LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

  

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

 

Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần.  Trong thực tế, chúng ta thường hay nói về Chúa Con, ít nói tới Chúa Cha, và rất hiếm khi nói về Chúa Thánh Thần.

 

Hôm nay, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp thuận tiện để chúng ta nói về Chúa Thánh Thần: Ngài là ai?  Hoạt động của Ngài như thế nào?  Bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta đối với Ngài?

 

1.     Chúa Thánh Thần là ai?

 

Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra.  Ngài là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con.  Ngài còn được gọi là “Đấng ban Sự Sống” (Ga 6, 63), “Đấng Bảo Trợ” (Ga 15, 26), và “Thần Chân Lý” (Ga 16,13).

 

Kinh Thánh thường dùng những hình ảnh sau đây để chỉ về Chúa Thánh Thần: Nước, Lửa, Xức dầu, Áng mây và Ánh sáng, Dấu ấn, Bàn tay, Ngón tay và Chim bồ câu.

 

Mỗi hình ảnh đều mang một ý nghĩa biểu tượng: Nước: Tượng trưng cho sự tái sinh; Lửa: Tượng trưng cho năng lực biến đổi của các hành vi Chúa Thánh Thần; Xức dầu: Đồng nghĩa với danh xưng Chúa Thánh Thần; Áng mây và Ánh sáng: Vừa mạc khải Thiên Chúa vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người; Dấu ấn: Đóng ấn ơn Chúa Thánh Thần vào người lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh; Bàn tay: Tượng trưng cho sự chữa lành; Ngón tay: Tượng trưng cho quyền năng tác động; Chim bồ câu: Tượng trưng cho bình an, hoà bình.

 

2. Hoạt động của Chúa Thánh Thần

 

Thời Cựu Ước, Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi hoạt động quan trọng như: Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ, trong các cuộc thần hiện và trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế.

 

Sang Tân Ước, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Kitô từ khi nhập thể cho đến phục sinh: Đức Trinh Nữ Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35); Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan (x. Lc 3,22); Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Lc 4,1; Mt 4,1; Mc 1,12); Quyền năng của Chúa Thánh Thần đã toả ra trong các hành vi của Chúa Giêsu để chữa lành các bệnh tật và ban ơn cứu độ (x. Lc 6,19; 8,46); Chúa Thánh Thần cũng làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (x. Rm 1,4).

 

Chúa Thánh Thần hoạt động cách mạnh mẽ nơi các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Ga 20, 22-23).  Ngày lễ Ngũ Tuần cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội.  Chính trong ngày này, các môn đệ được biến đổi, nói được các thứ tiếng lạ, can đảm loan báo Tin mừng và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô.  Trong việc xây dựng Hội Thánh và loan báo Tin Mừng, các Tông Đồ đều khẳng định rằng: “Thánh Thần và chúng tôi làm chứng” (Cv 5, 32).

 

Chúa Thánh Thần không những khai sinh nên Giáo Hội mà còn xây dựng và làm cho Giáo Hội được hình thành.  Ngài cư ngụ trong Giáo Hội và trang bị cho Giáo Hội bằng Lời Chúa.  Nhờ đó, Giáo Hội tin Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và dùng Lời Chúa để giáo huấn.  Thánh Thần còn trang bị cho Giáo hội bằng các Đặc Sủng, Ngài ban ơn cho các chi thể tuỳ theo ý muốn của Ngài.  Thánh Syrilô nói: “Thánh Thần dùng miệng người này để giảng sự khôn ngoan, lấy lời ngôn sứ mà soi trí lòng người kia, ban cho kẻ này quyền xua trừ ma quỷ, cho kẻ kia ơn giải thích Thánh Kinh, thêm sức cho kẻ này sống tiết độ, dạy cho kẻ kia biết thương người, cho người này biết ăn chay và tập sống đời khổ hạnh, cho người kia biết khinh chê những thú vui thể xác, cho kẻ khác nữa ơn chuẩn bị tử đạo.  Người không bao giờ khác với chính mình như có lời chép: Thánh Thần tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì ích chung.”

 

Nơi các Kitô hữu, Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh, Thánh Hoá và làm cho họ được Vinh Hiển.

 

Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh: Vì Ađam, con người trở thành nô lệ tội lỗi, trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, bất tuân Thiên Chúa dẫn đến sự hư mất đời đời.  Tự con người không thể thay đổi được tình trạng đó.  Thánh Thần Thiên Chúa đã can thiệp để thay đổi con người.  Trước hết, bằng việc tái sinh qua Bí tích Rửa tội (x. Ga 3, 5-6).  Sau đó, bằng việc tái sinh qua bí tích Giao Hoà.  Nghĩa là, Chúa Thánh Thần soi sáng để người Kitô hữu nhận ra mình là kẻ có tội, cần được thanh tẩy để hưởng ơn cứu độ.  Chúa Thánh Thần còn giúp các Kitô hữu biết hoán cải để lãnh nhận Bí tích Giao Hòa.

 

Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thánh Hoá: Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng con người cũ, giết chết việc làm của xác thịt (Rm 8,13) để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Ngài.  Thánh Phaolô kê khai các việc của xác thịt như: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (x. Gl 5, 19-21).  Chúng ta không thể chiến thắng được, nếu không nhờ Thần Khí.  Khi chúng ta nhờ Thần Khí mà chiến thắng các việc của xác thịt trên, thì chúng ta sẽ thu lượm được những hoa quả dồi dào của Thần Khí, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (x. Gl 5,11-23).  Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta biết sự thật, dạy chúng ta biết cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô.

 

Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Kitô được phục sinh vinh hiển, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang.  Con người và thân xác của chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh hiển, thông phần sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).

 

3. Bổn phận của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần

 

Người Kitô hữu chúng ta cần xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, có bốn tội phạm đến Chúa Thánh Thần:

 

Thứ nhất, lộng ngôn chống lại Thánh Thần (Mt 12, 31-32).  Đó là tội “Cứng tin”, không chấp nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

 

Thứ hai, dập tắt Thần Khí (1Tx 5,19-22) thường được giải thích theo nghĩa “không biết tôn trọng các đặc sủng” mà Thánh Thần ban cho để xây dựng Hội Thánh.

 

Thứ ba, đối đầu với Thần Khí.  Đó là chiều theo xác thịt, để các khuynh hướng xấu đưa tới hành vi xấu, nghĩa là phạm tội thực sự.  Mỗi lần để cho xác thịt làm động lực chi phối hay làm chủ cuộc sống là một lần đối đầu với Thánh Thần.

 

Thứ tư, làm phiền lòng Thánh Thần.  Khi mọi hành vi và các cư xử không phù hợp với cương vị của người Kitô hữu đều làm mất lòng Thiên Chúa làm phiền lòng Thánh Thần (Ep 4,30).

 

Tóm lại, Thánh Thần là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho những kẻ tin vào Đức Kitô.  Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đặc biệt là khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.  Vì vậy, chúng ta không những cần phải xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, mà còn cần phải tin kính, thờ phượng, năng cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết sống theo lương tâm ngay thẳng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người (x. 1Cr 6,19).

 

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin tiếp tục đồng hành với chúng con trong bổn phận xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin Mừng.  Xin giúp chúng con biết xa tránh tội lỗi tôn trọng thân xác là đền thờ của Người.  Amen!

 

Lm. Anthony Trung Thành

 

———————

Tài liệu tham khảo:

1. Khái Quát về Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc

2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 683-747

From: Langthangchieutim

Lễ Đức Mẹ Đi Thăm Viếng

31 Tháng Năm Lễ Đức Mẹ Đi Thăm Viếng

31 Tháng Năm

Lễ Đức Mẹ Đi Thăm Viếng

    Đây là một ngày lễ được thiết lập trễ, trong khoảng thế kỷ 13 hay 14. Ngày lễ này được thiết lập trong toàn Giáo Hội để cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Chỉ mới đây, ngày cử hành lễ được ấn định theo sau Lễ Truyền Tin vào tháng Ba và trước lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào tháng Sáu.

    Cũng như mọi lễ khác về Ðức Maria, lễ này có liên hệ chặt chẽ với Ðức Giêsu và công trình cứu chuộc của Người. Các nhân vật chính trong cuộc thăm viếng (xem Luca 1:39-45) là Ðức Maria và bà Êlidabét. Tuy nhiên, tiềm ẩn ở đằng sau là Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Ðức Giêsu đã làm Gioan Tẩy Giả nhẩy lên vì vui mừng — niềm vui cứu độ của Ðấng Thiên Sai. Ngược lại, bà Êlidabét được tràn đầy Chúa Thánh Thần và cất lời ca tụng Ðức Maria — mà những lời này còn vang vọng qua các thế hệ.

    Cần biết rằng chúng ta không có tài liệu tường thuật chi tiết về cuộc gặp gỡ này. Ðúng hơn, Thánh Luca, lên tiếng thay cho Giáo Hội, đã dùng một bài thơ có tính cách cầu nguyện để diễn tả lại biến cố này. Lời bà Êlidabét ca tụng Ðức Maria là “mẹ của Chúa tôi” có thể coi như sự sùng kính của Giáo Hội thời tiên khởi đối với Ðức Maria. Như tất cả sự sùng kính Ðức Maria đích thực, những lời đầu tiên của bà Êlidabét (cũng như của Giáo Hội) là ca tụng Thiên Chúa vì những gì Người đã thể hiện nơi Ðức Maria. Kế đến, bà mới ca tụng Ðức Maria vì đã tín thác vào công trình của Thiên Chúa. Sau đó là kinh Ngợi Khen. Ở đây, chính Ðức Maria (cũng như Giáo Hội) đã nhận biết sự cao trọng của mình là do Thiên Chúa.

    Lời Bàn

    Trong Kinh Cầu Ðức Bà, có lời xưng tụng Ðức Maria là “Hòm Bia Giao Ước.” Như Hòm Bia Giao Ước thời xa xưa, Ðức Maria đã giúp Thiên Chúa hiện diện trong đời sống của mọi người. Như Ðavít nhẩy múa trước Hòm Bia thì Gioan Tẩy Giả cũng nhẩy lên vì vui mừng. Như Hòm Bia giúp kết hợp 12 dòng họ Israel vì được đặt trong thủ phủ của Ðavít thì Ðức Maria cũng có sức mạnh kết hợp mọi Kitô Hữu trong Con của ngài. Hiện nay, việc sùng kính Ðức Maria đã có những chia cách, nhưng hy vọng rằng việc sùng kính đích thực sẽ dẫn đưa mọi người đến Ðức Kitô và từ đó đến với nhau.

    Lời Trích

    “Ðược thúc giục bởi lòng bác ái nên Ðức Maria đã đến nhà người bà con… Trong khi mọi lời của bà Êlidabét đều đầy ý nghĩa, lời sau cùng của bà dường như quan trọng hơn cả: ‘Phúc cho ai tin rằng lời Chúa nói với họ sẽ được thể hiện’ (Luca 1:45). Những lời này có thể liên hệ đến danh xưng ‘đầy ơn phúc’ mà thiên sứ đã chúc tụng. Cả hai đoạn này tiết lộ một nội dung căn bản về Thánh Mẫu Học, có thể nói là chân lý về Ðức Maria, là người đã trở nên thực sự hiện diện trong mầu nhiệm của Ðức Kitô chỉ vì ngài ‘đã tin.’ Ơn sủng đầy tràn mà thiên sứ loan báo có nghĩa là chính Thiên Chúa. Ðức tin của Ðức Maria, được bà Êlidabét xưng tụng trong cuộc thăm viếng, cho thấy Ðức Trinh Nữ Nagiarét đã đáp ứng thế nào với ơn sủng này” (Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Mẹ Ðấng Cứu Chuộc,” 12).

    Trích từ NguoiTinHuu.com

 ……………………………………………………….

31 Tháng Năm

    Lòng Tốt Của Mẹ
Dạy Con Muốn Tiếp Tục Sống

    George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

    Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

    Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: “Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”.

    Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: “Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống”.

    Hôm đó, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Ysave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

    Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Ysave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.

    Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

    Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

    Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Ysave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.

    Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ. Ðó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & NguyenNThu

“Khi em chết, cõi đời này phải hết,”

Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên năm C 02/6/2019

Lc 24: 46-53

Khi ấy Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói:

“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.” 

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

“Khi em chết, cõi đời này phải hết,”

 “Không chỉ tôi, hoa cỏ cũng lên trời.”

(dẫn từ thơ Du Tử Lê)

Đúng là thế. Em có chết cõi đời này, rày cũng hết. Hết một thời. Hết một đời người. Thế nhưng em và tôi, ta sẽ cùng Chúa bay về cõi “trời cao” có Chúa có Cha, có Thần Khí Chúa ngự trị, như thánh Luca mô tả, ở trình thuật.

Trình thuật thánh Luca, nay cho thấy: Chúa từ biệt mọi người để rồi Ngài cất bước ra về chốn thiên cung, ngàn năm hân hoan phấn khởi, rồi Ngài sẽ gửi Thần Khí đến với mọi người. (Lc 24: 53). Và, sự việc Chúa thăng hoa về chốn thiên cung/thiên đường theo dạng thức đặc biệt, đã trở thành vấn đề với một số người.

Vấn đề là, Kinh sách Do-thái nói rất ít việc Chúa “thăng hoa” về cõi ấy, đến độ gây kinh ngạc. Trình thuật Ênốch và Êlya tuy cũng đề cập đến sự việc này nhưng không được đón nhận vì các thánh không trở về với ta, mà về chốn miền Chúa ngự trị, từ đó đem sứ điệp kiểu Môsê từ Si-nai bước xuống. Tóm lại, các tiên tri Cựu ước tuy có thị kiến thấy Chúa nhưng không “thăng hoa” về cõi “trời cao” có Chúa. Và chốn ấy, chẳng là thiên cung/thiên đường hiểu theo nghĩa thông thường, rất địa lý.

Sách Công Vụ lại mô tả vầng mây xám/trắng bao trùm Chúa và cất nhắc Ngài khỏi tầm nhìn của mọi người. Thế nên, thật không chắc tác giả Kinh Sách có diễn tả điều này theo nghĩa đen của từ vựng, hay không? Hoặc ngược lại, chỉ mang ý nghĩa biểu tượng/đặc trưng, thôi. Thế nên, người thời nay vẫn tự hỏi: Thiên đường là sao? Có nghĩa gì? Ở đâu thế? Làm thế nào đến được chốn ấy?

Ngày nay, nhiều người những muốn ra khỏi “thung lũng sầu” đầy khóc than, hầu đạt chốn linh thiêng mang tên “thiên quốc” mà gần gũi Chúa, không còn bị thế giới gian trần phiền hà, quấy nhiễu. Có người lại cứ đặt tên “thiên đường” cho chốn linh thiêng/thần thánh ở nơi đó không còn rắc rối với chuyện âu sầu, khổ não ở trần thế. Cũng có vị những muốn hỏi: Chúa về Trời, Ngài có bỏ lại đằng sau mọi âu sầu rối rắm, để dân gian phải gánh chịu?

Nhiều đấng bậc mô phạm/đạo mạo lại suy nghĩ: bằng vào việc vinh thăng chốn miền thiên quốc, Chúa đã ôm trọn loài người vào với cuộc sống của Ngài. Loài người chúng ta, đầy rẫy những tang thương/bệnh tật thật tù túng trong cõi ngục, lại được Chúa ôm ấp chữa trị đem vào chốn vinh quang. Và, Ngài đón nhận mọi người vào cung lòng tình thương của Ngài, ở cõi ấy, Ngài có khả năng giúp Chúa Cha nghe tiếng khẩn thiết/van nài của người phàm, phải chăng đó là sự việc cốt để Ngài thăng hoa hãnh tiến mọi sự lên với Chúa?

Thăng Thiên không kể nhiều về Đức Chúa ngang qua các sự kiện diễn tiến từ ngày Chúa Phục sinh/trỗi dậy, nhưng lại kể nhiều về chính chúng ta. Kể rằng: nếu Chúa đi vào với vũ trụ của Ngài, thì rồi ra, ta cũng sẽ đi vào chốn ấy, với Ngài. Được như thế, tức: được cất nhắc với Ngài đi vào vũ trụ thánh thiêng, mang theo mình tất cả mọi khó khăn cũng như giới hạn của chính mình. Vào chốn thánh thiêng ấy, ta được Chúa đón chào như người thuộc cõi ấy. Một khi Ngài đã hoàn tất sự việc giúp Cha hiện diện giữa mọi người, Chúa cũng giúp ta sống chân thực như người của Chúa trong thế giới của Ngài. Và cũng thế, ta sẽ lấp đầy mọi sự ở trong Chúa, trong Cha trong Thần Khí Ngài nữa.       

Thăng Thiên, là cốt để Chúa rời bỏ nơi đây/chốn này mà đi vào “cõi trời cao nơi ấy” để ta khởi sự thực hiện sứ vụ Ngài giao phó. Bởi, nếu Ngài cứ quanh quất bên ta, hẳn là ta lại sẽ tìm mọi cách bỏ cả cuộc đời mình ra chỉ để thờ phượng Ngài trong nguyện cầu, thay vì nghe lời Ngài dạy mà ra đi thực hiện sứ vụ rao truyền Tin Vui An Bình cho mọi người. Thăng Thiên, là “bật đèn xanh” để biến sứ vụ giảng rao Tin Vui An Bình thành hiện thực, theo nghĩa rất thật. 

Thăng Thiên thời Chúa sống, cũng na ná giống truyện hoàng đế La Mã, vẫn làm thế. Nhưng, nghiêm chỉnh hơn nên nói: Thăng Thiên phải được hiểu theo nghĩa Phục Sinh, tức: Chúa trổi dậy từ mộ phần trống vắng, để rồi Ngài đi vào chốn thiên cung đích điểm nơi Ngài hoàn thành công cuộc cứu độ, sau khi đã rời bỏ điểm xuất phát ở trần thế. Thăng Thiên, còn có đối tác là sự việc chôn cất Chúa; tức: Ngài xuống tận cùng vào chốn hư vô/trống rỗng nay đà trỗi dậy để đi vào nơi đầy ắp những huyền nhiệm của tình thương, theo tầm nhìn cũng rất khác.   

Thăng Thiên, là việc bổ sung cho Phục Sinh quang vinh. Bổ sung/thay thế những gì tiêu cực bằng sự thể tích cực. Bởi, từ ngày Chúa Phục sinh/trỗi dậy, cuộc sống con người đã trở nên tốt đẹp hơn trước rất nhiều. Những gì tiêu cực nay đà ra đi, biến dạng. Biến mất dạng, sau khi đã khiến cuộc đời mình trở thành hư vô/trống rỗng, để rồi khám phá ra rằng: làm như thế, tức là ta đặt mình trong vòng tay ôm của Thiên Chúa, và được Ngài cất nhắc về với “cõi trên” có Chúa có Cha, có cả những sự kiện mình chưa từng cảm nghiệm. Phải chăng đó mới là thiên cung/thiên đường không nơi chốn đích thực? 

Thăng Thiên-Phục Sinh, không thay thế việc đi xuống theo nghĩa tiêu cực, thẳm sâu; nhưng là khía cạnh huyền nhiệm về những gì xảy đến để mọi người trở thành hư vô/trống rỗng rất cần thiết? Có thể nói, cuộc sống đích thật không là sự việc “đi lên” hoặc thăng hoa diễn tiến sau khi đã lấp đầy hoặc thay thế nhiều chuyện “xuống thấp”. Có thể nói, một khi đã xuống thật thấp ta lại khám phá ra rằng: lên cao/xuống thấp, lúc trầm/lúc bổng, chính là tên gọi của thực tại.

Buổi Tạ Từ ngày Thứ Năm Thánh, Đức Giêsu đã đi vào tình trạng ý thức có Chúa ở cùng và ở với Ngài. Thứ Sáu Chịu Nạn, Ngài lại đã chết trong sự “tỉnh táo đầy ý thức” của Thiên Chúa. Vào đêm Vọng Phục Sinh, Đức Chúa lại đã đi vào vũ trụ trần gian nơi đó không có ai và cũng chẳng có thần thánh nào hoặc thứ gì xuất hiện ngoài Đức Chúa. Chính đó mới là thiên đường, đúng thật thiên quốc.

Ta đạt chốn thiên đường/thiên quốc không bằng sự việc bay bổng lên “chốn cao sang” sau khi đã trúng giải “độc đắc” nào đó, hoặc vào lúc mình chán ngấy sống ở “cõi dưới”. Ta đạt được chốn ấy, chỉ vì đã xuống thật thấp vào cõi hư vô/trống trải và vì thế mới được nâng nhấc vào “chốn” ấy để có được cuộc sống hư không/ trống rỗng chẳng còn gì, mãi thiên thu. Như thế thì, đạt chốn thiên đường/thiên quốc phải chăng ta có nhiều cuộc “đi lên” hơn “xuống thấp”? Không hẳn thế. Sống ở tình huống rất “thiên đường” như thế, ta sẽ chẳng còn “lên xuống” chốn nào nữa. Chắc chắn sẽ không đi xuống, cũng chẳng thăng lên nơi nào khác, nữa.    

Đúng ra, ta nên hiểu: nhiều phần chắc chắn là: khi ta vượt quá lý luận về thiên đường/thiên quốc, và khi ta không còn ngôn từ nào dùng cho đúng cách, là ta đã gần đến với những gì mà ta gọi là Thần Khí. Thần Khí Chúa giải phóng ta khỏi tình trạng bám víu, níu kéo bất cứ ai, sự vật gì, dù đó có là thần linh thánh ái nào đi nữa. Và ở chốn thiên đường/thiên quốc, ta được tự do sống ở bất cứ nơi đâu, hết mọi chỗ. Và đó chính là sự việc Thần Khí đã khiến Chúa Thăng Thiên. Bởi, Thăng Thiên là Chúa hiện diện trong Thần Khí. Và, Ngài là Đấng ở khắp mọi nơi, nơi nào có sự hiện diện của Thần Khí. Điều tuyệt diệu, là: ta nhận được quà tặng Thần Khi rất như thế, vào lễ Ngũ Tuần. Và, Thăng Thiên lại dẫn đưa ta vào với lễ hội của Thần Khí, rất Ngũ Tuần.

Thần học cổ kính rất kinh điển nhìn sự việc Chúa chết đi và sống lại theo mẫu mã của việc đi ra ngoài rồi trở về lại. Đi ra ngoài, là ra khỏi chốn thiên đường/thiên quốc hoặc bất cứ nơi nào đó có Chúa có Cha, để rồi Ngài đến với ta, qua nhập thể. Và bằng vào việc này, Ngài lại đã chăm sóc ta bằng sự sống, nỗi chết và sự sống lại. Và sau đó, Ngài sẽ trở về chốn cũ của Ngài, tức thiên đường/thiên quốc của Thiên Chúa. Người xưa gọi đó là tiến trình “xuất dương trở về lại”, rất kinh điển.

Dù đó có là mẫu mã tuyệt vời giúp ta hiểu rõ nhiệm tích của lễ Thăng Thiên, thì ngày nay, ta lại tư duy/suy nghĩ việc Chúa chỉ dẫn phương hướng mình ra phía ngoài và phía trước theo kiểu xoắn ốc. Ngài hướng về khắp chốn, vào bất cứ mọi lúc theo cung cách rất riêng của Ngài, hay sao đó. Từ đó, ta có được cảm nghiệm, rằng: khi chùm mây bao phủ Ngài, thì Ngài không di chuyển theo đường thẳng tắp, để ta nối gót, nhưng Ngài vẫn để ta chọn lựa, khi thời “thăng hoa diễn tiến” về với Ngài kịp đến, thì kiểu cách ta chọn lựa có thể là kiểu “xoắn ốc” bao gộp Ngài cùng tất cả mọi người mà vui hưởng một thăng thiên về chốn thiên đường/thiên quốc, rất tuyệt vời.

Trong cảm nghiệm tình huống kịp đến như thế, ta lại hân hoan ngâm lên lời thơ vui mà rằng:

“Khi em chết, đời này phải hết.

Không chỉ tôi, hoa cỏ cũng lên trời.”

(Du Tử Lê – Hiến Chương Yêu)

Đời này phải hết, không chỉ là cõi chết. Mà, là cảm nghiệm của anh, của tôi của hoa cỏ vạn vật sẽ lên trời hân hoan vui hưởng “Hiến Chương Yêu” tuyệt vời, Chúa gửi đến. Cho muôn người.     

Lm Kevin O’Shea, CSsR

   Mai Tá lược dịch

BẢN NGỢI CA GIÁO HỘI

BẢN NGỢI CA GIÁO HỘI 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Carlo Carretto là tu sĩ người Ý, ngài qua đời năm 1988.  Ngài đã sống khổ tu trong Sa mạc Sahara nhiều năm, dịch Kinh thánh qua tiếng Tuareg, và từ sự cô tịch trong sa mạc, ngài đã viết nên những quyển linh đạo tuyệt vời.  Những tác phẩm và đức tin của ngài thật đặc biệt khi có thể kết hợp lòng sốt sắng trẻ thơ với tinh thần bài trừ ảnh tượng thánh sắc bén (khi cần thiết).  Ngài yêu mến giáo hội sâu sắc, nhưng không mù quáng trước những lỗi lầm và thất bại của Giáo hội, và ngài không ngại chỉ ra những khiếm khuyết đó

Về sau, khi vấn đề sức khỏe buộc ngài phải rời sa mạc để về nghỉ hưu tại một nhà dòng ở quê hương Ý quốc.  Khi ở đó, ngài đã đọc một quyển sách của một nhà vô thần đã công kích lời của Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi, “Cứ tìm rồi sẽ thấy”, một câu dĩ nhiên có nghĩa là nếu tìm kiếm Thiên Chúa với tâm hồn chân thành thì sẽ tìm thấy Ngài.  Nhà vô thần này đã đặt tên quyển sách là “Tôi tìm và chẳng thấy,” lập luận rằng theo kinh nghiệm của ông, một tâm hồn chân thành có thể tìm kiếm Thiên Chúa mà chẳng được gì.

Carretto đã viết một quyển sách để đáp lại luận điệu này, “Tôi tìm và đã thấy.”  Với ngài, lời của Chúa Giêsu là thật.  Trong cuộc tìm kiếm của mình, bất chấp có nhiều chuyện mình gặp có thể gợi lên sự vắng mặt của Thiên Chúa, ngài vẫn tìm thấy Thiên Chúa.  Nhưng ngài thừa nhận có những khó khăn, và một trong những khó khăn đó chính là Giáo hội.  Giáo hội có thể, và đôi khi đã, qua tội lỗi của mình, khiến nhiều người khó tin vào Thiên Chúa.  Carretto thành thật thừa nhận theo cách hạn chế điều này, nhưng lập luận rằng đấy không phải là toàn cục.

Do đó trong quyển sách của ngài vừa có tình yêu sâu đậm đối với đức tin và Giáo hội của mình, vừa không ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi phạm của các Kitô hữu và Giáo hội.  Có lúc quyển sách của ngài như một Bản ngợi ca Giáo hội.  Tôi đọc thấy thế trong những dòng này:

Tôi phải phê phán người, Giáo hội của tôi quá chừng nhưng tôi yêu người quá chừng!

Người đã làm tôi khổ nhiều nhưng tôi nợ người nhiều.

Tôi muốn thấy người bị phá hủy nhưng tôi cần người hiện diện.

Người đã gây ra nhiều tai tiếng nhưng chỉ mình người giúp tôi hiểu ra sự thánh thiện.

Trong đời này tôi chưa bao giờ thấy điều gì ngu dân, thỏa hiệp, sai phạm đến thế, và cũng trong đời này tôi chưa bao giờ chạm đến điều gì tinh tuyền, quảng đại, và đẹp đẽ đến thế.

Nhiều lần tôi thấy như mình đã đóng sầm cánh cửa lòng trước mặt người, nhưng biết bao lần tôi cầu nguyện xin cho mình chết trong cánh tay người!

Không, tôi không thể thoát khỏi người, vì tôi kết hợp với người, dù không hoàn toàn như người.

Mà tôi biết đi đâu?  Đi xây một giáo hội khác?

Nhưng tôi không thể xây một Giáo hội khác không có những khuyết điểm như thế, vì chúng là những khiếm khuyết tôi mang trong mình.

Và nếu tôi xây Giáo hội khác, thì đó là Giáo hội của tôi, chứ chẳng phải của Chúa Kitô.

Không, tôi đủ tuổi để biết mình chẳng hơn gì người khác.

Tôi sẽ không rời bỏ Giáo hội được đặt nền móng trên đá này, bởi nếu thế tôi sẽ dựng một

Giáo hội đặt nền móng trên thứ đá dễ vỡ hơn, là bản thân tôi.

Mà đá có là gì đâu?

Cái hệ trọng là lời hứa của Chúa Kitô, cái hệ trọng là chất kết dính các tảng đá nên một, là Chúa Thánh Thần.  Chỉ mình Thánh Thần có thể xây dựng Giáo hội với những hòn đá xấu xí bất toàn như chúng ta đây.

Đây là sự biểu lộ của một đức tin trưởng thành, một đức tin không quá lãng mạn và lý tưởng hóa cần được che chắn khỏi những thứ tăm tối trong đời, đây là một đức tin đủ thật để không yếm thế, bịt mắt chẳng nhận ra sự thiện rõ ràng cũng đang chảy trong Giáo hội.  Thật vậy, Giáo hội vừa cực kỳ thỏa hiệp vừa đầy ân sủng đến tuyệt vời.  Những đôi mắt ngay thẳng có thể thấy ra cả hai.  Một tâm hồn chín chắn có thể chấp nhận cả hai.  Trẻ con và tân tòng cần được che chắn đừng bị dấn sâu vào mặt tăm tối của mọi chuyện, những người trưởng thành hay chướng tai gai mắt cần phải mở to mắt ra trước sự thiện rõ ràng đang hiện diện.

Nhiều người đã bỏ Giáo hội vì nó làm cho họ bị chướng tai gai mắt với những tội lỗi đã thành thối, những điểm mù quáng, sự thủ thế, bản chất tự quy, và cả sự kiêu ngạo.  Những vụ xâm hại tình dục của các linh mục mới được phơi bày, và việc che đậy do tay giới chức trong Giáo hội, đã khiến rất nhiều người băn khoăn không biết liệu có bao giờ họ còn có thể tin tưởng vào cơ cấu, hàng giáo phẩm của Giáo hội nữa không.  Với nhiều người, vụ tai tiếng này có vẻ quá chấn động không thể chịu nổi. 

Tôi tin bản ngợi ca của Carlo Carretto, có thể giúp chúng ta, dù chúng ta là người ngoan đạo hay đang khó chịu.  Với người ngoan đạo, nó sẽ cho họ thấy người ta có thể chấp nhận Giáo hội bất chấp tội lỗi của nó và thấy ra rằng việc chối tội lỗi đó không phải là hành động của tình yêu và trung thành.  Với những người chướng tai gai mắt, nó có thể là một thách thức muốn chúng ta đừng vì chuyện nhỏ bỏ chuyện lớn, đừng vì thế mà không thấy ra trong Giáo hội yếu đuối và tội lỗi, khốn khổ và tai tiếng, vẫn không bao giờ tắt ơn ban sự sống dư tràn của Thiên Chúa.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚA CHO SỐNG LẠI

NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚA CHO SỐNG LẠI

  Chúa Giêsu là người duy nhất sống lại từ cõi chết bằng chính quyền năng của Ngài.  Kinh Thánh cho chúng ta biết cũng có một số người được Thiên Chúa cho sống lại một cách mầu nhiệm.

Giáo lý Công giáo có cách giải thích ngắn gọn về việc sống lại từ cõi chết và mối quan hệ với sự sống lại của Chúa Giêsu.

Sự sống lại của Đức Kitô không là trở lại cuộc sống trần gian như những người được Chúa cho sống lại.  Các sự kiện này kỳ diệu, nhưng những người được sống lại do quyền năng Thiên Chúa thì họ trở lại với cuộc sống đời thường, rồi họ sẽ chết lại.  Sự sống lại của Đức Kitô hoàn toàn khác.  Trong thân xác sống lại, Ngài chuyển từ tình trạng chết tới một cuộc sống khác vượt ngoài thời gian và không gian.  Khi Chúa Giêsu sống lại, thân xác Ngài tràn đầy quyền năng Chúa Thánh Thần: Ngài chia sẻ sự sống Thiên Chúa trong tình trạng vinh quang, thế nên Thánh Phaolô có thể nói rằng Đức Kitô là “người trời” (GLCG 646).

Tuy nhiên, những người được sống lại báo trước rằng sự sống lại cuối cùng của mọi người vào lúc tận thế làm cho chúng ta hy vọng rằng sự chết sẽ không còn và nước mắt của chúng ta sẽ được lau sạch (x. Kh 7:17 và 21:4).  Đây là vài trường hợp về việc sống lại kỳ diệu được Kinh Thánh cho biết.

  1. CON TRAI CỦA BÀ GÓA Ở XA-RÉP-TA

Ba lần ông Êlianằm lên trên đứa trẻ và kêu cầu: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!”  Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống (1 V 17:21-22).

  1. CON TRAI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ SU-NÊM

Khi ông Êlisa tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông.  Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa.  Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó.  Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên.  Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra (2 V 4:32-35).

  1. NGƯỜI ĐÀN ÔNG TẠI MỘ ÔNG ÊLISA

Ông Êlisa qua đời và người ta đã chôn cất ông.  Hàng năm, các toán quân Mô-áp xâm nhập xứ sở.  Vậy, có lần người ta đang đem một người chết đi chôn, thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Êlisa, rồi bỏ đi.  Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Êlisa thì sống lại và đứng thẳng dậy (2 V 13:20–21).

  1. CON TRAI CỦA BÀ GÓA Ở NA-IN

Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài.  Các người khiêng dừng lại.  Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”  Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.  Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ (Lc 7:13-15).

  1. CON GÁI CỦA ÔNG GIAI-RÔ

Mọi người đều đấm ngực khóc thương nó.  Đức Giêsu nói: “Đừng khóc!  Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”  Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết.  Nhưng Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi: “Này bé, trỗi dậy đi!”  Hồn đứa bé trở lại, và nó đứng dậy ngay.  Đức Giêsu bảo người ta cho nó ăn (Lc 8:52-55).

  1. LA-DA-RÔ

Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”  Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn.  Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11:43-44).

Philip Kosloski

 Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ aleteia.org)

From: Langthangchieutim

 NHỮNG BÀI HỌC QUA THẤT BẠI

 NHỮNG BÀI HỌC QUA THẤT BẠI

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Chúng ta học được gì qua các thất bại, qua những lúc bị hạ thấp vì lỗi lầm của mình?  Thường thì đó là cách duy nhất để chúng ta phát triển.  Khi bị hạ thấp vì những bất đạt của chính mình, chúng ta học được những bài học cuộc đời mà chúng ta không hề cảm nhận được khi đầy tự tin và kiêu hãnh.  John Updike đã nói, có những bí mật mà người khỏe mạnh không biết được.  Bài học này có đầy trong Kinh thánh và thấm sâu trong mọi linh đạo của mọi tôn giáo đáng trọng.

Linh mục Raymond E. Brown, đã cho chúng ta một mô tả về sự khôn ngoan Kinh thánh này.  Suy ngẫm về việc dân Chúa chọn, dân Israel, đã có lúc họ phản bội lại đức tin của mình và hậu quả là bị hạ bệ, bị Chúa ngoảnh mặt làm ngơ, cha Brown cho thấy, về lâu dài, cái tưởng như là thảm họa này cuối cùng lại là một trải nghiệm tích cực.  “Dân Israel hiểu thêm về Chúa trong đống tro tàn của Đền thờ bị dân Babylon hủy diệt, hơn là trong thời kỳ huy hoàng của Đền thờ dưới thời Vua Salomon.”

Cha Brown nói thế nghĩa là sao?  Ngay trước khi bị Nebuchadnezzar, vua của Babylon chinh phạt, dân Israel đã trải qua một thời kỳ mà nhìn bên ngoài tưởng như là thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử của họ (về mặt chính trị, xã hội, và tôn giáo).  Israel có được đất hứa, đã chinh phục mọi kẻ thù của mình, đã có một đức vua vĩ đại trị vì, và có một đền thờ nguy nga ở Giêrusalem làm nơi thờ phượng và trung tâm quy tụ toàn dân.  Tuy nhiên, trong cái có vẻ là hùng mạnh đó, và có lẽ chính vì nó, mà Israel đã trở nên tự mãn về đức tin và lòng trung tín ngày càng lung lay.  Sự tự mãn và lung lay đó dẫn đến sự sụp đổ của nó.  Năm 587 trước Công Nguyên, nó đã bị một nước ngoại bang chinh phạt, bị cướp hết đất đai, hầu hết dân chúng bị đày đến Babylon, vua bị giết và đền thờ bị phá hủy đến tận viên đá cuối cùng.  Israel đã phải trải qua gần nửa thế kỷ lưu đày, không có đền thờ, đấu tranh để tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình.

Tuy nhiên, xét toàn cảnh, chuyện này hóa ra lại tích cực.  Nỗi đau khi bị lưu đày và những nghi hoặc trong đức tin do đền thờ bị phá hủy, cuối cùng lại được bù đắp bằng những gì dân Israel học được qua việc bị hạ nhục và khủng hoảng, cụ thể là họ biết được Thiên Chúa vẫn trung tín dù chúng ta thì không, biết được những thất bại mở mắt chúng ta nhìn ra sự tự mãn và mù quáng của mình, biết rằng những thứ bề ngoài là thành công thường là ngược lại, cũng như những thứ bề ngoài là thất bại thường cũng là ngược lại.  Như cha Richard Rohr nói, trong thất bại, chúng ta có cơ hội để “ngã lên”

Tôi tin rằng không có hình ảnh nào dễ hiểu hơn để hiểu được những gì Giáo hội đang phải chịu đựng nhục nhã vì cuộc khủng hoảng xâm hại tình dục của các giáo sĩ trong giáo quyền, và trong các giáo hội khác nữa.  Hãy nói lại thấu suốt của cha Raymond Brown như thế này: “Giáo hội có thể học biết thêm về Thiên Chúa trong đống tro tàn của khủng hoảng xâm hại tình dục của các giáo sĩ hơn là trong các thời kỳ huy hoàng với các đại thánh đường, với sự mở mang cực đại của Giáo hội, với thẩm quyền tuyệt đối của Giáo hội.”  Giáo hội cũng có thể biết thêm về chính mình, về kiểu bịt mắt làm ngơ những lầm lỗi của mình, và về nhu cầu phải thay đổi cơ cấu, và biến đổi con người trong Giáo hội.  Mong là như cuộc lưu đày Babylon với dân Israel, chuyện này đến tận cùng cũng là một điều tích cực đối với Giáo hội.

Hơn nữa, một chuyện đúng với Giáo hội (và chắc chắn với các tổ chức khác nữa) thì cũng đúng cho mỗi người chúng ta trong đời sống riêng.  Sự nhục nhã chặn đường chúng ta vì những bất đạt, tự mãn, thất bại, phản bội, không chịu nhìn ra lỗi lầm, những thứ đó đôi khi có thể là cơ hội để chúng ta “ngã lên”, để khi ở trong đống tro tàn chúng ta học biết được những điều chúng ta đã không học được khi đang trên đà thành công.

Hầu như không có ngoại lệ, những thành công lớn trong đời, những thành tựu lớn, và những vinh quang danh giá thường không đào sâu con người chúng ta.  Xin trích lại lời của James Hillman, thành công thường không đem lại chiều sâu gì cho cuộc đời chúng ta.  Ngược lại, nếu can đảm và thành thật suy ngẫm mọi điều từng đem lại chiều sâu và tạo nên tâm tính chúng ta, chúng ta phải thừa nhận, trong mọi trường hợp, nó đều là một thứ gì đó đáng hổ thẹn, một cảm giác bất đạt về thân thể, một nét không mấy tự hào thưở nhỏ, những lỗi lầm đáng xấu hổ trong đời, hay một tính cách mà chúng ta thấy phần nào hổ thẹn.  Đây là những điều cho chúng ta chiều sâu.

Sự nhục nhã tạo nên chiều sâu, nó đẩy chúng ta đi vào những phần sâu sắc hơn trong tâm hồn mình.  Tuy nhiên, không may là, không phải lúc nào nó cũng đem lại kết quả tích cực.  Nỗi đau của nhục nhã khiến chúng ta sâu sắc, nhưng có thể là sâu sắc theo hai hướng, hướng thấu hiểu và thông cảm nhưng còn là hướng chua cay thù hận cả thế giới.

Nhưng điều tích cực là: Như dân Israel trên bờ biển Babylon, khi đền thờ của chúng ta bị phá hoại hay bị hủy diệt, trong đống tro tàn của thời kỳ lưu đày, chúng ta có cơ hội để nhìn ra những điều thâm sâu hơn mà thường chúng ta nhắm mắt làm ngơ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: suyniemhangngay1 & NguyenNThu

YÊU NHƯ THẦY YÊU

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu).  Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa.  Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế.  Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò.  Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng.  Các nhà chú giải vẫn gọi đó là “diễn từ biệt ly.”  Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.  Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Điều răn mới.

Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người.  Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh.”  Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức.  Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế.  Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ?  Và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới?  Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.

Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.  Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).

Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức.  Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm.  Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương.  Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu: “Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em.”  Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.

Kinh nghiệm của Thánh Gioan.

Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ “người môn đệ được Chúa yêu mến.” Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái.  Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận.  Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận.  Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.  Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu.  Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài.  “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu.”  “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương.”  “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau…”  Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16).  Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.

Yêu như Thầy đã yêu.

Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá?  Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương.  Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo.  Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày.  Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu.”  Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ.  Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.

Kết luận

Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người.  Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu.”  Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước.  Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào?  Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc.  Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp…  Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong.”

Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn.  “Hãy yêu như Thầy đã yêu” là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.

Lm. GB. Trần Văn Hào

Yeu Nhu Thay Yeu.jpg

HIỂU SÂU HƠN VỀ ÂN SỦNG 

HIỂU SÂU HƠN VỀ ÂN SỦNG 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Biểu hiện của lòng hối lỗi đích thực không phải là cảm giác tội lỗi, mà là cảm giác buồn phiền, hối hận vì đã làm sai.  Cũng vậy, biểu hiện của sống trong ân sủng không phải là cảm giác mình xứng đáng, mà là cảm giác mình được đón nhận và yêu thương dù cho mình không xứng đáng.  Chúng ta lành mạnh về tâm linh khi cuộc sống của chúng ta có sự thú tội thật tâm và tự hào thật tâm.

Jean-Luc Marion đã nhấn mạnh điểm này trong một bình luận về quyển Tự thú của thánh Augustino.  Ông xem tự thú của thánh Augustino là một tác phẩm về lương tâm đạo đức đích thực, bởi đó vừa là một thú nhận về lòng tự hào và thú nhận về tội lỗi.  Gil Bailie cho rằng lời bình luận này nêu bật một tiêu chuẩn quan trọng để phán định xem chúng ta có đang sống trong ân sủng hay không.  “Nếu thú nhận về lòng tự hào không đi kèm với thú nhận về tội lỗi thì nó là một hành động trống rỗng và khoa trương.  Nếu thú nhận về tội lỗi không đi kèm với thú nhận về lòng tự hào, thì nó trống rỗng và cằn cỗi như thế, là một đống tạp nham, là một lời hối hận kiểu con vẹt.”

Gil nói đúng, nhưng thú nhận cả hai cùng lúc thật không phải là chuyện dễ dàng.  Chúng ta thường rơi vào một trong hai kiểu, thú nhận về lòng tự hào và không thật sự thú nhận tội lỗi của mình, hoặc là hối hận kiểu con vẹt, một kiểu ngụy biện hơn là nỗi buồn phiền thật sự vì đã lầm đường lạc lối.

Trong cả hai trường hợp, đều không có một ý thức thật sự về ân sủng.  Piet Fransen, với quyển sách về ân sủng được dùng như sách giáo khoa trong các chủng viện và trường thần học, cho rằng cả những tín hữu tự tín (những người vẫn âm thầm ghen tị với lạc thú của những kẻ vô luân, những thứ mà họ đã bỏ lỡ) cũng như những người ương ngạnh dù đã hối cải nhưng vẫn cảm thấy trân trọng những lầm lỡ của mình, cả hai loại người này vẫn chưa hiểu được ân sủng.  Chúng ta chỉ hiểu được ân sủng khi thật sự nắm bắt được những lời của người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng nói với người con cả.  “Con của cha, con luôn ở với cha, và mọi thứ cha có đều là của con.  Nhưng chúng ta phải vui mừng vì em của con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm được.”

Người anh cả sẽ không cay đắng nếu hiểu được rằng mọi thứ cha của anh có đều là của anh, và anh cũng sẽ không ghen tỵ với những lạc thú của người em hoang đàng nếu hiểu rằng người em đó đã chết đi.  Nhưng cần có nhận thức sâu sắc hơn để trực cảm được rằng so với cuộc sống trong nhà Chúa, thì mọi lạc thú đều là ngọn nến so với mặt trời.  Và cũng đúng như thế với những người đã trở lại, từ bỏ lối sống lầm lạc nhưng vẫn âm thầm vui mừng vì những trải nghiệm mà nó mang lại cho mình, và nuôi dưỡng một sự thương hại cao ngạo cho những người ít được trải nghiệm hơn.  Người này cũng không thực sự hiểu được ân sủng.

Trong quyển sách Khái niệm về Linh thánh (The Idea of the Holy), Rudolf Otto cho rằng khi đối diện với sự thánh thiện, chúng ta luôn có một phản ứng kép: thấy e ngại và được lôi cuốn.  Như thánh Phêrô trong sự kiện Chúa Biến hình, chúng ta cũng muốn xây một lều và ở lại đó mãi mãi, nhưng như thánh Phêrô trong sự kiện phép lạ bắt được nhiều cá, chúng ta cũng sẽ muốn nói:“Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi.”  Trước sự linh thánh, chúng ta vừa muốn hớn hở tự hào vừa muốn thú nhận tội lỗi của mình.

Và thấu suốt này có thể giúp chúng ta hiểu được ân sủng.  Trong quyển sách của mình về ân sủng, Đời sống Ân sủng Mới (The New Life of Grace), Piet Fransen mở đầu bằng cách mời chúng ta hình dung cảnh này: Hãy hình dung một người sống theo chủ nghĩa khoái lạc một cách vô tâm.  Ông ta hoàn toàn chìm trong những khoái lạc của thế gian mà không nghĩ gì đến Thiên Chúa, trách nhiệm hay luân lý cả.  Rồi sau một cuộc đời chìm trong những khoái lạc vô luân, ông ta hối cải thật sự trên giường hấp hối, thật tâm thú nhận tội lỗi của mình, nhận lãnh các bí tích của giáo hội, và chết lành.  Nếu phản ứng của chúng ta với câu chuyện này là: “Gã này may mắn thật!  Hắn đã chơi bời mà cuối cùng vẫn được phúc!” thì chúng ta chưa hiểu được ân sủng.  Nếu nghĩ như thế thì chúng ta chỉ là những người đạo đức trong cay đắng, đứng đó như người anh cả cần phải nói chuyện thêm với Chúa.

Và cũng như thế với những người đã hoán cải mà vẫn cảm thấy những trải nghiệm hoang đàng của mình là một niềm vui sâu sắc hơn những người chưa từng hoang đàng.  Trong trường hợp này, người đó trở về nhà cha mình không phải bởi cảm thấy một niềm vui sâu sắc hơn, nhưng là bởi nghĩ rằng việc trở về là một trách nhiệm không mong muốn, một chuyện ít thú vị và vui vẻ hơn cuộc sống tội lỗi, nhưng là một chiến lược thoát thân buộc phải làm.  Người này cũng chưa hiểu được ân sủng.

Chỉ khi chúng ta hiểu được ý của người cha nói với người anh cả trong dụ ngôn người con hoang đàng: “Mọi sự cha có đều là của con,” thì chúng ta mới có thể vừa thú nhận niềm tự hào của mình vừa thú nhận tội lỗi của mình được.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From Langthangchieutim