LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

 

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584).  Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng.  Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả.  Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết.  Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

 

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

 Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống.  Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

 “Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ.  Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn.  Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

 Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

 Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”.  Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay.  Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống.  Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết.”  Chúa không nói đùa.  Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài.  Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người.  Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống.  Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

VERITAS

Vậy là có một sự sống khác.  Có một sự sống thật.  Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời.  Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21).  Tội lỗi mới là cái chết thật.  Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngang qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết.  Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết.  Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác.  Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết.  Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi.  Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời.  Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta.  Là tội nhân, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta.  Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa.  Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời.  Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống.  Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được.  Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết.  Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ.”  “Matta, con có tin điều đó không?”  Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin.”  Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.”

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết.  Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

R. Veritas.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Langthangchieutim gởi

YÊU CHO ĐẾN CÙNG

YÊU CHO ĐẾN CÙNG
thap_gia
Tại nhà thờ chánh tòa Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.

Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.

***

Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến, Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.

Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: “Quỉ rút lui để chờ dịp khác” (4,13). Dịp ấy, hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung tham của này dùng cái hôn để nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo, để Phêrô thì chối thày, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Giệtsimani quả thật là nơi giao tranh giữa Đức Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.

Thế nhưng, Người vẫn nhân từ, thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.

Cuối cùng, Người hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Vậy, Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về người mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (GA 13,1b).

***

Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác. Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen!

 Thiên Phúc

Anh chị Thụ & Mai gởi

THANH TẨY ĐỀN THỜ

THANH TẨY ĐỀN THỜ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc KinhThánh, đặc biệt là “Bài giảng trên núi”. Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Độ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.

Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.

Ông ra đi và không bao giờ trở lại.

***

Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội Thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào lũy cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.

Hôm nay Đức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ, Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ. Thái độ quyết liệt của Đức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.

Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đâu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.

Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.

Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.

Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Đồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.

“Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. (Ga 2,16). Lời bất bình đó của Đức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.

Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ Thập Giá của Đức Giêsu, Đấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Đấng Phục Sinh. Người chính là Đền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.

***

Lạy Cha, Mùa Chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Đền Thờ mới là Đức Giêsu, con cha. Amen!

Thiên Phúc

Ngọc Nga sưu tầm

CÁN CÂN TÌNH YÊU

CÁN CÂN TÌNH YÊU
Một linh mục thuộc giáo phận New York bên Hoa Kỳ chuyên lo mục vụ cho các tù nhân đã kể lại kinh nghiệm như sau:

Một hôm, ngài được mời đến thăm một thanh niên da đen sắp sửa bị đưa lên ghế điện vì đã giết người bạn gái của mình. Như thường lệ, mỗi khi gặp một tử tội sắp bị hành quyết, vị linh mục thường khuyên nhủ, giải tội và trao ban Mình Thánh Chúa.

Sau khi đã lãnh nhận các bí tích cuối cùng, người thanh niên da đen bỗng trầm ngâm suy nghĩ như muốn nói lên một điều gì rất quan trọng. Cuối cùng, với tất cả cố gắng của một người biết mình sắp lìa cõi đời này, anh mới thốt lên với tất cả chân thành:

– Thưa cha, con đã làm hư hỏng cả cuộc đời. Con chưa hề học được một điều gì hữu ích ngoài một điều duy nhất đó là đánh giày. Xin cha cho con được phép đánh bóng đôi giày của cha. Như thế, con sẽ hài lòng vì nhận được sự tha thứ của Chúa, bởi vì con không biết làm gì để tạ ơn Chúa trước khi con gặp lại người bạn gái của con trên thiên đàng

Và không đợi cho vị linh mục trả lời, người thanh niên đã cúi gập người xuống và bắt đầu đánh bóng đôi giày của vị linh mục… Cử chỉ ấy khiến cho vị linh mục nhớ lại hình ảnh của người đàn bà đã quỳ gối bên chân Chúa Giêsu, đổ dầu thơm trên đầu, trên chân của Ngài và dùng tóc của bà để lau chân Ngài. Chúa Giêsu đã nói với bà: “Tội của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha, bởi vì con đã yêu nhiều”.

***

Sám hối, ăn chay, đền tội, đó là những khẩu lệnh mà mỗi người chúng ta đều nghe lặp đi lặp lại trong suốt Mùa Chay này. Theo quan niệm công bình và thưởng phạt của chúng ta, kẻ có tội ắt phải đền tội. Toà án của loài người thường cân lường tội trạng của người có tội để tìm ra một hình phạt cân xứng.

Chúng ta không thể áp dụng một thứ cán cân như thế vào trong mối tương quan giữa tội lỗi của chúng ta với sự công bình của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa chỉ có một trái tim duy nhất: đó là lòng nhân từ. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và tha thứ tất cả tội lỗi của chúng ta bằng lòng nhân từ vô biên của Ngài.

Do đó, khi nói đến ăn chay đền tội, chúng ta không thể cân lường tội lỗi của chúng ta để rồi tìm ra một lượng đền tội cho cân xứng. Có hy sinh nào tương xứng được với tội trạng của chúng ta? Có án phạt nào cân xứng với sự xúc phạm của chúng ta?

Thiên Chúa không chờ đợi nơi chúng ta điều gì khác hơn bằng chính tình yêu của chúng ta. Với tình yêu, thì dù một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành một lễ dâng đẹp lòng Chúa. Những gì chúng ta dâng lên Chúa, không phải là của cải chúng ta có, những bố thí chúng ta làm cho người khác, những khổ chế chúng ta tự áp đặt cho bản thân… mà chính là lòng yêu mến của chúng ta.

“Tội của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha, bởi vì con đã yêu nhiều”.

Ước gì lời của Chúa Giêsu nói với người đàn bà tội lỗi cũng là lời ngọt ngào mà chúng ta tiếp nhận trong suốt Mùa Chay này.

***

Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết hối cải ăn năn. Xin soi sáng cho mỗi người chúng con biết ăn năn hối cải và tăng cường việc bác ái yêu thương, hầu chế ngự mọi tính mê tật xấu. Nhờ đó, chúng con được sạch tội, và thêm lòng sốt sắng thông phần cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen!

Lm. LG. Huỳnh Phước Lâm

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Xưng Tội Rước Lễ Mùa Phục Sinh

XƯNG TỘI RƯỚC LỄ MÙA PHỤC SINH

… Câu chuyện xảy ra tại một bệnh viện ở nước Ý trong những ngày cuối Mùa Chay chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh.

Theo thói quen lành thánh vẫn có nơi các nhà thương ở Ý, trong Mùa Chay, Cha Tuyên Úy đặc biệt rảo qua các phòng, đến từng giường để viếng thăm và khích lệ các bệnh nhân chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Vị Linh Mục chúc lành, ban ơn tha thứ và nói lời an ủi.

Thông thường các bệnh nhân sẵn sàng tiếp đón Cha Tuyên Úy. Chỉ duy nhất người bệnh nơi giường số 17 cương quyết quay mặt vào tường. Ông càu nhàu cau có nói:
– Con quạ không mổ được tôi đâu!

Đó là một người thợ ở tuổi 60 bị ung thư không phương thuốc chữa trị.

Trước thái độ ngoan cố khước từ của ông, vị Linh Mục Tuyên Úy cảm thấy con tim đau nhói. Cha tự nhủ:
– Chẳng lẽ chết mà không chịu các phép sau hết sao?

Y tá trưởng phụ trách khu vực ấy là Chị Santina một nữ tu trẻ tốt lành thánh thiện. Chị đã kín đáo nhét vào cái gối của bệnh nhân một ảnh vảy phép lạ (ảnh Đức Mẹ ban ơn). Chị tha thiết cầu nguyện và đợi chờ cơ hội thuận tiện để ra tay hành động. Thế nhưng, vừa khi nữ tu nhẹ nhàng khéo léo nhắc đến bí tích Giải Tội thì bệnh nhân phản ứng ngay. Ông lớn tiếng chửi thề:
– Hãy để tôi yên! Tôi sống như con chó thì cũng muốn chết như con chó!

Dầu vậy, Chị Santina vẫn kiên trì không thất vọng. Chị tiếp tục nói lời dịu dàng nhắc nhở. Nhưng lời nhỏ nhẹ của chị lại trở thành dầu đổ vào đám lửa đang bốc cháy. Bệnh nhân nổi sùng hét:
– Hãy gọi Ông Giám Đốc nhà thương đến đây. Tôi tố cáo các người là vi phạm nội qui của bệnh viện và cưỡng ép lương tâm bệnh nhân!

Đúng vào lúc ấy thì vị bác sĩ trưởng đi ngang qua hành lang. Bệnh nhân lớn tiếng gọi đến và nói:
– Thưa bác sĩ, tôi không muốn ở đây nữa!

Vị bác sĩ ân cần hỏi:
– Ông cảm thấy mệt phải không? Hay là ông bị tăng áp huyết? Ông có bị sốt không?

Bệnh nhân tức giận trả lời:
– Đúng là sốt Ai-cập! Nơi đây người ta không tôn trọng nội qui! Người ta tước đoạt quyền tự do lương tâm! Chị nữ tu này muốn ép buộc tôi phải xưng tội!

Quay sang nữ tu, vị bác sĩ hỏi:
– Có phải Chị là người cả gan dám nói chuyện xưng tội với ông này không?

Chị Santina nhỏ nhẹ đáp:
– Đúng thế! Tôi có nói nhưng không phải ép buộc mà chỉ nhắc là đang có cơ hội thuận tiện, nếu muốn thì ông có thể xưng tội.

Vị bác sĩ trưởng lập lại câu hỏi một lần nữa và khi nghe người bệnh tái khẳng định thì ông nghiêm nghị nói với nữ tu:
– Chị làm một chuyện không đúng chút nào hết! Chị không biết là các con chó thì không bao giờ xưng tội sao? Vậy tốt hơn cả là đừng bao giờ nói về tôn giáo với các thú vật!

Quay sang người bệnh, vị bác sĩ trưởng nói:
– Xin ông an tâm! Kể từ giờ phút này, không một ai sẽ đề cập với ông về vấn đề xưng tội!

Nói xong, vị bác sĩ bỏ đi. Người bệnh tỏ ra chưng-hửng! Nhiều người cất tiếng cười vang. Trong khi Chị Santina lặng lẽ rút lui.

Nhưng chỉ mấy phút sau người ta nghe tiếng chuông rung nơi giường người bệnh số 17. Một y tá vội vàng chạy đến xem ông cần gì thì nghe bệnh nhân nói:
– Làm ơn gọi cho tôi Chị Santina!

Cô y tá đáp:
– Nữ tu đang đọc kinh ở nhà nguyện.

Người bệnh van nài:
– Không sao hết! Xin mời nữ tu đến cho tôi gặp!

Chị Santina vội vàng chạy đến với khuôn mặt tái xanh và đôi mắt long lanh giọt lệ. Chị ân cần hỏi:
– Ông cảm thấy mệt phải không?

Người bệnh trả lời:
– Thưa Chị không! Tôi chỉ muốn xin lỗi Chị. Chị biết không, tôi không phải là một con chó! Vì thế, tôi muốn xưng tội!

Đức Trinh Nữ MARIA mà Chị Santina tha thiết cầu xin đã chiến thắng! Ảnh vảy Đức Mẹ ban ơn đã làm phép lạ! Đức Mẹ MARIA ban thưởng bội hậu cho Chị nữ tu trẻ tuổi trọn lòng tín thác nơi Đức Mẹ và yêu thương chăm sóc phần rỗi linh hồn của các bệnh nhân.

Lễ Phục Sinh năm ấy, bệnh nhân giường số 17 đã sốt sắng rước lễ lần thứ hai trong đời!

Kể sao cho xiết niềm vui bao la của nữ tu Santina! Chị hết lòng tri ân Đức Mẹ MARIA và dâng lời chúc tụng THIÊN CHÚA từ bi!

… ”Hãy tìm THIÊN CHÚA khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với THIÊN CHÚA – và Người sẽ xót thương – về với THIÊN CHÚA chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ. Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các con, và đường lối của các con không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các con chừng ấy” (Isaia 55,6-9).

(”La Mia Messa”, 1 Aprile 2012 – 30 Giugno 2012, Anno VI/B, vol.II, Casa Mariana Editrice, trang 124-126)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

BÂY GIỜ TÔI ĐÃ THẤY

BÂY GIỜ TÔI ĐÃ THẤY

Mark Link

“Bí tích rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh của chúng ta và mở mắt cho chúng ta được nhìn thấy Chúa Giêsu.”

Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam.  Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này.  Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi).  Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.

Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả.  Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được “cát đỏ” (red sand) trước mắt ông.  Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước.  Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại.  Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:

“Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu.  Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều”

Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.

Tuy nhiên, trong câu chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ hai.  Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách là “Chúa”.  Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về điểm này.

NGUOI MU DA THAY

Điều đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy ra ngay tức khắc.  Chẳng hạn, phản ứng đầu tiên của anh mù đối với Đức Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như người bình thường khác.  Vì thế, khi vài người hỏi anh ta về sự lành bệnh của mình, anh liền trả lời: “Cái ông có tên là Giêsu ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi tới hồ Silôê rửa mặt.  Thế là tôi đi và ngay khi rửa xong tôi liền được trông thấy.”

Đầu tiên gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ là một con người.

Thế rồi anh ta bước qua nhận thức thứ hai về Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: “Mày bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho rằng ông ấy là ai?” anh ta liền đáp: “Ông ấy là một tiên tri”.  Câu trả lời trên đây chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước vọt khổng lồ về phía trước.  Càng suy nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín Đức Giêsu không chỉ là một người như những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri.  Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau cùng của anh mù về Đức Giêsu.

Cuối ngày anh mù mới được gặp mặt đối mặt với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh quẩn đó nữa.  Lúc này, khi gặp lại anh mù, Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: “Anh có tin vào CON NGƯỜI” không?  Anh ta trả lời: Thưa Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin.  Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy vị ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang nói chuyện với anh”.  Anh đáp ngay: “Lạy Chúa, con tin!” vừa nói anh vừa quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu.

Như thế, nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy bước cuối cùng về phía trước.  Anh nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một người bình thường hoặc một vị tiên tri, mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà “muôn loài trên trời dưới đất, cả trong địa ngục phải quì gối” (Pl 2: 10).  Ân sủng đức tin, hay “ánh sáng tâm linh” mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho anh nữa.

Không cần bàn bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã nhận được ân sủng đức tin này do Đức Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.

Trước khi thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng bị “đui mù tâm linh” như anh mù trong Phúc âm hôm nay.  Nhưng sau khi được rửa tội, Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối với chúng ta.  Ngài trở thành một kẻ hết sức thân mật đối với chúng ta.

Điều này dẫn đến điểm tương tự thứ hai giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay.  Ngoài việc nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn lên giống như nơi anh mù ấy.  Chẳng hạn khi còn rất bé chúng ta thường mường tượng Đức Giêsu là một con người phi thường.  Đến lúc lớn lên.  Nhận thức của chúng ta về Ngài cũng trưởng thành hơn.  Cuối cùng nhận thức ấy đạt được hình thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa.  Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn đối với chúng ta.  Thông thường, có sự kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận khiếm khuyết của kẻ ấy.  Nhưng trong trường hợp Đức Giêsu thì không như thế.  Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài tuyệt diệu và vinh hiển hơn.

Để kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở Âu Châu.  Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc của mình để trở thành một bác sĩ, và ông đã đến sống ở Phi châu với tư cách một thừa sai.  Schweizer viết: “Chúa Giêsu đến với chúng ta như một người vô danh, chẳng khác nào thưở xưa người đến với các tông đồ trên bờ biển.  Ngài nói với chúng ta cũng chính những lời Ngài đã từng nói với họ: “Hãy theo Ta!”  Và bất cứ ai chấp nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong những truân chuyên và đau khổ của họ.  Và qua kinh nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết được “NGÀI là ai?”

Mark Link

ĐỐI THOẠI TRUYỀN TIN

ĐỐI THOẠI TRUYỀN TIN

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại.  Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho Ông Zacaria và cho Đức Maria.

Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút.  Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41).  Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8,23; Mt 4,14).

Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron.  Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội.  Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1,6).  Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước.  Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.

Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược.

Thái độ của Thiên sứ: Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà.  Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai.  Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ.  Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh.  Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nới thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng”

Công trạng và ân huệ: Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1,13).  Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo hình ảnh Cựu ước.  Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa.  Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28), tất cả đều là ân huệ và tình thương của Chúa.

 Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1.20).  Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” ( Lc 1,45.38).  Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1,15).  Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32); “Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thầy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm.  Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết.  Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất.  Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé.  Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh”(1Cr 1,27).

TRUYEN TIN

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài.  Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ.  Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa.  Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận.  Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.  Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35).  Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên.”  Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước.  Câu Xh 40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.  Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu.  Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa.  Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa.  Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ.  Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm.”  Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài.  Thực vậy, Thánh Irênê nói : “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại.”  Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin.”  Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống.”  Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa.”  Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà.”  Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ.  Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời.

Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại.  Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian.  Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.

Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời.  Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa.  Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể.  Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Langthangchieutim gởi

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

TÔI THEO ĐẠO TRỜI

http://www.trungtammucvudcct.com/web/bible.php?id=353

1. Đạo Trời là gì ?

Đạo Trời là lòng tin tưởng một vị linh thiêng, tự hữu, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên Trời; Đấng ấy gọi nôm là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, tùy tiếng nói của mỗi dân tộc.

2. Tại sao nhận biết có Trời ?

Nhìn vào vũ trụ bao la, tinh vi huyền diệu, tôi nhận rằng phải có bàn tay tác tạo…

Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng Chí Tôn sinh thành.
Con chim nó hót trên cành,
Nếu trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Trời là gốc của vạn vật “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư )

3. Những ai tin tưởng có Trời ?

Có thể nói rằng hầu hết nhân loại tin tưởng có Trời. Tính tự nhiên của con người, khi gặp nguy biến, đều kêu Trời ! Ca dao bình dân có bài:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nuớc tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm…

4. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?

Đạo Trời chung cho mọi nước, mọi thời. “Thiên giả vạn vật chi tổ” ( Trọng Thư ); Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống “Minh Đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên” ( Khổng Tử ).

5. Làm thế nào biết được Đạo Trời ở nơi mỗi người ?

Trời ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho ta biết đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời. “Tri Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa” ( Biết Đạo Trời thì ăn ở theo nhân nghĩa – Khổng Tử )

6. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?

Phải cố gắng tìm cho thấy rõ Đạo Trời. Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống – theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo lý làm trọng – phải nhớ luật của Trời làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạ “Thiên vọng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. ( Lưới trời rộng, thưa mà không lọt đâu ).

7. Bình thường, người ta thờ Trời như thế nào ?

Mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà để thờ Trời và Ông Bà Tổ Tiên; có người xây trụ ở ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy; thỉnh thoảng dâng hương nến, hoa quả để tỏ lòng tri ân.

8. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau như thế nào ?

Trời là gốc, là cha mẹ sinh thành, thì phải coi mọi người là anh chị em với nhau và cư xử như một đại gia đình nhân loại, lấy tình thương mà bao bọc.

9. Đạo Trời có từ bao giờ ?

Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người có trí khôn biết suy luận, biết hướng về Trời, biết xem ý Trời thế nào mà hành động.

10. Ý Trời thế nào ?

Ý Trời là lương tri, lương tâm, Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn.

11. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?

Đạo Trời đưa người ta về tới Trời. Trời là nguồn hạnh phúc vô cùng vô biên mà lòng người khao khát.

12. Sống đạo Trời có dễ không ?

Dễ hay khó là tại mỗi người. E dè thì khó. Cương quyết thì dễ. Sống theo luơng tâm, làm lành lánh dữ. “Vi thiện tối lạc” ( làm lành thì rất vui ). “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học ).

13. Trên đường thực hiện đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?

Có ba loại: Một là ngay ở trong mình. Đó là tính mê nết xấu, dục vọng đê hèn… Hai là thế tục cám dỗ lôi cuốn đi vào sa đọa trụy lạc. Ba là Xa-tan ác quỷ, luôn tìm hại con người.

14. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?

Phải tự tu tỉnh và kêu cứu kịp thời:
a. Tự tu là sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình
b. Tự tỉnh là tỉnh táo đề phòng, tránh xa những cạm bẫy do thế tục giương lên để bắt mình
c. Kêu cứu kịp thời và xin Trời hộ giúp để Xa-tan ác quỷ không hại được mình.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó là lúc nào cũng vững như kiềng 3 chân. “Trời giúp kẻ tự giúp”.
Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn.

15. Xa-tan ác quỷ ở đâu ra và mưu hại con người đến thế nào ?

Nó là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản bội với Trời, nên nó muốn phá việc của Trời, và không muốn cho con người trở về với Trời, vì như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật. Xa-tan không làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn dụ dỗ con người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu Xa-tan là đi đến chỗ tự sát và đồng khổ cực với nó sau này mãi mãi.

16. Có ai thắng được Xa-tan ác quỷ chưa ?

Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, luôn cậy dựa quyền năng của Trời, bền chí quyết giữ Đạo dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được Xa-tan.

17. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố như thế nào ?

Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi xuống với nhân loại bằng cách tác tạo nên ta, và cũng là đường lối để nhân loại ta đi lên với Trời, đó là trở về nguồn chơn phúc vô biên mà ta khát vọng.

Đạo Trời được công bố bằng ba hình thức:

Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi khôn người ta nhìn thấy trong lòng mình ý nghĩa thế nào là lành, thế nào là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, và khi làm trái lương tâm thì người ta thấy bứt rứt sầu khổ.

Hình thức thứ hai là đi vào lịch sử thực sự. Trời chọn một dân tộc, giao cho sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ từ bỏ những tà thần mà Xa-tan đã bày đặt ra để lừa dối con người. Hình thức thứ hai này đã được thực hiện trong lịch sử dân Do Thái. Đạo luật của Trời xưa chỉ in trong lòng người thì đã được in vào bia đá trên núi Xi-nai và trao cho thủ lĩnh Mô-sê đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1.250 năm trước Công Lịch.

Hình thức thứ ba tiếp tục lịch sử thực sự. Đó là việc Trời cử một Ngôi vị giáng trần, nhập thể làm một Con Người để sống với con người chúng ta, trực tiếp nói với nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời yêu thương ta như Cha yêu thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông hiệp với Trời. Ngôi vị Trời giáng trần đây chính là Đức Giê-su Ki-tô mà thân thế và sự nghiệp đã được lịch sử ghi nhận rõ ràng – và sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cái mốc phân chia lịch sử làm hai giai đoạn:
– Trước Ngài ( BC ): Tính từ Ngài lui về trước.
– Sau Ngài ( PC ): Tính từ Ngài cho tới nay.
Và cũng từ ngày Đức Giê-su Ki-tô di vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Ki-tô Giáo.

18. Việc Đức Giê-su Ki-tô đến có lợi gì cho nhân loại ?

Lợi rất nhiều, rất lớn, rất cần thiết:

a.    Chính nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Chúa Trời ( Thiên Chúa ) nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên Quốc nếu trung thành.

b.    Nhờ lời giáo huấn và gương sống của Ngài, ta biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, biết được đường lối trở về với Chúa Trời.

c.    Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại lại được giao hòa với Chúa Trời.

d.    Nhờ quyền năng, biểu hiện trong cuộc sống lại ( Phục Sinh ) của Ngài, cũng là nhờ Chúa Thánh Thần, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của bè lu Xa-tan, để tiến tới Quê thật là Nước Trời.

Ai theo Đức Giê-su Ki-tô thì được sống hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đồng nhất với Đức Giê-su Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần, trở nên con chí ái của Cha trên Trời.

19. Sự nghiệp của Đức Giê-su Ki-tô còn tiếp tục trong nhân loại bằng cách nào ?

Vì Đức Giê-su Ki-tô là một Ngôi Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh, Ngài về Trời. Nhưng sự nghiệp của Ngài cần phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã lập một hội đoàn để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị Xa-tan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.

Hội đoàn mà Đức Giê-su Ki-tô để lại, đó là Hội Thánh, do các Tông Đồ kế tiếp nhau coi sóc. Vị Tông Đồ Trưởng gọi là Giáo Hoàng, là thủ lãnh thay mặt Chúa Giê-su lãnh đạo Hội Thánh. Thánh Phê-rô là vị Giáo Hoàng đầu tiên do chính Chúa Giê-su chỉ định; và vị Giáo Hoàng hiện tại, vừa mới về Trời, là Đức Gio-an Phao-lô đệ nhị, vị Giáo Hoàng thứ 265, coi sóc hướng dẫn Hội Thánh từ năm 1978 đến năm nay, 2005.

20. Muốn học hỏi gia nhập Đạo Trời ( Đạo Thiên Chúa ), ta có thể căn cứ vào đâu và ta đến với ai ?

Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ gần hai ngàn năm nay ở khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sách Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước ( Đạo Trời do Ông Mô-sê và các Ngôn Sứ ghi chép trước Chúa Giáng Sinh ) và phần Tân Ước ( Đạo Trời do chính Chúa Giê-su và các môn đệ đầu tiên ghi chép ): Là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa tới nay. Nước nào cũng có Thánh Kinh, có sách Giáo Lý in bằng tiếng nước ấy, nên việc học hỏi Đạo đuợc dễ dàng. Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu.

Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triễn bất chấp mọi trở lực, khiến con số giáo hữu ngày nay đã tới hàng tỷ người.

Xưa kia chỉ biết kêu Trời,
Ngày nay lại biết Chúa Trời là Cha.
Trần gian chưa phải là Nhà,
Thiên Đàng vĩnh phúc mới là chính Quê.
Chữ rằng “Sinh ký tử quy”,
Nghĩa là: “Sống gởi thác về đời sau”.

21. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại tin theo ?

Vì Đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai. Vả lại giữ Đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời là Đấng sinh thành dưỡng dục và thưởng phạt người ta sau này. Vì thế khi gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn trọn vẹn thì không thể không theo cho được.

Đức Giê-su đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người chỉ gặp thấy có một lần, nên ai khôn ngoan thật đều dẹp bỏ hết các thứ khác kém cỏi để sắm cho bằng được thứ ngọc hảo hạng ấy. Những thứ ngọc khác đây có thể coi là luân lý tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử, Lão Tử ở Trung Hoa; như Socrate, Platon, Aristote ở Hy Lạp, như Đức Thích Ca ở Ấn Độ… đã theo luơng tâm thực hiện và phổ biến được phần nào trong lúc sinh thời, đó là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời.

Bởi thế khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giê-su Ki-tô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả đương nhiên chấm dứt, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời là chỗ có Chân Lý hoàn toàn và Thiện Mỹ viên mãn vậy.

22. Đạo Trời đối với Đạo Ông Bà Tổ Tiên thế nào ?

Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng từ giã cõi trần mà về tới Trời rồi, “sinh ký tử quy” là thế.

Đằng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta, nên hiếu nghĩa là theo hướng Trời sắp đặt, nhưng không nên dừng lại ở tổ tiên mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài, còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc nối trung gian mà thôi.

23. Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không cúng thực phẫm đồ dùng cho ông bà để ông bà đói khổ, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa dám trở lại. Nghĩ thế có đúng chăng ?

Lòng thương nhớ ông bà đã quá cố là việc tốt, nhưng nghĩ rằng vong linh ông bà còn cần cơm gạo bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì linh hồn thiêng liêng không cần vật chất như xác, nhưng cúng quảy thực phẩm như một nghi lễ để kính nhớ thì tốt. Việc hiếu nghĩa ta có thể làm là thành khẩn cầu xin với Trời mở lượng hải hà: nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với Trời sớm ngày nào hay ngày ấy, đó là thiết thực và cần cấp hơn hết.

Bên Công Giáo có việc cầu nguyện cho ông bà hằng ngày; mỗi năm lại dành hẳn một tháng để toàn thể thế giới hợp ý thỉnh nguyện cho nữa. Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm, giáp năm, hay giỗ đầu, giỗ năm của gia đình nào thì gia đình nấy hoặc cả Họ Đạo cùng đọc kinh cầu nguyện cho nữa. Cũng có thể tổ chức bữa ăn giỗ để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên.

24. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống dễ dãi, ngại chịu khó, nên chưa dám trở lại Đạo. Nghĩ thế có được chăng ?

Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chớ có phải là cứu cánh của con người đâu. Ta nên biết, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời, sao ta lại quên vị Đại Ân Nhân của ta là Trời. Nếu ta muốn sống bừa bãi ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy cấp luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – và chết rồi phải bị phán xét ngay lúc ấy, hối cũng không kịp.

Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phải lo.
Gắng công Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết,
Việc lành dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết…

PHỤ LỤC:

Ý kiến của những người trở lại Đạo Thiên Chúa:

1.   Ông Lục Trưng Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ có biết đạo Ông Bà Tổ Tiên, sau đã gặp được Đạo Công Giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường Đạo, đã hiến thân làm Linh Mục. Ông nói: “Ơn Cứu Độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Ki-tô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời”. ( x. The Ways of Confucius and of Christ )

2.   Ông Ngô Gia Lễ, tri phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam ta, vì tiếp xúc với người Công Giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã học sách Phúc Âm, đã nhận được tính cách siêu việt của Đức Ki-tô, Con Trời giáng thế, ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Ki-tô. Ông nói: “Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Ki-tô không phải chỉ là một nhân vật khác thường, Ngài chính là con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc Âm”. ( x. Ông Tổ Đạo Công Giáo )

3.   Ông Trịnh Sùng Ngộ, giáo sư triết học Đại Học Honolulu, nước Huê Kỳ, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh ra trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Lão Giáo, Khổng Giáo và Phật Giáo. Sau khi ông trở lại ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên dịch Thánh Kinh và Kinh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói: “Thiên Chúa Giáo là Đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo dó không phải của Âu Châu hay của Á Châu, không cũ không mới. Tôi cảm thấy Đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo là những đạo tôi đã hấp thụ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Ki-tô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Ki-tô để ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay sự sống động và bản thể của tôi đuợc đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa Ki-tô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện” ( x. Par delà l’Est et l’Ouest ).

4.   Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sau 20 năm tìm tòi suy luận về Ấn Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo, Ba-la-môn Giáo, Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo, Thần Đạo ( của người Nhựt Bổn ), Tin Lành Giáo, ông đã phân tích như sau: “Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi Giáo Tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế, có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bình bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa Giáo, vì Đạo này xây dựng cho con người một cuộc đời biết xả thân vì tình yêu thương”.

Tưởng nhớ ông bà tổ tiên

Chương trình đơn giản khi cầu nguyện với tổ tiên bất cứ dịp nào:

1.   Thắp hương đèn trên bàn thờ

2.   Làm dấu hình Thánh Giá

3.   Nguyện Kinh Lạy Cha

4.   Nguyện: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen”.

5. Dâng lời nguyện với tổ tiên: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội ngoại…, hôm nay nhân ngày…, chúng con thắp nén hương bày tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…”

Nghi thức Lễ Cưới ở gia đình:

Ngày nay việc tổ chức đám cưới tại gia đình có thể diễn tiến theo nhiều dạng rất khác nhau. Tuy nhiên, trường hợp thông thường nhất vẫn là: sau Lễ Hôn Phối, nhà gái tổ chức mừng vu quy, và sau khi đón dâu về nhà, nhà trai tổ chức chúc mừng Lễ Thành Hôn. Nghi Lễ Vu Quy dưới đây cử hành khi nhà trai đến nhà gái đón dâu; nghi Lễ Thành Hôn cử hành khi cô dâu được đưa về nhà chồng. Nếu diễn tiến theo các cách khác, xin tùy nghi ứng biến.

A. Nghi thức Lễ Vu Quy:

Vị chủ hôn bên nhà trai, chú rể và họ hàng từ nhà trai tới nhà gái, dừng lại ngoài cổng. Đại diện vào báo cho nhà gái ra đón mời vào. Rồi nghi thức như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời, giới thiệu lễ vật.
2. Nhà gái đáp lời chấp thuận và xin đưa lễ vật đến bàn thờ gia tiên để làm lễ.
3. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn. ( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
4. Chú rể và cô dâu vào chào cha mẹ và họ hàng bên vợ.
5. Uống nước hoặc ăn tiệc.
6.   Cuối giờ, chủ hôn nhà trai xin đón dâu, nhà gái đáp lời ưng thuận…

B. Nghi thức Lễ Thành Hôn:

Đoàn đưa dâu về nhà trai, nhà trai mời vào. Người mẹ chồng đón con dâu vào phòng nghỉ một lát rồi ra Lễ Gia Tiên. Nghi thức Lễ Gia Tiên như sau:
1. Nhà trai ngỏ lời chào mừng và mời tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ.
2. Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn.( xem Lễ Gia Tiên tiếp sau )
3. Cô dâu chú rể chào cha mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
4. Uống nước hoặc ăn tiệc.
5.   Cuối cùng, vị chủ hôn nhà gái gởi gắm, nhà trai giã từ.

Lễ Gia Tiên và cầu nguyện tạ ơn:

1. Vị chủ hôn nói đại ý: “Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc nêu tên gia đình anh chị X… ) sinh hạ được người con gái ( hoặc con trai ) là… và đã giáo dục cháu nên nguời. Nay cháu được Chúa thương cho đẹp duyên cùng cháu… Chúng con xin đưa hai cháu đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh Danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiền nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên, chu toàn các trách nhiệm hôn nhân và gia đình theo đúng ý của Chúa Trời”.

2. Cô dâu chú rể niệm hương: ( Một người đốt nhang sẵn và đưa cho cô dâu chú rể, cả hai cùng vái 4 vái ).

3. Cô dâu chú rể thắp nến.

4. Vị chủ hôn tiếp lời: “Giờ đây chúng ta hướng đến Thiên Chúa là nguồn gốc trên cùng của mọi gia tộc. Xin Ngài lấy tình Cha mà che chở gia đình mới… “Lạy Cha chúng con…”

5. Đọc Lời Chúa: ( Ga 2, 1 – 11 )

6. Cô dâu và chú rể cùng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã đến trong tiệc cưới Ca-na, ban ơn lành cho đôi bạn mới và gia đình hai bên. Nay qua Bí Tích Hôn Phối, Chúa cũng đã đến trong gia đình chúng con, chúng con xin dâng lời tạ ơn Chúa. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ chúng con, mỗi người trong gia đình và họ hàng hai bên, và toàn thể ân nhân bạn hữu. Xưa Chúa đã biến đổi nước thành rượu, ngày nay xin Chúa biến đổi tình yêu thương bé nhỏ giới hạn của chúng con thành tình yêu thương bao la và nồng thắm của Chúa. Xin cho gia đình chúng con biết tôn vinh Chúa, đem lại hạnh phúc cho nhau và niềm an ủi cho mọi người. Chúa hằng sống hằng trị muôn đời. Amen”.

7. Kết thúc: Hát Kinh Hòa Bình hoặc một bài khác thích hợp…

Lm. NGUYỄN QUANG DUY, DCCT,
Gx. Long Hưng, Gp. Vĩnh Long, năm 2000, theo “Sứ Vụ Loan báo Tin Mừng”

IM LẶNG LÀ VÀNG

IM LẶNG LÀ VÀNG

 LM Jos Tạ Duy Tuyền

Im lặng là vàng.  Đó là câu châm ngôn mang nhiều ý nghĩa và được coi như là một triết lý sống.  Triết lý sống ấy, phần lớn do người ta ngao ngán với “nhân tình, thế thái”.  Mặt khác,  cũng có một số người nghĩ  im lặng sẽ đảm bảo cho sự an toàn của bản thân trong mọi lúc, mọi nơi.  Rồi từ chỗ ít nói, ngại nói, không dám nói  những điều mình đang trăn trở, nghĩ suy, người ta trở nên dửng dưng trước mọi biến động của xã hội.  Dẫn đến tình trạng tôn thờ chủ nghĩa MAKENO, dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.  Im lặng là vàng cũng rất cần thiết để mình cân nhắc sự việc, để mình suy tính, không vội vã mà hành động khôn ngoan hơn.

Im lặng là vàng đôi khi còn là cơ hội để đón nhiều sự may mắn và niềm vui.

Người ta kể rằng: Edison vừa phát minh một dụng cụ điện tử, ông muốn bán phát minh này với giá 3.000 USD, và tự nhủ nếu các thương gia chỉ trả 2.000 USD cũng được.  Lúc gặp nhau, họ hỏi ông về giá cả, Edison lúng túng im lặng chưa biết phải nói như thế nào.  Một người trong số họ đành phải bắt đầu trước:

– Chúng tôi không trả cao đâu, ông nghĩ sao với cái giá 40.000 USD?

Đúng là “Im lặng là vàng”.  Ở đời người ta chỉ cần học được chữ nhẫn, chữ nhịn trong im lặng sẽ mang lại biết bao niềm vui của chiến thắng hân hoan.

Hôm nay, chúng ta chiêm ngắm một con người đã làm nên chuyện phi thường trong im lặng.

Trước  mọi vấn đề Ngài đều im lặng để tìm hiểu, để suy xét và đón nhận.  Sự im lặng của Ngài không phải là của kẻ khiếp nhược trước sự dữ của cuộc đời.  Sự im lặng của ngài thể hiện lòng phó thác tin yêu trong sự quan phòng của Thiên Chúa.

THANH GIUSE

Ngài im lặng để tìm kiếm ý Chúa.  Ngài im lặng để lắng nghe tiếng nói của con tim luôn rung nhịp yêu thương.  Ngài im lặng để cho tiếng Chúa vang lên trong tâm hồn của mình mà nhờ đó Ngài đã hết lòng phụng sự theo thánh ý Chúa.

Đó chính là thánh cả Giuse.  Một vị đại thánh không để lại một lời huấn dụ nào nhưng lại được cả Giáo hội qua bao thế hệ yêu mến, tôn kính.  Ngài không để lại di ngôn nhưng để lại một đời sống nội tâm thật phong phú.

Phúc âm ghi lại trước mỗi biến cố xảy đến ngài thường chọn im lặng để lắng nghe tiếng Chúa.  Ngài đã im lặng khi biết tin Maria đã mang thai, nhờ đó mà ngài nghe được tiếng Chúa bảo ngài đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.  Ngài im lặng trước biết bao phong ba bão tố trong cuộc đời hài nhi, nhờ đó mà ngài đã làm cho mọi sự nên trọn khi ngài gìn giữ hài nhi Giê-su vượt qua giông tố cuộc đời.  Ngài đã im lặng khi tìm kiếm con bôn ba suốt ba ngày trời, nhờ đó mà ngài đã vâng theo thánh ý Chúa dù rằng ngài chưa hiểu hết những gì đang xảy ra.

Lý do cho sự im lặng của ngài không phải là do sợ hãi hay nhu nhược mà là ngài tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.  Thử hỏi, nếu ngài không tin vào Thiên Chúa có lẽ ngài đã ngã lòng trước biết bao biến cố xảy ra trong cuộc đời hài nhi Giê-su?  Từ khi nhập thể cho đến khi chào đời, khôn lớn phải trải qua biết bao sóng gió.  Nhờ đức tin ấy mà ngài đã dẫn dắt gia đình sống trong bình yên.  Nhờ đức tin ấy mà ngài đã chu toàn mọi sự theo thánh ý Thiên Chúa.

Cuộc đời luôn có biết bao điều xảy ra ngoài dự định của chúng ta, và đôi khi còn vượt lên trên trí hiểu của chúng ta.  Xin cho chúng ta biết im lặng để tìm ra ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời.  Xin cho chúng ta biết noi gương thánh Giu-se luôn tận tụy với bổn phận của mình trong niềm phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa.  Ước gì chúng ta cũng học bài học im lặng để khôn ngoan cân nhắc trước mọi biến cố xảy ra.  Amen

 LM Jos Tạ Duy Tuyền

Langthangchieutim  gởi

BÌNH AN

BÌNH AN
Một tướng cướp nọ muốn trút bỏ tội lỗi đang đè nặng trên lương tâm, ông đã tìm đến với một linh mục. Nhưng vừa nghe xong những lời khuyên thẳng thắn của vị linh mục, ông ta liền nổi giận và tuốt gươm giết chết người của Chúa.

Một thời gian sau, cảm thấy hối hận, ông lại tìm đến một linh mục khác, nhưng lần này vị linh mục cho biết để được ơn tha thứ của Chúa, ông phải đến toà thánh. Cũng như lần trước, cảm thấy bị xúc phạm, ông liền tuốt gươm sát hại người đại diện Thiên Chúa.

Vị linh mục thứ ba mà tướng cướp tìm đến xưng tội sẵn sàng ban phép giải tội cho ông, và việc đền tội vị linh mục này yêu cầu là ông hãy đi chôn cất tất cả những người chết mà ông gặp, đồng thời ông phải khóc lóc như đó chính là người thân của ông. Vị linh mục trao cho ông một cái chai nhỏ để hứng những giọt nước mắt của ông.

Tên cướp ra về, nghe bất cứ nơi nào có đám tang ông liền tìm đến, nhưng mắt ông vẫn luôn khô ráo, ông không nhỏ bất cứ một giọt nước mắt nào.

Cho đến một hôm, tình cờ ông đứng trước một cây thập giá, trên đó Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang khóc, ông liền thổn thức với Chúa về nỗi khổ đau không hề biết khóc là gì! Chính lúc đó, nước mắt ông trào ra, ông đã hứng đầy cái chai nhỏ mà vị linh mục đã trao cho ông. Bấy giờ, ông mới hiểu thế nào là SÁM HỐI và tìm đến sa mạc để sống những ngày còn lại

***

Có tự do là có tất cả, nhưng bị lương tâm dày vò cắn rứt, không có được một tâm hồn thanh thản, đó phải chăng là nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống con người.

Hơn ai hết, có lẽ tên tướng cướp hiểu được thế nào là sức nặng của tội lỗi trong tâm hồn. Gánh nặng tội lỗi đã được trút bỏ, lương tâm không còn dày vò cắn rứt, giờ đây anh đã cảm nhận được thế nào là bình an, là tự do.

Đây cũng là cảm nghiệm của các tín hữu Kitô mỗi khi họ lãnh nhận được ơn tha thứ, được giao hoà với Chúa và Giáo hội qua Bí tích Hoà giải. Đó là điều may mắn và niềm hạnh phúc lớn lao nhất của các tín hữu Kitô.

Không ai thoát khỏi những dày vò cắn rứt của lương tâm, không ai tránh khỏi gánh nặng của tội lỗi, nhưng chỉ có những ai cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa mới có thể tìm lại được sự bình an trong tâm hồn: “Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh em.” (2Cr 13,11).

Còn gì quí giá trong cuộc sống cho bằng có được sự thư thái và niềm an vui trong tâm hồn nhờ lòng Chúa thương xót thứ tha.

***

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho con Bí tích Giao hoà là phương thế kỳ diệu để con hưởng được ơn tha thứ của Chúa và hòa giải với anh chị em con. Xin ban cho con ơn can đảm để quay về với Chúa, và xin cất khỏi tâm hồn con những gì đang đè nặng trên lương tâm con.

Thiên Phúc

Nước chảy mây tan, tình bất diệt,

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 3 mùa Chay năm A 19/3/2017

Tin Mừng: (Ga 4: 5-42)

Khi ấy, Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy:”Chị cho tôi xin chút nước uống!” Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Samari. Đức Giêsu trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

Người phụ nữ nói với Đức Giêsu:”Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”

Người phụ nữ lại nói với Ngài:”Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo:Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” Đức Giêsu phán:”Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem.Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa:”Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

&   &   &

“Nước chảy mây tan, tình bất diệt,”

Tình theo bước khách bốn phương trời.”

(dẫn từ thơ Hồ Dzếnh)

Bốn phương trời, tình theo bước khách, phải chăng là bước chân âm thầm của Đấng Nhân Hiền hằng đưa dẫn mọi người về lại với Cha như trình thuật thánh sử, đà ghi chép?

Trình thuật thánh Gioan hôm nay ghi, là ghi về một đối thoại hãn hữu giữa Đức Giêsu và nữ phụ xứ Samari. Đây là biến cố ít khi thấy nơi người Do Thái, mọi thời đại. Do thái xưa, vẫn coi nữ phụ xứ Samari là kẻ vô dụng, về nhiều thứ. Phụ nữ muốn múc nước về dùng, đều phải ra giếng. Thông thường, muốn ra giếng Gia-cóp, phụ nữ phải đi thành đoàn. Trình thuật hôm nay, kể về nữ phụ hôm ấy, không chỉ một thân một mình đến múc nước giếng mà thôi, nhưng còn dám tiếp chuyện với Đấng lạ mặt, một nam nhân Do thái. Đó, là điều tối kỵ. Đó, chính là vấn đề.

Vấn đề nặng nề hơn, khi người tiếp chuyện với nữ phụ ngoài luồng giữa “thanh thiên bạch nhật”, lại là Đấng Nhân Hiền từng hành xử nghiêm minh, nhất mực. Thật hiếm khi thấy Đức Giêsu đối thoại cả với nữ phụ về nhiều vấn đề, ngay cạnh giếng Gia-cóp, tức chốn thánh thiêng truyền thống, rất gắt gao.

Cũng vì tính cách gắt gao/nghiêm túc ấy, nên cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và nữ phụ Samari đầy những chuyện ngoại lệ. Vì ngoại lệ, nên nữ phụ Samari cứ phân tâm nói chuyện khác, khiến Chúa cứ phải gạt sang một bên những chuyện không cần thiết. Vì, Ngài có một số điều quan trọng muốn nói và tặng ban để chị lưu tâm. Cuối cùng, Ngài đành chấp nhận ở vào cảnh huống có ngoại lệ.

Trình thuật hôm nay đưa ra một số điều ngoại lệ không mang ý nghĩa gì, như câu:“còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt”, “đồng lúa chín vàng chờ ngày gặt hái”, “kẻ này gieo, người kia gặt”, càng làm cho cuộc đối thoại giữa Chúa và người nữ phụ trở nên “ngoại lệ” hơn. Câu chuyện ngoại lệ còn thấy ở nhiều điểm khác, rất tinh tế.

Trước hết, là giới tính. Ngày nay, nam nhân được phép nói chuyện thẳng thắn, công khai với phụ nữ ở chốn đông người, đâu thành vấn đề. Khi xưa, thì không dễ. Và, đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm bảo: ta hiện diện nơi đây, cũng là chuyện bình thường, rất mọi ngày?

Và, một ngoại lệ khác, về sắc tộc. Cũng không hẳn là chuyện kỳ thị, nhưng hỏi rằng: người Do thái xưa có được nói chuyện dễ dàng với người Samari “ngoài luồng” không? Hoặc, vì luật cấm, nên đôi bên cứ phải tránh né nhau? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm chứng tỏ một luận cứ: nói chuyện với nữ phụ, không là vấn đề! Chúng ta đều là con người!

Rồi, ngoại lệ khác, về giáo dục. Chắc hẳn có người hỏi: các thày tư tế có được nói chuyện với người ít học không? Cuộc đối thoại với nữ phụ Samari, ra như Chúa muốn ngầm tỏ bày một nhận xét, là: xem ra chị cũng là người thông minh, dù chưa từng đến trường lớp để được học!

Ngoại lệ kế tiếp, là về lịch sử. Ngày nay, ta có nên suy tư về hiện tại và về con người ở đây, ngay thời này không? Hỏi là hỏi thế, chứ dường như Sách thánh chỉ kể về quá khứ với chuyện lão phu hay lão phụ đáng kính, mà thôi. Đối thoại được kể lại hôm nay, chừng như Đức Giêsu muốn ngầm nhắn với người đọc, rằng: bản thân TA cũng đâu muốn đem Kinh với Sách ra mà bàn. Thật sự, điều TA muốn đề cập chỉ là về chị, thôi.

Và, thêm một ngoại lệ nữa, về chốn phụng thờ. Có câu hỏi, rằng: thờ phượng Chúa nơi nào là thích hợp hơn cả? Với người Do thái, câu trả lời sẽ là: đền Giêrusalem. Với người Samaritanô, đương nhiên là núi thánh Gerizim, gần Sechem. Đối thoại với nữ phụ ngoài Đạo, dường như Đức Giêsu muốn ngầm bảo rằng: một ngày kia, TA đâu cần đền thờ nào nữa. Tất cả chỉ cần yêu kính Chúa, thế là đủ.

Cuối cùng, là ngoại lệ thật rõ nét về bí nhiệm của cuộc sống trong quá khứ mà người người cứ tưởng rằng chẳng ai biết đến, dù là Chúa. Bí nhiệm cuộc sống riêng tư, như nữ phụ Samari được biết có đến năm bảy đời chồng. Và thêm nữa, ta có nên cho đó chuyện quan trọng bậc nhất, trong cuộc sống không? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như muốn nói: Tốt. TA biết tất cả mọi sự về con. Bởi thế nên, cũng đừng lo lắng gì về Ta, hết.

Đức Giêsu thật kiên nhẫn. Dù, nghe đủ thứ chuyện, nhưng Ngài lại không mấy quan tâm thích thú. Ngài chỉ muốn đem đến cho nữ phụ Samari, cũng như mọi người, thông điệp thật sự quí giá, đó là: sự sống là quà tặng. Và, khi nhận được quà, mọi người cũng nên cảm kích biết ơn, thế mới phải.

“Nếu chị nhận ra đó là quà tặng Chúa ban”“Nếu chị biết rằng Chúa đang ban ơn cho chị”… chính là khẳng định rất chắc nịch. Khẳng định rằng: Tất cả là quà tặng, từ Chúa. Quà Ngài ban, vẫn đổ tràn xuống với mọi người. Quà ấy, là tình thương yêu trìu mến xuất từ Thiên Chúa. Tất cả những gì mà mọi người cho là mình sở hữu, tất cả những gì mình làm hoặc suy nghĩ, nhất nhất đều là quà tặng.

Chính đó là điều mà mọi người lâu nay vẫn tuyên tín. Vẫn tin vào một Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Đấng ban cho ta hết mọi thứ, như quà tặng không, biếu không. Và hiểu rằng, ý nghĩa quà tặng sự sống Chúa trao ban, làm cho cuộc sống của ta nên đáng sống. Nhưng oái oăm thay, đôi lúc ta cứ muốn độc lập hẳn với Chúa. Cứ suy nghĩ và hành động như thể mọi sự là của ta, do ta kiếm ra. Chứ chẳng phải của ai cho, hết.

Bởi thế nên, lắm lúc ta cứ hành xử như mình là chủ-nhân-ông đích thật mọi sự vật. Chủ, mọi sự vật cũng như tài sản mình đang nắm giữ. Rồi từ đó, lại có cảm giác cứ trách móc cho rằng Thiên Chúa không tạo dựng nên mọi sự cho ta sử dụng, ngay từ đầu. Sau các cơn địa chấn với sóng thần gây kinh hoàng ở đây đó, nhiều người xem ra mới mở mắt, biết rằng: những gì mình lâu nay sở hữu, thật sự không phải là của mình, do mình kiếm ra. Mà là, do Chúa tặng để mình tạm thời sử dụng, thôi. Sử dụng, theo cung cách rất độ lượng ngõ hầu mình có thể giùm giúp người khác, đang cần thiết hơn.

Quà tặng lớn nhất trong đời mọi người, chính là sự sống. Tựa hồ như giòng chảy ở trên sông. Như mạch suối ngầm trồi lên từ lòng đất. Như Chúa từng quả quyết: “Nước Ta ban, sẽ nên mạch suối trong đó có nước vọt, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4: 14)

Bởi thế nên, hãy dừng lại! Đừng hành xử như người ai oán, sầu thảm, chẳng biết ơn. Hãy ngưng trách móc người đời không còn nhớ đến mình. Không nhớ, để giúp tôi sung sướng, hạnh phúc. Trái lại, hãy trở thành động lực sinh động, trong thiên nhiên. Giống thiên nhiên. Và, hãy làm chút gì đó cho cuộc sống. Như, rao truyền niềm vui cho mọi người, ở mọi nơi chứ không chỉ tập trung vào chính mình. Hoặc, chỉ gia đình mình, mà thôi.

Sống, và cảm nhận rằng sự sống là quà tặng, tức: sống biết ơn. Sống như thế, không cần đến đền thờ, nguyện đường hay chùa chiền cho nhiều mà làm gì. Điều chính yếu, là biết nói lời cảm tạ, với mọi người. Ngừng suy nghĩ, nhưng đừng ngưng cảm tạ. Trái lại, hãy cùng nhau cảm nhận cùng biết ơn nhau. Đó, là điều cần suy tư, chiêm niệm. Đừng nên coi mọi chuyện như của cho-không/biếu-không, hoặc từ trời rơi xuống. Nhưng, cứ nhận quà tặng/ân huệ với lòng cảm kích, biết ơn. Và, tự hỏi: đã lâu chưa ngày mình nói lời “cảm tạ” người nào đó? Lâu rồi chứ, giây phút mà ai đó vẫn cảm ơn mình mãi.

Đã lâu chưa, ngày mình thưa: “Tạ ơn Chúa’, bên ngoài thánh lễ? Và khi nói “Tạ ơn Chúa” như thế, thực sự thì điều đó có nghĩa gì? Bởi, Lời Chúa hôm nay ghi rõ: “Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật, vì Cha chỉ tìm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần khí, và kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật.” (Ga 4: 23-24)

Đức Giêsu ra như vẫn ngầm nói với nữ phụ Samari và mọi người, rằng: Ta ở đây, nơi này, là để loan tin vui về sự cảm kích biết ơn. Biết ơn, vì đã nhận được quà tặng sự sống gửi đến cho mỗi người. Nếu mọi người đồng ý, thì vai trò của mọi người hôm nay, là thực hiện điều đó, và chứng tỏ cho mọi người thấy, rằng: ta đây cũng có thể làm được nhiều điều khác biệt. Tựa như nữ phụ Samari xưa, biết nhận lĩnh vai trò Chúa uỷ thác, sẽ hành xử theo cung cách riêng:“Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người…” rằng: vẫn có cung cách khác, để sống. Là, sống cảm kích, biết ơn.

Hội thánh chọn trình thuật này, giữa Mùa Chay, là để con dân mình biết mà đón mừng Phục Sinh. Bởi, Phục Sinh là quà tặng Chúa sống lại gửi đến cho ta. Để rồi, lời Chúa mời mọi người nói lời cảm kích biết ơn về quà tặng sống lại mà cái chết không tài nào lấy đi được, khỏi tay ta.

Sở dĩ, Hội thánh chọn Tin Mừng này là để: vào với Phục Sinh, ta sẽ cảm kích biết ơn nhiều hơn, vì đã lĩnh nhận ơn thanh tẩy. Bởi, chính đó là nước. Là, quà tặng sự sống. Sự sống mới trong Đức Kitô, để rồi ta sẽ không bao giờ quên sót thái độ cảm kích biết ơn. Và, đó cũng là lý do khiến ta có mặt ở Tiệc Thánh. Tiệc, là cung cách để ta nói lời cảm tạ đưa ra với Chúa. Với mọi người. Về tất cả mọi sự gửi đến cho ta.

Trong tinh thần cảm kích biết ơn quà tặng Chúa ban, cũng nên về với lời thơ trên mà ngâm tiếp:

“Mây nước vô tình, lãnh đạm trôi, Tình không giống nước, tình không xuôi;

bao lần lá thắm xuôi theo nước, nước chảy, tình duyên ở với người.” (Hồ Dzếnh – Nước Chảy Chân Cầu)

Nước, là giòng chảy sự sống. Vô tình là bản tính của nước, nhưng tình không giống nước, vì tình vẫn ở với nước, với đời. Để cùng đời cảm tạ Đấng Tạo Thành nước. Tạo ra đời. Rất khôn nguôi.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch.