PHỤNG SỰ CHÚA CHO PHẢI ĐẠO LÀM TÔI

PHỤNG SỰ CHÚA CHO PHẢI ĐẠO LÀM TÔI

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”

Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình.  Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.

Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình.  Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được.  Chúa là Chủ, con người là tôi tớ.  Chúa là Hình, con người là bóng.  Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen.  Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ.  Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.

Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành.  Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ.  Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công…  Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!

Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ, và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.

Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau?  Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa 

Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền.  Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa.  Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa.  Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.

Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8).

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.

Lm. Ignatiô Trần Ngà

From: Langthangchieutim

CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL, RAPHAEL 

CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL, RAPHAEL 

 Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình.  Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần.  Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại.  Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô, từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm.

Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26).  Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13).  Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11), sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa.  Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến, một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43).  Ngài đã không tránh né cái chết bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53).

Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6).  Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27).  Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời, trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6).

Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần.  Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở, và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).

Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy “một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12).

Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại.  Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người.  Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi, nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực, vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa.

Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần.  Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại.  Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời.  Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa, vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời.

Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng.
Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành.
Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

**************************************

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ, xin giúp con quên mình hoàn toàn để ở lại trong Chúa, lặng lẽ và an bình như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.  Lạy Đấng thường hằng bất biến, mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa; nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!  Xin làm cho hồn con bình an thanh thản, xin biến hồn con thành chốn trời cao, thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa, nơi Chúa nghỉ ngơi. 
Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người, với thái độ nhạy bén trong đức tin, cung kính tôn thờ và phó mình cho Chúa sáng tạo. 

Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité

From: Langthangchieutim

HỐ NGĂN CÁCH GIẦU NGHÈO 

HỐ NGĂN CÁCH GIẦU NGHÈO 

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Chương 16 câu 26 của Tin Mừng Lu-ca khảng định: có một cái hố ngăn cách “Giữa chúng ta đây và các anh có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các anh cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta cũng không được.”  Một trong các mục tiêu của dụ ngôn “ông phú hộ sang giầu và tên La-da-rô nghèo khổ” là: cho thấy cái hố này sâu tới mức nào.  Cái hố ngăn cách giầu nghèo được đề cập tới trong câu truyện dụ ngôn này không thể được hiểu theo định hướng kinh tế xã hội, cách mạng chính trị, ý thức hệ, thậm chí theo nội dung luân lý đạo đức.  Ở đây liên tục với nội dung trước đó của chương 16, Lu-ca muốn diễn đạt ý nghĩa Tin Mừng là điều duy nhất Đức Giêsu muốn rao giảng.

Khác hẳn với luật lệ của Cựu Ước nặng tính luân lý và đạo đức, trong đó quan trọng nhất là việc trung thành giữ luật, thì theo Tin Mừng Tân Ước, mạc khải tình yêu nhân hậu tha thứ của Thiên Chúa mới là điều quan trọng nhất cần phải là được đón nhận.  Theo Cựu Ước, thiên đàng – hỏa ngục là phần thưởng – hình phạt dành cho người tốt / kẻ xấu, người trung thành giữ luật / kẻ bất trung phá luật, người đạo đức / kẻ khô khan, người thánh thiện / phường tội lỗi.  Còn theo Tân Ước, được vào Nước Trời là được hưởng trọn tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa từ nhân (“La-da-rô trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham” là một điển hình), sẽ dành cho những ai đã từng biết đón nhận khi còn sống; còn bị loại ra khỏi Vương Quốc tình yêu đó (bị cực hình, bị lửa thiêu đốt) là số phận của những ai khi sống đã từ chối đón nhận tình yêu tha thứ này.  Khi Đức Giêsu tuyên bố: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của anh em… khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6:20.25) chắc hẳn Người đang công bố nội dung Tin Mừng này.

Như vậy, cái vực thẳm lớn vĩnh viễn ngăn cách việc tiếp nhận hay khước từ Tin Mừng cứu độ chỉ có thể xuất hiện sau khi chết; “người nghèo này chết…  ông nhà giầu cũng chết”; thế nhưng, ngay từ cuộc sống trần thế, nó đã khởi sự được hình thành; “người nghèo khó… nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.”  Cái hố ngăn cách của tiếp nhận hay chối từ Tin Mừng cứu độ được hình thành và phát triển dựa vào định hướng trái chiều giữa giầu và nghèo trong nội dung Tin Mừng.  Đó là lý do khiến Đức Giêsu nhiều lần lên tiếng cảnh giác sự giầu sang đồng thời tôn vinh nghèo khó, Người hoàn toàn trung thành với viễn cảnh đón nhận Vương Quốc tình yêu cứu độ.

Trong dụ ngôn, nếu ông nhà giầu chỉ “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, thì đâu ông có làm gì nên tội để đáng bị cực hình thiêu đốt; cũng vậy, nếu La-da-rô chỉ “nghèo khó… mụn nhọt đầy mình…” thì đâu có làm nên công trạng gì để đáng được “thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham.”   Chi tiết mô tả ông nhà giầu gợi ta nhớ đến cái cảnh “được no nê” thỏa mãn đâu cần được ai thương xót; còn người nghèo khó “thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống… chó đến liếm ghẻ chốc” chính là thái độ mong đợi, cầu xin được xót thương.  Đối với Tin Mừng, giá trị đích thực của giầu nghèo là ở chỗ đó: sống giầu dễ đưa tới tự mãn để không cần tới lòng xót thương (khốn cho), còn sống nghèo tạo điều kiện tự nhiên để mở ra đón nhận lòng thương xót (phúc thay).  Nếu cứ tiếp tục “sống giầu” như thế (trường hợp ông nhà giầu), và nếu cứ tiếp tục “sống nghèo” như thế (trường hợp La-da-rô) thì việc bị loại khỏi hay được đón nhận vĩnh viễn vào Nước Trời sau khi chết sẽ chỉ là chuyện đương nhiên.  Lúc đó cái hố ngăn cách giầu nghèo sẽ không còn gì có thể lấp đầy được (vẫn theo nghĩa Tin Mừng); “vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”

Giầu – nghèo, trong học thuyết Tin Mừng của Đức Giêsu, chỉ là hoàn cảnh / điều kiện nghịch hay thuận để đón lấy Nước Trời cứu độ; do đó “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”  Đức Giêsu sống thân phận nghèo khó như “con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có lấy hòn đá gối đầu” là để Người rộng mở hoàn toàn cho Vương quốc của Cha.  Và Người kêu gọi bất cứ ai muốn theo Người cũng hãy “bán đi hết những gì mình có và bố thí cho kẻ khó…” để có điều kiện thuận lợi mở tâm hồn đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa.  Ki-tô hữu, vì là người của Tin Mừng, phải luôn cảnh giác với cuộc sống giầu sang vì mối nguy cơ nó tiềm ẩn, nhưng phải vui mừng ôm ấp sự nghèo hèn đói khát chính vì thuận lợi Tin Mừng nó cống hiến.  Nếu họ có giầu, thì chí ít họ cũng biết nhận ra “con đã nhận được phần phước của con”, tức là hồng ân của lòng từ bi Chúa, để biết khiêm tốn tạ ơn; còn nếu nghèo khổ “suốt một đời chịu toàn những bất hạnh… thì được an ủi nơi đây”, để vui mừng và hy vọng.

Đó chính là Tin Mừng đích thực đang được rao giảng cho những người nghèo khó!

Lạy Thiên Chúa là Cha!  Đức Giêsu đã dạy chúng con cầu nguyện cùng Cha.  Những điều con cầu xin Cha có thể là vô vàn và rất khác nhau vì con có quá nhiều nhu cầu cả về phần xác lẫn phần hồn, tuy nhiên con biết rất rõ: điều chính yếu trong cầu nguyện chính là tư thế khó nghèo của con.  Xin Cha nhận lời cầu nguyện của con, không phải để thỏa mãn những điều con xin, nhưng là chấp nhận thân phận đớn hèn con mong hướng về Cha.  Và xin Cha gìn giữ con luôn mãi trong sự nghèo hèn của mình để không ngừng hướng lòng con về tình nhân ái Cha.  Amen.

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

From: Langthangchieutim

NỤ HÔN NỒNG NÀN TÌNH THƯƠNG XÓT

NỤ HÔN NỒNG NÀN TÌNH THƯƠNG XÓT

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một sạp báo, tôi tình cờ nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một giọng hát trong trẻo: “Cao cao bên cửa sổ có hai người hôn nhau.”  Bài hát đã nghe dăm lần bảy lượt qua các phương tiện truyền thông, có chăng chỉ là một cảm nhận về mùa xuân hạnh phúc, thế mà chiều nay bỗng thấy nôn nao khác lạ.  Đó không phải là thứ nôn nao của kẻ độc thân bất chợt thấy mùa xuân bên cửa sổ, rồi tự nhiên tủi về phận mình như Michel Quoist đã ghi trong cuốn sách của ông; cũng chẳng phải thứ nôn nao của những kẻ trên đường phố đang hối hả về nhà dịp nghỉ cuối tuần.  Thứ nôn nao rất lạ mà cũng rất đỗi thân quen.

Đang còn vẩn vơ với cái nôn nao ấy thì cô chủ sạp đã trao cho tôi tờ báo và vui miệng cô hát theo: “Thành phố ơi hãy im lặng cho hai người hôn nhau.”

Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ.  Thì ra mình nôn nao là vì cái nụ hôn.  Không phải của “anh lính về thăm phố với cô gái vào ca ba” như bài hát kể, mà là cái nụ hôn của một người cha dành cho đứa con hoang đàng trở về của bài Phúc Âm.  Giai điệu ấy, nụ hôn ấy quyện lấy nhau và tự nhiêm ngấm vào người tôi trở thành một thứ nôn nao, để hôm nay, xin được trang trải với cộng đoàn như suy nghĩ về trang Tin Mừng.  Đó là nụ hôn của lòng thương xót.

  1. Nụ hôn ấy vượt trên lý lẽ của sự công bình.

Nếu để ý, người ta thấy nếp nghĩ của những người con trong dụ ngôn Tin Mừng là nếp nghĩ vượt trên lẽ công bình.  Làm sao người con thứ dám xin cha mình chia gia tài mà anh gọi là “thuộc về anh” trong khi cha mình sờ sờ còn sống?  Làm sao người con cả lại vùng vằng làm mày làm mặt với cha khi cả đời hầu hạ mà chẳng có lương?  Sẽ là hỗn nếu dựa trên cái tình, nhưng cũng có thể quan niệm được nếu dựa vào cái lý.  Chính nhân danh sự công bình đương nhiên nào đó mà tư cách của hai người con trong dụ ngôn đã được hình thành.

Nhất là việc người con thứ trở về.  Sau những ngày phung phá đến bước đường cùng, đến độ khánh kiệt gia tài, cạn kiệt sức khỏe, anh vẫn còn đủ tỉnh táo để hạch toán nẻo lối tìm về.  Bởi vì dựa trên công bình, anh đã đốt cháy quyền làm con nên không thể được gọi là con nữa.  Bởi vì dựa trên công bình, anh đã tự ý bỏ nhà ra đi ôm theo sản nghiệp nên muốn tìm về phải được cha chấp nhận.  Bởi vì dựa trên công bình, anh chỉ dám coi mình như “người cần việc” tìm đến “việc cần người.”  Nếu anh có gặp cảnh then cài khóa ổ xua đuổi chối từ có lẽ anh cũng phải công bình mà chấp nhận.

Lẽ công bình khó khăn là như thế nhưng nụ hôn của người cha đã hóa giải tất cả.  Nó vượt qua giới hạn của lẽ công bình để rạng rỡ là một nụ hôn của lòng thương xót.  Người cha tha thứ hết.  Không khóa trái đời sống người con thứ vào quá khứ tội lỗi, không niêm phong nhịp đời của anh vào bước đường phóng đãng, nhưng phục hồi quyền làm con như thuở ban đầu.  Người ta không biết ở đâu lẽ công bình dừng lại và ở đâu lòng thương xót khởi đầu, nhưng chỉ biết rằng, bằng nụ hôn ấy sự tha thứ đã vượt lên chiếm lĩnh tiếng nói của lẽ công bình để trở nên nụ hôn của lòng thương xót.

  1. Nụ hôn ấy vượt trên khuôn khổ của nền giáo dục.

Vẫn biết rằng khuôn khổ của tình yêu là một tình yêu không theo một khuôn khổ nào, nhất là tình ấy lại là tình cha, lại là lòng mẹ, cùng lắm chỉ dám ví von như núi cao biển rộng, tựa lai láng của dòng sông và mênh mông của đồng lúa.  Nhưng trong trọng trách giáo dục, người ta cũng phải mặc nhiên chấp nhận một thứ khuôn khổ nào đó.  Chả thế mà ca dao Việt Nam bảo: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.”  Yêu con không phải là nuông chiều theo ý của con, nhưng là biết cách cho con roi vọt giáo hóa, và ghét con đâu phải chỉ là hằn học mắng la mà nhiều khi lại là những ngọt ngào ghẻ lạnh của một tình thương vắng bóng.

Một trong những châm ngôn nổi tiếng trong bổn phận giáo dục con cái là câu: “Nếu hôm nay không muốn con khóc vì được dạy dỗ, thì coi chừng sẽ phải khóc vì con hư đốn mai ngày.”  Như trường hợp nóng hổi thời sự tại phiên tòa, khi người cha nghe con mình, một thành viên trong băng cướp “quý tử”, bị kết án chung thân đã nhỏ lệ thốt lên: “Tôi đã thiếu trách nhiệm làm cha.”  Cũng là tình phụ tử, nhưng quá muộn màng.

Tình phụ tử cũng cần theo một khuôn khổ nào đó.  Nhưng tình phụ tử trong dụ ngôn đã vượt lên tất cả.  Không có một lời trách móc, không có một lời răn đe, cũng chẳng có hình phạt để mà nhớ đời.  Chỉ có nụ hôn như một minh chứng: Với bản lĩnh của lòng thương xót, người ta vẫn có thể đi xa hơn để yêu con đích thực bằng cách cho ngọt cho ngào.

  1. Nụ hôn ấy không dừng lại nơi cá nhân mà còn lây lan đến cả cộng đoàn.

Đây chính là đỉnh cao của trang Tin Mừng.  Nó mở ra một nhãn giới mới lạ.  Nơi nụ hôn ấy là rạng rỡ lên hình ảnh của một Người Cha: chung cho người con cả và người con thứ, chung cho dân Do Thái và Dân Ngoại, chung cho cả người đã biết Chúa hay chưa biết Chúa.  Nếu “cha chung không ai khóc” theo lẽ thường tình, thì ở đây lại khác, Cha chung này không cần đến tiếng khóc của ai, nhưng lại sẵn sàng cúi xuống với bất cứ tiếng khóc sám hối nào để ban tặng nụ hôn ntha thứ nồng nàn xót thương.  Người Cha chung ấy yêu thương hết mọi người và chẳng bao giờ bỏ quên những trường hợp tội lỗi đáng thưong và bởi đáng thương nên Ngài cũng thương cho đáng với tấm lòng không vơi cạn của mình.

Qua nụ hôn đầu ngõ, Người Cha ấy biến nỗi buồn sám hối trở thành niềm vui tha thứ.  Ngài ban ơn rộng rãi cho những kẻ tìm về với Ngài, rồi nhanh chóng gửi họ về lại gia đình cộng đoàn xã hội trong một nhịp sống mới nồng nàn tình xót thương, để những kẻ được ơn tha thứ hiểu rằng, từ nụ hôn ấy, họ phải minh chứng bằng cả cuộc đời biết phát triển ơn tha thứ, và cũng biết dìu đưa những kẻ còn sa chìm về với lẽ xót thương.  Đó là niềm vui của lòng thương xót, không dừng lại nhưng triển nở sinh sôi, không khép kín cá nhân nhưng mở ra cho hết mọi người.

Tóm lại, ba lý do: vượt trên lẽ công bình, vượt trên nền giáo dục và vượt trên đời sống cá nhân khiến nụ hôn cha – con là nụ hôn của lòng thương xót.  Dẫu có kinh nghiệm về nụ hôn như phần lớn cộng đoàn hay chưa có kinh nghiệm ấy như một số bạn nhỏ, thiết tưởng nụ hôn xót thương của Tin Mừng cũng đọng lại trong ta một thứ nôn nao lạ lạ quen quen.

Khi thấy quen quen, là khi ta đồng hóa mình với người con phung phá tìm về và được tha thứ, trong lời kinh, trong Thánh Lễ, nơi tòa Giải Tội.  Tất cả đều là những nụ hôn thương xót.  Khi thấy là lạ, là khi ta chợt nhận ra vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong ta một anh con cả vùng vằng: Chúa đã đối xử với ta bằng tình thương xót còn ta chỉ đối xử với Chúa theo sự công bình, ta không đi hoang lang thang xa đạo, nhưng cách sống của ta biết đâu còn tệ hơn cả chối Chúa công khai.

Và khi thấy chen lẫn quen quen lạ lạ ấy chính là khởi đầu cho một quyết định: bởi tôi đã nhận được ơn tha thứ của Chúa, tới phiên tôi phải sống ơn tha thứ bằng cách bỏ qua lỗi lầm cho anh em; tôi đã nhận lòng xót thương của Chúa, tôi phải phát triển lòng thương xót ấy qua cách sống tốt lành của mình.  Hãy quên đi những phần đời không đáng nhớ khi anh em có lỗi với mình, và hãy nhớ lấy những phần đời không thể quên khi mình đã được Thiên Chúa tha thứ xót thương.

Làm được như thế cũng là lúc ta có thể hát lên: “Thành phố ơi, hãy im lặng cho mọi người hôn nhau.”

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

 From: Langthangchieutim

GIỜ HẤP HỐI LÀ GIÂY PHÚT ĐÁNG SỢ NHẤT

Image may contain: 6 people, indoor
Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

GIỜ HẤP HỐI LÀ GIÂY PHÚT ĐÁNG SỢ NHẤT

Tôi vừa nghe một người bạn kể về cái chết của một người quen như sau:

“Anh Joe trước đây là một người ngoan đạo rồi không hiểu vì một lý do nào mà anh trở nên khô khan và không còn giữ đạo nữa.

Rồi anh bị bịnh ung thư. Từ khi tìm ra cơn bịnh đến lúc chết chỉ khoảng 10 tháng mà thôi. Có một lần anh hấp hối và lúc đó có một nhóm cầu nguyện đang đọc kinh cầu nguyện cho anh. Bỗng dưng anh chồm dậy và hét lớn:

– “Thôi, đừng cầu nguyện nữa !”

Mọi người hoảng hốt im bặt và không ai dám cất tiếng cầu nguyện cho anh. Sau một hồi lâu, anh tỉnh lại và tỏ ra vui vẻ. Anh sống mạnh khoẻ thêm một tháng nữa, vừa đủ để anh có dịp ăn năn và thống hối về những tội lỗi của mình.

Sau đó, anh kể lại cảm nghiệm như sau:

– ‘Lúc mọi người đọc kinh cầu nguyện cho tôi thì có một bầy ma quỷ đến lôi kéo tôi. Chúng đã kéo được linh hồn tôi ra khỏi xác. Rồi một con quỷ nhẩy vào xác tôi và ra lệnh cho nhóm cầu nguyện không được cầu nguyện nữa. Trong lúc đó, linh hồn tôi quá hoảng sợ nên tôi run rẩy và liên lỷ cầu nguyện với Chúa Giêsu rằng:

“Lạy Chúa Giêsu KiTô, xin thương xót con !”

Một hồi sau thì tự nhiên ma quỷ rút lui hết và Chúa Giêsu hiện ra mỉm cười với tôi. Linh hồn tôi cảm thấy quá sức vui mừng và bình an. Cảnh tượng trở nên bình an và êm đềm. Và Chúa cho tôi được sống lại.’

Khi tỉnh dậy sau cái chết, anh Joe xin được xưng tội liên tục trong ba lần. Lúc ấy anh cứ nghĩ rằng mình quá tội lỗi nên không dám rước Chúa Giêsu Thánh Thể. Rồi anh hấp hối trở lại. Gia đình anh và nhất là người cha của anh vì quá thương con nên muốn níu kéo, cầu nguyện cho anh được chữa lành. Một hôm anh Joe năn nỉ cha anh rằng:

– “Ba ơi, xin ba cho phép con ra đi vì con quá đau đớn lúc này, mà khi con chết thì con được về với Chúa Giêsu và được hạnh phúc. Xin ba cho con được ra đi bình an !”

Ba anh thương con nên đành chấp nhận cho con được chết. Ngay sau đó, anh nhắm mắt lìa đời cách bình an. Sau khi chết, anh trở về với vợ và báo cho chị biết là anh đang ở một nơi hạnh phúc và sáng láng.”

Thế mới biết trong giờ lâm tử, người hấp hối rất cần những lời cầu nguyện chân thành của gia đình và bạn hữu. Nếu lúc đó, chính người bịnh mà bảo mọi người không được cầu nguyện thì đó là lời của ma quỷ nhập vào nói chứ không phải là lời của bịnh nhân. Vậy chúng ta cần cảnh giác để cứu giúp những người hấp hối.

ĐÂU LÀ NHÀ?

ĐÂU LÀ NHÀ?

Trong nhiều năm tôi là Bề trên Tỉnh dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm ở miền Tây Canada, tôi cố gắng giữ một chân trong thế giới giảng dạy, tôi dạy lớp tối môn dẫn nhập vào thần học Kitô giáo ở Đại học Saskatchewan mỗi tuần một lần và đã thu hút được nhiều sinh viên.

Một trong các bài đọc được chỉ định cho lớp này là quyển sách Chỉ có trái tim biết cách tìm ra: Ký ức quý giá cho giai đoạn yếu đức tin (Only the Heart Knows How to Find Them: Precious Memories for a Faithless Time) của giáo sư văn sĩ Christopher de Vinck.  Quyển sách là một loạt các bài tự truyện tập trung phần lớn về gia đình và các quan hệ với vợ con của ông.  Các bài viết mô tả tương quan giữa ông với vợ không thiếu phần lãng mạn mà còn rất khích lệ, ông đặt tình dục vào bối cảnh hôn nhân, an toàn và chung thủy.

Vào cuối học kỳ, một cô khoảng 30 tuổi đến nạp bài tiểu luận cho tôi, cô nói: “Đây là quyển sách hay nhất tôi chưa từng đọc.  Trước đây tôi không có nhiều định hướng về đạo đức vì vậy tôi không chú tâm đến tâm hồn, tôi phóng khoáng về tình dục và sống theo hiện sinh.  Tóm tắt, cơ bản tôi đã ngủ ở hai đầu bang Canada; nhưng bây giờ tôi biết tôi thực sự muốn gì, điều mà con người của tác giả có được.  Tôi đang đi tìm chiếc giường hôn nhân!”  Đôi mắt cô rưng rưng khi cô chia sẻ điều này.

Tôi đang đi tìm chiếc giường hôn nhân!  Đó là hình ảnh rất đẹp cho cái mà quả tim gọi là nhà.

Xét cho cùng, nhà là gì? Có phải đó là bản sắc dân tộc, giới tính, quyền công dân, một ngôi nhà đâu đó, nơi chúng ta sinh ra hay đó là một chỗ trong quả tim?

Đó là một chỗ trong quả tim và chiếc giường hôn nhân mô tả đúng.  Nhà là nơi mà mình cảm thấy thoải mái về mặt thể chất, tâm lý và đạo đức.  Nhà là nơi chúng ta cảm thấy an toàn.  Nhà là nơi trái tim chúng ta không cảm thấy lạc lõng, bị xâm phạm, bị ức hiếp, bị chê bai, bị coi thường, bị ở bên lề (dù đôi khi điều này xem như một chuyện hiển nhiên).  Nhà là nơi mà mình không cần phải đi mới cảm thấy là mình. N hà là nơi mình trọn vẹn là mình mà không cần phải giải thích mình như thế nào.  Bạn cứ xem như bạn đang ở nhà bạn là câu nói chào mừng ‘xin bạn cứ tự nhiên’.

Có nhiều khái niệm khác nhau về nhà, người phụ nữ trẻ này ý thức được nhiều bài học, cô làm cho chúng ta hiểu quan điểm của chúng ta về tình yêu, về tình dục quý như thế nào.  Một trong các vấn đề trong chuyện này là hình ảnh phổ biến của một hoài niệm đi tìm tâm hồn tri kỷ.  Vấn đề ở đây thường do chúng ta nghĩ tâm hồn tri kỷ theo nghĩa rất lãng mạn.  Nhưng, theo quyển sách của tác giả De Vinck, tìm tâm hồn tâm giao có liên quan đến việc đi tìm bình tâm về mặt đạo đức và an toàn tâm lý, hơn là đi tìm chiếc giường hôn nhân một vợ một chồng như trong các tiểu thuyết lãng mạn.  Còn về khả năng tình dục của chúng ta, điều ẩn sâu nhất bên trong khao khát tình ái là chúng ta mong muốn tìm được ai đó để đưa về nhà.  Mọi tình dục mà từ đó bạn mang về nhà luôn là cái gì đó không mang lại điều bạn mong muốn nhất và, càng tốt nếu nó là loại thuốc bổ tạm thời làm cho bạn vẫn đi tìm một cái gì đó càng lúc càng thực tế hơn.

Cụm từ “Tôi đi tìm chiếc giường hôn nhân” cũng hàm chứa một vài yếu tố giúp chúng ta hiểu hơn các thể loại khác nhau của tình yêu, mê đắm và các cuốn hút kéo chúng ta rơi vào.  Chung chung bản chất của phần lớn con người là lăng nhăng, có nghĩa là chúng ta có các trải nghiệm thu hút, mê đắm, yêu đương mãnh liệt đối với người khác, bất kể việc chúng ta bị thu hút ở người khác không cùng một chuyện như ở nhà.  Chúng ta có thể yêu nhiều loại người khác nhau, nhưng tình yêu nào mới là tình yêu cho hôn nhân, cho một mái nhà?  Hôn nhân và nhà được xây dựng trên một loại tình yêu đưa chúng ta về nhà, trên loại tình yêu mang lại cho chúng ta cảm nhận với người này, mình có thể mang về nhà và xây dựng một căn nhà.

Và, rõ ràng, khái niệm này không chỉ áp dụng cho một người chồng, một người vợ trong hôn nhân.  Nó là hình ảnh cho những gì xây dựng lên căn nhà – cho tất cả mọi người, lập gia đình hay độc thân đều như nhau.  Chiếc giường hôn nhân là ẩn dụ cho cái được đặt vào trọng tâm luân lý và tâm lý để có được thoải mái.

Thi sĩ T.S. Eliot đã viết: Nhà là nơi chúng ta bắt đầu.  Nó cũng là nơi chúng ta muốn kết thúc.  Khi sinh ra cha mẹ mang chúng ta về nhà.  Đó là nơi chúng ta bắt đầu và cũng là nơi chúng ta thoải mái cho đến tuổi dậy thì buộc chúng ta phải đi tìm một mái ấm khác.  Rất nhiều cạm bẫy có thể chờ đợi chúng ta trong cuộc tìm kiếm đó, nhưng nếu chúng ta lắng nghe lời khuyên sâu sắc tự bên trong tâm hồn mình, thì nỗi khao khát về nhà không kềm được này cũng giống như ‘ba vua’ theo ngôi sao đặc biệt tìm về máng cỏ và chúng ta sẽ tìm được chiếc giường hôn nhân, hay ít nhất chúng ta sẽ không tìm nó ở nơi không đúng chỗ.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

CÂY THÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI TÙ

Tự hào là con Thiên Chúa

 Bạn có biết

Về cây Thánh Giá của ĐHY Thuận đeo trên mình. Đây là lời bộc bạch của chính ngài.

CÂY THÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI TÙ

Trong cuộc đời tôi, có những lúc chính hoàn cảnh thực tế đã giúp soi sáng tôi khi nghĩ tới nhiệm vụ lớn lao làm chứng tá cho Chúa Kitô.

Trong thời gian bị biệt giam, tôi được giao cho 5 người canh gác. Họ thay phiên nhau luôn luôn có hai người ở với tôi. Các cấp chỉ huy nói với họ: “Cứ mỗi hai tuần chúng tôi sẽ thay thế các anh bằng một nhóm khác, để các anh không bị : tiêm nhiễm bởi ông Giám mục nguy hiểm này.”

Sau một thời gian, chính họ lại đổi quyết định:“Chúng tôi sẽ không thay đổi các anh nữa, bởi nếu không thì ông giám mục đó sẽ tiêm nhiễm tất cả công an của chúng ta.”

Ban đầu công an canh gác không nói chuyện với tôi. Họ chỉ trả lời có hay là không.

Thật là buồn, tôi muốn tử tế và nhã nhặn với họ mà không được. Họ tránh nói chuyện với tôi.

Đêm nọ, một tư tưởng đến với tôi: “Phanxicô, con còn giầu lắm, con còn tình yêu Chúa Kitô trong tim, hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu thương con.”

Ngày hôm sau tôi bắt đầu yêu Chúa Giêsu nơi họ hơn nữa, bằng cách cười nói trao đổi với họ vài câu thân tình. Tôi bắt đầu kể cho họ nghe về những chuyến đi ngoại quốc của tôi, cho họ biết các dân tộc tại Mỹ, tại Nhật Bản, tại Phi luật Tân…sống như thế nào, và nói với họ về kinh tế, về sự tự do, về kỹ thuật.

Tôi đã kích thích tính tò mò của họ và đưa họ tới chỗ đặt rất nhiều câu hỏi. Dần dần chúng tôi trở thành bạn với nhau. Họ muốn học tiếng ngoại quốc: tiếng Pháp, tiếng Anh…và như thế những người canh tù trở thành học trò của tôi.

Một lần khác, trong trại tù Vinh Quang, trên núi Vĩnh Phú, vào một ngày mưa, tôi phải bổ củi. Tôi hỏi người canh tù:

– Tôi có thể xin anh một điều được không?

Anh cứ nói, tôi sẽ giúp anh.

– Tôi muốn đẽo một hình Thánh giá bằng gỗ.

Anh không biết rằng ở đây cấm ngặt không được phép có bất cứ vật gì mang dấu chỉ tôn giáo hay sao?

– Tôi biết chứ, nhưng chúng ta là bạn với nhau, và tôi hứa là sẽ giữ kín.

– Sẽ rất nguy hiểm cho cả hai chúng ta.

– Anh nhắm mắt làm ngơ đi, tôi sẽ làm ngay bây giờ và hết sức cẩn thận.

Anh ta lỉnh ra xa và để tôi một mình. Tôi đã đẽo miếng gỗ hình Thánh gía và đã giấu trong một mảnh xà phòng cho tới ngày được trả tự do, rồi với một lớp kim loại mỏng bọc bên ngoài. Thánh gía đó đã trở thành Thánh giá Giám mục của tôi.

Trong một trại tù khác, tôi đã xin với một người bạn canh tù khác một sợi dây điện. Anh ta hoảng hồn nói với tôi:

– Tôi đã học ở đại học an ninh rằng, nếu một mgười xin dây điện có nghĩa là họ muốn tự tử.

Tôi giải thích cho anh ta:

– Các linh mục Công giáo không được tự tử.

– Nhưng anh làm gì với sợi dây điện đó?

– Tôi muốn làm một dây xích nhỏ để đeo Thánh Gía.

– Làm sao mà có thể làm một dây đeo với sợi dây điện được? Không thể làm được.

– Nếu anh đem cho tôi hai cái kìm nhỏ, tôi sẽ chỉ cho anh thấy.

-Nguy hiểm lắm.

Nhưng mà mình là Bạn với nhau mà.

Ba ngày sau anh ta nói với tôi: “Thật khó mà từ chối anh điều gì. Tối mai khi tới phiên tôi gác, tôi sẽ đem đến cho anh một sợi dây điện. Phải làm xong trong vòng ba giờ đồng hồ.”

Chiều hôm sau từ 7.00 giờ cho tới 11.00 giờ, cẩn thận không để cho ai trông thấy, với hai cái kìm nhỏ chúng tôi đã cắt sợi dây điện thành từng đoạn ngắn khoảng một que diêm và chúng tôi uốn cong chúng để kết lại với nhau. Và ba giờ sau, trước khi đổi phiên canh, sợi dây đeo đã thành hình.

Sợi dây và cây Thánh Giá này tôi luôn đeo mỗi ngày, không phải bởi vì chúng là kỷ niệm của thời gian ở tù, nhưng vì chúng giúp tôi thấy xác tín sâu xa lời luôn nhắn nhủ tôi:

CHỈ CÓ TÌNH YÊU CHÚA KITÔ MỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI CON TIM, CHỨ KHÔNG PHẢI KHÍ GIỚI, CÁC ĐE DỌA HAY CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG

Chính tình yêu chuẩn bị con đường cho việc loan báo Tin Mừng.

“Omnia vincit amor – TÌNH YÊU CHIẾN THẮNG MỌI SỰ.”

ANH CẢ

ANH CẢ

 Nguyễn Tầm Thường S.J

“Về gần đến nhà, khi nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì” (Lc 15:25).

Đó là phản ứng đầu tiên của người anh trong câu chuyện “đứa con hoang đàng” hay là “người cha nhân hậu” của Phúc Âm thánh Luca.

Tại sao không vội vã vào ngay?

Có thể anh ta đoán được chuyện gì đang xảy ra.  Chuyện người em đã về.

Anh ta không muốn vào nhà vì biết đâu người em đã về thật.  Anh gọi người đầy tớ ra hỏi cho chắc.  Không ngờ, người đầy tớ báo tin.  Trong lời báo tin này có ba sự kiện:

– Em cậu đã về!

– Cha cậu đã giết con bê béo!

– Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ!  (Lc. 15:27).

Nghe xong, anh “nổi giận”, không chịu vào nhà.  Thế là hết!  Ba yếu tố vừa kể trên làm anh ta đau đớn. Anh không muốn đứa em về.  Không muốn người cha thịt con bê béo.  Không muốn người cha nhìn đứa em mạnh khoẻ.  Anh chối từ bữa tiệc.  Chối từ bữa tiệc cũng là không muốn gặp mọi người hiện diện ở đó.  Nếu vào nhà, gặp đứa em, anh ta làm sao chạy ra?  Nếu vào nhà, bà con láng giềng chúc mừng em anh ta đã về, anh biết phản ứng làm sao?  Anh không vội vã vào nhà.  Anh đã tính toán khá kỹ.

Tại sao không truyền lệnh mà năn nỉ?

Có thể người đầy tớ phải vào báo cho chủ biết nên người cha mới ra gặp anh ta.  Hoàn cảnh người cha rất khó xử.  Nếu anh ta không vào, ông trả lời thế nào với đứa con thứ khi nó hỏi:

– Anh con đâu?

Nếu người con trưởng không vào, ông biết nói thế nào với bà con láng giềng về sự vắng mặt rất ý nghĩa này.  Nếu những người giúp việc nói chuyện với nhau, họ phản ứng thế nào, vì họ không ngờ chuyện lại xảy ra như thế.  Ai cũng nghĩ là một ngày vui.  Rồi câu chuyện đến tai bà con lối xóm, những người dự tiệc.  Bây giờ, đề tài trong bữa tiệc này chuyển hướng về đâu?

Ngày hôm nay, có bố mẹ cũng không sao sắp xếp được cho các con ngồi chung với nhau một tiệc vui.  Có những anh em thề không nhìn mặt nhau.  Họ nói:

– Nếu có vợ chồng chúng nó, không có con!

Vì sao người cha trong câu chuyện này không truyền lệnh mà lại năn nỉ?  Ông rơi vào tình cảnh đó.  Ông ở một hoàn cảnh rất thương tâm.

Phản ứng của người con thứ

Cho đến lúc này ta không nắm chắc tâm tư người con thứ và cuộc trở về của nó.

Nếu người con thứ biết anh nó đang nổi giận ngoài kia.  Liệu bữa tiệc có tiếp tục vui?

Chi tiết cho hay là nó về vì đói.  Luca nói rõ: Nó ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Nhưng không ai cho.

Điều cần lưu ý ở đây là chữ “dân”.  Nó đi chăn heo cho một người “dân” trong vùng.  Không phải chăn heo cho một ông chủ.  Người dân này lại đang trong nạn đói “khủng khiếp”.  Heo của nhà giàu, chắc ăn thức ăn khác của nhà nghèo.  Đã nghèo mà lại trong nạn đói khủng khiếp.  Như vậy còn gì mà ăn?  Ấy thế mà nó vẫn chưa chịu về, vẫn xin đồ ăn của “heo-nhà-nghèo-trong-nạn-đói”.  Giả sử người ta cho nó thứ đồ ăn đó, nó đâu có về.  Bằng chứng là nó chỉ về khi người ta không cho nó.  Nếu không về lấy gì ăn?

Sau cái ôm hôn, sự gặp gỡ cha có làm nó mủi lòng thật tâm trở về hay không?  Phúc Âm không nói rõ.  Dù nó thật tâm hay không thì người cha vẫn có bữa tiệc.  Chúng ta không nắm chắc được tấm lòng người con thứ sau vòng tay của cha.  Có thể nó sám hối ngày tháng cũ khi cảm thấy cha thương mình.  Cũng có thể chưa.  Cũng có thể lên mặt với người anh khi thấy anh nó hành xử như vậy.  Luca viết đoạn văn này tuyệt với với những nét “thiền niệm” quá sâu.  Luca để băn khoăn đặt ra là, nếu biết người anh nổi giận vì cuộc trở về của mình, phản ứng nó sẽ ra sao?  Và điều gì xảy ra trong bữa tiệc?

Nguyên nhân của những nguyên nhân

Dựa vào bản tường thuật, sau khi chia gia tài, đứa con thứ “ít ngày sau, thu góp tất cả, rồi trẩy đi phương xa” (Lc. 15:13).  Nó ở lại ít ngày, và thu góp “tất cả” rồi mới trẩy đi phương xa.  Như thế, khi ra đi nó không thể bỏ cái áo “đẹp nhất” ở lại.  Ngày nó về, người cha bảo các đầy tớ mau mau đem áo “đẹp nhất” ra đây mặc cho cậu.

– Áo đó ở đâu?

Khi được sai đi lấy áo, người đầy tớ không hỏi áo nào.  Người đầy tớ biết rõ “cái áo”.  Có một liên hệ hiểu ngầm nào đó giữa người cha, chiếc áo và người đầy tớ.  Họ biết rõ về câu chuyện cái áo.

– Bắt con bê đã “vỗ” béo để làm thịt.

Không phải con bê béo, nhưng là con bê đã “vỗ” béo.  Như thế ta thấy rõ cái áo từ đâu ra.  Cái áo phải là chiếc ông may sẵn.  Vì con bê đã được “vỗ” béo.  Bắt con bê mà từ trước tới nay vẫn săn sóc đặc biệt cho nó béo.  Săn sóc đặc biệt con bê cho béo để làm gì?  Bản tường thuật cho thấy rõ.  Ông thịt con bê đó trong ngày người con thứ trở về.  Như vậy, trước khi nó về, người cha may áo mới chờ đợi, săn sóc con bê cho bữa tiệc.  Tất cả những chuyện này, đầy tớ là người lo chuẩn bị.  Cho nên khi công việc xảy ra, mọi chuyện đâu vào đó.  Khổ một điều, tất cả chuyện này, người con cả cũng biết.

Người con cả thấy đầy tớ săn sóc con bê cho béo.  Anh ta thấy may sẵn áo mới chờ ngày.  Từ ngày đó, lòng anh không yên tâm.  Những ngày sống của anh là giận kín trong lòng.  Hồn anh là tháng năm rất âm u.  Nhìn con bê, nghĩ đến bữa tiệc có ngày xảy ra.  Anh sợ ngày đó.  Anh lo một ngày nào đó đữa em sẽ về.  Không ngờ, hôm nay nó về thật.

Dang dở ngàn trước cho đến ngàn sau

Người anh cả.  Câu chuyện dang dở từ đây.

“Gọi người đầy tớ ra mà hỏi”.

Bình thường khi thấy gia đình như thế, người ta phải vội vã chạy về xem có chuyện gì mà vui vậy.  Nhưng anh dè dặt, vì… nếu là tiệc cho đứa em thì sao?  Nếu chạy vào mà đúng là đứa em về thì… trời ơi!  Anh ta gọi người giúp việc ra hỏi, sự thận trọng đó là đúng.

Đời anh là những tháng ngày dang dở.  Từ khi người con thứ bỏ nhà đi thì người cha cũng mất luôn người con trưởng, vì tấm lòng nó chật chội quá.  Nó ở trong nhà, mà tấm lòng chỉ là một quán trọ tính toán giữa chợ.  Căn nhà không có trái tim bao dung, buồn làm sao.  Anh sống những ngày ảm đạm của một tấm lòng khoắc khoải.  Nếu ngày nào đó có tiếng đàn ca thì sao, buồn quá.  Anh lo cho ngày đó, anh sợ tiếng đàn vui.

Cuộc đời như vậy lặng lẽ quá nhỉ.

– Chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con.

Thì ra thế!  Thời gian những người đầy tớ “vỗ” con bê cho béo, cũng là những tháng ngày nó bị dằn vặt đau đớn.  Nó thầm mong một con dê con.  Ấy vậy mà bây giờ cha dám giết cả một con bê béo vì thằng em.  Lòng ghen tức làm nó khổ.

Trong lúc “nổi giận” không chịu vào nhà, nó nói gì?  Bản tường thuật cho thấy nỗi đau ray rứt linh hồn anh ta sâu lắm.

– Thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! (Lc. 15:30).

Anh ta lại nhắc đến con bê.  Con bê béo này là hình ảnh xót xa liên hệ đến con dê, vì một con dê con anh cũng không có.  Rồi vì con bê ấy thúc đẩy anh dùng cụm từ này: “Thằng con của cha đó”. Anh ta nói với cha mình như vậy.  Thế thì, anh ta là con ai?  Đứa nào ngoại hôn?  Cụm từ “thằng con của cha đó” là nỗi đau vô vàn đối với một người cha có con như vậy.  Làm sao một người con có thể nói với cha mình như thế.

Đời người con cả trong câu chuyện này quá dang dở.  Anh ta sống, nhưng không còn là anh ta sống nữa.  Bên cạnh cha là bổn phận ngày tháng dài lê thê.  Anh chưa hề trái lệnh.  Chính vì chưa trái lệnh nên mới càng đau.  Chưa trái lệnh mà không được một con dê con, nên cái lê thê mới dài, dài của những ngày tìm mà không gặp cái mình tìm.  Lòng ghen tức, nỗi cay nghiệt, xót xa trăn trở sống trong anh ta.  Thấy cha may áo chờ, biết đâu có ngày người con thứ về.  Từ ngày nó bỏ đi, thì lòng người con cả rối bời, chỉ sợ ngày em nó về.  Nhìn gia nhân săn sóc con bê cho béo, anh đau đớn.  Nhìn con bê, nghĩ đến cái áo, anh không một ngày vui.  Cuộc sống anh ta khổ quá.

Tại sao người cha không cho?

Ông còn gì đâu mà cho!  “Tất cả những gì của cha đều là của con!”  Như thế, có nghĩa là nó có thể giết bất cứ con dê nào nó muốn, vì tất cả là của nó!  Trời ơi!  Vậy mà nó không biết.  Tại sao nó không hiểu điều này!  Đời anh ta sao dang dở quá vậy?  Anh ta sống bên gia nghiệp lớn như thế mà cứ nghèo, ao ước một con dê con cũng không được.  Giữa những cơn nghèo ấy, giữa những tháng ngày khao khát ấy, thì cừu cứ từng bầy, chiên cứ từng đàn ngày ngày đi về trước đời anh.  Tại sao sống bên vàng bạc lại túng thiếu, bên cánh đồng mà không đủ thóc.  Tại sao suối đầy nước mà ruộng mình cứ nắng hạn.  Đời anh dang dở quá. “Tất cả của cha là của con”.  Câu này mang ý nghĩa là nó muốn giết con dê nào thì giết.  “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal. 5:18).  “Nếu gia nghiệp dành cho những kẻ lệ thuộc lề luật thì đức tin thành vô nghĩa và Lời Thiên Chúa bị huỷ bỏ” (Rom. 4:11).

Mà đời người cũng bi thương khôn cùng.  Con sống bên mình mà không biết tâm tư của mình. Cha con cứ xa nhau.

Người con thứ chỉ xúc phạm cha một câu: “Xin chia phần tài sản con được hưởng”.  Người con trưởng xúc phạm đến cha nhiều quá.

Không thấy người con thứ xúc phạm đến anh nó.  Nhưng người con trưởng xúc phạm cả em nó.  Tại sao nó đương nhiên kết luận em nó nuốt hết của cải với “bọn điếm”.

Người con thứ ra đi, cha nó thương vì có nhớ.  Hoặc vì nhớ nên thương.

Người con trưởng ở nhà, nên không thể nhớ.  Không nhớ, nhưng cha có thương không?  Điều này chắc chắn có.  Vì: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.

Cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra tình thương của cha.  Trong tình yêu, khi không nhận ra thì cũng không nhận được.

            Nếu người con trưởng không nhận ra, không nhận được tình thương của mình, thì tình thương của người cha lại trở về với ông ta mà thôi.  Cho mà không có người nhận, đó là cô đơn.

Cuộc đời người cha trong câu chuyện này cũng quá dở dang.  Một nỗi cô đơn của kẻ cho mà không có người nhận.  Của kẻ gần mà quá xa.

Cha anh ta ra năn nỉ:

– Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy (Lc. 15:32).

Lời người cha nói: “Em con đây”, vừa êm ái vừa tha thiết.  Nhưng với người con trưởng có là “em con đây” hay vẫn là “thằng con của cha đó”.

Câu chuyện thật là dang dở ở đoạn kết.  Sau khi người cha nói với anh ta như vậy, Luca chấm dứt câu chuyện.  Đọc xong rồi, người đọc băn khoăn:

– Vậy sau cùng, người con trưởng có vào nhà không?

Luca không cho người đọc biết quyết định của anh ta.

Tôi giả sử:  Nếu anh vào thì mọi chuyện quá đẹp.

Nếu anh ta không vào.  Bao nhiêu vấn nạn được đặt ra.  Liệu bữa tiệc có tiếp tục?  Tiếp tục thế nào?  Chiều đến, từ xa vẫn nghe “tiếng đàn ca nhảy múa”.  Các người dự tiệc sẽ hỏi gia chủ:

– Thưa ông, thế cậu hai đâu?

Người cha biết trả lời khách làm sao.  Nếu chiều về, người con thứ vẫn không thấy mặt anh mình trong bữa tiệc.  Người cha sẽ nói gì với nó khi ông biết rõ anh nó đang “nổi giận”, và không chịu vào nhà.

Câu chuyện thật dang dở.  Liệu bữa tiệc có dở dang không?

Tại sao Luca, khi viết chuyện này không cho đoạn kết?  Tại sao lại bỏ lửng câu chuyện ngang chừng?  Đọc xong, người đọc không biết người con cả có vào nhà hay tiếp tục ở ngoài.

Đọc xong, ta thấy một trời bơ vơ.

Tâm trạng người cha thế nào?  Nó không vào, ông trả lời khách sao đây?  Ông tìm cách nào để cắt nghĩa cho người con thứ về sự kiện anh nó nổi giận không chịu vào nhà?  Tâm trạng người con thứ nữa, nó có điên tiết, anh em đánh nhau ngay bữa tiệc?  Lối xóm phản ứng ra sao?  Câu chuyện trong bữa tiệc chuyển đề về đâu?  Tất cả rối bời.

Giả sử Luca cho người con trưởng hối hận rồi nghe cha vào nhà, câu chuyện có toàn bích hơn không?  Vì sao Luca không viết rõ?

Đọc xong, băn khoăn không biết hỏi ai.

Một trời bơ vơ.

Phải chăng vì tác giả biết có ngày người ta sẽ băn khoăn đặt câu hỏi.  Phải chăng Luca muốn cho cái dang dở ấy hết dở dang khi người ta tự thắc mắc với chính lòng mình:

– Nếu tôi là người anh cả tôi sẽ vào hay không?  Nếu tôi là người con thứ, tôi phản ứng thế nào?

Đây cũng là đường đi một mình, vì chỉ tôi biết rõ lòng tôi.  Chỉ tiêng tôi có câu trả lời cho tôi.

Luca phải để cho câu chuyện dở dang, vì dở dang này chỉ chấm dứt trong tim người đọc chứ không thể hết dở dang bằng ngòi bút.

Nguyễn Tầm Thường S.J

From: Langthangchieutim

THỤ PHONG LINH MỤC Ở TUỔI 83

THỤ PHONG LINH MỤC Ở TUỔI 83

 Tác giả:  Trầm Thiên Thu

Hai anh em song sinh cùng được thụ phong linh mục, hai chị em gái song sinh cùng đi tu, những người cha góa bụa được thụ phong linh mục với những người con cũng là linh mục… Tôi nghĩ mình chỉ biết những điều như vậy thôi, nhưng tôi ngạc nhiên khi đọc bài viết trên trang Aleteia nói về một câu chuyện khác thường: một ông góa bụa trở thành linh mục do con trai mình, một giám mục, tấn phong.

 Đây hẳn là sự kiện hy hữu trong lịch sử đã xảy ra tại Brazil hơn 50 năm trước. Một di dân người Ý là ông Vicente Melillo, 83 tuổi, thụ phong linh mục do con trai ông là giám mục Aniger Francisco Maria Melillo tấn phong, trước sự chứng kiến của 7 người con khác (trong số 11 người con), cùng với 15 người cháu và 8 người chắt.

Câu chuyện này khiến tôi rất ngạc nhiên, nhưng khi biết thêm về cuộc đời của Lm Vicente, tôi thấy rất đặc biệt. Chúng ta biết chuyện đời ngài trên một tạp chí nói về việc phong chức tại giáo phận mà con trai ngài là giám mục.

DI DÂN THÀNH ĐẠT

Khi mới 3 tháng tuổi, Vicente Melillo cùng cha mẹ di cư từ Ý tới TP Campinas thuộc miền Nam Brazil năm 1883. Vicente là một ký giả viết cho các báo địa phương, và rồi kết hôn với Regina Morato tại Campinas; họ có 11 người con, ba người chết khi còn nhỏ.

Các con của họ làm nhiều nghề: Vicente de Paulo là bác sĩ và giáo sư, Santa là thi sĩ, Regina là văn sĩ, Auta là triết gia, Pérola là sử gia và giáo sư, Irene là nhà hoạt động xã hội, Zuleika là nữ tu Dòng Đức Mẹ Thăm Viếng, Aniger là giám mục GP Piracicaba.

Không phải ngẫu nhiên mà các con làm những nghề giúp ích cho người khác như giáo dục, y khoa, xã hội, tu trì, mà họ học cách phục vụ từ cha mẹ.

ĐỜI SỐNG BÁC ÁI

Ông Vicente là sáng lập viên và chủ tịch Hội Thánh Vinh-sơn Phao-lô ở TP Campinas và TP São Paulo, nơi ông và gia đình chuyển đến từ năm 1920. Mặc dù ông bắt đầu hành nghề luật sư ở đó, ông vẫn nhớ công việc bác ái của mình. Ngoài việc điều hành Hội Thánh Vinh-sơn Phao-lô, năm 1931 ông lại thành lập một nhà cho người già, trẻ mồ côi và trẻ khuyết tật, nhà xây ngay trên khu đất ông hiến tặng.

Năm 1935, ông tiếp tục thành lập cộng đồng Buçocaba Neighborhood cho hằng trăm người già sống chung với nhau và làm công việc trồng trọt theo khả năng của họ. Sau đó, ông còn thành lập ký túc xá cho sinh viên nghèo có chỗ ở để đi học.

TIẾNG GỌI LINH MỤC

Quan tâm đời sống tâm linh và vật chất của cư dân ở Buçocaba, trong thập niên 1960, ông Vicente xin Hồng y TGM Agnelo Rossi, TGP São Paulo, bổ nhiệm một linh mục về giáo xứ để giúp họ. Đó là lúc hồng y chú ý tới ông Vicente (lúc đó đã góa vợ) và hỏi ông có muốn làm linh mục hay không. Ông trả lời: “Con đã ước như thế.”

Ông được liên kết và học hỏi về Giáo Hội, đời sống tôn giáo, đời sống tâm linh, chức linh mục, với tuổi tác thuận lợi và ĐHY Agnelo Rossi được phép của Đức Giáo Hoàng miễn cho ông việc học thần học theo luật buộc.

Năm 1966, lúc 83 tuổi, ông Vicente Melillo thấy mình quỳ trước mặt con trai và lãnh bí tích truyền chức để trở thành linh mục. He lived three more years, dâng lễ hằng ngày cho dân xứ Buçocaba cho tới khi qua đời ngày 3-10-1969, sau khi nhận lãnh bí tích cuối cùng từ người con là giám mục.

GIA ĐÌNH – VƯỜN ƯƠM THÁNH THIỆN

Thật là một câu chuyện thú vị về một cuộc đời phục vụ tha nhân. Các nguồn tài liệu không cho biết nhiều về người vợ quá cố, nhưng theo những gì chúng ta biết về Lm Vicente và các con, có thể bà là một phụ nữ đặc biệt lắm. Bà tên là Regina – nghĩa là “Nữ Vương” theo Thánh Danh Maria, Nữ Vương Thiên Đàng, bà vừa là người mẹ vừa là người vợ có chồng và con thi hành thánh chức: Con trai là ĐGM Aniger, theo tên của người mẹ, tên “Aniger” cũng có nghĩa là “Regina”.

Xin Thiên Chúa tiếp tục ban cho chúng ta có nhiều gia đình thánh thiện, nơi mà các bậc cha mẹ thông truyền đức tin cho con cái để chúng có thể trở nên những linh mục thánh thiện của Thiên Chúa.

MATTHEW GREEN

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Aleteia.org)

Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, 8-9-2019

CON NGƯỜI CHỈ TRỞ NÊN VĨ ĐẠI, KHI QUỲ GỐI CẦU NGUYỆN.

Image may contain: 1 person, tree, plant, shoes, outdoor and nature

Tôi Là Người Công Giáo

CON NGƯỜI CHỈ TRỞ NÊN VĨ ĐẠI, KHI QUỲ GỐI CẦU NGUYỆN.

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng Đức Tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris Đứng cuối Nhà Thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère.

Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi: “Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?”

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ: “Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến Đức Tin!”

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: “Anh lầm rồi, Đức Tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?”

Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?”

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

“Con ơi! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!”.

[Lm. Giuse Nguyễn Khánh Sơn]

HÌNH DUNG RA ÂN SỦNG

HÌNH DUNG RA ÂN SỦNG

Chúng ta hãy tưởng tượng điều này: một người hoàn toàn không lo gì về đời sống đạo đức và thiêng liêng trong suốt đời mình, sống tuyệt đối ích kỷ, lạc thú là điều duy nhất họ chạy theo suốt đời.  Họ sống bất chấp mọi khuôn khổ, không bao giờ cầu nguyện, không bao giờ đi nhà thờ, đời sống tình dục phóng túng và không quan tâm đến bất cứ ai ngoài mình.  Sống như thế suốt đời, cuối đời họ bị bệnh và trên giường chết, họ khóc lóc ăn năn, họ chân thành xưng tội, nhận bí tích Thánh Thể và qua đời trong ân phúc của nhà thờ và bạn bè.

Bây giờ nếu phản ứng của chúng ta là: “Tốt, người này may mắn!  Ông sống suốt đời ích kỷ và ông lên thiên đàng!”  Vậy thì theo nhà thần học Piet Fransen nổi tiếng về Ân sủng, chúng ta chưa hiểu như thế nào là ân sủng.  Trong chừng mực nào đó, chúng ta vẫn còn ghen tị với người vô đạo đức và muốn loại họ ra khỏi ân sủng của Chúa, chúng ta là “người con cả” trong câu chuyện Người con hoang đàng trở về, đứng trước căn nhà của Người cha trên trời mà lòng cay đắng ghen tương.

Tôi giảng dạy ở chủng viện, chuẩn bị cho các chủng sinh chịu chức linh mục.  Gần đây giáo sư thần học bí tích của chúng tôi chia sẻ điều này: Ông dạy môn bí tích hòa giải từ hơn bốn mươi năm nay, và chỉ vài năm gần đây các chủng sinh mới hỏi: “Khi nào chúng ta mới phải từ chối không ban phép giải tội?”

Điều gì nói lên trong câu chuyện này?  Chắc chắn các chủng sinh rất chân thành khi đặt câu hỏi; họ không tỏ ra cứng nhắc hay nghiêm khắc.  Lo lắng của họ là về ân sủng và lòng thương xót.  Họ chân thành lo để không ban lòng thương xót Chúa một cách quá dễ dãi, quá rẻ tiền, bừa bãi, thực chất là bất công.  Nỗi sợ của họ vừa không muốn để lòng thương xót Chúa bị giới hạn, vừa không muốn duy chỉ có lòng thương xót.  Không phải như vậy.  Quan tâm của họ nhiều hơn, nếu dễ dãi quá thì sẽ bất công với các tín hữu trung thành chịu đựng thử thách hàng ngày.  Lo sợ của họ là liêm khiết, công bằng và công trạng.

Cái gì là thách thức ở đây?  Ân sủng này không phải là cái gì do công sức chúng ta.  Sau khi người thanh niên trẻ từ chối lời mời gọi bỏ hết mà theo Chúa Giêsu, thì Thánh Phêrô, người có mặt trong buổi gặp này, ngược với chàng trai trẻ giàu có, ông bỏ hết theo Chúa và hỏi Chúa những người bỏ hết theo Ngài sẽ nhận được gì.  Để trả lời, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người chủ hào phóng với các người xin vào làm vườn nho bất kể giờ nào.  Người làm nhiều giờ, người làm ít giờ đều nhận số lương bằng nhau, làm cho những người làm suốt ngày nóng nực cay đắng cảm thấy mình bị đối xử bất công.  Nhưng người chủ vườn nho (là Chúa) cho họ thấy không có bất công ở đây, mọi người đều đã được nhận phần mình quá hào phóng.

Đâu là bài học sâu sắc ở đây?  Mỗi lần chúng ta phản đối, thật bất công khi những người không trung thành cũng nhận được lòng thương xót và ân sủng của Chúa, thì chúng ta xa với sự hiểu biết về ân sủng và về đời sống nội tâm.

Cô nhân viên vệ sinh răng miệng biết tôi là linh mục công giáo, cô hay đặt nhiều câu hỏi về tôn giáo và giáo hội.  Một ngày nọ cô kể câu chuyện sau: cha mẹ cô không bao giờ đi nhà thờ.  Họ có cảm tình với tôn giáo nhưng không quan tâm đến.  Còn cô thì theo phái Giám lý, chủ yếu là do ảnh hưởng của bạn bè.  Rồi mẹ cô qua đời, và khi gia đình bàn về việc tổ chức tang lễ thì cha của cô cho biết bà đã được rửa tội theo đạo công giáo, và không giữ đạo từ khi hai tuổi.  Ông đề nghị tổ chức theo nghi lễ công giáo cho bà.  Vì không giữ đạo từ lâu, họ hơi lo lắng khi gặp linh mục ở giáo xứ bên cạnh để xin tang lễ được làm theo nghi thức công giáo.  Trước sự ngạc nhiên to lớn của họ, vị linh mục không ngần ngại, cha nồng nhiệt đón họ: “Dĩ nhiên chúng tôi sẽ cử hành tang lễ!  Đây là vinh dự cho chúng tôi! Và chúng tôi sẽ sắp xếp để có ca đoàn hát lễ và sẽ có buổi tiếp tân ở hội trường giáo xứ sau đó.”

Không đòi hỏi gì về sự vắng mặt cả đời của bà ở nhà thờ.  Bà được chôn cất theo nghi thức Giáo hội… và cha của cô, quá xúc động trước sự quảng đại của nhà thờ và nét đẹp của nghi thức phụng vụ đã quyết định trở thành người công giáo la mã.

Chúng ta sẽ tự hỏi kết quả sẽ như thế nào nếu linh mục từ chối làm tang lễ, và cũng tự hỏi điều gì biện minh cho tang lễ của một người cả đời chẳng quan tâm gì đến nhà thờ.  Chúng ta cũng sẽ tự hỏi có bao nhiêu người sẽ thấy câu chuyện này là khích lệ hay là bực mình, vì theo luân lý giáo hội ngày nay, nhiều người trong chúng ta còn nuôi nỗi sợ không nhận được ơn và lòng thương xót quá dễ dàng.

Nhưng ân sủng và lòng thương xót không bao giờ có giá, dù rẻ dù đắt vì tình yêu không bao giờ là chuyện xứng công mới được

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim