy được gọi vào tu đan viện, nó sẽ không bao giờ trở về nhà ở Olean, New York nữa.

Những lời của Nora nhắc tôi nhớ đến lời Chúa Giêsu nói với Mẹ Maria và thánh Giuse:” Cha mẹ không biết là con phải lo chuyện của cha con sao?”. Chắc chắn những lời này làm họ đau đớn một ít, nhưng ho biết sự thật thiêng liêng sâu sắc. Giống Chúa Giêsu, Nora vâng lời theo kế hoạch ở với chúng tôi cho đến cuối tháng 7. Từ tháng 5 cho đến 26 tháng 7, khi chúng tôi trở lại Kentucky, tôi đã cầu xin sự can đảm, đức tin và tình yêu để cho con gái tôi đi, để dâng lại cho Chúa đứa con gái mà Ngài cho tôi mượn gần 19 năm nay. Đứa con gái duy nhất của tôi. Thiên Chúa đã trao con của Người cho tôi. Tôi có thể trao lại Nora xinh đẹp của tôi vào cánh tay Người không?

Tôi không dối các bạn là tôi đã khóc, đã khóc, không biết bao nhiêu lần, khi tôi nhìn vào đứa con gái đáng yêu của tôi đang lần hạt Mân Côi bên cạnh tôi mỗi tối. Nước mắt tôi trào ra khi tôi nhìn nó trong giờ Kinh sáng hay kinh Truyền tin vào ban trưa. Tôi nhớ tiếng nói và thật sự tập trung vào sự thật là nó đang ngủ vào ban đêm, an toàn trong phòng của nó, dưới mái nhà tôi. Không có ngày nào trong hai tháng này mà tôi không tranh thủ có sự hiện diện của nó. Tôi trân trọng thời gian với con gái tôi.

Tôi đã suy tư nhiều về cuộc sống chiêm niệm. Trong khi tôi vẫn lo sợ nói lời chia tay với Nora, tôi có thể hiểu hứng thú và niềm vui của nó và cả ghen tị với nó trong những lúc ồn ào hỗn loạn ở nhà hay khi làm việc. Tôi nghĩ là một phần đời sống tinh thần của tôi sẽ liên kết với Nora khi nó đến ngôi nhà mới và lời cầu nguyện của nó ở đan viện sẽ liên kết với lời cầu nguyện của chúng tôi ở nhà hay trong Thánh lễ. Tôi cầu nguyện: “Chúa yêu quý, xin cho con can đảm, niềm an ủi và tình yêu sâu sa để chúng con thực hiện điều này.”

Ngày 27 tháng 7 đã đến. Tin mừng hôm đó thực thích hợp  – mọi người tìm kiếm những viên ngọc quý và mua thửa ruộng để sở hữu gia tài. Nora đã tìm thấy tình yêu dành cho Chúa và ao ước cho Người tất cả và được Người sở hữu hoàn toàn! Con gái tôi là kho tàng ít có … viên ngọc này sẽ được kết vào chuỗi của những viên ngọc quý. Mỗi viên ngọc là duy nhất; không có viên nào đẹp hơn khác. Tất cả làm thành sự hoàn hảo của chuỗi ngọc. Tôi suy gẫm bài sách thánh này và quan sát nó với niềm vui, sự ngạc nhiên, niềm vui tỏa sáng của Nora khi trở lại đan viện. Không có điều xấu nào có thể mang đến niềm vui, bình an và sự xuất thần rõ ràng mà Nora dường như đang cảm nghiệm. Tôi cầu xin để cũng có thêm nhiều sự can đảm và niềm vui trong tôi. Chúa đã ban cho tôi những điều này. Tôi bị sốc vào buổi sáng Nora vào đan viện; niềm vui và tình yêu của nó lan truyền. Tôi không thể nghĩ về chính tôi. Tôi chỉ có thể nghĩ về niềm vui, sự vô vị lợi của con gái tôi và dâng nó cho  Chúa. Không có điều gì buồn cả. Nora vào nhà dòng với nụ cười và chúc lành của tôi và tôi vinh danh Chúa vì Người gọi con gái yêu quý của tôi. Nó thuộc về Người. Tôi và bạn cũng thế! (Aleteia  06/11/2016)

Hồng Thủy

MẸ MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

MẸ MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang 
me-maria

Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, người độc nhất vô nhị khi bước vào cuộc đời trần thế nầy, không phải như tất cả chúng ta, là nạn nhân của tội nặng tổ tông truyền; không phải như chúng ta, là nạn nhân mang án lệnh phải chết trên vừng trán công khai; không phải như chúng ta, là nạn nhân bị dìm mình trong vũng bùn nhơ  của các tình tư dục; không phải như chúng ta, là nạn nhân bị vây hãm bởi mọi mùi xú uế của bảy mối tội đầu.  Nhưng…, nhưng khi bắt đầu vào đời, trong ngay tích tắc đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ, Người Nữ Do Thái thành Nadarét nầy đã được trang hoàng rực rỡ bằng muôn vạn ân sủng vô cùng quý giá, để xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa cao sang vinh hiển, để xứng đáng làm Nữ Vương mọi loài trên trời dưới đất, ngay cả các quỷ dữ trong hỏa ngục, Đức Trinh Nữ Maria cũng đạp dập đầu dưới chân mình.

Tất cả những ai sinh ra bởi Ađam, đều mắc tội tổ tông truyền.  Chỉ trừ một mình Đức Mẹ Maria không mắc tội nầy.  Vì thế, Giáo Hội tôn kính Đức Mẹ Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội chỉ dành riêng cho một mình Đức Mẹ Maria để Ngài xứng đáng làm Mẹ Đức Chúa Trời, xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa.

Khi dựng nên tổ tông loài người là ông Ađam và bà Eva, Thiên Chúa yêu thương đã ban cho hai ông bà những ơn đặc biệt tốt đẹp: một thân xác mạnh khỏe, xinh đẹp, với một linh hồn trong sáng, kèm theo những ơn đặc biệt: không đau, không khổ, không chết; thông minh, hiểu biết, hướng thượng.   Nhất là ơn siêu nhiên thánh sủng là được thông phần vào chính bản tính của Thiên Chúa, sống đầy tràn hạnh phúc trên đời nầy, và sau khi từ giã trần gian, được về với Thiên Chúa trên Nước Trời.   Những ơn đặc biệt nầy, hai tổ tông Adam và Eva sẽ truyền lại cho con cháu được hưởng.

Nhưng than ôi, vì mắc mưu xảo quyệt của ma quỷ cám dỗ, hai tổ tông Ađam và Eva đã phạm tội chống lại Thiên Chúa là Đấng dựng nên họ.  Và hai ông bà đã làm mất tất cả những ơn đặc biệt nầy, không nhữmg làm cho mình mất đã đành, mà còn làm cho con cháu mình mất nữa.

Tội đầu tiên, ông Ađam và bà Eva phạm, gọi là Tội Tổ Tông, đã truyền lại cho tất cả con cháu loài người theo con đường sinh sản tự nhiên.   Thánh Phaolô nhấn mạnh điểm tín lý nầy trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “một người đã đem tội vào thế gian, và theo sau sự tội, là sự chết, vì thế, mọi người phải chết vì mọi người đã phạm tội.”… “vì tội một người mà sự chết do người ấy gây nên, đã thống trị loài người”…..“vì một người không vâng lời, nên đã làm cho mọi người mắc tội.” (x. Rôma 5,12-19).

Tội Tổ Tông là tội chung cho tất cả loài người do hai nguyên tổ Ađam Eva truyền lại cho con cháu mình, vì thế, ai cũng là nạn nhân của tội tổ tông truyền nầy.  Đáng lý Đức Trinh Nữ Maria, vì là con cháu của Adam Eva, nên cũng mắc tội tổ tông truyền như mỗi người chúng ta, nghĩa là sinh ra mà không có ơn thánh sủng, không có những đặc ân tự nhiên và siêu nhiên khác, bị dìm sâu trong vũng bùn nhơ của các tình tư dục và các mối tội đầu, phải chịu nằm dưới quyền thống trị của ma quỷ, phải đau, phải khổ và phải chết.  Nhưng, vì Đức Trinh Nữ Maria được Thiên Chúa thương chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa, làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhờ hưởng trước, và hưởng đầy tràn những công nghiệp vô cùng của Đấng Cứu Thế, là Con của mình sau nầy.

Đó là tín điều về Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội mà hôm nay chúng ta tuyên xưng và dâng thánh lễ mừng Đức Mẹ Maria.  Tín điều nầy đã được Đức Giáo Hoàng Piô IX long trọng tuyên bố năm 1854, cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo phải tin để cho được rỗi linh hồn: “Được đầy Ơn Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế là Con mình một cách đặc biệt, Đức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ mình, không mắc tội tổ tông truyền.”

Ôi!  Sung sướng biết bao cho chúng ta, vì Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của chúng ta, là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đẹp tuyệt vời, Mẹ không chút bợn nhơ.  Thiên Chúa đã trang điểm cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội để Mẹ xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên, xứng đáng làm Nữ Vương các thánh thiên thần và các thánh nam nữ ở trên trời, xứng đáng làm Nữ Vương mọi loài ở dưới đất.

Trong Kinh Thánh, có hai đoạn liên quan đến đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria.

Đoạn thứ nhất, trong Cựu-Ước: sách Sáng-Thế (3,15).  Sau khi hai ông bà tổ tông loài người phạm tội, Thiên Chúa liền hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người khỏi tay ma quỷ.  Thiên Chúa nói cho ma quỷ biết về một Người Nữ Đặc Biệt: “Ta sẽ đặt oán thù giữa ngươi và Người Nữ, giữa dòng dõi ngươi và Dòng Dõi Người Nữ.   Người Nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì rình cắn gót chân Người.”  Người Nữ đặc biệt mà Thiên Chúa nói đây, chính là Đức Trinh Nữ Maria sau nầy.

Qua lời tuyên bố trên đây của Thiên Chúa, chúng ta thấy có hai điều.  Một là, có một sự đối nghịch hoàn toàn giữa ma quỷ và Người Nữ nầy (vì thế, nếu Người Nữ nầy mắc tội tổ tông truyền như mọi người khác, dẫu mắc trong một giây phút mà thôi, thì Người Nữ nầy cũng không thể nào đối địch lại hoàn toàn với ma quỷ được).  Hai là, Dòng Dõi Người Nữ nầy cũng phải đối địch lại hoàn toàn với ma quỷ (vì thế, Chúa Giêsu Kitô, Dòng Dõi của Đức Trinh Nữ Maria, sẽ không chiến thắng ma quỷ hoàn toàn được, nếu Mẹ của mình là Đức Trinh Nữ Maria không được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội).

Đoạn thứ hai, trong Tân Ước: bài tường thuật Truyền Tin của thánh sử Luca mà chúng ta nhắc đi nhắc lại mỗi ngày ba lần qua kinh Nhựt Một.  Theo lời thiên sứ Gabirie khi truyền tin Đấng Cứu Thế, chúng ta thấy có ba điều nói lên đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria.  Một là, Đức Mẹ được đầy ơn Chúa ban (Kính Mừng Maria đầy ơn phước!): nếu Đức Mẹ mắc tội tổ tông truyền, thì Đức Mẹ không thể nào được đầy ơn phước được.  Hai là, Đức Mẹ luôn được Chúa ở cùng (Đức Chúa Trời ở cùng Bà): Đức Chúa Trời là Đấng vô cùng thánh thiện, hằng ở với Đức Mẹ, thì Đức Mẹ làm sao mắc tội tổ tông truyền được.  Ba là, Đức Mẹ là Người Nữ diễm phúc hơn hết trong loài người (Bà có phước lạ hơn mọi người nữ): phước lạ hơn tất cả mọi người, ở đây, là phước lạ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Như vậy, khi thiên sứ Gabrie được Thiên Chúa sai từ trời xuống thành Nadarét, miền Galilêa, thuộc nước Do Thái, đến với Người Thanh Nữ Do Thái thành Nadarét, và cung kính chào: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ”, thì cũng giống như thiên sứ chào Đức Mẹ rằng: “Kính chào Bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”

Năm 1854, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra tại Lộ Đức, nước Pháp, cho trẻ gái nhỏ Bênêđétta và xưng rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội!”

 Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con đầy tràn tin tưởng vào Mẹ: chúng con tin rằng, dù quyền phép vô cùng, Thiên Chúa cũng không thể nào dựng nên một ai cao trọng hơn Mẹ được; dù cao sang vô biên, Thiên Chúa cũng không thể lấy gì để ban thêm cho Mẹ, hơn là Ơn ban cho Mẹ được Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con là những kẻ tội lỗi đang chạy đến cùng Mẹ.  Chính vì Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, thương loài người tội lỗi chúng con, nên mới ban cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội để Mẹ trở nên Mẹ Đức Chúa Trời, và cũng là Mẹ của chúng con.  Chúng con tin rằng trên đời nầy, không ai có lòng trông cậy chạy đến cùng Mẹ, mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời.

 Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho chúng con biết sống xa lánh tội lỗi, Xin cho lòng tin của chúng con vào Chúa được luôn luôn mạnh mẽ.  Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, luôn trung thành theo Chúa cho đến cùng.

  Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cầu cho chúng con.  Amen!

Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang 

Langthangchieutim gởi

Đêm về trên bánh xe lăn

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 2 mùa Vọng Năm A 04/12/2016

 “Đêm về trên bánh xe lăn “
Tôi trăng viễn xứ, hồn thanh niên vàng
Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố, sương quàng cổ cây
Ngỡ hồn tu xứ mưa bay
Tôi chiêng trống gọi, mỗi ngày mỗi xa.”

(Thơ: Du Tử Lê/Nhạc: Phạm Đình Chương – Đêm Nhớ Trăng Sàigòn)


(2Cor 7: 10)

 Trần Ngọc Mười Hai

Chao ôi! Rõ thật là âm nhạc rất “về đêm” và đêm về! Về đâu không về, sao cứ về “trên bánh xe lăn” lại rất đêm? Về thế rồi, bạn lại hát: “tìm tôi đèn thắp hai hàng”, “Lạc nhau cuối phố”, “mỗi ngày mỗi xa”. Ối chà! là nhạc buồn. Buồn thấm-thía biết chừng nào! Khiến bạn và bầy tôi đây vẫn hát những câu tiếp sau đây:

“Đời tan, tan nát chiêm bao.
Tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào.

Đêm về trên chiếc xe qua.
Nhớ tôi xa lộ, nhớ nhà Hàng Xanh.
Nhớ em, kim chỉ khứu tình.
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre.
Nhớ mưa, ôi nhớ mưa !

Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè.
Nắng Trương Minh Giảng, lá hè Tự Do.
Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè.
Nhớ pho tượng lính, buồn se bụi đường.”

(Du Tử Lê/Phạm Đình Chương – bđd)

Lại một nhạc bản đến là buồn nghe được ở buổi “Hát Cho Nhau Nghe” vào đêm ấy, tối mồng 5 tháng 11 năm 2016 ở Sydney một ngày cũng khá nóng. Cái nóng về đêm cộng thêm bài hát cũng khá sầu/buồn phổ trên thơ Du Tử Lê, ôi thôi là da diết. Vâng. Dù không muốn thế, cũng vẫn có thêm một thứ tình buồn rất “về đêm”.

Buồn hơn nữa, là khi bạn bè truyền cho nhau đọc một đoạn ngắn cuốn sách được tờ New York Times đánh giá là sách bán chạy nhất trong năm 2005 có đầu đề là: “Misquoting Jesus, the Story Behind Who Changed the Bible and Why?” của Bart D. Ehrman. 

 Và, chuyện Thánh Kinh được tóm gọn ở phần dẫn nhập vào cuốn sách, có lời buồn sau đây:

“Sách thánh xuất hiện trước mắt tôi như một cuốn sách rất ư từ con người. Chỉ như là do các vị kinh-sư/thông luật người phàm từng ghi chép và biến-đổi rất nhiều điều từ Kinh Sách, nên cũng thế: các tác-giả là phàm-nhân, tự ban đầu, cũng viết lên những điều như thế. Đây là cuốn sách hoàn-toàn mang tính nhân-loại từ đấu chữ đến cuối giòng. Sách này được các tác-giả là con người từng ghi chép vào thời khắc và nơi chốn khác nhau đề-cập đến những nhu-cầu khác nhau. 

 Dĩ nhiên, nhiều tác-giả trong đó đã được Thiên-Chúa tạo hứng-khởi để nói những gì các ngài làm, nhưng họ vẫn có tầm nhìn tư riêng, niềm tin riêng rẽ, lập-trường riêng, nhu-cầu riêng, ao-ước riêng, hiểu biết cũng rất riêng về nền thần-học của riêng họ. Và những tầm nhìn, cũng như niềm tin, quan-điểm, nhu-cầu, ước-ao, hiểu-biết và nền thần-học này đã cho họ biết những gì họ nói ra. Khi viết những điều này, các tác-giả đều khác nhau rõ rệt.

 Điều đáng buồn là: ngày nay, vẫn còn rất nhiều tín-hữu đến triệu triệu người cứ nghĩ rằng ta có thể hiểu Kinh thánh từng chữ, nghĩa đen theo kiểu tác-giả được thần-hứng viết lên những lời tiên-đoán sẽ xảy đến rất mau chóng hệt như lịch-sử từng diễn-tiến giống hệt thế…” (X. Bart D. Ehrman, Misquoting Jesus, the Story Behind Who Changed the Bible and Why, HarperOne 2005, tr. 11-13)

Thế đó, là nỗi buồn của một số người nhà Đạo, không chỉ “về đêm” hay “đêm về”, mà thôi. Nhưng, đây còn là nỗi buồn nhiều thuở của người đọc, khi khám-phá ra nhiều thứ khá “lộn xộn” ở chốn miền êm-ấm, rất Thánh Kinh.

Hệt như giai-điệu trầm/buồn ở trên mang nhiều từ-vựng không vui, như: “Nhớ pho tượng lính, buồn xe bụi đường”, hôm nay, nhân lục tìm đống sách/báo lấm bụi, trong đó có bức thư của nhà mô-phạm nọ ở Melbourne, có thư cho Nữ Hoàng Êlizabeth, như sau:

“Trong kính Nữ Hoàng của thần dân tôi,

 Viết thư này, thần dân đây muốn dâng lên ngài đôi lời chúc mừng nhiệt-nồng không phải về chuyện ngài đã trị-vì triều-đại dài lâu nhất nước Anh, nhưng vì một lý-do riêng-tư, thâm trầm hơn. Bởi, năm tới đây 2017, ngài sẽ được chúng-dân long-trọng tổ-chức buổi kỷ-niệm 70 năm ngài thành-lập gia-thất với Quận Công Phillip, tức Đức lang-quân yêu-dấu của ngài.  

 Dĩ nhiên là, thần dân đây cũng đính kèm các lời chúc tốt lành cho những ngày sắp tới của ngài. Trong bảy thập-niên vừa qua, ngài đã an-táng Hoàng-thái-hậu và Thái-thượng-hoàng của ngài và cũng đã mục-kích ba trong số bốn người con của ngài phải trải qua cơn chấn-động và buồn đau đi đến quyết-định phải ly-dị người bạn đời. Thần dân chúng tôi, vốn dĩ tưởng-tượng rằng các cháu của ngài, giống như hàng triệu người khác, đã học được bài học về cuộc sống gia-đình luôn vô cùng phức-tạp.

 Người xưa có câu ngạn-ngữ bảo rằng: cuộc sống con người càng phô-trương ra ngoài công-chúng bao nhiêu thì người sống cuộc sống ấy càng phải trở-thành tư-riêng, kín-đáo bấy nhiêu. Điều này chắc chắn áp-dụng cho ngài. Thần dân chúng tôi không thể nhìn vào đồng tiền kẽm mà không thấy hình-ảnh của ngài. 

 Thế nhưng, bất kỳ một ai từng lập gia-đình đều biết rằng hình-ảnh bên ngoài ít giống thực sự thật bên trong. Hôn-nhân là bí-tích của một thực-tại. Tất cả mọi hôn-nhân đều là chuyện bí-nhiệm đối với người đứng ở ngoài và đôi lúc còn bí-hiểm cả với chính vợ chồng nữa. Hôn-nhân không được thiết-lập để sống ở trên trời, nhưng được làm thành từ hạnh-phúc vô-vàn không kể xiết, ở dưới đất.

 Cách đây vài năm, thần dân tôi có gặp một mục-sư thuộc Giáo hội Tô-Cách-Lan được yêu cầu hướng-dẫn nghi-lễ ngày Chúa Nhật mà hôm ấy đáng lý ngài đến dự, ở Balmoral. Điều này có nghĩa là ông ta đã được mời lưu lại tại căn-hộ của ngài vào tối Thứ Bẩy và san sẻ dạ yến với ngài và Quận công Phillíp. Mục-sư Gioan đã ngần-ngại trong đôi chốc vì thấy không thoải-mái với các bộ lễ-phục của hoàng-gia. Ông không tin vào các vương-triều của người phàm dưới thế này. Nhưng cuối cùng, rồi thì ông cũng đã chấp-nhận một phần vì tò-mò, phần kia vì ông cũng đoán trước được là dạ-tiệc ấy sẽ rất ngon.

 Mục-sư Gioan đã sững-sờ khi khám-phá ra rằng căn-hộ riêng-tư của ngài ở Balmoral thật ra là thứ gì đó giống hệt như căn phòng dành riêng ở sau nhà gồm đầy đủ phòng khách trải nhựa dẻo đã hết thời. Khi giờ tiệc đã tới, Quận công Phillíp đã bồn-chồn bước vào nhà bếp nhỏ, lấy nước cho vào nồi rồi mở gói mì ống kiểu Ý “spaghetti” bỏ vào nấu. Khi món mì lục bục sôi, ngài quận công đã phải lúng túng mở nắp lọ nước chấm ăn mì, là loại gia-vị ta có thể mua tại bất cứ siêu-thị nào khác. Đó là bữa ăn tối khá giản-dị

 Thần dân đây tin rằng ngài và quận công Phillíp đã tự rửa chén/dĩa và hỏi mục-sư Gioan xem ông ta có muốn xem truyền-hình, thì ông này bảo: ông đang phải soạn bài chia sẻ, nên thật sự ông thấy cũng nên đưa chuyện này vào bài giảng. Mặt ngoài thì ngài và quận công Phillíp hôm ấy cũng đã cằn nhằn nhau về tình-trạng muỗng/nĩa ở nơi đó. 

 Thần dân bề tôi đây cảm thấy thích-thú được nghe chuyện này vì nó cho thấy ngài và quận-công đã có mối tương-quan thực-thụ. Những người được ta thương mến nhiều nhất lại là những người thường hay làm phiền ta không ít. Tình thương luôn năng-động, lúc nào cũng di-động và tiến-triển giữa việc giữ lại để ghi tỷ-số và để cho đi, giữa việc giữ lại cho mình mọi điều tốt đẹp và cho đi. Quyền lực cứ hỏi: “Có gì trong đó để cho tôi không?’ Tình thương, là hỏi rằng: “Có ai ở đó với tôi không?” Hôn-nhân nào cũng thế, vẫn luôn có lúc hai vợ chồng đều xào-xáo nhau.

 Trong thông-điệp Giáng sinh mới đây nhất của mình, ngài có nói đến thông-điệp Đức Giêsu nói về tình-yêu và lòng xót thương, khi bảo rằng:

 “Dù cứ di-chuyển và bị bách-hại suốt cuộc đời ngắn-ngủi của Ngài, thông-điệp Đức Giêsu vẫn không thay-đổi là ta không được phép trả-đũa hoặc gây bạo-lực cho ai hết, mà Ngài chỉ khuyên ta có mỗi điều là hãy yêu thương lẫn nhau. Dù đây không là thông-điệp dễ thực-thi, chúng ta cũng không nên tỏ ra chán-nản; đúng hơn, điều Ngài nói tạo hứng để ta cố-gắng nhiều hơn. Sống biết cảm-kích những người đem tình-yêu và hạnh-phúc đến với cuộc sống của chính chúng ta, và tìm cách phổ-biến tình-yêu ấy đến với mọi người, bất cứ khi nào và ở bất cứ chỗ nào ta làm được.

Tôi nắm chắc  rằng việc ta đáp trả mọi vấn-đề lớn của thế-giới đều chịu ảnh-hưởng thật sâu đậm từ tình-yêu ta trải-nghiệm trong tương-quan mật thiết nhất của ta với người khác. Thần dân đây cảm-kích thật đậm sâu về tình thương-yêu trìu mến của những người thương yêu chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng tầm nhìn của ngài về niềm tin-yêu và sự công-chính cũng sẽ được thể-hiện bằng tình-yêu, giống hệt thế.

 Trọng kính ngài,

Michael McGirr                                    

(X. Michael McGirr, A Letter to the Queen, The Australian Catholics số Phục Sinh 2016, tr. 12)

Ôi chao! Là thư-từ viết rất hay và cũng thực-tế. Thực-tế/hấp-dẫn hơn cả bài giảng-thuyết ở nhà thờ nhà thánh của các đấng “lờ mờ” không kết-đoạn, cũng khá buồn!

Vậy thì, chuyện sầu/buồn ở đời, đôi lúc cũng chỉ là chuyện cỏn con/chóng vánh, rất mau qua. Bởi, theo quan-niệm của nhà Phật thì “tứ diệu-đế” vẫn là thứ “cơ-duyên tạo buồn/vui nơi đời người. Có vùng-vẫy cho lắm con người càng lún sâu trong “Vũng Lầy Của Chúng Ta” như ca nhạc sĩ Lê Uyên và Phương từng nghĩ đến.

Muốn sống vui, sống mạnh sống vững chãi trong chốn ngày buồn là cuộc đời người, chi bằng ta cứ đi vào vùng trời truyện kể để quên đi những nét chấm phá sầu buồn, mà vui sống. Vậy thì, mời bạn/mời tôi, ta cứ kể cho nhau truyện vui/buồn lẫn lộn ở đời, dù đã hơn một lần được kể, như sau:

“Có một chàng trai bị bệnh ung thư. Chàng mới 19 tuổi, nhưng có thể chết bất kỳ lúc nào vì căn bệnh quái ác này. Suốt ngày, chàng trai phải nằm trong nhà, được sự chăm sóc cẩn thận đến nghiêm ngặt của bố mẹ. Do đó, chàng trai luôn mong ước được ra ngoài chơi, dù chỉ một lúc cũng được.


Sau rất nhiều lần năn nỉ, bố mẹ cậu cũng đồng ý. Chàng trai đi dọc theo con phố- con phố nhà mình mà vô cùng mới mẻ- từ cửa hàng này sang cửa hàng khác. Khi đi qua một cưả hàng bán CD nhạc, chàng trai nhìn qua cửa kính và thấy một cô gái. Cô gái rất xinh đẹp với một nụ cười hiền lành – và chàng trai biết đó là “tình yêu từ ánh mắt đầu tiên”. Chàng trai vào cửa hàng và lại gần bàn cô gái đang ngồi. Cô gái ngẩng lên hỏi:

-Tôi có thể giúp gì được cho anh?

Cô gái mỉm cười, và đó là nụ cười đẹp nhất mà chàng trai từng thấy.

-Ơ…chàng trai lúng túng.

-Tôi muốn mua một CD…

Chàng chỉ bừa một cái CD trên giá rồi trả tiền.

-Anh có cần tôi gói lại không ? Cô gái hỏi, và lại mỉm cười.

Khi chàng gật đầu, cô gái đem chiếc CD vào trong.

Khi cô gái quay lại với chiếc CD đã được gói cẩn thận, chàng trai tần ngần cầm lấy và đi về.

Từ hôm đó, ngày nào chàng trai cũng tới cửa hàng, mua một chiếc CD và cô gái bán hàng lại gói cho anh.


Các dĩa CD đó, cháng đem về nhà và cất ngay vào tủ.


Anh rất ngại, không dám hỏi tên hay làm quen với cô gái.


Nhưng cuối cùng, mẹ anh cũng phát hiện ra việc này và khuyên anh cứ nên làm quen với cô gái xinh đẹp kia.


Ngày hôm sau, lấy hết can đảm, chàng trai lại đến cửa hàng bán CD, rồi khi cô gái đem chiếc CD vào trong để gói, anh đã để một mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của mình lên bàn. Rồi anh cầm chiếc CD đã được gói- như tất cả mọi ngày- đem về.

Vài ngày sau…

Reeeeeeeeeeeeeeng !!!.

Mẹ chàng trai nhấc điện thoại:

-Allô?

Đầu dây bên kia là cô gái ở cưả hàng bán CD. Cô xin gặp chàng trai nhưng bà mẹ òa lên khóc:
-Cháu không biết sao? Nó đã mất rồi…hôm qua…

 Im lặng một lúc. Cô gái xin lỗi, chia buồn rồi đặt máy. Chiều hôm ấy, bà mẹ vào phòng cậu con trai. Bà muốn sắp xếp lại quần áo cuả cậu, nên đã mở cửa tủ. Bà sững người khi nhìn thấy hàng chồng, hàng chồng CD được gói bọc cẩn thận, chưa hề được mở. Bà mẹ rất ngạc nhiên, cầm một cái lên, mở ra xem. Bên trong lớp giấy bọc là một chiếc CD cùng với một mảnh giấy ghi: “chào anh, anh dễ thương lắm. 

Jacelyn”
Bà mẹ mở thêm một cái nữa. Lại thêm một mảnh giấy ghi: “Chào anh, anh khoẻ không? Mình làm bạn với nhau nhé?

Jacelyn”

Một cái nữa, thêm nữa… trong mỗi cái CD là một mảnh giấy…..” (Câu truyện kể đi kể lại cũng nhiều lần)

Và, một truyện khác vui/buồn tuỳ người đọc đánh giá và nhận-định, như sau:

 “Người ta thường nói “có mà không giữ, mất đừng tìm”, vậy nên đừng bao giờ làm những điều khiến chúng ta phải hối hận. Hãy nhớ rằng hạnh phúc luôn dành cho những người biết nâng niu và hiểu được giá trị của tình yêu!

 Có một chàng trai chia tay bạn gái đã lâu, mặc dù đã thử quen người mới nhưng vì tính cách không hợp nên sau cùng anh vẫn cô đơn. Một ngày nọ, trong lúc sửa soạn đồ đạc để chuyển nhà, anh tìm thấy lọ sao giấy – món quà kỷ niệm 1000 ngày yêu của người bạn gái cũ. Chàng trai bỗng nhớ lại lời nhắn của cô gái trước khi chia tay:

 “Nếu có một ngày chúng mình không còn bên nhau nữa, anh hãy tháo những ngôi sao giấy mà em gấp tặng anh ra nhé!”

 Khi ấy, chàng trai cho rằng đó chỉ là lời nói vu vơ của cô người yêu hay giận dỗi nên chẳng mấy để tâm. Vả lại, “ai mà đủ kiên nhẫn để tháo 1000 ngôi sao ra cơ chứ!” – chàng trai tự nhủ. Thế nên hôm đó anh cất lọ sao giấy vào một góc và không bận tâm về nó nữa.

 Chàng trai suy nghĩ một lúc rồi lấy một ngôi sao giấy trong lọ và tháo nó ra. Một ngôi sao, hai ngôi sao, ba ngôi sao… Anh tháo đến ngôi sao thứ hai mươi rồi mà chẳng thấy có gì bên trong. Anh không còn đủ kiên nhẫn nữa. “Sao mình lại làm điều ngớ ngẩn này chứ!”, anh nghĩ và quyết định sẽ chỉ tháo thêm một ngôi sao nữa thôi.

 Anh tháo từng nếp gấp của ngôi sao và lần này anh thấy trên mảnh giấy dùng để gấp sao hiện lên dòng chữ nắn nót:

 “Anh thương yêu! Em hy vọng anh chẳng bao giờ đọc được những dòng này, vì như thế nghĩa là mình vẫn còn yêu nhau”.

 Chàng trai lặng người, rồi anh tiếp tục tháo những ngôi sao còn lại. Anh nhận thấy quá nửa trong số chúng chẳng được viết gì. Mỗi lần thấy ngôi sao có chữ là anh lại hồi hộp như trẻ con mở quà.

 Chàng trai rất kiên trì mới tháo được hết 1000 ngôi sao, nhưng anh cũng biết khi cô gái viết lời nhắn rồi gấp sao thì còn phải kiên trì gấp nhiều lần hơn thế. Chàng trai hết sức cảm động, những dòng chữ trên giấy gấp sao khiến tim anh đau nhói, anh ngỡ mình có thể khóc ngay được nhưng vẫn cố kìm nén, không để nước mắt rơi.

 Cô gái viết rất nhiều. Tất cả giống như một cuốn nhật-ký-tình-yêu thu nhỏ. Trong đó có những lời nhắn nhủ yêu thương, những câu nói hỏi han quan tâm, đôi khi chỉ là vài câu kể lể hay nhắc nhớ về ngày kỷ niệm tình yêu, cũng có những câu hờn giận vu vơ…

 “Anh thương yêu! Em ước gì mình được ở bên anh lâu hơn một chút. Xa anh buồn lắm!”

“Anh ơi! Mình đã yêu nhau được 821 ngày rồi đó. Có anh em hạnh phúc biết bao!”

 “Anh của em hãy kiên cường lên nhé, vì có em luôn ở bên ủng hộ anh mà!”

“Anh đừng buồn nha anh, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi mà. Anh sẽ vượt qua tất cả, hãy tin em!”

 “Em bỏ trống những ngày mình giận nhau vì những điều không vui tốt nhất nên quên đi, em sẽ không nhắc lại”.

 “Hôm nay là sinh nhật em, điều em mong nhất là nhận được lời chúc của anh, nhưng chắc anh bận mất rồi…”

 “Hôm nay anh lại làm em khóc, nhưng em đã hứa rồi nên sẽ không giận anh đâu”.

“Anh này, dạo này anh có vẻ lạnh nhạt với em quá… Em thì nhớ anh lắm lắm, anh biết không!”.

 Cứ thế cứ thế, những hồi ức ngày yêu ùa về khiến chàng trai không khỏi bồi hồi, nhớ tiếc. Chàng trai nghĩ lại, quả thực trong thời gian yêu nhau anh đã rất vô tâm, nhiều lần khiến người yêubuồn và khóc. Anh thậm chí còn chẳng an ủi dỗ dành, vì anh biết cô bạn gái của mình sẽ chẳng giận được lâu. Và thế là anh để mất cô từ lúc nào chẳng hay. Giờ đây anh vô cùng hối hận, anh tháo từng ngôi sao mà tay cứ run run.

 Ngôi sao cuối cùng to hơn hẳn các ngôi sao khác, chàng trai đoán ngôi sao này được gấp sau cùng, bởi loại giấy hoàn toàn khác những ngôi sao còn lại. Trong đó, cô gái viết:

 “Anh thương yêu! Em chỉ có thể chờ anh ba năm thôi, nên nếu còn thương em thì hãy sớm tìm em anh nhé. Yêu anh!”

 Chàng trai xem lịch, đã ba năm hai tháng kể từ ngày hai người chia tay. Anh vội vàng tìm đến nhà người yêu cũ vì anh hiểu ra rằng mình vẫn còn thương cô ấy rất nhiều, chỉ là anh không dám thừa nhận mà thôi.

 Nhưng cô gái vừa chuyển đến một nơi rất xa, bên người chồng mà cha mẹ mối mai. Cô kết hôn để làm vui lòng cha mẹ, cũng bởi chờ đợi quá lâu khiến cô mệt mỏi và cô đã thôi hy vọng. Chàng trai lặng lẽ ra về, âm thầm trách móc bản thân nhưng mọi thứ giờ đây đã quá muộn, chẳng thể thay đổi được nữa.

 Bạn thấy đấy, trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cứ mải mê kiếm tìm điều gì đó xa xôi, mà chẳng mấy để tâm hay trân trọng những điều mình đang có. Chỉ đến khi mất đi rồi, chúng ta mới hiểu được những điều ấy có ý nghĩa và quan trọng với chúng ta đến nhường nào. 

Có những khi hạnh phúc ở thật gần nhưng chúng ta không tự mình nắm giữ mà cứ theo đuổi mãi những giấc mộng viển vông. Có khi hạnh phúc ở ngay trước mắt mà chúng ta không mảy may trân trọng, để rồi khi hạnh phúc ra đi mới ngậm ngùi nuối tiếc, tự trách móc và dằn vặt bản thân. Nhưng khi ta nhận ra thì mọi thứ đã quá muộn màng bởi hạnh phúc không còn bên ta nữa.

 Hạnh phúc thật ra chẳng quá đỗi xa xôi như người ta vẫn nghĩ, chỉ bởi vì chúng ta không biết cách trân trọng mà thôi. Người ta thường nói “có không giữ, mất đừng tìm”, vậy nên đừng bao giờ làm những điều khiến chúng ta phải hối hận về sau. Hãy nhớ rằng hạnh phúc luôn dành cho những người biết nâng niu và hiểu được giá trị của tình yêu! (Theo TTT)

Có âu sầu/buồn bã mấy đi nữa, bạn và tôi, ta cũng hãy trở về với khu vườn gồm lời khuyên-răn từ các bậc thánh-hiền, những bảo rằng:

“Quả vậy, 

nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa 

làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: 

đó là điều không bao giờ phải hối tiếc; 

còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết. 

Hãy xem nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa 

đã đem lại cho anh em những gì: 

bao nồng nhiệt, 

và hơn thế nữa, bao lời xin lỗi, ân hận, sợ hãi, 

bao ước mong, nhiệt tình, hình phạt…”

(2 Côrinthô 7: 10)

 Trong mối tương-quan với mọi người, ở đời, rất nhiều nơi toàn thấy những người hang say độ-lượng, từng cho đi chính con người của họ. Rộng-lượng, cả vào tư-thế biết thứ-tha những người từng làm cho họ sầu/buồn nữa.

Tương-quan với mọi người ở trong đời, còn dạy ta những kinh-nghiệm quí-giá lại cũng là quà tặng ta dành sẵn cho người khác. Gửi đến người khác. Bởi lẽ, bao lâu bạn và tôi quên mất mục-đích chính của cuộc sống là “cho đi” chứ không phải “thu thập” vào mình tấ cả mọi thứ. Thì, khi đó ắt hẳn ta sẽ vui lên mà sống những tháng ngày còn lại trong đời mình.

Trong nhận-thức như thế, vẫn mời bạn và tôi, ta cứ hát lên những ca-từ “tưởng-rằng-buồn” nhưng lại vui hơn bao giờ hết, như sau:

“Đêm về trên chiếc  xe qua
Nhớ tôi xa lộ, nhớ nhà Hàng Xanh
Nhớ em, kim chỉ khứu tình
Trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
Nhớ mưa, ôi nhớ mưa !

Nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
Nắng Trương Minh Giảng, lá hè Tự Do
Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè
Nhớ pho tượng lính, buồn se bụi đường.”

(Du Tử Lê/Phạm Đình Chương – bđd)

Vâng. Đúng thế. Có nhớ gì thì nhớ, dù “pho tượng lính” , “Mưa buồn khắp Thị Nghè” hoặc “Nắng Trương Minh Giảng” hay “Lá hè Tự Do” đi chăng nữa, vẫn cứ thế mà sống cho vui, cho mạnh, cho phấn-chấn mãi không thôi.

Trần Ngọc Mười Hai

 Chẳng dám nói hay hơn người

Vẫn cứ cảm-nghiệm nhiều ngày buồn, 

rất khôn nguôi.

Ta thấy mùa đông chưa tuyết trắng

 ĐÊM NHỚ TRĂNG SÀI GÒN – Phạm Đình Chương – Vũ Khanh – NNS

httpv://www.youtube.com/watch?v=NRGCw13eQb8

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 2 mùa Vọng năm A 04/12/2016

 Tin Mừng (Mt 3: 1-12)

Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Ông chính là người đã được ngôn sứ Ysaya nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Ngài cầm nia, Ngài sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

“Ta thấy mùa đông chưa tuyết trắng

sao người về như sợi tóc phai sương?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 Mai Tá lược dịch.

Chúa đã về. Ngài về, như sự kiện rất thật. Nhưng, nào ai thấy phai sương, vương sợi tóc? Rất đợi chờ? Ngài về, để mọi người đợi trông. Ngóng chờ, Ngài Giáng hạ làm người phàm.

Tin Mừng, nay loan báo thuở đầu đời Chúa đi vào hoạt động. Với sử gia Hy Lạp, ngày mà Ngài hoạt động, khởi từ niên biểu 15, theo niên lịch César Tiberius. Lúc, mà Pontiô Philatô làm Tổng trấn xứ Giuđêa. Hêrôđê làm vua xứ Galilê. Anna và Caipha làm thượng tế. Như thế là, thánh sử định vị được niên biểu 27-28 cho là năm Chúa xuất hiện lần đầu trước chúng dân. Lúc, Ngài trưởng thành. Để rồi, theo lịch Do thái, Ngài tử nạn vào năm 30. Và như thế, các sử gia Công giáo đã đồng ý: năm sinh của Chúa là niên biểu thứ 4 hoặc 3, trước Công nguyên.

Tuy nhiên, điều quan trọng không là ngày tháng năm sinh, của chính Ngài. Mà là, cung cách Ngài hạ sinh giống hệt như ta. Và, Ngài hạ sinh không chỉ một lần, với mọi người. Mà, là mỗi năm, Ngài sinh hạ, nơi tâm can mọi người và mỗi người.

Phụng vụ Chúa Giáng hạ vào mùa dân con đợi chờ, lại đã trích Tin Mừng trong đó ghi rõ một truyện kể về thánh Gioan. Trích và ghi, là để xác chứng sự kiện Thanh tẩy ở khu Qumran. Tại đó, thánh Gioan lập phép thanh tẩy để Chúa đến với mình. Và, coi đó như nghi thức giải hoà, chứ không là cung cách của nghi lễ ở Đền Thờ. Và, chuyện thánh Gioan tẩy rửa Chúa được sử dụng để nối kết con người bình thường với nhận thức rất chuyên sâu về Đạo. Nhận thức, theo đúng truyền thống Do-thái-giáo.

Phương-cách mà thánh Gioan sử-dụng, lại đã thu hút chúng dân quyết bước theo chân thánh nhân để đi vào chốn sa mạc nắng cháy, ở đó khi xưa Jôshua cũng thực hiện việc khuyến khích dân được chọn biết mà theo Chúa ngang qua giòng sông Giođan, mà đến đất hứa. Thánh Gioan làm thế, để phản đối giới cầm quyền La Mã đương thời đã chiếm đoạt quyền sở hữu đất đai, của Do thái. Tức, một hành xử tuy thuộc Đạo giáo, nhưng cũng mang tính chất chính trị.

Với tham vọng như thế, thánh Gioan đã dấy lên một khí thế bất đồng, quyết nghịch chống các hoạt động của vị thượng tế, ở Đền Thờ. Kế hoạch của thánh nhân, tuy không nhằm đổi thay thể chế chính trị, mà chỉ nhằm thánh hoá dân tình theo phương cách mà người Do thái tìm cách thực hiện, nhưng không được. Thánh Gioan chẳng hề đổi thay một thể chế nào hết. Nhưng, thánh nhân chỉ muốn dân con mọi người hãy làm điều mà lẽ đáng ra mọi người đều phải làm cho tốt, chứ không chỉ chăm chú vào việc mình đang làm, vì bổn phận.

Thánh Gioan làm thế, chẳng để nghịch chống lối sống theo gia đình, hoặc định chế nào khác mà người Do thái đã tạo ra. Sự thật, thì động lực thúc đẩy thánh nhân thực hiện đời sống mục vụ nơi sa mạc, là để thăng tiến sự thánh thiêng đích thực mà dân Do thái cần có. Thánh nhân không làm theo kiểu của thành viên nhóm Pharisêu chuyên trập trung áp đặt Luật Torah trong đời sống hằng ngày. Trái lại, thánh nhân chủ trương cung cách tĩnh lặng của cuộc sống nơi sa mạc ngõ hầu cải hoá cuộc đời mình, như Chúa muốn.

Công việc thánh nhân làm, là động thái cốt thực hiện một cuộc xuất hành về đất hứa, ngang qua sa mạc của mọi trắc trở khổ đau. Đó, là động thái đòi chế ngự phần đất do người La Mã tạm thời chiếm lĩnh. Thánh nhân khuyến khích mọi người hãy theo ngài về nơi hoang dã, để sống xứng hợp với Đất Lành Chúa hứa ban. Rõ ràng là, những người theo chân thánh nhân vẫn sẵn sàng đón nhận sứ điệp ngài gửi đến. Rõ ràng là, nhiều người không chỉ là cư dân sống gần Qumran, mà hầu hết những từ người khắp đất miền/thị trấn đã đến thành từng đoàn. Những người từng nắm bắt lập trường sống của thánh nhân.

Chừng như, lúc ấy Đức Giêsu cũng đang ở đó. Ngài hành xử theo cung cách của Đấng Bậc được thanh tẩy, như thánh Gioan. Cũng giảng rao Nườc Trời như sứ vụ Ngài nhận lãnh. Có điều lạ, là: Chúa nhận lĩnh ơn thanh tẩy từ thánh Gioan, là để cho mọi người thấy: đây là một cải tân, không chỉ xảy ra duy một lần, rồi thôi. Và, nhìn từ góc độ nào đó, ơn thanh tẩy từ thánh Gioan, còn nói lên sự kiện “Chúa khởi đầu đời hoạt động của Ngài theo tư cách của Ngôn sứ Đấng Cứu Độ”.

Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, không chỉ diễn lại tiến trình gặp gỡ giữa thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Chúa, thôi. Đây cũng không là dịp để thánh nhân nói lên công trình cứu độ đã thành hiện thực nơi Đức Chúa. Nhưng, còn là sự kiện cho thấy có cả những tương đồng cũng như khác biệt giữa thánh Gioan và chính Ngài.

Tương đồng thấy rõ nhất, là ở điểm: cả Đức Chúa lẫn thánh Gioan đều đề cập đến Vương Quốc Nước Trời, có hẹn ước. Cả Chúa và thánh nhân, đều là Đấng Công Chính. Và, đất lành người Do thái muốn thủ giữ, nay thuộc về Đấng Công Chính. Đất lành Ngài hứa ban, buổi đầu là cho các bộ tộc, rất chính đáng. Luật Torah và các ngôn sứ đều kình chống nỗ lực của một số người vẫn muốn sở hữu thật nhiều đất đai và quyền lực.

Kình chống, là bởi: càng ngày người ta càng thấy có người cứ cậy vào quyền mình có để giành quyền sở hữu đất đai/tài sản của người nghèo, mà con số những người này đang gia tăng một cách đáng kể. Theo luật, thì đất đai do Chúa sở hữu, con người không có quyền bán chác, đổi trao. Thế nên, hoạt động của Chúa ở đây, là để tái tạo sự công bình/chính trực, ở khắp nơi.

Công bình, hiểu theo nghĩa giảm bớt những chuyện đổi chác/bán buôn, rất lố lăng. Công bình, hiểu theo ý thức trách nhiệm qua việc “xoá tẩy” đói nghèo, sầu khổ để rồi, cuối cùng, Nước Trời rồi sẽ đến. Không phải vào ngày cánh chung. Nhưng, Vương Quốc Nước Trời đến rất sớm ngay lúc này.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa và thánh Gioan xảy đến vào lúc Chúa vừa tròn độ tuổi 30. Đó là lúc Chúa quyết định rời gia đình. Bỏ chốn thị thành cùng mọi người, để tiến tới thực hiện ý định Cha giao phó. Ngài quyết định, là để định ra một động thái hợp lực với thánh Gioan. Để, sau một thời gian, Ngài sẽ lại tự mình theo con đường Cha dọn sẵn, muốn Ngài thực thi.

Một điểm khác biệt nữa, giữa động thái của thánh Gioan và Đức Giêsu, là ở chủ trương đặt nặng lên nghi thức rất thánh thiêng, về Đấng Mêsia. Đức Giêsu quyết định về với những người con bé bỏng, nghèo hèn. Sống, hoà lẫn với họ, mà không sợ một rào cản, cách ngăn nào hết. Ngài về với họ trong tương quan rất trọn vẹn. Tương quan Ngài tạo nên, là kết quả rút từ kinh nghiệm có cuộc sống linh thiêng, sau khi chấp nhận thanh tẩy dành cho Ngài, từ thánh Gioan. Nhờ thanh tẩy, Ngài phát hiện ra ý định của Cha, vẫn dành cho Ngài. Và, khi dân con mọi người sống trong công lý và bình an như Cha đã định, thì Vương Quốc Nước Trời, được Cha hứa ban, đã thành hiện thực. Một hiện thực thấy rõ qua hình thức chữa lành mọi tật bệnh qua phép lạ nhân rộng những cá và bánh.

Và, qua các dụ ngôn Ngài kể cho mọi người được biết. Tất cả, nay được tái thành lập trong sinh động cả nơi triền đồi cả ở Biển hồ Tibêriát. Hoặc, thôn làng hẻo lánh có truyền thống sẻ san ơn lành mình nhận lãnh sẻ và san, để rồi sẽ dẫn đến cuộc sống lành thánh, như ước hẹn. Ước hẹn với Cha. Ước hẹn với mọi người.

Điểm tương đồng giữa Đức Chúa và thánh Gioan còn thấy rõ ở điểm: cả hai đều kình chống lối nhận thức về Đấng Mêsia theo nhãn quan chính trị. Cả hai Đấng đều kình chống lối giữ Đạo nặng hình thức nhiều lễ nghi quan cách. Cả hai Đấng đều cho thấy cung cách rất khác biệt ngõ hầu giúp sống như người Do thái được dạy phải sống như thế. Và rồi, sẽ sống Đạo đúng như Giao Ước mình ký kết với Chúa. Với tha nhân.

Nói cho cùng, trình thuật hôm nay kể nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả, là để minh xác về thuở đầu cuộc đời hoạt động của Đức Giêsu. Giai đoạn ấy, không chỉ hiện rõ qua nghi thức có tẩy và có rửa, mà thôi. Nhưng là giai đoạn tuyên dương tín điều đích thực, rằng: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà người người đợi trông. Đấng Mêsia, do Cha gửi đến, cốt không để ta thống lĩnh ba quân mà chống lại người La Mã, đang thống trị. Mà, Đức Mêsia đây, chính là Đấng Cứu Độ mà đường đường một thánh nhân rất trổi bật như Gioan Tẩy Giả cũng “không xứng đáng để cài dép, hoặc xách giày cho Ngài”.

Tin Mừng kể nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả, là để nói rằng: Đấng Mêsia tuy đến sau thánh nhân, nhưng Ngài lại quyền thế hơn. Ngài đến, để tẩy rửa hết mọi người trong Thánh Thần. Bởi, như bài đọc 1, lại đã viết: “Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này: Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn, Thần Khí mưu lược và dũng mãnh, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Chúa.” (Is 11: 2) Để, “các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự, sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11: 10)

Và, cùng một ý tưởng tương tự, thánh Phaolô cũng nói: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta.”(Rm 15: 4) Bởi thế nên, “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng Danh Thiên Chúa.” (Rm 15: 7)

Cuối cùng thì, phụng vụ thánh năm nay trích dẫn lời kinh hay trình thuật về thánh Gioan Tẩy Giả, cũng để mọi người xác tín rằng: “Tất cả chúng ta đều là anh em. Anh em, cùng một Cha. Cùng được Đấng Mêsia cứu độ. Ngài, đang đến với mọi người lâu nay hằng chờ Ngài, suốt nhiều năm.

 Lm Kevin O’Shea, CSsR biên-soạn –

 Mai Tá lược dịch.

LÃNG PHÍ SINH MẠNG

LÃNG PHÍ SINH MẠNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Ngày nay, người ta thường nói đến sự lãng phí của con người: lãng phí điện nước, lãng phí tài nguyên, lãng phí tiền bạc, lãng phí sức khỏe…  Trong bối cảnh xã hội vẫn còn nhiều người nghèo, sự lãng phí bị lên án như một tội ác.

Tuy vậy, có một sự lãng phí nguy hiểm mà ít khi được nhắc tới, đó là lãng phí sinh mạng con người.  Nếu lãng phí được định nghĩa là “làm mất một cách vô ích tiền tài, sức lực, thời gian” (theo Từ điển và Từ ngữ Việt Nam) thì xem ra con người ngày nay đang lãng phí sinh mạng tới mức báo động.

lang-phi-su-song

Lãng phí sự sống trước hết là nạn phá thai.  Đã có biết bao chuyên viên nghiên cứu phân tích về những hậu quả tai hại của việc phá thai trong lãnh vực tâm lý, thể lý và tâm linh, vậy mà số thai nhi bị phá càng ngày càng tăng.  Theo thống kê chưa chính xác, thì Việt Nam chúng ta là nước thứ ba trên thế giới về số thai nhi bị giết hại.  Con số này từ một triệu rưỡi đến hai triệu ca mỗi năm.  Thủ tục phá thai hiện nay rất đơn giản và nhanh chóng.  Nhiều nơi phá thai được trá hình với cái tên rất đẹp “Khám chữa bệnh phụ khoa”, có những cò mồi, chèo kéo như những nhà hàng ăn uống.  Biết bao sản phụ đã chết oan vì những “xưởng phá thai” kiểu này, nhưng xem ra người ta vẫn không sợ.

Lãng phí sự sống còn là sự thiếu cẩn trọng khi lao động và khi tham gia giao thông.  Mỗi năm, nước ta có đến mười hai nghìn người chết vì tai nạn giao thông, tương đương với mỗi ngày có hơn 30 người đột ngột và vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống trong khi đi lại trên khắp các nẻo đường của đất nước chúng ta.  Nếu so sánh với vụ tai nạn máy bay rơi khoảng từ 200 đến 300 người/vụ, thì tại Việt Nam cứ mỗi năm chúng ta có khoảng 40 vụ rơi máy bay (trích bài viết tại trang VnExpress.net ngày 19-11-2012).  Những người này hầu hết là những người trụ cột trong gia đình, hoặc là thanh niên tuổi trẻ, là công nhân, sinh viên, học sinh, tức là những người đang có nhiều kỳ vọng ở tương lai.  Biết bao nhiêu lời cảnh báo, biết bao nhiêu lần bị phạt, xem ra nhiều người vẫn không tỉnh ngộ.  Vẫn còn đó những chàng trai cô gái đua xe, đùa với thần chết, coi sự chết như không.  Họ thật lãng phí cuộc sống.

Từ vài năm trở lại đây, có một thứ “mốt” quái đản là… tự tử.  Có nhiều người tự tử ở tuổi còn trẻ, thậm chí là vị thành niên.  Những người chán sống không hẳn là người bị đẩy vào ngõ cụt của cuộc đời, mà đôi khi họ là những người thành đạt và đang ở đỉnh cao của danh vọng như một số ngôi sao điện ảnh, ca sĩ hay người mẫu.  Cũng vì không muốn sống, một số người có chức có quyền cũng đã tìm đến cái chết khi có nguy cơ bị khui ra những việc làm mờ ám, hay vì những lý do có trời mới biết.  Những người này cũng lãng phí mạng sống mình.

Vì thất vọng trước một cuộc sống trống rỗng vô ý nghĩa, nhiều bạn trẻ đã tìm đến ma túy và những thói ăn chơi sa đọa.  Vì ham mê tìm đến với những cảm giác thần tiên nhất thời, họ đã đánh mất tương lai, trở nên mối họa cho gia đình và người thân.  Họ đã tự đánh mất chính mình.

Khi coi thường mạng sống, người ta dễ liều mạng phạm tội.

Chắc hẳn những ai có lương tri đều đắng lòng khi đọc những thông tin liên tục về các vụ án được xử mà kết cục là án tử hình.  Họ là những thanh niên trẻ trung, mang dáng vẻ thư sinh, nhưng lại liều lĩnh phạm tội và trở thành những kẻ sát nhân máu lạnh.  Họ được cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng hai ba chục năm, đặt rất nhiều hy vọng ở tương lai, vậy mà bây giờ họ trở nên mối nguy hiểm cho xã hội.  Hy vọng của cha mẹ và gia đình họ đã bị tắt lịm.  Người vào tù đau khổ vì mối ân hận day dứt.  Người ở ngoài đau khổ vì bia miệng tiếng đời.  Tiếc rằng, con số những vụ việc như nêu trên tăng nhanh tới mức chóng mặt.

Mục đích những bản án tử hình hay tù tội là nhằm giáo dục và răn đe những người khác.  Thế nhưng, mặc dù có biết bao lời lên án mỗi khi có một vụ án nghiêm trọng, nhưng xem ra người ta không sợ.  Vẫn liên tiếp xảy ra những vụ cướp của giết người.  Vụ sau tinh vi và nguy hiểm hơn vụ trước.  Người ta lãng phí sự sống và đem sinh mạng của mình ra làm trò đùa.

Một linh mục Dòng Tên người Hàn Quốc, Cha Joseph Kim Yong-hae, đã nhận định: “Tỷ lệ phá thai gấp hai lần tỷ lệ sinh đẻ và tỷ lệ tự tử đứng đầu danh sách các nước trong Tổ chức Phát triển và hợp tác kinh tế.  Hiện tượng này, cùng với một số vụ việc khác đã khiến người ta có cảm giác xã hội Hàn Quốc đã chìm sâu trong nền văn hóa sự chết và tuyệt vọng” (Ucan News, bản tin 21-5-2012).

Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã báo động về một nền văn hóa mang tên sự chết.  Đó là một lối sống ích kỷ, chỉ lo hưởng thụ, không nghĩ đến tha nhân và cũng chẳng quan tâm đến ngày mai.  Nền văn hóa này đang có nguy cơ thấm nhập vào xã hội của chúng ta, kéo theo những hệ lụy là sự dối trá, thù hận, thủ đoạn và vô trách nhiệm.  Văn hóa sự chết chối bỏ các giá trị tôn giáo và nhân bản.

Giáo lý Công giáo dạy: “Sự sống con người phải được coi là linh thánh, vì từ lúc khởi đầu của mình, sự sống đó ‘đòi phải có hành động của Đấng Tạo Hóa’ và mãi mãi được liên kết một cách đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, là cùng đích duy nhất của mình.  Chỉ có Thiên Chúa là Chúa của sự sống từ khi sự sống khởi đầu cho đến khi kết thúc: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, có thể dành cho mình quyền trực tiếp đem cái chết đến cho một thụ tạo nhân linh vô tội” (Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, số 2258).

Chúa cũng truyền lệnh trong Điều thứ năm của Thập điều: “Ngươi không được giết người” (Xh 20, 13).  Lệnh truyền này phải được hiểu theo hai chiều: không được cất mạng sống người khác, đồng thời cũng không có quyền tự cất mạng sống mình.

Tuân theo Luật Chúa, Giáo hội luôn luôn đấu tranh để bảo vệ sự sống con người.  Giáo hội vẫn không ngừng kêu gọi hủy bỏ án tử hình tại những quốc gia còn giữ bản án này, vì các nhà nước vẫn có khả năng chế ngự tội ác cách hữu hiệu mà không cần phải tước đoạt cách vĩnh viễn mạng sống của các tội nhân (x SGLCG số 2267).  Giáo hội cũng đưa ra những chỉ dẫn trong đời sống gia đình nhằm bảo vệ sự sống và góp phần thăng tiến con người.  Ngay cả trong những quốc gia khuyến khích việc phá thai hay việc chết êm dịu, Giáo hội vẫn thi hành chức năng ngôn sứ của mình, lên án những hình thức giết người, trực tiếp hay gián tiếp, vì đó là sự vi phạm đến Luật Chúa và nhân phẩm con người.

Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.  Con Thiên Chúa xuống thế làm người dưới hình hài một trẻ thơ trong hang đá.  Hài Nhi Giêsu sinh ra là niềm vui cho cả thế giới.  Lễ Giáng sinh là lễ của hòa bình.  Lễ Giáng sinh cũng là lễ của sự sống, vì Đức Giêsu mang lấy thân phận con người để nâng cao phẩm giá của con người, thông truyền cho họ sự sống siêu nhiên.  Hài Nhi Giêsu trong hang đá máng cỏ là lời kêu gọi bảo vệ sự sống, từ những thai nhi còn trong lòng mẹ đến những người đang sống trên cõi đời này.

Nếu mỗi người đều biết tôn trọng sự sống của mình và của những người xung quanh, thì cuộc sống này sẽ rất an bình và vui tươi.  Mong sao điều ấy được thực hiện nơi xã hội Việt Nam chúng ta.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim gởi

Tạ Ơn Chúa !

Tạ Ơn Chúa !

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

    Thi sĩ Lamartine của Pháp có kể lại một giai thoại như sau:

Một hôm, tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe một âm thanh kỳ lạ.  Cứ sau mỗi tiếng búa gõ vào đá lại vang lên một tiếng “Cám ơn”.  Ðến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhận thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc.  Cứ mỗi lần gõ vào phiến đá, ông lại thốt lên “Cám ơn’.

Thi sĩ Lamartine mới nấn ná đến trò chuuyện, người thợ đập đá giải thích: “Tôi cảm ơn Chúa”. 

Ngạc nhiên về lòng tin của một con người mà cuộc sống hẳn phải lầm than lam lũ, thi sĩ mới nói: “Giả như bác được giàu có, thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng cám ơn.  Ðằng này, Thiên Chúa chỉ nghĩ tới bác có mỗi một lần duy nhất đó là lúc Ngài tạo nên bác.  Sau đó, Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa.  Thế thì tại sao bác lại mỏi miệng để cám ơn Ngài?”.

Nghe thế, người đập đá mới hỏi vặn lại thi sĩ: “Ngài cho rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao”.

Thi sĩ Lamartine bèn thách thức: “Dĩ nhiên, Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần mà thôi”.

Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, mới mếu máo thốt lên: “Tôi nghĩ rằng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả.  Ngài nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, dù chỉ một lần thôi.  Vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao?  Vâng, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa”. 

Nói xong, ông bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông, vừa đục đá vừa tạ ơn Chúa.

Thiên Chúa yêu thương con người.

Ðó là bài ca mà chúng ta không chỉ hát lên trong mùa Giáng Sinh, mà phải được lập lại trong từng khoảnh khắc của cuộc sống.  Nhưng khi chúng ta nói: Thiên Chúa yêu thương con người, điều đó trước hết phải có nghĩa là Ngài yêu thương tôi.  Thiên Chúa không yêu thương con người bằng một cách chung chung. Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu cá biệt, riêng rẽ.  Ðiều đó cũng có nghĩa là mỗi người là một chương trình trong trái tim của Thiên Chúa.

Ðối với Thiên Chúa, không có đám đông vô danh, cũng không có những con số.

Ngài gọi mỗi người bằng tên gọi riêng…

Chúng ta không thể đo lường Tình Yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta.  Trong Tình Yêu Quan Phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả.  Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta theo một khuôn mẫu, mà theo một chương trình riêng cho mỗi người.  Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng để đem lại điều thiện hảo cho chúng ta.

Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quy mọi sự về điều thiện cho những kẻ Ngài yêu thương.  Cũng chính vị thánh này đã nói: “Tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa”.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Từng bước từng bước thầm

“Từng bước từng bước thầm”
Hoa vòng rừng tuyết trắng
Rặng thông già lặng câm
Em yêu gì xa vắng
Cho trời mây ướp buồn.”

(Y Vân – Những Bước Chân Âm Thầm)

 (Thư Rôma 5: 5-8)

Trần Ngọc Mười Hai

Ấy chết! “Những Bước Chân Âm Thầm” ở đây, phải chăng là những bước rất “chập-chững” đi vào giòng đời, của người vừa mới lớn, chứ?

Ơ kìa! Đã âm-thầm bước những bước chập chững rồi, sao lại có “Mưa giữa mùa tháng Năm”, và  “Gió rét về lạnh căm” như câu tiếp:

“Từng bước từng bước thầm
Mưa giữa mùa tháng năm
Tay đan sầu kỷ niệm
Gió rét về lạnh căm
Từng bước chân âm thầm.

Anh yêu tình nở muộn
Chiều tím màu mến thương
Mắt biếc sầu lắng đọng
Đèn thắp mờ bóng đêm.

Từng bước từng bước thầm
Khi người yêu không đến
Tuổi xuân buồn lặng căm
Đi trong chiều mưa hoang
Đời biết ai thương mình.”

(Y Vân – bđd)

À thì ra! Sở dĩ anh có “những bước chân âm thầm”, là bởi vì “khi người yêu không đến”, thế nên “tuổi xuân buồn lặng căm”  “đời biết ai thương mình”!

Vâng. Thế đó, còn là tâm tình ở buổi “Hát Cho Nhau Nghe” đêm mồng 5 tháng 11 năm 2016 ở Sydney hôm ấy, đã thấy 4 chàng “hát sĩ” với tuổi đời “không còn trẻ” là: Uông Thế Công, Vũ Hùng, Quang Thắng, Vũ Nhuận nhưng vẫn hiên ngang bước vào lằn sáng sân khấu, mở đầu Chương Trình Nhạc chủ-đề “Nhạc Thơ Tràn Muôn Lối”. Thế đó, còn là tình-tự luẩn quẩn bên người nghe khiến mọi người quên cả ngủ/nghỉ dù trời đêm Sydney hôm ấy không mấy nóng đến quá độ.

À thì ra! Cứ vui chơi ca hát suốt đêm dài dầy đặc, bạn sẽ nghiệm ra rằng: có nhiều bước âm thầm, lặng câm, êm ấm đang đi vào giòng đời, để rồi người người lại sẽ nhận ra là “đời biết ai thương mình…” 

À thì ra! Có bước những bước chân “âm thầm” như thế cũng đã đi vào nhà Đạo, để rồi bạn và tôi ta lại thấy: đời người đi Đạo cũng xôn xao, chộn rộn vì những thắc mắc của người em nho nhỏ ở miền quê xa vắng, chạy đến hỏi han các đấng bậc những câu sau đây:

“Thưa Cha,

Con đây giống hệt mọi người từng được học Giáo lý/Sách Phần dạy rằng: Đạo-lý Chúa dạy, tóm lại chỉ gồm hai điều thôi: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Đương nhiên là như thế. Nhưng đôi lúc, con đây lại thấy rằng: trên thực-tế, con thường vẫn yêu chồng thương con còn nhiều hơn cả Chúa Trời, thế mới chết! Vậy nên, câu hỏi con đưa ra hôm nay, là: Điều-răn tóm gọn ở câu kinh: Trước: kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, nghĩa là gì? Xin Cha giải-thích giúp con qua cơn trầm-thống rất ưu tư này nhé. Được thế, con cảm ơn cha nhiều vô kể. Ký tên: Một nữ giáo-dân họ đạo nhỏ, hiểu biết lẽ Đạo cũng rất ít.”

 Không cần biết nữ giáo-dân ở xứ đạo lớn/nhỏ hiểu biết nhiều nhặn ra sao, nhưng nếu chị hỏi điều gì là có ngay đấng bậc ở toà báo sẵn sàng chỉ chờ cho có người hỏi, là Đức thày John Flader của tờ The Catholic Weekly có ngay một lời bàn như sau:

“Có nhiều cách để thấy được là ta thường thương-yêu mến-mộ người này nhiều hơn kẻ khác. Một, là: do cường-độ tình-cảm ta đặt nơi người này, hơn hẳn người kia. Theo cách như thế, ta thường trải-nghiệm tình-cảm thương-yêu gia-đình hoặc bạn-bè cả Chúa.

Cuối cùng ra, thì: trong đời mình, những người như thế là người ta sờ chạm được. Và, những người này bày-tỏ tình họ thương ta cách hiển nhiên theo đó đã đánh động ta để có được tình thương mạnh mẽ đối với họ. Trong khi đó, Thiên-Chúa là Đấng ta không thấy được bằng mắt thịt hoặc không nghe được bằng đôi tai nhỏ bé của ta và như thế cũng là chuyện tự-nhiên giúp ta thấy được là mình không thể cảm-nghiệm cùng một cường-độ yêu thương Ngài như ta vẫn làm cho một số người. 

Cả đến các thánh cũng không hề cảm-nghiệm cùng một tình-tự thương-yêu đối với Chúa, vào mọi lúc. Mọi người chúng ta đều biết là thánh Têrêsa thành Calcutta cũng từng một thời cảm-nghiệm lòng đạo khô-khan rất nhiều lúc, tức có nghĩa: cứ thấy Thiên-Chúa vắng mặt, thấy bóng tối dầy đặc bao trùm hồn ngài trong suốt 50 năm cuộc đời ngài.  

Tình thương-yêu đích-thực đối với Chúa không là kinh-nghiệm ta có qua cảm-xúc mà qua hành-động. Thánh Gioan Tin Mừng có viết trong thư thứ nhất đoạn 3 câu 18 vẫn nhắc nhở: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.”      

 Chính Đức Giêsu vẫn mời gọi ta yêu-thương Ngài theo cách này: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14: 15) Giả như các thánh không lại thấy mình không yêu-thương Chúa, thì các ngài cũng luôn luôn tỏ-bày tình thương-yêu của các ngài qua hành-xử, bằng việc thực hiện ý-định của Thiên-Chúa, thôi.

Con người lại có lúc thấy mình yêu-thương người này hơn người khác, là cung-cách mà ta gọi là yêu-thích thứ này hơn thứ kia. Đây, không là cường-độ cảm-xúc nhưng đúng hơn, là: sự yêu-thích người này thương yêu một người khác, trong ý-chí. Cả vào khi ta có thể yêu-thương con người với nhiều cường-độ xúc-cảm hơn là ta cảm-nghiệm trong tình thương ta có đối với Chúa; khi đó, ta lại ưa để mất tình thương-yêu của người ấy hơn là mất đi lòng thương Chúa và cùng với lòng thương này là sự sống vĩnh-cửu đối với Ngài. 

Chính Đức Giêsu cũng từng nói đến sự yêu-thương chọn lựa ở Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 10 câu 37 sau đây: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.”         

Rõ ràng là, điều mà Đức Giêsu qui-chiếu ở đây là về sự yêu-thích, chứ không phải cảm-giác thương-yêu. Nói cho rõ, Ngài muốn ta thương-yêu các thành-viên gia-đình của ta cũng hệt như ta yêu Chúa, như Tin Mừng thánh Luca đoạn 10 câu 27 còn nói rõ: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”

Và sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 5 lại cũng nóiHãy yêu mến Đức Chúa, Thiên-Chúa của anh em hết lòng hết dạ, hết sức anh em.” Thế nhưng, rõ ràng là Ngài những muốn ta yêu-thương Ngài hơn người lân cận, và cả các thành-viên trong gia-đình mình nữa…

Nói tóm lại, ta càng chứng-tỏ rằng ta yêu Chúa bằng cách kiên-trì nguyện-cầu sám-hối, bằng việc đón-nhận các phép bí-tích và làm theo ý Chúa trong mọi việc, tức là ta cũng sẽ chuẩn-bị hy-sinh tất cả mọi sự còn hơn để mất tình thương-yêu Thiên-Chúa.” (X. Lm John Flader, Is it OK if I love my kids and husband more than God, The Catholic Weekly, 25/9/2016, tr. 22)

 Lời giải-đáp của đấng bậc ở nhà Đạo, nghe rất quen. Quen, đến độ mọi người đều thuộc lòng vì tuần nào cũng đọc kinh kệ có những lời như thế. Đọc hết “10 điều răn Đức Chúa Trời”, lại đến “6 điều răn Hội thánh”, và còn “8 mối phúc thật”, rồi đến “Thương người có mười bốn mối”, ôi thôi cộng lại cũng rất nhiều. Nhiều đến độ người đọc thuộc như cháo, nhưng chẳng biết rằng mình sẽ thực hiện được bao nhiêu? Bằng chứng, là kẻ “ăn xin” ngồi ở cửa nhà hờ vẫn xếp hàng dài ngồi ở đó, đến quen mặt.

Trước cửa nhà thờ, thì như thế. Còn, trước cổng chùa thì sao? Câu trả lời, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe truyện kể nhẹ ở dưới, sẽ biết ngay:

“Truyện rằng:

Có một ông lão kéo một xe gạo nặng nề đang lê bước trên đường vừa đi vừa thở hổn hển… Trong có vẻ rất mệt, bánh xe chao đảo va vào một cục đá bên đường, làm cả xe gạo đổ nhào xuống hết… Ông lão cố hết sức nâng xe gạo lên, nhưng trong tình thế bất lực và mệt mỏi mồ hôi nhễ nhại, trời thì nắng chang chang…Thế là ông ngồi bệch xuống đất luôn…

 Trong khi nhìn xung quanh, ông thấy một ngôi chùa, bên ngoài ngôi chùa là những chiếc xe hơi đang dựng san sát nhau, trước cảnh tượng nhìn thấy như vậy, vẻ mặt ông có vẻ đăm chiêu và phiền não. Ông suy nghĩ và nói thầm: “Người vừa sinh ra thì đã giàu… có kẻ làm lụng vất vả cả đời lại chẳng có gì!?”

Một Phật tử nghe thấy và nói:

-Ông đã đến cửa Phật sao không vào thành tâm cầu nguyện, lại ngồi đây than thân trách phận! Ông có thấy chùa Phúc Lai bên kia đường không? 

Cô gái chỉ, ông lão dõi mắt nhìn theo …

-Tôi nghe bảo Chùa đó rất thiêng, chả thế mà khách thập-phương cứ kéo đến ùn ùn … Ông xem kìa, những chiếc xe hơi đậu san sát trước cổng Chùa! 

 Theo lời chị dẫn tận lòng của cô gái, ông Lão nhờ cô gái trông giúp mình xe gạo và bước từ từ vào bên trong Chùa theo tiếng chuông ngân… Trước mắt ông, là cảnh tượng một số người khác cứ chấp tay và miệng lẩm nhẩm điều gì đó trong miệng không biết? Còn khói nhang thì lan tỏa nhiều nơi. 

Đứng từ xa nhìn Ông có vẻ ngơ ngác, một Vị tăng bước tới và nói: 

-Thí chủ lần đầu tiên đến đây phải không?”

-Vâng! thưa Thầy lần đầu con đến nơi cửa Phật nên chẳng biết cầu nguyện ra làm sao? Mong Thầy chỉ dạy”

-Thí chủ thỉnh cầu điều gì?

Ông Lão quay nhìn những người kia và nói: 

-Con cầu xin đức Phật ban phát sự Công bằng !?”

-Công Bằng ư?

-Vâng, thưa Thầy. Con sinh ra trong một Gia đình nghèo khổ, bần hàn không được học hành tử tế, từ bé đã phải tự mưu sinh, lớn lên lấy một người vợ nghèo và nai lưng làm lụng như trâu bò, để nuôi bầy con nheo nhóc. Cuộc đời khốn khổ cơ hàn cứ thế bám theo con dai dẵng. Trong khi có biết bao nhiêu người khác sinh ra trong một Gia đình giàu sang, chẳng cần cố gắng mà vẫn sống suốt đời trong nhung lụa. Như vậy, không Công Bằng! Nếu Đức Phật linh thiêng xin Ngài hãy ban cho con một ít may mắn của những người kia!

-Như người kia ư?

-Chỉ cần nhìn họ là đủ biết họ giàu sang Quý phái cỡ nào rồi!  Nhưng người nghèo khổ như con không thể hiểu nỗi họ làm gì mà giàu sang lắm vậy? 

-Cái đó tôi không biết?  nhưng khi tới đây họ cũng chỉ là Ăn xin cả thôi!

-Ăn xin ư? thưa Thầy!

-Đúng … Ăn xin Cửa Phật!

-Nhưng nhìn họ giàu sang Quý phái có thiếu gì mà phải đi ăn xin?

– Sống trên cõi đời này mấy ai thỏa mãn những gì mình đang có. Không tin thí chủ cứ lại gần họ xem!
Ông Lão tò mò đến gần mọi người, ép sát tai nghe thử xem họ đang nói những gi? Một anh chàng thanh niên khá trọng tuổi mặc áo “suite”, thắt cà vạt trong rất chỉnh-tề, lịch sự nói: 

-Cầu xin đức Phật cứu giúp công ty con khỏi bị phá sản, hàng trăm Gia đình công nhân đang trong chờ vào Công ty. Đang trông chờ vào sự chèo lái của con Mô Phật!

Một người Phụ nữ lớn tuổi ở bên cạnh khóc thút thít nói: 

-Xin người rủ lòng từ bi cho con sức mạnh để chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Xin người đừng để con phải chịu những cơn đâu hành hạ, dày vò.”

Có cô Gái trẻ tuổi nọ đứng gần đó khuôn mặt có vẻ buồn rầu ủ rủ cũng nói nhỏ: 

-Năm nay con đã ngoài 30 tuổi, mà vẫn chưa có người yêu thương. Con vô cùng buồn tủi, con chỉ xin Ngài linh thiêng cho con chút duyên số để con tìm được một tấm chồng, xin Người ban phước, Mô Phật!

Ông Lão nghe những lời ấy mà lòng cảm động rơi nước mắt. Ông nói lên một tiếng: 

-Tội nghiệp quá! Và đứng dậy bỏ đi tới chổ Vị tăng ngồi. 

-Thưa Thầy họ cầu xin rất nhiều điều, hóa ra họ toàn là ăn xin thật! Con cứ nghĩ trên đời này ai cũng Hạnh phúc hơn con, chứ ai biết được họ cũng có nhiều nỗi Khổ đến thế! Ngẫm ra Con còn có nhiều điều hơn họ như: bình an, sức khỏe, sự vô tư chẳng hạn và hạnh phúc!

-Đúng vậy! Cuộc đời công bằng với tất cả mọi người. An phận với thực tại và cố gắng hết sức mình để Tự Mình Hóa Giải những khó khăn trong cuộc sống .Đó mới chính là một Cuộc Đời Hoàn Hảo.
Ông Lão nghe xong Tỉnh ngộ. Tiếng chuông vẫn vang trong không gian… xa dần … xa dần… 
(Truyện kể đọc trên mạng vi-tính)

 Truyện kể ở trên mạng, hay trên bục giảng nhà Chúa hay nhà Chùa, cũng đều thế. Nghĩa là: có đôi chút gì đó răn-dạy người nghe hãy tìm cho mình một nhân-sinh-quanlành thánh để còn sống. Nhân-sinh-quan, hay còn gọi là quan-niệm nhân-sinh/cuộc đời, của con người. Mỗi thế thôi.

Nhân-sinh quan, hoặc lời đề-nghị của đáng thánh nhân-hiền Đạo Chúa đôi khi cũng na ná như thế. Đấng thánh khuyên mọi người, những lời tưởng chừng dễ quên như sau:

“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, 

nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta. 

Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì 

vì còn là hạng người vô đạo, 

thì theo đúng kỳ hạn, 

Đức Kitô đã chết vì chúng ta.

Hầu như không ai chết vì người công chính, 

hoạ may có ai dám chết 

vì một người lương thiện chăng. 

Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, 

ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; 

đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”

(Rm 5: 5-8)

Đấng thánh-hiền nhà Đạo, giải thích ý-nghĩa sự chết của Đức Kitô làm bằng cho tình Chúa thương ta. Quả thật, Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu đã sử-dụng tình-Ngài-thương-ta để giải quyết tất cả mọi thứ và mọi sự. Những thứ và những sự, mà tâm-can con người không hiểu trọn vẹn nhưng chỉ cảm-nghiệm thôi.

Quả thật, thương-yêu là tất cả mọi sự. Thế nên, tình thương mới giải-quyết được mọi sự trong đời. Chí ít, là tình thương-yêu từng khoả-lấp âu-sầu/thù-hận giữa người với người, nữa. Giải-quyết, cả những lơ-là/quên-lãng từ phía con người, thật không khó.

Quả thật là: mọi sự việc trong đời, không do tự ta mà có cũng không tự ta mà ra. Nhưng đã có bàn tay định-vị mọi thứ mà người nhà Đạo chúng ta quen gọi là “Ân-huệ Chúa ban”. Ân-huệ ấy, Ngài ban cho ta cách “nhưng-không”, tức: không do tài cán hoặc công-lênh nào của ta hết.

Tình-yêu Thiên-Chúa cũng thế. Trong yêu-thương nhau, thương-yêu mọi người, Ngài luôn đi bước trước. Ngài thương-yêu con người và mọi loài trước cả khi con người biết đối-đáp tình Ngài ban ra, nữa.

Nói theo ngôn ngữ người trần-tục qua thi-ca và âm nhạc, là nói trong tiếng hát vẫn cừ bảo:

“Anh yêu tình nở muộn
Chiều tím màu mến thương
Mắt biếc sầu lắng đọng
Đèn thắp mờ bóng đêm.

Từng bước từng bước thầm
Khi người yêu không đến
Tuổi xuân buồn lặng căm
Đi trong chiều mưa hoang
Đời biết ai thương mình.”

(Y Vân – bđd)

 Nói và hát như thế vẫn chưa đủ. Có lẽ cũng nên nói bằng truyện kể để minh-hoạ điều mình vừa nói, rất như sau:

“Phú ông nọ, sau khi bỏ thời-gian gần trọn cuộc đời mình rồi, nay mới nghĩ chuyện tìm một người để thương-yêu thành gia-thất. Sau thời-gian dài tuyển chọn, ông tìm ra được 3 người tương-đối rất vừa ý. Vào vòng cuối, ông đưa cho 3 người vợ tương-lai mỗi người một nghìn quan tiền và đề-nghị các nàng hãy ra đi mua thứ gì khiến nó tràn ngập căn phòng tân-gia cũng là tân-hôn của ông.

 Cô vợ tương-lai thứ nhất mua rất nhiều bông hoa đẹp khiến phân nửa căn phòng đầy hương-hoa thơm đẹp. Người thứ hai lại khác. Cô mua rất nhiều bóng bay và làm ngập ba phần tư căn phòng toàn những bóng cứ bay bay. Người thứ ba, quyết-định mua chỉ một ngọn nến nhỏ nhưng lại khiến căn phòng của hai vợ chồng sẽ tràn đầy nhiều ánh-sáng, rất thương-yêu. 

 Cuối cùng, phú ông bèn chọn người vợ tương-lai có ý-tưởng nhiều sáng-tạo nhất, đó là người thứ ba, đã được chọn.”

 Câu truyện kể trên tuy không có gì độc-đáo sắc nét, nhưng hy vọng sẽ để lại cho người đọc là bạn và tôi, ta sẽ có nhiều quyết-tâm độc đáo hơn nữa.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn luôn tìm

ý-tưởng độc-đáo 

và độc-chiêu

để giới thiệu với mọi người         

và với mình. 

Huyền Diệu về, tuyệt vời trong âm sắc

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ Nhất mùa Vọng năm A 27/11/2016

Tin Mừng (Mt 24: 37-44)

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại;hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.

+   +   +   +

 “Huyền Diệu về, tuyệt vời trong âm sắc”

Tôi đứng nơi đây mỗi chiều nắng tắt

Hát bản tình ca không tiếng không lời

Đêm về xanh xanh màu xanh đáy mắt

Giốc cạn tình em trong âm sắc tuyệt vời.”

(Dẫn từ thơ Vĩnh Hảo)

Mt 24: 37-44

Mai Tá lược dịch.

Nhà thơ ngoài đời, đứng đợi nơi đây chiều nắng tắt. Dân con trong Đạo chờ Huyền diệu về, Đấng Yêu Thương. Đấng Diệu Huyền đến, trong ánh sáng ban mai, theo tư thế rất thương yêu và nhung nhớ.

Trình thuật đầu năm phụng vụ hôm nay, mang dáng dấp của mầu xanh Hy vọng mà Đấng Huyền Diệu hẹn với đàn con. Với dân con, Ngài vẫn thương mến và hứa hẹn. Vua Vũ trụ huy hoàng đến, như đã hứa với dân Ngài bằng tiếng gọi của Vương Quốc, đang chờ mong. Tiếng gọi của Mùa Vọng rất thân thương và bức bách.

Bài đọc đầu, phụng vụ đưa ra thị kiến non cao, chốn Zi-on rực sáng ấy. Ở nơiđó, có Đền thờ Chúa dựng xây. Ở nơi đó, có trung tâm của địa cầu. Và nơi đó, còn là điểm tập trung của nhân loại, và vũ trụ. Cựu Ước khi xưa từng khẳng định: “Núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.” (Is 2: 2) Chốn non cao Zi-on, còn thu hút mọi người tràn về. Về, mà ca tụng và phụng thờ Giavê, Đấng Huyền Diệu nơi Đền thờ Đức Chúa.

Đền thờ Chúa nơi đây, chính là Thân Mình Huyền Diệu Đức Kitô. Đền thánh nơi đây, là chính Con Chúa đã hạ mình nhập cuộc, sống với ta. Ngài nhập cuộc, để trở nên người phàm giống như ta. Thân Mình Ngài nhập cuộc ở Bét-lê-hem, chính là Đền Chúa ngự, là Thân Mình Đấng Huyền Diệu, rất Hài Nhi.

Huyền diệu Hài Nhi, nằm nơi vòng tay nghèo của Mẹ Chúa, nơi hang lừa. Và, Huyền Diệu Hài Nhi được mục đồng Chúa đến lạy thờ. Huyền diệu Hài Nhi – chốn Đền đài bằng xương thịt, vẫn là mẫu mực để ta học hỏi sống với Chúa. Sống cuộc sống nghèo và quyết bước theo Ngài.

Phúc Âm hôm nay, chưa nói nhiều về Nhiệm Tích Nhập Thể. Nhưng, Đấng Huyền Diệu Quang Lâm được cảnh báo như một thời có nhiều xáo trộn. Xáo trộn ngày Đức Chúa Quang lâm, được mô tả giống thời Nô-ê. Một thời cần cảnh giác và tỉnh thức. Tỉnh thức, vì Ngài đến bất chợt, rất đột xuất.

Đấng Huyền Diệu đến, sẽ không như buổi xử phạt, vào ngày cuối. Ngày Chúa đến, sẽ nhắc nhở con dân của Ngài đừng vì cảnh ly biệt tách lìa, mà hãi sợ. Cảnh giác và tỉnh thức để mọi người nhận ra Chúa luôn hiện diện, trong huyền diệu.

Việc đề cao tỉnh thức, còn được thánh Phao-lô tông đồ nhắn nhủ, qua thư gửi giáo đoàn Rôma lành thánh, rằng:

 “Đã đến lúc anh chị em phải tỉnh giấc … 

Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. 

Hãy vất bỏ những việc tối tăm và mặc lấy khí giới của sự sáng”.

(Rm 13: 12)

Đi vào đời sống, người người cần nhận ra, rằng: đã đến lúc ta nên cảnh tỉnh. Cần giác ngộ về các hành động mình đã và đang làm. Cảnh tỉnh/giác ngộ, để không còn gì phải sợ sệt hoặc che giấu. Giấu Chúa và giấu người phàm. Và khi đã cảnh tỉnh rồi, ta sẽ không tủi hổ vì đã có hành vi bất chính. Không còn hãi sợ vì đã hành xử phản lại tâm trạng người đón chờ ngày Chúa Quang Lâm.

Đón chờ ngày Đấng Huyền Diệu Quang Lâm, là biết sẵn sàng trong tư thế của người con bình thuờng. Người con bình thường, là người không sợ phải quay về với thời ông Nô-ê, khi trước. Người con ở tư thế bình thường, là người không còn sợ ngày xét xử, vào lần cuối.

Tâm trạng của người con chờ ngày Chúa đến, còn là tâm trạng phó thác để Chúa hiện diện với chính mình. Ngài hiện diện qua tương quan rất hiện tại. Tương quan mang hình thái của một “nhiệm tích hiện tại”. Nhiệm tích xảy đến vào mọi lúc, với mọi người. Nhiệm tích thể hiện qua hành vi, và qua công việc thường nhật. Ngài sẽ đến bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu.

Sống trong tương quan “nhiệm tích hiện tại”, ta nhận ra Ngài đang hiện diện nơi mọi người trong cuộc sống. Và, nhận ra bàn tay thân thương Ngài đặt nơi sự kiện đang xảy đến. Khi ấy, không còn hãi sợ. Không còn e dè ngần ngại về mọi cảnh báo. Nhưng, sẽ phấn khởi sống tình thương của Chúa. Phấn khởi, nhận ra Ngài đang gần gũi chính mình. Gần hơn cả nhịp đập rộn rã, của con tim. Nhịp tình yêu. Nhịp của “nhiệm tích hiện tại”.

Trong trông chờ “nhiệm tích hiện tại” quang lâm hiện diện, ta cứ hát lên lời ca đầy khích lệ. Rất vui, như nhà nghệ sĩ khi xưa, từng hát:

Tay nâng nâng cao, nâng hòn núi sông Hòa bình

Chân đi đi mau, đi đến con đường sáng ngời

Cùng nhau múa, cùng nhau nắm tay thân tình

Tôi với anh, một lòng Đoàn kết từ đây

Tay vươn vươn lên, như bờ núi cao cao vời

Chân khoan khoan thai, như bước theo nhịp oai hùng

Bài thơ mới, và câu hát vui yêu đời

Vui với bao niềm tin đời là bài ca.

(Xuân Lôi – Y Vân –- Bài hát của người tự do)

Vui với bao niềm tin. Vui, vì đời là bài ca. Bài ca, mọi người đều hát. Hát cho đời. Hát cho người. Những người chợt thấy Đấng Huyền Diệu về, tuyệt vời trong âm sắc.       

Lm Frank Doyle sj biên-soạn

Mai Tá lược dịch.