Xin cứu con trong giờ lâm tử

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

Xin cứu con trong giờ lâm tử

Thánh Anphongsô kể tiếp một truyện nữa:

Cha Razzi, Camaldule, thuật truyện một thanh niên mồ côi cha sớm. Mẹ chàng gửi chàng vào hầu cận một vị hoàng tử. Bà vốn có lòng yêu mến Đức Mẹ, nên lúc từ giã con, bà đã cẩn thận dặn dò con và bắt hứa với bà hằng ngày phải đọc một kinh Kính Mừng và thêm câu:

– Lạy Đức Nữ trinh đầy phúc đức, xin cứu giúp con trong giờ lâm tử.

Rồi chàng vào đền ông hoàng. Chàng hoang phí đài các đến nỗi ông phải bó buộc thải chàng ra. Thất vọng vì thấy không còn phương sách cứu chữa, chàng nhập bọn du thủ du thực, ăn cướp, giết người, nhưng vẫn trung thành với điều đã hứa với mẹ. Ít lâu sau chàng sa lưới pháp luật. Toà lên án tử hình.
Đêm trước ngày bị hành quyết, chàng thườn thượt bó gối trong tù ôn lại dĩ vãng.

Chàng than thân trách phận vì bị ô danh, vì làm ưu phiền cho mẹ và vì cái chết đang chờ. Bỗng ngước lên, chàng thấy một trang thanh niên ra dáng công tử niềm nở hỏi chào. Thanh niên này nói mình đến cốt để cứu chàng thoát tù tội và thoát cả chết nữa. Chàng vui mừng.

Người thanh niên ra cho chàng những điều kiện phải giữ. Chàng ưng thuận. Thanh niên bèn xưng mình là quỷ và bảo chàng nếu muốn thoát thì phải chối Chúa Giêsu và các phép Bí tích. Chàng cũng ưng thuận. Quỷ lại bắt chàng phải chối cả Đức Mẹ và không được xin Người hộ phù nữa. Chàng kêu lên:

– Thế thì chả chơi, không bao giờ tôi chịu làm thế.

Rồi ngước nhìn lên Đức Mẹ, chàng đọc lại lời kinh vắn tắt mẹ chàng đã dặn:

– Lạy Đức Nữ trinh đầy phúc đức, xin cứu giúp con trong giờ lâm tử.

Vừa nghe lời đó, quỷ biến hút, để mặc chàng chìm ngụp vào một nỗi phiền sầu cay cực vì đã chối Chúa. Nhưng chàng lại chạy đến với Mẹ Maria. Mẹ cầu xin được cho chàng ơn thống hối tội lỗi. Rồi đầm đìa nước mắt mà xưng tội với một lòng ăn năn tuyệt hảo.

Lúc điệu chàng từ ngục thất ra xử án ở giảo hình đài, trên  lối đi, chàng gặp một tượng Đức Mẹ. Chàng cúi đầu chào và đọc lại lời kinh quen đọc:

– Lạy Đức Nữ trinh đầy phúc đức, xin cứu giúp con trong giờ lâm tử.

Đột nhiên dân chúng kêu lên vang ầm. Họ vừa chứng kiến một sự lạ: tượng Đức Mẹ cũng cúi đầu ưng thuận. Rất mực xúc cảm, chàng xin cho phép đến hôn chân Đức Mẹ. Lính áp giải chối từ, nhưng vì dân chúng cũng rất mực thương xin cho, họ mới bằng lòng.

Lúc chàng thanh niên cúi xuống hôn, tượng Mẹ liền giơ tay ôm lấy chàng, chặt đến nỗi không thể gỡ nổi. Dân chúng chứng kiến sự lạ kêu lên:

– Xin ân xá ! Xin ân xá cho hắn !

Chàng được ân xá. Trở về quê hương, chàng thanh niên ấy sống một đời gương mẫu, trung thành phụng sự Đức Mẹ, Đấng đã cứu chàng thoát chết cả hai phần.

Image may contain: one or more people, people dancing and text

PHÉP LẠ CỦA SỰ LẮNG NGHE

PHÉP LẠ CỦA SỰ LẮNG NGHE

 Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể.  Đây là cái nhìn thông thường.  Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa.  Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi.  Họ rỉ tai nhau.  Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa.  Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn.  Họ không xin Chúa bánh ăn.  Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng.  Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời.  Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống.  Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời.  Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian.  Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa.  Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.

Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em.  (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người).  Đây cũng là một sự kiện lạ.  Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào.  Nơi mà người ta nói “ăn sóng nói gió,” phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau.  Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người.  Mặc dù không micro, không loa phóng thanh.  Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được.  Ai cũng hiểu.  Ai cũng say sưa nghe giảng.  Quả thực, đây là một phép lạ!  Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe.  Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe.  Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe.  Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.

Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau.  Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau.  Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn.  Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương.  Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc.  Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên.  Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thản bình an.

Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau.  Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở.  Con cái vâng lời cha mẹ.  Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương.  Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau.  Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo.  Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại.  Chê bôi, dè bửu nhau.  Chỉ gây thêm hận thù.  Đánh mất truyền thống tổ tiên. “Thương người như thể thương thân.  Người trong một nước phải thương nhau cùng.”  Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ.  Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại.  “Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung.”  Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: “Tôi đã làm gì cho giáo xứ,” hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.

Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau.  Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé.  Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân.  Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau.  Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thương.  Amen!

 Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

CÂU HỎI CỦA NGƯỜI HUẤN LUYỆN VIÊN

CÂU HỎI CỦA NGƯỜI HUẤN LUYỆN VIÊN

 

Lm. Mark Link S.J

Cách đây ít lâu có tạp chí nọ đăng một câu chuyện kể về những thiếu niên thuộc câu lạc bộ bơi lội Santa Clara.  Mỗi buổi sáng họ đều dậy lúc 5 giờ 30 và vội vã băng qua bầu không khí lạnh lẽo chạy đến chiếc hồ phía bên ngoài.  Ở đó chúng bơi suốt hai giờ đồng hồ.  Sau đó chúng tắm lại ở vòi sen, ăn sơ sài chút ít rồi vội vã đến trường.

Sau khi ở trường ra, chúng quay lại hồ bơi thêm hai tiếng nữa.  Tới 5 giờ, chúng lẹ làng trở về nhà, vùi đầu vào sách vở, ăn bữa tối trễ và mệt lả leo lên giường.  Sáng hôm sau chuông báo thức lại vang lên vào 5 giờ 30 và chúng lại bắt đầu toàn bộ công việc như thế.  Khi được hỏi tại sao họ lại chấp nhận tuân theo một thời biểu kỷ luật đến như thế, một cô gái đã trả lời: “Mục đích của tôi là gia nhập đội thi Olympics.  Nếu như đi dự tiệc mà phương hại đến mục đích ấy thì đi dự tiệc làm gì?  Chẳng có gì là quá đáng trong việc tập luyện ấy cả.  Tôi càng bơi được nhiều dặm thì tôi càng bơi khá hơn.  Sự hy sinh là điều dĩ nhiên.”

Giả sử Chúa Giêsu sống vào thời đại này chứ không sống vào 30 năm đầu công nguyên, thì bài Phúc Âm hôm nay có lẽ đã rất khác.  Thay vì nói về tay buôn ngọc hy sinh tất cả để mua cho được viên ngọc cực kỳ quí giá hoặc một bác nông gia bán đi tất cả để mua miếng đất có ẩn giấu kho tàng, có lẽ Chúa Giêsu đã nói về một vận động viên bơi lội ở câu lạc bộ Santa Clara sẵn sàng hy sinh tất cả để được gia nhập đội thi Olympics.

Tại sao tôi lại nói điều này?  Có gì tương quan giữa tay buôn ngọc, gã tìm kho báu, và một vận động viên bơi lội ở Santa Clara?  Ba người này có điểm gì chung?

Có một điểm chung là cả ba đều dấn thân trọn vẹn cho một giấc mơ.  Cả ba đều sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho mục đích mà họ đã đặt ra.  Trường hợp ngươi buôn ngọc là mua cho bằng được một viên ngọc hoàn hảo.  Trường hợp người đi kiếm kho báu là mua cho được một kho báu hiếm.  Còn trường hợp vận động viên bơi lội ở Santa Clara là làm sao để được gia nhập đội thi đấu Olympics.

Ðiều này dẫn chúng ta đến chủ điểm mà Chúa Giêsu muốn nêu ra cho chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay.  Chủ điểm đó là: Muốn làm công dân nước trời, chúng ta phải dấn thân triệt để.  Chúng ta không thể theo đuổi việc ấy như khi làm một công việc ngoài giờ.  Chúng ta không thể làm việc ấy như khi làm một công việc tiêu khiển.  Chúng ta phải dấn thân vào đó trăm phần trăm, phải xem nó là ưu tiên số một của cuộc đời chúng ta.

Người Kitô hữu cũng giống như một tay buôn ngọc, một kẻ tìm kho báu, hay như một vận động viên bơi lội ở Santa Clara.  Nó đòi hỏi sự dâng hiến và dấn thân trọn vẹn.  Tuy nhiên, có một điểm khác biệt lớn lao giữa một Kitô hữu và ba người kia.  Thánh Phaolô đã nêu sự khác biệt này trong thư gởi tín hữu Côrintô: “Mọi vận động viên trong thời kỳ tập luyện đều phải tuân theo một kỷ luật nghiêm khắc chỉ để được khoác lên đầu vòng hoa vinh quang chóng lụi tàn, còn chúng ta chịu gian khổ là để đoạt được vòng hoa vinh quang tồn tại vĩnh viễn” (1 Cr 9: 25).

Ðó chính là điểm khác biệt.  Phần thưởng của tay buôn ngọc, kho báu của gã nông gia, huy chương của vận động viên đều có thể tàn lụi.  Khi tay buôn ngọc chết đi, viên ngọc chả còn giá trị gì đối với anh ta nữa.  Khi người nông gia chết đi, của báu của anh cũng sẽ thành vô dụng đối với anh cũng như chiếc chum đựng của báu ấy thôi.  Và khi người vận động viên chết đi thì tấm huân chương của cô cũng chỉ còn là một vật lưu niệm của cô đối với gia đình và bà con cô thôi.  Nhưng khi các Kitô hữu chết, thì nước trời sẽ toả sáng hơn, sáng hơn, sáng hơn mãi.  Vào lúc chết thì chỉ có một điều là đáng kể.  Ðó không phải là viên ngọc quí, kho báu hiếm hay chiếc huy chương vàng mà chúng ta đã có được lúc còn sống.  Ðiều đáng kể chỉ là chúng ta đã trở thành cái gì trong tiến trình cố gắng tìm viên ngọc, tậu của báu hoặc tranh giành huy chương.

Một đội bóng rổ thuộc một trường trung học ở Chicago vừa mới tổ chức thánh lễ trước khi đi dự cuộc tranh giải thể thao của tiểu bang.  Trong bài giảng lễ, vị linh mục nói là trong 10 năm tới, điều quan trọng đối với mùa bóng rổ của họ sẽ không hệ tại việc họ là quán quân hay không.  Sự quan trọng là điều mà họ sẽ trở thành trong tiến trình cố gắng đoạt tước hiệu ấy.

Họ có trở thành người tốt hơn không?

Họ có yêu thương nhiều hơn không?

Họ có trung tín với nhau hơn không?

Họ có tận tâm hơn không?

Họ phát triển thành một đội bóng đoàn kết hay như những cá nhân ích kỷ?

Sau thánh lễ, vị linh mục vào phòng thánh thay áo lễ.  Chợt ngài nghe huấn luyện viên nói với các vận động viên:

“Hãy ngồi xuống đây một phút.  Vị linh mục đã nói mấy điều khiến tôi bối rối.  Tôi tự hỏi không hiểu tôi đã giúp các bạn trở nên người như thế nào trong quá trình luyện tập để tranh giải trong kỳ đại hội thể thao này.

“Quí bạn có trở nên người tốt hơn không?

Quí bạn có yêu thương nhiều hơn không?

Quí bạn có trung tín với nhau hơn không?

Quí bạn có tận tâm hơn không?

Quí bạn sẽ phát triển thành một đội bóng đoàn kết hay chỉ thành những cá nhân rời rạc?

Nếu làm được như thế, thì dù kết quả cuộc tranh đua thế nào, chúng ta cũng vẫn là thành công.  Còn nếu không làm được như thế thì chúng ta đã làm cho Chúa thất vọng.  Làm cho trường chúng ta thất bại, đồng thời cũng làm cho nhau thất bại nữa.  Tôi hy vọng Chúa không để chúng ta thất bại.  Tôi cầu xin Chúa để chúng ta khỏi bị thất bại.

Bài phúc âm hôm nay đưa ra chủ điểm rất quan trọng sau: Không gì trên thế gian có thể chiếm vai trò ưu tiên hơn nước Chúa và sự đeo đuổi của chúng ta để đạt cho được nước ấy.  Bài Phúc Âm hôm nay bảo cho chúng ta biết điều đáng kể khi chúng ta chết không phải là chúng ta sắm được gì lúc còn sống mà là chúng ta đã trở nên như thế nào.  Nghĩa là:

Chúng ta đã yêu thương nhau chưa?

Chúng ta đã tha thứ cho nhau chưa?

Chúng ta đã giúp đỡ kẻ túng thiếu chưa?

Chúng ta đã an ủi kẻ đau khổ chưa?

Chúng ta đã biết đi thêm dặm nữa chưa?

Chúng ta đã biết chìa thêm má kia ra chưa?

Chúng ta đã dấn thân và trung tín với Chúa và với nhau hơn chưa?

Tôi hy vọng nhờ Chúa chúng ta sẽ làm được và tôi cầu xin Chúa giúp chúng ta làm được. B ởi vì nếu chúng ta không làm được như thế, chúng ta sẽ làm Chúa thất vọng, làm gia đình và bạn bè chúng ta thất vọng, còn chính chúng ta thì kể như đã thất bại rồi.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:

Lạy Chúa xin ban cho chúng con biết dấn thân như vận động viên bơi lội Santa Clara kia là người đã làm việc không mệt mỏi để đoạt cho được một vị trí trong đội bơi thi Olympics.  Xin ban cho chúng con biết dấn thân như kẻ tìm kho báu là người đã bán tất cả mọi sự để mua miếng đất.  Xin ban cho chúng con biết dấn thân như người buôn ngọc nọ đã dành trọn vẹn cuộc đời để tìm cho được viên ngọc hoàn hảo.

 Nếu những người đó đã sẵn sàng hy sinh rất nhiều cho một phần thưởng hư nát, thì chúng con phải sẵn lòng hy sinh hơn cho phần thưởng mãi mãi trường tồn kia biết chừng nào.

 Lm. Mark Link S.J

 From: Langthangchieutim

“ĐỪNG SỢ” trong mùa Đại Dịch Toàn Cầu này

“ĐỪNG SỢ” trong mùa Đại Dịch Toàn Cầu này.

 Fx Nguyễn Văn Mơ

Làm thống kê sĩ số tổng kết những người ít lo sợ bị lây nhiễm Đại Dịch Bệnh Covid Wuhan – so sánh với sĩ số những người lo sợ nhiều, chắc chắn chúng ta sẽ thấy cán cân nghiêng hẳn về bên sợ là đại đa số, còn bên không sợ là thiểu số. Dịch bệnh Covid Wuhan đã, đang và còn hoành hành dữ dội, từ Á Châu sang Âu Châu, rồi sang đến Mỹ Châu. Cho đến nay,  dịch bệnh Covid Wuhan vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm ở nhiều nơi, nhất là tại Hoa Kỳ còn cộng thêm bạo loạn chưa từng xảy ra khủng khiếp từ hồi lập Quốc tới giờ, bên Trung Quốc + thêm lụt lội kinh hoàng, rồi đến các Quốc gia châu Mỹ La Tinh như Ba Tây, Mễ Tây Cơ đang đứng đầu trong 213 Quốc Gia có nhiều người chết vì Dịch Bệnh Corona Wuhan. Tổ Chức Y Tế Thế Giới còn xác quyết  rằng dịch bệnh vẫn chưa có dấu hiệu nào chậm lại. Vậy mà bảo rằng:

* “ĐỪNG SỢ” trong mùa đại dịch toàn cầu này, tôi thấy chỉ có mình tự cứu mình bằng cách ý thức, cẩn trọng tối đa, tuân hành các qui luật  nghiêm ngặt của Chính Quyền điạ phương, có như thế may ra mới hy vọng bớt được lây lan Dịch Bệnh cực kỳ nguy hiểm gây chết người này.

* “ĐỪNG SỢ” quá đáng rồi gây ra lộn xộn trong gia đình. Lúc này là thời gian thử thách căm go nhất trong mọi gia đình vì nhiều lý do ảnh hưởng lớn lao đe doạ cuộc sống gia đình: cha mẹ mất công ăn việc làm, con cái phải học trực tuyến ở nhà, gia đình gặp khó khăn, eo hẹp về tài chánh, bị Chính Quyền ra lệnh Lockdown.

Mặc dù còn nhiều lý do hơn nữa đang tác hại đến hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, cha mẹ là những người có thể giữ vững tay chèo và đưa con thuyền gia đình mình lướt trên sóng gió bình an, chính là nhờ tình yêu thương gắn bó, quyết tâm sống chết có nhau, nhất là các thành viên trong gia đình đều đặt hết niềm cậy trông vào Chúa.

How (Covid – 19) spread day by day

Cho Con Thấy Chúa – Sr Hiền Hòa [Lyric]:

https://www.youtube.com/watch?v=gt3gyjaYjjE

Để có đủ niềm tin, lòng trông cậy, hầu tăng thêm nghị lực cho chúng ta dẹp bỏ được những lo sợ đủ thứ do Đại Dịch Wuhan đang tác hại, làm cho muôn vàn gia đình sinh ra lộn xộn. Chúng ta cùng nhau lần giở lại trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, rồi bình tâm đọc đi, đọc lại và suy ngẫm Lời Chúa và các Thánh Nhân của Ngài truyền thừa qua các trích dẫn sau đây:

ISAIA:

“Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi. (Is 41: 10).

GIOSUE:

“Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới.” (Gs 1:9)

THÁNH VỊNH 49

17 Đừng sợ chi khi có kẻ phát tài,
hoặc cửa nhà tăng thêm vẻ phong lưu,

18 vì khi chết, nó đâu mang được cả,
kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần. (Tv 49: 17-18)

 MATTHEW:

“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. (Mt 10: 28-31) (Lk 12: 2-9).

“Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14: 27).

“Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17: 7).

“Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói.” (Mt 28: 5-6).

MARK:

“Khoảng canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông và Người định vượt các ông. Nhưng khi các ông thấy Người đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la lên. Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy Người và đều hoảng hốt. Lập tức, Người bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! “(Mc 6: 48-50).

“Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? “Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” (Mc 5: 35-36).

LUKE:

“Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin.” (Lk 1:13).

“Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lk 1: 30).

“Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” (Lk 5: 10).

“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ được cứu.” (Lk 8: 50).

“Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lk 21: 25-28).

“Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em! ” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? (Lk 24: 36-38).

GIOAN

“Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: “Thầy đây mà, đừng sợ! ” Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.” (Gioan 6: 16-21).

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Gioan 14: 27).

“Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Gioan 16: 33).

PHILIPPHÊ

“Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su”. (Phil 4:6-7).

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lặp lại lời Thầy Chí Thánh: Đừng sợ”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã không ngừng kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới Đừng sợ”:

 “Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.

 “Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.

 Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng – Bài Giảng Lễ Khai Mạc Sứ Vụ Tông Đồ Phêrô).

 Đừng sợ đón lấy và thực thi lối sống Tin Mừng. Đó là sống yêu thương, không hận thù, như chính Đức Kitô yêu thương và đã tha thứ cho kẻ bách hại mình: “Tình yêu thì kiến tạo. Chỉ có tình yêu mới có thể kiến tạo được. Còn thù hận thì phá hủy. Lòng hận thù không kiến tạo được gì hết. Nó chỉ gây đổ vỡ. Nó làm tan nát đời sống xã hội. Nó chỉ có thể gây sức ép đối với những người yếu đuối và chẳng xây dựng nổi một điều gì” (Gioan Phaolô II – Bài Giảng Lễ nhận Nhà Thờ Chánh Tòa Gioan Latêranô của Giám mục Rôma).

ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

Trong Sứ điệp Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVII, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Các bạn trẻ thân mến, đừng sợ phải liều mạng mình cho Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đó là phương cách tìm được bình an nội tâm và hạnh phúc đích thực”.

ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ

“Lúc đó cũng vậy, cũng có nỗi sợ về tương lai và tất cả những gì cần phải được xây dựng lại. Một ký ức đau đớn, một hy vọng bị cắt ngắn. Đối với họ, đối với chúng ta, đó là giờ đen tối nhất”. Đừng sợ, đừng để sợ hãi lấn át: đây là thông điệp của hy vọng. Nó được gửi đến chúng ta hôm nay”. (Bài Giảng Lễ Phục Sinh – Năm 2020 – Bài Tin Mừng các phụ nữ ra viếng Mộ Chúa Giêsu).

Một khi chúng ta vừa đọc qua hết các thượng dẫn khuyên răn chúng ta đừng sợ. Chúng ta cần chọn một nơi chốn riêng tư, tìm giờ giấc thích hợp, rồi trầm lắng tâm hồn mình để gặp gỡ, kết hợp với Chúa trong lời cầu nguyện: xin Chúa là khiên che, thuẫn đỡ giúp cho mình xa lánh những lo toan vượt quá sức mình. Với lòng tin cậy, phó thác tuyệt đối vào Chúa, chắc chắn Chúa sẽ làm cho sóng lặng, gió yên trong tâm hồn chúng ta , như Thánh Phêrô đã hết sợ tức thì, khi Ngài thấy có Chúa là Cha ban sự bình an ngay trên thuyền của Ngài.

CON VẪN TRÔNG CẬY CHÚA:

https://www.youtube.com/watch?v=48y_55thk_s

Để tạm biệt bài chia sẻ: “Đừng Sợ”, tôi xin kết thúc bằng Lời Nguyện Tắt và hiệp thông trong hai Bài Thánh Ca sau đây:

Loving God, in Your majestic quietness,

where I know nothing can grasp You,

no word defines You, no prayer bends You,

there I find my deepest security and the purest awe.

Amen.

 Dear Lord and Father of Mankind:

https://www.youtube.com/watch?v=WqOnjmr9Ah0

Be not afraid:

https://www.youtube.com/watch?v=dWpG7qHtB8g

 Fx Nguyễn Văn Mơ

Tài Liệu Tham Khảo Thêm:

Đừng sợ và đừng lo

(theo Li Chúa)

  • Sáng thế 15: 1 (Chúa là khiên che); 21: 17 (Chúa đã nghe); 26: 24 (Chúa ởcùng); 35: 17 (có con trai); 42: 23 (Chúa ban kho báu); 46: 3 (Chúa ban một dân lớn); 50: 19 (không thay quyền Chúa); 50: 21 (cấp dưỡng).
  • Xuất hành14: 13-14 (Chúa chiến đấu cho); 20: 20 (Chúa thử thách).
  • Dân Số 14: 9 (Chúa ởvới); 21: 34 (Chúa đã trao).
  • Đệ Nhị Luật 1: 17 (việc xét xửcủa Chúa); 1: 21 (Chúa đã trao); 1: 29 (Chúa chiến đấu);  3: 2 (Chúa đã trao); 3: 22 (Chúa chiến đấu); 7: 18 (Chúa bảo vệ); 18: 22 (ngôn sứ giả), 20: 1 & 3 (kẻ thù); 31: 6 & 8 (Chúa không bỏ rơi).
  • Giô-suê 1: 9 (Chúa ở với); 8: 1 & 10: 8 & 25 & 11: 6 (Chúa nộp vào tay).
  • Thủ Lãnh 6: 10 (thần ngoại); 6: 23 (dù gặp Chúa).
  • Rút3: 11 (được đáp lời vì đức hạnh).
  • 1 Samuen 12: 20 (nếu không bỏChúa); 22: 23 (Chúa ở cùng); 23: 17 (không bị hại).

2 Samuen 9: 7 (xử tình).

  • 1 Vua 17: 13 (Elia trấn an bà góa).

2 Vua 1: 15 (vua); 6: 16 (được phù hộ); 19: 6 (điều nghe).

  • 1 Sử Biên Niên 22: 13 (sẽ thành công); 28: 20 (Chúa ở cùng).

2 Sử Biên Niên 20: 15 & 17 (Chúa chiến đấu);  32: 7 (Chúa          mạnh hơn).

  • Nêhêmia4: 14 (Chúa chiến đấu).
  • Giuđitha11: 1 (báo tin).
  • Étte9: 22 (kẻ thù).
  • 1 Macabê 4: 8 (dù kẻ thù đông).
  • Gióp5: 21 (Chúa bảo vệ); 9: 34 (cầu nguyện); 11: 15 (nếu không tì ố); 21: 9 (Chúa bảo vệ).
  • Tv3: 5-8 (Chúa đỡ nâng); 23; 4 (có Chúa ở cùng); 27: 1-3 (Chúa bảo vệ); 34: 4 (tìm kiếm Chúa); 46: 1-4 (Chúa là nơi ẩn náu); 49: 17-18 (kẻ giầu); 56: 3-5 & 115: 11 (tin tưởng Chúa), 56: 3-4 & 11 (tin tưởng Chúa); 91: 5 (đêm vắng, tên bay); 94: 9 (Chúa ủi an); 112: 8 (coi thường kẻ thù); 118: 6 (Chúa ở cùng).
  • Châm Ngôn 3: 24-25 (khi nằm ngủ, tai họa).
  • Huấn Ca 34: 14 (nếu kính sợ Chúa).
  • Isaia7: 4 (bị hãm hại); 8:12 (âm mưu); 10:24 (kẻ thù); 12:2 (Chúa cứu độ); 17: 2 (nằm nghỉ); 41: 10 (Chúa ở cùng); 35: 4 (Chúa báo phục); 37: 6 (điều nghe nói); 40: 9 (có Chúa); 41: 10 (Chúa là Chúa); 41: 13-14 (Chúa giúp). 43: 1 (Chúa cứu); 43: 5 (Chúa ở bên); 44: 2 (Chúa giúp); 44: 8 (là chứng nhân); 51: 7 (theo chỉ dẫn của Chúa); 54: 4 (không xấu hổ); 54: 14-17 (Chúa bảo vệ).
  • Giêrêmia 1: 8 & 46: 27-28 (Chúa ở với); 10: 5 (không bịhại); 17: 8 (thiên tai); 30: 10 (Chúa cứu); 42: 11 (vua chúa); 46: 27-28 (Chúa cứu); 51: 46 (tiếng đồn).
  • Ai Ca 3: 57 (Chúa ở bên).
  • Êdêkien 2: 6 (kẻphản loạn); 3: 9 (kẻ thù).
  • Đanien10: 12 (Chúa nghe); 10: 19 (Chúa tăng sức).
  • Giôen2: 21-22 (Chúa thực hiện điều vĩ đại).
  • Xôphônia3: 16-17 (Chúa ngự giữa).
  • Khắcgai2: 5 (Thần Khí Chúa ở giữa).
  • Dacaria8: 13-15 (Chúa cứu và chúc phúc).
  • Mátthêu1: 20 (nhận Maria); 6: 25-34 (Chúa quan phòng); 10: 19 (Chúa giúp nói); 10: 26-28 (người đời và người chỉ giết thân xác); 10: 31 (giá trị hơn chim); 14: 27 (Thầy đây); 17: 7 (Chúa đỡ nâng); 28: 5 (Chúa đã sống lại); 28: 10 (đi nói với anh em).
  • Máccô5: 36 (vững tin); 6: 50 (Thầy đây); 13: 7 (chiến tranh); 13: 11 (Chúa giúp nói); 16: 6 (Chúa đã sống lại).
  • Luca1: 13 (Chúa đã nhận lời); 1: 30 (đẹp lòng Chúa); 1: 74 (Chúa sẽ giải thoát); 2: 10 (tin mừng trọng đại); 5: 10 (đánh cá người); 8: 50 (vững tin), 12: 4 (người chỉ giết thân xác); 12: 7 (đáng giá hơn chim sẻ): 12: 11 (khi ra tòa); 12: 22-34 (Chúa quan phòng); 12: 32 (Chúa ban nước trời); 21: 9 (dù chiến tranh, loạn lạc).
  • Gioan3: 15-18 (Chúa đến để cứu chuộc); 6:20 (Thầy đây); 12:15 (vua ngự đến); 14: 27 (bình an của Chúa): 16:33 (can đảm).
  • Công Vụ 18: 9 (cứnói); 20: 10 (cậu ta sống); 27: 23-24 (Chúa ban cho).
  • Rôma8: 38-39 (yêu Chúa); 13: 3 (thế quyền).
  • Philípphê4: 6 (cầu nguyện); 1: 14 (tin cậy vào Chúa)

2 Timôthêô 1: 7 (Thần Khí Chúa giúp).

  • Do thái 13: 6 (Chúa giúp).
  • Giacôbê2: 13 (xét xử).
  • 1 Phêrô 3: 6 (nếu làm điều thiện); 3: 14 (chịu khổ); 5: 6-7 (Chúa chăm sóc).
  • 1 Gioan 4: 18 (nhờ ty).
  • Khải Huyền 1: 17 (Chúa là đầu và cuối); 2: 10 (đau khổtù tội).

        (Virginia, 14-7-2020jpah)

 From: Thầy Định gởi

GIÁ TRỊ CỦA SỰ THINH LẶNG

GIÁ TRỊ CỦA SỰ THINH LẶNG

Nữ tu Têrêsa Mai Hường

Cuộc sống của chúng ta được bao phủ bởi rất nhiều tiếng ồn, từ sáng sớm cho đến khi đêm về.  Hơn nữa, trong thế giới hiện đại hôm nay, con người dễ bị cuốn hút bởi những gì náo nhiệt rộn ràng, nhất là tuổi trẻ.  Không mấy ai đam mê những khoảng lặng vô âm.  Tuy vậy, khi trải nghiệm và sống trong tiếng ồn, con người lại cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm một chốn bình an, yên tĩnh.  Khi đã rã rời vì tiếng ồn, con người lại khát khao và tìm đến những giá trị của thinh lặng.

Thinh lặng bên ngoài

“Giữa những xao động của nhân thế nổi trôi, giữa những sục sôi tranh chấp trong kiếp người, giữa những đẹp tươi hay ê chề thất bại, con xin dành một cõi rất riêng tư cho Giêsu, Đấng Tình Yêu thẳm sâu.” (“Một Cõi Riêng Tư” nhạc sĩ Thái Nguyên).

Thế giới hôm nay thực sự rất ồn ào và “ô nhiễm.”  Nó khiến cho con người khó có thể thinh lặng.  Facebook, internet, games, điện thoại, các tương quan phức tạp… lôi kéo con người vào trong khía cạnh bất an của nó.  Con người chúng ta cũng dễ bị dẫn dụ vào trong thế giới đó vì nó hấp dẫn và có nhiều mới lạ.  Chính vì thế, con người cũng thích ồn ào với thế giới vui nhộn và đang thay đổi rất nhanh với nhiều hấp dẫn.

Không chỉ thế, có nhiều người cũng thích nói nhiều.  Nó trở nên như là một căn bệnh.  Phải nói thì người đó mới cảm thấy đó là lẽ sống của họ.  Họ nói nhưng còn nói to.  Có người thì phải nói để giữ thế thắng.  Có người nói nhiều để minh chứng khả năng hiểu biết và vốn kiến thức của mình.  Tuy nhiên, càng nói nhiều thì càng chứng tỏ người nói chẳng có gì giá trị.  Vì khi nói nhiều, chúng ta không có khả năng giữ lại những gì sâu sắc.  Nói là khả năng con người dùng để chuyển tải thông tin đến với người khác trong khi đó, nếu chúng ta không có gì giá trị trong lòng thì nói cũng vô ích vì những thông tin đó cũng giống như những âm thanh bên ngoài.  Tạp âm.  Lúc đó, tiếng nói trở thành thứ tiếng ồn gây khó chịu và nó có thể khiến người khác không có thiện cảm đối với người nói.  Nói như thế giống như rượu ngon pha chung với nước lã.  Nó khiến cho nội tâm hay thế giới bên trong mất chiều sâu và trở thành hời hợt.  Rượu lạt.  Giếng cạn.

Thinh lặng bên trong

Henri de Lubac nói rằng: “Chúng ta chỉ trở nên viên mãn khi trở nên trầm lặng trong cuộc sống nội tâm.”[1]  Chiều sâu nội tâm diễn tả kho tàng riêng của mỗi người.  Nếu một người biết thinh lặng, người đó có khả năng thu nhận kiến thức, đúc kết kiến thức, và sử dụng kiến thức một cách hiệu quả.  Hiệu quả ở đây có nghĩa là để cho quyền năng của Chúa tác động trên những lựa chọn của người đó.  Tương tự, giá trị của kết quả có tính thiêng liêng.

Thinh lặng bên trong khiến cho người thủ đắc có một vẻ trầm mặc và điềm tĩnh.  Họ giống như giếng nước trong và rất sâu.  Thực sự, khi nhìn vào con người có nội tâm sâu sắc, người khác bắt gặp một cảm giác bình an, một vẻ thông thái và an nhiên tự tại.  Con người của hòa bình.  Ai đó đã nói rằng: thinh lặng biểu lộ sự khôn ngoan quả là không sai.

Thinh lặng và kiên nhẫn

Khi thinh lặng, chúng ta có thời gian để suy gẫm và hiểu cho kỹ cũng như suy xét cẩn thận về cách sống và cách đối nhân xử thế.  Chúa Giêsu là một mẫu gương tuyệt vời cho thấy mối tương quan giữa thinh lặng nội tâm và sự kiên nhẫn.  Trong Tin mừng Gioan, khi người ta dẫn đến trước mặt Chúa người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy Ngài, Chúa Giêsu đã thinh lặng lắng nghe những lời kết án người phụ nữ từ những người cầm quyền Do thái. “Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người.  Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.  Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất.  Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi” (Ga 8, 6-9).

Chiều sâu nội tâm nơi Đức Giêsu là sự thinh lặng nơi tòa án khi Ngài bị xét xử.  Đức Giêsu không nói một lời nào bất chấp những lời kết án oan khiên và bị đánh đập.  Tột đỉnh của chiều sâu nội tâm nơi Ngài là sự hy sinh chấp nhận chết trên thập giá, bị xỉ vả, bị làm nhục đủ kiểu nhưng Ngài vẫn lặng thinh và cầu nguyện “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).  Ngài không lên tiếng chửi rủa những kẻ hành hạ Ngài.  Ngài kiên định với kế hoạch cứu độ và vâng phục Thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14, 36).  Sự kiên nhẫn đó cho chúng ta hiểu một chân lý khác đó là tình yêu.  Càng biết thinh lặng, chúng ta càng biết yêu một cách chân thành và yêu bằng cả con tim và tính mạng.  Hay nói đúng hơn, nội tâm sâu sắc hay tình yêu sâu sắc sẽ làm chúng ta biết thinh lặng, và thinh lặng nội tâm diễn tả tình yêu mạnh hơn bất cứ sức mạnh ngoại tại nào.

Thinh lặng và hạnh phúc

Thinh lặng và hạnh phúc nội tại đi liền với nhau.  Có những người thinh lặng vì giận hờn, thinh lặng để dằn mặt, thinh lặng vì không muốn nói, thinh lặng vì không muốn đụng chạm, thinh lặng cho bớt phiền phức. Thinh lặng kiểu đó như là một bức màn ẩn giấu sự không hài lòng phía sau.  Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Con người không thể giấu cảm xúc của mình qua những cử chỉ thể lý đó.  Tất cả hiện lên trong ánh mắt.  Có người lấy lý do thinh lặng để tránh tiếp xúc với người khác và che lấp sự hiềm khích, nhưng ánh mắt của người đó khó có thể giấu được sự hiềm khích. Có người giả nai để che đi khiếm khuyết và sai lỗi, nhưng ánh mắt vẫn hiện ra sự sợ sệt lo lắng. Trong lòng có thì bên ngoài mới thể hiện được cách đồng điệu giữa các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài.  “Hữu xạ tự nhiên hương.”

Chính vì thế, thinh lặng phải có hạnh phúc bên trong mới là thinh lặng nội tâm.  Thinh lặng đó giúp con người nên thông thái, khôn ngoan và đem lại hòa bình.  Thinh lặng đó đưa con người vào cầu nguyện, nhờ cầu nguyện, con người thinh lặng cảm thấy hạnh phúc, và tìm kiếm thinh lặng như chốn dung dưỡng sức mạnh tinh thần. Thinh lặng đó làm cho con người sống, và phát triển cách hạnh phúc chứ không chỉ là một kiểu sống để sống qua ngày mà không hề có sự triển nở trong tâm hồn của bản thân người đó, lại càng không thể đem bình an cho người xung quanh.

Thinh lặng và bình an

Thinh lặng nội tâm mang lại bình an cho chính bản thân và cho những người xung quanh.  Khi biết thinh lặng đúng đắn, chúng ta thể hiện sự khiêm nhường. Đức tính này giúp con người sống thật với những gì đang xảy đến trong nội tâm và nơi hữu thể mình cũng như sự vật sự việc xung quanh người đó. Thinh lặng giúp con người có thời gian đủ để suy nghĩ, lựa chọn và quyết định. Điều đó giảm đi những phản ứng sai lầm, những hành vi thiếu kiềm chế dẫn đến bất hòa bất thuận.

Sự bình an và thinh lặng cũng đưa con người trở về với chính mình và thấy được sự thật của bản thân.  Có những người sợ thinh lặng vì họ phải nghe tiếng lương tâm réo gọi. Thế nhưng, người yêu mến thinh lặng thì có nhiều cơ hội để trở về gặp lại chính mình, có cơ hội để yêu mình cách đúng đắn.  Người ta thường ví người có nội tâm thâm hậu như một hồ nước phẳng lặng có thể nhìn thấy tận đáy hồ. Mặt hồ phản chiếu thế giới trên cao.  Nó thể hiện được chiều cao sâu dài rộng của tâm hồn và của tri thức. Càng biết nhiều, con người càng quảng đại và bình an hơn.

Bình an thật của con người là Chúa. Trong thinh lặng, con người gặp gỡ được Thiên Chúa.  Đó là lý do vì sao những người muốn gặp Chúa thường tìm vào hoang mạc hoặc những nơi thanh vắng. Mỗi lần cầu nguyện, Chúa Giêsu đều tìm một nơi thanh vắng để có thể nói chuyện với Cha (Mt 26, 36; Mc 1, 35). Đây là địa điểm để sống thân tình với Thiên Chúa. Để ở thân tình hơn, Thiên Chúa cũng dẫn con người vào thanh tịnh. “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2, 16).  Như vậy, nơi thinh lặng của không gian và thinh lặng của tâm hồn, con người gặp gỡ được bình an đích thực.

Thinh lặng và niềm vui cộng đoàn

Khi gặp gỡ được bản thân và gặp gỡ được Thiên Chúa, con người thinh lặng chắc chắn đem lại niềm vui cho môi trường mà họ hiện diện. Bình an thật thì không im lặng cách chết chóc và ngột ngạt nhưng như một nơi mà gió hoa vạn vật cùng cảm nhận tình yêu thương và gắn kết. Con người gần gũi nhau hơn, cảm thông hơn và bác ái hơn.  Thinh lặng không đem lại niềm vui thì đó không bao giờ là thinh lặng nội tâm.  Nó là án phạt cho người đó và cả những người xung quanh. Thinh lặng không niềm vui như liều thuốc độc giết chết tâm hồn người đó vì nó khiến con người cảm thấy bực bội, khó thở, sống lầm lì và các tương quan bị bế tắc.  Có Chúa trong thinh lặng thì thinh lặng lại trở nên sự gắn kết thân tình giữa người với người. Vì nơi con người thinh lặng, người khác cảm nhận sự khiêm tốn, lòng từ tâm, sự khôn ngoan và ơn bình an.

Thinh lặng níu mở thiên đàng

Thinh lặng nội tâm trong sự sâu lắng và thánh thiện của nó có sức níu mở thiên đàng. Đức Maria xưa kia đã sống một đời âm thầm trong lắng đọng của một tâm hồn cầu nguyện đã đón nhận ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ đến cho nhân loại. Đó là việc Thiên Chúa sai Đức Giêsu nhập thể làm người. Tâm hồn Mẹ khiến cả thiên đàng hoan hỉ vì ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Tiếp theo, Đức Giêsu là Thiên Chúa cao trọng nhưng lại rất đỗi khiêm nhường. Ngài tự nguyện vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người trong kiếp nhân loại hèn yếu. Đời sống tịch liêu tự hạ của Ngài đã khiến Chúa Cha phải mở cửa thiên đàng và xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17). Lần khác, khi Ngài hấp hối trên thánh giá, bóng tối bao trùm cả mặt đất (x. Mt 27, 45) và bức màn trướng trong Đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ (x. Mt 27, 51). Tâm hồn thinh lặng thật sự níu mở thiên đàng.  Nếu một người có tâm hồn thinh lặng chắc chắn sẽ được Thiên Chúa tìm đến.

***

Thinh lặng trong thế giới hôm nay không dễ, thế nên, giá trị của nó đối với bản thân và với thế giới có giá trị lớn lao. Thế giới hôm nay càng ồn ào càng cần sự thinh lặng bởi con người muốn chìm đắm trong bình an, khao khát hạnh phúc đích thực và mong ước một thế giới hòa bình để chung sống với nhau. Thực sự, thinh lặng thì khó giữ nhưng nó mang lại những giá trị và hiệu quả đích thực.  Vì thế, con người vẫn luôn tìm kiếm và khát khao.  Trong đời sống thánh hiến, thinh lặng là cơ hội để người tu sĩ cảm nghiệm tình yêu và nên thân tình hơn trong tương quan với Đấng là Bình An. Người tu sĩ bình an hay người tu sĩ thân tình của Chúa chắc chắn sẽ xây dựng tình thân và đem lại an bình cho những người xung quanh.

Nữ tu Têrêsa Mai Hường

Nguồn: https://daminhtamhiep.net/

[1] Tham khảo https://dcvphanxicoxavie.com/vn/Nhan-Ban-Thieng-Lieng-On-Goi/Gia-Tri-Cua-Su-Thinh-Lang.html

Lời nguyện…

…Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các kitô hữu:

…bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21). Những điều này Đức Giêsu đều đã trải qua. Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22). Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi. “Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20), để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha. Bởi đó, người kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19). Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ. Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ. Các kitô hữu sẽ còn bị bách hại đến tận thế. Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo. Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan, biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23). Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người kitô hữu, là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo, vẫn có những kiểu bách hại khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức. Sống là kitô hữu như Đức Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng. Làm sao để các bạn trẻ Công Giáo dám sống theo những giá trị của Giêsu? Làm sao để các gia đình Công Giáo không bị thói đời lôi cuốn? 

 Lời nguyện: Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền, xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát. Giữa một thế giới lọc lừa dối trá, xin được sống chân thật đơn sơ. Giữa một thế giới trụy lạc đam mê, xin được sống hồn nhiên thanh khiết. Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng, xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu mến thương, xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa. Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.

Lm. Anton N.C.Sieu…

From: NguyenNThu

LỜI CHÚA VỚI ĐỜI NGƯỜI

LỜI CHÚA VỚI ĐỜI NGƯỜI

 Lm. Kiều công Tùng

“Con lớn lên bằng lời ru của bà cùng với sự êm ái dịu dàng của Kymdan.”  Một câu quảng cáo đầy ấn tượng nhằm đạt đến mục đích cuối cùng của nhà sản xuất nệm Kymdan. Điều đáng nói ở đây là câu quảng cáo ấy đã vô tình nói với mọi người một sự thật: Người ta lớn lên không chỉ bằng cơm bánh mà còn bằng lời nữa. Từ lời ru êm khi còn nằm nôi cho đến lời dạy bảo nhắc nhở răn đe lúc đã lớn khôn. Rồi trưởng thành bước vào đời, người ta vẫn cần lắm những lời khen tặng, động viên hay an ủi… Thử hỏi, cuộc sống con người sẽ ra sao, nếu như những lời lẽ kia không được gieo vãi.

Thế nhưng trong thực tế, nhiều khi chúng ta nghiệm ra rằng cho dù lời người phàm cần thiết đến đâu thì cũng không làm cho người ta no thỏa. Người ta cần một thứ lời có thể đáp ứng mọi tâm trạng và trong mọi hoàn cảnh, không phải chỉ là “2 trong 1” hay “3 trong 1” mà là “nhiều trong 1.” Một thứ lời có thể hướng dẫn ta trong lúc nghi nan, trấn an khi gặp khó khăn, nâng đỡ khi sầu khổ, sửa dạy khi nông nổi, hối thúc khi lười biếng, cảnh giác trong nguy hiểm, và đem lại hy vọng những lúc ta chán nản tuyệt vọng. Chỉ có Lời Chúa mới thỏa mãn những điều kiện ấy, mà Lời Chúa thì đã được gieo vãi trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người từ lâu rồi.

  1. Lời được gieo cách hào phóng

 Trước hết, Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là một người gieo giống đầy hào phóng và lạc quan. Kinh nghiệm của một nhà nông không cho phép người ta phí phạm hạt giống lẫn công sức trên những mảnh đất cằn cỗi sỏi đá bởi kết quả thu được chắc chắn không thể bù lại những gì bỏ ra. Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa lại hoàn toàn khác với cách suy nghĩ của con người. Hạt giống Lời Chúa không chỉ dành cho những mảnh đất mầu mỡ mà được tung vãi khắp nơi, cả bên vệ đường, trên sỏi đá hay giữa bụi gai. Lời Chúa không chỉ nói cho các thầy tư tế hay kinh sư, cho người lành người tốt.

Thiên Chúa đã tung gieo Lời của Ngài một cách hào phóng trên mọi mảnh đất, đến mọi hạng người, mọi tâm hồn bất kể là thu thuế hay gái điếm. Nếu tính tỉ lệ thì ta thấy giữa đất xấu và đất tốt là 3/1. Một tỉ lệ khá cao: cứ ba hạt bị mất mát mới có một hạt đem lại kết quả. Thế nhưng, người gieo giống vẫn cứ ra đi, vẫn cứ gieo vãi. Sẽ có người cho rằng người gieo giống quá phung phí và dở hơi; nhưng nếu nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn thì người gieo giống cực kỳ quảng đại, ông ta muốn mọi nơi trên cánh đồng đều có cơ hội sản sinh mùa màng thật tốt và đem lại thật nhiều hoa lợi.

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót như thế đó. Ngài không bao giờ nghi ngờ thiện chí của bất kỳ một tâm hồn nào. Ngài đã quảng đại trao ban Lời của Ngài, trao ban chính Con của Ngài cho nhân loại và Ngài luôn chờ đợi hiệu quả phát sinh nơi tâm hồn và cuộc sống của chúng ta. Tâm hồn nào cũng có thể trở nên mảnh đất mầu mỡ khi biết mở rộng lắng nghe và đón nhận Lời Chúa, suy gẫm và làm cho phong phú cụ thể qua từng suy nghĩ, lời nói hay cử chỉ.

  1. Lời mọc lên đầy hy vọng

 Chúa Giêsu giảng dụ ngôn “Người Gieo Giống” trong bối cảnh những người trí thức có địa vị đang ra sức chống đối Ngài, còn những kẻ bình dân và các môn đệ thì đã bắt đầu ngã lòng hoài nghi trước những kết quả ít ỏi của lời Ngài giảng dạy. Như thế, có thể nói đây là dụ ngôn tuyệt vời của niềm hy vọng dành cho những con người đang thất vọng.

Dụ ngôn “Người Gieo Giống” cho chúng ta thấy rằng hành trình Đức Tin của chúng ta phải là một hành trình trong tin yêu hy vọng: dù huê lợi không đồng đều nhưng đất mầu mỡ vẫn có đó, dù hạt giống có mất mát nhưng mùa gặt vẫn bội thu, dù vẫn có đó những chướng ngại nhưng Nước Thiên Chúa cũng sẽ đạt đến viên mãn. “Cuộc đời chỉ là thời kỳ gieo hạt, mà mùa gặt không ở tại thế này” (Danh họa Van Gogh). Chính niềm hy vọng là nguồn sinh lực dồi dào cho cuộc lữ hành của chúng ta.

Nhiều khi chúng ta thấy đường đi phía trước thật mịt mờ. Hiện tại thì đầy khó khăn thử thách. Tương lai càng tối tăm dầy đặc. Chúng ta bị cám dỗ hoài nghi và mất hết niềm hy vọng. Lời Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta một con đường đầy ánh sáng. Đau khổ khó khăn hiện tại chính là liều thuốc kích thích Niềm Tin tưởng chờ đợi Ơn Cứu Độ. Tin tưởng trong nỗ lực phấn đấu chứ không phải Niềm Tin lười biếng bạc nhược. Số phận người đi gieo có hẩm hiu bạc bẽo, nhưng mùa thu hoạch thì đầy hứa hẹn huy hoàng.

  1. Lời sinh sôi thật bất ngờ

 Từ những khởi đầu ít hứa hẹn, điều kỳ diệu của hạt giống rơi trên đất tốt đã có thể bù đắp gấp bội những thất bại mất mát. Tỉ lệ mất mát là 3/1, nhưng số thu lại không chỉ gấp ba mà là 30, 60 và thậm chí 100 lần. Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta vươn tới sự thiện hảo và trổ sinh ngày càng nhiều hoa trái hơn trong cuộc sống. Chỉ cần một câu Lời Chúa được tự do lớn lên trong lòng người ta thì cũng đủ để đời người hoàn toàn thay đổi.

Lịch sử Giáo hội và cuộc đời của nhiều vị thánh đã chứng minh điều này. Chỉ một câu: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10, 21) đã làm thay đổi cả cuộc đời thánh Phanxicô Assisi, đến nỗi một kẻ vô thần độc tài cũng phải nhìn nhận rằng chỉ cần mười người như ngài là có thể thay đổi cả thế giới. Rồi cuộc đời và thành quả truyền giáo của Thánh Phanxicô Xa-vi-ê cũng là hoa trái của câu Lời Chúa: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8, 36). Cũng thế, tâm hồn và cuộc đời của Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng chính là mảnh đất mầu mỡ đã để cho Lời Chúa lớn lên và sinh sôi đem lại mùa bội thu cho cả thế giới.

Thửa đất không thể sinh hoa trái nếu không có hạt giống. Cũng vậy, cuộc sống chúng ta sẽ cằn cỗi nếu không có Lời Chúa gieo trong tâm hồn. Thiên Chúa không chỉ nói với chúng ta qua Thánh Kinh, Ngài còn nói với chúng ta qua các biến cố của đời mình. Dụ ngôn “Người Gieo Giống” đòi chúng ta phải xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi ta phải cải tạo lại mảnh đất lòng mình, và tăng thêm sinh lực giúp chúng ta sống Lời Chúa. Lời Thiên Chúa đã phán ra chỉ trở về khi đã đạt được kết quả. Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực làm cho hạt giống Lời Chúa mọc lên tươi tốt, đâm rễ sâu trong tâm hồn, phát sinh những công việc phù hợp với Đức Tin và đem lại những kết quả tốt đẹp.

Lm. Kiều công Tùng

From: Langthangchieutim

SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

RevRoderick Strange

Cách ly đang gây hoảng sợ.  Văn hoá của chúng ta vốn đã quen với những lối giải trí tức thời không ngưng nghỉ thì viễn cảnh mỗi người phải tự cách ly lại càng gây thêm hoang mang.  Chúng ta phải đương đầu làm sao?

Tôi gặp lại chính mình khi nghĩ đến Đức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận.  Tôi đã từng gặp ngài khi ngài còn ở Roma trong những ngày vàng son.  Ngài nhận chức Giám mục Nha Trang, Việt Nam, năm 1967 và được bổ nhiệm làm Giám mục Phó Sài Gòn năm 1975 ngay trước những ngày Sài Gòn rơi vào tay quân đội Bắc Việt.  Tháng tám năm đó, dịp lễ Đức Mẹ Lên Trời, ngài bị bắt và trải qua mười ba năm sau đó trong tù.  Vào ngày được thả, ngài vẫn bị quản thúc tại nhà cho đến ngày bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1991.  Có đến chín năm trong thời gian mười ba năm tù đày, ngài bị biệt giam.  Chúng ta học được gì nơi ngài?

Rời Việt Nam, Hồng Y Thuận đến Roma.  Năm 1998, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặt ngài làm Chủ Tịch Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình và vào năm 2000, Đức Thánh Cha mời ngài hướng dẫn tuần linh thao cho giáo triều Roma vốn được tổ chức mỗi năm vào đầu Mùa Chay.  Đức Gioan Phaolô II yêu cầu ngài trình bày những trải nghiệm riêng tư của những năm biệt giam.  Những bài nói chuyện của ngài sau đó được phổ biến như những Chứng Từ của Niềm Hy Vọng.

 

Đức Hồng Y đã mô tả những hoàn cảnh bị giam giữ.  Ngài ở trong một xà lim không có cửa sổ và trong nhiều ngày nhiều đêm đèn điện không bao giờ tắt; và sau đó, nhiều đêm nhiều ngày ngài lại bị vùi chôn vào bóng tối hoàn toàn.  Ngài cảm nhận như thể “đang ngạt thở vì cái nóng và độ ẩm đến phát điên.”   Ngài cảm thấy khủng hoảng vì không thể chu toàn sứ vụ linh mục của mình.

Và rồi, vào một đêm, từ sâu thẳm lòng mình, ngài nghe một tiếng nói, “Tại sao con phải dằn vặt như thế?  Con phải phân biệt giữa Thiên Chúa và công việc của Người.”  Ngài chợt nhận ra rằng, sứ vụ của ngài là tốt nhưng sứ vụ của ngài đã không là Thiên Chúa mà là công việc của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa có thể làm điều này điều kia tốt hơn ngài làm rất nhiều, vì thế, ngài phải chọn Thiên Chúa, không phải công việc của Người và chỉ chọn một mình Người.

Trải nghiệm của Hồng Y Phanxicô Xavier, dẫu quá khắc nghiệt như hoàn cảnh của nó, có thể giúp chúng ta suy nghĩ về các ưu tiên của mình trong thời gian dịch bệnh Corona.  Đây cũng là một khủng hoảng cá nhân đối với nhiều người trong chúng ta cũng như đối với tình trạng khẩn cấp về sức khoẻ và các biến động xã hội cũng như chính trị.  Một bài học nhớ mãi đối với Hồng Y Phanxicô Xavier là ngài ý thức sâu sắc về giá trị của giây phút hiện tại.  Ngài viết, “Đây là thời khắc duy nhất chúng ta đang có trong tay, quá khứ đã qua và chúng ta không biết liệu có một tương lai hay không.  Giây phút hiện tại là kho tàng lớn lao của mỗi người.”  Khi chúng ta chấp nhận cuộc sống giãn cách xã hội liệu chúng ta có quá để tâm đến quá khứ, hoặc quá bứt rứt về tương lai?  Hoặc là chúng ta có khả năng nhìn thời gian hiện tại, dẫu có thể đang khó khăn, như một quà tặng?

Việc sống giây phút hiện tại, trong thinh lặng và giãn cách xã hội không làm cho mọi sự nên dễ dàng.  Như Đức Hồng Y Phanxicô Xavier giải thích, “Thời gian trôi chậm trong nhà tù, đó là điều đáng nói nhất của việc cách ly.  Hãy tưởng tượng một tuần, một tháng, hai tháng và nhiều hơn nữa… trong thinh lặng.”  Chúng dài một cách kinh khủng và khi đã trở thành nhiều năm, chúng là vô tận.”  Dẫu chúng ta không nghĩ một điều gì đó khốc liệt hơn sẽ xảy ra nhưng những tuần sau đó, những tháng sau đó vẫn rất nghiệt ngã.  Hồng Y Phanxicô Xavier thừa nhận rằng, trong cuộc đời ngài, có những giai đoạn mà ngài cảm thấy hết sức đau khổ khi thấy mình không thể cầu nguyện, “Tôi trải nghiệm sâu sắc sự yếu hèn thể xác và tinh thần của mình.”  Nhiều lần ngài viết, ngài đã kêu lên như Chúa Giêsu đã kêu lên trên thập giá, “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con.”  Mỗi lần như thế, ngài thêm, “Vậy mà, con biết Chúa không bỏ con.”  Dẫu thế, những thời khắc này có thể vẫn rất khó khăn cho chúng ta và một đôi khi cũng thật khó để xác tín rằng, đức tin bảo đảm cho chúng ta, chúng ta không bao giờ bị bỏ rơi.

Trong khi họa lại trải nghiệm của mình về sự cách ly, Hồng Y Phanxicô Xavier không bao giờ để mình bị cuốn hút vào đó.  Đơn giản, cách ly không bao giờ là tất cả đối với ngài.  Trên hết, Ngài giữ cho tinh thần mình phấn chấn bằng một cảm thức mình là thành viên của Hội Thánh mà ngài thể hiện theo một cách thức khiến người khác ngạc nhiên.  Ngài kể, khi còn bị cách ly ở Hà Nội, một nữ công an mang đến cho ngài một con cá để làm thức ăn, con cá được gói với hai trang nhật báo Vatican, L’Osservatore Romano, vốn theo sự thường là bị tịch thu.  Ngài giấu nỗi vui khi nhìn thấy nó; sau đó, một mình, ngài rửa sạch, hong khô tờ báo và cất lấy nó, ngài coi nó như một vật thánh.  Ngài giải thích, “Với tôi, trong một chế độ cách ly ngặt nghèo không khoan nhượng đó, những trang này là một dấu chỉ của sự hiệp thông với Roma, với thánh Phêrô, với Giáo Hội và một cái ôm hôn từ toà thánh.”  Ngài thêm, “Hẳn tôi đã không thể sống sót nếu không nhận thức mình là một thành phần của Hội Thánh.”

Thế nhưng, cảm thức về cộng đoàn của Hồng Y Phanxicô Xavier không bao giờ chỉ hẹp hòi trong phạm vi Giáo Hội.  Giới răn yêu thương là nền tảng cho cuộc sống của ngài.  Không ai bị loại ra ngoài; cách riêng, không phải là những người canh gác ngài.  Các nhà chức trách thường xuyên thay đổi những người canh gác ngài vì sợ rằng, đặt họ ở đó, họ sẽ bị “lây nhiễm” bởi ngài.  Sau đó họ ngưng đổi người, vì sợ ngài sẽ làm lây nhiễm tất cả.  Ngày kia, một trong những người canh gác ngài hỏi, “Ông có yêu thương chúng tôi không?”, ngài trả lời, “Có, tôi yêu các anh.”  Người ấy không tin, “Nhưng chúng tôi bỏ tù ông nhiều năm, không một phiên toà, không một bản án và ông vẫn yêu thương chúng tôi?  Không thể có điều đó.”  Hồng Y Phanxicô Xavier nói với người canh gác mình rằng, “Tôi ở với các ông đã nhiều năm, ông thấy đó là sự thật.”  Người ấy nói với ngài, “Khi ông được tự do, ông không phái giáo dân tới đốt nhà chúng tôi và giết gia đình chúng tôi chứ?”; “Không!  Ngay cả nếu các người muốn giết tôi, tôi vẫn yêu thương các người”; “Nhưng tại sao?”; “Bởi vì Chúa Giêsu dạy tôi yêu thương mọi người, yêu thương ngay cả những kẻ thù của tôi.  Nếu tôi không yêu thương, tôi không đáng được gọi là người công giáo.”  Đó là một chuyện kể phi thường nhắc cho chúng ta rằng, giới răn yêu thương tha nhân của Chúa Giêsu một đôi khi lên tiếng mạnh mẽ nhất vào những thời điểm khi người ta cần đến nó nhất.  Một nét đặc trưng cho hoàn cảnh của chúng ta là chăm sóc, cách ly hay không cách ly, chúng ta cũng phải chăm sóc nhau.

Chuyện kể cuối cùng là khi Hồng Y Phanxicô Xavier còn là sinh viên ở Roma, ngài viếng Lộ Đức.  Tại hang đá, ngài suy nghĩ về lời Đức Mẹ nói với Bernadette, “Mẹ không hứa cho con niềm vui và những ủi an trên cuộc đời này, nhưng là thử thách và khổ đau.”  Ngài tự hỏi với thoáng chút sợ hãi rằng, liệu những lời này cũng nói với mình chăng.  Nhiều năm êm ả dần trôi, từ một Giáo sư chủng viện đến Giám đốc, rồi Tổng đại diện và Giám mục sau đó, thì ngài nghĩ rằng, những lời đó chẳng dính dáng chút nào đến mình.  Thế nhưng, đến năm 1975 và với năm đó, “Tôi bị bắt vào ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời với tù đày, cách ly; bấy giờ tôi mới hiểu, Đức Mẹ đã chuẩn bị cho tôi điều này từ năm 1957.”

Trải nghiệm của chúng ta vào những tuần những tháng sắp tới vốn sẽ không khắc nghiệt như trải nghiệm của Đức Hồng Y Phanxicô Xavier, chúng ta tin như thế; nhưng nó cũng trao tặng chúng ta một cơ hội.  Đức Hồng Y nói, “Khi tôi trải qua những giờ phút đau khổ cùng cực về thể xác và tinh thần, tôi nghĩ đến Chúa Giêsu chịu đóng đinh.  Với con mắt thế gian, cuộc đời của Ngài là một thất đoạt, thất vọng và thất bại…; vậy mà với cái nhìn của Thiên Chúa, đó là một thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của Ngài, bởi đó cũng chính là lúc Ngài đổ máu ra cho ơn cứu độ toàn thể nhân loại.”

Chúng ta đã sống những ngày đầu tiên của cuộc khủng hoảng này.  Khắc nghiệt là điều có thể có nhưng phải chăng trong cái nhìn quan phòng thì một điều gì đó xảy ra đã rất trùng hợp với Mùa Chay năm nay?  Như Đức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận tại Lộ Đức, chúng ta có cảnh tỉnh trước những bài học vốn có thể dạy cho mình một điều gì đó?

RevRoderick Strange

Nguồn: https://www.thetablet.co.uk/features/2/17772/living-in-the-present-moment

Người dịch: Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Cha Roderick Strange là một giáo sư thần học của đại học St. Mary, Twickenham; ngài cũng là Viện Trưởng của Mater Ecclesiae College, một học viện giáo hoàng thuộc đại học St. Mary.  Cuốn sách mới nhất của ngài là Newman: The Heart of Holiness, do Hodder & Stoughton xuất bản.