THÂN PHẬN NGƯỜI

THÂN PHẬN NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

           Bước vào Mùa Chay, nghe ca khúc “Thân phận người” của nhạc sĩ Tuấn Kim như một tâm sự để suy niệm.  Giai điệu và lời ca thiết tha ngân nga những thao thức, nhắc nhở mỗi người về thân phận của mình, về cõi nhân sinh: “Phù du là phận người, trăm năm như chớp mắt thôi.  Công danh như nước trôi qua cầu, đời con trôi về đâu?” 

Phù du là phận người.  Mọi sự chỉ là phù vân. Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân.”  Phù là trôi nổi, huyền ảo.  Vân là mây.  Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai.  Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.

Phù du, phù vân diễn tả thân phận bụi tro: “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi.”  Con người, dù trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù quyền thế hay dân thường, dù tài giỏi hay bình thường… thì một mai cũng lìa khỏi  thế gian này trở về cát bụi.  Đó là định luật muôn thuở!

Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu.  Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất.  Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người.

Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu.  Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro.”  Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà.  Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.

Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì?

Để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình.  Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc.

Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế.  Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!

Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.

Đó là lời mời gọi mà Chúa gởi đến từng người qua nghi thức xức tro rất đơn sơ nhưng giàu ý nghĩa và thật xúc động.

Thứ Tư Lễ Tro mở cửa vào Mùa Chay Thánh 40 ngày.  Đây là thời gian giúp chúng ta ý thức về sự mong manh giới hạn của đời người, sống lời mời gọi sám hối và trở về với Tin mừng.  40 ngày Chay Thánh nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết, và mừng ngày Phục sinh của Người.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Tiên tri Gioel đã kêu gọi :“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng.  Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (Ge 2,13).  “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo… Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta!”  Đó là ý nghĩa cơ bản và sâu xa nhất của sự hoán cải.  Cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa.  Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ thói quen xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái tập thế quân bình giữa hồn và xác.

Thứ Tư Lễ Tro khởi đầu Mùa Chay Thánh, mỗi người cố gắng thực hành những việc đạo đức như Giáo Hội mời gọi.

–     Hòa giải với Chúa và với nhau.

Do tội lỗi, con người bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống, và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết.  Thiên Chúa mời gọi con người trở về với Ngài, giao hòa trong tình con thảo và sống trong niềm vui ân sủng.

Sự giao hoà phải là một lời cầu nguyên khiêm tốn : “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa.”  Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa.  Theo gương Thánh Giuse sống thinh lặng nội tâm và đón nhận Bí Tích Hòa Giải. Cần rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình.  Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay.  Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội.  Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập viết đầy từ đầu chí cuối.  Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.

Hòa giải với tha nhân.  Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết : “Nếu người dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của người.”  Bởi vậy, xin ơn giải hòa với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xóa đi những xích mích, bất hòa hờn giận với người khác.

–     Hy sinh hãm mình.

Truyền thống Giáo Hội từ xa xưa giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh.  Dù vậy, tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được.  Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ suất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh“. (Tu luật Biển Đức).

Mùa Chay là một thời gian thuận tiện để rèn luyện tâm hồn.  Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta chương trình ba điểm để rèn luyện trong Mùa Chay.  Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn.  Cầu nguyện càng sâu xa chúng ta càng thân thiết với Chúa, ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ.  Làm việc bác ái, tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại.

Mùa Chay là những ngày thánh: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.”  Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con trong Mùa Chay Thánh này, biết ý thức thân phận của mình, thực thi việc phải làm là được hòa giải với Thiên Chúa, với chính mình và với anh em.

 Xin Thánh Giuse hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình này, để chúng con có thể hoán cải bản thân và nghiệm thấy ân sủng của Thiên Chúa luôn tuôn đổ trên mỗi người chúng con, giúp chúng con được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.  Amen!

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

TỘI LỖI VÀ TÌNH THƯƠNG

TỘI LỖI VÀ TÌNH THƯƠNG      

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Chúng ta đã bước vào Mùa Chay.  Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2).  Sống tinh thần Mùa Chay là khiêm tốn nhìn nhận mình còn nhiều tội lỗi, đồng thời nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa.  Nhờ tình thương, chúng ta được canh tân đổi đời và nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm.

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được mời gọi thực hành những việc đạo đức truyền thống như chay tịnh, hãm mình, hy sinh, cầu nguyện.  Thoạt nghĩ đến những thực hành này, chúng ta thường coi đó là những ràng buộc nặng nề, làm giảm tự do ngăn cản ham muốn hưởng thụ của chúng ta.  Tuy vậy, những việc đạo đức của Mùa Chay, nếu được thực hiện có ý thức, sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em mình.

Bài đọc I trích sách Sáng thế giúp chúng ta rút ra bài học từ một sự trong quá khứ.  Đây cũng là một kinh nghiệm về lòng từ bi hay thương xót của Thiên Chúa, mặc dù con người tội lỗi phản nghịch.  Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi.  Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người.  Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6).  Ngài đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi loài người và mọi loài thụ tạo, để thiết lập một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn.  Dòng giống này phát sinh từ gia đình ông Nôê, người sống đạo đức và kính sợ Chúa.  Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại cỏ cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi.  Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới.  Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.  Đoạn sách Sáng thế chúng ta được nghe hôm nay là kế hoạch của Thiên Chúa sau khi nước hồng thủy đã rút đi.  Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy.  Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây.  Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II).  Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa.  Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới.  Đây là giao ước được ký kết trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là trưởng tử.

Việc cảm nhận thân phận tội lỗi sẽ dẫn chúng ta tới sự sám hối chân thành để cầu xin ơn tha thứ của Chúa.  Những thực hành đạo đức của Mùa Chay sẽ giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, được trở nên con người mới.  Chúa nhật đầu tiên này của Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu để tìm lại chính mình.  Bởi lẽ, giữa biết bao bon chen giành giật của cuộc sống, nhiều khi chúng ta trở thành vong bản, tức là đánh mất bản thân, sống trong lầm lạc, không có định hướng và tương lai.  Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, Thánh Máccô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa –  Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn.  Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa lòng đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính.  Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em xung quanh.

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”  Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu.  Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách.  Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộng sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành. Nhờ sám hối, chúng ta được hòa giải với Chúa và với anh chị em, để cùng nhau tiến bước trên con đường về nhà Cha, Đấng luôn yêu thương và chúc phúc cho chúng ta.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

From Langtangchieutim gởi

Chúa là Tình Yêu

 Chúa là Tình Yêu 

 

Elisabeth Nguyễn

 

Chúa là tình yêu. Thánh Gioan nói thế. 

Chúa yêu tôi, Ngài sinh ra tôi, ban Thần Khí vào tâm hồn tôi.

Ngài cho tôi thông phần siêu nhiên là bản tính Thiên Chúa.

Thật vậy, Đức kitô đã lấy thần lực của Người mà ban cho chúng ta tất cả những gì được sống và sống đạo đức, …….. Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phẩn bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.(2Pr 1, 3a-4).

Như vậy bản chất của tôi sinh ra đã là Thánh. Thật hãnh diện quá đi chứ.

Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa (Ep 2, 19).

Các bạn thấy hạnh phúc sung sướng chưa!?

Hãy ngẩng cao đầu mà ca tụng tôn vinh Thiên Chúa nhé. Còn niềm vui nào hơn khi chúng ta là đồng hương với các thánh, là người nhà của Thiên Chúa.

Đây là điều quan trọng  chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với danh hiệu vinh quang này. Vì „

Tôi đã được tạo dựng bởi tình yêu…vì thế, trong bản chất cao quý của tôi,

không thụ tạo nào có thể làm tôi nên sung túc và được sáng suốt,

 ngoại  trừ một mình Thiên Chúa (Thánh Mechtild Magdeburg).

Thiên Chúa của tôi là một Thiên Chúa nội tại.

Ngài hiện diện trong tôi từ khi tôi được nhận Phép Thanh Tẩy.

Khi tới tuổi hiểu biết, được học hỏi về đức tin, tôi mới nhận ra Chúa là tình yêu.

Đúng thế, Chúa yêu tôi vô vàn, tình yêu đó hiện diện trong từng hơi thở,

trong từng nhịp tim, trong từng những sự việc xảy ra hằng ngày trong cuộc đời tôi và những người xung quanh.

… chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta (1Ga 4,13)

Dĩ nhiên Ngài đã hiện diện trong vũ trụ thiên nhiên từ ngày Ngài khai thiên lập địa.

Ngài hiện diện trong núi cao, đồi thấp, sông dài, biển cả với hằng hà sa số thú vật trên đất, trên trời, trong nước, trên rừng… ân sủng của Ngài ẩn mình trong từng tàng cây, bông hoa, ngọn cỏ…trên những cánh đồng trải dài đến tận chân trời…

Ngài ban cho loài người được làm chủ và hưởng dùng tất cả tạo vật Ngài tạo dựng nên trong vũ trụ.

Ngài hiện diện trong mặt trời chiếu sáng, sưởi ấm ban ngày, trời trong cao xanh, lượn lờ bao đám mây… đôi khi những đám mây vui vẻ đùa giỡn tạo ra những hình thù thú vật thật diệu kỳ…

Lộng lẫy chốn cao vời, một khung trời trong vắt. Nhìn ngắm cả bầu trời: cảnh tượng xán lạn thay (Hc 43,1).

Ngài hiện diện trong mặt trăng ban đêm, luân chuyển mỗi tháng cho chúng ta trăng khuyết trăng tròn…

Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn, làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian. Trăng đánh dấu các thời kỳ đại lễ, có khi khuyết, có lúc lại tròn (Hc43,6-7),

thật thơ mộng với ánh sáng dịu dàng… khiến không gian, thời gian tươi mát.

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm (Tv 19, 18)

Ngài hiện diện trong sự thay đổi thật kỳ diệu của từng cây cỏ hoa lá qua từng mùa… khi đông đến với khí trời lạnh lẽo, những tàng cây khô trơ cành, tuyết trắng phủ đầy  mà vẫn ẩn chứa sức sống bên trong.

Người rải tuyết như chim sa, tuyết rơi xuống như cào cào, vẻ đẹp trắng ngần khiến mắt kinh ngạc. Thấy tuyết rơi lòng trí sững sờ (Hc 3,18). 

Mùa hè nóng cháy mà cây cỏ hoa lá vẫn tươi tắn, xanh um hiến dâng cho loài người bao nhiêu là rau trái hoa quả nuôi sống nhân loại.

Sau cơn nóng nực, sương xuống làm cho cảnh vật vui tươi

Mùa thu khí trời mát mẻ, gió nhẹ mơn man và lá cây đổi màu từ xanh ra úa vàng, hay đỏ rực thật đẹp, rồi lặng lẽ theo những làn gió rơi rơi lìa cành thật lãng mạng, thật thơ mộng. Mùa xuân ấm áp, nồng nàn, dịu dàng với muôn hoa nở rộ…

Kể sao cho xiết những gì muốn nói; tắt một lời: Ngài là tất cả (Hc 43,27).

Nhà thiên văn Hoa Kỳ, Allan Sandage (1926-2010). Ông là người tính toán độ giãn nở của vũ trụ và tính tuổi của nó bằng cánh quan sát các vì sao, đã thốt lên:

 Thuở thiếu thời tôi là một kẻ vô thần. Khoa học đã đưa tôi đến kết luận rằng thế giới này phúc tạp hơn tôi tưởng. Tôi chỉ có thể giải thích mầu nhiệm hiện hữu bằng cách nại vào ĐẤNG SIÊU NHIÊN.

Bất cứ ai nhìn ngắm thiên nhiên, ngắm muôn ngàn bông hoa nở với muôn màu muôn sắc muôn loài muôn vẻ hay chiêm ngưỡng bầu trời đêm với những chuyển động của ngàn ngàn tỷ tỷ thiên hà lấp lánh, đều không thể không lên tiếng ca ngợi quyền năng siêu nhiên của Đấng Tạo Hóa.

 Chúng ta, người Kitô hữu tin Ngài hiện diện trong tấm bánh từ hơn hai ngàn năm, tấm bánh nhỏ bé được các vị tư tế hiến dâng trong Thánh Lễ để nuôi sống linh hồn tôi và những ai tin vào Ngài..

Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy

 Chúa Giêsu nhắc nhở: Như Chúa Cha đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha như thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy (Ga 6,57) 

Mục đích của Kitô hữu là sống hiệp nhất với Ngài. Ngài hiệp nhất những sự khác biệt, vì phải có cái khác biệt thì mới có hiệp nhất. Phải có ba ngôi mới có sự hiệp nhất thành Một Thiên Chúa.

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng các sự khác biệt và sống với các khác biệt đó dưới sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa, chừng đó chúng ta có hiệp nhất.

Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí

thì chúng ta cũng nhờ Thần Khí mà tiến bước (Gl 5,25)

nên tôi mới có thể vượt qua được những khó khăn, những vấn nạn, những khổ đau, những cám dỗ và biết tha thứ cho kẻ mất lòng ta.

Như vậy chúng ta mới đi đúng con đường mà Ánh Sáng Mầu Nhiệm của Chúa Ba Ngôi soi dẫn.

Thật vậy, chính ở nơi Người

mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu (Cv 17,27)

để được sống hạnh phúc ở đời này  và hưởng nước Thiên Chúa đời sau

Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống,

nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (Rm 14,17).

Elisabeth Nguyễn

Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 6 Thường Niên năm B 11/02/2018

 

Tin Mừng (Mc 1: 40-45)

 

Khi ấy, có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Đức Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sạch. Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế; và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Nhưng vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi, đến nỗi Đúc Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.

&  &  &

 

“Thành phố ngợp, ngày nao chiều gió dậy,”

“Gương mặt ấy, lời yêu thuở ấy.”

(dẫn từ thơ Xuân Quỳnh)

– Mai Tá lược dịch

Thành phố với lời thơ yêu thương “chiều gió dậy” là gương mặt của tình yêu vẫn thấy ở trình thuật thánh Máccô. Trình thuật thánh Máccô, có lời thơ yêu trải dàn khắp dân gian, không ở nơi hoang sơ dân dã cạnh đất miền Galilê, nhưng còn ở văn bản đời thường, như bản văn viết mà tác giả Megan McKenna để ra nhiều chương/đoạn phản ánh tư tưởng của bậc hiển thánh rất Máccô.

Một trong các bản văn mà tác giả này ghi rõ lời yêu thương giống hệt Tin Mừng Máccô như sau:

“Rất nhiều lần, có người mải tìm cho ra ý nghĩa của đời mình. Ông và bầu bạn muốn sống theo cung cách có dáng vẻ tự do, ân sủng ngõ hầu tôn trọng mọi người. Bầu bạn vẫn cố thuyết phục ông bền đỗ trong cuộc kiếm tìm ấy. Và, họ định cùng nhau tìm đến Bậc Thày nhân hiền để vấn kế và xin Thày nhận họ làm đồ đệ, để theo Ngài.

“Ông có dịp đi ngang thôn làng có nhiều người ở. Và cùng đám đông quần chúng ở lại lắng nghe lời Thày. Ít lâu sau, đồ đệ lại cũng ra đi trình diện với mọi người để xin khai tâm, theo chân Thày. Tập tục thời bấy giờ cho thấy Bậc Thày đưa ra nhiều câu vấn ý cốt nghe lời đáp hầu có quyết định xem các ứng viên theo Thày có đạt ý nguyện thành dân con đeo đuổi đời rong ruổi cùng Thày đi thuyết giáo, không.

“Đương nhiên, đồ đệ nào mà chẳng muốn được Thày chấp nhận tham gia đoàn người giảng rao, nên mới nói: “Trình Thày, bọn con đây muốn theo chân Thày học hỏi cung cách sống và làm việc cho đúng cách.” Bậc Thày nhìn họ, rồi bảo: “Sao anh em biết rõ lòng mình muốn theo Tôi?” Sao anh em hiểu được điều mình ước muốn?”

“Đồ đệ thay nhau đáp: “Chính lời Thày đã khích lệ chúng con. Và, đó là điều bọn con tin tưởng, nay muốn nó thành hiện thực.” Bậc Thày lặng thinh trong giây lát như muốn tập trung nguyện cầu chỉ một lúc, rồi hỏi: “Có thật anh em vẫn quyết như thế không? Hay, còn ý định nào khác khi đồng hành, cùng với Tôi?” Họ đáp: “Đó là điều chắc chắn.” Trong phút chốc, Bậc Thày thoạt nhìn họ với vẻ ái ngại, đoạn bảo: “Thôi được, anh em cứ theo Tôi. Nhưng, nếu anh em có để mất tất cả những gì mình nắm vững thì sao? Và, một khi nhận ra điều này, anh em có còn tiếp tục nữa hay không?” Bọn họ đáp: “Dứt khoát vẫn như vậy! Dù mọi chuyện ra tồi tệ thế nào đi nữa, chúng con không đổi ý.” Vàhọ được đón vào đoàn nhóm đồ đệ theo chân Thày chỉ giáo.

Nhưng về sau, có lúc họ thấy rất chán ngán, buồn nản và bất ưng như mọi người, tức những người cũng đưa ra cùng một câu hỏi để che giấu và phủ nhận mọi sự xảy đến với họ. Nỗi bất ưng cứ thế tăng dần và lan nhanh, đôi lúc thấm nhập mọi người trong nhóm. Và, khi họ không còn biết nguyên do của nỗi niềm ấy nữa, thì chính là lúc họ coi đó như một đau xót khiến họ phải bộc lộ ra ngoài. Bộc lộ, đến độ niềm đau thương đã trở thành sắc màu sống sượng đến rỉ máu.

Họ lại nhất quyết bỏ tất cả ở đằng sau, chỉ vì sự kiện ấy và tiếp tục lại kiếm tìm. Lại, mải miết kiếm tìm, giống như trước. Dù sao, họ cũng chỉ làm có mỗi việc là những kiếm và tìm, suốt một đời. Trong tìm kiếm, họ tin mình sẽ đạt cùng đích, như Bậc Thày hằng bày tỏ, với họ. Tuy lời Thày trở thành điệp khúc miên trường khi lời Thày phát biểu đã ra như câu thần chú, to/nhỏ vẫn không ngừng. Vẫn dấy lên niềm hy vọng cùng hãi sợ, ở nơi họ. Và, họ nhớ lại lời Thày trước kia từng hỏi: “Có thật, là anh em đã mất hết mọi thứ, không? Có thật, anh em muốn đến với Tôi chỉ để học hỏi lối sống cho đúng cách, không? Có thật như thế không?

Đó cũng là câu hỏi được thánh Máccô đưa ra hôm nay. Ở trình thuật này. Đó còn là tên gọi của chương trình nay được bảo: bỏ tất cả để rồi tìm chẳng được gì. Bởi, khi viết trình thuật này, tác giả Máccô luôn nhấn mạnh đến cụm từ “mọi sự” và “hư vô.” Chứ không phải, “tất cả” và “chẳng gì cả”. Có nghĩa là, tất cả mọi sự rồi ra sẽ hư luống. 

Nhà thơ nữ Kathy Galloway, xuất xứ từ đất miền Iona, Tô Cách Lan, cũng viết lên cùng giòng chảy rỉ máu rất Máccô như sau:

“Chớ trở về khung trời nhỏ của riêng ai

Ở đất miền êm ả chốn hình hài.

Ngày rời bão tố kiếm hồn nơi sân vắng,

Cùng người thân an nghỉ chốn bồng lai.

Nơi sân vắng hồn thiêng thân yêu ấy,

Diễm lệ hơn ngự uyển vườn người năng lui tới,

Ngập những cỏ dại, lại nghèo hèn đầy chiến chinh,

Cứ đòi người chăm bới chốn nhà mình.

Kiếm tìm hồn quý phái lại hiếm quý

Thấy đời mình mở ngỏ ở chân trời.

Với khóc than, doạ dẫm rồi đau đớn,

Để người tìm lại thấy những kêu ca.

Hãy lưu lại cùng người yêu nay ít thấy,

Thuở yên bình trả giá vẫn nhiều hơn,

Bởi con trẻ thân thương không đùa giỡn

vẫn khóc ròng nhiều tiếng người vẫn mất.

Đừng hãm giam một chân trời riêng tư ấy

Của chốn miền nóng cháy ở nhiều nơi

Chẳng nơi nào có thể vực cuộc sống,

Có ánh mắt em nhìn cuộn giá băng.”

 Trình thuật hôm nay, thánh Máccô còn diễn tả tâm tình gặp gỡ giữa Chúa với người phung cùi. Đọc truyện, người người thật chẳng biết bệnh nhân phung cùi đã nghĩ gì? Làm gì? Xử thế ra sao khi gặp Chúa? Và, ai ai cũng nghĩ đó là cuộc hội ngộ rất thực tiễn. Hội ngộ, nay là thực tại xảy đến với người trong cuộc chưa từng thấy, nhưng vẫn đến. Và, một khi sự thực xảy đến rồi, cũng đừng sợ. Hãy cứ hiên ngang đến mà sờ chạm vào thực tại. Bởi nếu không, chính thực tại căn bệnh cũng sẽ sờ chạm ngay thân xác hoặc thân phận của ta thôi. 

     Đọc trình thuật, người người sẽ tự hỏi: dù bệnh phong nay “thoát xác” khỏi con nguời mình, thì bệnh nhân kia chắc vẫn thấy khó lòng mà sống tiếp những ngày sau đó. Khó nhất, là khi anh nhận ra bệnh vẫn còn đeo đuổi anh, bằng hình ảnh/hoặc ý nghĩ nơi anh, như trước kia.

Đọc trình thuật, hẳn có người lại sẽ hỏi: giả như bệnh nhân kia biết thân xác mình nay đã sạch, hỏi rằng cuộc sống của họ sẽ ra sao? Dù, từ nay anh ta không là “cùi hủi” như trước, nhưng vẫn sợ. Sợ, bị tẩy trừ khỏi cộng đoàn mình chung sống. Sợ, nếp sống do cộng đoàn định đoạt vẫn không yên. Sợ hơn nữa, khi người của Chúa chưa học được cung cách của Bậc Thày Nhân Hiền, là chẳng bao giờ tẩy trừ hoặc tống khứ ai ra khỏi “Nước” của Ngài. Trái lại, Ngài vẫn luôn tiếp nhận mọi người, dù lành lặn hay bệnh hoạn, vẫn đỡ nâng. Và hỏi rằng: dân con Nước Trời ở trần thế có làm được như thế không?

Cảm nhận thực trạng rất khó này, cũng nên ngâm lên lời thơ xưa được trích dẫn, mới hôm nào:

            “Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu,

            Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.

            Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;

            Cành biếc run run chân ý nhi.”

            (Xuân Diệu – Thu)

“Chân ý nhi”, phải chăng là thực trạng của người bệnh, nay cảm nhận? “Trên đầu hạnh”, có là “hư vô bóng khói” vẫn cứ tin. Tin Chúa, là Ngài chẳng tẩy trừ hoặc tống khứ bất cứ ai. Tin rằng, người nào đó có tật/có bệnh, vẫn vô tư/hiền lành/mẫn cán, đáng được ơn.                                  

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn 

 Mai Tá lược dịch.

Con gái nói không là có

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 6 thường niên năm B 11-02-2018 

“Con gái nói không là có”
Con gái nói một là hai
Con gái nói hai là một
Con gái nói ghét là thương
Con gái nói thương là ghét đó
Con gái nói giận là giận yêu
Con gái còn yêu là còn giận.”

(Ngọc Lễ – Con Gái)

(1Timôtê 2: 9-13)

 Trần Ngọc Mười Hai

Thời buổi này mà còn phân-biệt trai/gái hoặc bàn chuyện đổi giới, phải chăng là chuyện thừa, thật hết ý? Vâng. Rất đúng. Chính vì hết cả ý-tưởng lẫn đề-tài luận-phiếm lăng-nhăng cho “qua ngày đoạn tháng”, nên bần đạo bầy tôi đây mới phải thế.

Thế nhưng. Trước khi đi vào chuyện lăng-nhăng không hết ý, xin cứ là mời bạn và tôi, ta nghe câu hát tiếp hơi buồn một chút, rồi bàn tiếp. Nghe và bàn, là lắng tai và để ý đến câu ca/điệu nhạc lỉnh-kỉnh như sau:

 “Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Con gái nói nhớ là quên.
Con gái nói quên là nhớ.
Con gái nói buồn là vui.
Con gái nói vui là buồn.
Con gái nói không biết ghen.
Là ghen như điên đấy nhé.
Con gái nói không biết yêu.
Là yêu đến quên đường về.

Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.

Trời có lúc nắng lúc mưa.
Trời có lúc mưa lúc nắng.
Con gái có lúc hiền như nai.
Con gái có khi như bà chằng.
Trời vẫn cứ nắng cứ mưa.
Con gái lúc mưa lúc nắng.
Con gái thế đấy bạn ơi.
Mà sao con trai các anh theo dài dài.
(Ngọc Lễ – bđd)

Quả là thế. Sống đời đi đạo, mà lại mang trong mình những chuyện không đáng ta quan-tâm/bàn-bạc chút nào, nhưng vẫn phải nói và viết trên giấy, là bởi vì không còn gì để nói cho hết ý. Thế nên, hôm nay bần đạo lại xin mời bạn và tôi, ta đảo mắt nhìn vào bài “phiếm” trên mạng vi-tính có đầu đề “hơi bị” dài, như sau:

“10 dấu hiệu cho thấy bạn được Đức Phật che chở nhờ tu thân tích đức, luyện từ kiếp trước:

 Người có phúc nhờ tu thân tích đức từ nhiều kiếp sẽ luôn được như ý trong mọi chuyện ở cuộc sống, nếu gặp 10 dấu hiệu dưới đây, bạn quả thật rất may hơn nhiều người.

Những dấu hiệu ấy như sau:

  1. Gặp lúc khó khăn luôn thấy có lối thoát

Mọi người sẽ gặp không ít khó khan/trở ngại trong cuộc sống, và nếu tìm được lối thoát một cách nhanh chóng như xuất hiện tình huống thuật lợi bất ngờ hoặc có người kịp đến hỗ trợ, thì người đó chắc chắn có phúc nhờ tu thân tích đức từ kiếp trước.

2. Đem lại điều may mắn cho người khác

Nếu có người được hưởng ít/nhiều cơ may từ bạn, thì điều đó chứng tỏ bạn là người rất có phúc. Ví dụ như khi đi chợ thấy hàng quán nọ ế ẩm, mà bạn vừa sà vào có ý định mua thứ gì đó thì nhiều khách hang khác cũng ùa tới, như vậy là bạn đã mang đôi chút phúc/lộc của mình cho người chủ hưởng. Ai đang kém may lại được giao du với bạn và thay đổi vận-mệnh của mình, thì chắc hẳn người đó được hưởng phúc/lộc do từ bạn truyền sang.

3.Luôn được tai qua nạn khỏi

Nhiều lúc nhẽ ra bạn phải gánh chịu một vận hạn nặng nề nào đó nhưng không hiểu vì sao những người khác đều bị vận, còn bạn thì không. Ví dụ như trong vụ tai nạn tập thể nọ, nhiều người bị thương hoặc mất mạng, nhưng bạn lại không hề hấn gì, dù đi cùng một chuyến xe. Hay có dịch tễ/bệnh tật lây lan gần như ai cũng mắc phải, mà bạn lại không sao cả, tức là: bạn đang hưởng nhiều phúc đức nên được bảo hộ.

4. Bạn có nhiều bạn bè quý mến

Người có phúc cũng là người có nhiều bạn bè đối xử  tốt với họ. Không phải ai cũng có được diễm phúc đó. Khi bạn gặp khó khăn sẽ gặp không ít người sẵn sàng ra tay vực đỡ bạn dậy, đó là do bởi phúc đức của mình đem đến chứ không là ngẫu nhiên đâu.

 5.Làm việc gì cũng thành-đạt

Bạn kinh doanh, làm việc tại công sở hay làm bất cứ điều gì, đều tốt đẹp hơn nhiều người khác. Ví dụ mình sinh sống trong cùng một dãy phố kinh doanh cùng một mặt hàng, mà bạn lại luôn đắt khách hơn người khác trong khi cả dãy ế ẩm, thì hàng hoá do bạn kinh-doanh cứ bán chạy đều đều. Đơn giản là vì họ không có phúc/đức tích-tụ từ kiếp trước như mình. 

  1. Bạn có được người vợ hay người chồng thật lý tưởng

Người có phúc là nhờ tu thân/tích đức sẽ gặp được ý trung nhân hết lòng với mình. Nếu không vì có phúc đức tích-tụ từ kiếp trước, thì chắc chắn cô ấy hay anh ấy sẽ không hết lòng yêu thương/chung thủy với bạn như vậy đâu. Hãy lết long cảm ơn Bề Trên vì mình đã tu thân/tích đức từ kiếp trước để ngày nay được may mắn hơn nhiều người.

 

  1. Con cái bạn ngoan ngoãn, giỏi giang

Người có phúc chắc chắn sẽ sanh hạ được những đứa con ngoan ngoãn/giỏi giang, có hiếu với cha mẹ. Không phải ai cũng có được cái phúc này đâu, thế nên bạn hãy trân trọng.

 

  1. Bạn có ngoại hình đẹp đẽ

Người có phúc thường được Ơn Trên ban cho ngoại hình đẹp đẽ và cân đối. Không phải ai cũng có cái may được sinh ra với khuôn mặt khả ái và thân hình quyến rũ. Hãy cám ơn Bề Trên đã dành cho mình ưu-đãi ấy.

 

  1. Bạn ít khi đau ốm

Người có phúc chắc chắn sẽ sống thọ và có sức khỏe tốt hơn người bình thường. Những bệnh vặt như ho hen, cảm cúm hay ốm đau không bao giờ chạm tới bạn được, đơn giản vì phúc dày đức cao đã giúp bạn có được điều này.

 

  1. Bạn là người tin vào nhân quả

Đây là điểm quan trọng đối với người có phúc đức quả báo nhãn tiền. Người tin vào nhân quả sẽ sống lương thiện và hành xử đúng với đạo Trời. Họ làm thế sẽ càng tích thêm phúc đức cho bản thân nhiều hơn. 

Nếu có những dấu hiệu này, bạn chắc chắn là người có phúc, con cái, cha mẹ hay bạn bè của bạn nhờ đó được hưởng may mắn. Nhưng để phúc đó được bền, bạn càng phải sống tốt, sống lương thiện, chân thật và khoan dung hơn. Cứ tin vào phúc đức tự tại, bạn sẽ không chịu thiệt bao giờ hết.”(trích dẫn đôi điều từ quan niệm của ai đó ở trên mạng).

Gọi là 10 dấu hiệu về ơn Trời/Phật, chứ thật ra có cả trăm, cả ngàn thứ đáng để ta lưu-tâm lưu/chú ý, hơn. Lưu tâm/chú ý, là cốt cho mọi người nhìn lại đời mình, mới thấy sự thật trên đời khá phức-tạp, tức những điều mà nhiều người vẫn bị cuộc sống thực-tế lôi-cuốn, nên không nhìn nhận.

Bởi thế nên, nghệ sĩ mình vẫn gợi ý những điều trên bằng lời ca/câu hát, tiếp ngay sau:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hôm nay, nhà Đạo mình cũng thế. Cũng “hiểu được trái tim em” qua sự việc tưởng chừng như trôi biến cách êm đềm từ lâu, nếu không ai thắc mắc/hỏi han chỉ một tư tưởng nhỏ, sau đây:

“Thưa Cha,

Con cứ thắc mắc hỏi rằng: tại sao những chuyện như nguyên-tắc đổi phái-tính con người ở đời, lại làm nhiều người bận-tâm nên đã trở-thành vấn-đề không nhỏ cho giới sinh-viên đại-học hoặc cao-đẳng, thời gian gần đây. Vậy xin cha cho biết ý-kiến để con yên tâm, không còn thắc-mắc nữa. Thành thật cảm ơn cha.”

 Thật ra, con cháu các đấng bậc vị vọng ngày nay chẳng mấy bận tâm cho lắm chuyện trời ơi đất hỡi như thế. Có khi, đây chỉ là đề-tài để đấng bậc ngồi buồn đặt ra rồi giải-mã cho đầy trang giấy, cũng nên. Thôi thì, nay xin mời bạn và tôi ta thử lắng tai nghe xem đấng bậc nhà mình giải mã thế nào về chuyện này. Nào, xin mời các bạn lắng nghe nhé:

“Có nhiều tài-liệu đáng tin cậy được lập ra để nghiên-cứu về vấn-đề giới-tính hầu giúp mọi người biết sự thật như câu chuyện xảy ra ở Yogyakarta, nước Inđônêxia năm 2007 gọi là Nguyên tắc Gogyakarta. Đó là một chuỗi gồm 29 nguyên-tắc có ghi chi-tiết như một thứ kim chỉ-nam cốt áp-đặt các hệ-luỵ phái-tính, tức: bàn về tự-do chọn giống, định-hướng hoặc khoanh tròn phái-tính con người.

 Vấn-đề đặt ra là hỏi rằng: Ai là người đưa ra các nguyên-tắc này?

Theo Bà Gabriele Kuby tác-giả cuốn “The Global Sexual Revolution” (tạm dịch là: Cách mạng Phái-tính Toàn-cầu) thì việc này do nhóm người gọi là “Chuyên-gia tên tuổi về nhân-quyền”, tức nhóm chức-sắc tuy không có thẩm-quyền hoặc chức-năng công-khai nào hết, nhưng những vị này thuộc nhóm chủ-trương ủng-hộ phong-trào hợp-pháp-hoá tình-trạng của người Đồng Tính Luyến Ái. Nhằm trao ban cho những người như thế một thứ thẩm-quyền ngoài mặt, các “chuyên gia” nói trên đã ra trước toà Liên Hiệp Quốc ở Geneva trình làng cho mọi người biết mà cảm-thông.

 Các nguyên-tắc nói ở đây, là “dụng-cụ tân-tạo tặng trao cho các nhà hoạt-động ủng-hộ chủ trương này, là tập cẩm-nang dầy 200 trang gồm các chỉ-dẫn để phiên-dịch nguyên-tắc nói trên ra thành hành-động chính-trị.

 Ý-tưởng chủ-chốt trong tài-liệu này, là bày ra việc “định-hướng phái-tính” và “nhận-dạng giống”.         Nơi lời tựa sách dẫn ở trên, “Định-hướng phái-tính” được hiểu là việc qui về “khả-năng của mỗi người trong việc lôi cuốn về cảm-xúc, ưa chuộng phái-tính với người nào đó hoặc có tương-quan dục-tình với ai khác, tức các cá-thể có phái-tính khác nhau hoặc cùng giống hoặc mang nhiều giới-tính khác-biệt.   

 Tác-giả Gabriele Kuby cho biết, định-nghĩa này không loại-trừ bất cứ hành-động dục-tình nào tuy khác nhau, kể cả chuyện ấu-dâm, loạn-luân, đa-thê, đa-phu, đa-dục (tức ăn nằm với nhiều người) và cả lề thói dâm-dục với thú vật, nữa.

 “Nhận-dạng giống” cũng qui về cảm-nghiệm phái-tính riêng tự bên trong con người mình và khác nhau tuỳ tứng người vẫn có thể hoặc không thể xứng-hợp với tính/phái định-vị từ bẩm sinh, trong đó có cảm-xúc riêng về thể-xác (tức: tính chuyện đổi giống nếu được tự-do, hoặc nếu y-khoa, phẫu-thuật hoặc phương-tiện nào khác giải quyết giùm) và các biểu-lộ nào khác về phái-tính, cả chuyện ăn mặc, nói năng và phong-cách bên ngoài nữa.”

 Chuyện thứ hai, là tuyên bố: không ai được quyền coi thường/phản bác việc định-hướng phái-tính hoặc nhận-dạng giống/phái dù có thấy vui thích chuyện ấy không, do bởi quyền-hạn của mình bị ảnh-hưởng.” Đây là điều đáng mọi người để tâm, lưu ý. Mọi quyền-hạn của con người đều có thể bị ảnh-hưởng như chuyện đụng chạm quyền tự-do ăn nói và tự-do tư-tưởng, bởi lẽ các quyền này lệ thuộc vào quyền định-hướng phái-tính và nhận dạng giống.

 Nhiều ví dụ giúp ta coi đây là chuyện kỳ-thị, chẳng hạn như: khi dạy dỗ hoặc nuôi-dưỡng con trẻ ta quyết cho chúng tin rằng: mục-tiêu của tình-dục là tạo tình yêu giữa người nam và nữ; và người nữ được định-hình công-tác ngay từ đầu là: sinh con đẻ cái, để nhân loại được phát-triển.

 Các ngành khoa-học từ sinh-ly-học, y-khoa, tâm-lý cho đến xã-hội-học đều dạy rằng giữa nam-nhân và nữ-giới vẫn có nhiều khác biệt, rất đặc-thù, đến độ mỗi và tất cả các tế-bào trong cơ-thể con người đều mang giống đực hoặc giống cái. Nguyên tắc Yogyakarta lập ra khiến việc định-dạng phái-tính tuỳ-thuộc cảm xúc, tức luôn bất ổn tận bên trong và có thể thay đổi bất cứ lúc nào.

 Lời tựa mở đầu các nguyên-tắc nói trên, còn cho biết: khác biệt không chuyển-đổi giữa nam-nhân và nữ-phụ đặt nền-tảng trên “thiên-kiến và vai-trò rập-khuôn nam/nữ vốn là thứ nguyên-tắc dễ có khuynh-hướng bị xoá bỏ sau này.

 Mỗi thứ trong 29 nguyên-tắc nói trên được trưng-dẫn bằng một tuyên-bố cũng rất chung chung lại kéo theo đòi hỏi mọi quốc-gia phải thực-thi, trong đó có việc buộc mọi quốc-gia phải ra luật hẳn hòi ấn-định phái-tính của người thực-thi công-việc vốn phản-ảnh một định-dạng phái-tính do mình tự nhận. Mọi quốc gia cũng buộc phải tôn trọng và đồng-thuận bằng luật pháp việc nhận-dạng phái-tính tự chọn của mỗi người. 

Các nguyên-tắc trên, đòi mọi nước phải có biện-pháp độc-đoán khả dĩ thay-đổi cả hiến-pháp, lề-luật, thể-chế xã-hội, hệ-thống giáo-dục và động-thái căn-bản của công dân mình hầu áp-đặt và thúc-ép một cách hợp-pháp việc chấp-nhận đặc-quyền được phép tỏ-bày việc đồng tính luyến ái và/hoặc dạng-thức cũng như hành-động nào khác không hẳn phải là khác phái.

 Các quốc gia từng can-dự trào-lưu Yogyakarta trước nhất gồm có: Đức quốc, Đan Mạch, Hoà Lan, Na-Uy, Thuỵ-Điển, Thuỵ Sỹ, Cộng hoà Czech, Argentina, Brazil và Uruguay. Quả là, ta đang đi vào một thế-giới mới rất quả-cảm.” (Lm John Flader, Concerns aplenty for all in gender theory, The Catholic Weekly Question Time, 28/01/2018, tr. 19)

Thế đấy, là nỗi khổ của những người vẫn cứ lo-toan những chuyện to lớn ở trên trời hoặc không đâu vào đâu. Còn đây, là lập-trường của bậc thánh hiền ở trong Đạo, từng lên tiếng cả những chuyện có liên quan đến phái-tính, rất nữ/nam ở kinh thánh:

“Tôi muốn đàn bà phải ăn mặc đoan trang,

đồ trang điểm phải kín đáo, giản dị:

không cần kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai

hay quần áo đắt tiền,

mà là việc lành, phúc đức;

như thế mới thích hợp với các phụ nữ xưng mình có lòng đạo.

Khi nghe lời dạy dỗ,

đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng.

Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy,

hay thống trị đàn ông,

trái lại họ phải thinh lặng,

vì Ađam được tạo dựng trước,

rồi mới đến Evà.”

(1Timôtê 2: 9-13)

Xem thế thì, với bậc thánh hiền, đàn bà hay đàn ông đều có chỗ đứng nhất-định trong hệ-cấp quyền-hành hay quyền-lợi trong Đạo. Là người đi Đạo, ta không chỉ chấp thuận tuân theo chỉ-thị hoặc lề-luật được ban-bố từ trên; mà còn phải vui vẻ làm thế, nói chi chuyện đổi giống.

Tựu-trung thì, từ lâu, mọi người vẫn để tâm/lo toan nhiều thứ chuyện, cả việc nguyện-cầu, như truyện kể bên dưới từng minh-chứng:

“Cầu nguyện không giải quyết được những vấn đề khó khăn, những nổi khổ của chúng ta như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma từng bảo rằng:

-Tôi là Phật Tử và hàng ngày tôi vẫn đọc kinh cầu nguyện. Nhưng tôi không tin vào sự cầu nguyện sẽ đem lại một xã hội, một thế giới an bình.

 Vì chúng ta đã cầu nguyện và cầu nguyện hàng ngàn năm qua nhưng những lời cầu nguyện của chúng ta [cho một thế giới an bình] chưa bao giờ được đáp ứng cho nên bây giờ chúng ta phải thực tế.

Tôi thường hay nói với mọi người là – Nếu quý vị có cơ may gặp được Chúa Jesus hay Đức Phật thì hãy cầu xin các Ngài đem bình an đến cho thế gian này.

Chắc chắn các Ngài sẽ hỏi rằng – Ai là người đã gây ra bao cảnh bạo loan và bạo lực?

Nếu các Ngài gây ra sự bạo lực thì chúng ta khẩn khoản cầu xin các Ngài là xác đáng. Nhưng đằng này chính chúng ta đã gây ra tình trạng bạo lực.

 Do đó, dĩ nhiên Chúa Jesus hay Đức Phật sẽ phán rằng – chính các con đã gây ra bao cảnh bạo lực thì các con phải có trách nhiệm tự giải quyết lấy.”(trích lập-trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong một phỏng-vấn, vào hôm trước).

Thế nghĩa là, ngay đến lời nguyện-cầu ở đâu đây như xưa giờ ta từng quyết, mà Đức Ngài Lạt Ma cũng cho là không cần thiết, nếu như… Vậy thì, trên đời này còn gì để tin tưởng đây? Thật cũng khó để có câu trả lời cho gẫy gọn. Chi bằng, như mọi lần, ta dùng truyện kể nhè nhẹ dù đó là chuyện “Người Sàigòn, tui thế đó” để minh-hoạ cuộc sống trong đó có rất nhiều câu trả lời khá là “khả thì”, như sau:

“Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học, tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau. Ở thì không lo vì đã có nhà người quen ở bên kia cầu chữ Y.

Chỉ lo cái chuyện ăn uống giữa hai buổi thi. Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán, mà bụng vẫn trống không.

Từ nhỏ đến lớn sống ở dưới quê khi nào đi đâu xa thì cơm đùm, cơm bới mang đi theo chứ có khi nào ăn cơm tiệm để mà biết kêu cơm thêm. Kêu thêm dĩa nữa thì không dám, vì sợ không đủ tiền ăn cho ngày mai, ngày kia… Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ, người một trái, người hai trái. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Vậy là, chỉ một loáng nguyên cả nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ. Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn rồi nhìn chằm chằm, thỉnh thoảng lại liếc qua bà chủ quán đang đứng gần đó cười mím chi thì đâm lo. Không biết tiền mang theo có đủ để trả không.

 Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, bỗng nhiên chủ quán bước lại. Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn, chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu. Chỉ có nải chuối, cho thấy tính cách người Sài Gòn.

 Cuộc sống không thẳng tắp. Bon chen lên Sài Gòn không phải lúc nào cũng dễ kiếm tiền. Cũng trong những năm thập niên 1980, có lần, tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Mượn chiếc xe của ông chú vào buổi sáng, lúc ấy chú cho xe ở nhà để ngủ sau một đêm chạy mối chở hàng. Lần đầu tiên chạy xích lô chỉ có chạy xe không từ bên này sang bên kia cầu chữ Y đã muốn hụt hơi. Thế nhưng vẫn rán vì trong túi không còn tiền. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh (đường Nguyễn Trãi), thấy một đôi nam nữ đi ra, tay ngoắt, miệng kêu: “Xích lô!” Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại hỏi: 

-Anh chị đi đâu?

–Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?

Dân miền Đông mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. Thôi đành chơi trò may rủi: 

-Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho.

 Tưởng không biết đường thì người ta không đi, ai dè cả hai thản nhiên leo lên. Người con trai nói: 

-Mười lăm đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi tui chỉ đường.

 Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối, liệu sức không thể nào qua khỏi dốc cầu đành tính chước bỏ của chạy lấy người. Xuống giọng: 

-Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm đi xe khác giùm.

Ai ngờ người con trai ngoái đầu lại: 

-Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!

 Thế là, vừa được khách chở, lại vừa được lấy tiền. Không phải 15 đồng mà tới 20 đồng. Chắc cũng chỉ có người Sài Gòn mới khoáng đạt như vậy!

 Người Sài Gòn tốt bụng, chia sẻ không từ những chuyện cá biệt, người nơi khác vào Sài Gòn hỏi đường thật dễ chịu. Già trẻ, lớn bé, gặp ai hỏi người ta cũng chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm. Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn nghĩ cách viết hoặc bỏ tiền ra đặt làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Đôi khi, kèm theo một câu đùa, câu trách rất Sài Gòn ở cái bảng này khiến ai đọc cũng phì cười. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh mới đây: Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường. Hỏi hoài mệt quá”.

 Đi xe ôm, taxi, gặp đúng dân Sài Gòn thì mười người hết chín không lo bị chặt chém, vẽ vời. Đôi khi, kêu giá là vậy, nhưng khách không có tiền lẻ hoặc hết tiền người ta còn bớt, thậm chí cho thiếu mà không cần biết khách ở đâu, có trả hay không. Với người Sài Gòn, đó là chuyện nhỏ.

Ở Sài Gòn, cho tới bây giờ vẫn còn nhiều nhà để một bình nước suối trước nhà, kèm thêm một cái ly, một cái bảng nước uống miễn phí.

 Và bình nước này không bao giờ cạn, như lòng tốt của người Sài Gòn. Sẽ có nhiều người bảo cái ly nhiều người uống, bẩn chết đi được, nhưng không biết họ có cách nào hay hơn? (mua ly giấy, uống xong vứt…. mời các người ấy về Sài Gòn mua ly giấy cho khách thập phương dùng).

 Có người đã phát hiện, khi bạn chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó chạy theo nhắc bạn gạt cái chân chống, hay nhét lại cái ví sâu vào túi quần thì đích thị đó là người Sài Gòn!.

Bi giờ còn vậy nữa không? Cũng còn, nhưng mà nếu bạn không gặp người như vậy ở Sài Gòn là vì những người mà bạn gặp đó không phải là người SàiGòn!

 Tui hỏi anh cyclo:

-Đạp từ rạp Rex về cầu Chông (nhà tui) giá bao nhiêu?

Anh nói:

-20 ngàn.

Tui nói “30 ngàn thì tui mới đi”. Anh cyclo lập lại “20 ngàn”. Tui cũng nói như cũ. Anh cyclo tưởng tui là thằng khùng và nói:

-Thôi lên xe đi.

Đến nhà, tui đưa anh 30 ngàn và cám ơn. Năm 1978 khi ra tù tại ga xe lửa đường Lê Lai, một anh cyclo đến hỏi tui “Về đâu ?” nhưng khi nhìn thấy bộ đồ tù tui mặc nên anh nói câu mà tui nhớ đời:

-Lên đi thằng ông nội, tui chở về…Không có tính tiền đâu. Làm sao tui quên được câu nói đó. Người Sài Gòn là như vậy bạn ơi!” (trích truyện kể nhận được từ điện thư vi-tính, rất không lâu).

Rất nhiều bạn bè đọc bài phiếm do bầy tôi viết, lại cứ hỏi: “Sao bạn trích-dẫn truyện kể chẳng ăn-nhập gì đề tài đặt ra vậy?” Bần đạo bầy tôi nghe hỏi chỉ biết trả lời quanh-quất rằng: “Đó là chuyện phiếm đấy bạn ạ”.

 Hôm nay ngồi viết những going chữ này, lại đã thấy những lời đối đáp ở trên rất giống như chuyện thần-học hoặc học về thần-tính của các đấng, cũng tương-tự. Tương-tự là ở chỗ xem qua tưởng chừng như rất phiếm, nhưng xem lại mới thấy cuộc đời này mọi chuyện chung qui cũng chỉ là phiếm và luận hoặc luận cho lắm cũng chỉ là luận-phiếm/phiếm-luận mà thôi.

Bà con ta cứ nghe lại câu quả quyết ấy rồi suy cho kỹ, sẽ thấy không phải là chuyện mơ hồ lầm tưởng đâu. Để chấm dứt câu chuyện khá phiếm này, nay mời bạn và tôi ta nghe lại câu hát trên, để thấy rằng đời người vẫn có những chuyện như lời ca/câu hát những bảo rằng:

“Đừng nghe những gì con gái nói.
Đừng nghe những gì con gái nói.
Hãy nhìn vào đôi mắt em đây.
Hãy nhìn vào tận trái tim này.
Hãy nhìn vào đôi mắt thơ ngây.
Anh sẽ hiểu được trái tim em.”

(Ngọc Lễ – bđd)

Hỏi rằng: có nên sử-dụng câu hát trên làm lời kết cho bài phiếm đường dài ở đời người, được không cơ chứ? Hoặc, có nên về với vườn hồng tìm đến lời vàng của bậc thánh hiền từng có để lại những nguyên-tắc cho cuộc sống đúng nghĩa khi các ngài bảo:

“Thật vậy,

vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết,

thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài,

nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại.

Chúng ta biết rằng:

con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô,

như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt,

để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.

Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.

Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô,

chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài:

đó là niềm tin của chúng ta.”

(Rm 6: 5-8)

Tin hay không vào “Người Con Gái Nói” trong bài hát được trích dẫn, hoặc hiểu được nguyên-tắc của niềm tin vào Đức Chúa Phục Sinh do bậc thánh-hiền từng đặt, vẫn là chọn lựa của mỗi người và mọi người trong đời, rất hôm nay.  

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc chỉ muốn hát

Những lời như trên

Khi bàn nhiều chuyện

“tréo cẳng ngỗng”

ở trong đời.

Những giọt nước mắt nam nhi

Những giọt nước mắt nam nhi

 Elisabeth Nguyễn  (1.2018)

 ớc mắt của Thánh I-nhã Loyola

Thánh lễ là thân thể nhiệm mầu của Đức Kitô ôm trọn nhân loại trong sự thương xót cứu rỗi. Thánh Inhã rất quý Thánh Lễ nên khi được nhậm chức linh mục, Ngài không dâng lễ mở tay ngay như những linh mục khác mà Ngài chuẩn bị cả một năm trời cho Thánh Lễ mở tay của Ngài, đủ biết Thánh Lễ quý trọng và cao cả biết bao với Ngài.

Khi vào phòng thay áo, lúc khoác áo Alba, Ngài cũng khóc, lúc dâng lễ cũng khóc, dâng lễ xong cũng khóc, lúc thay áo cũng khóc, vì Ngài luôn nhận thấy mình bất xứng với tình thương bao la của Thiên Chúa trao cho mình.

Mình đang được Thiên Chúa bao phủ tràn đầy ân sủng và trong hoàn cảnh hiện hữu này. Ngài luôn sống với tâm tình biết ơn và nước mắt ấy là sức sống nâng đỡ Ngài trong suốt cuộc đời.

 ớc mắt của Chúa Giêsu

Trong ba năm đi rao giảng khắp nơi Chúa Giêsu đã rơi nước mắt khóc thương khi thấy dân chúng lầm than, thấy bà góa nghèo khổ đang khóc thương sau quan tài con trai một của bà. Nhưng Kinh Thánh chỉ dùng chữ khóc trong những trường hợp:

  • Ngài khóc thương Lazaro : Thấy cô khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khócĐức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến……  Đức Giêsu liền khóc. (Ga 11, 33; 35)
  • Ngài khóc cho nhân loại khi cầu nguyện tại vườn Gietzêmanê: Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi người như những giót máu rơi xuống đất (Lc22,44)
  • Ngài khóc thành Gierusalem:  Khi đến gần Gierusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!…(lc 19, 41-42a)

ớc mắt của Thánh Phêrô

Ông Phêro là một trong 12 môn đệ của Chúa Giêsu. Ông là người chân thật, hiền lành, thẳng thắn, sôi nổi, bộc trực mà nông cạn. Ông rất yêu thương  và ông kính trọng vị Thầy mà ông đã lẽo đẽo theo Ngài ba năm nay rồi, rất gần gũi với Thầy mình.

Vì tánh tình sôi nổi bộc trực nên khi Thầy Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn trên núi Oliu thì ông lập tức phản ứng ngay

Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông: Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác (Mt 26, 31)

…..ông khẳng định lòng trung thành yêu thương của mình:

ông liền thưa: Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã.

Đức Giêsu bảo ông: Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần. Ông Phêro lại nói: „dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy. (Mt 26, 33-34a).

Khi Thầy Giêsu của ông bị bắt, ông thể hiện lòng thương yêu và muốn bảo vệ Thầy ông bèn tuót gươm ra, nhằm người đấy tớ vị thượng tế mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mancho.

Đức Giêsu nói với ông Phêro: Hãy xỏ gươm vào bao. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?

Họ bắt  Đức Giêsu rồi điệu đến dinh thượng tế Caipha. Trong khi các môn đệ khác trốn hết, chỉ một mình ông Phêro thương Thầy hết mực nên mon men xa xa theo Thầy, khi họ điệu Đức Giêsu đến dinh thượng tế Caipha, ông vào bên trong sân, ngồi với bọn nha dịch để xem kết cuộc ra sao.

Một người tớ gái đến bên ông và nói: Cả bác nữa, bác cũng theo ông Giêsu, người Galile đó chứ  gì?

Ông liền chối: Tôi không biết cô nói gì!.

Thấy có người nhận biết mình , ông đi ra cổng, gặp một tớ gái khác: Bác này cũng theo ông Giêsu người Nazareth đấy.

Ông liền chối: Tôi không biết người ấy.

Một lát sau, lại có người nhận mặt ông: Đúng là bác cũng thuộc  bọn họ, cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay.

Lúc này ông chịu hết nổi nên thốt lên lời độc địa  Tôi không biết người ấy. Ngay lúc ấy gà gáy. Ông sực nhớ lời Thầy đã nói: Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.

Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.  Những giọt nước mắt thương yêu Thầy mình, trộn lẫn những giọt nước mắt ăn năn và buồn bã vì thất vọng, vì tuyệt vọng… tất cả những dự tính, những hy vọng tan tành theo mây khói…

ớc mắt của người tân tòng

Bằng những giọt nước mắt, những giọt nước mắt nam nhi nóng hổi,

anh em có thể thanh tẩy được quá kh

và siêu nhiên hóa cuộc sống hiện tại của mình (Thánh José Escriva)

Qua kinh nghiệm cá nhân, tôi, một tân tòng, một người khô khan, nguội lạnh đức tin. Chỉ biết theo đạo Thiên Chúa là được diện đẹp, lịch sự để mỗi Chúa Nhật đến nhà thờ dự Thánh Lễ mà không hề biết những ý nghĩa trong phụng vụ, không hề hiểu những bài đọc trong Thánh Lễ. Lời Chúa, lời đáp, lời ca, chả biết chi cả…chả hiểu chi cả.

Chỉ thấy mình đi lễ thì vui, được nhìn ngắm bàn thờ trang hoàng bông hoa đèn nến lung linh đẹp. Các em giúp lễ dễ thương, có em đẹp như thiên thần. Được nghe ca đoàn hát hay, vui vẻ…

Nhưng sau một thời gian cứ lập đi lập lại mãi như thế thì tâm hồn tôi nó trở chứng, nó thắc mắc đủ điều này nọ…

Tôi được dự một khóa tĩnh tâm theo phương pháp Linh Thao của Thánh Inhazio,  những thắc mắc được giải tỏa thật thỏa mãn

mà còn hơn thế nữa, tôi hiểu được Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng trời đất muôn vật và Ngài yêu thương tôi vô vàn, dù tôi bất toàn, dù tôi tội lỗi…

Ngài ban Con Một của Ngài xuống thế để chuộc tội lỗi mà ông tổ loài người là Adam & Eva đã phạm.

Ngài không chỉ chết cho mọi người chung chung, mà Ngài chết cho tôi, dù tôi bất toàn, tôi tội lỗi, chỉ vì Ngài yêu tôi. Thế có tuyệt vời không cơ chứ.

Thiên Chúa cho Thần Khí Ngài chạm đến trái tim chai đá của tôi và biến đổi thành trái tim mềm dịu, biết yêu thương mọi người, biết từ bỏ bớt những tật xấu như tham lam, những tánh hư như ganh tị, nói chuyện gẫu, chuyện vô bổ, chuyện người ta v.v…

Lần đó tôi khóc sướt mướt như chưa bao giờ được khóc. Những giọt nước mắt hạnh phúc, những giọt nước mắt biết ơn, những giọt nước mắt ăn năn, những giọt nước mắt hối tiếc vì mình được biết Ngài quá trễ…

Qua kinh nghiệm sống tâm linh của nhiều người, những giọt nước mắt đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc biến đổi tâm hồn một con người nên tốt đẹp, nên toàn hảo.

Khóc là trạng thái chân thực nhất của cảm xúc con người lộ ra bên ngoài. Có thể định nghĩa là bàn tay kỳ diệu của Thiên Chúa được đánh dấu bằng nước mắt.  Khi Chúa Thánh Thần chạm đến trong thâm sâu tâm hồn, phản ứng tự nhiên là những giọt nước mắt cảm động từ đáy lòng tuôn ra, những giòng nước mắt hạnh phúc, lay động tâm hồn.

Những giọt nước mắt có sức mạnh lay đổ hàng rào bướng bỉnh, chai đá nhường chỗ cho sự lành mạnh và toàn thiện. Khi những điều này xảy ra, nó biến đổi một tâm hồn trở nên mới như được tái sinh.

Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 5 Thường Niên năm B 04/02/2018

 Tin Mừng (Mc 1: 29-39)

Hôm ấy, vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.

 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

 &  &   &

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,”

“Đời dài, mới hết nửa sầu thương.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

 Dài ngắn đời người, làm sao anh đi hết. Sầu thương nửa vời, tôi nghĩ chỉ thế thôi. Có nghĩ hoặc có đi, cũng khó lường con đường Chúa đã đi qua như thánh Máccô vẫn ghi lại ở trình thuật.

Trình thuật thánh Máccô ghi, là ghi về chốn miền Chúa đặt chân đến. Trước nhất, là xóm làng nhỏ bé ở đó có dân con của Ngài sẻ san hết mọi sự, mà vui sống. Dân làng tuy rất nhỏ, nhưng vẫn cùng nhau lao động trên vạt đất không do mình sở hữu, bởi thế nên cũng nghèo. Và, giá trị phần đất lao động cũng lại tuỳ khoảng cách nơi mình sinh sống. Và, tuỳ đường dài rong ruổi ngày nhóm chợ. Và, vụ mùa đạt được, hầu hết là lúa hạt, dầu ăn và nho trái. Sản phẩm đạt được, hầu hết là hạt giống, dầu ăn với nho trái để làm rượu. Thành viên gia đình lao động đều rất vất vả thời cao điểm. Và, cao điểm thời làm lụng lại là lúc để người người vui tươi gặp gỡ. Bởi thế nên, mới có câu: “Ta hãy đi nơi khác, đến làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” (Mc 1: 38)

 “Làng xã chung quanh”, là đất miền khá rộng, có dân cư tự mình quản cai, khai thác và xử lý. Quản trị hay xử lý, không là việc độc quyền của riêng ai. Cũng chẳng là trọng trách chỉ lo mỗi chuyện đạo. Ở nơi đây, luôn có các buổi tập họp dân quê để làm những việc như thế. Ở nơi đó, cần có các nhà lãnh đạo (tức các kỳ mục mà tiếng Hy Lạp gọi là Komarkes) và đám trung gian (tức ký lục biết đọc và biết viết gọi là komogrammateis). Không phải làng nào cũng có những vị cùng một kiến thức như thế; nhưng, nhiều làng gộp lại mới có được một vị. Các vị này còn phải lo cả chuyện chính trị ở địa phương. Các vị ấy có quyền lập văn bản chính thức, cùng đạt thỉnh nguyện thư gửi giới chức có trọng trách về luật. Là, người trung gian/môi giới, chứng nhân lẫn kế toán, vv…             

Có người hỏi: dân cư nơi ấy thế nào? Là dân làng không thay đổi, họ giống nhau ở nhiều điểm dù có khác biệt về văn hoá. Họ có mô hình hoặc mẫu mực văn hoá của dân quê. Đó là mẫu mực cuộc sống, chứ không phải sự việc do các nhà làm luật, ngôn sứ hoặc lĩnh đạo tôn giáo áp đặt lên mọi người mà họ  vẫn muốn. Dân con miền Galilê, không có chứng tích viết bằng ngôn từ mình tạo dựng. Nhưng, vẫn sống mật thiết với đất đai và loài thú. Sống, là sống theo khuôn khổ gia đình. Có, sinh hoạt liên hồi tiếp diễn. Sống, là biết theo đường lối rất uyển chuyển. Biết tin tưởng lẫn nhau cũng như đặt nặng tương quan với người khác. Đôi lúc họ cũng ngây thơ, sống thành nhóm/thành tổ trong căn hộ nghèo nàn. Sống trong sinh hoạt hỗ tương với thôn làng khác, gần gũi với súc vật.

Rất nhiều lúc, họ cũng trở nên thuần thành do công việc có khuôn khổ. Có kỳ vọng tuy khá thấp nhưng cũng tạo kinh ngạc lạ lùng. Họ vẫn im lặng chấp nhận, tin tưởng. Con cháu trong nhà chỉ biết chơi đùa nghịch ngợm nhưng vẫn biết nguyện cầu cùng Đức Chúa. Vẫn có bệnh tật, vẫn nghỉ ngơi, chung đụng với cha mẹ, nhà cửa cùng vật dụng, môi trường, cảnh trí nơi nào cũng ảnh hưởng lên chính họ. Chẳng ai còn bỏ làng xóm đi nơi khác nữa. Bởi, khi đã rời bỏ gia đình là có lỗi nặng với đất đai. Và dù có gần khu thị tứ, nhiều người cũng chẳng cải thiện được cuộc sống hoặc thích nghi được với cuộc sống mới.

Quê miền đồng nội Do thái, khác hẳn thôn làng mọi xứ sở. Ở nơi đó, có khác biệt từ thẩm quyền, đến mức độ hiệu năng và khoảng cách. Thôn làng nào cũng cần nước để sống sót. Nơi nào có nước mưa, nước nguồn để uống, thì cuộc sống sẽ khá hơn. Chẳng ai có ý nghĩ cứng ngắc như đá tảng về “quê miền đồng nội”, hoặc thôn làng người khác sống. Lại có thời, Hội thánh vẫn sáng giá ở đồng quê. Đồng hồ nhà thờ ở giữa làng, là dấu chứng Chúa hiện diện. Có thánh hội tạo ảnh hưởng lên nếp sống của giáo dân.

Về chuyện này, nay nghĩ đến chốn miền nhiều nơi thiếu linh mục trầm trọng. Nhiều làng mạc thu gọn một mối với giáo xứ. Nhiều xứ đạo hoàn toàn do giáo dân trông nom, lâu lâu mới có linh mục ghé viếng. Chính vì thế, dân quê mới thấy mình như đàn con bị bỏ chợ. Có nơi, con cháu trong làng chẳng thiết gì đến Giáo hội. Tuổi trẻ nay để mất cả phương hướng lẫn tình thương. Và, cuộc sống nói chung không theo mẫu mực Giáo hội định ra nữa. Và, khi thế hệ nối tiếp lớn lên, từng đoàn và từng đoàn người cứ thế rời bỏ giáo hội lẫn thôn làng yêu dấu ấy.

Làm sao Chúa lại chọn thôn làng xứ miền Galilê để đặt chân đến?

Trong đời người, bao giờ cũng có nơi để người người chọn chỗ mà lui tới và sinh hoạt. Và quanh đó, còn có thôn làng kề cận, vẫn chung vui. Thật ra, nhiều người cũng chẳng biết hoặc chẳng nghĩ mình sẽ làm được gì như vẫn làm ở phạm vi nhà mình. Thành thử, chuyện ta cần nghĩ, là không nên nghĩ đến câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, câu hỏi vượt tầm tay mình hiểu biết. Bởi, đó là ý nghĩ mênh mông không biên giới, như bầu trời. Chỉ mỗi điều, là: ở nơi đó, người người đều có cảm giác như vào rừng. Vào chốn miền mà mọi người có khuynh hướng gọi tên “thung lũng đầy tiếng khóc”. Chốn miền cần hát vang kinh Kính Mừng. Nam nhân thường coi đó như nơi nguyện cầu, để rồi khi thần chết đến, Chúa sẽ giúp mình kềm chế nó. Các nữ lưu cũng biết điều đó nên chỉ đến đó khi nam nhân ép mình lui tới hoặc ở lại.

Nhưng vấn đề là hỏi rằng: Chúa về miền thôn dã, để làm gì? Câu trả lời rõ nhất, chính là xứ miền quanh Galilê có người lui tới. Ngài đi quanh khắp chốn, và đến bất cứ nơi nào Cha gửi tới. Tức, xứ miền Chúa Cha muốn mọi người trở thành con của Ngài. Và chốn ấy, là nơi có thể chẳng người con nào thích đến. Chẳng ai muốn bén mảng hoặc tới lui như làng mạc hoặc rừng hoang thôn dã ta thanh tẩy. Chỉ nơi đó và nơi đó thôi, Chúa mới sờ chạm mọi người và đổi thay con người họ. Về nơi hoang dã, tất cả rồi ra sẽ là con cái Chúa.

Sách Xuất Hành kể truyện Môsê cũng có đoạn nói về nơi dân dã, chốn hoang vu. Có bụi rừng cháy sáng. Có, Môsê hỏi tên bụi rậm để định nghĩa rừng thiêng hoang dã, nhưng không thành. Và, chẳng ai tìm ra được tên gọi ấy. Đó, là bài sai Môsê nhận lĩnh ra đi mà kể lại cho người Ai Cập biết dân con người của Chúa sẽ trở về nơi hoang dã. Thế nên, khi Môsê nói với chốn hoang sơ bụi rừng rằng ông có là gì đâu mà phải như thế? Và, Bụi Rừng đáp trả, không bằng định nghĩa lý lịch Môsê, nhưng bằng hứa hẹn: Ta sẽ về với con, nên chớ sợ. Bởi, con không là người một mình sống đời hoang dã. Bởi, Ta cũng đến đó với con thôi.

Hoang dã hôm nay, tuy không là chốn miền người người sinh sống với lao động. Mà là biểu tượng của chốn miền mình am tường và cưỡng chống nhưng vẫn đến dù không rõ mình còn muốn ở đó nữa hay không. Chúa kêu gọi người người từ chốn bụi rừng bừng cháy để vào nơi dân dã. Là, chốn duy nhất mà chất giọng và lời Chúa được mọi người nghe biết. Ở đó, chẳng có gì để mình và người người khả dĩ tạo lập chính con đường để mình đi.   

Hãy cứ đi và cứ vào nơi hoang dã, mà gặp Chúa! Và, như nhà thơ ngoài đời cũng đã diễn tả ý tưởng cùng lập trường, rất tương tự:

                        “Tôi đến đêm xưa, em vắng nhà,

                        Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa.

                        Tôi từ viễn phố rời chân lại,

                        Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa.”

                        (Đinh Hùng – Đường Khuya Trở Bước)

Nhà thơ một đời ngâm nga lời ca trống vắng. Trăng vàng mây bạc cuốn lôi người “từ viễn phố, rời chân lại”, dù mưa sa. Kể ra, thì nếu chưa đi thì chưa biết chốn dã hoang bừng cháy nỗi niềm Chúa mong đợi mọi người. Trông và đợi người người ra đi. Đó, cũng là ý niệm Chúa đi “hết dặm đường” để dân con người người rày cảm kích.        

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Buồn ơi, ta xin chào mi,

Chuyện phiếm đọc trong các tuần thường niên năm B

 “Buồn ơi, ta xin chào mi”,
Khi người yêu ta đã bỏ ta đi.
Buồn ơi, ta xin chào mi!
Khi tình yêu, chấp cánh bay đi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Buồn Ơi Chào Mi)

(Mc 14: 34)

  Trần Ngọc Mười Hai

Có một điều, là nhiều lúc bản thân bần đạo bầy tôi đây, cứ muốn nói lên đôi điều để bà con/thiên-hạ cảm-thông tâm-trạng “hơi bị buồn” của mình hoặc của người, tức: những chuyện tình buồn trong đời, thật rất khó. Khó nói và khó làm, là bởi vì tình buồn ấy đôi lúc cũng na ná giống như mọi thứ tình trong đời, thôi.

Chuyện buồn, mà bần đạo bầy tôi đây muốn nói và viết ra hôm nay, là những chuyện nhà Đạo cũng rất đời không tươi vui, nhộn-nhịp hoặc ào ào/nổi cộm, chút nào hết. Mọi sự, chỉ là chuyện thường tình xảy ra trong đời, mà thôi.

Nhưng, trước khi bàn-thảo những chuyện thường tình trong đời, tưởng cũng nên nghe thêm câu hát tiếp theo cho thật thấm, rồi sẽ tính. Câu hát buồn, mà nghệ sĩ lâu nay không ngại cất tiếng, rất như sau:    
“Buồn ơi, ta đang lẻ loi.
Buồn hỡi, ta đang đơn côi.
Buồn ơi, hãy đến với ta.
Để quên, chuyện tình xót xa.

Nếu, trên đường tình ta lẻ loi một mình.
Thì trên đường đời, ta có mi buồn ơi! …
Buồn ơi! thế nhân là thế.
Sao người yêu, vẫn mãi say mê.

Buồn ơi, yêu đương là thế.
Sao tình ta mãi mãi đam mê.
Người yêu, cho ta niềm đau.
Buồn hỡi, cho ta quên mau.

Buồn ơi, hãy đến với ta.
Để quên, chuyện tình xót xa…

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Nghệ sĩ đời, vẫn hát ca về sợi “tình buồn” đến với mình bằng những câu như: “Buồn ơi, thế-nhân là thế…”, “yêu đương là thế…”, “Sao tình ta vẫn mãi đam mê?”… Trong khi đó, bậc thánh hiền nhà Đạo chỉ mới ghi lại lời Thày Chí Ái khi xưa thưa với Chúa Cha những lời trần tình buồn bã, tái tê khá lê thê như thể bảo:

“Tâm hồn Thầy buồn đến chết được.

Anh em ở lại đây mà canh thức.”

Ngài đi xa hơn một chút,

sấp mình xuống đất

mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy,

nếu có thể được.

Ngài nói: “Ápba, Cha ơi,

Cha làm được mọi sự,

xin cất chén này xa con.

Nhưng xin đừng làm điều con muốn,

mà làm điều Cha muốn.”

(Mc 14: 34)

 Sợi “Tình Buồn” của Thày Chí Ái, phải chăng là chén đắng, Cha trao ban? “Chén đắng” Cha ban, phải chăng là sợi tình buồn về người đời, chẳng màng chuyện thần thánh thiêng liêng vẫn rất “thần” như chuyện đời hôm nay, thiên-hạ, cứ bàn suốt?

Nói gì thì nói, có lẽ bạn và tôi, ta cứ để tai xem xét chuyện tình buồn của mình và của người như thế nào mà sao Đấng Chí Ái lại thở-than với Chúa Cha những tâm tình “Buồn đến chết được” như thế.

Thôi thì, ta hãy cứ nghe thử những lời tình buồn như sau:

“Có Thần/Phật hay không?

Thần/Phật sẽ không vì có người không tin mà không tồn tạikhông phải vì có người “khích tướng” mà hiển hiện ra cho con người thấy. Có một câu chuyện thế này:

Sau chiến-tranh châu Âu lần thứ nhất có một quốc gia muốn dùng khoa-học để tuyên-truyền thuyết vô-thần, bèn mời ba vị tiến-sĩ đến quảng-trường để thuyết-giảng.

 Vị đầu tiên, là một tiến-sĩ thiên-văn-học, sau khi giải-thích rất nhiều lý-do không có thần, ông bèn hô lớn: “Tôi đã dùng kính viễn vọng để quan-sát thiên-thể suốt hơn 20 năm qua, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy Thần, do đó tôi khẳng-địng là không có Thần”.

 Vị thứ hai là một tiến-sĩ y-học, sau khi giảng-giải rất nhiều về lý-do nhân-loại tuyệt-đối không tồn-tại linh-hồn, ông nói: “Tôi đã từng giải-phẫu trên 100 thi thể hơn 10 năm, tôi đã quan-sát kỹ các bộ-phận cơ-thể, nhưng chưa bao giờ thấy chỗ nào có linh-hồn trú-ngụ, do đó nhất-định không có sự tồn-tại của linh-hồn.”

 Vị thứ ba là một nữ tiến-sĩ luân-lý-học, bà nói: “Người ta chết đi cũng giống như ngọn đèn tàn, chết là hết, khi đã chết, thì coi như kết-thúc mọi chuyện, tuyệt-đối không có chuyện thiên-đường, địa-ngục và chịu tội muôn kiếp. Tôi đã từng đọc rất nhiều sách trên thế-giới, nhưng chưa có trang nào ghi chép về điều này.”

 Sau khi ba vị tiến-sĩ thuyết-giảng xong, người dẫn chương-trình tuyên-bố với mọi người:

 “Nếu như lý-do không có sự tồn-tại của Thần mà ba vị tiến-sĩ vừa thuyết-giảng có chỗ nào đó chưa đầy đủ hoặc nếu có chứng-cứ phản-bác lại, bất cứ ai cũng có thể đưa ra thảo-luận công-khai.”

 Một bà lão nông-dân nhà mùa nói với người dẫn chương-trình:

-Tôi có thể đưa ra vài câu hỏi không? Người dẫn chương-trình nói:

-Rất hoan-nghênh bà!

 Bà lão liền hỏi vị tiến-sĩ đầu tiên:

-Ông dung viễn-vọng kính quan-sát thiên-thể đã hơn 20 năm, vậy ông đã nhìn thấy gió bao giờ chưa? Hình-dạng của nó như thế nào?

Vị tiến-sĩ nói:

-Dùng viễn-vọng kính làm sao có thể nhìn thấy được gió cơ chứ?

Bà lão nói:

-Vậy trên đời này có gió hay không? Ông dùng viễn-vọng kính mà lại không nhìn thấy được gió, thế lẽ nào ông lại có thể dùng nó mà nhìn thấy được Thần hay sao? Ông quan-sát bằng viễn-vọng kính nhưng không nhìn thấy Thần, ông lại có thể nói là không có Thần sao?

 Vị tiến-sĩ thiên-văn-học không nói được lời nào. Bà lão chuyển sang vị thứ hai:

-Ông có yêu vợ của mình không?

Vị tiến-sĩ này trả lời:

-Có

Bà lão lại nói:

Xin cho tôi mượn con dao mà ông hay dùng để giải-phẫu, tôi muốn mở bụng của ông ra coi xem tình-yêu đôi với vợ của ông nó nằm ở chỗ nào. Ở gan, dạ dày hay ở ruột.

Nói xong, cả hội-trường cười ồ, rất lớn tiếng. Cứ tiếp tục, bà lão quê mùa kia lại nhìn sang nữ tiến-sĩ hỏi:

-Cô đã đọc quyển sách này chưa? Nó gọi là Kinh Thánh. Chẳng phải rõ ràng quyển sách này có nói mọi người sau khi chết đều chịu phán-xét sao? Cô đừng tưởng chết là hết, phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống rất nhiều! Khi cô còn trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng: không lâu nữa, cô sẽ có mặt trên rta1i đất, có trời trăng sơn thuỷ, phải ăn cơm mặc quần áo, cô có tin không? Thế nhưng, hôm nay, cô không chỉ tin mà còn thực sự đã và đang sống trong thế-giới này. Thế-giới vĩnh-hằng cũng như thế, mà thôi. Sự sống không là cuộc chạy đua. Nó là một hành-trình để chúng ta từng bước chiêm-nghiệm ý-nghĩa sự sống. Điều quan-trọng không phải là phần thưởng khi chúng ta đến đích mà chính là những gì chúng ta cảm-nhận được trên từng chặng đường đi.” (Truyện kể rút từ mạng vi-tính)

 Nói thế, cũng hơi buồn. Bởi, nói như thế tức như thể bảo rằng: chẳng có thần-linh, Trời/Phật hoặc Đức Chúa ở trên cao chốn 9 tầng mây vi-vút ấy.

Nói như thế, tức còn bảo: không ai có thể minh-chứng hoặc tỏ-bày cách nào cho xứng-hợp để người đọc và người nghe thông-cảm. Chuyện “tình buồn” của ai đi nữa, cũng chỉ có thể cảm-thông hoặc cảm-nghiệm cách này hay cách khác, thôi. Và, ta cũng nên tìm bí kíp sống để “vui một đời người” dù có gặp những chuyện không vui, mới được.  

Nói thì nói thế, chứ nhiều người chung sống với nhau trong đời rất ư là thường tình. Thoạt khi gặp chuyện buồn thực lại vẫn bình-tâm, vững chí không thấy buồn/bực chút nào hết; hoặc, dù có buồn đi nữa, vẫn nhìn sự việc bằng cặp mắt tươi vui, yêu đời như truyện cười nhẹ ở bên dưới cũng buồn cười:

“Ông là người goá vợ. Bà là người goá chồng. Họ quen nhau trong nhiều năm vì là bạn học cùng lớp và đã tham gia nhiều buổi hội-ngộ khi trước. Ông nhìn bà một cách say đắm. Bà mỉm cười nhìn lại ông. Cuối cùng, ông lấy hết can đảm, hỏi bà:

-Em có bằng lòng làm vợ anh không?

Sau vài giây suy nghĩ, bà trả lời:

-Em…bằng lòng!!

Sáng hôm sau, thật tội cho ông, ông cố nhớ lại từng lời nói khi ông cầu hôn mà vẫn không nhớ là bà có nhận lời hay không?!?

Ông cầm điện-thoại lên gọi cho bà, vừa run vừa lo. Ông thuật lại mọi việc ông đã nhớ được vào ban đêm hôm trước. Cuối cùng, ông mạnh dạn hỏi:

-Khi anh hỏi em có muốn làm vợ anh không, Em trả lời ra sao?

Anh thật là vô tình. Em trả lời muốn với tất cả con tim của Em…

Lòng ông rộn rã, tim ông đập mạnh thêm…

Trong khi đó, bà nói tiếp:

-Em rất vui khi anh gọi. Thực ra em không nhớ ai đã hỏi cưới em! (Truyện kể rất dài trên mạng)

Phải chăng, “sợi buồn con nhện giăng tơ” là như thế? Có lẽ, giai-điệu nhạc nào đó theo nhịp“Valse” hoặc “Slow Rock”, cũng chẳng thể nào buồn hơn thế được. Có buồn không, đời người vẫn cứ vậy. Như thế và như vậy, tức bảo rằng: chẳng ai buồn nghĩ tới nó làm chi. Hãy cứ thế sống. Cứ thế vui chơi trong đời, như chẳng có chuyện gì buồn sầu/buồn bã xảy ra hết.

Nỗi buồn của ngôn-ngữ người đời thời nay, là: cái gì cũng bắt đầu bằng chữ “buồn” mang tính chất rất “buồn”, như: buồn bã, buồn bực, buồn thảm, buồn phiền, buồn rười rượi, vv… Nhưng, có những chuyện mà người nói vẫn cứ nói ra, mà chẳng thấy gì là buồn bã hết, thế mới buồn, như: buồn ngủ, buồn nôn, buồn tẻ, buồn tênh, buồn xo, buồn tình nhiều lúc đến thúi ruột thúi gan nhưng vẫn cười đến bể bụng.

Lại có những “chuyện buồn nhà Đạo” nghe qua thấy giống như “Chuyện Phiếm khá buồn”, tưởng ta cũng nên xem qua cho biết, như sau:  

 “Nghiên-cứu/khảo sát mới đây ở Anh quốc cho thấy đã có sự giảm sút đáng kể về số người theo Anh Giáo ở nước Anh, trong khi đó con số người Công giáo vẫn như cũ.

 Hơn phân nửa số dân sinh sống ở Anh quốc nay bảo rằng: họ chẳng thuộc đạo-giáo nào nữa hết. Trên đây, là dữ-kiện thống-kê do viện Khảo-sát NatCen Social Research ở Anh cho biết hôm 5/9/2017 vừa qua.

 53% trong số 3,000 người đứng tuổi được cơ-quan khảo-sát có tên là British Social Attitudes Survey phỏng-vấn đã cho biết là: nay, họ không theo đạo nào hết. Con số trên đây được coi là kết-quả phỏng-vấn của cơ-quan này mở ra vào năm 2016 đã lên cao so với con số 48% vào năm 2015.

 Cơ-quan khảo-sát nói trên còn cho biết là: dữ-liệu này, biểu-lộ tình-trạng bình-quân những người sống ở Anh vẫn tự cho rằng họ không theo một tôn-giáo nào hết đã đạt tình-trạng cao nhất từ trước đến giờ.

 Tính bình-quân những người có niềm tin đã từ từ gia-tăng kể từ khi viện khảo-sát bắt đầu thực hiện vào năm 1983, khi ấy 31% người được hỏi đều đã bảo: họ chẳng tin tưởng vào đấng nào hết. Mức giảm sút đây, đã thấy có nơi những người trước đây theo Anh giáo.       

 Bản khảo-sát lại cũng cho biết rằng: 15% người Anh vẫn tự coi mình là người thuộc Giáo-hội Anh-giáo cho đến bây giờ so với năm 2000 mức chênh lệc là 30%.

 Mức cân-đối về những người tự gọi mình là Công-giáo nay vẫn vậy. Tuy nhiên, số những người này nay chỉ còn chừng 10% so với 3 năm trước đây.” (X. CNS, UK religious numbers drop through the floor, The Catholic Weekly 17/9/2017 tr. 9)

Nếu bạn và tôi ta chỉ tính số lượng người đi Đạo hôm nay, thì như thế. Còn, hỏi rằng ân-sủng Chúa ban cho mọi người để họ vui sống đời đi đạo thì chất-lượng cuộc sống ấy như thế nào, thì: câu trả lời cho câu hỏi này, có lẽ cũng nên xét thêm bài viết của đấng bậc vị vọng ở đoạn khác, trích như sau:

“Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

 Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, có mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ, sẽ cùng họ tiến về cùng Chúa.             

 Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa. 

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

 Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai, lên án, bình phẩm. Chính những người, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ, những thành kiến, huý kỵ, ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

 Bài đọc Lời Chúa hôm nay còn gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu ngang qua ta, mà thôi.

 Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người. 

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.” ( X. Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay năm 3 18/3/2013.)  

Nói gì thì nói, cuối cùng thì tình buồn thế kỷ, nay vẫn là chuyện đời người được thể hiện qua thơ/văn hoặc truyện ngắn cũng nhè nhẹ nhưng không buồn. Thơ và văn, là văn thơ làm đoạn kết rất như sau:

“Ta cứ tưởng trần gian là cõi “thật”

Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi.

Cội-nguồn ơi, chiếc lá lại rơi về,

Đường về khép bóng trần-gian.

Lợi-danh gói một hành-trang vô-thường.

Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng,

Được/mất bại/thành bỗng hoá không.

Phú quí vinh hoa như mộng ảo.

Sắc/tài danh lợi tựa phù du.

Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ.

Thong dong tự tại vậy mà vui.

Đêm qua mộng lại thật gần.

Đừng lay tôi nhé hồng-trần mong-manh!

 Ta về giữ mộng trinh-nguyên.

Bờ hun hút lạnh nắng xuyên hình hài.

Thân như bóng chớp chiều ta.

Cỏ cây hoa lá xuân qua rụng rời.

Sá chi suy thịnh cuộc đời.

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

 Ta cứ tưởng trần-gian là cõi “thật”.

Thế cho nên tất bật đến bây giờ!

 Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc.

Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay.

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ.

Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi.

Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ.

Khi trở về cát bụi cũng trắng tay.

 Cuộc đời ta phù-du như cát bụi.

Sống hôm nay và đâu biết ngày mai?

Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi.

Rồi cũng về với cát bụi mà thôi.

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét.

Đừng hận-thù tranh-chấp với một ai.

 Hãy vui sống với tháng ngày ta có.

Giữ cho nhau những giây phút tươi vui.

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc.

Vì đời ta đã sống trọn kiếp người.

Với tất cả tấm lòng thành thương mến.

Đến mọi người xa lạ cũng như quen.

 Ta là Cát ta sẽ về với Bụi.

Trả trần-gian những cay đắng muộn phiền.

Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy.

Không còn buồn lo lắng chốn trần-ai!”

  Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ suy-tư nghĩ-ngợi

Chuyện buồn vui cuộc đời

Rất hôm nay. 

HỆ LỤY TÔN GIÁO

HỆ LỤY TÔN GIÁO

[Bài chủ đề báo ĐMHCG, số 377, tháng 01-2018, DCCT xuất bản tại Hoa Kỳ]

Theo ước tính, hiện nay trên thế giới có khoảng 500.000 tôn giáo đang tồn tại, Á Châu chiếm đa số. Trong số hơn 7 tỉ người trên trái đất, có 85% là những người có niềm tin tôn giáo. Nhưng có nhiều ý kiến cho rằng các cuộc xung đột trong thế kỷ 21 này có thể là sự xung đột giữa các tôn giáo. Đó là mối quan ngại, và thực tế này đang manh nha!

Trong Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu” (Ecclesia in Asia – ĐGH Gioan Phaolô II, 6-11-1999) cho biết: “Á Châu là nơi khai sinh của Ðức Giêsu và của Giáo Hội”. Thánh GH Gioan Phaolô II đã nhận thấy Á Châu là một chân trời mới đầy hứa hẹn cho một “mùa gặt các linh hồn mà Ngài thấy đã chín mùi và phong phú” cho sứ vụ của Giáo Hội trong Ngàn Năm Thứ Ba (số 9). Tông Huấn này xác định:“Ðức Giêsu đã sinh ra, sống, chết và phục sinh nơi Thánh địa, vùng đất bé nhỏ này ở Tây Á đã trở nên một vùng đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho tất cả nhân loại” (số 4). Á Châu chính là “chiếc nôi của tôn giáo”. Thật kỳ lạ!

CHIẾC NÔI TÔN GIÁO

Dân số Á châu hiện nay là hơn 3 tỉ người, nghĩa là chiếm hơn nửa dân số thế giới. Đó là một lục địa mênh mông, đồng thời cũng là quê hương của chính Ðức Kitô, thế mà số người Công giáo chỉ có vỏn vẹn hơn 132 triệu tín hữu, tỷ lệ là 3,95%.

Michael Inzlicht, nhà thần kinh học thuộc ĐH Toronto, Scarborough, người hướng dẫn cuộc nghiên cứu về mối liên quan giữa tôn giáo và não bộ, cho biết: “Tôn giáo đưa ra khung-biểu-diễn để hiểu biết thế giới. Nó cho bạn biết thời điểm hành động, cách hành động, và những gì cần làm trong mỗi tình huống. Nó cung cấp chi tiết kế họach về cách tương tác với thế giới”. Tôn giáo – và có thể khác hơn là hệ thống niềm tin – làm vật đệm cho quyết định dự đoán khác.

Cuối năm 2011, để phân tích kinh nghiệm về nỗ lực của tôn giáo đối với hạnh phúc, người ta đã sử dụng các dữ liệu từ 3 đợt (2002-2003, 2004 và 2006) của tổ chức Nghiên cứu Xã hội Âu châu (ESS – European Social Survey) đối với 114.019 cá nhân ở 24 quốc gia.

Các dữ liệu này cung cấp thông tin về đặc tính cá nhân như giới tính, tuổi tác, thu nhập, sức khỏe tổng quát theo quan điểm cá nhân, tình trạng hôn nhân, hoạt động chính, số con và trình độ học vấn, và những phương diện khác,… Dường như có mối liên quan tích cực giữa mức độ tôn giáo ở một người đối với hạnh phúc: NHỮNG NGƯỜI CÀNG SÙNG ĐẠO CÀNG HẠNH PHÚC.

Chủ nghĩa vô thần muốn loại bỏ tôn giáo, nhưng đó là sai lầm nghiêm trọng. Thật vậy, chính họ cũng vẫn thắp nhang và vái lạy thì sao lại nói là mình vô thần? Vừa mặc nhiên vừa mình nhiên, họ đã tự mâu thuẫn!

Tôn giáo liên quan thế giới vô hình, liên quan các thần linh, đặc biệt là Thiên Chúa – Đấng tạo tác muôn sự muôn loài. Con người vốn dĩ duy tâm, chắc chắn không thể thiếu tôn giáo trong cuộc sống thường nhật.

Riêng tại Việt Nam, tôn giáo khá đa dạng – gồm các nhánh Kitô giáo như Công giáo Rôma, Tin Lành (Lutheran, Cơ Đốc phục lâm,…); các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo…; tôn giáo nội sinh như Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác. Cho tới nay, tín ngưỡng dân gian bản địa vẫn có ảnh hưởng nhất định trong cuộc sống của người dân Việt Nam.

Có những người Việt nhận mình là những người không tôn giáo, mặc dù thi thoảng họ vẫn đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần Đình Hượu, người Việt được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung về phương diện thờ cúng, còn về giáo lý và tinh thần lại ít được quan tâm. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, toàn quốc có 15.651.467 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với điều đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành bởi đa số dân chúng.

Từ xưa, Việt Nam đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, mô tả nhiều về hình ảnh một loài chim – cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng chúng là đối tượng được người Việt xưa tin thờ. Ngoài ra, con Rồng cũng xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật và mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ cúng Lạc Long Quân – huyền thoại về một con người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển,… cũng được người Việt tôn làm vị thần bảo vệ và chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ, nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức của dân tộc mình vào đó để hình thành loại tôn giáo mang bản sắc riêng biệt.

Thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Các tôn giáo hiện diện lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Tuy nhiên, Phật giáo có vai trò quan trọng trong các triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn.

Sau năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, vấn đề tâm linh bị coi là đối tượng đấu tranh về tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ, thế nên họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá. Họ muốn xóa bỏ tất cả, mặc dù tín ngưỡng tôn giáo thuộc nhu cầu tâm linh và là quyền cơ bản của con người – tự do tín ngưỡng. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa, nhưng tại miền Trung và miền Nam vẫn duy trì hoạt động đó. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến đầu thập niên 1980 khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành các lễ hội mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian.

Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét: “Dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây, và cả hiện nay nữa, đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt”. Theo ông, đó là bài học về việc đừng tạo ra những sa mạc nhận thức như đã từng làm, vì không ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Tại Việt Nam có 6 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành, và Hồi giáo. Trong số đó, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất. Theo thống kê dân số năm 2009, số tín đồ Phật giáo là 6.802.318 người. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y tam bảo.

Công giáo Rôma tới Việt Nam vào đầu thế kỷ 16, tại Nam Định (thời Nhà Lê trung hưng), bởi những nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Pháp, trước cả khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Về sau, chính quyền Pháp không khuyến khích người dân theo tôn giáo nào, nhưng họ bảo đảm quyền tự do tôn giáo lần đầu tiên trên đất nước Việt Nam, nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ – nơi chịu sự bảo hộ của Pháp. Nhờ vậy Công giáo cũng như những tôn giáo khác đã thoát khỏi thời kỳ bách hại lớn nhất dưới các triều đại phong kiến kể từ thế kỷ 16. Công giáo lan truyền trong dân tại các tỉnh ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, sau đó lan tới vùng châu thổ sông Hồng và các vùng đô thị. Theo thống kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 5.677.086 tín hữu Công giáo, GP Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) có nhiều tín hữu Công giáo nhất, với khoảng 800.000 tín hữu, và có khoảng 6.000 nhà thờ tại Việt Nam. Công giáo được mệnh danh là “đạo yêu thương”, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16), và luật Chúa tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người.

Cao Đài (còn gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) là một tôn giáo do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, có trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh, thờ cúng Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Các tín đồ Cao Đài thi hành những giáo điều như không sát sanh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành, lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay. Mục tiêu tối thiểu của họ là đem hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng Đế nơi Thiên Giới, và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏi vòng luân hồi. Theo số liệu năm 2011, có 2,4 triệu tín đồ Cao Đài trên cả nước, đông nhất tại Tây Ninh, và có khoảng 30.000 tín đồ sống tại Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu.

Hòa Hảo (Phật giáo Hòa Hảo) là một tôn giáo Việt Nam gắn chặt với truyền thống Phật giáo, do Huỳnh Phú Sổ (gọi là Đức Huỳnh giáo chủ) thành lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống hòa hợp, đánh giá cao triết lý “Phật tại tâm”, khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và việc đời. Theo thống kê năm 2009, có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, chủ yếu tập trung ở miền Tây Nam Bộ (đặc biệt là An Giang, nơi có nhiều tín đồ nhất – gần 1 triệu).

Tin Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo này chỉ được phép hoạt động tại các vùng do Pháp quản lý, các vùng khác bị cấm. Đến năm 1920, Tin Lành mới được phép hoạt động trên khắp Việt Nam. Theo thống kê năm 2009, Tin Lành là tôn giáo chính của nhiều dân tộc thiểu số, và số tín đồ chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, nơi có nhiều tín đồ Tin Lành nhất là Đăk Lăk.

Hầu hết tín đồ Hồi giáo và Hindu giáo tại Việt Nam là người Chăm. Người ta cho rằng Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam đầu tiên là khoảng thế kỷ 10 và 11, trong cộng đồng người Chăm. Theo thống kê năm 2009, tại Việt Nam có khoảng 75.268 tín đồ Hồi giáo, chủ yếu ở Bình Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, và Saigon, đông nhất là tại Ninh Thuận (hơn 25.000 tín đồ). Có hai phái Hồi giáo của người Chăm: người Chăm ở Châu Đốc, Saigon, Tây Ninh và Đồng Nai theo Hồi giáo Chính thống, còn người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận theo phái Chăm Bà Ni.

Một tôn giáo chính khác của cộng đồng người Chăm là đạo Bà La Môn (hơn 56.000 tín đồ) chủ yếu tập trung ở Ninh Thuận (hơn 40.000 tín đồ).

Ngoài 6 tôn giáo lớn vừa đề cập, Việt Nam còn có nhiều tôn giáo nhỏ khác được chính quyền công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa (hơn 41.000 tín đồ), Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (hơn 11.000 tín đồ), Bửu Sơn Kỳ Hương (hơn 10.000 tín đồ), Baha’I (khoảng 8.000 tín đồ), Minh Lý Đạo và Minh Sư Đạo.

Đồng thời còn có vài tin ngưỡng và tôn giáo không chính thức như tín ngưỡng bản địa ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, Đạo Ông Trần tại Đảo Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu); các tín ngưỡng phụ phổ biến như Đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; Chính Thống giáo tại Việt Nam có đại diện là giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo hội Chính thống Nga) ở Vũng Tàu, nơi có vài trăm chuyên gia người Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Các đại diện của Bộ phận liên lạc các giáo xứ ở ngoại quốc của tòa thượng phụ Moskva thường xuyên thăm giáo xứ này để tổ chức các thánh lễ theo lịch phụng vụ dịp Lễ Phục Sinh và các thánh lễ tại nơi khác.

HỆ LỤY TÔN GIÁO

Thống kê cho thấy rằng số người Việt thực hiện việc thờ cúng tổ tiên chiếm tỷ lệ trung bình là 98% dân số. Điều này chứng tỏ người Việt duy tâm lắm đấy, nghĩa là tôn giáo rất quan trọng trong đời sống của họ!

Vì nhu cầu tâm linh mà người ta tìm đến tôn giáo, vì có niềm tin tôn giáo mà nhiều người bị bách hại, và họ tìm đường thoát thân bằng cách di tản để được sống tự do – đặc biệt là tự do tôn giáo. Nhiều nơi trên thế giới đã và đang có những cuộc di tản, tạo nên tình trạng di dân và người tỵ nạn. Riêng tại Việt Nam đã có cuộc di cư năm 1954 và 1975, đó là lịch sử minh nhiên, đồng thời cũng có hệ lụy tất yếu.

Hai mươi năm là một thế hệ. Hai mươi năm không dài mà Việt Nam phải mang hai nỗi buồn rười rượi. Đau lòng lắm, quê hương ơi! Với tâm tình đó, cố nhạc sĩ Phạm Duy đã viết ca khúc “Năm Bốn, Bảy Lăm” (1954-1975) nói về tình trạng tỵ nạn của nhiều người Việt: “Một ngày năm bốn cha bỏ quê xa, chốn đã chôn nhau cắt rốn bao nhiêu đời. Một ngày năm bốn cha bỏ phương trời, một miền Bắc tối tăm mưa phùn rơi… Một ngày bảy lăm con bỏ nước ra đi, hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ. Giờ cha lưu đày ở ngay trên đất ta, và giờ con lưu đày ở đây trên xứ lạ!… Một ngày năm bốn xa mộ ông cha, với lũy tre xanh khóm chuối bên sau nhà. Một ngày năm bốn cha phải chia lìa, cùng mảnh đất nóc gia cha làm ra… Một ngày bảy lăm con bỏ hết giang sơn, hai mươi năm tình yêu người yêu cuộc sống. Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui, Saigon đã chết rồi phải mang tên xác người…”. Lời ca da diết niềm đau như mũi dao cứ xoáy sâu vào lòng vậy. Buồn và đau lắm!

Nói chung, dân tỵ nạn là những người muốn tránh khổ, thoát khổ, tức là họ quyết đi tìm tự do, bình an và hạnh phúc ở một nơi khác. Nơi nào có tự do, bình an và hạnh phúc thì họ tìm đến bằng mọi giá, và nơi đó trở thành quê hương của họ. Tuy nhiên, có những người đã phải trả giá rất đắt vì họ gặp đủ thứ nguy hiểm, thậm chí phải mất mạng trong cuộc chạy trốn đó. Quả thật, tình trạng tỵ nạn là cảnh đáng sợ, vì kiếp tỵ nạn gian khổ lắm thôi!

Về phương diện tâm linh, chúng ta không thể dùng danh từ tỵ nạn, nhưng chúng ta cũng chẳng khác gì dân tỵ nạn – theo nghĩa phiến diện nào đó, bởi vì chúng ta đang trên đường lữ hành trần gian đầy đau khổ, với hy vọng sẽ thoát cảnh “khổ não trần ai” để về tới Bến Hạnh Phúc đích thực là Nước Trời, Quê Hương vĩnh cửu. Xét về ý nghĩa đó, chúng ta có thể coi mình cũng đang là “dân tỵ nạn”. Khổ hết sức! Khổ vô cùng! Khổ trên từng cây số! Khổ tận cùng bảng số! Thế nên chúng ta luôn thao thức cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu thoát! Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến!” (Kh 22:20b).

Đúng như vậy, nguy hiểm lúc nào cũng cận kề trên đường lữ hành trần gian, sơ sảy một chút là “chết” ngay, vì thế mà Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).

Trong Tân Ước, chúng ta không thấy đề cập vấn đề tỵ nạn, nhưng Cựu Ước có nhắc tới việc tỵ nạn hai lần.

Sách Sử Biên Niên đề cập nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron: “Đây là nơi cư trú của họ, theo ranh giới các trại dành cho họ: Nên người ta cho họ vùng Khép-rôn trong đất Giu-đa, cùng với các đồng cỏ chung quanh. Đồng ruộng của thành ấy và các thôn làng thì người ta cho ông Ca-lếp con ông Giơ-phun-ne. Nhưng người ta lại cho con cháu ông A-ha-ron các thành tỵ nạn là Khép-rôn và Líp-na với các đồng cỏ, Giát-tia, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, Khi-lết với các đồng cỏ, Đơ-via với các đồng cỏ, A-san với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ. Còn chi tộc Ben-gia-min thì người ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ, A-le-mét với các đồng cỏ, A-na-tốt với các đồng cỏ. Tất cả các thành của họ là mười ba, tính theo số các thị tộc của họ” (1 Sbn 6:39-45).

Sách Isaia nói tới vấn đề tỵ nạn trong lời sấm hạch tội Mô-áp: “Lòng tôi kêu gào bênh vực Mô-áp; những người dân tỵ nạn đã đến tận Xô-a và Éc-lát Sơ-li-si-gia. Thật vậy, tại dốc Lu-khít, họ vừa trèo vừa khóc; quả thế, trên đường Khô-rô-na-gim, họ thốt lên những tiếng kêu than thảm bại” (Is 15:5).

Thế giới có nhiều trại tỵ nạn, nhiều dạng tỵ nạn, nhiều mức độ tỵ nạn, nhưng luôn có một mẫu số chung là KHỔ. Đành rằng “ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6:34), nhưng cái khổ của kiếp tỵ nạn thì chỉ hơn kiếp tù tội là có tự do. Chẳng nơi nào có thể để chúng ta an tâm nếu “chẳng may” là dân tỵ nạn.

Chỉ có một “trại tỵ nạn” đầy đủ “tiện nghi” nhất, thậm chí còn sướng hơn sống tại nhà mình, đó là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Ngài đã mời gọi mọi người, nhất là những người đau khổ: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Chúa Giêsu là nơi để chúng ta có thể “tỵ nạn” an toàn nhất, vì chúng ta không chỉ được sống mà còn sống dồi dào (x. Ga 10:10).

Ước gì mỗi chúng ta biết lánh nạn trần gian để an tâm tỵ nạn nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, nơi đó có Nguồn Nước và Máu biến đổi chúng ta, để chúng ta có thể nên thánh theo Tôn Ý của Chúa Giêsu: “Hãy hoàn thiện như Chúa Cha trên trời” (Mt 5:48). Hãy mau ngụp lặn trong Đại Dương Lòng Chúa Thương Xót, đừng chần chừ nữa, vì thời gian sắp hết, nghĩa là giờ thương xót của Thiên Chúa gần hết rồi!

Khi tỵ nạn trần gian, chắc hẳn chúng ta không thể thiếu Người Mẹ, vì có Mẹ là có bình an – bình an ngay trong cảnh khổ. Trong Kinh Cầu Đức Bà, chúng ta tha thiết cầu xin: “NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN – Cầu Cho Chúng Con!”. Đức Mẹ thông ban những ơn cần thiết trong cuộc sống trần gian, bởi vì Mẹ là Thánh Mẫu của Thiên Chúa và cũng là Nữ Vương Hòa Bình.

Trong đời thường, ngày khởi đầu công việc luôn được người ta coi trọng. Ngày khởi đầu càng quan trọng hơn khi ngày đó là Ngày Đầu Năm. Do đó, ngày 1 tháng 1 là ngày rất đặc biệt đối với thế giới, cả đạo và đời, vì đó là ngày khởi đầu năm mới. Với người Âu Tây, đó là ngày Tết; với quốc tế, đó là ngày Hòa bình Thế giới; với người Công giáo, đó là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta mới vừa mừng lễ Giáng sinh để tôn vinh Con Thiên Chúa, liền sau đó lại tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Giáo hội tạo một nối kết tuyệt vời để đề cao Tình Mẫu Tử!

Không biết Thiên Chúa có “tiền định” hay không mà các ngôn ngữ đều mở miệng gọi Mẹ bằng âm bật mở đầu là mẫu tự M. Chẳng hạn cách gọi người sinh ra mình là Mẹ hoặc Má (tiếng Việt), Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman – tiếng Pháp), Mutter (Mumie – tiếng Đức), Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre (Mamma – tiếng Ý), Moeder (Mummie – tiếng Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ?

Nói đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn yêu thương hết lòng. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình MẫuTử đích thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vìngười Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Hình như chữ T luôn có gì đó khá đặc biệt, tạo nên chuỗi liên kết kỳ diệu trong cuộc sống của mỗi chúng ta, nhất là các Kitô hữu: Tôn giáo – Tâm linh – Tình yêu – Thanh bình (hòa bình, bình an, an bình).

Cùng với cố NS Hải Linh (1920-1988), chúng ta cùng xưng tụng Đức Mẹ qua bài Thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình” (1959), ca từ nói lên tâm tình thảo kính của người Việt được hòa quyện vào giai điệu du dương: “Kính mừng Nữ vương, Nữ vương Hòa bình, Nữ vương Hòa bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con đất Việt nao nức, cất tiếng ca mừng vui: Kính chào Nữ vương Hòa bình. Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Mẹ là sáng khắp đất nước bao la! Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Đem nguồn sống an vui chan hòa”.

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giải thoát chúng con khỏi cảnh đời lầm than, xin ban bình an cho chúng con, xin cho chúng con được hưởng nền hòa bình và tự do đích thực. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa nguyện giúp cầu thay cho chúng con, đặc biệt là dân con Nước Việt. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

DÀNH THÌ GIỜ

DÀNH THÌ GIỜ

Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa.  Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”

Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy”.

****************************** ********

Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng.  Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình.  Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn.  Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình.  Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi.  Đây không phải là một lối sống hay ho gì.

Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình.  Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật.  Đây là một tình trạng nguy hiểm.  Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp.  So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn.  Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình.  Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả.  Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.

 Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình.  Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người.  Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu.  Người đang có nguy cơ bị hao mòn.  Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó.”  Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.

Nơi hoang vắng làm được gì cho Người?  Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi lại năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung.  Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan với Chúa Cha.  Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.

 Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì.  Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng ấm.  Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn.  Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa.  Hầu hết người ta đều cho rằng bản thân mình có giá trị qua công việc.  Họ cho rằng giá trị của con người tùy thuộc vào ích lợi của người đó.  Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch.  Hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt.  Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện. 

Cách thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi.  Rất nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội.  Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh.  Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng.  Công việc có thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa.  Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.

Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc.  Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc.  Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.  Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.  Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết.  Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận.  Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.

 Sưu tầm 

****************************** ******** 

Lạy Cha Đức Giêsu Kitô và cũng là Cha chúng con,

Chúng con đặc biệt xin Cha kết hợp chúng con với đời sống Đức Giêsu theo một phương diện đặc biệt:  xin chuẩn bị cho chúng con sẵn sàng kết hợp với lời nguyện của Ngài.

Đức Giêsu Kitô là Đấng hết lòng thờ phụng Thiên Chúa trong thần trí và trong sự thật, Người là Đấng trung gian duy nhất chuyển đạt lời nguyện chúng con lên ngai tòa ân sủng.

Chúng con hợp nhất trong Thần trí Đức Giêsu, xin Người dạy bảo chúng con biết noi gương Người, luôn cầu nguyện không mệt mỏi, kiên trì, tin tưởng khiêm cung, trong thần trí và trong sự thật, với một tấm lòng chân thành thương yêu tha nhân, nếu thiếu tình yêu ấy, không lời nguyện nào có thể làm thỏa lòng đẹp ý Cha.

Nguyện xin Đức Kitô dạy chúng con biết xin Cha những điều mà chính Người hằng tâm niệm ấp ủ.

Lạy Cha, xin Cha ban cho chúng con tinh thần cầu nguyện, trầm mặc và kết hợp với Cha.  Amen! 

Karl Rahner

From Langthangchieutim gởi

Có nên đối thoại với Ma Quỷ?

 

Có nên đối thoại với Ma Quỷ?

Gần đây trên  kênh truyền hình Công Giáo TV 2000, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết: “Chẳng có điều gì thuyết phục tôi để phải đối thoại với Satan cả!” Sau đó ngài đưa ra lý do vì Satan thông minh hơn chúng ta nhiều. Nếu chúng ta bắt đầu đối thoại với nó, nó sẽ quay chúng ta vòng vòng và sau cùng là chúng ta lạc hướng. Bản chất của Satan là dối trá lừa bịp chúng ta, thậm chí với cả giám mục và linh mục nữa. Ngược lại khi chúng ta cương quyết đuổi nó đi, chúng ta sẽ chiến thắng.

Là con người, chắc hẳn ai cũng sợ thế lực ma quỷ, Satan. Chúng ta kinh nghiệm được thế nào là sự dữ, thế nào là sức mạnh của thế lực xấu xa lộng hành. Chúng chống lại Thiên Chúa và phá hoại cuộc sống của con người. Thực vậy, Kinh Thánh cho chúng ta biết thuở xưa có những Thiên thần đã sa ngã mà chúng ta gọi là thần dữ hay ma quỷ. Thế giới của chúng là những chỗ chết chóc đau thương, của hỏa ngục tù đày. Thiên Chúa nhắc chúng ta biết Satan không bao giờ ngủ, chúng luôn quấy phá con người. Đó là bản chất và sở trường của chúng. Từng ngày, từng giờ, chúng ta sống trong nguy cơ sa ngã phạm tội, và không theo Chúa nữa. Do đó, “Anh em hãy sng tiết độ và tnh thc, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gm thét, ro quanh tìm mi cn xé.” 1Pr 5,8.

Hẳn nhiên Satan không có thể xác hữu hình như con người. Chúng thuộc thế giới vô hình. Do đó, chúng quấy phá con người ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta thường gọi đó là những cơn cám dỗ khiến con người làm điều ác. Chúng có nhiều mưu mô thâm độc để bằng mọi cách giết chết con người. Những cơn cám dỗ từ thô thiển đến tinh vi. Bởi đó người ta kể rằng Quỷ Vương rất tinh khôn để gửi những tên lính của mình đến với từng loại người khác nhau mà cám dỗ. Những kẻ đang ở trong tội lỗi, nó sẽ gửi những “Satan nghiệp dư” đến để tiếp tục lôi kéo người ấy đi vào tình trạng xấu hơn. Ngược lại những người đang trên đường nhân đức, Ma Quỷ kéo bè kéo đảng đến để dụ dỗ người ta từng bước nên xấu hơn. Do đó, dù là người tốt hay người chưa tốt, Thiên Chúa nhắc chúng ta “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng.” Ep 4,26-27.

Bằng cách nào? Hẳn là Đức Giáo Hoàng cho chúng ta phương pháp để chống lại những cơn cám dỗ: “Đừng đối thoại với nó!” Đó là phương pháp tốt mà Đức Giêsu đã dùng khi ngài chịu những cơn cám dỗ của Satan trong hoang địa. Ðức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi” (Lc4,10). Khi không đối thoại với nó nghĩa là đừng tiết nuối, đừng lấy lý do biện minh cho những hành động xấu, nhưng hãy can đảm bỏ đi những tội lỗi mà mình có thể nhận thấy được. Điều ấy không dễ dàng, vì cám dỗ lúc nào cũng ngọt ngào hấp dẫn. Đó là cuộc chiến khốc liệt giằng xé trong tâm hồn mỗi người!

Tuy nhiên con người may mắn vì khi bị cám dỗ, họ luôn có Thiên Chúa ở cùng. Tiếng nói lương tâm cho ta biết những mưu mô của ma quỷ. Hơn nữa, Thiên Chúa cùng với con người chiến đấu với Ma Quỷ. Một khi con người khẩn xin và cộng tác với Thiên Chúa, chắc chắn Ngài sẽ chiếm ngự hồn ta, trao cho ta sức mạnh và bình an để Ma quỷ không có chỗ quấy phá con người nữa. Bởi đó khi bị cám dỗ, Giáo Hội khuyên tín hữu hãy làm dấu Thánh giá trên mình để xin ơn phù giúp. Kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi bằng tên của Người sẽ thánh hóa công việc ta sắp làm, ban chúc lành cho ta và giúp ta mạnh sức khi gặp khó khăn và cám dỗ. Bên cạnh đó, Kitô hữu được mời gọi hãy cầu nguyện để được thanh tẩy, được “sức đề kháng mạnh” để chống lại cám dỗ. Nhờ cầu nguyện, nghĩa là kết thân với Thiên Chúa, con người được mạnh mẽ khi yếu đuối, được thoát mọi nỗi sợ, được tăng cường sức lực, và được hạnh phúc.

Hẳn nhiên mỗi người đều biết những tội lỗi rất riêng của mình. Nó theo ta như hình với bóng. Có khi ta mệt mỏi chẳng dám chia tay vĩnh viễn với Ma Quỷ. Nhưng Thiên Chúa không cho phép ta bỏ cuộc, vì Thiên Chúa ở cùng với ta mọi ngày cho đến tận thế! Khi biết mình bị Ma Quỷ lừa vào đường tội lỗi, ước gì chúng ta biết đứng lên, đến với cha giải tội để được Thiên Chúa thứ tha. Trong lúc đó, Thiên Chúa có cách để giúp chúng ta không thích đối thoại với Ma Quỷ nữa, nhưng thích nói chuyện với Thiên Chúa hơn, thích hướng đến điều tốt đẹp hơn. Được như thế, hy vọng cuộc sống của ta được Thiên Chúa bảo vệ hướng dẫn.

Chúng ta cầu nguyện cho nhau để đừng đi vào những cuộc nói chuyện vô ích và nguy hiểm với Ma Quỷ. Xin với Thiên Chúa Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Một Luật Sư Quận Cam trở thành Linh Mục

Một Luật Sư Quận Cam trở thành Linh Mục

Linh mục Trần Đình Văn Quân – Linh mục Công giáo thuộc Giáo phận Orange, California

Tôi làm Luật sư gần 12 năm và 10 năm trong số đó tôi làm Phó Biện lý Quận Cam ở California. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở thành một linh mục! Nhưng Chúa đã biết cả trước khi tôi chào đời và đã cho tôi được làm linh mục. Tôi đã phải trải nghiệm cuộc sống, hẹn hò, và làm việc trước khi sẵn sàng để nghe và đáp trả lời mời gọi của Người.

Sự quan phòng của Chúa đã làm việc trong ơn gọi của tôi trước khi tôi sinh ra. Khi ông nội tôi được mười hai tuổi, có một chuyện xảy ra đã làm thay đổi tất cả. Bà cố nội của tôi bệnh rất nặng và các bác sĩ đã không có hy vọng. Một ngày kia, khi ông cố nội của tôi đang đi bộ về nhà sau khi thăm bà trong bệnh viện, ông đi ngang qua Nhà thờ Công giáo Thánh Giuse. Mặc dù không phải là người Công giáo, nhưng vì tuyệt vọng, ông bước tới trước tượng của Thánh Giuse, ông quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện. Ông đã xin Thánh Giuse giúp vợ ông được bình phục. Ông hứa rằng nếu bà hồi phục, cả gia đình sẽ chuyển sang đạo Công giáo.

Đêm đó, ông bà cố nội tôi đã có cùng một giấc mơ. Họ đã mơ thấy một người đàn ông trông giống như Thánh Giuse đi vào phòng bệnh viện của bà, lấy đi ở phần bụng bà – bộ phận bị đau – và thay thế vào một cái mới. Buổi sáng hôm sau, bà đã được chữa khỏi hoàn toàn và các bác sĩ đã không thể tin được. Ông bà cố nội tôi chia sẻ giấc mơ họ đã có tối hôm trước và biết rằng qua Thánh Giuse bà cố nội tôi đã được chữa khỏi một cách kỳ diệu. Một thời gian ngắn sau đó, ông bà cố nội và ông nội của tôi đã chịu phép rửa tội theo đức tin Công giáo. Nếu không có phép lạ này, bây giờ gia đình tôi và tôi có thể không phải là người Công giáo!

Lớn lên, bà nội tôi là người sùng đạo nhất trong gia đình. Mặc dù bà chỉ theo đạo Công giáo khi bà kết hôn với ông nội tôi, nhưng chính bà lại là người duy trì việc thực hành đức tin sống động trong gia đình. Tôi đã gần bà khi lớn lên và bà đã dạy tôi làm Dấu Thánh Giá và những kinh cầu nguyện căn bản của Giáo hội như kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh và kinh Ăn năn tội. Bà đã dạy tôi cách xưng tội và lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Bà nội tôi đã góp phần trong sự hình thành đức tin của tôi.

Mẹ tôi cũng đã theo đạo khi kết hôn với cha tôi. Lớn lên, chúng tôi là những người Công giáo “lãnh đạm”. Chúng tôi đã đến dự Thánh lễ Chúa nhật và nhận tất cả các bí tích căn bản – chủ yếu bởi vì sự khăng khăng của bà nội tôi. Trong gia đình tôi, tôi chưa bao giờ nghe có ai nói về một ơn gọi có thể có như chức linh mục hay đời sống tu sĩ. Thay vào đó lại nhấn mạnh về trình độ học vấn cao, có việc làm tốt với mức lương cao và có địa vị nữa.

Trong khi học Đại học, tôi không còn đi dự Lễ nữa. Những điều thế gian như vui chơi và đạt điểm tốt đã trở thành sự quan tâm của tôi; đức tin không phải là một ưu tiên. Điều này tiếp tục tiếp diễn khi tôi đang ở trường luật và cả khi tôi làm luật sư. Trong quá trình lược lại, tôi quyết định đi học tại trường luật. Tôi đã tốt nghiệp Cử nhân Quản trị Kinh doanh về Tài chính nhưng không hứng thú làm việc trong lĩnh vực này. Vì vậy bước tiếp theo hợp lý là để có được một MBA hoặc là đi học luật. Thế rồi tôi quyết định học về luật pháp vì tôi nghĩ rằng nó sẽ cho tôi nhiều lựa chọn hơn.

Công việc đầu tiên của tôi khi ra trường luật là luật sư biện lý công chúng ở Bakersfield. Đó là một kinh nghiệm tốt nhưng tôi biết tôi không muốn sống ở Bakersfield trong suốt quãng đời còn lại. Vì vậy, tôi đã nộp đơn lên Văn phòng Luật sư Công cộng và Văn phòng Luật sư Quận tại Quận Cam, nơi tôi đã lớn lên. Văn phòng của D.A. đã cho tôi một cuộc phỏng vấn và sau đó là một đề nghị tuyển dụng, và tôi đã chấp nhận. Năm 1997, chuyển về Quận Cam và bắt đầu sự nghiệp của tôi với tư cách là công tố viên; Tôi vẫn chưa thực hành đức tin của mình. Tôi mua một căn nhà, một chiếc xe BMW và đã hẹn hò. Tôi đang tìm kiếm một người ưng ý để kết hôn và bắt đầu một gia đình. Nhưng Chúa đã có những kế hoạch khác.

Mãi cho đến khoảng năm 2001 tôi mới bắt đầu trở lại đi dự Thánh lễ thường xuyên. Lý do là vì tôi đang hẹn hò với một phụ nữ Công giáo tốt bụng, cô ta muốn tôi đi lễ với cô vào Chúa nhật và tôi đã làm như vậy. Đây là khởi đầu của cuộc hành trình trở về với Chúa. Tôi đã biết rất ít là cuối cùng nó sẽ dẫn tôi đến đâu.

Chúng tôi đã hẹn hò trong vài tháng nhưng mọi thứ đã không kết quả và chúng tôi chia tay. Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi dự Thánh lễ mỗi Chủ nhật. Tôi tiếp tục hẹn hò với hy vọng gặp được “người duy nhất.” Trong khi đó, Chúa đã sử dụng những người xung quanh tôi để hướng tôi đến với chính Người và cho ơn gọi đích thực của tôi. Chỉ sau đó tôi mới hiểu được ai thực sự là “người duy nhất” đối với tôi. Vào đầu năm 2005, tôi gặp một người phụ nữ ở trong giáo xứ và chúng tôi bắt đầu hò hẹn. Cô cũng là một người Công giáo tốt và cô giới thiệu tôi với chuỗi Mân côi, tham dự Thánh lễ hàng ngày và Chầu Thánh Thể. Cô khuyến khích tôi trở thành một Thừa tác viên Thánh Thể và sau đó là đọc sách Thánh. Tôi đã phát triển trong đức tin và thật sự thực hành nó.

Đồng thời, lúc đó tôi cũng đang trải qua một số khó khăn trong công việc. Điều này khiến tôi bắt đầu suy nghĩ về sự lựa chọn khác. Tôi nghĩ về việc tìm một việc làm khác hoặc thậm chí thay đổi nghề nghiệp, và tôi bắt đầu tìm kiếm… Tôi nhận ra rằng thực sự tôi không thích làm công tố viên hoặc luật sư vì bất cứ lý do nào. Tôi bắt đầu suy nghĩ để tìm ra những gì tôi thực sự muốn làm với cuộc đời của mình. Tôi muốn làm điều gì đó mà tôi thích và đam mê, nhưng không có gì là đúng cả.

Trong tuyệt vọng tôi quay sang cầu nguyện (như ông cố nội tôi). Với đức tin mới tìm thấy, tôi đã đến gần Chúa và hỏi Chúa cho tôi biết điều tôi phải làm là gì? Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi không có lựa chọn dự phòng nào; quá trình lược lại đã dẫn tôi đến ngõ cụt.

Ngay sau khi cầu nguyện, mọi thứ bắt đầu thay đổi. Người phụ nữ Công giáo mà tôi hẹn hò đã bất ngờ hỏi tôi một cách bâng quơ là có khi nào tôi nghĩ đến việc trở thành một phó tế vĩnh viễn không? Tôi nói với cô ấy rằng tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ tới việc trở thành một phó tế. Thậm chí tôi không biết phải làm gì để trở thành một phó tế, nhưng có lẽ nó đòi hỏi phải trở lại trường để học thêm, và tại thời điểm đó trong cuộc đời, tôi không hề muốn trở lại trường học. Nhưng hạt giống đã được gieo!

Không bao lâu sau, ba người khác hỏi tôi có khi nào tôi nghĩ đến việc trở thành một linh mục hay thầy phó tế không? Cho đến thời điểm này trong cuộc đời của tôi, không một ai đã từng hỏi tôi những câu hỏi như vậy. Tôi thấy rất tò mò vì trong vòng một tháng, sau khi tôi cầu nguyện, xin Chúa tiết lộ kế hoạch của Người cho tôi, bốn người khác nhau đã hỏi tôi xem tôi đã từng xem xét về chức linh mục hay thầy phó tế vĩnh viễn không? Tôi chưa bao giờ nghĩ đến ơn gọi và không biết phải làm gì để trở thành một phó tế hay một linh mục. Vì vậy, tôi bắt đầu kiếm trên mạng lưới để tìm hiểu thêm thông tin và tôi thấy mình như bị lôi cuốn về chức linh mục. Tôi thực sự không thể giải thích tại sao. Cảm giác này về chức linh mục là điều tôi đang tìm kiếm và đó là điều tôi muốn làm. Tôi càng suy nghĩ nhiều hơn về chức linh mục, thì nó càng cho tôi cảm giác bình an, niềm vui và có ý nghĩa. Tôi có cảm giác rằng đây chính là câu trả lời cho lời cầu nguyện của tôi.

Tôi đã rất phấn khởi và sợ hãi cùng một lúc. Có một cái gì đó mới lạ, một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến trước đó. Nhưng sự cam kết và thay đổi trong đời sống thì rất lớn. Từ bỏ nghề luật là một chuyện, còn một điều khác nữa để từ bỏ, đó là khả năng không bao giờ có vợ và gia đình. Tôi luôn nghĩ rằng mình sẽ tìm được đúng người, kết hôn và có gia đình. Độc thân không phải là điều dự tính của phương trình! Nhưng còn về chức phó tế thì sao? Nó cho phép tôi được kết hôn, có gia đình và trở thành phó tế cùng một lúc. Nhưng chức phó tế vĩnh viễn thì không bao giờ nghĩ tới. Tôi sẽ dâng cuộc sống của tôi cho Chúa hoàn toàn như là một linh mục hoặc lập gia đình; không có lựa chọn nào khác!

Tôi tiếp tục cầu nguyện và nhận ra ý Chúa cho tôi. Một ngày kia đang quỳ sau khi rước lễ và nhìn lên thánh giá, tôi có thể nghe thấy Chúa Giêsu đang nói trong tâm trí và trái tim tôi, Người kêu tôi bỏ tất cả mọi thứ và theo Người. Một phần của tôi muốn nói “Vâng, Chúa Giêsu, con sẽ từ bỏ tất cả mọi thứ để theo Chúa. Nhưng một phần khác vẫn chưa sẵn sàng, vì vậy tôi cầu nguyện: “Chúa Giêsu ơi, nếu Chúa muốn con theo Chúa, thì Chúa phải giúp con bỏ mọi thứ vì con không thể làm điều đó một mình được. Nếu Chúa muốn, Chúa phải làm cho nó xảy ra.”

Sáng hôm sau tôi thức dậy với bài hát này trong đầu: Everything I Own by Bread. Tôi đã lên trang mạng, in lời bài hát và đọc chúng. Bài hát này nói về một người mất cha và mong muốn cha mình vẫn còn sống. Nhưng đối với tôi, lời bài hát là cách Chúa nói với tôi rằng tôi có thể từ bỏ tất cả mọi thứ cho Người, nếu tôi không làm bây giờ thì cơ hội sẽ không còn và có thể tôi sẽ hối tiếc về điều đó:

Cha đã che chở con khỏi mọi điều tổn hại

Giữ cho con ấm, giữ cho con ấm

Cha đã cho con cuộc sống của con

Cho con tự do, cho con tự do

Những năm đẹp nhất mà con có

Là những năm con đã có với cha

Và con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Bỏ cuộc sống, trái tim, nhà cửa của con

Con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Chỉ để có Cha một lần nữa

Cha đã dạy con biết yêu

Nó là gì, nó là gì

Cha không bao giờ nói quá nhiều

Nhưng cha vẫn chỉ ra cách

Và con đã biết khi con quan sát cha

Không ai khác có thể biết được

Một phần của con không thể buông thả

Và con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Bỏ cuộc sống, trái tim, nhà cửa của con

Con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Chỉ để có Cha một lần nữa

Có ai đó mà bạn biết

Và bạn đang thương họ

Nhưng bạn cũng đã đang coi thường họ

Bạn có thể mất họ một ngày

Một ai đó sẽ mang họ đi

Và họ sẽ không nghe được những lời bạn muốn nói

Và con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Bỏ cuộc sống, trái tim, nhà cửa của con

Con sẽ bỏ hết tất cả những gì con có

Chỉ để có Cha một lần nữa

Chỉ để chạm vào Cha một lần nữa

Đây chỉ là một trong nhiều sự kiện mà Chúa đã tỏ cho tôi biết ơn gọi của mình.

Vào mùa thu năm 2005, tôi dự khoá tĩnh tâm Cursillo tại Trung tâm Mục vụ Marywood ở Orange và nó rất mạnh mẽ! Suốt cuối tuần đó, tôi cảm nhận tình yêu và ân sủng đầy quyền năng, đặc biệt là tình yêu của Mẹ Maria. Tôi đã bị cuốn hút đến Mẹ Maria hơn bao giờ hết. Tôi không thể ngừng nhìn vào ảnh của Mẹ. Lời xin vâng của Mẹ Maria cứ lẩn quẩn trong tôi: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin làm cho tôi theo lời của Ngài.” Không nghi ngờ gì, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất lớn trong khi tôi biện phân ơn gọi của mình.

Trong khóa tĩnh tâm, có ai đó đã nói với tôi về một giáo xứ được điều hành bởi dòng ‘the Oblate of the Virgin Mary.’ Tôi bắt đầu tham gia giáo xứ đó và rất có ấn tượng với vị linh mục này. Lời giảng của Ngài rõ ràng và đầy quyền năng, theo tôi chưa bao giờ cảm nghiệm trước đây. Vị linh mục đó đã trở thành người hướng dẫn tâm linh của tôi.

Trong thời gian biện phân, tôi đã gặp một người phụ nữ khác. Tôi đã nói với cô ấy ngay lập tức rằng tôi đang có ý định làm linh mục, để cho cô ấy biết trước. Cô là người Công giáo, đầy tài năng và hấp dẫn. Trên thực tế, tôi nghĩ cô ấy có tất cả những phẩm chất mà tôi mong muốn ở một người vợ. Cô ấy cũng phát triển tình cảm với tôi. Tôi không hiểu tại sao cô ấy đã bước vào cuộc đời tôi vào thời điểm này. Nếu tôi gặp cô ấy sáu tháng trước, tôi có thể đã nhìn thấy phần đời còn lại của tôi với cô ấy. Nhưng bây giờ không phải là thời điểm tốt. Qua cầu nguyện, tuy nhiên, tôi cảm nhận được Chúa cho tôi một sự lựa chọn có ý thức. Đây là người phụ nữ mà tôi có thể lập gia đình, hoặc tôi có thể chọn Người. Nếu tôi chọn cô ấy, Chúa cũng sẽ chúc phúc cho cuộc hôn nhân của tôi, nhưng Người đã gọi tôi chọn Người. Với ân sủng của Thiên Chúa, tôi đã có thể chọn Người. Chúa cho tôi cơ hội này để tôi đưa ra một quyết định có ý thức bởi vì Người không muốn sau này tôi suy nghĩ: “Chuyện gì xảy ra nếu tôi gặp đúng người?” Chúa muốn tôi chắc chắn về ơn gọi của mình.

Vào mùa hè năm 2006, tôi đã yêu cầu và nhận được một năm nghỉ việc để thử ơn gọi mới của tôi bằng cách vào chủng viện. Các đồng nghiệp của tôi rất ngạc nhiên. Nhiều người nghĩ rằng tôi đã đang trải qua một “giai đoạn” và rằng tôi sẽ trở lại trong vòng chưa đầy một năm.

Gia đình tôi cũng rất ngạc nhiên. Bố tôi, đang sống ở Denver, đã bay tới Quận Cam vào ngày hôm sau để nói chuyện với tôi và xem tôi có đang gặp phải bất kỳ vấn đề gì không. Ông cùng với nhiều người khác trong gia đình, nghĩ rằng tôi đã mắc phải sai lầm lớn; họ không thể hiểu được tại sao tôi lại biện phân về chức linh mục và nghĩ rằng tôi đã vứt đi cuộc đời của mình.

Việc chuyển đổi từ một luật sư sang chủng sinh không phải là dễ dàng. Tôi đã bán nhà, bán xe và bỏ hầu hết tài sản của mình. Từ bỏ những điều này không phải là khó khăn. Điều khó nhất là bỏ mấy con chó của tôi. Tôi có bốn con chó và tôi phải tìm nhà cho nó. Thật là đau lòng, nhưng Chúa đã ban cho tôi ân sủng để cho nó đến những gia đình tốt. Những người chủ mới đã rất tốt, họ email và cập nhật hình ảnh cho tôi và tôi có thể đến thăm bất cứ lúc nào.

Vào năm 2006, tôi tham gia vào dòng ‘the Oblates of the Virgin Mary’ như là một dự sĩ tại chủng viện của họ ở Boston và bắt đầu học triết học. Đó là một trải nghiệm mới và đầy thách thức đối với tôi. Tôi đã là một luật sư với nhà riêng và xe của mình, tôi có thể đến và đi lúc nào tôi muốn. Bây giờ tôi phải sống với một cộng đoàn tôn giáo nhỏ và phải làm hầu hết mọi thứ cùng với năm chủng sinh khác: ăn, cầu nguyện, học tập, dọn dẹp, giải trí, vv… Thật khó! Nhưng với sự trợ giúp của Chúa, tôi đã ở được một năm. Vào cuối năm tôi đã nhận ra rằng cuộc sống tôn giáo hoặc ít nhất là dòng ‘the Oblates of the Virgin Mary’ có lẽ không phải cho tôi. Tôi trở lại Quận Cam không biết mình sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng có một điều chắc chắn – tôi không muốn là một D.A. nữa. Tôi nộp đơn từ chức, trả lại huy hiệu và I.D. Tôi thấy bình an với quyết định này.

Nhưng bây giờ làm gì? Tôi tìm kiếm lời khuyên của một người hướng dẫn tâm linh mới, một Norbertine. Ông đề nghị tôi thử Giáo phận Orange trước khi từ bỏ ý định làm linh mục và trở lại “thế giới thực tại.” Vì vậy tôi đã gia nhập Giáo phận Orange và được cử đi học thần học tại Chủng viện Thánh Patrick ở Menlo Park, California . Ngay lập tức tôi nhận thấy một sự khác biệt lớn từ cuộc sống tôn giáo ở Boston. Có nhiều chủng sinh hơn và tôi có nhiều quyền tự do hơn để lựa và chọn, làm thế nào và với ai khi dùng thời gian rảnh của mình. Càng ngày tôi càng cảm thấy tôi đã tìm được ơn gọi của mình. Vào cuối năm đầu tiên của thần học, Đức Giám Mục Orange đã cho tôi một sự lựa chọn: ở lại St. Patrick học hoặc đi đến Trường cao đẳng Bắc Mỹ ở Rome. Tôi đã chọn Rome.

Rome cũng là một thách thức vì là một quốc gia khác, với một nền văn hoá và ngôn ngữ khác biệt, xa với sự quen thuộc và thoải mái ở nhà. Nhưng đó cũng là một kinh nghiệm tuyệt vời cho phép tôi hoà đồng với nhiều chủng sinh và linh mục có năng khiếu từ khắp nơi trên nước Mỹ (và thế giới nói chung). Tôi cũng có cơ hội trải nghiệm những kỳ quan của Rome và các vùng khác nhau của Châu Âu. Điều quan trọng nhất là khi tôi tiếp tục học tập và đào tạo, nó trở nên rõ ràng và rõ ràng hơn rằng linh mục là ơn gọi của tôi.

Vào ngày 10 tháng 7 năm 2010, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi được làm thầy phó tế chuyển tiếp của Giáo phận Orange. Nhiều gia đình, bạn bè đã có mặt và tôi đã thuyết giảng Thánh lễ đầu tiên của tôi như một Thầy phó tế vào Chúa nhật Lễ Hiện Xuống. Cuối tuần đó thật đầy ân sủng! Thật khó để tin rằng bốn năm trước đó, tôi đã là một luật sư cố gắng bỏ mọi thứ và theo Chúa Kitô. Gia đình, bạn bè của tôi đã hãnh diện về tôi. Mùa hè tiếp theo, vào ngày 11 tháng 6 năm 2011, tôi được Thụ phong Linh mục. Tôi đã trở lại Rome để hoàn tất chương trình Licentiate in Sacred Theology trước khi trở về nhà trong năm 2012. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là tại nhà thờ Our Lady of Mount Carmel ở Newport Beach, và năm đầu tiên làm linh mục phó xứ là một phần thưởng và kinh nghiệm cho tôi.

Tôi không chắc chính xác kế hoạch của Chúa dành cho tôi như thế nào. Nhưng dù sao, tôi biết rằng nó tốt hơn bất cứ kế hoạch nào tôi có thể làm cho bản thân mình. Tôi đã giao phó ơn gọi của mình cho Mẹ Maria, tin tưởng vào sự chăm sóc của Mẹ và cố gắng để nên giống Mẹ. Biết rằng sẽ có những thử thách phía trước và tôi cố gắng chấp nhận làm theo ý Chúa mỗi ngày. Tôi giữ những lời sau đây của Mẹ Têrêxa gần với tôi để nhắc nhở tôi tin tưởng Chúa mọi lúc:

“Hoàn toàn đầu phục cho Chúa phải đi từ những chi tiết nhỏ đến những chi tiết lớn, chẳng có gì ngoài một từ duy nhất: ‘Vâng! Con chấp nhận những gì Chúa cho, và con cho những gì Chúa muốn.’ Và đây chính là cách đơn giản để chúng ta nên thánh. Không nên tạo ra khó khăn trong tâm trí mình. Để thánh thiện không có nghĩa là làm những điều phi thường, hiểu những điều lớn lao, nhưng đơn giản là chấp nhận, bởi vì tôi đã dâng mình cho Chúa, tôi thuộc về Người – tôi phó thác tất cả!”

Linh mục Quân hiện là Cha phó – Giáo xứ Chánh toà Chúa Kitô ở Garden Grove. Ngài cũng đang là Vị Đại diện Giám mục của Hiệp nhất Kitô giáo và Đối thoại Liên tôn thuộc Giáo phận Orange.

Anh chị Thụ & Mai gởi