SỨC MẠNH CỦA SỰ THINH LẶNG

SỨC MẠNH CỦA SỰ THINH LẶNG

J.B Lê Đình Nam

Sự thinh lặng là một trong những trạng thái mà không ít người sợ hãi khi phải đối diện.  Nhưng, sự thinh lặng là khoảnh khắc vô cùng quan trọng để ta lắng nghe khao khát chân thực nơi cõi lòng mình.  Cách riêng trong đời sống đức tin, thinh lặng là giây phút để ta tìm đến Chúa giữa những bộn bề cuộc sống.

Thinh lặng là bí quyết của sự suy ngắm và chiêm ngưỡng.  Nhất là trong thời buổi công nghệ và truyền thông hiện đại thống trị, thinh lặng càng trở nên khó khăn hơn.  Vì thế, thinh lặng là khoảng thời gian rất quý báu.

Đối với người Kitô hữu, một trong những việc quan trọng đó là lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.  Để lắng nghe tiếng Chúa ta cần có một khoảng không gian và thời gian thinh lặng cho sự gặp gỡ với Ngài.  Chỉ có kinh nghiệm về sự thinh lặng và cầu nguyện mới tạo ra môi trường thích hợp cho Lời Chúa được lắng lọng và thấm nhập vào tâm hồn ta.

St Ignatius Loyola.jpg

Nhìn lại hành trình của Chúa Giêsu, ta có thể nói đó là một cuộc đời thinh lặng.  Ngài đến trần gian trong thinh lặng của một trẻ thơ đơn sơ nghèo hèn.  Ngài sống ẩn dật trong thân phận một người thợ mộc vô danh.  Ngài thing lặng 30 năm trong thân phận một người con trong gia đình nhỏ bé Nagiarét.  Ngài đã thinh lặng bước trọn con đường Thập giá giữa những lời sỉ nhục, kết án, giữa nhưng đòn roi, lưỡi đòng…

Và Đức Maria cũng thế, Mẹ đã bắt đầu hành trình thinh lặng từ lời thưa xin vâng.  Mọi biến cố xảy ra với Đức Giêsu đã được Mẹ cất giữ và suy niệm trong lòng.  Mẹ đang thinh lặng đồng hành cùng Chúa trên bước đường truyền giáo và chính Mẹ cũng đã thinh lặng cho đến giây phút chứng kiến con của mình bị treo trên thập giá cho đến chết.

Thật thế, sự thinh lặng nơi Chúa Giêsu hay Đức Maria chính là khoảng thời gian cho Lời Chúa được lắng nghe.  Đó là thời khắc để Lời Chúa hướng dẫn và biến đổi.  Và đó cũng là lúc các Ngài nhận lãnh nguồn ơn thiêng trước những biến cố lớn lao.

“Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!”  Nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: “Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn” (Lc 11:27-28).  Thật vậy, phúc cho Mẹ không chỉ là cưu mang và cho Chúa Giêsu bú mớm, nhưng hơn thế nữa, Mẹ đã để cho Lời Chúa thấm nhuần trên hành trình dương thế của mình; trong thinh lặng Mẹ đã nghiền ngẫm và để Lời Chúa trở nên kim chỉ nam cho cuộc đời Mẹ.

Noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, chúng ta được mời gọi hãy loại khỏi tâm hồn những lo lắng, ồn ào, những sôi sục của hận thù, ích kỷ, những dấu vết của buồn thảm, bi quan.  Thay vào đó bằng một đời sống thinh lặng trong tin yêu và phó thác để chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống.

Trên dòng đời lắm nổi trôi này, sự thinh lặng sẽ giúp ta nhận ra tiếng Chúa giữa những kỳ công của thiên nhiên; biết nhận ra tiếng Ngài trong nơi những mảnh đời khốn cùng bất hạnh, và biết nhận ra tiếng Ngài giữa những thất bại, thử thách.  Nhờ đó, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn biết đáp trả bằng tiếng xin vâng với thái độ nhiệt thành và vui tươi chấp nhận.

J.B Lê Đình Nam

LÒNG TIN CỦA BÀ LỚN THẬT

LÒNG TIN CỦA BÀ LỚN THẬT

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa, tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.  Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.  Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.  Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.  Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.  Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.

Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin: “Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”  Người mẹ đau vì con của mình đau.  Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.  Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.  Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.  Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.

Nguoi dan ba ngoai giao.jpg

Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.  “Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”  Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.  Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.  Người phụ nữ vẫn là người độc thoại. 

Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.  Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình: “Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”  Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.  Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.  Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.  Chị không phải là chiên của nhà Israel.  Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi, vì Cha tôi chưa sai tôi đến.

Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.  Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng, và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.  Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.  Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.

Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin: “Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25); khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).  Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.  Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.  Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con, vì tình yêu nối kết cả hai nên một.

Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.  Người đưa ra lời từ chối thứ hai quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng: “Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”  Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.  Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.  Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.

Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.  Họ tự hào về tính ưu việt của mình trong tư cách là Dân riêng của Chúa.  Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.

Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu, bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.  Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa: “Thưa Ngài đúng thế.  Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”  Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà, không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.  Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái, bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.  Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.  Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.

Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.  Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”  Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).  Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.  Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.  Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.  Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu, và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.  Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…

Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”  Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.  Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt: “Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.

Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.  Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.  Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.  Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.  Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.  Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.  Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai: “Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,” để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”

Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.  Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.  Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.  Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.  Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại, tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.  Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

 Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.  Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

 Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

 Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

TỪ MỘT VŨ NỮ HỘP ĐÊM TRỞ THÀNH NỮ TU

TỪ MỘT VŨ NỮ HỘP ĐÊM TRỞ THÀNH NỮ TU

Chị Anna Nobili là một vũ nữ, nhưng Chúa Giêsu đã mời gọi chị vào đời sống thánh hiến. Hôm nay chị là một nữ tu truyền giáo bằng chính những vũ điệu. Câu chuyện theo đạo của chị và trở thành nữ tu thật tuyệt vời và đầy cảm hứng!

Chị từng là một vũ nữ tại các hộp đêm và chị đã khám phá ra Chúa Kitô và quyết định dâng mình hoàn toàn cho Ngài. Hiện tại chị mở lớp dạy khiêu vũ mang tên Holy Dance, nơi tập hợp các nghệ sĩ Công Giáo.

Dự án của Chị Anna là “loan báo niềm vui Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu và đã sai Con Một của Ngài đến thế gian để nhờ Con của Ngài mà chúng ta được sống.”

Đây là câu chuyện đầy cảm hứng của người vũ nữ gặp thấy Chúa Giêsu và dâng hiến đời sống cho Ngài

Những gì chị đã kinh nghiệm và kể lại như sau: “Thân thể là một điểm kết nối với thế giới siêu việt, nhưng với tôi nó là thế giới giải trí, nó là thế giới của đêm.

Cha mẹ tôi đổ vỡ trong hôn nhân và cuộc sống tuổi thơ của anh em chúng tôi là di chuyển liên tục từ thành phố này qua thành phố khác. Chúng tôi thiếu sự quan tâm và giáo dục từ gia đình. Thậm chí chúng tôi còn sống trong môi trường bạo lực.

Tôi luôn thích khiêu vũ, nhưng tôi rất nhút nhát, nói lắp bắp, và nội tâm bất an. Năm 18 tuổi, sau một cuộc tình nổi loạn với một chàng trai không thành, tôi quyết định đăng ký một khóa học khiêu vũ.
Khóa học do một biên đạo múa từ kênh 5 đưa ra, một kênh truyền hình của Ý, và bất ngờ tôi lên sóng truyền hình vì khuôn mặt của tôi trông rất đẹp trước ống kính . Và vào thời điểm đó tôi bắt đầu sống về đêm ở Milan, vì vậy tôi đã lần lượt đến các quán bar, bởi vì tôi là một vũ nữ.

Mỗi khi trở về nhà là gần sáng, đôi khi trong trạng thái say xỉn và sau đó là cảm giác cô đơn, trống rỗng. Trong một lần, tôi nhận ra rằng thân thể của mình không phải để mua vui cho đàn ông.”
Cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu

“ Mẹ tôi đã theo đạo và đã khám phá về Chúa Giêsu và bà tìm cách cho tôi cũng theo đạo. Bà đưa cho tôi cuốn Kinh thánh và gợi ý cho tôi đọc các Thánh vịnh. Ban đầu tôi đã phản đối lời đề nghị này. Lúc ấy tôi đã xúc phạm mẹ tôi, xúc phạm đến Chúa. Nhưng bà đã cầu nguyện cho tôi. Lời cầu nguyện của mẹ tôi đã được đáp ứng.

Ở tuổi 22, lần đầu tiên tôi biết thế nào là đi dự Thánh lễ và tôi cảm thấy có điều gì đó khác lạ trong tôi nhưng tôi không hiểu điều gì đã làm tôi xúc động.

Rồi ngày càng tiến gần đến với Chúa Giêsu hơn, tôi đến một giáo xứ và tham dự một buổi tĩnh tâm. Lúc ấy, tôi bắt đầu cảm thấy một sự say mê với Chúa Giêsu. Tôi cảm thấy rằng tình yêu của Chúa là chân thực. Cảm giác này đã làm cho tôi mê mẩn .

Tuy nhiên, tôi vẫn còn tiếp tục sống một cuộc sống hai mặt, một vũ nữ về đêm và một tín hữu Công giáo. Cho đến một ngày, khi tôi trở về sau một khóa linh thao, tôi nhận ra rằng Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa hiện diện trong chính thân thể tôi. Và đó là câu Lời Chúa đã thay đổi đời tôi ‘ bạn không biết rằng thân thể bạn là đền thờ Chúa Thánh Thần sao’.

Và tôi quyết định bỏ đi tất cả. Tôi đã tìm được viên ngọc quý là Chúa Giêsu. Tôi khám phá ra rằng viên ngọc quý không phải là tôi mà là Chúa Giêsu. Lời Chúa lại tiếp tục đánh động tôi: “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình.”

Hoàn toàn dâng mình cho Đức Kitô

“Sau đó tôi đến gặp gặp các Nữ tu thuộc Tu hội Nhà Thánh Nazareth và tôi nhận ra rằng Chúa muốn tôi ở cùng với các chị em này . Tôi đã ở lại và trở thành một nữ tu như hôm nay”.

Gx. Cần Giờ – DCCT

Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 1 person, shoes, child and indoor
Image may contain: 3 people, people sitting, people eating, drink, food and indoor

THỜI GIỜ THIÊN CHÚA BAN SỐNG SAO CHO PHẢI ĐẠO LÀM NGƯỜI CON HỮU DỤNG CỦA CHÚA

THỜI GIỜ THIÊN CHÚA BAN SỐNG SAO CHO PHẢI ĐẠO

LÀM NGƯỜI CON HỮU DỤNG CỦA CHÚA

Tuyết Mai

— Chúng ta hằng ngày chứng kiến thấy biết bao nhiêu tai nạn thảm khốc do rất nhiều lý do từ đụng xe chết, bị giựt bóp chết, đánh lộn nhau mà chết, trẻ em bị bắt cóc để lấy nội tạng chết, thai nhi bị nạo ra chết và những cái chết có con số đông người tử vong do nhóm ISIS cực đoan gây ra hay những cuộc biểu tình bạo động và chưa kể những cái chết người không thể tránh khỏi là do thiên tai ập đến.

— Cái chết gần nhất là những người thân thương từ trong gia đình. Ấy thế mà cuộc đời trần gian nó như có ma lực nên ai chết thì đã chết rồi và kể như chấm hết sau cái ngày ma chay và chôn cất họ xong. Có lưu luyến hay không thì ngoài mặt chẳng ai biết cả. Và chắc hẳn những người được chia gia tài, người vay nợ lớn đối với họ là ngày vui hớn hở rất cần được mở tiệc ăn mừng, có cả nhảy đầm như chúng ta thỉnh thoảng thấy.

— Có người thì sống ngày qua ngày cách rất máy móc gần giống như những con robots được cấu tạo để dần thay thế con người trong thời đại ngày của hôm nay vậy. Như các bác sĩ, các y tá, thầy cô giáo, v.v… mà mục đích chính của họ là để phục vụ cho con người nhưng nếu ai không có tiền thì họ sẽ rất dửng dưng không chút quan tâm? Đừng nói chi đến chuyện giữ đạo thưa có phải?

— Thế gian đã dạy hết thảy chúng ta ở tuổi rất sớm là sống phải có tiền, phải có địa vị trong xã hội, phải là người thành công là ông này bà nọ; mà thành công là phải chứng minh qua quyền lực của người đó vì người càng có quyền lực thì càng phải có thật nhiều tiền như hầu hết các tài phiệt hàng tỷ phú trên khắp thế giới. Nhưng đâu có phải sự giàu xụ ấy của họ có thể giúp họ sống đời được đâu?

— Ấy thế mà ít có ai dành thời giờ để chuẩn bị cho mình một cuộc sống hạnh phúc ở đời sau trên Nước Trời cả. Ấy thế mà họ sống như thể họ sẽ luôn tránh được hay thoát khỏi được những tai nạn có thể xảy đến cho họ như rớt máy bay, nhà nằm trên khoảng đất lún. Hay bất thình lình họ bị mang chứng bệnh ung thư ở giai đoạn cuối, bị lây dịch bệnh chết người như Covid-19 hiện nay, v.v…

— Có cặp vợ chồng kia công nhận họ giỏi lắm, cứ mỗi năm họ làm ăn gian dối tiền của chính phủ nên năm nào họ cũng sắm được một dãy tòa nhà để cho mướn từ 1 triệu cho đến 2 triệu đô la. Nhưng nhìn thật sâu vào gia đình của họ thì thật là buồn đến thê thảm. Vợ chồng thì như sống hờ với nhau qua mối liên hệ chỉ trên tiền bạc và giấy tờ. Con thì mang bệnh trầm kha thật lâu rồi chết vì thiếu sự chăm lo tận tình của người mẹ. Con trai thì hư hỏng theo băng đảng vì biết cha mẹ quá giàu.

— Có phải vì lòng người Tham Lam nên bị chúng quỷ bịt mắt và làm lòa đôi con mắt nên chẳng còn thấy Thiên Chúa ở đâu nữa và nguy hiểm hơn cả ở điều mà chúng mê hoặc để chúng ta chẳng bao giờ có thời giờ nghĩ đến cái Chết. Cho đến một ngày rất không ngờ thì cái Chết đến; thì hỡi ôi đã quá muộn màng, không còn kịp để cứu linh hồn của mình nữa.

— Lạy Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương! Xin ban cho hết thảy chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban vào những công việc hữu ích làm cho đời sống tốt lành hơn; nhất là từ trong gia đình của chúng con. Xin gìn giữ xác hồn của chúng con. Giúp chúng con luôn biết làm giàu thêm nữa trong nhân đức … là biết giúp đỡ, chia sẻ cho những ai nghèo khổ, khốn cùng, khuyết tật đang sống hằng ngày chung quanh chúng con. Amen.

Y tá con của Chúa,
Tuyết Mai
12 tháng 8, 2020

HƯỚNG LÒNG VỀ TRỜI VỚI MẸ

HƯỚNG LÒNG VỀ TRỜI VỚI MẸ

 Huệ Minh

Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và luồng thần học đó xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Với lý luận cũng như lập trường của họ, họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ.

Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn. Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.

Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc.”

Và khởi đi từ lời tuyên bố trong Thánh Lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.

Mở ra những trang Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, ta thấy 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:

20 - Mẹ Lên Trời 07.jpg

Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con.  Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.

Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.

Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng Satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.

Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.

Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời.”

Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.

Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu.”  Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha.  Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian.  Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.

Thị kiến kỳ lạ mà Gioan đã thấy và đã ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước tòa Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12, 10).  Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.

Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo).  Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,…

Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45, 10-12).

Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác.  Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).

Với lời Xin Vâng và bằng lời Xin Vâng trót cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.

Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.

Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình.

Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa; nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu… như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.”

Và vào ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội, Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.

Và rồi Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.

Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.

Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì  có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.

Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là chúng ta xác tín lại niềm tin của chúng ta vào Chúa Giê-su: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Xin Đức Mẹ Maria luôn cầu bàu cho mỗi người chúng ta khi còn ở đời này, biết yêu mến những sự trên trời và để sống như đang sống với Mẹ ở trên trời.

Huệ Minh

From: Langthangchieutim

XIN CHO ĐƯỢC ĂN Ở KHÔN NGOAN THEO THÁNH Ý CHÚA

XIN CHO ĐƯỢC ĂN Ở KHÔN NGOAN THEO THÁNH Ý CHÚA

Tuyết Mai

— Anh em thân mến, anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. (Ep 5, 15-20).

**
— Phải chăng tất cả những ai đang sống trong ơn Chúa Thánh Thần đều được Người mạc khải cho hiểu những lời nói trên của Thánh Phao-lô là đúng, là rất thiết yếu trong cuộc sống ngày qua ngày trên trần gian đầy dẫy những tội lỗi, cám dỗ và quyến rũ?. Có ơn Chúa Thánh Thần thì Người sẽ mở lòng mở trí, mở trái tim cho chúng ta cảm nhận được sự sống đời sau mới vô cùng quan trọng; không như cuộc sống tạm bợ trên trần gian này. Nó cho chúng ta đầy khổ ải, phong ba và bão táp mà chúng ta lại cứ muốn được sống mãi, sống hoài.

— Có ơn Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhận biết được những gì nên tránh, buông bỏ hay khai trừ. Hiểu được sự khôn ngoan của trần gian tất cả đều cho ta sự mệt mỏi và chỉ làm phí thời giờ Chúa ban. Có ơn Chúa, chúng ta cảm thấy như không còn phải lo lắng gì cho ngày mai như ăn gì hay mặc gì, mà thật thoải mái an bình tuy dù mọi người chung quanh chúng ta phải tất bật, vất vả và lo toan đủ mọi điều cả những điều không cần thiết. Quan trọng nhất vẫn là chúng ta có được Bình An của Chúa.

— Sự bình an này không phải ai cũng dễ có đâu. Không phải Chúa dạy chúng ta là đổ lười không làm ăn gì để nuôi sống bản thân, gia đình hay giúp đỡ anh chị em nhưng Chúa dạy tất cả chúng ta là trước hết hãy tìm kiếm Nước Trời và mọi sự ở trên Trời; còn những thứ khác Người sẽ lo liệu và thêm cho nhất là phần Linh Hồn sống đời của chúng ta.

— Tìm đến Chúa thật là điều dễ dàng để làm. Cần thiết là chúng ta xin Chúa tha tội vì Chúa biết rõ từng tội một. Chúng ta cần kiên nhẫn tìm đến với Thiên Chúa luôn vì không phải Thiên Chúa xa lánh chúng ta nhưng vì những gì chúng ta đeo đuổi nơi trần gian này đã làm chúng ta chọn xa lánh Thiên Chúa. Thiên Chúa Người là Đấng Thiện Hảo và Lành Thánh mà trong chúng ta lại chứa đựng tất cả những gì là gian xảo, là xấu xa nhưng cố tình không muốn từ bỏ thì chúng ta sẽ không thể nào Gặp được Người đâu. Vì Chúa dạy chúng ta là không được làm tôi hai chủ.

— Bản tánh con người yếu đuối của chúng ta thì muôn đời đều có một mẫu số chung là cái gì mình có được trong tay, cầm được, sờ được, thấy được thì chúng ta mới cảm thấy có được sự bình an. Còn những gì lờ mờ khó hiểu, không thấy, không cảm nhận được, chỉ trên sách vở thì chúng ta đều coi là không thật. Vì chọn giữa Tiền và Thiên Chúa thì phải công nhận Chúa ở phần yếu hơn tiền? Bởi đơn giản chúng ta tin là tiền thì mua được tất cả. Còn Thiên Chúa thì không.

— Ấy vậy cho nên Thánh Phaolô đã cố gắng dạy chúng ta làm cho được những điều thiện hảo như trên. Vì Thiên Chúa Người là Đấng quyền năng vô song; không gì khôn ngoan cho bằng là chúng ta tìm đến Thầy chí thánh chí ái của chúng ta là Đức Giêsu Kitô vì Ngài là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống Muôn Đời của tất cả toàn thể nhân loại chúng ta. Amen.

Y tá con của Chúa,
Tuyết Mai

13 tháng 8, 2020

Bài 5 – Cầu nguyện: Cuộc Hành Trình của Tổ Phụ Abraham


ĐTC Phanxicô – Giáo Lý về Cầu Nguyện:

Bài 5 – Cầu nguyện: Cuộc Hành Trình của Tổ Phụ Abraham

Xin chào anh chị em thân mến,

Có một tiếng nói bỗng nhiên vang vọng trong đời sống của Abraham. Một tiếng nói mời gọi ông thực hiện một cuộc hành trình có vẻ ngu dại: một tiếng nói thôi thúc ông bật gốc khỏi quê quán của ông, khỏi gia đình quyến thuộc của ông, để tiến đến một tương lai mới, một tương lai khác. Hoàn toàn căn cứ vào một lời hứa hẹn mà ông chỉ biết tin tưởng. Mà việc tin tưởng vào một lời hứa hẹn nào đó đâu có phải là chuyện dễ; người ta cần phải can đảm. Nhưng Abraham đã tin tưởng.

Thánh Kinh không hề đề cập gì đến quá khứ của vị Tổ Phụ tiên khởi này. Theo suy đoán tự nhiên thì người ta có thể cho rằng ông đã tôn thờ các vị thần linh khác; có lẽ ông là một con người khôn ngoan, thông biết về bầu trời cùng trăng sao tinh tú. Chính vì thế mà vị Chúa mới hứa hẹn với ông rằng con cháu của ông sẽ nhiều như sao lốm đốm trên bầu trời.

Thế rồi Abraham ra đi. Ông lắng nghe tiếng của Thiên Chúa và tin tưởng vào lời của Ngài. Điều quan trọng ở đây là ông tin tưởng vào lời của Thiên Chúa. Bằng việc lên đường ra đi của ông đã hiện lên một cách thức mới liên quan đến mối liên hệ với Thiên Chúa; chính vì lý do này mà Tổ Phụ Abraham hiện lên, nơi truyền thống thiêng liêng của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, như là một con người trọn hảo của Thiên Chúa, ở chỗ phục tùng Ngài, cho dù Ý Muốn của Ngài được tỏ ra một cách gay go, nếu không muốn nói là hoàn toàn không hiểu nổi.

Bởi vậy mà Abraham là một con người của Lời Chúa. Khi Thiên Chúa nói, con người trở thành thụ nhân của Lời ấy, và đời sống của họ trở thành nơi cần cho Lời Chúa nhập thể. Đó là một tính chất rất mới mẻ trong hành trình tôn giáo của con người: đời sống của tín hữu bắt đầu được cưu mang như là một ơn gọi, tức như là một tiếng gọi, như là một nơi chốn cho lời hứa hẹn được hiện thực; và con người di chuyển trên thế giới này không phải bị đè nặng bởi một cái gì đó bí mật khó hiểu, mà bằng quyền lực của lời hứa hẹn ấy, một hứa hẹn sẽ được hiện thực vào một ngày nào đó. Abraham đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa. Ông đã tin và đã ra đi, không biết rằng mình đi đâu – như Thư Do Thái viết (11:8). Nhưng ông đã tin tưởng.

Đọc Sách Khởi Nguyên, chúng ta khám phá thấy Abraham đã sống cầu nguyện ra sao trong việc liên tục trung thành với Lời Chúa, những lời đã hiện lên dọc theo cuộc hành trình của ông từng giai đoạn một. Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng, nơi đời sống của Abraham, đức tin đã trở thành lịch sử. Thật vậy, bằng đời sống của mình, với gương mẫu của mình, Abraham đã dạy chúng ta cách thức này, đường lối ấy, những gì làm cho đức tin trở thành lịch sử. Thiên Chúa không còn được thấy chỉ ở các hiện tượng vũ trụ, như là một vị Thiên Chúa xa cách, Đấng có thể ra tay đáng sợ. Vị Thiên Chúa của Abraham trở thành “Thiên Chúa của tôi”, vị Thiên Chúa cho chuyện đời tư của tôi, Đấng dẫn dắt các bước chân tôi đi, Đấng không bỏ rơi tôi, Vị Thiên Chúa của những ngày giờ của tôi, vị đồng hành của những cuộc mạo hiểm của tôi – Vị Thiên Chúa Quan Phòng. Tôi tự vấn mình và xin hỏi anh chị em nhé: chúng ta có cảm nghiệm về Thiên Chúa ấy hay chăng? Về “Vị Thiên Chúa của tôi”, Vị Thiên Chúa đồng hành với tôi, vị Thiên Chúa trong câu chuyện đời tư của tôi, Vị Thiên Chúa dẫn dắt các bước chân tôi đi, Đấng không bỏ rơi tôi, Vị Thiên Chúa của những tháng ngày đời tôi? Chúng ta đã có được cảm nghiệm ấy chăng? Chúng ta hãy nghĩ về nó một chút đi.

Cảm nghiệm này của Abraham cũng được chứng thực bởi một trong những bản văn ngay từ đầu của lịch sử khoa linh đạo nữa, đó là cuốn Tưởng Niệm của Blaise Pascal. Nó được bắt đầu như thế này: “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, chứ không phải là Thiên Chúa của các triết gia và của những con người hiền triết. Chân thực, chân thực. Cảm thức. Niềm Vui. An Bình. Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô”. Cuốn Tưởng Niệm này, được viết trên một mảng giấy bằng da nhỏ, và được tìm thấy sau khi ông qua đời, được thêu ở bên trong một chiếc áo của nhà triết gia, không diễn tả một thứ suy niệm về trí thức mà một hiền triết có thể nghĩ về Thiên Chúa, mà là một cảm quan sống động được trải nghiệm trước sự hiện diện của Ngài. Pascal thậm chí còn ghi nhận những lúc chính xác giây phút ông đã cảm thấy thực tại ấy, để rồi cuối cùng ông đã gặp thấy nó, đó là vào đêm 23/11/1654. Ngài không phải là một Vị Thiên Chúa trừu tượng hay là một Vị Thiên Chúa vũ trụ – không. Ngài là Vị Thiên Chúa của một ngôi vị, của một tiếng gọi, Vị Thiên Chúa của Abraham, của Issac, của Giacóp, Vị Thiên Chúa là những gì chân thực, cảm thức, hân hoan.

Lời cầu nguyện của Abraham trước hết được bày tỏ bằng những việc làm: là một con người tĩnh lặng, ông đã lập một bàn thờ cho Chúa ở mỗi đoạn đường đi” (Catechism of the Catholic Church, 2570). Abraham không kiến thiết một đền thờ, nhưng rải trên đường đi các viên đá nhắc nhở về việc trải qua của Thiên Chúa. Một Vị Thiên Chúa lạ lùng, như khi Ngài thăm ông duới hình thù của 3 người khách, những vị cả ông lẫn Sara cùng tiếp đón, và được các vị báo cho biết về việc đứa con trai Isaac của ông bà (xem Khởi Nguyên 18:1-15). Abraham bấy giò đã đến 100 tuổi và vợ ông hơn kém 90. Họ đã tin, họ tin Thiên Chúa, và Sara, vợ ông, đã thụ thai – ở vào tuổi ấy! Đó là Vị Thiên Chúa của Abraham, Vị Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đồng hành với chúng ta.

Bởi vậy Abraham đã trở nên thân thiết với Thiên Chúa còn có thể lý sự với Ngài nữa, nhưng bao giờ cũng trung tín. Ông đã nói với Thiên Chúa và biện luận với Ngài. Cho đến khi Thiên Chúa thử thách ông hết cỡ, khi Ngài yêu cầu ông hiến tế người con trai Isaac của ông, người con trong lúc tuổi già của ông, người con nối dõi duy nhất của ông. Đến đây Abraham đã sống đức tin như là một thảm trạng, khi mò mẫm bước đi trong đêm tối, dưới bầu trời bấy giờ chẳng còn tinh tú. Nhiều lần nó cũng xẩy ra cho cả chúng ta nữa, khi chúng ta bước đi trong tăm tối, chỉ bằng đức tin. Chính Thiên Chúa đã giữ bàn tay Abraham đang sửa soạn đâm xuống đứa con lại, vì Ngài đã thấy được những gì trọn vẹn hy sinh không tiếc xót của ông (xem Khởi Nguyên 22:1-19).

Thưa anh chị em, chúng ta học được từ Abraham, chúng ta học biết cầu nguyện bằng đức tin, ở chỗ lắng nghe Chúa, bước đi, đối thoại đến biện luận. Chúng ta không sợ biện luận với Thiên Chúa! Tôi đang nói một cái gì đó như thể lạc giáo. Nhiều lần, tôi đã nghe dân chúng nói cùng tôi rằng: “Cha biết đó, điều ấy đã xẩy đến cho con, nên con tức giận Chúa”. “Con dám tức giận Chúa hả?” “Đúng thế, con tức giận đấy”. “Thế nhưng, đó lại là một hình thức cầu nguyện”, vì chỉ có một đứa con mới có thể tức giận với cha của mình, sau đó lại gặp gỡ Ngài. Chúng ta học được từ Abraham cách lấy đức tin mà cầu nguyện, mà đối thoại, mà biện luận, thế nhưng bao giờ cũng phải sẵn sàng đón nhận Lời Chúa mà đem ra thực hành. Chúng ta học biết nói chuyện với Chúa như con cái với cha mình: ở chỗ nghe Ngài, đáp ứng, biện luận, thế nhưng một cách tinh ròng, như một người con với người cha. Abraham dạy chúng ta cầu nguyện như thế đó. Xin cám ơn anh chị em.

https://zenit.org/articles/popes-general-audience-on-the-prayer-of-abraham-full-text/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và các chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu

Kho báu núi Tàu

Khám phá kho báu Tin mừng – LÊ ANH CHUYỂN
(Suy niệm Tin mừng Mát-thêu (13, 44-46) trích đọc vào Chúa nhật 17 thường niên)

Kho báu núi Tàu – LM Trần Ngà

Đây là câu chuyện được báo chí trong nước loan tải khá nhiều trong những năm gần đây, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả.

Từ năm 1963, cụ Trần Văn Tiệp nắm được những thông tin rất thuyết phục cho rằng trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Việt Nam, quân đội Nhật Bản sau khi bị quân đồng minh đánh bại, được lệnh rút khỏi Việt Nam, có mang đi một khối lượng vàng rất lớn nhờ vơ vét được tại các nước châu Á mà họ chiếm đóng, nhưng vì bị phe đồng minh ngăn chận, quân Nhật không thể chuyển ngay số vàng mà họ chiếm được về nước nên đã chôn giấu chừng 4.000 tấn vàng trên núi Tàu, một ngọn núi nhỏ thuộc huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, để chờ khi có cơ hội thuận tiện sẽ đưa về Nhật sau.

Thế là cụ Tiệp ấp ủ giấc mơ tìm cho được kho báu đó với ước tính lên đến 4.000 tấn vàng suốt mấy chục năm và cuối cùng, cụ đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận cho phép thăm dò và khai thác. Cụ đã đầu tư rất nhiều tiền bạc cho dự án này, nhưng không may, đến tháng 3 năm 2015, giấy phép hết hạn nên cụ phải ngừng công cuộc thăm dò mà vẫn chưa tìm thấy dấu vết kho tàng.

Câu chuyện nầy liên quan mật thiết với dụ ngôn Chúa Giê-su dạy hôm nay:
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
“Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”

Kho báu quý nhất trên đời

Có một kho báu triệu lần đáng quý hơn bất cứ kho báu nào khác ở trần gian đang nằm trong tầm tay chúng ta nhưng tiếc thay, có nhiều người không biết đến, đó là Lời Chúa phán dạy trong Tin mừng, ta gọi đó là kho báu Tin mừng.

– Kho báu Tin mừng đáng quý triệu lần hơn mọi báu vật trần gian vì nhờ lời Chúa dạy trong Tin mừng mà muôn người được cứu rỗi và được hưởng phúc thiên đàng đời đời vinh hiển.

Các thánh Tông đồ, các thánh nam nữ được hưởng phúc thiên đàng không phải vì chiếm hữu được kho báu trần gian, không phải vì có nhiều vàng ngọc châu báu… nhưng vì các ngài thủ đắc được kho tàng lời Chúa trong Tin mừng và áp dụng những lời khôn ngoan đó vào cuộc sống.

– Kho báu Tin mừng đáng quý triệu lần hơn mọi báu vật trần gian vì khi được thấm nhuần những lời dạy của Tin mừng, tính nết con người được cải thiện, phẩm chất con người được nâng cao, đời sống con người thêm hạnh phúc… trong khi những người nắm giữ kho báu trần gian dễ bị sa đọa vì xa hoa và lạc thú do tiền tài mang lại, nên dễ dàng đánh mất hạnh phúc thiên đàng.

Kiên tâm tìm kiếm kho báu Tin mừng

Cụ Trần Văn Tiệp đã thao thức tìm kiếm kho báu núi Tàu gần 50 năm, mãi cho đến lúc lìa đời vào năm 2016; Còn chúng ta, chúng ta có chấp nhận bỏ ra mỗi ngày mươi phút để khai thác kho báu Tin mừng hay không?

Kho báu trần gian thường nằm ở chốn rừng hoang, ở những nơi xa xôi hiểm trở hoặc dưới lòng đất sâu… nên cần phải mạo hiểm, cần đầu tư rất nhiều tiền bạc và công sức may ra mới chiếm hữu được; trong khi kho báu Tin mừng nằm trong tầm tay mọi người, muốn khai thác lúc nào cũng được mà không phải tốn kém. Vậy thì chúng ta hãy khởi sự khai thác ngay hôm nay để làm giàu cho đời sống thiêng liêng của mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Rất nhiều người nao nức, háo hức tìm kiếm kho báu trần gian nhưng rất hiếm người tìm gặp; còn bất cứ ai khao khát tìm kiếm kho báu Tin mừng chắc chắn sẽ được toại nguyện như lời Chúa nói: “Ai tìm thì sẽ được, ai gõ thì sẽ mở cho.”
Và cho dù chúng con có thu tóm “được mọi kho báu trên thế gian này mà mất linh hồn thì cũng chẳng được ích gì.”

Vì thế, chỉ có kho báu Tin mừng là bảo vật cao quý nhất, cần thiết nhất mà mỗi người chúng con phải ra công tìm tòi khám phá và sở hữu cho bằng được, nhờ đó, chúng con sẽ trở nên người nhân đức thánh thiện ở đời này và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng mai sau.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Mát-thêu 13, 44-46 hoặc 44-52

44 “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
45 “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.46 Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.

KHI HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CÓ SÓNG GIÓ

KHI HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CÓ SÓNG GIÓ

 Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

Vào khoảng năm 860 trước công nguyên, vương quốc Israel bị ảnh hưởng bởi tà giáo.  Vua Ahab và hoàng hậu Izabel nuôi dưỡng hàng ngàn tiên tri Baal.  Nhiều đền thờ thần thoại được xây lên.  Dân chúng cũng hùa theo việc cúng bái Baal.  Nhưng tiên tri của Giavê Thiên Chúa là Êlia vẫn can đảm đương đầu với đám đông phản trắc để bênh vực chính giáo.

Một mình ông dám thách thức 450 tiên tri Baal hãy chứng minh cho toàn dân biết đâu là Chúa thật.  Êlia bảo người ta bắt hai bò tơ để đôi bên cùng xẻ thịt, đặt lên củi, và khẩn cầu.  Thần linh nào đáp lời nguyện xin, cho lửa xuống thiêu cháy đống củi cùng của lễ, thì đó chính là Đấng mọi người phải tôn thờ.

Sau khi giết bò và chất lên bàn thờ, 450 tiên tri và tư tế Baal bắt đầu kêu khấn: “Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi.” Nhưng không một tiếng trả lời!  Họ bắt đầu nhảy nhót như kiểu lên đồng.  Nhưng cũng chẳng thấy ai đáp lại!  Êlia mới chế nhạo: “Các ngươi phải kêu lớn lên nữa.  Không chừng thần linh đang suy tính hay bận rộn chuyện gì; cũng có thể ngài đi vắng hoặc đang ngủ.  Đánh thức ngài dậy đi!”  Các môn đệ thần Baal ra sức kêu gào, lại còn rạch mình cho máu chảy lai láng như kích động lòng trắc ẩn của thần linh.  Nhưng vẫn không thấy gì.

Lúc này Êlia mới giơ tay cầu nguyện: “Lạy Giavê Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, ước gì hôm nay người ta nhận biết chính Người… xin nhậm lời tôi” (1 V 18,36-37), và lập tức Giavê cho lửa từ trời thiêu cháy hết mọi của lễ của Êlia.  Thấy vậy, toàn dân tung hô Thiên Chúa.  Thế rồi, khi được lệnh của Êlia, họ đem các tiên tri và tư tế Baal xuống núi giết sạch.

Chuyện xảy ra quá bất ngờ khiến hoàng hậu Izabel bàng hoàng căm tức.  Bà thề sẽ lấy mạng Êlia bằng mọi giá.  Khi biết thế, vị tiên tri tức tốc lên đường lánh nạn.  Sau một ngày trốn chạy vất vả trong vùng sa mạc khô khan, ông cảm thấy mệt mỏi chán chường.  Con người can đảm và nhiệt thành hôm nào bây giờ lại rơi vào tình trạng hoang mang cực độ đến nỗi muốn chết cho yên.  Ông thốt lên: “Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì các bậc tổ tiên.”

Người hùng của Thiên Chúa mà cũng có lúc đảo điên như thế thì huống chi là tôi!  Thế nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.  Kinh thánh kể tiếp:

Chính trong giây phút giao động và chán nản đó của người hùng, sứ thần Thiên Chúa đã đến nâng đỡ ông bằng bánh và nước.  Êlia đã ăn và uống.  Sau đó tiếp tục hành trình 40 ngày đêm đến núi Sinai.  Tại đây ông đi vào cuộc gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa.  Cuộc gặp gỡ xảy ra không phải trong bão tố, đất động hay lửa chớp, nhưng trong làn gió thoảng đưa.

Từ trong làn gió thoảng ấy, Thiên Chúa cất lời nâng đỡ và chỉ dẫn Êlia.  Cuộc gặp gỡ thân tình với Giavê đã kéo ông khỏi hố sâu của lao đao thất vọng.  Kết quả, Êlia tìm lại được bình an và sức mạnh nội tâm, tiếp tục ra đi chu toàn sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa.

Thiết tưởng hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những lúc khốn khó lao đao như Êlia vậy.  Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe dọa, và bao chước cám dỗ tấn công.  Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ, đam mê.  Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng ngũ các tông đồ, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi “sắp chìm xuống” (Mt 14,30).  Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, “Lạy Thầy, xin cứu con”, thì bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.

Cho đến hôm nay, những người theo Đức Kitô vẫn chưa hết bị sóng gió trần gian bủa vây, không chỉ là những truân chuyên trong cuộc sống, nhưng còn là những cám dỗ tinh vi của quỷ ma.  Nhưng liệu trước các phong ba dữ dằn đó, tôi có nghe được tiếng nói đỡ nâng và nhắc nhở của Thiên Chúa chăng?  Lắm khi tiếng nói của Ngài rất nhẹ nhàng như “gió hiu hiu thổi” chứ không phải như tiếng đất động, bão tố hay hỏa hoạn.

Thử hỏi: nếu là một thanh niên hay thiếu nữ đang tuổi lớn lên, trước những lời réo gọi của đam mê xác thịt, liệu tôi có nghe được tiếng nhắc nhở “phúc cho ai có lòng trong sạch” nơi lương tâm để vượt thoát cạm bẫy dục tình và tiến lên núi cao với Chúa không?

Nếu vì nhẹ dạ mà sa ngã hay mang thai, trước những sóng gió của từ khước khinh bỉ, hay giòng xoáy phá thai của thời đại muốn nhận chìm sự sống, liệu tôi có nghe được tiếng bảo thì thầm trong lương tâm rằng “phá thai là giết người,” và rồi hướng nhìn lên Chúa, kêu nài một sự đỡ nâng an ủi không?

Nếu là người mẹ có đứa con hư dại hay người vợ có ông chồng hủ bại, liệu tôi có nghe được lời nhắc nhở “hãy vững tin” của Đức Giêsu để tiếp tục hành trình làm nhân chứng cho đạo Chúa không?

Nếu là người cha phải lao đao vì trách nhiệm gia đình, bị giông tố của xã hội tấn công, bị chèn ép, hiểu lầm, khích bác…, liệu tôi có nghe được tiếng nói “Đừng sợ, có Ta đây”, và rồi đưa tay cho Đức Giêsu để Ngài kéo lên không?

Cuộc đời người Kitô hữu được ví như hành trình tiến lên núi Thánh giữa sa mạc nắng cháy, hay như chiếc thuyền đang tìm về bến bờ giữa bao sóng to, gió ngược.  Không có ơn Chúa đỡ nâng, chắc chắn con người sẽ ngã gục.  Cũng như nếu không có những chiếc bánh và ấm nước Thiên Chúa trao cho, Êlia đã bỏ cuộc giữa đường; hay nếu không có bàn tay Đức Giêsu giơ ra kéo lên, Phêrô đã chìm sâu trong sợ hãi và hoang mang.

Song khi có Chúa, bình an và sức mạnh sẽ đến.  Dù giông tố và thách đố trần gian cứ xảy ra, con thuyền đời tôi vẫn thẳng tiến, vì có Thiên Chúa đồng hành.

Nhưng để được như thế, có lẽ tôi phải không ngừng kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con” (Mt 14,30).

Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

From: Langthangchieutim

Con người ta chết có phải là hết hay không?

https://www.facebook.com/suthatvatruyenthong/videos/902216540296614/?t=8

Tinh Hoa TV

Con người ta chết có phải là hết hay không?

Đã có rất nhiều nhà khoa học cùng biết bao máy móc hiện đại chỉ để tập trung khám phá bí ẩn của mộng mị… Và điều kỳ lạ trong những giấc mơ xảy ra thật nơi hiện thực vẫn khiến không ít người chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ…

Nguồn: ĐKN.

Bác sĩ Rajiv Parti: Trải nghiệm cận tử và thông điệp mang về từ địa ngục.

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and Kieu Loan.
Đọc và cảm nhận – Những cái chết lâm sàng – những nghiên cứu khoa học và lời kể của những con người đã trải qua cận tử.

Tôi và bạn có thể/hoặc từng là một người hết sức ích kỷ.

Cần phải thay đổi phương thức hành xử với người khác.

– “Tôi từng là một người hết sức ích kỷ”,

– “Dù là một bác sỹ có kỹ thuật tốt, nhưng tôi không có sự đồng cảm với những người bệnh.”

Xin mời các bạn cùng đọc:

*

Bác sĩ Rajiv Parti: Trải nghiệm cận tử và thông điệp mang về từ địa ngục.

Tác giả: Minh Ngọc

Trí thức VN 27/07/2017 •

Một vị bác sĩ tin rằng ông đã thực sự đi xuống địa ngục và sau đó quay trở lại nhân gian. Trải nghiệm đầy kinh ngạc này cũng đã mở ra một trang hoàn toàn mới cho cuộc đời của ông.

Ảnh 1: Bác sĩ người Ấn Độ Rajiv Parti hiện đang sống ở California (ảnh chụp/Youtube).

Ảnh 2: Hình bìa cuốn sách Dying To Wake Up (Tạm dịch: Chết để thức tỉnh) của bác sĩ Rajiv Parti.

Trước đây, vị tiến sĩ gốc Ấn Độ Rajiv Parti, từng là một bác sĩ thành công trong đỉnh cao sự nghiệp, ông kiếm được rất nhiều tiền, muốn gì có nấy, nói một cách khác thì cuộc sống vô cùng sung túc. Ông là một bác sĩ, trưởng khoa gây mê hồi sức tại Bệnh viện Tim Bakersfield ở California.

Qua nhiều năm làm nghề y, ông đã được nghe nhiều bệnh nhân chia sẻ về trải nghiệm linh hồn xuất ra khỏi thân thể nhưng ông vẫn luôn không để tâm, cho đến tận khi bản thân ông thể nghiệm được cảm giác cận tử.

Năm 2008, bác sĩ Rajiv Parti từng bị chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Ông đã trải qua nhiều ca phẫu thuật để cắt bỏ khối u, nhưng bệnh trạng ngày càng trầm trọng. Hai ngày trước Lễ Giáng sinh năm 2010, ông trở bệnh và có các triệu chứng sốc nhiễm khuẩn, phải nhập viện và phẫu thuật khẩn cấp một lần nữa.

Rajiv Parti kể lại, chính là trong lần phẫu thuật này, linh hồn của ông đã rời khỏi thân thể, đi đến địa ngục. Ông có thể nhìn thấy bản thân mình nằm trên bàn mổ, sau này còn thuật lại được những lời tán dóc mà các bác sĩ phẫu thuật lúc đó nói với nhau.

Trong cuốn sách Dying To Wake Up (Tạm dịch: Chết để thức tỉnh) của mình, ông đã viết: “Tôi có thể dễ dàng hồi tưởng lại toàn bộ quá trình trải nghiệm cận tử của mình. Tại biên giới của địa ngục tôi đã gặp người cha quá cố của mình, cũng nhìn thấy được một vài kiếp sống mình từng trải qua, những điều này đã giải thích đầy đủ những khúc mắc tâm lý trong đời tôi. Tôi còn vinh hạnh gặp hai vị giám hộ thiên sứ Raphael và Michael, toàn thân họ bao phủ bởi ánh sáng rực rỡ, họ bước ra từ một biển hoa, trên thân tỏa ra một sức mạnh thiện lương chân chính khó có thể biểu đạt bằng lời.”

Bác sĩ Patty cũng nhớ lại, khi cận kề cái chết, các thiên sứ nói với ông cần phải thay đổi phương thức hành xử với người khác. “Tôi từng là một người hết sức ích kỷ”, ông nói, “Dù là một bác sỹ có kỹ thuật tốt, nhưng tôi không có sự đồng cảm với những người bệnh.”

“Khi ý thức của tôi rời khỏi thân thể, tôi có thể nhìn thấy cảnh tượng phẫu thuật mình, có thể ngửi thấy mùi thuốc sát trùng, nghe được từng lời các bác sĩ phẫu thuật nói.”

Các bác sĩ phẫu thuật cho rằng đã gây mê Rajiv Parti chưa đủ sâu, nên khi phẫu thuật rơi vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Nhưng Rajiv Parti khẳng định: “Tôi không hề cảm thấy đau đớn, nên tôi biết rằng không phải như vậy.”

Rajiv Parti còn thấy mẹ và em gái. Mẹ ông mặc bộ đồ truyền thống sari (trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ), em gái thì mặc quần bò, áo lửng màu xanh đang ngồi ở nhà. Họ đang cùng chuẩn bị bữa tối. Tiếp đó, ông thấy cảnh tượng u ám, những đám mây đen kịt, sấm sét, một ánh lửa lóe lên và sự xuất hiện của những con vật có sừng dài. Ông còn nhìn thấy cả bệnh nhân cũ và những người mà ông từng cáu giận với họ.

Khi nhìn thấy cảnh tượng khủng khiếp tại biên giới địa ngục, ông đã tự hỏi bản thân: “Tại sao mình lại ở đây? Mình đã làm những gì mà lại phải đến cửa địa ngục thế này?” Ông nghĩ lại: “Mình không đối xử tốt với các bệnh nhân của mình. Khi gặp gỡ người khác, mình luôn nghĩ xem có thể nhận được thứ gì tốt đẹp từ họ không?” Nỗi sợ hãi dâng trào, và trong cơn tuyệt vọng khi sắp bị kéo vào đại ngục, ông đã cầu nguyện một cơ hội để chuộc lại những lỗi lầm.

Lúc đó, cha của Rajiv Parti đã hiện ra và đưa ông tới một đường hầm đầy ánh sáng, “Nơi đó ngập tràn ánh sáng mặt trời, nhưng lại không khiến người ta chói mắt.” Người cha trong ký ức thời thơ ấu của ông luôn khắt khe và độc đoán ấy đã ôm ông vào lòng và nói rằng chỉ có tình yêu thương là điều đáng trân trọng nhất trên thế giới này.

Sau cùng, hai thiên sứ Michael và Rapheal đã đưa ông đến một nơi rực rỡ ánh sáng. Các thiên sứ khi ấy đã chỉ cho ông một hướng nhân sinh mới: “Hãy thay đổi cách đối xử với mọi người, thay đổi cách hành xử với bệnh nhân”. Họ cũng nói: “Hiện tại đã đến lúc điều trị các loại bệnh trong tâm ông rồi: Đó chính là bệnh nghiện uống thuốc, trầm cảm, các bệnh mãn tính và ung thư”.

Sau khi trở về, vị bác sĩ này cho rằng ông có sứ mệnh kể lại những trải nghiệm trong địa ngục cũng như bài học giáo huấn mà ông nhận được. Ông bỏ nghề bác sĩ, bán hết tài sản kể cả căn nhà sang trọng và hàng loạt xe hơi giá trị để sống một cuộc sống thanh đạm. Ông khẳng định:

“Mục đích nhân sinh hiện tại của tôi chính là truyền lại những chân lý này cho người khác.”

Thông qua cuốn sách “Dying to Wake Up” và những trải nghiệm cận tử chân thực, Rajiv Parti hy vọng có thể giúp những ai đang đau khổ trầm luân có thể tìm ra đáp án nhân sinh cho mình.

Nhiều người trong chúng ta sẵn sàng tin vào linh hồn bất diệt, cũng hy vọng cuộc sống kiếp sau có thể hạnh phúc vui vẻ. Hy vọng quyển sách này có thể trở thành một động lực để cho nhiều người học theo, tránh làm hại người khác nữa.

Trong lịch sử nhân loại có nhiều nền văn minh tin rằng thiện ác hữu báo. Thiên Chúa giáo cũng giảng làm người tốt có thể lên thiên đường, Phật giáo chú trọng giảng tu thiện. Cổ nhân cũng có câu “gieo nhân nào gặp quả nấy”, những triết lý này kỳ thực đều khuyến đạo, hướng con người ta duy trì những tiêu chuẩn đạo đức tốt đẹp.

Minh Ngọc

———————

Xem thêm:

>> Nghiên cứu hàng ngàn trải nghiệm cận tử: Tinh thần con người độc lập với bộ não

>> Nghiên cứu lớn nhất về trải nghiệm cận tử: Những ký ức khi tim đã ngừng đập.

>> Cựu chiến binh Mỹ kể lại trải nghiệm cận tử trong chiến tranh Việt Nam (video)

—————
Nguồn: Trí thức VN
https://m.trithucvn.org/…/bac-si-rajiv-parti-trai-nghiem-ca…

* * *

Mời tham khảo:

>> Chuyến du hành đến địa ngục của một người đàn ông Tây phương

>> 4 trải nghiệm cận tử nổi tiếng kể về hành trình đi vào địa ngục

>> Nghiên cứu hàng ngàn trải nghiệm cận tử: Tinh thần con người độc lập với bộ não

>> Cô bé thấy “hồn lìa khỏi xác” trong lúc bị ngạt nước

Link: https://m.trithucvn.org/…/chuyen-du-hanh-den-dia-nguc-cua-m…

Image may contain: 1 person, standing, suit and outdoor
Image may contain: text that says 'DYING to WAKE UP A Doctor's Voyage into the Afterlife and the Wisdom He Brought Back RAJIV PARTI, M.D. with PAUL PERRY FOREWORD BY RAYMOND MOODY, MD'