Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 7 thường niên năm A 19/02/2017

 Tin Mừng: (Mt 5: 17-37)

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.

 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

  “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

 “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

  “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”.Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

                                  &    &   &

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”

“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 Mt 5: 38-48 

  Mai Tá lược dịch

Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Mátthêu đây là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương, bình dị nhưng có tư cách.

Sử gia Mátthêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này.

Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu trong bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mát-thêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn.

Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách nhưng tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng.

Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.

Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” nay còn sống, hẳn ông sẽ yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do lại có tinh thần thương yêu đúng qui cách.

Thật khó mà thiết-lập được quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch

Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao,

httpv://www.youtube.com/watch?v=cJIScRWJcQY

Dòng thời gian – Phan Đình Tùng (st: Nguyễn Hải Phong)

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 7 mùa Thường niên năm A 19/02/2017

“Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao”,

Từng ngày lặng-lẽ sống với kỷ-niệm ngọt ngào.

Mình quên những giấc chiêm bao.

Qua rồi một thời yêu đương sớm tối

Giữa thênh-thang bầu trờ, nắng gió muôn nơi.”

(Nguyễn Hải Phong – Giòng Thời Gian)

(Mt 5: 12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với nhiều người, quả y như rằng: đời mình là như thế đấy. Với một số người khác, thì: cũng qua rồi “một thời yêu đương sớm tối giữa thênh-thang bầu trời”, rất khôn nguôi.

Với tất cả mọi người, thì: cuộc đời người thường có nghĩa: “giữa thêng-thang bầu trời”, người thời nay không còn nhìn thấy “một thời yêu thương sớm tối” nữa, thì làm sao thấy được cuộc sống xã hội hôm nay, ngày ngày gặp toàn chuyện trái khuấy, kỳ lạ như nhận-định của ai đó trên mạng vi-tính có những lời lẽ sau đây:

“Xã hội này lạ lắm! Con người nay vui lắm. Giới bác-sĩ, thì chỉ muốn con bệnh mình cứ bệnh mãi, bệnh hoài để còn tìm đến mà chữa-trị. Lớp kỹ-sư, lại cứ muốn đồ đạc trong nhà/ngoài ngõ cứ bị hư. Thợ làm răng, lại những muốn người bị bệnh rang sâu, sứt mẻ hoặc vỡ/bể để còn làm những bộ rang giả khá đắt tiền. Đến như thày/cô, lại vẫn cứ mong sao cho đám trẻ mãi mãi khờ-khạo cứ là dễ bảo, để dạy kèm tăng học-lực. Thợ xây-dựng, thì cứ muốn nhà cửa hư-hỏng suốt, để còn xây thêm và chữa mãi không thôi. Chủ tiệm áo quan vẫn muốn nhiều người chết tốt, để bán hòm. Duy, có mỗi tay ăn trộm lại cứ muốn mọi người khấm khá hơn xưa để có cơ-hội mà thăm viếng, kiếm chút cháo… Thế đó, là xã hội thời hôm nay và mai ngày, cứ thế mãi.”

 Thế, Giáo hội phụng thờ Đức Chúa, thì sao?

Vâng. Đây là câu-hỏi tuy nghe nhiều vẫn thấy hay hay, nên trả lời cho đúng đắn! Trả lời vấn-nạn ở đây, quả thật không dễ. Không dễ chút nào, bởi: hôm nay đây, trong lòng Hội thánh Công-giáo được tiếng là “Giáo-hội duy-nhất, thánh-thiện và tông-tryền”, rày đã thấy có dấu-hiệu rạn-nứt/bất-đồng giữa một số hồng-y giáo-chủ và Giáo-hoàng cùng một gốc gác với Giáo Tông, Giáo . Không tin ư?

Vậy thì, mời bạn và tôi, ta cứ để mắt nhìn vào một vài sự-kiện mới xảy ra ở La Mã, rất Vaticăng.

 Nhưng, trước khi đi vào tìm hiểu chi-tiết về một “rạn-nứt/bất-đồng trong Giáo hội, cũng mời bạn và tôi, ta nghe tiếp nhạc-bản vừa trích-dẫn để có hứng mà bàn cho kỹ. Nhạc bản “Giòng Thời-gian” lại có những ca-từ đầy thi-tứ như sau:

Thời gian qua đi… bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa, từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi…
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi… “

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Rồi cứ thế, ca từ của bài hát cứ nhẩn nha đưa ta về cõi đường dài, “nhiều chông gai” có những“tháng ngày buồn ở lại”, ngày vui mau phai” có “cơn đau nặng nề”, “khốn khó lê thế”… rất như sau:

 “Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Cuộc đời người là như thế. Thế nhưng, bên trong Giáo hội Công giáo hôm nay, cũng thấy xuất-hiện “nhưng cơn đau nặng nề, lê thê, khốn khó. Khốn và khó, nhưng bài viết bên dưới từng bật mí những bí mật sau đây:

“Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khiến cho các viên chức Vaticăng ngỡ ngàng khi ngài chúc mừng Giáng sinh 2016 bằng lời loan báo sẽ có cải-tổ Giáo-triều Rôma và cái-gọi-là “những hành-xử đầy cởi mở”, “việc giấu diếm” và các loại ảnh-hưởng xấu xuất tự chống-đối đang gặp.

 Ngỏ lời với các hồng-y và giới chức lão-thành của Giáo-triều Rôma tập-họp tại Vaticăng hôm ấy, Đức Phanxicô nói: sở dĩ có sự cải-tân Giáo triều này là do yêu-cầu của các hồng-y từng bàn-thảo trước mật-hội năm 2013. Đức Giáo-hoàng có liệt-kê 12 tiêu-chuẩn hướng-dẫn công-cuộc cải-tổ này và ngài cũng nói đến “ba thể-loại phản-chống” mà Giáo-hội đang gặp. Và, để trả lời với những người cho rằng cuộc cải-tổ này sẽ thành-tựu một cách không đáng kể và các vị ấy cũng chỉ đưa ra một số tiến triển không là bao.

 Đây là năm thứ 3 qua đó vị Giáo Hoàng người Argentina này đi sâu vào khía cạnh chính cuộc sống của Giáo triều Rôma, tức dịch-vụ dân-sự của Giáo hoàng. Năm 2014, ngài có vạch ra “15 căn bệnh” hoặc “yếu điểm” mà các giới chức trong Giáo triều đang gặp. Năm 2015, ngài lại đưa ra các phương thuốc giải-trừ cho các tật bệnh này bằng cách liệt kê danh-sách các đặc-tính thiết-yếu mà Giáo-triều cần nắm vững để trau-dồi.

 Năm nay 2016, Đức Phanxicô lại đóng khung cuộc nói chuyện của ngài quanh vấn-đề linh-đạo nhập-thể. Nhân lúc diễn-tả Giáng Sinh như lễ hội của “tình thương yêu khiêm-hạ của Thiên Chúa” đặt nặng lên lập-luận đầy khoa-học-tính của con người, ngài nhắc mọi người rằng: Thiên Chúa chọn sinh ra trong cảnh thấp hèn, vì Ngài muốn mọi người yêu mến Ngài” và vốn dĩ là người bé nhỏ, mỏng dòn, yếu ớt nên không ai cảm thấy xấu hổ khi đến với Ngài, không ai hãi sợ Ngài hết.

 Đức Phanxicô nói: lập-luận đầy khoa-học của Thiên-Chúa hối-thúc lập-luận đầy lý lẽ của thế-gian, thứ lập-luận của quyền-lực, đội binh, rất Pharisêu, đầy cơ-hội hoặc xác-định. Đức Giáo hoàng còn nói rõ rằng đây là thứ lập-luận thật sự tạo sức sống cho Giáo-triều Rôma và củng-cố việc cải-tổ rất cần-thiết…    

      Ngài nêu rõ: “Cải tổ” có nghĩa “thuận theo” tin vui an bình của Lời Chúa trong Phúc Âm vốn dĩ phải được công-bố một cách vui tươi đầy can-đảm cho hết mọi người, đặc-biệt là người nghèo và những người bị loại trừ khỏi xã-hội họ đang sống, “phù hợp với các dấu chỉ của thời-đại để ta có thể đáp trả một cách tốt đẹp với nhu-cầu của nam nhân và nữ phụ hôm nay. Điều đó còn có nghĩa “phù hợp” với thừa-tác-vụ của người kế vị thánh Phêrô và hỗ trợ ngài trong chức vụ quan-yếu này…

 Đức Phanxicô còn cho biết: công-cuộc cải-tổ chỉ thành-tựu một cách hiệu-năng nếu được các giới chức đã “cải-tân” chứ không phải các quan-chức mới vào làm. Bởi lẽ, thay đổi nhân-sự không thôi cũng chưa đủ. Cần thiết phải “cải-tân các thành-viên của Giáo-triều cả về mặt linh-thiêng, nhân-bản lẫn chức-nghiệp” nữa. Nếu không có sự “hồi hướng trở về của các vị” này và nếu không chịu “thanh-sạch-hoá thường-xuyên”, thì không thể có cải-tổ được.

 Trong cải tổ, ta luôn gặp các khó khăn, đó là chuyện bình thường và cũng an lành nữa; và ngày hôm nay những việc như thế đều gặp phải “nhiều thể-loại chống-đối” vừa theo cách cởi mở, công khai hoặc có ác ý cũng không chừng…” (X. Gerard O’Connel, Pope Francis speaks about the Reform of the Roman Curia and the Resistance to it, Dispatched 22/12/2016).

Nói cho cùng, thì: cải-tổ nào cũng gai góc, sơ cứng và đôi khi rất khó chịu. Riêng với Giáo hội Công-giáo, 50 năm về trước cũng đã có một cải tổ khá lớn rộng cả một giáo hội qua cái-gọi-là “Công Đồng Vaticăng 2”, chứ không chỉ mỗi Giáo triều Rôma mà thôi; thế nhưng, sau 50 năm có lẻ, mọi chuyện cứ “y nguyên”, vẫn như cũ.

Thành thử, cứ như ca từ của nhạc-bản ta vừa hát, cũng nên lập lại đôi ý-từ cùng ý-tứ những nhắn nhủ mọi người bằng giòng nhạc, cứ hát rằng:

“Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi…”

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Cứ “nhìn thời gian trôi”, rồi sẽ thấy nhiều thay-đổi. Cứ tìm “Tình yêu nơi đâu”, “vội vàng tìm hoài không thấu”, rồi cũng thấy “bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…” và cứ thấy “ngày tháng vội đi khi không như ý”,… Bởi, Giòng thời gian cứ thế trôi qua, dù con người có phản-chống, cải-tổ hoặc làm gì đi nữa.

Nói thế không để bảo rằng: ta cứ thế mặc kệ mọi chuyện ciễn tiến trong/ngoài xã-hội và giáo-hội. Nói thế, chỉ để nói rằng: thời gian cuộc đời người còn trôi nhanh hơn mọi người tưởng. Thế nên, hay nhất là ta cứ vui hưởng cuộc sống rất hiện tại, dù mai ngày có ra sao, tích-cực hoặc tiêu-cực.

Nói thế, để đề-nghị với bạn và với tôi, ta lại sẽ đi vào vùng trời thánh-hiến có những Lời Vàng của đấng thánh-hiền từng bảo ban như sau:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời

thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Hãy vui mừng và hớn hở, còn là và sẽ là những gì ta gặp không chỉ là phần thưởng ở trên trời mà thôi. Nhưng đã tỏ hiện ngay tại đây, lúc này ở Nước Trời Hội thánh hôm nay, trong đó mọi người không còn “đi tìm” tình-yêu nữa. Nhưng đã thấy và thực hiện tình yêu ấy cho nhau, suốt mọi ngày, trong đời.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vườn hoa châm ngôn và truyện kể để sẽ thấy rằng “giòng thời gian” từng làm cho con người sống vui tươi, hớn hở dù lâu nay trải qua nhiều đoạn đường dài khắc khổ, sầu muộn đến chán nản.

Châm ngôn và truyện kể ở trong đời là những kinh nghiệm từng trải mà người đi trước viết lại cho người đi sau để thưởng lãm, suy-tư hầu có quyết-tâm sống những ngày dài sắp xảy đến. Châm ngôn và truyện kể, còn là những kể lể về thời gian trải dài trong cuộc sống, vẫn “cần đến một chữ duyên” như sau:

 “CUỘC SỐNG CŨNG CẦN MỘT CHỮ DUYÊN

1. Giữa người với người, có thể gần, cũng có thể xa.
Giữa việc với việc, có thể phức tạp, cũng có thể giản đơn.
Giữa tình cảm với nhau, có thể sâu, cũng có thể cạn.
2. Đừng mong cầu mọi người đối xử với mình đặc biệt, cũng chẳng nên hy vọng họ sẽ bớt đi những toan tính.
3. Cuộc sống có người nói ít làm nhiều, cũng sẽ có kẻ chỉ biết hoa chân múa tay. Bạn không nên quá bận lòng, chỉ cần quản tốt việc của bản thân, còn lại mọi việc hãy thuận theo nhân duyên.
4. Đức Phật từng nói: Với người không có duyên, dù bạn nói bao nhiêu lời cũng là thừa; còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, bạn cũng có thể đánh thức mọi giác quan của họ.
5. Có một số việc, vừa phân trần trắng đen đã trở thành quá khứ.
Có một số người, giận hờn vài ngày đã trở thành dĩ vãng.
Có những nỗi đau, vừa cười lên đã tan thành bọt nước.
Có những hoàn cảnh, nhờ chịu chút thương đau mà trở nên kiên cường.
Cuộc sống cũng cần một chữ Duyên
6. Đôi khi hôm nay là việc lớn, ngày mai nhìn lại chẳng có gì đáng kể. Năm nay quan trọng, sang năm sẽ trở thành thứ yếu. Chuyện vĩ đại đời này, đời sau người ta gọi là truyền thuyết.
7. Chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ là câu chuyện của một người. Vì thế trong cuộc sống hay công việc, nếu gặp chuyện không vừa ý, hãy nói với bản thân: “Hôm nay sẽ qua đi, ngày mai rồi cũng đến, hãy buông bỏ tất cả để bắt đầu ngày mới!”
8. Trên đời, có một số việc không phải không để tâm, mà để tâm cũng không làm được gì hơn.
9. Cuộc sống không có “Nếu Như”, chỉ có “Hậu Quả” và “Kết Quả”
10. Đón nhận đời mình như thế nào là do bản thân lựa chọn, người khác không thể quyết định thay.
11. Trưởng thành rồi, bạn sẽ biết cách lấy nụ cười đối diện với tất cả.” 
(tác giả ST Sưu tầm)

Nói cho cùng, thì “Giòng thời gian” là giòng chảy gồm nhiều giai-đoạn của cuộc đời làm nên đời người. Giòng chảy ấy, có tốt có xấu, có cả những sự và việc khiến mọi người như bạn và tôi đồng ý hay bất ưng, vui vẻ hay sầu buồn. Tất cả, vẫn chỉ là một quyết tâm. Quyết tâm sống những chuỗi ngày còn lại sau khi gặp nhiều sự việc diễn tiến trong đời mình.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hiên ngang ngẩng đầu nhìn về đằng trước rồi se sẽ hát những ca-từ vừa trích dẫn ở trên mà rằng:

“Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Đường đời vẫn còn dài, nhiều chông gai. Dù đó có là “những tháng ngày buồn” gì đi nữa, hãy cứ trông cậy vào “Giòng thời gian” cứ tuôn chảy mãi không thôi. Tuôn chảy rồi, sẽ thấy cuộc đời vẫn êm ả như những tháng ngày buông trôi thời thơ ấu, rất nên thơ.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và ý-nghĩ thoáng qua

Khi kịp nghe bài hát Giòng thời gian

Của Nguyễn Hải Phong

Rất thường tình.

TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.

 Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).

 Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành.  Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.

 Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen.  Luật mới kiện toàn luật cũ.  Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:

 –      Luật cũ cấm giết người.  Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em.  Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.

–      Luật cũ cấm hành vi ngoại tình.  Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn.  Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…

–      Luật cũ quy định thủ tục li dị.  Luật mới triệt để cấm li dị.

–      Luật cũ cấm thề gian.  Luật mới dạy sống chân thực.  Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.

 Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.

–           Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau.  Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.

–          Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”.  Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ.  Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.

–          Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào.  Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.

 1.  “Hãy yêu kẻ thù”

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu.  Người đã cắt nghĩa rất cụ thể.  Yêu thương kẻ thù là:

–          Làm ơn cho kẻ ghét mình.

–          Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

–          Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

–          Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

          Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

–          Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

 Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời“Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.  “Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.  “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.  Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

 “Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu.  Khó nhưng không phải là không có thể.  Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá.  Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa.  Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế.  Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người.  Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.  Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại.  Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù.  Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

 2.  Tại sao phải yêu kẻ thù?

Yêu người yêu mình thì dễ.  Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao!  Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng.  Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.”  Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi.  Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực.  Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại.  Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu.  Những vở kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ.  Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến.  Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc.  Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy.  Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên.  Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết.  Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc.  Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ.  Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.

 Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người.  Giết người đi thì ta ở với ai?  Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi.  Nhân vô thập toàn.  Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh.  Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền.  Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.  Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.

 3.  Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.

Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.  Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.  Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư?  Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).

 Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ?  Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi.  Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt.  Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người.  Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối.  Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét.  Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.  Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ.  Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…  Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).

 Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được.  Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả.  Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ.  Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?

 Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi.  Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

 Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.

 Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa.  Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng.  Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người.  Amen.

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Langthangchieutím gởi

Ðức Mẹ Lộ Ðức

Ðức Mẹ Lộ Ðức

Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nhặt củi.

Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.

Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn…

Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: “Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại”. Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: “Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.

Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.

Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.

Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.

Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện

11Tháng Hai

Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐTC – Sứ Điệp Mùa Chay 2017

ĐTC – Sứ Điệp Mùa Chay 2017

Pope writing a letter

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2017

“Lời Chúa là một tặng ân, Những Con Người Khác cũng là một tặng ân”

Anh Chị Em thân mến,

Mùa Chay là một khởi đầu mới, là một đường lối dẫn đến đích điểm chắc chắn Phục Sinh, cuộc vinh thắng của Chúa Kitô trên sự chết. Mùa này khẩn thiết kêu gọi chúng ta hãy ăn năn hoán cải. Kitô hữu được kêu xin hãy trở về cùng Thiên Chúa “bằng tất cả tấm lòng của họ” (Joel 2:12), hãy đừng an phận với những gì là tầm thường và hãy gia tăng mối liên hệ thân tình với Chúa. Chúa Giêsu là người bạn trung thành không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngay cả khi chúng ta vấp phạm tội lỗi, Người vẫn nhẫn nại đợi chờ chúng ta trở về; bằng niềm trông đợi nhẫn nại ấy Người cho chúng ta thấy rằng Người sẵn sàng thứ tha cho chúng ta (xem bài giảng ngày 8/1/2016).

Mùa Chay là một thời điểm thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng của chúng ta bằng phương tiện thánh hóa được Giáo Hội cống hiến cho chúng ta, đó là chay tịnh, cầu nguyện và làm phúc. Căn bản của hết mọi sự là lời Chúa, mà trong mùa này chúng ta được mời gọi để nghe và suy niệm một cách sâu xa hơn. Giờ đây chúng ta hãy lưu ý tới dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô (xem Luca 16:19-31). Chúng ta hãy tìm thấy cái cảm hứng nơi câu chuyện ý nghĩa này, vì nó cống hiến cho chúng ta cái then chốt để hiểu được những gì chúng ta cần phải làm hầu đạt tới hạnh phúc chân thực và sự sống đời đời. Nó khuyên chúng ta hãy thành tâm hoán cải.

1- Người khác là một tặng ân

Dụ ngôn này mở đầu bằng việc giới thiệu hai nhân vật chính. Con người nghèo được diễn tả một cách chi tiết hơn: người ấy là một con người quá tệ thậm chí không còn sức mà đứng lên được nữa. Nằm ở trước cửa nhà của người phú hộ, người này sống bằng các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của người phú hộ. Thân thể của người ấy đầy những ghẻ lở và bị các con chó đến liếm các vết thương trên mình (xem các câu 20-21). Hình ảnh này là hình ảnh về một tình trạng thật là cùng khốn bất hạnh; nó phác tả cho thấy một con người khổ nhục và đáng khinh.

Cảnh tượng này lại càng thế thảm hơn nữa nếu chúng ta lưu ý tới con người nghèo này được gọi là Lazarô: một cái tên đầy hứa hẹn, theo nghĩa đen là Thiên Chúa phù giúp. Nhân vật này không phải là một con người vô danh. Các đặc tính của con người ấy được miêu tả một cách rõ ràng và tỏ ra như là một cá nhân sống câu chuyện đời tư của mình. Trong khi con người này thực tế trở thành vô hình đối với nhà phú hộ thì chúng ta lại thấy được và biết được con người ấy như là một ai đó quen thuộc. Con người này trở thành một khuôn mặt, và như thế, là một tặng ân, một kho tàng vô giá, một con người được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc, bất chấp thân phận thực tế của con người này như là một kẻ bị loại trừ (xem bài giảng ngày 8/1/2016).

Nhân vật Lazarô dạy chúng ta rằng những con người khác là một tặng ân. Mối liên hệ đúng đắn với con người ta là ở chỗ ưu ái nhìn nhận giá trị của họ. Ngay cả con người nghèo khổ ở ngay cửa nhà của nhà phú hộ này không phải là những gì rầy rà phiền toái mà là lời hiệu triệu hoán cải cùng đổi thay. Dụ ngôn này trước hết mời gọi chúng ta hãy mở cửa lòng mình ra cho người khác, vì mỗi một người là một tặng ân, dù là người hàng xóm láng giếng của chúng ta hay là một kẻ ăn xin vô danh tiểu tốt. Mùa Chay là một thời điểm thuận lợi cho việc mở cửa ra cho tất cả những ai đang thiếu thốn và nhận biết nơi họ dung nhan của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta gặp gỡ con người ta hằng ngày như thế. Mỗi một cuộc sống chúng ta gặp gỡ là một tặng ân đáng chấp nhận, trân trọng và yêu thương. Lời Chúa giúp chúng ta mở mắt của chúng ta ra để đón nhận và yêu thương sự sống, nhất là khi sự sống đó yếu đuối và mỏng dòn dễ bị tổn thương. Thế nhưng, để làm điều ấy, chúng ta cần phải cẩn trọng lưu ý tới những gì Phúc Âm nói với chúng ta về nhà phú hộ.

2- Tội lỗi làm chúng ta mù quáng


Dụ ngôn này không tiếc lời diễn tả về những cái đối nghịch liên quan đến nhà phú hộ (xem câu 19). Không giống như Lazarô nghèo khổ, nhà phú hộ không có tên gọi; mà chỉ được gọi là “một người giầu có”. Cái giầu sang phú quí của nhà phú hộ này được thấy nơi những chiếc áo quá ư là mắc tiền của mình. Vải điều thậm chí còn quí hơn cả bạc và vàng, và vì thế được giành cho các bậc thần thánh (xem Giêrêmia 10:9) và vua chúa (xem Quan Án 8:26), trong khi vải lanh tốt cống hiến cho người ta một tính chất hết sức linh thánh. Con người này rõ ràng là muốn phô trương cái giầu sang phú quí của mình, và tỏ bày nó ra hằng ngày theo thói quen: “Hằng ngày yến tiệc linh đình” (câu 19). Nơi con người ấy chúng ta có thể thấy ngay được cái thê thảm của tình trạng băng hoại tội lỗi là tình trạng tiến triển theo 3 giai đoạn liên tục là yêu thích tiền của, phù du và kiêu kỳ (xem bài giảng ngày 20/9/2016).

Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta rằng “lòng yêu thích tiền của là nguồn gốc của tất cả mọi sự dữ” (1Timôthêu 6:10). Nó là nguyên do chính yếu của tình trạng băng hoại và là nguồn gốc của ghen tị, xung đột và ngờ vực. Tiền của có thể đi đến chỗ thống trị chúng ta, thậm chí cho đến độ trở thành một thứ ngẫu tượng chuyên chế tàn bạo (xem Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 55). Thay vì là một phương tiện giúp chúng ta làm lành và tỏ tình đoàn kết với những người khác thì nó có thể trói buộc chúng ta và toàn thế giới vào cái lý lẽ vị kỷ không còn chừa chỗ cho yêu thương và trở thành cản trở hòa bình.

Vậy dụ ngôn này cho thấy rằng lòng tham lam của nhà phú hộ biến con người này thành hư ảo. Nhân cách của con người ấy ở nơi các dáng vẻ bề ngoài, nơi việc tỏ cho người khác thấy những gì con người ấy có thể làm. Thế nhưng, cái dáng vẻ bề ngoài ấy là những gì che đậy một thứ trống rỗng nội tâm. Đời sống của con người này là một tù nhân cho những dáng vẻ bề ngoài, cho những khía cạnh hiện hữu nông nổi và mau qua nhất (xem Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 62).

Cái thanh ngang thấp nhất của tình trạng thoái hóa về luân lý này là tính kiêu hãnh. Nhà phú hộ phục sức như là một ông vua và tác hành như một vị thần, quên rằng mình chỉ là loài chết chóc. Đối với những ai bị băng hoại bởi lòng yêu thích giầu sang, thì không có gì hiện hữu ngoài bản ngã của họ. Những gì ở chung quanh họ đều không ở trong tầm nhìn của họ. Hậu quả của việc gắn bó với tiền của là một thứ mù lòa. Nhà phú hộ đã không nhìn thấy con người nghèo đang đói khổ, đớn đau, nằm ngay ở cửa nhà của mình.

Khi nhìn vào nhân vật này chúng ta có thể hiểu tại sao Phúc Âm đã rất ư là thẳng thừng lên án lòng yêu thích tiền của: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: họ một là ghét chủ này mà thương chủ nọ, hay gắn bó với chủ này mà khinh thường chủ kia. Các con không thể làm tôi cho cả Thiên Chúa lẫn tiền của được” (Mathêu 6:24).

3- Lời Chúa là một tặng ân

Phúc Âm về nhà phú hộ và Lazarô giúp chúng ta thực hiện việc sửa soạn tốt đẹp để tiến tới Lễ Phục Sinh. Phụng vụ của Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta đến với một cảm nghiệm rất giống với cái cảm nghiệm của nhà phú hộ. Khi vị linh mục xức tro trên đầu chúng ta thì ngài lập lại những lời: “Hãy nhớ rằng mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”. Cuối cùng thì nhà phú hộ và con người nghèo khổ đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn xẩy ra ở đời sau. Cả hai nhân vật đều đột nhiên khám phá ra rằng “chúng ta chẳng mang gì vào thế gian và chúng ta cũng không thể nào mang gì ra khỏi đó” (1Timôthêu 6:7).

Chúng ta cũng thấy cả những gì xẩy ra ở đời sau nữa. Ở đó người giầu nói dài dòng với tổ phụ Abraham, vị mà người này gọi là “cha” (Luca 16:24,27), như một dấu hiệu chứng tỏ con người ấy thuộc về dân Chúa vậy. Chi tiết này lại càng khiến cho đời sống của người này lại càng tỏ ra hoàn toàn trái ngược, vì cho đến lúc ấy vẫn chẳng có chuyện đề cập đến mối liên hệ của mình với Thiên Chúa. Thật vậy, chẳng có chỗ nào cho Thiên Chúa trong đời sống của con người ấy. Vị thiên chúa duy nhất của con người này là chính bản thân mình.

Nhà phú hộ chỉ nhận ra Lazarô khi ở giữa những cực hình đời sau. Con người ấy muốn con người nghèo kia làm giảm bớt cái khổ đau của mình bằng một giọt nước. Những gì con người ấy xin Lazarô giống như những gì con người này có thể làm được nhưng lại chẳng bao giờ làm. Abraham bảo con người ấy rằng: “Trong đời sống của mình nhà ngươi đã được đầy những cái may lành, còn Lazarô thì đầy những cái tồi tệ. Giờ đây nó được an ủi ở nơi đây trong khi ngươi đang phải chịu thống khổ” (câu 25). Ở đời sau sự công bằng sẽ được phục hồi và những cái xấu trong đời sống sẽ được quân bằng lại bằng sự thiện.

Dụ ngôn này tiếp tục cống hiến cho tất cả mọi Kitô hữu một sứ điệp. Nhà phú hộ xin Abraham sai Lazarô về cảnh báo cho anh em của mình là những kẻ còn đang sống. Thế nhưng Abraham đã trả lời rằng: “Họ đã có Moisen cùng các vị tiên tri, họ hãy lắng nghe các vị ấy” (câu 29). Đụng phải những kháng cự của nhà phú hộ, Abraham nói thêm rằng: “Nếu họ không lắng nghe Moisen hay các vị tiên tri thì họ cũng sẽ chẳng tin cho dù có ai sống lại từ kẻ chết” (câu 31).

Như thế thì cái vấn đề thực sự của nhà phú hộ đã hiện lộ. Ở căn gốc về tất cả mọi thứ bệnh hoạn của con người này là không nghe lời ChúaDo đó con người này đã không còn kính mến Thiên Chúa và gia tăng việc khinh khi tha nhân của mình. Lời Chúa là những gì tồn tại và quyền năng, có thể hoán cải các tấm lòng và dẫn chúng về với thiên Chúa. Khi chúng ta khép lòng mình lại trước tặng ân lời Chúa thì chúng ta đi đến chỗ khép mình lại trước tặng ân anh chị em của chúng ta.

Các bạn thân mến, Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để tái tấu việc chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô đang sống động nơi lời của Người, nơi các Bí Tích cũng như nơi tha nhân của chúng ta. Lạy Chúa, Đấng đã chiến thắng các mưu mô lừa đảo của Tên Cám dỗ trong 40 ngày ở sa mạc, xin cho chúng con thấy đường lối chúng con phải theo. Xin Thánh Linh dẫn chúng con thực hiện cuộc hành trình hoán cải thực sự, nhờ đó chúng con có thể tái khám phá ra tặng ân lời Chúa, có thể được thanh tẩy khỏi tội lỗi làm cho chúng con bị mù quáng, và có thể phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong anh chị em thiếu thốn của chúng con. Tôi khuyến khích tất cả mọi tín hữu hãy thể hiện cuộc canh tân thiêng liêng này bằng cả việc tham dự vào các Chiến Dịch Mùa Chay được nhiều tổ chức Giáo Hội phát động ở các phần đất khác nhau trên thế giới, và như thế hướng về nền văn hóa gặp gỡ trong gia đình nhân loại duy nhất của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để, nhờ được tham dự vào cuộc vinh thắng của Chúa kitô, chúng ta có thể mở cửa của chúng ta ra cho thành phần yếu kém và nghèo khổ. Để rồi chúng ta mới có thể cảm nghiệm thấy và chia sẻ trọn vẹn niềm vui Phục Sinh.

Tại Vatican ngày 18/10/2016

Phanxicô

http://w2.vatican.va/content/f rancesco/en/messages/lent/docu ments/papa-francesco_20161018_ messaggio-quaresima2017.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu                                                                          

Anh chị Thụ & Mai gởi

CUỐN SÁCH HAI CHỮ

CUỐN SÁCH HAI CHỮ

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.  Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban.  Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.  Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.  Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người.  Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật.  Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.  Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo.  Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu.  Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau : “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật.”  Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời.  Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31).  Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

CUON SACH 2 CHU
Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…  Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào.  Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.  Luật quan trọng nhất được khắc ghi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương.  Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật.  Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật.  Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương.  Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người.”  Giết người là có tội.  Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.  Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.  Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau.  Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự.  Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi.  Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau.  Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau.  Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý.  Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: “Chớ dâm dục“, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình.”  Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.  Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.  Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!
Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không.”  Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5,37).  Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân.  Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẽ hận thù báo oán.

Cuốn sách hai chữ : Yêu Thương

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách.  Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được.  Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn.  Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì.  Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm.  Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu.  Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng.  Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng.  Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm.  Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách.  Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa.  Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương.  Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa.  Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn.  Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi.  Viên quan đã tận tâm và thưa: muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.
 
Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26).  Đối với Phaolô: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).  Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người.  Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài.  Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).  Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu.  Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…  Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”  Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9).  Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn.  Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu.  Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu.  Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa.  Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.  Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN: TÁM MỐI PHÚC THẬT

LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN: TÁM MỐI PHÚC THẬT

Tác giả:  Lm. Đan Vinh, HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ ĐÓN GIAO THỪA ĐẦU XUÂN

Mt 5,1-10

  1. LỜI CHÚA:“Phúc thay ai có tâm hồn  nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:

Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi: 
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ cún con mỉm cười đáp: 
– Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!
Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vãy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ: 
– Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?
Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp: 
– Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!

2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:

Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: “Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?”

Một con yêu tinh khác lên tiếng: “Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được.”

Một con yêu tinh cho ý kiến: “Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới.”

Con yêu tinh khác phản đối: “Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn.”

“Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu.”

“Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết.”

Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: “Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác.”

Con yêu tinh già phản đối: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi.”

Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: “Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!”

Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc mà không biết rằng nó được giấu ngay trong tâm hồn của chính mình.

3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:

PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc!”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
  2. SUY NIỆM:

Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?

1) Hạnh phúc là gì?

Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…

Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải như vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên đôi môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic có sức khỏe vô địch lại thường âu lo bị soán ngôi như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.

Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”…

2) Hạnh phúc thực sự do đâu ?

Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe… dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?

Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu…  chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên không mang lại hạnh phúc thực sự. Điều quan trọng để có hạnh phúc thực sự là một tâm hồn bình an, luôn tìm thấy niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét ken là có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).

Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng, quảng đại tha thứ chỏ kẻ thù ghết bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị thù ghét ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết đã cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Như thế, hạnh phúc chúng ta nhận được phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa Giê-su hiện diện thì nơi ấy sẽ có sự bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):

Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại rồi bỏ sang một phòng khác.

Rồi 50 người này được tập trung tại phòng chứa bóng và được yêu cầu tìm quả bóng ghi tên của mình trong thời gian 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm và căn phòng trở nên hỗn loạn, nhưng khi hết 5 phút mà không mấy ai tìm thấy trái bóng tên mình.

Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng của mình.

Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.

Hạnh phúc của chúng ta nằm trong hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng mà không thấy. Họ chỉ cần trao bóng hạnh phúc cho kẻ khác là chính họ cũng sẽ tìm được hạnh phúc của chính mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại:  Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

 

4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở trong lòng mình và ở bên cạnh mình. Có điều chúng ta quên điều này mà đi tìm ở nơi đâu khác và cuối cùng đã bị mất hạnh phúc.

Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng mình. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta phải quyết tâm thực hành Tám Mối Phúc trong cách ứng xử quên mình vị tha, công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ứng xử hiền lành, chấp nhận con đường qua đau khổ vào vinh quang, luôn khát khao nên người công chính, có lòng chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa…

Niềm hạnh phúc của một tâm hồn luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con được bình an, vui vẻ từ ngày hôm nay, là dấu chỉ sau này chúng con cũng sẽ được hưởng an bình hạnh phúc trên Thiên Đàng với Chúa.- AMEN.

LM ĐAN VINH-HHTM

THÔNG ĐIỆP CỦA MÙA XUÂN

THÔNG ĐIỆP CỦA MÙA XUÂN

GM Giuse Vũ Văn Thiên

MUA XUAN

Mùa xuân Đinh Dậu đang về.  Vẫn biết rằng, đông qua thì xuân tới, mà lòng người vẫn thấy xốn xang, khi những tín hiệu đầu tiên của mùa xuân xuất hiện.  Thì ra, mùa xuân không chỉ là một khoảnh khắc thời gian tiếp nối xoay vần, mà còn là thời điểm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống con người.  Tiết trời, thiên nhiên, lòng người đều như muốn gửi đến với chúng ta những thông điệp có ý nghĩa đối với cuộc sống hằng ngày.

Mùa xuân đến mời gọi chúng ta canh tân đổi mới.  Trong suốt mùa đông, thời tiết u ám, giá lạnh.  Khi mùa xuân đến, vũ trụ thiên nhiên như bừng tỉnh và khoác trên mình một chiếc áo mới, huy hoàng lộng lẫy.  Mặt trời sau những ngày vắng bóng, nay trở lại sưởi ấm lòng người, chiếu soi vũ trụ.  Nếu tiết đông là biểu tượng của sự chết, thì mùa xuân là hình ảnh của sự sống.  Cùng với muôn loại cỏ cây, chúng ta được mời gọi canh tân cuộc đời, sang một ngã rẽ mới.  Đoạn tuyệt với mùa đông, cũng là đoạn tuyệt với lối sống cũ, còn vương nhiều khiếm khuyết, để vươn tới một tương lai tươi sáng huy hoàng hơn.  Bước sang xuân mới, người ta khép lại quá khứ, để sống cho hiện tại và hướng về tương lai với những dự phóng mới.  Lời mời gọi canh tân là một trong những sứ điệp quan trọng của Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ bằng lời gọi sám hối vì “Nước Trời đã đến gần” (x. Mc 1,15).  Sám hối canh tân luôn gắn liền với đời sống Kitô hữu, bởi con người sống giữa trần gian luôn bị giằng co giữa nhiều khuynh hướng.  Có những khuynh hướng tốt đưa họ hướng thượng để gặp gỡ Đấng Tối cao, nhưng cũng có những lôi kéo làm cho con người chìm trong biển đam mê sa đọa.  Giữa hai ngả đường, người khôn ngoan chọn cho mình hướng đi đem lại bình an và thăng tiến; người thiển cận lại chỉ chú ý đến những niềm vui hào nhoáng nhất thời.  Mùa xuân gửi đến cho chúng ta thông điệp: hãy đổi mới cuộc đời và hãy khôn ngoan chọn lựa cho mình một hướng đi.  Người tin Chúa nhận ra nơi Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống.  Ai tin nơi Người sẽ tìm thấy hạnh phúc và niềm vui.  Nếu người tín hữu thành tâm sám hối, là vì họ tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa.  Ngài sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm, dù nghiêm trọng đến đâu chăng nữa, bởi Ngài là Cha nhân hậu.  Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân từ bỏ tội lỗi.  Cả triều thần thiên quốc cũng chung vui niềm vui ấy (x. Lc 15,7).  Nếu chúng ta luôn sống trong tinh thần canh tân đổi mới, cuộc đời của chúng ta sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn, vì cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời, nhờ đó, tâm hồn chúng ta sẽ thư thái và bình an.

Những mầm non mới nhú của mùa xuân mang đến cho chúng ta thông điệp hy vọng.  Ở các xứ lạnh, cây cối khẳng khiu dường như đã chết hẳn trong tiết lạnh của mùa đông, nhưng khi mùa xuân về, từ những thân cây tiêu điều ấy, lại trỗi dậy những tín hiệu của sự sống.  Cuộc sống không phải lúc nào cũng êm trôi, nhưng luôn có những khó khăn thử thách.  Có những người can đảm trỗi dậy sau những vấp ngã; nhưng cũng có những người bi quan chán nản buông trôi theo dòng sông định mệnh.  “Lửa thử vàng, gian nan thử đức,” mùa xuân gọi mời chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan về cuộc sống, để vươn tới tương lai.  Quả vậy, phần lớn những vĩ nhân và những người thành đạt trong cuộc sống, là những người đã thất bại nhưng không chùn bước, đã vấp ngã nhưng không bi quan.  Cùng với nỗ lực phấn đấu của bản thân, người tín hữu còn tin vào ơn phù trợ của Thiên Chúa.  Ngài luôn che chở giữ gìn và chúc lành cho những ai trông cậy Ngài.  Chúa Giêsu đã trấn an các môn đệ đang kinh hoàng lo lắng: “Thày đây, đừng sợ!” (Mc 6,50).  Chúa cũng hứa: Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy và ai gõ cửa thì sẽ mở cho.  Tác giả Helen Keller đã viết: “Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối.”  “Quay về hướng mặt trời” chính là nhìn cuộc đời một cách lạc quan.  Hơn nữa, mặt trời là chính Đức Kitô, Đấng đang soi chiếu và hướng dẫn chúng ta.  Ai tin tưởng phó thác nơi Người sẽ không phải thất vọng.

Mùa xuân còn mang đến cho chúng ta thông điệp yêu thương.  Có dịp chứng kiến bầu khí xuân ở Việt Nam, những người bạn nước ngoài rất ngạc nhiên và thán phục trước nét đẹp văn hóa của ngày tết cổ truyền.  Ngày tết có ý nghĩa thiêng liêng tuyệt vời đối với người dân Việt.  Những người đi làm ăn xa, dù nghèo nàn cũng cố gắng trở về sum họp hội tụ với gia đình.  Sau những tháng ngày làm việc vất vả, về với người thân trong những ngày tết đến xuân về, họ quên hết mọi nhọc nhằn.  Tình yêu thương hài hòa cũng được thể hiện qua thói quen kiêng cữ không làm người khác buồn trong ba ngày tết.  Dịp tết đến xuân về cũng là cơ hội để hàn gắn những rạn nứt mâu thuẫn giữa các thành viên trong một dòng họ, một gia đình, hay lối xóm, để rồi, khi tiễn năm cũ, mọi người cũng “tiễn” luôn những xui xẻo, mâu thuẫn hận thù, để cùng sang một trang mới với mùa xuân.  Gặp nhau trong những ngày xuân mới, mọi người đều trở nên thân thiện, cầu chúc cho những điều tốt lành và mong cho mọi người hạnh phúc.   Tình yêu thương không chỉ dừng lại nơi những người còn sống, nhưng ngày cuối năm và đầu xuân mới cũng là những ngày thể hiện lòng hiếu thảo tri ân đối với những bậc sinh thành và những người đã khuất.  Vì vậy, trước tết, các phần mộ của tổ tiên đều được quét dọn sạch sẽ, được trưng bày hoa nến.  Với tấm lòng thành kính tri ân, người ta tin rằng ông bà cha mẹ và những người thân đã khuất luôn hiện diện với con cháu, và cùng về “ăn tết” với họ.

Nếu tinh thần của những ngày đầu xuân được trân trọng và phát huy trong suốt cả năm, thì cuộc sống của chúng ta sẽ rất tốt đẹp.  Những thông điệp của mùa xuân được gửi đến chúng ta như lời mời gọi hãy làm cho tinh thần của mùa xuân lan tỏa hằng ngày và khắp nơi trong cuộc sống.  Cho dù ngày mai còn nhiều khó khăn thử thách, bạn và tôi, hãy đón mùa xuân mới trong tâm tình phó thác cậy trông vào Đấng Tối Cao, vì biết rằng, không có gì mà Ngài không làm được (Lc 1,37).

Với tâm tình trân trọng quý mến, xin kính chúc quý Độc Giả một mùa xuân an lành, tràn đầy tình Chúa, thấm đượm tình người, ngàn muôn phúc lộc và may mắn bình an.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

Xuân Đinh Dậu 2017

Langthangchieutim gởi

Đêm, mùa trăng úa …làm vỡ hồn ta.

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 5 mùa Thường niên năm A 05/02/2017

“Đêm, mùa trăng úa …làm vỡ hồn ta.”
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua.
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu.
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng,

từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ.
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm.
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát…

chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ôi, đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh…”

(Cung Tiến – Nguyệt Cầm)

(Mt 10: 8-10)

Trần Ngọc Mười Hai

“Ôi, đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh!” Chao ôi là lời hát, rất âm-nhạc! “Long lanh tiếng Nguyệt cầm, tiếng đàn trầm”, “chết theo nước xanh”, Ối chà là thi ca, rất ấn-tượng!

Vâng. Quả có thế. Thi-ca và âm nhạc, bao giờ cũng gây ấn-tượng cả nơi người hát lẫn người nghe. Chẳng thế mà, người người lại cứ mời bạn/mời tôi ta cứ nghe câu hát để đời, tiếp theo đây:

“Long lanh long lanh … trăng chiếu một mình,
chơi vơi chơi vơi … nhạc lắng tơ ngơi
Nguyệt cầm ơi! từng lệ ngân, chết từng mùa Xuân…
Đêm, ngời men nhớ…Nhạc tê ngời thuở xưa.
Trăng sầu riêng chiếc…

Trăng sầu riêng chiếc, sầu cho tới bao giờ?
Hồn ghê bốn bề sao ngợp hồn xanh biếc trời cao.
Kià thuyền trăng, trăng nhớ Tầm Dương, nhớ nhạc vàng,

đêm ấy thuyền neo bến ấy.
Nguyệt Cầm nghe nấc từng câu…
Có hàng mây trắng về đâu?
Mắt chìm sâu, đêm lắng đời sâu.
Nguyệt Cầm khơi mãi tình sầu .
Khơi mãi nguồn đêm …Mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…

Ngập ngừng xa suối thu dồn lá úa trôi qua .
Sầu Thu sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa Thu .
Trăng Tầm Dương, lung linh bóng sáng từng thoáng lệ ngân,

mà hồn phân vân cuồng điên nhớ.
Long lanh tiếng Nguyệt cầm, tiếng đàn trầm.
Ai nhớ! Nương Tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát,

chết theo nước xanh.. chết theo nước xanh.
Ôi, đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh.”

(Cung Tiến – bđd)

Vâng. Hôm nay đây, lại cũng thấy “tiếng đàn trầm” của những “Nguyệt cầm” cũng khá buồn ở đời và trong Đạo, được đấng bậc thuộc Giáo hội Chính thống Nga, phát biểu như sau:

“Hôm rồi, Thượng Phụ Chính Thống Nga đã có buổi phỏng vấn với ký-giả của “Russia Today” bàn về một số vần-đề thời-thượng, trong đó có chuyện hôn-nhân đồng-tính và chuyện nghiêm-túc chính-trị. Đến từ đất nước, trong đó chính quyền nhiều lần tìm cách xoá bỏ Đạo Chúa suốt 70 năm liền, Thượng Phụ Kirill nay lại đưa ra một tầm-nhìn lịch-sử khá dài ngõ hầu đối-đầu với giới thù-địch ở nước này. Và dưới đây, là vài trích-đoạn rút từ cuộc phỏng-vấn hiếm có này:

 Nếu hỏi tại sao các chính-trị-gia Phương Tây lại cứ hay bài-bác chuyện chính-trị nghiêm-túc? Thì: câu trả lời, đại loại sẽ bảo rằng: chừng như cụm từ “chính-trị nghiêm-túc” có nghĩa là hạn-chế tự-do của người đi Đạo, không cho họ tiếp tục thực-thi niềm tin sắt đá nơi họ, mà thôi. Người xưa cứ bảo với ta rằng: Âu Châu chịu ảnh-hưởng cả từ Hy-Lạp cổ và La Mã xưa nữa. Điều đó, có thật. Nhưng nếu tính theo cân-lượng, thì ảnh-hưởng này không thể so với tầm quan-yếu của các giá-trị đạo-đức ở Đạo Chúa và các luật-lệ từ đó kéo dài hằng nhiều thế-kỷ.

 Thành thử, giả như Âu-Châu nay bị cắt đứt mọi mối liên-kết với nguồn gốc của nó, thì tự nó sẽ nảy sinh vấn-đề là nó có bị lôi kéo vào vào một thứ chính-trị nghiêm-túc hoặc thứ gì khác không? Đó mới là vấn-đề mà chúng là những con người lâu nay từng trải qua biết bao cuộc bách-hại ở Liên-xô, vẫn thắc mắc. Trở về với quá-khứ khi mọi sự được giải-quyết nhân-danh nhân-quyền và tự-do, mọi sự để lo cho một tương lai tươi sáng hơn.

 Thế nhưng, chỉ những người tin-tưởng nào ở vào tình-huống bị áp-lực mãi cho đến thời Đổi mới là cảm-thông được. Còn thì, giới tư-bản, trưởng-giả và chủ-đất mà các lãnh-đạo người Sô-viết mới ngưng không còn chiến-đấu chống lại tất cả những người như họ và ngay đến nền kinh-tế Sô-viết cũng chỉ giống phân nửa nền kinh-tế thị-trường mà thôi; đó là chưa kể về Chính-sách Kinh-tế Mới vào thập niên 1920; nhưng, họ đã chiến-đấu chống lại Đạo Chúa mãi đến cùng. Chẳng ai hiểu tại sao họ lại làm thế.

 Thành thử, chúng ta đã tỏ ra lo-lắng cả vào khi, dưới danh-nghĩa của một “chính-trị nghiêm-túc” và mọi quyền lợi cũng như tự-do trên hoàn-vũ, chúng ta thoáng thấy có dấu-hiệu về sự kỳ-thị chống lại những người muốn sống cởi mở đối với các xác-tín về Đạo của họ…

 Theo tôi, mẫu mã của chủ thuyết đa-sắc-tộc hoạt-động tốt hơn triết-thuyết đa-văn-hoá của phương Tây. Do bởi nước Nga là một quốc-gia đa-chủng, nhưng ý-tưởng về một chủ-thuyết đa-văn-hoá lại chẳng bao giờ được đề-bạt ở đây hết, cả vào lúc đất nước của chúng tôi chìm ngập với chủ-nghĩa Sô-viết cũng thế. Khi ấy, có người lại đã nghĩ về chuyện tuyên-bố rằng chúng tôi từng có lai-lịch một đất nước tân-kỳ nếu giữ nguyên là những người thuộc giới Sô-viết. 

Nhưng, ai cũng đều hiểu là: người Turks vẫn muốn giữ nguyên tình-trạng của người mình, là Turk, người Tajik cũng thế vẫn chỉ muốn ở thế nguyên-trạng là Tajik, người Ubeks cũng vậy và người Nga cũng không ra khỏi hiện-trạng của Nga và người Do-thái-giáo cũng thế nốt…

 Được như thế, không có nghĩa bảo rằng: chúng tôi muốn trộn lẫn sắc-tộc thành một thứ cocktail, mà mỗi người cùng mọi người vẫn phải được ở nguyên-si là mình. Nhưng, tất cả mọi người chúng tôi đều chung sống trong cùng một đất nước, nên chúng tôi phải tuân-giữ luật-lệ cũng như tỏ ra tử-tế với nhau.

 Và chính sách nghiêng về chuyện này phải được nhắm đến, tức là: không được xoá bỏ đường ranh vạch giữa các nền văn-hoá cũng như đạo-giáo khác nhau và làm nên một khối “xa-bần/hổ lốn” rút từ đó. Trái lại, chúng ta phải đoan chắc hỗ-trợ cho nhau, để mọi người có được quyền-hạn và tự-do ban-bố cho tất cả, mỗi người một cách để rồi mỗi nhân-vị có bất cứ niềm tin nào dù khác nhau vẫn có thể cảm thấy thoải mái như ở nhà mình khi sống trong đất nước của mình, chứ không như người sống cạnh người lạ…

 Nếu hỏi rằng: tương-lai của Đạo Chúa tại Âu-Châu mai ngày sẽ ra sao? Thì, câu trả lời của tôi là: Ngày nay, người đi Đạo chỉ là thiểu-số. Các giá-trị đạo-đức lâu nay ta truyền-bá đang biến dần hoặc bị lãng quên. Tại sao thế? Lý do, là vì ta cứ khuyến-khích mọi người hướng thượng, leo lên đồi cao, trong khi văn-hoá của người thường lại cứ yêu-cầu mọi người đi về hướng ngược lại, tức là: tụt xuống dưới.

 Giả như có người nào đó cứ để bản-năng của mình hướng-dẫn, và giả như văn-minh/văn-hoá nhân-loại được dựng-xây trên nền-tảng như thế đó, thì đa số mọi người sẽ theo đường lối này, lý do là vì làm thế dễ hơn, nó không đòi nhiều cố-gắng hoặc phải làm cho thật nhiều. Người nào cũng chỉ muốn có đời sống dễ chịu, thôi.

 Thế nhưng, Kinh thánh lại cứ bảo rằng” con đường chật hẹp sẽ dẫn ta đi vào sự sống”. Và, con đường chật hẹp dẫn đến ơn cứu-độ đòi phải có sự can-đảm. Nhưng, giả như con đường này biến-dạng, thì toàn-thể nhân-loại sẽ rơi tọt xuống hố. Đức Giêsu đã không thuyết-phục mọi người bằng lời rao giảng. Thật ra, cuộc sống của Ngài dưới trần-thế lại đã chấm-dứt trên Thập-giá là nơi con người đóng chặt Ngài ở trên đó. Đành rằng Ngài đã trỗi-dậy khỏi cõi chết… Thế nhưng, cũng có một số người coi là Ngài đã thất-bại.

 Giả như chúng ta không tin vào sự sống lại của Đức Kitô, thì khi đó sự sống vào cuối đời của Ngài sẽ không gây ấn-tượng gì cho lắm, cũng chỉ như thể Ngài bị xử trảm, thế thôi. Các tông-đồ cũng như thế, ngoại trừ thánh Gioan. Còn thì tất cả đều bị xử trảm. Thành thử, điều căn bản xem ra tất cả đều là người thua thiệt, thua và để mất mọi sự.

 Nhưng, thông-điệp của Đức Kitô và các tông-đồ theo Ngài đã tồn-tại suốt 2000 năm, vẫn còn đó kích-động nhiều người. Nó tạo-hứng cho các nghệ-nhân và văn-sĩ là những người sáng-tạo nhiều công-trình tuyệt-tác dù bên ngoài vẫn tạo áp-lực nghịch-ngạo. Thế nhưng, điều còn quan-trọng hơn là bảo rằng: Đức Kitô đã và đang đi vào tâm-can của rất nhiều người, dù có muốn hay không, cũng vậy…” (Xem Patriarch Kirill, Russian Orthodox Patriarch on Gay Marriage, secularisation, the future of Christianity, MercatorNet 29/11/2016)

 Đọc bài phỏng-vấn đấng bậc vị vọng ở trên, bần đạo bầy tôi đây lại nhớ đến những câu truyện kể cùng nhận-định về lập-trường sống cho nhân-sinh-quan rất dễ thấy như sau:

“Trên thế gian này, có một quy luật đã được định ra rất rạch ròi là: có gieo sẽ có gặt. 

Dưới đây là 11 điều để bạn bắt đầu:

 Cho đi một nụ cười

Nở một nụ cười và trao nó đến cho mỗi người bạn gặp, và bạn sẽ nhận được những nụ cười đáp lại.

 Cho đi những suy nghĩ tích cực

Hãy đưa ra những suy nghĩ tích cực về những người khác chung quanh bạn, và ngay cả về những thứ mà bạn đang làm, bạn sẽ có một cuộc sống tốt và những ý nghĩ tốt đẹp cũng sẽ được dành cho bạn.

 Cho đi lời tử tế

Hãy nói những điều tử tế với mọi người và lời thân ái của bạn sẽ được đáp trả bằng những lời thân ái. Nhân chi sơ, tánh bản thiện mà.

 Cho đi một thái độ lạc quan

Luôn tỏ ra lạc quan với cuộc sống, và sự vui vẻ của bạn sẽ được hoan nghênh.

 Cho đi sự cảm kích

Hãy biết ơn, cảm kích, cuộc sống của bạn sẽ có thêm những giá trị, và đến lượt bạn cũng sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.

 Cho đi sự khích lệ

Hãy khích lệ, bạn cũng tràn ngập dũng khí tươi mới để đối mặt (với thử thách) từng ngày, và hãy chuẩn bị để thu hút những người động viên cổ vũ bạn.

 Cho đi sự kính trọng

Hãy luôn kính trọng những người, những điều xứng đáng, cho đây là điều đáng để bạn phải làm và bạn sẽ nhận được những tràng pháo tay tán thưởng.

 Cho đi niềm hạnh phúc

Chia sẻ niềm hạnh phúc, đồng thời bạn cũng sẽ cảm thấy sung sướng, và nó cũng sẽ mang lại cho bạn niềm hạnh phúc.

 Cho đi thời gian của bạn

Hãy dành thời gian của bạn cho những mục tiêu lớn lao hơn mục tiêu cá nhân, và bạn sẽ nhận được những phần thưởng mà bạn không ngờ tới.

 Cho đi niềm hy vọng

Hãy luôn hy vọng và hãy xem nỗi tuyệt vọng sẽ biến mất, đức tin và niềm vui sẽ dâng lên bội phần.

 Cho đi lời cầu nguyện

Hãy cầu nguyện cho bạn bè của mình, và cho cả những người mình xem là kẻ thù. 

Bởi trên đời này, trong cuộc sống này đã có quá nhiều hận thù, hiềm khích rồi. 

Những lời nguyện cầu sẽ vượt quãng đường dài để mang điều kỳ diệu đến những nơi u tối, xóa bỏ lòng thù hận.

“Cho đi lời cầu nguyện” nghe sao thấy quen quen như các dặn dò ở Kinh Sách. Dặn dò, là vừa dặn và vừa dò để rồi hãy cứ cho đi mà chẳng cần gì đến sự thận-trọng hoặc suy-tính rất lâu ngày. Bởi, đấng thánh nhân-hiền của Đạo mình, vẫn luôn dặn-dò và khuyên nhủ như sau:

“Hãy đến với chiên lạc nhà Israel,

dọc đường hãy rao giảng: Nước Trời đã gần kề.

Anh em hãy chữa lành người đau yếu,

làm cho kẻ chết sống lại,

cho người phong hủi được sạch,

và khử trừ ma quỷ.

Anh em đã không công mà được,

thì cũng hãy cho không như vậy.

Đừng chuốc lấy vàng lấy bạc hay tiền đồng hòng vặn thắt lưng.

Không bao bị đi đàng,

cũng đừng có hai áo, giày dép, gậy gộc.

Vì làm thợ thì đáng được của nuôi thân.”

(Mt 10: 8-10)

Vâng. Đúng thế. Thợ gặt đến với chiên nhà Israel mà còn thế, huống chi là người nghèo chỉ cần những gì là tối thiểu cho cuộc sống. Một cuộc sống chỉ biết cho đi chứ không biết chuốc vào người dù nhiều thứ.

Thời hôm nay, cho đi không chỉ có nghĩa là: bố thí, vứt bỏ những gì mình có dư hoặc thừa mứa, không dùng đến. Cho đi, còn là và vẫn là tặng ban cả những gì mình đang cần hoặc túng bấn không biết được tương-lai mai ngày, sẽ ra sao.

Cho đi, hôm nay, là cho mà không nghĩ chuyện đòi lại vào một ngày rất gần, dù từ người nhận hoặc ai khác. Cho đi, hôm nay và mai rày, lại là quyết-tâm kéo dài suốt cuộc sống, dù thiếu thốn. Cho đi, còn là và sẽ là động-thái gắn liền với sinh-hoạt hằng ngày ở mọi nơi, vào mọi lúc cả những lúc và những thời không có gì để cho, chỉ muốn nhận mà thôi.

Cho đi, lại vẫn là ý-nghĩa của cuộc đời không bon chen/giành giựt, cũng rất bận. Và cho đi, chính là mục-tiêu mọi người đều nhắm đến khi quyết-tâm thực-hiện một đổi thay cho tương-lai con người ở trần-thế. Cho đi, còn đồng-nghĩa với sống hùng, sống mạnh, sống viên-mãn với người nhận mà mình không biết đang ở đâu.

Nói cách khác, cho đi là cứu-cánh của cuộc sống nơi con người ở mọi thời. Thế-trần này, phải bao gồm toàn những người cho đi chứ không chỉ mỗi nhận vào. Đó, chính là niềm tin của người đi Đạo. Bởi, niềm-tin đồng-nghĩa với thương-yêu, giùm giúp, tức “cho đi.” Tin, là cho đi và cho hết cả con người mình, tinh-thần lẫn vật-chất, chứ không chỉ mỗi của ăn nuôi dưỡng xác thể của mình.

Để minh-hoạ cho động-thái quyết cho đi vào mọi lúc, không gì hay/đẹp và khích-lệ cho bằng truyện kể ở đời có những lúc người đời cứ quên lãng mục-tiêu của đời người. Thế nên, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm câu truyện kể về động-thái “cho” làm đoạn kết cho chuyện phiếm khô-khan, nghèo-nàn ít hứng thú, như sau:

“Có ai đó nói rằng, khi quay ngược trái tim mình lên, trái tim sẽ có hình ngọn lửa. Có phải đó là ngọn lửa của yêu thương, của tình người ấm áp ? Ngọn lửa ấm áp cho tình yêu đến phút cuối của cuộc đời. Tôi cũng từng nghe người ta nói rằng, tuổi trẻ thường mang trái tim màu đỏ với tình yêu đầy nhiệt huyết, có thể cống hiến hết  tất cả những gì mình có cho tình yêu và lý tưởng. Nhưng phải chăng chính vì trái tim nhiệt huyết ấy mải mê chạy theo nhng đam mê hoài bão, mà vô tình quên mất đi ngọn lửa yêu thương?

 Có lần về Việt nam, tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà già mù lòa đi ăn xin, trong cơn mưa lạnh căm căm, không một manh áo ấm. Nhưng đi đến đâu người ta cũng xua đuổi. Người bán hàng sợ “xui”, sợ hôi, sợ dơ, sợ cả một ngày bị bà già “ám” mà không bán được hàng. Người qua  đường thì muốn đi thật nhanh, tránh đụng phải bà già mà sẽ bị bẩn những bộ quần áo đắt tiền. Có người còn ra vẻ am hiểu sự đời “Thời nay người giả ăn mày không hiếm. Đừng hòng giả dạng mà qua mặt được ta”…

 Một đám đông xúm lại trên đường quây quanh một cô gái trẻ đang bị hai thanh niên côn đồ đánh đập dã man. Cuối cùng cô bị ngã nằm sống soài trên đường, máu bê bết, quần áo bị xé nát tả tơi, ánh mắt cầu cứu van xin. Nhưng không ai thèm để ý. Họ tụ  năm tụm bảy tại đây không gì hơn ngoài sự hiếu kỳ. Mọi người đang thưởng thức một bộ “phim  kiếm hiệp”. Người ta không muốn dây dưa, chẳng muốn dính vào. Cả mấy chục thanh niên trai tráng bu quanh vẫn sợ hai thằng lưu manh kia mới lạ. Không ai phí công gọi điện cho cảnh sát. Chẳng kẻ nào muốn xắn tay đưa cô gái đến bệnh viện vì nghĩ sẽ gặp rắc rối nếu nạn nhân chết trên đường. Có người độc miệng còn nói “ Chắc cũng là trai gái làng chơi thanh toán với nhau thôi”.

 Tôi cũng đã từng trông thấy cảnh một em bé gái mặt nhễ nhãi mồ hôi, giữa trưa nắng hè ở trước cổng trường đại học, cầu xin sự ban ơn của các anh chị sinh viên, để có thêm chút tiền đóng viện phí cho nhà thương, nơi ba em đang nằm điều trị. Em ngây thơ nên cứ tin rằng các anh chị sinh viên, với trái tim thanh niên đầy tình yêu và nhiệt huyết, sẽ có thể làm giảm bớt nỗi đau đang cào cấu ba em – nằm chờ chết trong bệnh viện. Nhưng mọi người đứng đó nghe em trình bày rồi lại lắc đầu bỏ đi. “Bọn lừa đảo bây giờ đâu có thiếu! Ai mà ngu đi tin những câu chuyện “bịa đặt” như vậy kia chứ ?”.

 Một anh chàng giám đốc trẻ gọi điện thoại về cho mẹ nói rằng, anh đang bận công việc tại sở làm khi được biết tin mẹ bệnh. Có lẽ cũng còn sót lại “chút tình người”, nên anh gửi cho mẹ một số tiền để lo thang thuốc.

 Nhưng sự thật phũ phàng, là anh ta đang bận dự lễ sinh nhật của người yêu. Bữa tiệc linh đình mà anh chiêu đãi hằng trăm bè bạn ở một nhà hàng sang trọng, để người yêu anh nở mày nở mặt. Chỉ tiền rượu thôi cũng đã tính bằng trăm triệu. Giây phút đó, nào anh có nhớ chính nhờ mẹ đã ban cho anh sự sống, và cũng chính nhờ có cái lưng còng của mẹ, nên ngày nay anh mới có thể  đứng thẳng nghênh mặt nhìn đời?

 Có thể cuộc sống ngày nay với những gian dối dẫy đầy, đã khiến bạn mất niềm tin vào con người, và từ đó dễ dàng khiến chúng ta lo sợ rằng tình thương của mình sẽ cho nhầm chỗ? Nhưng đâu phải trên thế giới này, tất cả đều là những toan tính, dối lừa …

 Bà cụ mù đi ăn xin trong trời rét căm căm, cô gái lỡ lầm bị đánh đập không thương tiếc, bé gái trước cổng trường đại học cầu xin ai đó giúp ba em: Họ đã lầm khi họ van xin không đúng chỗ, để rồi họ chỉ nhận được những cái xua tay, những cái lắc đầu quây quẩy.  Họ quá ngây thơ nên cứ hy vọng mà cầu xin một “món hàng” mà từ lâu đã trở thành “quý hiếm”: Tình thương … 

 Có ai đó nói gia đình là tất cả, nhưng bạn đã làm được gì cho gia đình ấy ? Một câu nói ân cần nhắc mẹ uống thuốc, một  chén cháo nóng lúc ba đau, đó là tình yêu không lời bạn dành cho họ. Chúng ta đã NHẬN, quá nhiều –  từ gia đình, bạn bè, từ cuộc sống, và từ cả những người không quen biết, thì cũng đến lúc mình cần phải biết CHO đi, biết ban tặng. Bạn phải biết sẵn sàng chia sẻ, sẵn sàng ban phát tình thương, như đã có rất nhiều lúc trong cuộc đời, mà bạn đã rất cần sự chia sẻ và tình thương vậy …

 Khi xưa, thời trai tráng, tôi cũng đã từng như các bạn trẻ ngày nay, đã từng chạy theo tình yêu mà quên đi ba mẹ. Tôi cũng đã từng quay mặt làm ngơ trước bao cảnh thương tâm, chỉ vì sợ bị gạt gẫm, bị chê cười. Giờ đây khi mái tóc đã lắc rắc muối tiêu, tôi mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của hai chữ “CHO và NHẬN “. Dẫu muộn màng, nhưng vẫn còn hơn không …

 Tuy biết rằng ngọn lửa nào rồi cũng có lúc tàn. Nhưng hãy để cho ngọn lửa trong trái tim chúng ta mãi sưởi ấm – đến khi còn có thể. Đừng thắc mắc, đừng đặt quá nhiều câu hỏi. Đừng sợ người, sợ ta, sợ thị phi, đàm tiếu. Hãy sống với trái tim mang dòng máu đỏ đầy yêu thương và nhiệt huyết. Nguyên tắc cuộc sống vốn vô cùng đơn giản: có CHO thì có NHẬN.

 Tôi vẫn nhớ mãi câu chuyện nhỏ ngày xưa khi còn bé. Có một buổi sáng nọ, bà ngoại tôi dắt một người ăn xin vào nhà, và đem cả một phần cơm điểm tâm ra cho người nghèo đói ấy. “Cô bé  tôi” khi ấy, mặc dù đã được ăn no căng đầy bụng, vẫn ganh tỵ mà hỏi ngoại  “Tại sao mình phải cho bà cụ đó nhiều quá vậy? Ngoại chỉ cho một miếng bánh mì là bả đã mừng lắm rồi “. Ngoại tôi cười móm mém “Con à, cuộc đời này có vay thì có trả, có cho thì có nhận. Mai này lớn lên con sẽ thấy lời ngoại dạy là đúng .. “

 Và vì thế mà đến giờ tôi vẫn luôn tâm đắc với câu “châm ngôn cuộc đời” của Ngoại: “ Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”… (Hoàng Thanh kể).

 Kể thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta quay về với nhạc-bản ở trên hát lên đôi câu ca khiến ta hăng hái tiến bước về phía trước để rồi sẽ quyết tâm làm việc gì đó mang ý-nghĩa của một nhân-sinh-quan tích-cực, không bao giờ chán nản. Bởi có cho hoài và cho mãi mới thấy cuộc đời này, đầy ý-nghĩa.

Vậy nên, ta cứ hát lên những lời ở trên, rằng:

“Đêm mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…”
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua.
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu.

Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng,

từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ.
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm.
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát…

chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ôi đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh…”

(Cung Tiến – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn phiếm lai rai

nhân-sinh-quan/lập trường

cần nhắc mãi

với mình và với người

để khỏi quên.

CHUÁ CHỮA LÀNH BỆNH LAO THẬN VÀ ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG

CHUÁ CHỮA LÀNH BỆNH LAO THẬN VÀ ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG

Linh mục:    James Manjackal

HINH 01

Trong gia đình từ thời thơ ấu, tôi đã nghe mẹ  đọc kinh Chúa Thánh Thần vào đầu những giờ kinh tối trong gia đình, việc đọc kinh thường kéo dài từ một đến một tiếng rưỡi đồng hồ. Sau này, đi học trong các chủng viện vào đầu giờ ở các lớp học cũng như trong các sự kiện quan trọng,  đã có xướng lên một lời cầu nguyện hoặc một bài thánh ca xin ơn Chúa Thánh Thần. Đó là tất cả những gì tôi biết về Chúa Thánh Thần trong quá khứ. Tôi vốn không có ngay cả một hệ giáo lý hay một luận án về Chúa Thánh Thần trong quá trình trau dồi về thần học của mình.  Tất nhiên tôi có được biết từ giáo lý rằng Đức Thánh Linh là ngôi thứ ba của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngài ban ơn trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ có một kinh nghiệm thực sự về Chúa Thánh Thần cho đến khi tôi được Chúa đụng chạm  thông qua lời cầu nguyện mạnh mẽ của một người đàn ông trẻ tuổi nọ.

HINH 2

Sau khi tôi chịu chức linh mục vào ngày 23 tháng 4 năm 1973, tôi  làm việc trong các cơ quan đại diện của Visakhapatnam khoảng một năm rồi sau đó tôi được bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại Chủng Viện SFS Ettumanoor, Kerala. (Ấn Độ)

Khi còn là sinh viên ở các chủng viện, nguyện vọng tha thiết của tôi là được làm giáo sư tại một trường đại học hay chủng viện, một vị trí thoải mái và đáng kính trong đời sống tu trì.  Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng ra được rằng mình sẽ du hành, lang thang từ nơi này đến nơi khác tập thích ứng với các tình huống khác nhau về ứng sử với con người, tương thích với văn hóa và tiêu thụ thực phẩm lạ.  Trong thâm tâm tôi đã muốn tìm kiếm cho mình các tiện nghi vật chất và sự  an lành của một cuộc sống ổn định.  Năm 1975, tôi tình cờ đọc được bài viết về ân tứ chữa lành và nói tiếng lạ từ một tạp chí Mỹ,  “Giao ước mới”.  Tôi không thể tin rằng vào những ngày trong thời đại này lại có người được chữa lành bởi đức tin và lời cầu nguyện.  Tôi chế giễu những ơn tiếng lạ, cho rằng nó xuất ra từ  cảm tính rên rỉ thái quá của phụ nữ !.  Tâm trí tôi tràn ngập niềm tự hào về  kiến thức Triết học và Tâm lý học của mình.  Sau đó, tôi nghe nói về một khóa tĩnh tâm Đặc Sủng ở Poona ,  Bắc Ấn Độ.  Cùng với một linh mục già thuộc giáo đoàn, tôi đã tham dự khóa tĩnh tâm  của cha James D’Souza. Cha là một nhà thuyết giảng hùng hồn và là một ca sĩ có giọng hát hay. Tôi thích sự giảng dạy và ca hát của Ngài. Tôi đã đi lên không phải để tiếp nhận một lời cầu nguyện chữa lành vì tôi không bị bệnh. Tôi đã thực hiện một buổi xưng tội sốt sắng và làm theo tất cả các hướng dẫn của các nhà truyền giáo như đưa tay lên cao và vỗ tay.  Khi Ngài nói về ơn nói tiếng lạ và các đặc sủng khác, tôi nghĩ rằng ơn đó không dành cho tôi nhưng ban xuống cho các tâm hồn ưu tú về tâm linh. Vào ngày Nhóm đón nhận “Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần” tôi chuẩn bị tốt tinh thần ,  ngồi cùng với các thành viên khác nhưng tôi  đã không cảm nhận được bất cứ điều gì đặc biệt khi được Cha cầu nguyện và đặt tay trên tôi.

Cha phụ trách tĩnh tâm, khi đến cầu nguyện trên tôi, Ngài nói, “James một ngày nào đó bạn sẽ là nhà thuyết giảng Đặc Sủng”, nghe điều này, tôi cười to và nói “không bao giờ, không bao giờ đâu”.  Không chỉ có vậy, tôi không thể chấp nhận những cách đặc biệt của Canh Tân Đặc Sủng đâu, và tôi luôn luôn tỏ ra nhút nhát trước mặt người khác. Từ những ngày còn đi học và sau này được đào tạo trong chủng viện, tôi đã không thể phát biểu trước đám đông.  Ngay cả sau khi chịu chức, tôi là một người thất bại hoàn toàn trên bục giảng.  Tôi vẫn còn nhớ rõ những gì đã xảy ra với tôi trong dịp giảng bài đầu tiên của mình.  Sau khi chịu chức, với nhiều miễn cưỡng, tôi đành đồng ý để cử hành Thánh Lễ và giảng vào ngày hôm sau, một ngày lễ Chúa nhật.  Ở nhà tôi đã chuẩn bị trên giấy một vài ghi chú về Tin Mừng của ngày hôm đó và kẹp chúng trong quyển Kinh Thánh mới của tôi.  Tôi không gặp vấn đề khi dângThánh lễ, vì tôi sẽ nhìn vào sách lễ mà đọc những lời cầu nguyện và những lúc khác tôi thường khép mắt lại vì tôi sợ phải nhìn vào mọi người. Sau khi đọc bài Tin Mừng tôi nhìn dán chặt cả hai mắt trên cửa chính cuối nhà thờ và bắt đầu tìm kiếm tờ giấy ghi chú kẹp sát bìa bên trong quyển Kinh Thánh.  Tôi trở nên rất lo lắng và sợ hãi, tôi quên mất là đã để chúng ở phía bìa bên phải hoặc bên trái sách.  Tôi sợ không dám dời mắt khỏi cánh cửa nhà Thờ và nhìn vào Kinh Thánh, vì tôi nghĩ rằng làm như vậy mình sẽ nhìn thấy dân chúng và với tình trạng sợ hãi này tôi sẽ sup đổ cách thảm hại hơn. Run rẩy, đổ mồ hôi, nhiều lần tôi đã cố gắng để thốt lên vài lời, … “Anh Chị Em thân mến, thân mến” mà không nói thành câu. Đến vài phút đã trôi qua, từ bên trong cửa sổ, cha xứ nhìn biết tình trạng khó khăn đến ngớ ngản của tôi, Ngài thì thầm qua cửa sổ “Cha giảng đủ rồi, bây giờ Cha có thể tiếp tục Thánh Lễ.”  Giống như một quả bóng xì hết hơi, xấu hổ và tự thương hại, tôi tiếp tục dâng Thánh Lễ. Tôi chắc chắn rằng mọi người có thể đã cười hay thương hại cho vị linh mục trẻ,  mới và nhút nhát!  Sau Thánh Lễ khi tôi đến phòng thánh, tôi nghe một vị linh mục nhận xét: “Cha ấy là một nhà truyền giáo của (Dòng)Thánh Francis de Sales, ông sẽ rao giảng điều gì đây?”.  Đó là lý do tôi đã cười khi nghe Cha phụ trách tĩnh tâm nói rằng tôi sẽ là một nhà giảng thuyết đặc sủng.  Nhưng đó quả thực là một lời tiên tri!  Vì trong suốt 32 năm tiếp theo, tôi chỉ dùng thời gian này để truyền giảng ở khắp nơi trên thế giới.

Vào ngày cuối cùng của khóa tĩnh tâm, hầu hết mọi người tham gia đã lên làm chứng về ơn chữa lành của Chúa, chia sẻ kinh nghiệm được các ơn tiên tri, ơn thị kiến, ơn tiếng lạ,… Tuy nhiên, riêng tôi, không có được ơn gì để làm chứng.  Nhiều người đã có kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa Giêsu và được nghe Ngài nói chuyện với họ!  Tôi cảm thấy buồn bã.  Tôi bắt đầu cáo tội mình vì quá tự hào nên đã không hợp tác đầy đủ với việc tĩnh tâm và không gặt hái được các ơn tứ của Chúa Thánh Thần.  Có lẽ tại thời điểm này trong sâu thẳm con tim, tôi bắt đầu ao ước và khao khát thần khí Chúa. Nhiều người bạn tò mò hỏi tôi đã nhận được ơn gì trong khóa tĩnh tâm nhưng tôi không thể đưa ra một câu trả lời chính xác nào.  Rồi một tuần sau khi tĩnh tâm, tôi đã bị ốm nặng lần đầu tiên trong đời.  Tôi nằm ở hai bệnh viện trong hơn bốn tháng.  Tôi trở nên yếu và xanh xao, không thể ăn do các cơn đau trong dạ dày, lưng tôi cũng rất đau.  Tôi nôn thốc tháo ra mọi thứ kể cả các viên thuốc.  Khi đứng lên, tôi không thể tự dâng Thánh lễ, tôi quen với việc dâng Thánh Lễ trên giường với sự giúp đỡ của một số linh mục khác.  Khi nhìn thấy tình trạng đau ốm nặng nề và thảm hại của tôi, nhiều người nghĩ rằng tôi sẽ không thể sống lâu.  Cuối cùng bệnh tật của tôi được chẩn đoán, đó là bệnh lao ở thận cùng với sỏi thận và nhiễm trùng. Liệu pháp bao gồm chín mươi mũi tiêm và uống thuốc viên con nhộng trong hai năm để chữa bệnh lao. Các bác sĩ đề nghị phẫu thuật trong thận sau chín mươi ngày tiêm thuốc.

Vào ngày thứ bảy kể từ khi bắt đầu cuộc điều trị dài ngày này, một điều lớn lao đã xảy ra làm thay đổi toàn bộ cuộc đời của tôi.  Trong buổi chiều sau giờ ngủ trưa, tôi đang trò chuyện với hai Sơ đến thăm, đột nhiên có một người đàn ông trẻ, khoảng hai mươi tuổi đi về phía tôi và hỏi: “Thưa Cha, con xin phép cầu nguyện trên Cha cho được chữa lành “.  Vào thời điểm đó, Canh Tân Đặc sủng chưa được biết đến và truyền bá tại Kerala, thậm chí không có linh mục nào thực hành việc cầu nguyện chữa lành. Nhưng người Tin Lành Ngũ Tuần quen thuộc với việc cầu nguyện cho sự chữa lành.  Là một linh mục Công giáo, tôi không muốn một người Tin Lành Ngũ tuần đặt tay trên tôi, một linh mục.  Khi tôi hỏi anh ta về nhân thân, anh nói rằng chỉ mới tám tháng nay, anh đã được biết Chúa lãnh nhận phép rửa tội và được ban cho nhiều đặc sủng của Chúa Thánh Thần.  Tôi càng không thể nào tin rằng Chúa đã sai anh ta du hành bằng xe buýt đến bệnh viện để lo cầu nguyện cho tôi.  Chưa bao giờ chúng tôi từng quen biết nhau trước đây!  Anh không chờ đợi tôi cho phép anh trong việc đặt tay cầu nguyện, kết thúc chia sẻ lời chứng của mình, Anh ta đặt tay trên đầu của tôi và bắt đầu cầu nguyện. “Lạy Cha trên trời, xin gởi Con của Ngài là Chúa Giêsu giờ đây đến với vị linh mục này đang bị tổn thường vì bệnh lao thận, sỏi thận và nhiễm trùng và phục hồi ngài hoàn toàn lành mạnh trong cơ thể và tâm hồn”.  Khi đó, tôi nghĩ trong tâm trí mình rằng anh ta có thể đã thấy các biểu đồ bệnh viện nơi bệnh tật của tôi được báo cáo!  Tôi đã không biết rằng anh đang cầu nguyện với ơn trí tri.  Nhiều lần anh đã cao rao ngợi khen Thiên Chúa và đôi khi xen lẫn với tiếng lạ trong lời cầu nguyện.  Tôi cảm thấy một luồng điện chạy từ tay anhtruyền dẫn vào trong tôi.  Rồi tôi ý thức được sức mạnh của việc ca ngợi và cầu nguyện công khai. Trong khóa tĩnh tâm tôi không thể tán thành việc cầu nguyện ồn ào với các lời ca khen lớn tiếng.  Đột nhiên tôi nghĩ đến những lời cầu nguyện của người mù, ăn xin có tên là Barthimaeus. Ông đã kêu nài lớn tiếng “Lạy Con Vua David, xin thương xót tôi”.  Mặc kệ các môn đệ đã cố gắng để giữ cho ông yên lặng, nhưng ông càng gọi lớn hơn nữa.  Sau đó, Chúa Giêsu gọi ông đến bên và ban cho điều ông thỉnh cầu (Mc 10: 46-52).  Biểu lộ ra ngoài miệng chính là sự diễn tả ước muốn từ trái tim!  Một lời nguyện to và mạnh mẽ từ miệng là sự dốc đổ lòng ao ước mãnh liệt và tín thác của linh hồn.

” Tiếng tôi lên với Thiên Chúa, tôi kêu,

tiếng tôi lên với Thiên Chúa,

Người sẽ ghé tai lại với chúng tôi,     (Tv 77: 1).

Các tông đồ vào thời điểm của cuộc bách hại thứ nhất, dâng cao lời kêu xin lên Thiên Chúa.  Lời cầu nguyện của họ mạnh đến mức làm rung chuyển ngôi nhà mà họ đang tụ tập với nhau (Cv 4: 24-31).  Tất cả sự hoài nghi của tôi về việc cầu nguyện lớn tiếng đã được chữa lành hoàn toàn.  Tôi cũng bắt đầu cầu nguyện cùng anh ta với lời ca ngợi vang xa.

Sau đó, chàng thanh niên bắt đầu chuyển hướng cầu nguyện với một cung giọng khác, cho các sự kiện xảy ra trong quá khứ của cuộc đời tôi. Anh cầu nguyện “Lạy Chúa, vị linh mục này là một linh mục tốt lành nhưng Ngài không thể rao giảng Tin Mừng vì Ngài rất hay mắc cỡ và rụt rè, căn nguyên của một mặc cảm tự ti đã phát triển trong thời thơ ấu của mình. Ngài đã mất cha khi lên bảy tuổi. Ngài cảm thấy bị xua đuổi và phân biệt đối xử trong số năm người con cùng sinh hoạt chung. Mẹ góa bụa của Ngài rất vất vả để nuôi nấng các con. Ngài mập và to con nên anh chị em gọi đùa là “thằng béo”. Bạn trong trường gọi Ngài là “thằng đen” vì là người da màu. Như vậy, tuổi thơ đã chịu đựng rất nhiều thương tổn, Em nhỏ này, đã có nhiều oán hận kẻ khác trong tim mình. Lậy Chúa, Xin Chúa Thánh Thần lấy đi khỏi Ngài các vết thương, sự oán giận và ban cho Ngài một tâm tư mới. Giải thoát Ngài khỏi mọi trói buộc và quyền lực của tối tăm. Ôi, lạy Chúa Thánh Thần xin đổ đầy tim Ngài với tình yêu của Chúa…” Tôi bị sửng sốt vì lời cầu nguyện, Anh ta như phân cắt nội tâm tôi ra thành từng mảnh trong sức mạnh của Lời Chúa. (Thư Do Thái 4:12) . Vì  tất cả những gì anh nói là sự thật trong cuộc sống của tôi.  Tôi biết chắc rằng các bệnh trạng anh nêu ra trong khi cầu nguyện không hề hiện hữu trong các biểu đồ của bệnh viện!  Anh ta đã đọc một biểu đồ từ Chúa Thánh Thần! Trong nước mắt tôi đã nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: ” “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. ” (Lc 10: 21).  Một lần nữa tôi khóc cho niềm tự hào vô nghĩa của tôi, đặc biệt là sự tự hào về trí tuệ thông thái của mình.  Tôi cảm biết là mình quá thô thiển trong cách dùng hiểu biết thế gian mà đo lường và giới hạn sự khôn ngoan và tình yêu không có giới hạn, không thể dò thấu của Thiên Chúa. Tôi nhận ra rằng người thanh niên này, một người tân tòng, lại được ơn tái sinh trong Chúa Thánh Thần trong khi đó thì tôi, một người Công giáo truyền thống, một vị linh mục thụ phong, vẫn còn ở trong bản tính xác thịt của mình.  Tôi bắt đầu hiểu rằng những điều mắt chưa thấy, tai chưa hề nghe và lòng người chưa từng nghĩ đến, thì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn cho những kẻ yêu kính Ngài. Vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta nhờ Thần khí, bởi Thần khí dò thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa.  (I Cor 2: 9-10).  Tôi nhận thức có nguồn nước hằng sống đang chảy qua tôi và giải thoát cho tôi khỏi tội nhơ.  Tôi cảm thấy có năng lượng tập trung trên thân mình, một cảm giác ấm áp trên bụng và trên phần của thượng thận ở lưng.  Tôi tin rằng Chúa đã chữa lành cho tôi.  Tôi tuyên bố sự chữa lành và ngợi khen Chúa Giêsu.

Vào ngay lúc đó tôi có một nỗi sợ nảy ra trong lòng, đó là, liệu người đàn ông trẻ này vốn có thể nhìn thấy tôi một cách từ trong suốt cho đến thấu suốt, sẽ nói trắng ra các tội lỗi tàng ẩn quá đặc biệt của tôi trước mặt hai Sơ này.  Rồi, anh ta cầu nguyện “Lạy Chúa Giêsu, chính Ngài đã gọi cha tới chức linh mục, nhưng Cha đang dâng tiến lễ với trái tim và bàn tay không thanh tịnh”. Những lời của tiên tri Malachi đến tâm trí của tôi và bắt đầu cáo buộc tội tôi về sự không thánh khiết trong chức linh mục.  ” hỡi các thầy tế lễ khinh dể danh ta!… Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta.”  (Mal 1: 6-7).  Anh tiếp tục cầu nguyện rằng ” Vị linh mục này đang còn chưa tha thứ đối với nhiều người, xin ban ơn biết tha thứ cho người khác và rửa Ngài trong máu quý giá của Chúa và ban cho Cha một quả tim trắng hơn tuyết” (Is 1: 18).  Vào thời điểm này, chính Chúa Thánh Thần bắt đầu cáo buộc về các tội lỗi tôi đã phạm (Ga 16: 8).  Tôi không biết rằng cậu thanh niên đã bước ra khỏi phòng với các sơ để đi cầu nguyện đặt tay cho những người khác.  Tôi nhìn thấy một tờ giấy trắng trước mặt tôi, trong đó có ghi rõ ràng tất cả tội lỗi của tôi, những tội lỗi tôi đã xưng ra, và đôi khi những tội tôi dấu diếm vì sợ hãi và xấu hổ.  Tôi thấy rõ người mà tôi chưa tha thứ và những người mà tôi chưa thực sự làm hòa trong tâm tư. Tôi thấy trái tim của tôi bị bao bọc trong tối tăm với tấm màn của những thói quen xấu và mạng nhện của sự giả hình.  Lời Chúa, về sự rước Chúa cách bất xứng tất sẽ đưa đến sự tội và bị kết án (I Cor 11: 27), bắt đầu xua đẩy tôi vào một cuộc khủng hoảng sâu trong lương tâm.  Tôi đã có một thói quen xấu bắt rễ sâu xa từ tuổi thiếu niên của tôi.  Ngay cả bàn tay của tôi đã nhuộm vàng với mùi hôi của khói thuốc lá.  Trong nước mắt tôi thưa: “Lạy Chúa, con không thể thoát ra khỏi những thói quen xấu này. Con bất lực. Con không thể tiếp tục làm một linh mục thánh thiện” Trong những giọt lệ, tôi kêu khóc với Chúa, có lẽ là lần đầu tiên trong đời tôi cầu nguyện với nước mắt. Tôi hoang mang cực độ, không biết là nên rời khỏi chức vụ linh mục hay tiếp tục.  Chúa Thánh Thần trong tôi đang nói, nếu tôi muốn tiếp tục, tôi phải là một linh mục thánh thiện, một con người khác.  Tôi cho rằng các Thánh lễ tôi dâng trong quá khứ đã không được chấp nhận bởi Cha trên trời và không một lời lời cầu nguyện nào của tôi đã được Chúa nghe lời.  Khi tôi bước lên bàn thờ tôi cần phải tha thứ và hòa giải (Mt 5: 23).  Tôi phải tha thứ cho người khác để cho lời cầu nguyện của tôi có hiệu quả (Mc 11: 25).  Tôi nghĩ rằng tôi là một con người khốn khổ, hoàn toàn hư mất!  Tôi đang ở trong bóng tối đen ngòm, nghi ngờ và bối rối.  Tôi nghĩ rằng mình đã lừa dối Thiên Chúa và mọi người trong chức linh mục của mình.  Tôi đang cầu nguyện trong sự bất lực “Lạy Chúa xin cứu con là kẻ tội lỗi”.

Thiên Chúa của tôi đã không bỏ rơi tôi trong tuyệt vọng.  Lần đầu tiên trong cuộc sống của tôi, tôi thấy Chúa Phục Sinh đi về phía tôi trong ánh sáng chói lòa.  Khuôn mặt Ngài chiếu sáng, áo trắng của Ngài lấp lánh hào quang.  Bao quanh Ngài có nhiều thiên thần.  Tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc du dương của các thiên thần.  Ngài đặt tay lên vai tôi, tôi đã trở nên rất nhỏ bé trước Ngài.  Chúa nói với tôi một cách rất rõ ràng “James, con là linh mục của ta mãi mãi. Ngay từ khi ta thụ thai trong lòng mẹ ta (cung lòng của Đức Maria), con đã có đó như một linh mục chia sẻ chức vụ tư tế đời đời của ta. Cha tha thứ cho tất cả tội lỗi của con và làm cho con hoàn toàn nên mới”.  Đó là một sự mặc khải lớn lao đối với tôi, rằng tôi đã thuộc về nhiệm thể của Ngài từ khi Ngài mặc lấy hình dạng con người.  Đức Maria đã trở thành mẹ của tôi từ lâu trước khi Chúa Giê Su giao phó Mẹ cho nhân loại trên thập tự giá khi nói “ Này là con Mẹ…”. Rồi tôi thực sự cảm nghiệm được sự gần gũi với Mẹ Maria, tôi cảm thấy mình như một em bé được an ủi và chữa lành trong khi Mẹ bế đặt trên đùi mặc dù tôi không nhìn thấy Mẹ.  Không có từ nào diễn tả hết được kinh nghiệm tôi đã trải qua trong buổi ngất trí kéo dài hơn ba tiếng rưỡi đồng hồ.  Chúa bảo tôi thực hiện một cuộc thú tội tổng thể thật sâu sắc về cuộc sống quá khứ của tôi.  Ngoài ra, Ngài hướng dẫn tôi ra đi hòa giải với những người mà tôi oán hận.  Trong thời gian dài được đào tạo ở chủng viện hay trong nhà tập, tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu trong cầu nguyện hay nghe giọng nói ngọt ngào này mặc dù Giáo Sư và Linh hướng của tôi đã dạy tôi chiêm niệm và cầu nguyện.  Bây giờ tôi biết rằng lời cầu nguyện và chiêm niệm không phải là một cái gì đó mà tôi có thể đạt thấu nhưng là ơn mà tôi có thể nhận được chỉ như món quà tinh khiết của Chúa Thánh Thần.

Tôi thức dậy từ giấc mơ đầy ơn phúc khi một y tá gọi tên tôi.  Tôi nhìn thấy cô đứng trước tôi với các liều thuốc tiêm và viên thuốc.  Với nhiều niềm vui trong tim, tôi nói với cô ấy rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm sâu sắc về sự đụng chạm của Chúa Giêsu và tôi đã được chữa lành.  Khi cô rời khỏi phòng tôi cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa với một giọng nói lạ, tôi cảm thấy rằng ngôn ngữ và lời nói của tôi được gỡ bỏ và Chúa Thánh Thần cho một ngôn ngữ và lời nói mà nghĩa của nó là khó hiểu với tôi.  Món quà rất đáng gọi là quà tặng là ơn nói tiếng lạ, mà tôi vốn đã không muốn có, nay được trao cho tôi bởi Chúa của tôi.  Tôi đã thực sự cố gắng để hội ra được mọi chiều: rộng, dài, cao, sâu của tình yêu vô biên của Thiên Chúa thể hiện qua Chúa Giêsu, Con của Ngài (Eph 3: 18).  Sau một lúc, bác sĩ điều trị đến và trách cứ tôi vì không chịu dùng thuốc.  Ông nói: “Cha là một linh mục, tôi tin rằng Cha có ý thức và kiến thức, Cha có nghĩ rằng Cha lại đang được chữa lành bằng lời cầu nguyện của thanh niên tân tòng. Nếu Cha không uống thuốc, bệnh sẽ tái phát.”  Tôi nói: “Xin lỗi Bác sĩ, tôi sẽ uống thuốc nhưng tôi biết mình được chữa lành bởi những lời cầu nguyện của cậu nhỏ”.  Tôi uống viên thuốc và chịu mũi tiêm trước sự hiện diện của bác sĩ bởi vì tôi biết rằng các bác sĩ và thuốc men đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa và tôi hứa rằng tôi sẽ tiếp tục việc điều trị theo y khoa cho tới khi ông có kết luận khác (Huấn ca 38: 1-2).

Tôi rất hạnh phúc và vui vẻ.  Tôi bắt đầu nói với những người bên cạnh và các Sơ về việc được chữa lành.  Đêm hôm đó, tôi có giấc ngủ ngon và sâu mà không cần một viên thuốc ngủ.  Đó là sự lành bệnh về thể lý đầu tiên mà tôi nhận được.  Kể từ khi tôi có vấn đề về thận, tôi đã không thể ngủ được nếu không sử dụng thuốc an thần.  Hôm sau, tôi thức dậy vào lúc 4 giờ sáng như thể có ai đó đánh thức mình dậy sớm, chắc chắn vị đó là Chúa (kể từ ngày hôm đó tôi luôn thực hiện việc cầu nguyện cá nhân hàng ngày vào buổi sáng lúc 4 giờ).  Tôi ngồi trên chiếc ghế của tôi và cầu nguyện trong một tiếng rưỡi với cùng kinh nghiệm sốt sắng của ngày hôm trước nhưng với sức mạnh gia tăng hơn nhiều.  Trong lúc tôi cầu nguyện, Chúa đặt để sự khôn ngoan của Ngài vào trong miệng của tôi và trao cho năng lực để rao giảng về Vương Quốc của Ngài và ra lệnh cho tôi phải từ chức giáo sư chủng viện và đi ra rao giảng.  Sau khi cầu nguyện tôi đi bách bộ một giờ.  Mới ngày hôm trước, tôi còn không thể đứng dậy một mình ra khỏi giường và bước xung quanh căn phòng! Sau khi tắm rửa, tôi liền đi đến nhà nguyện cử hành Thánh Lễ cùng với hơn một trăm năm chục người tham dự. Bài đọc Tin Mừng trích sách Luca chương mười chín, về câu chuyện của Gia kêu.  Không có bất kỳ sự chuẩn bị trước nào, cậy dựa hoàn toàn vào Chúa Thánh Thần tôi đã có thể giảng trong mười tám phút và làm điều đó nữa, tức là nhìn mặt đối mặt với mọi người.  Tôi cảm thấy đã hoàn toàn được giải thoát khỏi gánh nặng và trói buộc của sự sợ hãi và mặc cảm tự ti. Tôi cảm thấy có một sự gần gũi đặc biệt với những người trong Thánh Lễ. Tôi có thể nhìn ngắm họ với sự tự do và tình mến như thể mỗi người là anh chị em ruột của tôi.  Sau Thánh lễ, được thông báo về sự thay đổi trong hành vi của tôi, bác sĩ liền đề xuất lệnh cho làm lại tất cả các xét nghiệm. Sau đó, ông gọi tôi vào phòng và chỉ cho tôi cách so sánh những kết quả cũ và mới của các cuộc thử nghiệm lâm sàng đồng thời tuyên bố, xác nhận rằng thận của tôi đã hoàn toàn bình phục và rằng tôi có thể ngưng tất cả các loại thuốc cùng được xuất viện.  Tôi không biết làm thế nào để diễn tả hết niềm vui vào thời điểm đó.  Tôi nói, “Ngợi khen Chúa” và ôm từ giả bác sĩ trước khi rời bệnh viện.

Tôi đi ra khỏi bệnh viện như một con người mới với các quyết định và quyết tâm mới.  Tôi quyết định sống cho một mình Chúa Giêsu và dành cả đời mình cho việc rao giảng Nước của Người.  Tôi từ bỏ công việc của tôi trong vị trí giáo sư chủng viện và chuẩn bị bước ra ngoài đi rao giảng,  sau khi đã dành bốn mươi ngày ăn chay và cầu nguyện.  Kể từ ngày 17, tháng 2 năm 1976 tôi bắt đầu giảng tĩnh tâm Đặc Sủng, lần đầu tiên, tôi giảng bằng tiếng Malayalam, ở tiểu bang Kerala, cho đến tận bây giờ tôi chỉ dành thời gian của tôi trong việc rao giảng Lời của Ngài mà thôi.  Bề trên kính mến của tôi sau đó đã đề nghị nhiều cơ hội cho tôi đi đến nước Đức hoặc đến Rome để theo đuổi học vị tiến sĩ, nhưng tôi đã mạo muội từ chối vì Chúa Thánh Thần nói với tôi, “Ta là đủ cho con”.  “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!” (Lc 9: 62).  Trong thời gian đào tạo tại chủng viện, khi tôi thấy có nhiều bạn đồng hành được đề cử ra nước ngoài để theo học bậc cao hơn, tôi đã có một khát vọng lớn đó là được đi ra nước ngoài để nâng cao trình độ kiến thức.  Tạ ơn Chúa, bây giờ Chúa còn đang thỏa mãn ước vọng của tôi, khi được tiếp tục giảng thuyết về Vương Quốc ở ngoại quốc. Thật quả đúng là khi chúng ta chịu từ bỏ bất kỳ ham muốn thế gian nào vì lợi ích của Chúa, Ngài sẽ trả lại gấp trăm lần! Đúng là Chúa Giêsu đã sử dụng tôi để Ngài xây dựng một nhà cầu nguyện cho Ngài, tại Athirampuzha, Kerala, cũng được gọi là Charis Bhavan.  Trong các buổi giảng tĩnh tâm, hội nhóm và sứ cầu nguyện chữa lành tôi gặp phải những chống đối  và ngay cả các bách hại nữa.  Nhưng Lời Chúa nói rằng, mỗi người muốn sống một cuộc đời thánh thì sẽ bị bức hại, lời này đã an ủi và tiếp sức mạnh cho tôi (II Tim 3: 12).  Tôi biết rằng tất cả những món quà và quyền hạn được trao cho tôi, một con người yếu đuối, chứa đựng trong những bình sành lọ đất, ngõ hầu quyền lực siêu vời kia thực rõ là của Thiên Chúa, chớ không phải xuất tự chúng tôi. (II Cor 4: 7). Cùng với Thánh Phaolô, tôi nữa, tôi cũng sẽ nói rằng Tôi có sức chịu đựng mọi sự, trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi. (Phi-líp 4: 13).  Quyền năng của Ngài được bày tỏ trong giai đoạn tôi bị bắt cóc và cầm tù trong thế giới Hồi giáo ở các nước Ả Rập, và trong những lời lăng mạ và những hiểu lầm của bề trên và bạn bè.  Tôi kết luận lời chứng của tôi với những lời của Thánh Phêrô: “Anh em thân mến, đừng lấy làm lạ vì hỏa tai bốc cháy để thí luyện anh em, như một cái gì lạ lùng xảy đến. Nhưng càng được chung phần thống khổ của Ðức Kitô chừng nào, anh em hãy vui mừng! Ngõ hầu khi vinh quang của Ngài mạc khải ra, anh em cũng được vui mừng hớn hở. Nếu anh em phải chịu sỉ vả vì Danh Ðức Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thần khí vinh quang, Thần khí của Thiên Chúa, sẽ đậu lại trên anh em. “(Phê rô 4: 12-14 ).

Cám ơn Chúa vì sự thành tín và rộng rãi của Ngài, ngày hôm nay mục vụ Canh Tân Đặc Sủng của Cha James Manjackal được Giáo Hội công nhận,

Cha thực hiện nhiều hành trình rao truyền Tin Mừng trong 87 quốc gia trên 5 châu lục, Ngài thuyết giảng trong các buổi tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng, chủ trì các hội nghị và cầu nguyện xin ơn chữa lành, hướng dẫn trong các trường Tin Mừng và tiên phong trong công tác truyền bá đức tin cho người Hồi Giáo vùng vịnh Ả Rập. Cha sáng lập dòng “Tì nữ Maria đầy ơn phước” trong giáo phận Vijayapuram, bang Kerala, Ấn độ. Ngài viết nhiều sách về Canh Tân Đặc Sủng như “33 Lời nguyện Đặc sủng” được dịch ra vài ngôn ngữ, “Cầu nguyện làm nên điều kỳ diệu”, “Ngài đụng chạm và chữa lành tôi”, “Sự Chữa lành tạo nên Đời Sống mới”, “Tỉnh thức, Ta gõ cửa đây”, “Tìm thấy rồi”, “Vào trong tàu . Mới đây vào tháng 2, năm 2016, Cha được Đức Thánh Cha Phan xi cô chỉ định là một  trong bẩy trăm sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa nhân dịp năm thánh Lòng Thương Xót.

Phan Sinh Trần gởi

NĂM MỚI và TÂM LINH

NĂM MỚI và TÂM LINH

 Trầm Thiên Thu 

Năm 2017 là năm Con Gà.   Đặc tính nổi bật của con gà là tiếng gáy của chú gà trống vào mỗi buổi sáng.  Tiếng gáy đó báo thức để người ta biết giờ thức dậy, đặc biệt là dậy sớm.  Thức khuya và dậy sớm là điều cần thiết, không chỉ với nông dân mà với mọi người.

Tiếng Gà báo thức cũng là tiếng cảnh báo chúng ta phải tỉnh thức về mọi thứ, cả xã hội và tâm linh.  Mỗi dịp đón năm mới, nhiều người trong chúng ta tự hứa với nhiều điều quyết tâm cho Năm Mới – các điều này chủ yếu liên quan các mục đích như giảm cân hoặc tập thể dục nhiều.  Nếu chúng ta thực sự cảm thấy có hứng thú, chúng ta có thể hứa viếng Thánh Thể hằng ngày hoặc đọc trọn bộ Kinh Thánh.

Không may thay, với đa số các quyết định năm mới, khả năng chịu đựng tinh thần chỉ kéo dài khoảng một tuần, và chúng ta thấy mình vẫn ở điểm bắt đầu, cảm thấy thất bại và thắc mắc: “Tôi có thể hứa cầu nguyện nhiều trong năm mới?  Tôi có nên bỏ qua và bắt đầu lại?”

Kết hợp nhiều thời gian để cầu nguyện là điều không dễ thực hiện, để đến gần các mục đích tâm linh, đây là vài gợi ý thực tế có thể giúp bạn quyết định làm cho năm nay là năm tâm linh đặc biệt:

  1. Tin Tưởng Vào Mục Đích Và Tín Thác Vào Thiên Chúa

 Bước thứ nhất này có thể mang vẻ hiển nhiên, nhưng chúng ta thường bỏ lỡ.  Khi chúng ta nghĩ về việc cầu nguyện “nghiêm túc”, chúng ta thường có kiểu nói như thế này: “Tôi biết tôi sẽ thất bại, không thể làm được, vì tôi không thánh thiện đủ.”  Nói thật, tư tưởng như vậy là lừa dối, nó ngăn cản bạn bắt đầu kế hoạch cầu nguyện.  Nó thuyết phục bạn tin mình “chưa thánh thiện đủ” hoặc “quá bận” hoặc “không bao giờ theo đến cùng.”  Satan có xu hướng ngăn cản bạn cầu nguyện hằng ngày và làm cho bạn tìm nhiều cách lừa dối xoay quanh ý tưởng rằng “bạn không thể đạt được điều bạn muốn.”  Đừng nghe lời ma quỷ xúi giục!

Bạn là con cái của Thiên Chúa, và Ngài luôn ở bên bạn.  Bạn có thể làm được điều đó!  Nếu chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta và ban cho chúng ta có sức mạnh cần thiết.  Chúng ta cần phải tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta và chúng ta có thể làm được điều không thể.  Hơn mọi thứ khác, đức tin là tặng phẩm do Thiên Chúa trao ban.  Hãy cầu xin tặng phẩm đức tin!  Hãy xin Ngài gia tăng lòng yêu mến.

Chúa Giêsu đã nói: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17:20).

  1. Nhớ Lại Điều Đã Hoặc Không Tác Dụng

 Trong đời sống tâm linh, chắc chắn có sự thăng trầm; có những lúc bạn cảm thấy rất sung mãn, cũng có những lúc bạn cảm thấy như trong ao tù.  Hãy nhìn lại quá khứ, xem điều gì tác động và khi nào cảm thấy “sung mãn.”  Bạn có thể chú ý các kiểu nào đó hữu ích hoặc bạn muốn tái tạo trong hiện tại.

Thêm vào đó, chúng ta còn có những thói quen khác nhau.  Đây có thể là cách chúng ta sẵn sàng vào buổi sáng theo cách riêng là gấp quần áo.  Cầu nguyện cũng cần trở thành một thói quen.  Khi chúng ta nghĩ về các thói quen mà chúng ta có liên quan, điều gì là điểm chung?  Rất có thể đó là điều bạn học biết khi còn nhỏ và tiếp tục vẫn làm điều đó hằng ngày.  Rồi điều đó ăn sâu vào cuộc sống và bạn chỉ nghĩ về điều đó.  Việc làm cho cầu nguyện trở thành thói quen là điều RẤT QUAN TRỌNG nếu bạn muốn cầu nguyện nhiều trong năm mới này.

Đừng sợ bắt đầu một điều nhỏ, thậm chí nhỏ như việc bắt đầu và kết thúc một ngày bằng Dấu Thánh Giá và Kinh Sáng Danh.  Từ những điều nhỏ như vậy mà xuất hiện những vị thánh.

  1. Bạn Là “Con Gà” Hay “Con Cú”?

Đối với nhiều người, họ không thể kiểm soát cuộc sống trong khoảng từ 9 giờ sáng tới 5 giờ chiều.  Dù chúng ta có thể đi làm công sở, ở nhà chăm sóc con cái, hoặc đã nghỉ hưu, ban ngày vẫn đầy khả năng.

Điều này cho chúng ta hai cách chọn lựa đối với thời gian cầu nguyện: buổi sáng hoặc buổi tối.  Hai khoảng thời gian này thường là “khoảng” chúng ta có thể kiểm soát những gì xảy ra.  Có thể chúng ta phải lo cho con nhỏ, phải ăn tối, phải lo việc lặt vặt trong gia đình, nhưng hằng ngày chúng ta vẫn có cách chọn lựa những gì cần làm sau khi con cái đi ngủ và đã xong việc nhà.  Bạn có vô internet hoặc facebook tới 1 giờ sáng, hay là bỏ mọi thứ để cầu nguyện?  Hãy chân thật với chính mình, và đặc biệt là chân thật với Thiên Chúa.

Mặt khác, chúng ta có thể có nhiều thời gian vào buổi sáng và mau mắn thức dậy lúc 5 giờ sáng để cầu nguyện khoảng 30 phút.  Đây là điểm quan trọng: bạn là “người buổi sáng” hay “người ban đêm,” là “con gà trống” hay “con cú,” việc tự biết mình như vậy sẽ giúp chúng ta biết lúc nào là lúc tốt nhất để chúng ta dành thời gian cho việc cầu nguyện.

  1. Suy Nghĩ “Nhiều Phút” Chứ Không “Nhiều Giờ”

 Tác giả Gary Jansen viết một cuốn sách có tựa là “The 15-Minute Prayer Solution: How One Percent of Your Day Can Transform Your Life” (Giải Pháp Cầu Nguyện 15 Phút: Một Phần Trăm Mỗi Ngày Sống Có Thể Biến Đổi Cuộc Đời Bạn), ông cho biết: “Bạn có biết rằng mỗi ngày có 1.440 phút?  Đúng vậy.  Tôi đã tính toán.  Bạn có biết rằng 1% của số thời gian đó là 14 phút đối với 24 giờ?  Điều gì xảy ra nếu hằng ngày bạn quyết định khôn ngoan để rèn luyện linh hồn bằng cách dành 15 phút cho Thiên Chúa?  Chỉ 1% bé nhỏ của cuộc đời bạn mà thôi.  Cuộc đời bạn có thay đổi không?  Cuộc đời tôi đã thay đổi.”

Chúng ta thường có những mục đích cao ngất là làm một giờ thánh mỗi ngày, và rồi chúng ta thất bại, chúng ta cứ tưởng mình là người đáng thương.  Thay vì đặt ra mục đích cao xa và thất bại, trước tiên chúng ta nên cố gắng áp dụng từng “bước nhỏ.”  Nếu mỗi ngày chúng ta có thể dành 15 phút để cầu nguyện và kiên trì làm như vậy, chúng ta có thể tăng thêm thời gian và dần dần vượt qua những mục đích nhỏ để có thể đạt tới các mục đích cao hơn về sau.

  1. Thời Khóa Biểu Cầu Nguyện 

Đầu óc của chúng ta đầy những thông tin nên dễ quên những gì “đã hứa” thực hiện.  Đó là lý do chúng ta phải thận trọng và viết thời khóa biểu hằng ngày, quyết tâm làm cho việc cầu nguyện là việc chính.  Chúng ta phải có khung thời gian hằng ngày.  Hãy viết bằng CHỮ HOA, và có thể TÔ ĐẬM, để giúp củng cố trí nhớ.  Nếu bạn có điện thoại thông minh, hãy dùng “chương trình nhắc nhớ” (Reminders App).  Tóm lại, chúng ta phải cẩn trọng đối với việc dành thêm thời gian hằng ngày cho việc cầu nguyện.

Quả thật, cầu nguyện là việc rất cần thiết hằng ngày.  Thánh Ephraem Syria xác định: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện.  Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ.  Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng.”

Cuối cùng, làm trọn các mục đích tâm linh của bạn trong năm mới này sẽ không dễ dàng, mà cũng chẳng bao giờ dễ dàng.  Hôn nhân cũng không hề dễ dàng, nhưng chúng ta có sự chọn lựa cẩn thận để quyết định chung sống với người bạn đời của mình “trong mọi hoàn cảnh, và cho đến chết.”  Điều chúng ta cần làm là quyết định, nhận biết những gì liên quan và cố gắng hết sức để đạt tới thành công.

Philip Kosloski

Trầm Thiên Thu 

 (Chuyển Ngữ Từ Aleteia.Org)

Langthangchieutim gởi

BĂNG QUA BÓNG TỐI (Ơn gọi của một linh mục bị mù)

Image may contain: 2 people, people standing

BĂNG QUA BÓNG TỐI (Ơn gọi của một linh mục bị mù)

————————–——
Hồi tưởng lại khoảng thời gian khi đôi mắt vừa mất đi ánh sáng, linh mục Phêrô Phạm Văn Dương, dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời chỉ nhẹ tênh: “Quãng đó mình cũng bí thật, không đi lại, không ra ngoài được, làm gì cũng không xong. Người bạn duy nhất chính là chiếc radio… Nhưng mình vượt qua rất nhanh vì nghĩ không có nhiều thì giờ nên không thể dừng lại quá lâu. Trong bóng tối vẫn phải tiếp tục bước đi”.
Đường dài gian nan– Ơn gọi đến với cha Dương bắt đầu từ năm 2001, lúc cha còn là sinh viên và tình nguyện sang Nga phục vụ cho giáo xứ có cộng đoàn người Việt. Giáo xứ này do các linh mục dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời coi sóc nằm ở Mátxcơva. Làm việc trong môi trường mới thuộc miền ôn đới, người tu sĩ trẻ không hay mình đã bị một loại virus cực hiếm âm thầm tấn công vào mô thần kinh mắt, khiến thị giác lúc mờ lúc tỏ. Tuy nhiên lúc ấy do chủ quan, cha nghĩ chắc không sao nên vẫn cứ hăng say làm việc.Tháng 5.2002, cha chuyển sang Pháp để tiếp tục hành trình ơn gọi. Thời gian này, vị tu sĩ nhận được chẩn đoán chính xác của các bác sĩ tại bệnh viện và bắt đầu điều trị mắt. Vừa đi học, cha vừa phải huy động sức mạnh tinh thần để chữa bệnh. Ba lần được mổ mắt không thành công, cha vẫn chưa thôi ôm ấp niềm hy vọng một ngày nào đó đôi mắt mình sẽ bình thường trở lại. Thế nhưng đến lần mổ thứ tư thì đôi mắt không còn nhìn thấy gì nữa. Dù có sự chuẩn bị từ trước nhưng đối với một người trước nay sáng mắt, giờ bỗng không thấy gì thì quả thật vô cùng khó khăn.

 

Cha xin vào học ở một trung tâm phục hồi chức năng dành cho người khiếm thị ở ngoại ô Paris. Thế giới đầy sắc màu bên ngoài tưởng chừng đã khép lại hoàn toàn thì nay bỗng dưng biến đổi, trở nên diệu kỳ hơn bởi được cảm nhận một cách mộc mạc nhất từ con tim. Học ở đây, người tu sĩ biết được nhiều cảnh đời, có thêm bạn bè từ những tôn giáo khác cũng như chứng kiến nhiều mối tình cảm động. Ông nhận ra trong thế giới người mù có rất nhiều điều để khám phá, cũng phong phú sinh động và tươi đẹp lạ thường, để rồi bắt đầu các bài học cơ bản như di chuyển, cầm gậy, đi tàu điện, nấu ăn, giặt, ủi đồ… rồi đến học chữ nổi, tập dùng máy vi tính.Trải qua 5 tháng cố gắng, cha Dương hoàn thành tốt các bài học và có thể sống tự lập được. Khi khóa phục hồi chức năng kết thúc, cha vào Đại chủng viện Xuân Bích (Paris) tiếp tục 6 năm Triết và Thần học, rồi sau đó học chuyên về Thần học ở trường Đại học Công giáo Paris.

Nhớ lại suốt những năm học ấy, cha cho biết mình đã phải luôn cố gắng gấp đôi so với người bình thường vì trong lớp chỉ có mình cha là người khiếm thị. Từ nhà dòng đến chủng viện nếu người sáng chỉ mất 30 phút thì cha mất khoảng 45 phút di chuyển; đi tàu cũng phải cẩn thận dò bản đồ chữ nổi và chú ý đếm số ga đã đi qua để canh chừng mà xuống. Những bài vở mà các giáo sư đưa ra, cha đều phải chuyển sang chữ nổi hoặc đưa vào scan trên máy tính. Việc lật giở các trang sách chữ nổi cũng khá chật vật mới theo được các bạn trong lớp. Tuy vậy, nhờ có trí nhớ tốt, cha nắm bài cũng như ghi chép rất trôi chảy, vì thế môn nào cũng được xếp thứ hạng cao. Đối với một người khỏe mạnh thì việc học xong rồi chịu chức linh mục là một điều không khó. Thế nhưng với cha Dương thì đoạn đường này cũng đầy thử thách, song bằng niềm tin và nỗ lực, cha đã không chỉ hoàn thành chương trình học mà còn chứng tỏ được ơn gọi của mình.

Ánh sáng niềm tin

– Ngày 5.2.2012, cha Dương chịu chức phó tế và ngày 14.10.2012 lãnh tác vụ linh mục tại nhà thờ Thánh Hyppolyte (giáo xứ Thánh Hyppolyte cũng là nơi cha giúp việc trong thời gian còn tu học), do Đức cha Eric de Moulins-Beau-fort, Giám mục phụ tá giáo phận Paris truyền chức. Trở về Việt Nam sau đó, để thuận tiện hơn cho những nhiệm vụ mới, cha đã tìm đến Mái ấm Thiên Ân và mày mò học chữ nổi bằng tiếng Việt. Thánh lễ mở tay của cha Dương được cử hành tại nhà thờ Đa Minh Ba Chuông (TGP.TPHCM) vào chiều ngày 19.11.2012. Đó là một buổi lễ vô cùng đặc biệt, dành riêng cho các em khiếm thị trong một số mái ấm tại thành phố và tất cả các phần trong phụng vụ đều sử dụng chữ nổi.

– Cha được giao làm phụ tá giám tập cho dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời, phụ trách việc đồng hành về đời sống thiêng liêng và dạy học cho các tập sinh ở Bà Rịa. Được 3 năm, cha nhận bài sai về làm bề trên một cộng đoàn của dòng nằm ở Bình Thạnh (TPHCM). Hiện tại, cộng đoàn này có 10 thỉnh sinh và hai tu sĩ khấn trọn đời. Song song với công việc tại nhà dòng, cha cũng thường đi giảng tĩnh tâm và dâng lễ định kỳ tại một số giáo xứ và các mái ấm. Nhớ về những vụng về, sai sót trong những lần dâng lễ, vị linh mục cười vui kể lại: “Lúc đầu do chưa quen, lại không nhìn thấy, tôi hay vấp lỗi, chẳng hạn lên cung thánh thay vì đứng giữa thì chỉ đứng một bên bàn thờ… Lúc còn là phó tế, có lần đến lúc đọc Tin Mừng, tôi lại cầm sách đi liêng xiêng đến gần chỗ cây nến phục sinh và va phải. Cũng may khi đó có cậu giúp lễ chạy tới giúp, giáo dân ở dưới cũng được một phen hú vía”. Cha cười nhưng người nghe lại rưng rưng cảm động rồi cảm phục trước nghị lực phi thường của một vị mục tử trong việc thực thi trọn vẹn ơn gọi của mình.

– Nay, cha Dương đang là Chủ tịch Ủy ban Bác ái và Ủy ban Bảo trợ ơn gọi của nhà dòng. Cha thường xuyên cùng mọi người trong ban tổ chức mời các bác sĩ đi khám bệnh và phát thuốc miễn phí tại các tỉnh miền Tây, miền Trung cũng như vùng cao, một năm khoảng hai, ba chuyến. Mỗi lần, mọi người đều gắng huy động và chuẩn bị những phần quà để kết hợp trao cho những người khó khăn. Song song đó, cha cũng quan tâm đến chuyện học hành của con em các hộ nghèo, qua việc trợ giúp học bổng ở nhiều nơi. Ngài cùng ban bác ái, kết nối với cha xứ, các hội nhóm ở mỗi nơi, mỗi vùng để xin danh sách các em rồi giúp đỡ. Cái hay của quỹ học bổng này chính là việc theo sát các em trong suốt quãng đường học tập và khi em nào ra trường, sẽ liên lạc lại với nhà dòng để tiếp tục nuôi lớn chương trình bằng cách này hay cách khác.

– Ngoài ra, năm nào cha cũng tổ chức cho giáo dân những chuyến hành hương đến các linh địa để tĩnh tâm, cầu nguyện, mỗi năm có gần 1000 người tham dự. Cha còn thường xuyên đến bệnh viện ung bướu ban bí tích, sức dầu cho bệnh nhân cũng như an ủi thân nhân của họ.

– Không chỉ làm việc và sinh hoạt như một người bình thường, nơi vị mục tử khiếm thị này còn toát lên sự lạc quan và niềm yêu đời tha thiết. Sức mạnh tinh thần này dường như được truyền từ cảm nghiệm sâu sắc về cuộc đời trong một kỷ niệm khó quên cha đã từng trải qua: “Hồi còn ở Paris, có một đêm khuya tôi từ nơi làm việc đi đón tàu điện trở về nhà dòng. Lúc đó đường vắng, tôi đứng ở chỗ cột đèn giao thông rất lâu, chờ người tới để nhờ dẫn qua đường. Tôi định bụng chờ lát nếu không có ai thì liều đi đại nhưng thời may lúc sau lại có người. Khi tôi cất tiếng xin nhờ bám vào một bên cánh tay để qua đường thì người đó im lặng vài giây rồi nói: ‘ông muốn nhờ cánh tay tôi thì phải đổi sang bên khác vì tôi chỉ còn có mỗi cánh tay thôi!’. Đối với tôi, đêm đó là đêm nhớ nhất trong đời, bởi đêm dù đen tối nhưng vẫn có thể bừng sáng nhờ lòng người. Tôi nhận ra, khi người ta tin tưởng, giúp đỡ và yêu thương nhau thì mọi gánh nặng đều có thể vơi đi”.

THIÊN LÝ