Từ đảng viên Cộng sản đến Linh mục

 Từ đảng viên Cộng sản đến Linh mục

Theo cơ quan Tín Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung Cộng đang tăng tiến, bất chấp việc tuyền truyền chủ nghĩa cộng sản vô thần và tình hình mất tự do tôn giáo. Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Các Khoa Xã Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh viên ở Bắc Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo. Ở vào một thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn khủng hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người tin tưởng vào những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi, chứ nhiều người thuộc đảng này đang âm thầm tỏ ra chú trọng tới tôn giáo và đức tin Kitô giáo.

Sau đây là một câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng nổ, một sinh viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành một vị linh mục Công giáo (vì mục đích an ninh nên các địa danh và tên tuổi xin được giữ kín). (Nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải của nhà nước Việt Nam vừa chấm dứt chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tuần thứ bốn của Tháng Sáu 2005 vừa rồi theo lời mời của Tổng Thống Bush, câu truyện đây được phổ biến vào lúc này thật là thích hợp, để cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người nói riêng và của xã hội loài người nói chung không phải chỉ nguyên bởi bánh : kinh tế và chính trị mà chính là bởi niềm tin, bởi Đấng Tối Cao, bởi Đấng làm chủ lịch sử loài người, Đấng được ĐTC GPII gọi là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”).

Tên tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Ở đại học, tôi đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không hiện hữu. Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin Lành mà thôi. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo. Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên đến đại học. Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó hơi ngu ngốc nữa.

Vào năm thứ tư đại học của mình, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung Hoa ghi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để “làm bạn” hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc rối. Đời sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả mọi loại sinh hoạt.

Thế nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau. Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là “phê bình kẻ khác và phê bình bản thân”). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực sự là phê bình kẻ khác nữa.

Có một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người trưởng tổ rằng: ‘Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việc là điều quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng”. Vào những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: “Thật là điêu ngoa, đúng là dối trá!”. Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.

Sau đó ít lâu tôi bị bệnh. Tôi thường có những cơn ác mộng làm tôi thức giấc. Vào một đêm kia, tôi đã mơ thấy rằng tôi tìm thấy được một cái hộp; tôi đã mở ra và thấy một cuốn sách trong đó. Đó là một cuốn Thánh Kinh, sáng rực. Tôi tỉnh dậy và nhớ lại rằng bà của tôi là người duy nhất đã nói với tôi về Thánh Kinh. Tôi nhớ lời bà nói rằng Giêsu là đấng toàn năng. Bởi thế tôi nghĩ rằng nếu Giêsu là đấng toàn năng thì ngài có thể chữa tôi lành. Và vì vậy tôi đã tìm đến một nhà thờ trong vùng và thấy một ngôi nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, một đảng viên cộng sản bị cấm không được tin tưởng vào bất cứ một tôn giáo nào. Nên tôi đã kín đáo đi gặp những người Tin Lành. Vừa ra trường, nhờ Đảng đỡ đầu, tôi mau chóng tìm được một việc làm ngon lành ở một thành phố lớn. Trước khi nhận nhiệm vụ, hãng đó đã cho tôi lấy 1 tháng về thăm gia đình của tôi thuộc một miền khác. Vào cuối tháng nghỉ hè này, có một người bạn – sau này tôi mới khám phá ra là Công giáo – đã trao cho tôi 10 cuốn băng nhựa ghi những bài giảng của một vị linh mục Trung Hoa. Sau khi nghe những cuộc băng nhựa ấy, một trận chiến đã bắt đầu giằng co trong tâm khảm của tôi: tôi nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa thực sự hiện hữu; có lẽ Công giáo thực sự là một đạo đích thật…Thế nhưng, đồng thời tôi nhớ đến tất cả mọi lý thuyết về vô thần đã được học hỏi ở học đường và đại học. Tôi bị khống chế bởi một cơn buồn thảm đồng thời sợ rằng nếu tôi chấp nhận đức tin Công giáo tôi sẽ liều mình mất việc làm của tôi. Tôi không biết phải làm sao. Đó là ngày tôi phải trở về thành phố để thi hành công việc của mình. Tôi đã mua vé xe buýt rồi.

Lần đầu tiên trong đời tôi hướng về Đức Bà và nói cùng người rằng: “Hỡi Thánh Maria, nếu bà thực sự hiện hữu, nếu đức tin Công giáo là những gì chân thực, nếu bà muốn tôi trở thành người Công giáo, thì xin ban cho tôi một dấu hiệu, đó là, ngày mai, trong chuyến đi của tôi, hãy để cho một cái gì đó quan trọng xẩy ra, một tai nạn chẳng hạn, mà tôi còn sống sót, thì tôi sẽ tin”. Giờ đây, tôi nghĩ rằng tôi đã rất ư là điên khùng khi thách đố Thiên Chúa, đã thử ngài kiểu đó. Thế nhưng, vào lúc bấy giờ thì đó là lời cầu nguyện duy nhất nẩy lên trong tâm trí tôi mà thôi.

Ngày hôm sau, một tai nạn thực sự đã xẩy ra, ở chỗ, bánh xe ở đằng trước phía bên phải của chiếc xe buýt nổ tung khi chúng tôi đang đi xuống dốc với tốc độ nhanh. Chiếc xe buýt đâm vào lề và lật ngược bốn bánh lên trời. Tất cả chúng tôi đều sống sót, thế nhưng chúng tôi đã phải gắng gõi hết sức để chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm qua những cửa sổ của nó. Tôi kinh hoàng trước tai nạn này, nhưng tôi không chú ý lắm tới dấu hiệu đó. Sau vài tiếng đồng hồ chờ đợi, hãng xe buýt cho một chiếc xe khác tới và chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên, tai nạn ấy đã làm cho chúng tôi mất thời gian tính. Khi chúng tôi tới được trạm xe buýt – chuyến đi của tôi vẫn phải tiếp tục bằng xe lửa – thì đã quá trễ và vé xe lửa đã bán hết sạch. Người ta sắp hàng dài trước quay bán vé, và mọi người nói với chúng tôi rằng chỉ còn có những vé cho chuyến xe lửa trong vòng 3 ngày nữa thôi.

Tôi cảm thấy mất tinh thần và chán nản, vì tôi quá trễ việc làm đầu tiên của mình và vào ngày đầu tiên làm việc của mình. Tôi nghĩ đến việc cầu nguyện cùng Đức Bà một lần nữa rằng: “Xin giúp tôi mua được vé xe lửa. Nếu bà giúp tôi lần này nữa, tôi thề sẽ theo bà!” Trong khi chờ đợi ở một hàng dài, tôi đã mất hết hy vọng. Đùng một cái, một người đàn ông xuất hiện hô to lên rằng: “Đây là vé cho thành phố … Vé cho ngày hôm nay. Ai muốn mua tấm vé này?” Đó là điểm đến của tôi. Tôi liên mua ngay lập tức. Người này nói rằng ông ta vừa lấy được vé ấy cho một người bạn vừa gọi cho ông ta nói rằng họ không thể đến đúng giờ. Người bạn ấy xin ông ta hãy trả vé lại, thế nhưng, vì chuyến xe lửa sẽ rời trong vòng 40 phút nên quá trễ để được hoàn tiền lại do đó mà ông ta đã hỏi quanh quanh xem để cố gắng bán tấm vé đó cho người nào đó. Đó là một dấu hiệu nhỏ, nhưng là dấu hiệu ban đầu – bước đầu tiên cho cuộc trở lại của tôi.

Sau khi nhận việc, tôi đã tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo để dự Lễ, song bao giờ cũng âm thầm kín đáo. Dần dần, tôi hiểu thêm về đức tin Công giáo, để rồi cuối cùng tôi đã xin rửa tội. Khi tìm được đức tin Công Giáo, tôi đã tìm thấy một cộng đoàn dân chúng đơn thành và tốt lành, nơi không có gì là gian dối. Tôi đã tìm được một số bạn bè thực sự. Tôi đã được giải thoát, ở chỗ, tôi không còn cần phải dối trá nữa. Dân chúng thực sự kiểm điểm họ và thậm chí nhận định về vị linh mục nữa. Tôi bắt đầu thấy được ánh sáng và hiểu rằng tôi đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên, để rửa tội, tôi cần phải thắng vượt một trở ngại lớn, đó là việc tôi làm thành viên của Đảng Cộng Sản.

Một đảng viên Cộng Sản là một người vô thần; một Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa: không thể nào vừa là người Công giáo vừa là đảng viên Cộng Sản. Ngay cả vị linh mục dạy đạo cho tôi cũng nói rằng tôi cần phải rời bỏ Đảng Cộng Sản. Thế nhưng, tôi không đủ can đảm để làm điều này, bởi vì, tôi sợ rằng việc rời bỏ Đảng tôi sẽ phải chấp nhận những hậu quả khủng khiếp, ở chỗ có thể bị mất việc làm hay thậm chí có thể bị bách hại nữa. Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa kiểm soát tất cả mọi sự, bởi thế, để dứt tình với nó có nghĩa là một cách nào đó làm mất đi tất cả mọi niềm hy vọng được sống một cuộc đời yên hàn; có nghĩa là cảm thấy như mình trở thành một kẻ xa lạ. Trong Đảng Cộng Sản Trung Hoa có một qui luật là mỗi đảng viên đóng góp một số tiền hằng tháng nào đó cho Đảng. Nếu một người không đóng góp trong vòng 6 tháng liền thì bị trừng phạt và đôi khi còn bị đuổi ra khỏi Đảng nữa. Vì tôi không đủ can đảm để công khai rời bỏ Đảng nên tôi đã nghĩ đến cách ra khỏi đảng bằng cách ấy, bởi thế tôi đã không đóng góp gì trong vòng 6 tháng. Thế nhưng lại chẳng có gì xẩy ra cả, vì không hề cho tôi biết, người tổ trưởng, vì thấy tôi không đóng đã đóng cho tôi! Tôi không biết tại sao anh ta lại làm thế. Anh ta là một loại người bình thường, không tốt cũng chẳng xấu. Có lẽ anh ta nghĩ rằng tôi đã quên và ứng trước để tôi trả lại cho anh ta sau chăng; có lẽ anh ta không muốn các viên chức cấp trên của anh ta thấy rằng có những “kẻ chểnh mảng” ở tổ của anh ta, khiến anh ta bị phê bình khiển trách hay chăng. Cuối cùng, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất đó là đi theo đường lối chính thức, và tôi đã viết một bức thư để xin bỏ Đảng. Tuy nhiên, tôi đã không đủ can đảm để nộp bức thư này. Tôi đã quyết định nhiều lần trình bức thư ấy, để rồi cuối cùng tôi đã không thực hiện nổi. Có lần tôi đã vận dụng tất cả lòng can đảm của mình để đi thẳng tới viên chức Đảng mà trao bức thư của mình cho người này. Ông ta không nói được một lời nào, vì đó là lần đầu tiên ông ta thấy có một người dám từ chối ở lại trong CCP (Đảng Cộng Sản Trung Hoa). Ông ta hoàn toàn không thể nào hiểu nổi.

Cuối cùng tôi đã được lãnh nhận phép rửa. Và với bí tích này, tôi đã bắt đầu hoan hưởng được niềm an bình sâu xa. Sau đó ít lâu, tôi đã gặp một người bạn cũ trong tổ của mình. Chúng tôi đã là bạn với nhau ngay cả trước khi gia nhập Đảng nữa. Anh ta nghe rằng tôi đã rời Đảng và trở thành một Kitô hữu. Anh ta bảo tôi rằng tôi rất can đảm và thêm rằng anh ta sẽ không bao giờ có thể can đảm như thế.

Sau khi trở thành một người Công Giáo, tôi đã tiếp tục tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật, thế nhưng với một cộng đồng hầm trú không được chính quyền nhìn nhận. Có lần một nữ tu nói với tôi rằng: Tại sao em không theo Chúa Giêsu trọn vẹn hơn để làm linh mục? Tôi đáp ngay là “không”. Không có ai tin tưởng ở trong gia đình tôi cả và việc trở thành linh mục là việc khó khăn. Là người con trai đầu lòng, theo truyền thống Trung Hoa, tôi buộc phải nâng đỡ cha mẹ tôi khi các vị về già. Việc tôi vào chủng viện, thì kẻ thù đầu tiên của tôi sẽ là cha mẹ tôi.

Sáu tháng sau, khi đang cầu nguyện trong phòng, tôi nghe thấy tiếng gọi: “Hãy theo Ta”. Bấy giờ không có ai trong phòng cả. Tận đáy lòng tôi hiểu rằng chính Chúa Giêsu đã gọi tôi, thế nhưng tôi quá ư là run sợ, bởi vì, việc trở thành linh mục – thuộc Giáo Hội hầm trú – nghĩa là từ bỏ tất cả mọi sự, từ bỏ gia đình, việc làm, lao mình vào nguy hiểm, ôm lấy Thập Giá, chịu khổ ải, bị tù đầy. Tôi đã đáp lại là không. Thế nhưng, vì việc từ chối này mà tôi không còn được bình an nữa, khi tôi trở thành một kẻ khắc khoải khôn nguôi và mất đi tất cả mọi niềm vui. Tôi không muốn theo Chúa Giêsu vì tôi có một công ăn việc làm tốt, một đời sống bình lặng. Thế nhưng, tôi đã không thể nào chống cưỡng được tiếng Chúa gọi. Thế là tôi đã cầu xin cho được một việc làm khác ở một thành phố xa xôi. Có thế, tôi mới có thể bỏ việc làm của tôi một cách âm thầm kín đáo hơn, và mới có thể nhập chủng viện. Tôi đã làm việc ở thành phố ấy gần 2 năm trời, để kiếm được nhiều bao nhiêu có thể, dành dụm mọi sự để giành tiền cho cha mẹ tôi, rồi cuối cùng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi biết rằng tôi yếu đuối nên tôi đã nguyện cầu rằng: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn, Chúa có thể làm con trung thành sống đời môn đệ của Chúa đến muôn đời. Điều này sẽ là một phép lạ rất cả thể”.

Tôi đã sống 5 năm ở chủng viện thuộc Giáo Hội hầm trú. Đời sống rất ư là khó khăn và nguy hiểm. Thức dậy vào lúc 5 giờ sáng. Sau buổi suy niệm nửa tiếng, chúng tôi cử hành Thánh Lễ và nguyện kinh thần vụ. Sau điểm tâm, chúng tôi thu dọn và bắt đầu học. Chúng tôi lên giường nghỉ vào lúc 10 giờ đêm. Đời sống ở chủng viện chui là một đời sống khá khó khăn, ở chỗ, chúng tôi sống ở một ngôi nhà miền quê của một tín hữu giành cho chúng tôi.Thế nhưng, khi chúng tôi nghe tin cảnh sát khám phá ra chúng tôi thì chúng tôi buộc phải thoát thân và định cư ở một nơi khác. Trong năm năm, chúng tôi đã đổi chỗ tất cả là 3 lần. Chủng sinh chúng tôi chẳng những phải lo thu dọn mà còn phải nấu nướng, dọn bữa cho mọi người nữa. Về vấn đề vật chất, cuộc sống thật là khó khăn: lương thực thì ít, rau cũng ít, hiếm khi có thịt ăn; phòng ở chật chội, không có chỗ nào là dư thừa cả. Thế nhưng, lòng tôi lại cảm thấy bằng an, thậm chí hết sức vui vẻ, khác với những gì tôi cảm thấy trước đó. Chủng sinh với nhau rất thân thiện và sống tình huynh đệ với nhau. Một khi mọi người lúc nào cũng tỏ ra yêu thương nhau thì việc thắng vượt khó khăn thật là dễ dàng.

Sau 5 năm học hỏi, ngày chịu chức linh mục đã tới. Bấy giờ tình hình căng thẳng xẩy ra trong giáo phận của tôi, và chúng tôi liều mình bị cảnh sát tống giam. Bởi thế chúng tôi đã cử hành lễ truyền chức vào lúc 4 giờ sáng. Lúc ấy mọi người ở Trung Hoa đang ngủ, kể cả cảnh sát nữa. Cho dù đời sống là người Công Giáo có khó khăn, đức tin của chúng tôi thực sự kiên cường. Điều này cũng là nhờ gương sáng của các vị linh mục trong ngục tù. Một thí dụ nhỏ, đó là, ở tỉnh của tôi, vào năm 1983, khi Trung Hoa bắt đầu thực hiện những cải cách cả thể về kinh tế, chỉ có 3 gia đình Công giáo. Giờ đây, sau gần 20 năm, con số đã lên tới trên 4 ngàn. Thật sự là máu tử đạo trở nên hạt giống mọc lên các Kitô hữu mới. Đối với cả tôi nữa, sức mạnh của tôi chính là Chúa Giêsu. Người đã nói rằng “Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con” (Jn 15:16). Dọc theo con đường này, tôi gặp Thập Giá, nhưng cũng gặp cả niềm vui và an bình nữa. Với ơn Người trợ giúp, tôi mãi mãi theo Người, thắng vượt bất cứ những gì là khó khăn xẩy ra cho tôi. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 26/6/2005

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đức Thánh Cha Phanxicô ban Ơn Toàn Xá Kỷ Niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.

Đức Thánh Cha Phanxicô ban Ơn Toàn Xá Kỷ Niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.

        WHĐ– Bản tin này, về việc “Đức Thánh Cha Phanxicô ban ơn toàn xá kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima” đã được đăng trên trang tin điện tử của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 09-01-2017. Nay chỉ còn gần một tuần nữa là đến ngày lễ kỷ niệm, chúng tôi xin đăng lại bản tin theo yêu cầu của một số bạn đọc.

* * * *

      Theo hãng tin Công giáo Bồ Đào Nha Agencia Ecclesia, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận lời thỉnh cầu của Đền Thánh Đức Mẹ Fatima về ơn toàn xá – với những điều kiện thông thường do Giáo hội quy định – ban cho các tín hữu hành hương nhân Năm Toàn Xá kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra, bắt đầu từ 26 tháng Mười Một 2016.

     “Xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức giáo hoàng” là những điều kiện dành cho các tín hữu hành hương, trong tinh thần “thống hối và bác ái”, để có thể lãnh nhận ơn tha mọi phần phạt được Giáo hội gọi là “ơn toàn xá”. Giáo hội ban ân xá, vì xét theo Kitô học, dựa vào nguồn công nghiệp vô biên của Chúa Kitô, Giáo hội ban ơn tha tội và tha mọi hậu quả của tội.

      Do đó, giáo phận Leiria-Fatima khuyên các tín hữu hãy sốt sắng tham dự một Thánh lễ hoặc một buổi cầu nguyện kính Đức Mẹ, đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và khẩn cầu Đức Mẹ Fatima.

     Hơn nữa, ơn toàn xá cũng được ban cho các tín hữu Công giáo tham dự Thánh lễ hoặc một buổi cầu nguyện kính Đức Mẹ Fatima tại một đền thờ khác có trưng bày ảnh Đức Mẹ, vào ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra, tức vàongày 13 mỗi tháng, từ tháng Năm đến tháng Mười 2017.

    Còn những ai, vì những lý do nghiêm trọng không thể di chuyển được, giáo phận xác nhận rằng họ cũng được ơn toàn xá khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ Fatima, với những điều kiện đã nêu trên, bao gồm việc ăn năn tội.

Ngày 13 tháng Năm 2013 Đức hồng y José da Cruz Policarpo, Thượng phụ giáo chủ Lisbon kiêm Chủ tịch Hội đồng giám mục Bồ Đào Nha, đã dâng triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô lên Đức Mẹ để xin Mẹ gìn giữ, vào cuối Thánh lễ tại đền thờ Fatima, kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất năm 1917.

  Đức thượng phụ đã đặc biệt cầu xin: “Lạy Đức Mẹ là Mẹ của Hội Thánh, chúng con dâng lên Mẹ sứ vụ của Đức tân giáo hoàng: xin cho trái tim ngài được tràn đầy lòng nhân từ của Thiên Chúa, để ngài lấy tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con Chí Ái của Mẹ, mà dang tay đón nhận mọi người nam nữ của thời đại này”.

     Trong sứ điệp gửi đền thờ Fatima, Đức Thánh Cha đã bày tỏ lòng “biết ơn” về sáng kiến này và “cảm kích sâu xa vì ý nguyện của ngài đã được thỏa mãn, đồng thời hiệp ý cầu nguyện với mọi tín hữu hành hương Fatima”.

    Vào ngày 13 tháng Mười năm đó, tại Roma, Đức Thánh Cha đã đứng trước ảnh Đền Thánh Đức Mẹ Fatima và dâng lời cầu nguyện lên Đức Mẹ.
Đức Thánh Cha sẽ tông du Fatima trong hai ngày 12 và 13 tháng Năm 2017, nhân kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại đây.
(Nguồn: Zenit)

Thành Thi chuyển ngữ

KittyThiênKim  & Nguyễn Kim Bằng gởi

ĐƯỜNG GIÊSU

ĐƯỜNG GIÊSU

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng.  Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu.  Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha.  Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường.  Đường ấy có tên là GIÊSU.  Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường.  Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

 Đi đâu cũng cần có đường.  Không con đường nào tự nhiên có.  Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời.  Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người.  Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha.  Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha.  Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha.  Quê Trời trở thành Quê Cha.  Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người.  Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

 Không chỉ là người mở đường.  Chúa Giêsu chính là con đường.  Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người.  Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người.  Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho.  Như bánh rượu tan hòa vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta.  Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người.  Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha.  Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

 Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài.  Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From Langthangchieutim

LỜI TỰ THUẬT CỦA TU SĨ ANANDA

LỜI TỰ THUẬT CỦA TU SĨ ANANDA

Tôi là một trong những tu sĩ Phật giáo kỳ cựu trong nước thuộc ngành Phật Sinhala.  Tôi còn là thành viên của Hội đồng tu sĩ Phật Giáo.  Một cách vắn tắt có thể nói tôi là một trong những tu sĩ được những Phật tử ngoan đạo sống trong những vùng chung quanh “kính thờ.”

Nhưng một điều đáng buồn là tôi không nhận được sự an bình thật sự qua cách sống và luôn dõi tìm một lối thoát, dĩ nhiên một lối thoát hiểu theo nghĩa giải thoát thiêng liêng.  Tôi không muốn từ bỏ chiếc áo cà sa, nhất là tôi rất yêu chuộng giáo huấn Dhamma của Đức Phật Tổ, nhưng một hạnh phúc trong an bình thật sự tôi vẫn chưa nhận được.  Tôi biết rằng niềm hạnh phúc này hiện hữu và con người có thể đạt được nó, nếu chịu khó tìm tòi.  Nhưng coi sự tịch diệt như là cứu cánh tối hậu, hay tiêu diệt đi mọi ước muốn trần thế trong con người đều không phải là những điều có thể tạo cho tôi sự an bình thiêng liêng.

Như là một việc đã được sắp xếp từ bao giờ.  Vào khoảng năm 1961, tôi gặp một Linh mục Công giáo, không phải vì chiếc áo dòng ông đang mặc hấp dẫn tôi, nhưng có lẽ vì cái nhân cách đặc biệt thoát ra từ con người ông, và tấm lòng nhân ái vị tha của ông đối với mọi người.  Tôi không ngần ngại làm quen với ông.  Theo tôi nhận xét, ông có thể là người đã tìm thấy hạnh phúc thật thể hiện rõ ràng qua cách sống.

Ông bạn mới này của tôi dường như hiểu biết rất nhiều về giáo thuyết nhà Phật.  Thế mà trái lại, kiến thức của tôi về Công giáo gần như không có.  Những gì tôi biết chỉ là những điều tôi đã được nghe do những người Phật tử phán đoán, giải thích, phê bình chủ quan về Công giáo.  Tôi biết rằng đó chỉ là những thành kiến sai lầm về Giáo hội này.

Do sự chủ quan khi nhìn vào những ngôi nhà thờ xây cất theo Tây phương và lối sống Âu hóa của các Linh mục, tôi vẫn còn ngần ngại trong việc tìm hiểu thêm về Kitô giáo.  Tôi cho rằng một tôn giáo không hoà mình được với phong hoá và lề thói địa phương thì làm sao có thể loan truyền được chân lý cho dân tộc đó, và vì vậy làm sao có thể đáp ứng được sự giải thoát thật sự tôi đang kiếm tìm.

Tuy nhiên, tôi vẫn không bỏ qua những cơ hội để có thể bàn luận và chất vấn Cha X trong tình thân hữu tôi đã có được với Cha, nhất là để thử nghiệm những điểm đối kháng chống lại các Thày tu Công giáo.   Đối với tôi, các Linh mục Công giáo chỉ là những người đánh cá ra khơi với chiếc bụng lép xẹp, dụ dỗ những con cá ngây thơ bằng miếng mồi giả tạo.

Nhưng chỉ ngay sau đó thôi, tôi thấy rằng mình sai lầm, vì tôi khám phá ra rằng ông Linh mục này không hề mảy may có ý định khuyến dụ tôi về với tôn giáo ông đang theo.  Trái lại, trong sự ngạc nhiên của tôi, ông Linh mục này lại còn bày tỏ ao ước được thử sống lối sống của các tu sĩ Phật giáo nữa.  Ông cho biết, ông chấp nhận một số những nguyên tắc của Phật giáo và ông đã từng áp dụng phương thế Dhammapada để tĩnh tâm.  Ông lại còn là người theo chủ trương ahimsa (không dùng bạo lực) với các sinh vật thụ tạo nữa.

Khi đã thân hơn với ông, tôi cho ông biết về những điều tôi đã nghe phê bình về Giáo hội Kitô giáo.  Tôi tưởng ông sẽ nổi giận, lên tiếng bênh vực cho giáo hội.  Nhưng trái lại, với một thái độ hết sức bình thản ông nói rằng ông không hề trách oán những người đã phê bình Giáo Hội Công giáo.  Có thể có những sai quấy trong Giáo hội, nhưng tất cả nhờ vào sự soi sáng thiêng liêng của Chúa, Giáo hội đã không đi lạc lối và tan rã.

Khi đề cập đến những khuyết điểm của Giáo hội hay chính là những khuyết điểm của những con người trong Giáo Hội, ông nhấn mạnh đến sự hiện diện của ơn Chúa.  Khi bắt đầu thi hành những phương thế sống, người ta nghĩ rằng họ đang làm những việc lành tốt, nhưng khi kết thúc nó có thể đưa đến những thiệt hại nào đó.  Chính sự hiện diện của quân đội Bồ đào Nha tại Sri Lanka đã là trở ngại cho những nhà truyền giáo trong công việc rao giảng Tin Mừng tại quốc gia này.  Thật là một điều tự nhiên, người ta phán xét về một tôn giáo qua sự tiếp xúc bề ngoài với những người theo tôn giáo ấy.  Điều này tôi có kinh nghiệm trong đời sống: Phái Dhamma cực lực chống lại giai cấp quí tộc, nhưng phái Sangha lại chấp nhận và tán thành giai cấp này.

Ông bạn Linh mục của tôi không phải chỉ sửa đổi lại những nhận thức sai lầm của tôi về Giáo hội Công giáo, nhưng dần dần đã giúp tôi hiểu biết nhiều hơn về giáo huấn của Giáo hội và cách sống đạo.   Ông không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính đời sống của ông.  Ông biểu tỏ một hạnh phúc thật sự khi được sống trong đời sống nhiệm nhặt của tu viện.  Ông cho biết rằng chính đời sống khổ hạnh của nhà Chúa là yếu tố rất cần thiết cho Giáo Hội Công giáo tại Sri Lanka.  Ông muốn Kitô giáo hòa nhập vào lối sống địa phương để Tin Mừng của Chúa Kitô có thể được thể hiện và chấp nhận dễ dàng hơn cho những người đã sẵn có một lề lối sống đạo, biết tôn trọng luân lý.  Tôi nghĩ rằng đây có thể được coi là một cách thế thật tốt thể hiện vai trò chứng nhân của Chúa Kitô trong một xã hội Phật giáo.

Một ngày nọ, tôi có dịp hỏi ông về “niềm hạnh phúc thật.”  Ông cho rằng đây là do Ơn Chúa.  Chợt nhận thấy tôi không hiểu danh từ “Ơn Chúa”, ông vội giải thích thêm: “Để hiểu về nguồn ơn thiêng liêng này, người ta cần cảm nhận được nó trước đã”.

“Cảm nhận và nhận chân được chân lý một sự vật” là một cứu cánh của con người.  Từ thuở thiếu thời, tôi đã được Phật Tổ khích lệ để kiếm tìm, nhưng hôm nay đây sự khích lệ đó đã đổi chiều khiến tôi hướng về Kitô giáo.

Sau buổi nói chuyện, ông trao cho tôi cuốn Kristu Anusaraya, Bản dịch của Sinhala, tác phẩm Gương Chúa Giêsu của Thomas à Kempis.  Tôi đọc cuốn sách này thật kỹ và nhận ra rằng nó đã giúp tôi tiến được một bước thật xa, xa hơn bước tiến tôi đã có được trong suốt những năm tĩnh tâm trong nhà Chùa.  Tác giả diễn giải sự hy sinh với một nhãn quan cao hơn.  Đặt căn bản vào Sách Phúc Âm, tác giả cho thấy tình yêu của Thiên Chúa là động lực chính của sự hy sinh.

Tôi nhận ra rằng, người Kitô hữu quan niệm Thiên Chúa là tối thượng so với tất cả thụ tạo, và tình yêu vĩ đại nhất của con người so với tình yêu thiêng liêng của Thiên Chúa chỉ là một hạt bụi vì Ngài là Đấng Sáng tạo.  Như thế, khi người Kitô hữu hy sinh, họ không hy sinh vì phần rỗi cá nhân họ mà họ hy sinh cho tình yêu của Người-Yêu-Thương-Họ.  Điều này khiến tôi an lòng.  Sự an lòng này, tôi nghĩ phải chăng là Ơn Chúa?  Vâng, chính là Ơn Chúa trong tôi.

Rồi, ông bạn dìu tôi vào Tân Ước, nhưng tiếc rằng Sách Tân Ước chưa được dịch toàn bộ sang tiếng Sinhala, mà vốn liếng Anh ngữ của tôi lại quá nghèo nàn.  Học thêm Anh ngữ, tôi đọc sách của các tác giả Kitô giáo.  Ngay cả trong những bài thơ cũng đầy dẫy những hình ảnh về Thiên Chúa: Nào là Thiên Chúa Ba Ngôi, Sự Giáng Sinh của Con Một Thiên Chúa, Mẹ Maria, Thiên Đàng-Địa Ngục v.v…  Đầu tiên, những ngôn từ này làm tôi chán ngán, ông bạn Linh mục khuyến khích tôi, những lời giải thích chấm dứt bằng hai chữ “mầu nhiệm”  khiến tôi như Phaolô nhưng gặp chướng ngại vật cản bước trên “Đường đến Damascus” gặp Chúa.  Tôi may mắn lại được tác phẩm “Lead, Kindly Light” của Đức Hồng Y Newman nâng đỡ.

Một Phật tử không ưa những mầu nhiệm, hơn nữa “mầu nhiệm” tiếng Sinhala là “abirahasa” không có nghĩa giống chữ “mầu nhiệm” của Giáo hội Công giáo, nó chỉ có nghĩa là “một bí mật tuyệt đối”.

Tuy nhiên, với sự giải thích rõ ràng của ông bạn Công giáo, tôi dần dần vượt qua được những khó khăn này.  Ông giải thích rằng cho đến bây giờ, đối với các nhà khoa học với kỹ thuật tân kỳ hiện đại, cơ thể con người vẫn còn là một bí nhiệm.  Đó là nói về phần thân xác, vậy thì phần tinh thần của con người còn phải vượt xa trí óc của nhân loại đến như thế nào?

Con đường tôi tìm hiểu về Đức Tin Kitô giáo như thế đó.  Không phải là một Đức Tin mù quáng, mà là một Đức Tin với tất cả sự hiểu biết, lý luận.  Hơn nữa, nó còn giải đáp thỏa đáng trong quan niệm tự nhiên về con người.  Nhờ đó, tôi nhận biết được bản tính nhân loại trong con người của Đấng Cứu Thế.

Điều làm tôi khâm phục nhất trong Giáo Hội đó là sự lo lắng của những người Kitô hữu đối với tha nhân: Những người ốm đau, những kẻ bần cùng, những người tội lỗi…  Tôi quyết định đi theo Chúa để thực hiện giới răn “yêu người như yêu chính bản thân mình.”

Rồi tôi nhận thấy đời sống tôi thay đổi, không còn bị giam trong bốn bức tường chật hẹp nữa, tôi hít thở bầu không khí tự do.  Tôi nhìn thấy một ngôi sao từ trên cao đang chờ dẫn đường cho tôi đến một chân trời hạnh phúc vĩnh cửu.  Tôi suy niệm mỗi ngày bằng Sách Phúc Âm và cuốn “Gương Chúa Giêsu.”

Năm 1963, tôi đậu kỳ thi nhập học và theo học tại Đại học.  Anh văn của tôi khá hơn khiến tôi đã có thể đọc được Sách Phúc Âm và các sách khác về Kitô giáo bằng Anh ngữ.

Một cuốn sách giá trị tôi được đọc trong khoảng thời gian này đó là cuốn sách ghi lại Công Đồng Vaticanô thứ Hai.  Cho đến lúc đó tôi mới thật sự thấy rằng việc tôn giáo phải thay đổi hợp với thời đại là quan trọng, đặc biệt cho các thế hệ trẻ ngày nay.

Công việc học dù bận rộn, nhưng cũng không khiến tôi chấm dứt việc tìm hiểu thêm về Giáo Hội.   Tôi học rất chăm và được các giáo sư khen ngợi.   Tôi thấy đời sống sao ý vị quá, đặc biệt khi trong đời sống đó ta biết phục vụ mọi người qua việc hy sinh chính con người mình.

Sau khi tốt nghiệp, tôi không còn ý định trở lại tu viện nữa.  Không phải vì tôi có thể tìm được một công việc tốt hay lý do nào khác, nhưng lý do chính để tôi cởi bỏ chiếc áo cà-sa, đó là tôi đã tìm ra Chúa Kitô.  Người là Thiên Chúa và là Thày tôi.  Người đã đến tìm tôi, chỉ cho tôi con đường cứu rỗi với hạnh phúc vĩnh cửu…  Tôi biết, quyết định của tôi sẽ đưa đến việc tôi phải đối diện với những khó khăn khi đi tìm việc làm.

Tôi không có khả năng để diễn đạt hết những cảm xúc của tôi trong quá trình trở lại với Chúa.  Bao nhiêu những khó khăn vất vả, nhưng tôi không thể chờ đợi được nữa rồi.  Ý Chúa là như thế.  Tôi học hỏi về Giáo lý, về cách sống đạo và sẵn sàng.

Tìm được sự bình an là kết quả đầu tiên của con đường tôn giáo.  Chắc chắn tôi sẽ có được sự bình an này khi tôi được nhận vào Giáo Hội.  Nếu tôi phải tóm tắt lại một cách ngắn gọn những gì Giáo hội có thể đã cho tôi khi tôi trở thành con cái Chúa thì tôi chỉ nói được đó là “Đời Sống”.  Tôi muốn nói một đời sống mới, được soi sáng và hướng dẫn do ân sủng thiêng liêng.

Ananda

Langthangchieutim gởi

HAI LINH MỤC VÀO “HANG CỌP” ĐÒI QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO

From facebook:  Cat Bui shared Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s video.
 

 
 
64,785 Views
 
Tin Mừng Cho Người Nghèo

HAI LINH MỤC VÀO “HANG CỌP” ĐÒI QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO

#GNsP – Sáng ngày 06.04.2017 Linh mục Anton Đặng Hữu Nam và JB Nguyễn Đình Thục vào trụ sở huyện Quỳnh Lưu để nạp đơn của tất cả các linh mục trên địa bàn phản đối công văn 333. Tất cả lực lượng công quyền được huy động chỉ nhằm đối phó với vài con người can đảm.

Người dân đã không cho hai cha đi vì chẳng khác nào “vô hang cọp”. Nhưng cha Nam đã nói: “không vào hang cọp sao bắt được cọp con”

Phim “The Confession” (Xưng Tội)

 Phim “The Confession” (Xưng Tội), thuyết minh Tiếng Việt, đoạt giải phim ngắn hay nhất trong liên hoan phim Công giáo quốc tế

httpv://www.youtube.com/watch?v=2kcg5Abi4sk 

Nhóm phiên dịch Mai Khôi giới thiệu bộ phim “The Confession” (Xưng Tội), bộ phim đoạt giải phim ngắn hay nhất trong liên hoan phim Công giáo quốc tế. 

“Đây là một trong những phim ngắn Hàn hay nhất, và cũng là một trong số những bộ phim làm về đề tài tôn giáo thú vị nhất mà tôi từng coi”. Đây là nhận định chung của một số bạn trong nhóm, do vậy, chúng tôi quyết định chuyển dịch và làm thuyết minh ngay để mọi người cùng thưởng thức. 

Đây là bộ phim khá mới vì bản gốc, có phụ đề tiếng Anh xuất hiện trên trang của đạo diễn vào những ngày cuối năm 2016 vừa qua. 

Dù Năm Thánh Lòng Thương Xót đã qua rồi, nhưng nhắc nhớ và sống lòng thương xót luôn là một đòi hỏi căn bản. Xem bộ phim này bạn sẽ nhận ra thông điệp ấy. Bộ phim quá tuyệt, gọn ghẽ với những cảnh quay hầu như chỉ thu gọn trong khung cảnh một toà giải tội, nhưng cũng đầy kịch tính với những nút thắt và cao trào rất hợp lý. 

Xin trân trọng giới thiệu và mời các bạn coi phim. 

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

NIỀM VUI PHỤC SINH

NIỀM VUI PHỤC SINH

Tôi rất thích câu Kinh Thánh: “Khi Chúa Giêsu thấy Maria Mađalêna khóc ở cửa mộ thì Ngài hỏi: Này chị, sao chị khóc?” (Ga 20:15).  Lúc đó Ngài không hỏi một câu văn hoa bóng bẩy.  Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn trong mọi sự – nếu chúng ta lưu ý.

Phục sinh mang ý nghĩa giải thoát, rầt ý nghĩa đối với một người như tôi, vì tôi luôn cảm thấy buồn sầu và tiêu cực.  Mừng lễ Phục sinh là dịp để chúng ta nói: “Vâng, lạy Chúa Giêsu, con tin.”  Khi làm vậy, hãy nắm bắt niềm hy vọng có sẵn đó.

  1. Tiến Lên Và Chạm Vào Ngài

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: “Sao anh em phiền muộn?  Sao anh em nghi ngờ?  Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy.”

Nếu tôi là một trong số họ, tôi không chỉ phiền muộn mà chắc rằng tôi sẽ không đến gần sờ thử.  Tôi nghi ngại.  Nhưng tôi tìm thấy sự an tâm trong sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng sự phục sinh của Ngài là thật.  Chúa Giêsu là thật, sự phục sinh là thật, do đó mà các lời hứa của Ngài là thật.  Nghĩa là chúng ta khả dĩ tin Ngài khi Ngài nói với chúng ta rằng Ngài sẽ ở với chúng ta đến tận thế (Mt 28:20).

  1. Thiên Chúa Tốt Lành

Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nhắc lại rằng Ngài được sai đến nhân danh Chúa Cha.  Thật vậy, qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy tính tốt lành của Thiên Chúa: “Vì Cha yêu Con và cho Chúa Con thấy mọi sự Người làm, và Người sẽ cho Chúa Con thấy những việc vĩ đại hơn vậy, đến nỗi anh em có thể ngạc nhiên” (Ga 5:20).

Chân phước Angela Foligna, thế kỷ 14, là người mẹ và người vợ, rồi là người viết xuất chúng về các điều thần bí, đã viết: “Bước đầu tiên mà linh hồn phải có khi đi vào con đường yêu thương là biết Thiên Chúa qua chân lý, nhờ đó mà muốn đạt tới Thiên Chúa…  Biết Chúa qua chân lý là biết Ngài như chính Ngài, hiểu sự xứng đáng của Ngài, vẻ đẹp của Ngài, sự ngọt ngào của Ngài, sự tuyệt luân của Ngài, sức mạnh của Ngài, sự tốt lành của Ngài, bản chất cực tốt lành của Ngài.”

Tôi nghĩ rằng tin Chúa tốt lành là điểm phục sinh.  Thiên Chúa có tốt lành?  Có.  Chúng ta có thể nói vậy với niềm xác tín vào sự Phục sinh.

  1. Phó Thác

Hãy phó thác ý muốn và cuộc đời mình cho Chúa quan phòng.  Thánh Thomas Tiến sĩ viết: “Tính thánh thiện không gì hơn là quyết định dứt khóat, một hành động anh dũng của một linh hồn phó thác cho Thiên Chúa.  Nhờ ý muốn thẳng thắn mà chúng ta yêu mến Chúa, chạy về phía Chúa, đạt tới Ngài và sở hữu Ngài.”

Mỗi khi chúng ta nói với Chúa: “Hãy lấy điều đó khỏi con,” chúng ta đang sống niềm vui Phục sinh, vì chúng ta đang nhớ lời hứa của Chúa rằng Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta, và dù chúng ta nghi ngờ thì Ngài vẫn thực sự đáng tin.

  1. Loại Bỏ Sợ Hãi

Trong trình thuật của thánh Mát-thêu, thiên thần Chúa hiện ra với Maria và một Maria khác ở nơi mộ trống, rồi nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi biết các chị đang tìm Giêsu bị đóng đinh.  Ngài không còn ở đây.  Ngài đã sống lại như Ngài đã nói.”  Sau đó Chúa Giêsu gặp các chị và lặp lại: “Đừng sợ!” (Mt 28:10).

Có thể điều Chúa Giêsu nói ở đây là đừng sợ.  Loại bỏ sợ hãi là điều không dễ làm.  Nhưng nếu chúng ta có thể loại bỏ sợ hãi, dù loại bỏ dần dần, chúng ta sẽ tránh xa nỗi buồn thập giá và đến gần sự tuyệt vời của ngôi mộ trống.

Cố tu sĩ Thomas Merton, dòng Trap, viết: “Nỗi sợ hãi thu hẹp lối vào trái tim, co rút khả năng yêu thương và làm đóng băng khả năng trao tặng chính mình.”

  1. Công Khai

Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là rao giảng công khai.  Cho dù bạn có thể giống như kẻ khờ dại, cứ nói với người ta rằng sự sống lại đã xảy ra thực sự.  Không nhất thiết chúng ta phải là người rao giảng Tin Mừng từ xa.  Chúng ta khả dĩ làm và nói mọi thứ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta luôn trở lại với sự Phục sinh, truyền niềm hy vọng cho mọi người chúng ta gặp.

  1. Khiêm Nhường

Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và chỉ có một Thiên Chúa, điều đó nghĩa là không ai trong chúng ta là Thiên Chúa.  Đó là sự thật quan trọng khác về sự sống lại: Thiên Chúa trở nên con người, con người không thể trở nên Thiên Chúa.  Tôi biết tôi thường lẫn lộn hai điều đó, nhất là khi tôi nói qua điện thoại với nhân viên bảo hiểm y tế, vì tôi cảm thấy mình có quyền hơn người đó.

Thánh nữ Catarina Siena viết: “Hãy nhỏ bé và khiêm nhường.  Hãy nhìn vào Thiên Chúa, Ngài tự hạ làm con người.  Đừng làm mình bất xứng với những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.”  Với sự khiêm nhường, chúng ta sẽ có khả năng hơn nhờ sự phục sinh.  Điều đó như sự bù đắp những gì chúng ta không thể có, nhưng Thiên Chúa khả dĩ cung cấp cho chúng ta nếu chúng ta tin rằng ngôi mộ trống.

  1. Hành Trình Emmaus

Tôi luôn được đánh động bởi trình thuật của thánh Luca về hành trình Emmaus.  Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa Giêsu đến gần và hỏi họ đang nói chuyện gì.  Một người nói: “Sao ông hỏi vậy?  Ông không nghe xôn xao chuyện gì ư?”  Và họ chợt nhận ra Ngài khi Ngài cùng ngồi ăn với họ.  Nhưng ngay khi họ nhận ra Ngài thì Ngài biến đi.

Hằng ngày chúng ta có dịp đi Emmaus nếu chúng ta đồng ý với thánh Leo Cả: “Chia sẻ sự phục sinh của Chúa Kitô là không bị ràng buộc bởi những gì tạm thời, nhưng chỉ ràng buộc bởi sự sống vĩnh hằng mà Ngài trao ban cho chúng ta…  Sự phục sinh đã khởi sự nơi Đức Kitô, và Ngài muốn dẫn chúng ta đến sự viên mãn của sự sống và sự chữa lành.”

  1. Cầu Nguyện Liên Lỉ

Trong trình thuật của thánh Luca, tôi thích câu: “Họ hỏi nhau: Lòng chúng ta không sốt sáng khi Ngài nói chuyện với chúng ta trên đường đi và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta sao?” (Lc 24:32).

Hành trình tới Emmaus là lời cầu nguyện, các nhiệm vụ nhỏ mọn của chúng ta hằng ngày cũng là những lời cầu nguyện.  Thánh bổn mạng của tôi, Têrêsa Hài đồng, đã định nghĩa: “Lời cầu nguyện là điều bộc phát từ đáy lòng, là ánh mắt hướng về trời cao, là lời tạ ơn, là tình yêu giữa cơn thử thách và giữa niềm vui.”  Đó là cách cầu nguyện khi chúng ta sống niềm vui Phục sinh.

  1. Nhận Biết Chúa Trong Mọi Sự

Nếu mùa Chay là sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa thì lễ Phục sinh là ca vang Alleluia với Ngài.  Và nếu 40 ngày bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro là tách mình ra khỏi ai đó, nơi nào đó và thương mình hơn thì lễ Phục sinh là đón nhận mọi người, mọi nơi, mọi thứ gì thúc đẩy sự tốt lành, vẻ đẹp và tình yêu thương.  Thánh GH Gioan-Phaolô II đã viết: “Chúng ta có thể tìm thấy Chúa trong mọi sự.  Chúng ta có thể hiệp thông với Ngài trong mọi sự và qua mọi sự.”  Thiên Chúa hằng sống và hiện hữu khắp nơi.

Hãy sống niềm vui Phục sinh ở mọi nơi và mọi lúc.  Hãy cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và trao cho người khác chính cuộc đời mình!

Therese Borchard

Kha Đông Anh 

(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

Một cặp vợ chồng vừa cho chào đời một đứa trẻ bị cụt cả tứ chi, đã có tâm sự thật cảm động như sau. Chúng tôi muốn nói với các bạn một điều: ngày đứa con đầu lòng của chúng tôi mới chào đời, nhìn con chúng tôi bị cụt cả hai tay hai chân chúng tôi xúc động mạnh lắm, những giọt nước mắt của đứa trẻ vừa mở mắt chào đời bị cụt tứ chi làm chúng tôi cảm thấy xót xa như dao cắt cõi lòng. Nhưng chúng tôi có thể nói bằng nụ cười của một đứa trẻ bị cụt tay chân từ lúc mới sinh. Không còn gì an ủi cho bằng ẵm lấy đứa trẻ bị cụt tay chân vào lòng, không còn gì sâu sắc hơn ánh mắt của đứa trẻ tật nguyền ấy. Chúng tôi có thể nói với các bạn rằng khi nhìn đứa bé tật nguyền ấy với cặp mắt tràn lệ sung sướng nó như muốn nói với bạn rằng: “Cám ơn ba má đã thương yêu con và đã muốn con được hạnh phúc”. Lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu những gì bạn chưa bao giờ hiểu trước đó.

Nếu bạn nhìn lên Chúa Giêsu chết treo trên thập giá, bạn sẽ nhìn lại và nhìn thẳng vào ánh mắt của Ngài, Ngài cũng hầu như không còn tay chân nữa, bởi vì cả hai tay chân Ngài đã bị đinh sắt đâm thâu, bị bất động và bị đóng chặt vào gỗ thánh giá. Rồi bạn hãy nhìn chăm chú không phải vào tay chân bị cụt mất của đứa con yêu dấu tật nguyền của bạn, nhưng bạn hãy nhìn vào ánh mắt của con, vào trái tim và vào tâm hồn của nó nếu bạn có thể nhìn được. Và rồi bạn sẽ sung sướng khám phá ra những gì cặp mắt của thân xác bạn không thể nhìn thấy, đó là người con yêu dấu bất hạnh của bạn đang chiếm hữu hạnh phúc bất diệt của thiên đàng.

***

Chứng từ của cha mẹ đứa bé tàn tật trên đây nói lên lòng tin vững mạnh vào Mầu Nhiệm Ðau Khổ. Ðó cũng là cách mà các tín hữu tiên khởi suy niệm khi nhớ lại lời giảng của Chúa Giêsu. Những lời nói thật chói tai nhưng có sức đánh động tâm hồn họ hơn cả: “Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5) hay “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc9:23).

Cái chết khổ hình thập giá của Chúa Giêsu đã làm cho dân Do Thái phải kinh ngạc: Qua những phép lạ lớn lao tay Ngài thực hiện, nào là cho bánh hoá nhiều, chữa lành bệnh tật, kẻ chết sống lại; thế mà đến lúc cuối đời, dù bị oan ức, tra tấn sỉ nhục và chết cách dã man trên thập giá, Ngài cũng không làm một phép lạ nào để tự cứu mình khỏi khổ đau.

Ngài đã lau khô nước mắt của những người đau khổ, đã biến những nỗi khổ đau thành niềm vui, nhưng Ngài không hoàn toàn khử trừ đau khổ khỏi mặt đất! Bởi vì mầu nhiệm của đau khổ và sự chết vẫn là một thực tại được tiếp diễn qua mọi thời đại. Nhưng việc Phục sinh khải hoàn của Chúa Giêsu chính là sự bảo đảm và là lời minh chứng hùng hồn về giá trị của đau khổ.

Ðau khổ không phải là cùng đích của đời sống con người, cũng chẳng phải là con đường cùng; nhưng đối với những kẻ tin vào sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu thì bên kia bóng tối của sự chết và đau khổ, chính là ánh sáng của sự sống vĩnh cửu và của hạnh phúc bất diệt.

***

Lạy Chúa, con có thể tìm Chúa trong mọi nẻo đường và nơi các sự vật, con cũng có thể gặp Ngài ngay trong những đau khổ chồng chất của đời con. Vâng, con tin chắc rằng khi con gặp được Chúa là con gặp được sự ủi an, hạnh phúc và niềm vui. Xin Chúa giúp con luôn xác tín rằng ơn cứu độ của Chúa sẽ biến đổi những đau khổ chóng qua của con hôm nay thành hạnh phúc bất diệt cho con ngày mai trên Nước Trời. Amen.

Thầy Uông Đai Bằng gởi

“Có lần tôi thấy một người đi,”

 Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 3 Phục Sinh 23/4/2017

Tin Mừng (Lc 24: 13-35)

Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Ngài. Ngài hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

Một trong hai người tên là Clêôpás trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Đức Giêsu hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Ngài để Ngài bị án tử hình, và đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Ngài đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.

Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh.

Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Ngài rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Ngài mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? “

Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh.

&   &   &

“Có lần tôi thấy một người đi,”

“chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì.

Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,

một mình làm cả cuộc phân ly.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Thấy người đi hôm ấy, nhà thơ cứ ngỡ mình làm cuộc “phân ly”. Biết Chúa đã sống lại, nhà Đạo lại ngờ rằng: đó không phải. Vì nghĩ không phải, nên mới hững hờ. Thờ ơ. Tranh cãi.

Trình thuật thánh Luca, nay đưa ra luận cứ về điều mà nhiều thành viên Hội thánh xem ra vẫn cãi tranh, giành giựt mọi thắng lợi để thuyết phục người người chấp nhận lý lẽ mình đưa ra.

Về sống lại, nhiều sự kiện xảy đến với Chúa, không theo hướng quen thuộc, nên nếu người người sử dụng ngôn ngữ bình thường để suy nghĩ, sẽ thấy cũng khó mà tin. Khó, nhưng đó là việc có thật, từng xảy đến. Chúa sống lại, tuy gây dao động, nhưng đã tạo cho mọi người xác tín rằng niềm tin chính là quà tặng Chúa ban để mọi người có dịp suy nghĩ. Suy và nghĩ, những gì xảy đến với Chúa, rất hợp tình. Hợp lý. Chẳng nghi nan.

Xét bề ngoài, ta thấy nhiều việc xảy đến với Chúa xem ra khá mâu thuẫn. Nên trên thực tế, không phải ai ai cũng đều công nhận Chúa đã sống lại làm người thường. Nhưng, nếu Ngài lại bằng cách mặc lấy xác phàm làm người thường, thì sau đó, chắc Ngài sẽ phải chết thêm lần nữa.

Sự thật, không phải thế. Trình thuật hôm nay, thánh Luca mô tả việc Chúa đến đồng hành với môn đệ bằng hình hài ta thấy và sờ chạm được bằng chân tay, nhưng không thể tưởng tượng được là: Ngài sẽ phải chết, thêm lần nữa. Thật ra, không thể có chuyện như thế. Điều, thánh Luca kể ở Tin Mừng, là để nói lên ý nghĩa nào đó mà nhiều vị gọi là truyện “Đường Emmaus, hành trình với môn đệ”.

Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường. Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12).

Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37). Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy.

Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống. Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo qui cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người. Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước. Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bùng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ. Khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài. Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó. Thầy đến để bẻ bánh, ban phát tình thương yêu nồng thắm, cho chúng nhân.

Thực tế là như thế. Nhưng ngày nay, điều đáng buồn là rất nhiều tín hữu Đức Kitô cứ khăng khăng tin rằng thân xác Chúa trỗi dậy với cuộc sống theo hình thức rất thể lý. Rất nghĩa đen. Và, họ coi đó như thực tại duy nhất, không bàn cãi nữa. Buồn hơn nữa, lẽ đáng ra, ta phải hiểu Phục Sinh nhiều hơn thế.

Nếu hiểu Phục Sinh chỉ là Chúa hiện diện với hình hài xác thể như khi trước thôi, tức là ta tự mình để luột mất ý nghĩa chính đáng, của nhiệm tích có thực. Buồn biết bao, khi nhiều người/nhiều vị vẫn lên án các đấng bậc nào khác nhận thức Chúa sống lại theo kiểu cách thơ văn mà thánh Luca viết theo dạng dụ ngôn, hay sao đó. Buồn nhiều cả, là: các vị không nghe và không thấy giòng chảy thi ca/âm nhạc vẫn tiềm tàng ẩn mình ở trong đó. Thực tại Sống Lại rất thật. Thật, một cách đích thực.

Quả thật, Chúa sống lại THỰC. Ngài khiến ta THỰC THỤ sống lại với tình

Thương như bao giờ sống vậy. Trong tâm tình đó, tưởng cũng nên ngâm nga tiếp nguồn thơ/văn của thi sĩ trên, còn viết tiếp:

“Có lần tôi thấy một bà già

Đưa tiễn con đi, trấn ải xa

Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng

Lưng còng đổ bóng, xuống sân ga.”

(Nguyễn Bính – Những Bóng Người Trên Sân Ga)

“Thấy một bà già” hay thấy nhiều bà mẹ còn đó bóng hình đổ trên sân ga cuộc đời, là thực tại. Thấy lưng bà còng. Thấy bóng hình chờ con của bà “sống lại” rồi chợt đến để sẻ bánh/chia cơm, mà sống thực. Thực tình sống cõi đời đầy yêu thương, như Chúa dạy. Suốt miên trường. Đó cũng là ý nghĩa và tác động của thơ văn, trong đời.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.”

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 3 Phục Sinh năm A 30/4/2017

KHÔNG 2 – NGUYỄN ÁNH 9 – ca sỹ DAVID MINH ĐỨC

httpv://www.youtube.com/watch?v=-suN-cYXWFc

“Thôi, thôi, tôi van xin

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Không 2)

(Mt 5: 33-37)

Ối chà chà, là âm-nhạc! Nhạc gì mà, cứ hết hát chữ “Không 1” rồi lại “Không 2”, toàn những “Không” và Không”, đến rợn người. Thơ gì mà cứ nói, hết tiếng “Thôi” cho xong, rồi lại phán tiếp những từ và những ngữ “Đừng”, rồi “Chớ” và “Thôi” đến liên hồi?

Này nhé, bạn thử xem: bàn chuyện tình-yêu, mà người viết nhạc cứ kể nhiều chi-tiết như thể bảo:

“Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất.

Tình yêu cho tôi chi lắm men say.

Để tình yêu đem thương đau và nước mắt.

Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.

Người ơi cho tôi chi lời ân ái.

Người ơi cho tôi chi phút mê say.

Để giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.

Để giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Thôi thì, hôm nay đây, bần đạo chả dám mạn-đàm về những câu ca/tiếng hát đầy tiêu-cực, đến như thế. Cũng hệt như thể, bần đạo đây, chỉ muốn sưu-tầm các nhạc buồn vời vợi, mãi không…thôi, ư?

Thôi thì, hôm nay đây, nhân lúc đàm-đạo dăm ba câu chuyện rất ư là “tiêu-cực” để bạn và tôi, ta thấy được rằng: trong cuộc đời người, nhiều điều/nhiều thứ cũng đa-dạng, tích-cực và tiêu-cực đầy đủ hết.

Thôi thì, hôm nay đây, trước khi đi vào chủ-đề chính-yếu và chính-chuyên, xin mời bạn/mời tôi, ta cứ dấn bước đi vào vùng trời truyện kể, có sự thể rất tiêu-cực đối-chọi với điều tích-cực, hoặc về: kiếp trước/kiếp sau đối-chọi nhau, như sau:

“Bạn hỏi mình: Có kiếp trước hay không?

Sao mỗi con người sanh ra lại khác nhau đến thế?

Có kẻ đẹp kẻ xấu. Có người khôn người ngu. Có đứa sang đứa hèn.

Nhưng bạn ơi, xấu – đẹp, khôn – ngu, sang – hèn … là do bạn nhìn nó như vậy.

Chứ bản thân mỗi người đều là mỗi tuyệt tác đấy thôi.

Máu ai cũng đỏ. Nước mắt ai cũng trong. Trái tim ai cũng đập.

Sự phân-biệt đến do bạn nhìn như vậy.

 Bạn lại hỏi mình: Có kiếp sau hay không?

Mình mới hỏi lại: Bạn cần kiếp sau để làm gì?

Để thấy người sống thiện được đền đáp,

người tội lỗi bị dầu sôi, người tu đạo được giải thoát.

Nhưng bạn ơi, đâu cần tới kiếp sau.

Nhân quả nhãn tiền.

Chỉ do bạn không thấy.

 Bạn có bao giờ nhìn sâu vào cuộc sống.

Người có lòng Từ, khuôn mặt sẽ dịu nhẹ bao dung, vòng tay sẽ ân cần rộng mở.

Kẻ thủ ác, trong tim chứa đầy lửa dữ. Tự đốt mình, đâu cần địa ngục xa xôi. Đôi mắt láo liên, hằn những đường gân máu. Luôn cau mày, luôn nhức nhối thân tâm.

Ai xức nước hoa, người sẽ thoang thoảng hương thơm.

Trái tim ai đẹp sẽ lung linh như vầng trăng ấy.

 Và bạn ơi, phút giây này hạnh phúc. Được mỉm cười, được chiêm ngắm đổi thay. Tìm cầu chi nữa quá khứ vị lai. Chẳng nơi nào đẹp như bây giờ hiện tại. Cành sen trắng đang rưng rưng trong nắng. Bụt mỉm cười lấp lánh đoá Vô Ưu.

 “Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ-hội đặc-biệt cả. Mỗi ngày sống, đã là một cơ-hội đặc-biệt rồi!”

 Tôi suy đi nghĩ lại câu nói này, và nó đã thay đổi cuộc đời tôi. Hiện nay tôi đọc sách nhiều hơn trước và bớt dọn dẹp nhà cửa. Tôi ngồi trước mái hiên mà ngắm cảnh chứ không buồn để ý đến cỏ dại mọc trong vườn.

 Tôi dành nhiều thì giờ cho gia đình và bạn hữu, hơn là cho công việc. Tôi hiểu rằng, cuộc đời là những cảm-nghiệm mình cần phải nếm. Từ ngày ấy, tôi không còn cất giữ một cái gì nữa. Tôi đem bộ ly pha-lê ra sử-dụng mỗi ngày; tôi mặc áo mới để đi siêu-thị, nếu mình bỗng thấy thích. Tôi không cần dành nước hoa hảo-hạng cho những ngày đại lễ, tôi xức nước hoa khi nào mình thấy thích.

 Những cụm-từ như: “một ngày gần đây” và “hôm nào”, đang bị loại khỏi vốn tự-vựng của tôi. Điều gì đáng bỏ công, thì tôi muốn xem, muốn nghe, muốn làm ngay bây giờ. Tôi không biết chắc là vợ của bạn tôi hẳn sẽ làm gì, nếu cô ấy biết trước rằng mai đây mình không còn sống nữa. (một ngày mai mà tất cả chúng ta xem thường)

 Tôi nghĩ rằng, cô ấy hẳn sẽ mời mọi người trong gia-đình, mời bạn bè thân-thích đến. Có thể cô sẽ điện cho vài người bạn cũ, và làm hòa hay xin lỗi về một chuyện bất hòa trước đây. Tôi đoán rằng: cô ấy sẽ đi ăn các món Tàu (vì cô rất thích ăn đồ Tàu!)

 Chính những chuyện vặt-vãnh mà tôi chưa làm, khiến cho tôi áy náy, nếu tôi biết rằng: thì giờ tôi còn rất có hạn. Tôi sẽ rất áy-náy vì không đi thăm một vài người bạn mình cần phải gặp, mà cứ hẹn lần hồi. Áy náy, vì không nói thường hơn, với những người thân của mình rằng: mình yêu thương họ. Áy náy, vì chưa viết những lá thư, mà mình dự định ‘hôm nào’ sẽ viết.

 Giờ đây, tôi không chần-chờ gì nữa, tôi không hẹn lại và không cất giữ điều gì, có thể đem lại niềm vui và nụ cười cho cuộc sống chúng tôi. Tôi tự-nhủ rằng mỗi ngày là một ngày đặc biệt. Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút đều đặc-biệt cả. Nếu bạn nhận được thư này, ấy là vì có một ai muốn điều hay cho bạn, và vì bạn cũng có quanh mình những người bạn quý yêu. 

 Nếu bạn quá bận, đến độ không thể dành ra vài phút gửi đến cho ai khác và tự nhủ: “mai mốt tôi sẽ gửi” thì mai mốt đó, có thể là một ngày thật xa hoặc là bạn không bao giờ gửi được.” (trích điện-thư bạn gửi cho nhau, trên mạng, cũng rất nhiều).

 Vâng. Những nhắn-nhủ và tự-nhủ như trên, đã đưa người kể và người đọc hãy cứ suy-tư đôi chút về những điều được nói đến, ở Kinh/Sách nhà Đạo, có những câu/những chữ “Đừng”, “Chớ” và không được” như sau:

 -“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ.” (Mt 5: 17)

“Nhưng cũng có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi.” (Mt 4: 7)

 -“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5: 33-37)

Quả là, các lời khuyên răn trong Đạo, luôn luôn bao gồm rất nhiều chữ như: Chớ, đừng, Không nên, không được… đều là những từ và những chữ nói lên tính tiêu-cực, trong hành-động.

 Quả là, trên thực-tế, có những luật “bất thành văn” vẫn được nhiều vị cứ là bảo nhau phải tuân giữ, như: việc hãm mình/phạt xác, làm việc đền tội đến “khó thở”, chịu đựng cực nhọc quá sức mình, kiêng ăn nhịn uống đủ mọi loại-hình có hại cho cơ thể. 

Cứ như thế, nếu bạn và tôi, ta có thì giờ mà tản-mạn trong vười Kinh Sách sẽ thấy rất nhiều thứ tiêu-cực được diễn-tả trong nhiều truyện kể, câu nói hoặc phán bảo của nhiều đấng bậc, ở trong Đạo.

Cứ như thế, đấng bậc thuộc nhà Đạo nọ lại đã minh-chứng tính tiêu-cực ở Kinh Sách bằng lời lẽ, cũng tiêu cực không kém như sau:

“Hàng thế kỷ lâu nay, sau khi các đoạn văn Kinh Sách được viết xuống và được gọi là “Lời Chúa”, ông Phaolô cũng trích-dẫn rất nhiều lời từ Kinh Sách tiếng Do-thái cổ để hỗ-trợ lập-trường “tiêu-cực của ông đối với phụ-nữ; và ngang qua Phaolô, các lời lẽ như thế đã đúc thành lối hiểu/biết rất khuynh-loát của Tân-Ước về người nữa. Nữ-giới không được tạo-dựng theo hình-ảnh của Thiên-Chúa. Các bà được định-mẫu thành người “bạn đời” của nam-nhân, chứ không như con người biệt-lập. Bởi lẽ, câu truyện tạo-dựng này lâu nay vẫn tạo ảnh-hưởng khá mạnh trong việc định-nghĩa giới-tính cho con người mãi đến hôm nay…” (X. TGm John Shelby Spong, Recasting the Negativity, The Sins of Scripture, Exposing the Bible’s Texts of Hate to Reveal the God of Love, HarperCollinsPublishers 2005 tr. 73, 101-109)

Tính-cách tiêu-cực hiện rõ trong tư-tưởng hoặc hành-động, vẫn được kể lể nhiều qua các truyện dài/ngắn ở đời người. Có một truyện được kể cũng kha khá, dù có được coi là hư-cấu hoặc tự-tạo, cũng nói lên được một bài học để đời về những đối chọi/kình-chống giữa tiêu-cực và tích-cực.

Đó là câu truyện kể về cuộc đối-thoại giữa thày/trò Khổng-Tử và Nhan Uyên, như sau:

“Nhan Uyên ham học hỏi, tính tình tốt bụng, là một đệ tử đắc ý của Khổng Tử. Một ngày nọ, trên đường đi làm việc, Nhan Uyên thấy một đám đông ồn ào trước cửa tiệm vải. Anh bước đến hỏi mới biết là đang có tranh chấp giữa người mua và người bán vải.

 Chỉ nghe người mua hét lớn:

-Ba nhân tám là 23, sao ông cứ đòi ta 24 đồng?

Nhan Uyên đến trước mặt người mua, lễ phép nói:

-Vị đại ca này, ba nhân tám là 24, sao có thể là 23 được? Anh tính sai rồi, không nên cãi lộn ầm ĩ nữa.

 Người mua không phục, chỉ thẳng mặt Nhan Uyên nói:

-Ai cần ngươi phân xử hay sao? Ngươi biết tính toán sao? Muốn phân xử chỉ có cách tìm Khổng phu tử, đúng hay sai hãy để ông ấy định đoạt! Đi, ta hãy tìm ông ấy để phân xử!”

 Nhan Uyên đáp:

-Được. Nếu Khổng phu tử nói anh sai, vậy xử lý sao?

Người mua nói:

-Nếu ta sai, hãy lấy đầu ta. Nhà ngươi sai thì sao?

Nhan Uyên trả lời:

-Nếu tôi sai, tôi sẽ từ quan.

Hai người đánh cuộc với nhau như thế, cũng đã tìm gặp được Khổng Tử.

 Sau khi hỏi rõ đầu đuôi, Khổng Tử quay sang Nhan Uyên cười nói:

-Ba nhân tám là 23 đó! Nhan Uyên, con thua rồi, lấy mũ quan xuống đem cho người ta đi!

Nhan Uyên từ trước giờ chưa bao giờ cãi lại sư phụ. Nghe Khổng Tử nói mình sai, anh đành tháo mũ xuống giao cho người mua kia nhưng trong lòng không phục. Người mua nhận mũ, đắc ý rời đi.

 Nhan Uyên cho rằng Khổng Tử già rồi đâm ra hồ đồ, liền không muốn ở lại học tập Khổng Tử nữa. Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay lại lấy cớ nhà có việc muốn xin nghỉ học… Khổng Tử rất rõ tâm tư Nhan Uyên, nhưng không nói gì, chỉ gật đầu đồng ý.

 Trước khi đi, Nhan Uyên quay lại cáo biệt Khổng Tử. Khổng Tử muốn Nhan Uyên trở về nhà bình an, cũng dặn dò hai câu:

 “Ngàn năm cổ thụ không náu thân, sát nhân không rõ chớ động thủ”.

Nhan Uyên đáp lại một câu:

-Con xin ghi nhớ”, rồi rời đi.

 Trên đường về, gió thổi mây dâng, sấm rung chớp giật, trời muốn đổ mưa to. Nhan Uyên tiến đến một cây đại thụ, muốn tránh mưa. Anh đột nhiên nhớ lại lời Khổng Tử đã nói: “Ngàn năm cổ thụ không náu thân”…

 Nghĩ thầm, sư đồ nhất tràng, anh nghe theo lời sư phụ, tránh xa khỏi cái cây mục rỗng. Vừa rời đi không xa thì nghe một tiếng sấm, sét đã đánh tan cây cổ thụ kia. Nhan Uyên kinh ngạc: “Câu đầu sư phụ nói đã ứng nghiệm sao! Chẳng lẽ ta còn có thể sát nhân ư?”

 Khi về tới nhà thì trời cũng đã khuya. Không muốn kinh động người nhà, Nhan Uyên dùng bảo kiếm mang theo bên người để đẩy chốt cửa phòng nơi thê tử của anh đang ngủ.

 Đến bên giường, sờ lại thấy hai người nằm hai bên giường. Nhan Uyên vô cùng tức giận, giơ kiếm định chém, lại nghĩ đến câu nói thứ hai của Khổng Tử: “Sát nhân không rõ chớ động thủ”, bèn đốt đèn lên xem, hóa ra một người là vợ, người kia là em gái của anh.

 Ngày hôm sau, Nhan Uyên quay trở lại, thấy Khổng Tử liền quỳ xuống nói: “Sư phụ, hai câu người nói đã cứu ba người là con, vợ con và muội muội của con đó! Sao người lại biết trước chuyện sẽ xảy ra vậy?”

 Nhan Uyên cảm thấy kính phục thầy sâu sắc, cũng đã biết được ẩn ý của Khổng Tử. Khổng Tử đỡ Nhan Uyên dậy và nói: “Ngày hôm qua thời tiết khô nóng, đoán chừng sẽ có cơn dông, nên ta nhắc nhở con: “ngàn năm cổ thụ không ai náu thân”, con lại mang khí bực trong người, trên thân đeo bảo kiếm, cho nên ta khuyên con “sát nhân không rõ chớ động thủ”!”

 Nhan Uyên vừa vái lạy vừa nói: “Sư phụ liệu sự như thần, đệ tử mười phần kính nể!”

Khổng Tử lại nói tiếp: “Ta biết rõ con xin phép về nhà nghỉ là mượn cớ, thật ra cho rằng ta đã già nên hồ đồ rồi, không muốn học ta nữa. Con nghĩ xem, ta nói 3 nhân 8 bằng 23 là đúng, con thua, bất quá là thua cái mũ quan kia, nếu ta nói 3 nhân 8 bằng 24 mới đúng, người mua bán kia thua, đây là một mạng người đó! Vậy con nói xem, chức vị quan trọng hay mạng người quan trọng hơn?”

 Nhan Uyên bỗng giật mình tỉnh ngộ, quỳ gối trước mặt Khổng Tử mà thưa: “Sư phụ trọng đại nghĩa coi nhẹ tiểu tiết, đệ tử còn tưởng rằng Sư phụ vì lớn tuổi mà thiếu minh mẫn, đệ tử hổ thẹn vạn phần!”

 Từ đó về sau, bất luận Khổng Tử đi đến đâu, Nhan Uyên theo đến đó không rời sư phụ… Câu chuyện này gợi cho chúng ta nhớ đến một lời dạy của người xưa: “Lùi một bước biển rộng trời trong”, đúng như vậy, đôi khi bạn tranh đấu giành được điều bạn cho là lẽ phải, nhưng điều mất đi có lẽ còn quan trọng hơn. Và nếu bạn biết nhường nhịn và lắng nghe thì có lẽ bạn sẽ học hỏi được nhiều điều hơn. Hãy luôn luôn phân rõ sự tình nặng nhẹ. Đừng gắng sức tranh giành, rồi sau hối hận cũng không kịp! 

Trong thực tế, khi chúng ta hơn thua với khách hàng, thì thắng ấy cũng là thua (khi sản phẩm mới cần đổi mẫu, bạn sẽ biết); khi hơn thua với ông chủ, thì thắng ấy cũng là thua (cuối năm lúc đánh giá thành tích, bạn sẽ biết); khi hơn thua với người già, thì thắng ấy cũng là thua (người ta không để ý tới bạn đâu, bạn vẫn phải tự mình làm thôi); khi hơn thua với bằng hữu, thắng ấy cũng là thua (làm không tốt sẽ mất đi một người bạn).

 Trong tất cả vấn đề thì chữ nhẫn rất là trọng yếu, bất luận điều gì chưa rõ, thì không nên tức giận hay lỗ mãng, hãy tìm hiểu kỹ sự việc, rất có thể nguyên nhân đó ở chính bản thân bạn, khi hiểu được vấn đề thì hãy cùng nhau bàn bạc để giải quyết. Nếu không, sai một niệm có thể sẽ hỏng một đời… 

Hãy tranh đấu với chính bản thân để trở thành người Khiêm Tốn, Bao Dung,… thì lúc đó bạn mới thật sự THẮNG. Tự chế để tránh một cuộc tranh cãi tức là bạn đã thắng bản thân, cái thắng đó mới đáng kể.

 Không cần biết 3 nhân 8 có đúng là 23 hoặc 24, vẫn là chuyện để ta và mọi người nhớ mãi một lời khuyên để đời trong cuộc sống, Một cuộc sống có những vấn-nạn ngay sau khi nghe kể truyện nhân chia, rằng:

“Vì sao Khổng tử dạy học trò: 3 x 8 = 23? Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hay bị sa vào những cuộc tranh cãi, đôi co. Ai cũng nghĩ là mình phải, mình đúng, mình biết nhiều hơn… do đó phải đỏ mặt tía tai cãi cho lấy thắng. Họ không hiểu rằng dính vào một cuộc tranh cãi là họ đang thua. Vì sao?

– Tranh cãi với khách hàng? Bạn thắng rồi, khách mất đi.

– Tranh cãi với đồng nghiệp? Bạn thắng rồi, đoàn đội tiêu tan.

– Tranh cãi với người nhà? Bạn thắng rồi, tình thân biến mất.

– Tranh cãi với bạn hữu? Bạn thắng rồi, bạn hữu dần xa.

– Tranh cãi với vợ chồng? Bạn thắng rồi, tình cảm nhạt phai…

Nói tóm lại, tranh cãi với bất kỳ ai, bạn thắng rồi thì sao? Bạn sẽ THUA!”

Xem thế thì, có thắng hay thua trong tranh-cãi hoặc nhận-định ở đời, vẫn là chuyện của người đời còn sống mãi với người đời, rất hôm nay.

Để kết luận, tưởng cũng nên đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta quay về với lời ca ở trên không cần biết lời ca có là tích-cực hoặc tiêu-cực, một ý-nghĩa, vẫn cứ hát, rằng:

“Không, không, đến với tôi đến với tôi nữa làm gì.

Không, không, đến với tôi đến với tôi nữa làm gì.

Thôi, thôi, tôi van xin

Tôi van xin đừng đến nữa tình yêu ơi.

 Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất.

Tình yêu cho tôi chi lắm men say.

Để tình yêu đem thương đau và nước mắt.

Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.

Người ơi cho tôi chi lời ân ái.

Người ơi cho tôi chi phút mê say.

Để giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.

Để giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Hát thế rồi, nay xin mời bạn/mời tôi ta cứ hiên-ngang đi vào cuộc đời để sống hãnh-tiến suốt một đời, dù đời người có ra tiệc-cực hoặc tích-cực, cũng mặc.

Thế đó, là lời kết xin được gửi đến bạn đọc và người viết những tình-tự rất tương-tự, để còn sống mãi mãi một tương-lai xa vời vợi gần như là vĩnh-cửu.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ suy-tư nhiều về tiêu-cực, tích-cực

Và vĩnh cửu, thiên thu rất mai ngày

Một cuộc đời ở nhà Đạo hay ngoài đời

Cũng đều thế.

CHÚA HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU

CHÚA HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAU

Hôm nay chúng ta sẽ suy niệm về một lời cầu khẩn của hai môn đệ trên đường từ Giêrusalem về Emmau: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn.”  Đó là một thực tế về mặt thời gian, bởi vì lúc đó gần tối rồi.  Đồng thời câu nói đó có lẽ nó cũng diễn tả một trạng thái tâm hồn.

Trời đã về chiều, ngày sắp tàn, đêm tối sắp đến.  Tâm hồn của hai ông bị chìm trong đêm tối, cái đêm tối của nghi ngờ, đêm tối của thất vọng.  Bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin vào Thầy Giêsu mà cuối cùng Thầy Giêsu bị bắt đánh đập, đóng đinh, giết chết trên Thập Giá.  Tất cả niềm tin và hy vọng tan biến, chỉ còn lại nghi ngờ và tuyệt vọng.  Đêm tối ấy đáng sợ hơn là đêm tối về mặt không gian và thời gian tự nhiên.

Chính trong tâm trạng ấy các ông thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy ở lại với chúng con vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn.”  Lời cầu khẩn ấy không phải là lời cầu khẩn của chính chúng ta hay sao?  Những lúc cuộc đời của chúng ta có những thất bại, có những cay đắng, chán nản đến độ chúng ta đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa, chúng ta cần bắt chước hai môn đệ thốt lên lời nguyện xin: “Lạy Chúa hãy ở lại với con.”

Hôm nay thánh Luca muốn nói với chúng ta: Ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng ta có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.  Thánh Luca tường thuật lại suốt trên con đường đi về Emmau có một người khách bộ hành đi cùng.  Hai môn đệ không thể nhận ra Thầy yêu thương của mình.  Mãi đến lúc ngồi vào bàn Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho thì hai ông mới nhận ra.  Và khi nhận ra thì Chúa lại biến mất.

Về mặt tín lý chi tiết này rất hay, rất quan trọng để cho ta hiểu rõ về Bí Tích Thánh Thể.  Khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể nghĩa là ta cùng với Hội Thánh cầm lấy tấm bánh bẻ ra và trao cho nhau.  Lúc ấy anh chị em có thấy Chúa không?  Thưa không.  Trước mặt chúng ta hoàn toàn là một khoảng không.  Ngày xưa hai môn đệ đi bên cạnh Chúa, suốt quãng đường dài mà họ không nhận ra Chúa, khi biết được thì Chúa biến mất trước mặt họ cũng là một khoảng không.  Chúa Giêsu không hiện diện một cách gọi là thể lý theo nghĩa chúng ta thấy Ngài như chúng ta nhìn thấy nhau.

Thực sự, sự hiện diện của Ngài là một hiện diện bao trùm cuộc sống của chúng ta.  Ta đón nhận sự hiện diện đó bằng lòng tin của chúng ta.  Cho nên ta vẫn có thể gặp được Chúa Phục Sinh khi ta cử hành Bí Tích Thánh Thể: Cầm bánh, tạ ơn Chúa, bẻ ra và trao cho nhau.  Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức?

Vì vậy câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta.  Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể.  Ước gì chúng ta có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước màu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Ngài và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Ngài.

 ĐGM Phêrô Nguyễn Khảm

***************************** **********

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa.

Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường.

Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.

Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.

Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn.

Cha Piô Năm Dấu

Langthangchieutim gởi