LẤY LÀM LẠ VÌ HỌ KHÔNG TIN

LẤY LÀM LẠ VÌ HỌ KHÔNG TIN

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sau khi cho chúng ta chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu mạnh hơn cả cái chết, thánh Maccô đưa chúng ta đi theo Người về nơi quê quán là Nadarét.  Tiếng đồn về Đức Giêsu đã vang khắp nơi, lôi kéo người bốn phương tìm đến với Người (Mc 3, 7-8), nay về thăm quê, chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu sẽ được dân làng đón tiếp linh đình, kèn trống râm ran, như cảnh “trạng về làng vinh quy bái tổ.”  Chuyện diễn ra không như chúng ta nghĩ.  Tuy về quê quán của mình, nhưng Người cũng chờ đến ngày Sabát mới vào hội đường rao giảng.  Phản ứng đầu tiên của dân làng là “rất đỗi ngạc nhiên.”  Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế?  Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?  Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”  Thế ra họ cũng đã nghe biết về những phép lạ Người làm ở khắp nơi.  Họ rất đỗi ngạc nhiên.  Nhưng họ bỗng như bị xối nước lạnh lên đầu, khi họ nhìn thấy thân nhân của Người ngồi chung quanh họ trong cùng một hội đường.  Thân nhân đã từng bị kích động vì dư luận, cho rằng Người đã mất trí và họ đã kéo nhau đi bắt Người về (Mc 3, 20-21.31-32), nhưng đã về tay không.  Nhìn mặt Người thì vẫn là mặt bác thợ con bà Maria, từng làm thuê cho họ.  Nhìn quanh, họ thấy anh em, chị em, bà con của Người, những người vẫn chen vai sát cánh với họ hàng ngày, trong cái làng quê nhỏ bé mà ai cũng biết mọi người, mọi nhà.  “Và họ vấp ngã vì Người.  Đức Giêsu phải ngao ngán nói với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”  Quả như câu tục ngữ xưa của Việt Nam: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh.  Kết cục: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay lên trên một bệnh nhân và chữa lành họ.”  Lại như một câu tục ngữ Việt Nam: “Bụt nhà không thiêng; “người phụ nữ” đã được Người tuyên dương: “Lòng tin của con đã cứu chữa con;” ông trưởng hội đường đã được Người khích lệ: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” còn dân làng Nadaret thì Người cũng phải “lấy làm lạ vì họ không tin.”  Thế là chuyến thăm quê cũ chẳng có gì phấn khởi. (x. Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).

Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Ga 4,44).  Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau.  Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).

Quê hương Nadaret của Chúa Giêsu chẳng là trái ngọt nhưng là trái đắng với vị chát chối từ, và chua cay thành kiến.  Dẫu vậy Ngài không than van, không giận dữ hay oán trách quê nhà.  Ngài vẫn hiện diện thật hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế.  Quê hương là “chùm khế ngọt” của mỗi con người.  Nhìn về quê hương Nadaret của Chúa Giêsu, thật khác lạ.  Ngài trở về quê mà không được dân làng ủng hộ, trái lại họ đã xem thường Ngài và xúc phạm đến Ngài.  Tại sao?

Bởi lẽ, họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon.”  Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadaret này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, mấy ai quan tâm đâu!  Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đi từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội.  Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu?  Ông ấy bỏ quê nhà đi một thời gian, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế nhỉ?  Một quá khứ và hiện tại như vậy đã khiến họ vấp phạm.  Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Dân làng Nadaret quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu.  Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy lý lịch để thẩm định về Ngài.  Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch.”  Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nadaret có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46).  Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.

Đức Giêsu “ngạc nhiên vì sự không tin của họ.”  Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.  Dân làng Nadaret “vấp ngã vì Người,” họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu.  Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu.  Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ.  Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.

Dân làng Nadaret không tin vì thành kiến.  Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi.  Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ.  Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế.  Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.

Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng.”  Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.

Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.  Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể.  Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được.  Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…  Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.  Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.

Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại.  Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ.  Yêu nên tốt, ghét nên xấu.  Yêu nhau yêu cả đường đi.  Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.  Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.

Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.

Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin.  Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan?  Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài.  Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến.  Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô.  Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.

ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ.  Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).

Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45).  Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại.  Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.

Mỗi ngày mới, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa đã thương ban cho mình ơn đức tin qua đời sống chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, tham dự Thánh Lễ.

Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài.  Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy.  Xin giúp con luôn quảng đại và khiêm tốn trong lời nói, trong những nhận định về nhau và nhất là xin cho con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em con.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

QUYỂN KINH THÁNH

QUYỂN KINH THÁNH

Bác sĩ giải phẫu Soren Edwards ở Erin, Tennessee, kể về một bệnh nhân của ông là bà Blanche Bennet. Chồng bà nghiện rượu và qua đời bỏ lại bà hai con với đủ mọi vấn đề, tài chính thiếu thốn, cuộc sống khó khăn. Bà không tin vào Thiên Chúa.

Một ngày kia, bà đến gặp bác sĩ Edwards vì một vài vấn đề trong cơ thể bà. Bác sĩ chuẩn đoán bà bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Vi khuẩn đã lan ra nhiều nội tạng. Bà rất cay đắng vì bác sĩ nói rằng không có cách nào để chữa bệnh cho bà. Là một trong nhóm cầu nguyện Cursilo . Bác sĩ Edwards muốn nói về Thiên Chúa với bà, nhưng bà không cho ông chia sẻ. Tuy nhiên, bà chấp nhận mang về một quyển Kinh Thánh Tân Ước .

Một vài tuần sau, khi biết tin bà qua đời thông qua cáo phó trên báo, bác sĩ gửi thiệp chia buồn tới gia đình bà và nói với họ rằng ông đã tặng cuốn Kinh Thánh Tân Ước để tưởng nhớ bà.

Con gái của bà gọi ông. “Bác sĩ có thể gửi cho tôi một quyển Kinh Thánh giống như những quyển mà ông tặng để tưởng nhớ mẹ tôi không?” Cô ta hỏi. “Nhà chúng tôi không có Kinh Thánh. Sáu ngày trước khi mẹ tôi mất, cuộc đời bà đã biến đổi hoàn toàn. Bà không cay đắng nữa, bà không sợ chết, và bà nói cái gì đó về việc nhận biết Chúa Giêsu Kitô . Nhưng vì bà dặn chúng tôi phải chôn quyển Kinh Thánh chung với bà, nên chúng tôi chẳng còn quyển sách nào để đọc cả. Bác sĩ có thể gửi cho chúng tôi một quyển Kinh Thánh để chúng tôi có thể tìm kiếm những gì mà mẹ đã tìm được từ quyển sách ấy không?” Bác sĩ Edwards gửi cho họ một quyển Kinh Thánh và kết quả là 2 người con của bà đã chịu phép Thanh Tẫy để trở thành con cái Thiên Chúa.

ST.

HAI CUỘC ĐỔI ĐỜI

HAI CUỘC ĐỔI ĐỜI

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ.  Các ngài là cột trụ của Hội Thánh.  Các ngài là những viên đá tảng, đá quý để xây dựng toà nhà Hội thánh vững chắc và toả rạng cho khắp năm châu.

Các ngài là cột trụ của niềm tin cho toàn thể Hội thánh.  Một niềm tin không gì có thể lay chuyển đến nỗi “ma quỷ cũng không thắng nổi.”  Một đức tin can trường đến nỗi dầu có chịu nhiều thiệt thòi, dầu có phải trải qua những gian truân cùng khốn: tù đầy, đói rét hay phải bôn ba rày đây mai đó, phải vượt qua biết bao phong ba bão tố, các ngài vẫn vui lòng chấp nhận vì được thông phần đau khổ với Thầy Giêsu.

Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ hai nền văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý tưởng.  Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.

Thực vậy, nhìn vào đời sống hai trụ cột của Hội thánh, chúng ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã.  Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp mình chịu chết.  Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm.  Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa.  Chính ông đã đồng loã với những người quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano.  Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu.  Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phêrô và Phaolô.  Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài.  Chúa đã tạo cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm.  Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con.”

Theo Thánh Kinh kể lại: Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô, Ngài biết hết!  Phêrô chột dạ.  Phêrô nhớ lại lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần.”  Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn nặng trĩu, một cái gì đó đã chết trong ông.  Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức.  Còn lời nào biện mình cho hành động hèn nhát của ông.  Còn đâu lời khẳng khái: “mọi người có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ.”  Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, hèn yếu và rất dễ sa ngã.  Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã “đổi mới” tâm hồn Phêrô.  Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.

Còn Phaolô thì sao?  Sau khi ngã ngựa đau đớn bởi một luồng sáng chói loà.  Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày.  Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng.  Ông đang thấy và thấy rất rõ.  Đó là Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha.  Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận.  Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng về những điều đã nghe, đã thấy, và đã biết.

Vâng, có thể nói, nhờ sự đổi mới cuộc đời của Phêrô và Phaolô mà cả thế giới được đổi mới.  Văn hoá Kitô giáo đã làm mới lại bộ mặt địa cầu.  Có thể nói ở đâu đó vẫn có những người chưa tin vào Chúa nhưng họ đã được thấm nhuần văn hoá Kitô giáo, vẫn còn có những người được đổi mới cuộc đời nhờ vào lời Chúa và sức mạnh của Tin Mừng.  Ở đâu đây vẫn còn những tâm hồn thất vọng, lầm than nhưng họ đã bừng lên niềm hy vọng nhờ những giá trị tin mừng mà Kitô giáo mang lại cho họ.

Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang Tin Mừng đến khắp cùng trái đất.  Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng toà nhà Hội thánh.  Dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo nhu cầu của Ngài.  Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng ta đang sống.  Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha, cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ.  Xin Chúa ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho niềm tin của chúng ta. Amen!

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

THƯ CỦA MỘT LINH MỤC HẤP HỐI GỬI CHO CHÚA

THƯ CỦA MỘT LINH MỤC HẤP HỐI GỬI CHO CHÚA

“Con sợ rằng, vào giờ sau hết, con sẽ có chung một ý tưởng như mẹ con đã có khi bà lìa đời.  Ý tưởng đó là, con chết mà thấy mình chẳng có công nghiệp gì, có thể nói là trắng tay, vì không gì Chúa gửi đến mà lại quá sức con…”

Cha José Luis Martín Descalzo người Tây Ban Nha, một phóng viên, một nhà văn, cũng là con út trong một gia đình công giáo đạo đức gồm bốn anh chị em.  Ngài tốt nghiệp khoa Lịch Sử và Thần Học của Đại Học Giáo Hoàng Grêgôriô tại Rome, thụ phong linh mục năm 1953.  Ngài làm việc trong tư cách giáo sư và giám đốc tại một công ty kịch nghệ; và trong thời gian diễn ra Công Đồng Vaticano II, cha José Luis Martín Descalzo là một thông tín viên.

Là một nhà báo, cha José đã điều hành nhiều tạp chí khác nhau và một chương trình truyền hình.  Ngài đã viết nhiều tác phẩm văn chương, một số được biết đến nhiều nhất là “Cuộc Đời và Mầu Nhiệm Của Chúa Giêsu thành Nazareth”, “Những Lý Do Để Sống”, “Những Lý Do Để Hy Vọng”, “Những Lý Do Để Yêu Thương” và “Những Lý Do Cho Đời Sau”, vốn tích hợp nhiều đề mục liên quan đến các biến cố thực và cuộc sống thường ngày.

Cha José Luis Martín Descalzo đã dâng trọn đời mình cho thiên chức linh mục; ngài nguyện trung thành với ơn gọi một cách đơn sơ nhưng sâu lắng.  Từ lúc còn trẻ, trải qua những cơn đau tim và thận suy nghiêm trọng, ngài đã phải lọc máu nhiều năm.  Sống trọn vẹn những giờ khắc hiện tại Chúa ban, Ngài không ngừng toả lan niềm hy vọng cho đến lúc lìa đời tại Madrid ngày 11 tháng 6 năm 1991.  Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu bài viết cuối cùng của ngài trước khi ngài ra đi, đó là một lá thư gửi cho Thiên Chúa, chất chứa những tâm tình quý giá đáng cho chúng ta nghiền ngẫm và chia sẻ.

“‘Con cám ơn Chúa’, những lời này sẽ gói trọn tất cả những gì con muốn gửi đến Ngài, lạy Thiên Chúa, tình yêu của con; bởi lẽ, đó cũng là tất cả những gì con muốn thưa lên cùng Chúa, ‘Cám ơn Chúa’, ‘Cám ơn Chúa’.  Đứng từ chỏm núi cao nhất của 55năm đời mình, con nhìn lại và dường như không thấy gì khác ngoài những dãy núi trùng trùng điệp điệp bất tận của tình yêu Chúa.  Lịch sử đời con, chẳng chỗ nào lại không được rọi sáng bởi lòng thương xót Chúa dành cho con; ở đó, đã không một giây phút nào mà con đã không nghiệm ra một sự hiện diện yêu thương đầy tình phụ tử của Chúa đêm ngày chăm bẵm linh hồn con.

Ngay mới hôm qua, một người bạn vừa nghe biết vấn đề sức khoẻ của con gửi cho con một bưu thiếp; trong đó, đầy phẫn nộ, cô bạn viết cho con những lời này, “Một sự giận dữ lớn lao xâm chiếm toàn thân con, và con đã nổi loạn với Chúa vì đã để cho một người như cha phải khốn khổ.” Một điều gì đó thật đáng thương!  Cảm xúc nơi cô đã khiến cô mù loà để không trông thấy sự thật. Đó là đang khi con chẳng còn quan trọng gì so với bất cứ ai, thì trọn đời con đã là một chứng từ cho sự sống và niềm tin.  Suốt 55 năm đời con, con đã đau khổ hơn nhiều lần dưới bàn tay người đời; bao lời nộp rủa và sự vô ơn cũng như cô đơn và hiểu lầm.  Vậy mà, từ nơi Ngài, con đã không nhận được gì khác ngoài những cử chỉ âu yếm bất tận, kể cả cơn đau sau cùng của con.

Trước hết, Chúa cho con sự sống, kỳ diệu thay con được làm người, để con vui thoả cảm nhận sự mỹ miều của thế giới. Cho con niềm vui trở nên một phần của gia đình nhân loại; cho con vui sướng vì biết rằng, cuối cùng, khi con đặt mọi sự lên bàn cân thì những vết cắt, những thương tích luôn luôn ít hơn tình yêu lớn lao mà cũng chính những con người đó đã đặt lên đĩa cân bên kia của đời con. Dường như con khá may mắn hơn những người khác thì phải. Có thể.  Nhưng giờ đây, làm sao con có thể vờ vịt làm một kẻ bị đọa đày của nhân loại khi biết chắc một điều là, con đã được đỡ nâng và cảm thông nhiều hơn là những khó nhọc.

Hơn thế, cùng với quà tặng làm người, Chúa còn cho con quà tặng đức tin.  Ngay từ thời thơ ấu, con cảm nhận sự hiện diện của Ngài hằng bao bọc con; với con, xem ra Chúa thật dịu hiền.  Nghe đến danh Ngài, con chẳng hề sợ hãi bao giờ.  Linh hồn con, Chúa đã trồng vào đó những khả năng phi thường: khả năng nhận thức, con đang được thương yêu; khả năng cảm biết, mình đang được cưng chiều; khả năng trải nghiệm sự hiện diện mỗi ngày của Chúa trong từng giờ khắc lặng lẽ trôi.  Con biết, vẫn có một ít người nguyền rủa ngày họ chào đời, họ thét lên với Chúa rằng, họ không cầu xin để được sinh ra; con cũng chẳng cầu xin điều đó, vì trước đó làm gì có con.  Nhưng nếu con biết đời mình là gì, hẳn con vẫn sẽ van nài cho được hiện hữu, một sự hiện hữu như Ngài đang ban cho con.

Con thiết nghĩ, vẫn là tuyệt đối cần thiết để được sinh ra trong mái gia đình mà Chúa đã chọn cho con.  Hôm nay con sẽ sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì con sở hữu chỉ để được lại ba mẹ và anh chị em con như con đã được.  Tất cả họ là những chứng nhân sống động cho sự hiện diện của tình yêu Chúa; qua những người thân yêu đó, con dễ dàng học biết Chúa là ai.  Nhờ họ mà việc kính mến Chúa yêu thương người của con nên dễ dàng hơn rất nhiều.  Thật vô lý nếu không yêu mến Chúa cũng như không dễ gì để có thể sống đắng cay.  Hạnh phúc, niềm tin và lòng tín thác tựa hồ món bánh kem mà mẹ con luôn luôn dọn sẵn sau bữa cơm chiều, một món gì đó gần như chắc chắn không thể không có; hôm nào không có bánh kem thì thật đơn giản, chỉ vì không có trứng chứ không phải tình yêu đang thiếu đi. Con cũng học biết rằng, đau khổ là một phần của cuộc vui; đau khổ không phải là một lời nguyền rủa nhưng là một phần cho cái giá của sự sống, một điều gì đó vốn không bao giờ đủ để lấy mất niềm vui của chúng con.

Nhờ tất cả những điều ấy, giờ đây con cảm thấy thẹn thùng khi nói lên và rằng, cơn đau không làm con đau, đắng cay không làm con cay đắng.  Được như thế, không phải vì con can trường nhưng đơn giản chỉ vì ngay từ tấm bé, con đã học nhìn ngắm những khía cạnh tích cực của cuộc sống và tập bước đi trong những vùng tối tăm; để rồi khi chúng ập đến, chúng không quá tăm tối nhưng chỉ hơi xám một chút. Một người bạn khác vừa viết cho con trong mấy ngày qua rằng, con có thể chịu đựng được việc lọc máu cùng lúc khi “con say Chúa.”  Điều này, với con, xem ra hơi quá đáng và cường điệu.  Bởi vì ngay từ thuở nằm nôi, con đã ngất say với sự hiện diện tự nhiên của Ngài, lạy Chúa, và trong Ngài, con luôn cảm thấy cứng cáp để chịu đau đớn hoặc cũng có thể chỉ vì đau đớn thật sự Chúa đã không gửi đến cho con.

Đôi khi con nghĩ, con thật “quá đỗi may mắn.”  Các thánh đã dâng Chúa bao điều lớn lao, còn con, đã không bao giờ có gì đáng giá để dâng Ngài.  Con sợ rằng, vào giờ sau hết, con sẽ có chung một ý tưởng như mẹ con đã có khi bà lìa đời. Ý tưởng đó là, con chết mà thấy mình chẳng có công nghiệp gì, có thể nói là trắng tay, vì không gì Chúa gửi đến mà lại quá sức con; cũng không phải ngay cả sự cô đơn hay phiền muộn Chúa trao cho những ai thực sự thuộc về Ngài.  Tha lỗi cho con, nhưng con sẽ làm gì đây khi Chúa không bao giờ bỏ con? Đôi lúc con cảm thấy xấu hổ khi nghĩ rằng, con sẽ chết mà không được ở bên Chúa trong vườn Ôliu, không được trải qua hấp hối của mình trong vườn cây dầu. Chỉ bởi Chúa, con không hiểu tại sao, không bao giờ để con vắng mặt trong các Chúa Nhật Lễ Lá dù con phải nằm bệnh viện triền miên.  Thi thoảng, trong những giấc mơ anh hùng của mình, con từng nghĩ táo bạo rằng, lẽ ra con cần trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin để tự chứng tỏ cho Chúa thấy.  Người ta nói, lòng tin đích thực được chứng tỏ nơi thập giá đang khi con chưa bao giờ gặp phải bất kỳ một thập giá nào ngoài đôi tay mơn trớn dịu hiền của Ngài.

Đó chẳng phải vì con tốt lành hơn những người khác.  Tội lỗi tiềm ẩn trong con, nó sâu sắc làm sao… Chúa với con cùng biết.  Sự thật là ngay cả vào những thời khắc tồi tệ nhất, con vẫn chưa trải nghiệm được cái nghiệt ngã của bóng tối sự dữ, bởi lẽ, ánh sáng Chúa đã đêm ngày chiếu soi con. Ngay trong khổ đau, con vẫn thuộc về Chúa; quả vậy, tình yêu Chúa dành cho con xem ra càng tăng thêm mỗi khi con lỗi tội nhiều hơn.

Con cũng đã tựa nương vào Chúa suốt những thời điểm bách hại và khó khăn.  Chúa biết, ngay cả trong những chuyện thế gian, thì ở đó, bên con, luôn luôn có nhiều người tốt hơn kẻ bội phản.  Vì lẽ, cứ mỗi lần hiểu lầm, con lại nhận được những mười nụ cười.  Con thật may mắn vì sự dữ không bao giờ phương hại được con; và quan trọng nhất, sự dữ không bao giờ có thể làm nội tâm con cay đắng.  Ngay đến cả những trải nghiệm tồi tệ cũng làm gia tăng trong con sự khát khao được nên trọn lành và kết quả là, con có những người bạn hết sức bất ngờ.

Rồi, Chúa đã gọi con, kỳ diệu thay!  Con là linh mục, một điều không thể, Chúa biết điều đó… nhưng với con, con biết, thật nhiệm mầu.  Hôm nay hẳn con không còn nhiệt huyết với mối tình trẻ như những thuở đầu; nhưng may thay, thánh lễ đã không bao giờ chỉ là một thói quen thường nhật và con vẫn run lên mỗi khi giải tội.  Con vẫn cảm nhận niềm vui vô bờ khi đang ở đây để có thể nâng đỡ người khác, cũng như niềm vui hiện diện để rao truyền danh Chúa cho anh em. Chúa biết, con vẫn sùi sụt khóc mỗi khi đọc lại dụ ngôn đứa con hoang đàng; nhờ ơn Chúa, con vẫn xúc động mỗi lần đọc Kinh Tin Kính ở phần nói đến cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa.

Dĩ nhiên, quà tặng lớn nhất của Chúa là chính Con Một, Chúa Giêsu.  Ngay cả khi con là con người đáng thương nhất hoặc khi khổ đau vẫn cứ đeo bám con mọi ngày trong đời thì con biết rằng, con sẽ chỉ nhớ đến Chúa Giêsu mà vượt qua chúng. Việc ý thức Chúa đã nên một người như chúng con giúp con giao hòa với những thất bại và trống rỗng của mình.  Vậy tại sao lại có thể buồn một khi biết rằng, Chúa đã bước những bước trên hành tinh này. Còn gì dịu dàng hơn việc chiêm ngắm khuôn mặt sầu bi của Mẹ Maria?

Hẳn con đang hạnh phúc, sao mà không hạnh phúc được?  Con đang hạnh phúc ngay đây dẫu đang ở ngoài vinh quang thiên đàng.  Chúa hãy nhìn xem, con đâu sợ chết, nhưng con không vội đến đó.  Liệu con được gần Chúa hơn khi đến đó so với bây giờ không?  Thật là kỳ diệu, có thiên đàng ngay khi chúng con có thể yêu mến Chúa.  Cabodevilla, bạn con, nghĩ đến một điều gì đó khi nói, “Chúng ta sắp chết mà không biết đâu là quà tặng tuyệt vời nhất của Chúa, hoặc Chúa yêu mến chúng ta hoặc Chúa cho chúng ta mến yêu Ngài.”

Vì lý do này, con đau lòng biết bao khi ai đó coi thường cuộc sống của họ.  Quả thật, mỗi người chúng con đang làm một điều gì đó cao cả hơn vô vàn so với phận mình, phàm phu tục tử; đó là yêu mến Chúa và cộng tác với Chúa trong việc kiến tạo một toà nhà bát ngát bao la của tình yêu.

Con cảm thấy không ổn khi nói rằng, chúng con làm vinh quang Chúa ở thế gian này; nói thế thì thật quá đáng.  Con tin rằng, con sẽ vui thỏa khi con gối đầu vào tay Chúa để Chúa có cơ hội vỗ về con, thế thôi.  Việc nói rằng Chúa sẽ ban thiên đàng cho chúng con như một phần thưởng khiến con thầm cười.  Phần thưởng cho cái gì đây? Chúa thật đáo để khi vừa ban thiên đàng vừa cho chúng con cảm thấy mình xứng đáng với điều đó.  Chúa quá biết, chỉ tình yêu mới có thể đáp đền tình yêu.  Hạnh phúc không là kết quả cũng không là hoa trái của tình yêu; tình yêu tự nó là hạnh phúc.  Nhận biết Chúa là Cha của con, và đó là thiên đàng.  Dĩ nhiên, Chúa không cần cho con mọi điều, nguyên việc cho con yêu mến Chúa đã là quà tặng lớn lao cho con, Chúa không thể cho con nhiều hơn.

Vì tất cả điều này, lạy Chúa, Thiên Chúa của con, con đã muốn nói về Chúa và với Chúa ở trang cuối cuốn sách “Những Lý Do Để Yêu Thương” của con. Chúa là cùng đích và là lý do duy nhất cho tình yêu của con, con không còn lý do nào nữa.  Sẽ không có bất cứ hy vọng nào cho con nếu không có Chúa. Niềm vui của con sẽ được tìm thấy ở đâu, dựa trên cái gì, nếu vắng bóng Ngài. Rượu tình của con sẽ vô vị nhạt nhẽo biết bao nếu không được ủ ấp trong tình yêu Chúa.  Chúa cho con sức mạnh và cuộc đời để con biết rất rõ rằng, nhiệm vụ duy nhất của con là như một phát ngôn nhân lặp đi lặp lại danh Chúa mãi mãi.  Và như thế, con thanh thản ra đi.

Con, José Luis Martín Descalzo”

Luisa Restrepo – Lm. Minh Anh dịch từ catholic-link.org (tonggiaophanhue.org 28.04.2020)

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

 

ĐỐI DIỆN VỚI GIỜ PHÚT KHÓ KHĂN CỦA CHÚNG TA

ĐỐI DIỆN VỚI GIỜ PHÚT KHÓ KHĂN CỦA CHÚNG TA

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Phân định không phải là chuyện dễ dàng.  Chúng ta thử giải quyết vấn đề nan giải này: khi chúng ta thấy lòng mình ở trong tình trạng lo âu cực độ, liệu chúng ta có lơ đi cho rằng một đau đớn như thế là dấu chỉ rằng đây không phải là nơi phù hợp với chúng ta, rằng có cái gì đó sai lầm ở đây không?  Hoặc, như Chúa Giêsu, chúng ta chấp nhận ở lại và nói với chính mình, với người thân, với Chúa: “Con sẽ nói gì bây giờ, cứu con khỏi giây phút này sao?”

Khi Chúa Giêsu đối diện với cái chết sỉ nhục trên thập giá, Tin Mừng Thánh Gioan có ám chỉ đến việc Ngài được đề nghị một cơ hội để trốn thoát.  Một phái đoàn người Hy Lạp, qua trung gian thánh Philiphê đề nghị Chúa Giêsu đi với họ, đến một nhóm sẽ đón Ngài và thông điệp của Ngài.  Như thế Chúa Giêsu phải chọn: Chịu đựng nỗi thống khổ, tủi nhục và chết với cộng đoàn, hay từ bỏ cộng đoàn này để đến với cộng đoàn sẽ chấp nhận mình.  Chúa Giêsu đã làm gì?  Chúa Giêsu cũng sẽ đặt câu hỏi: “Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?

Dù câu này được xem là câu hỏi, nhưng đó là câu trả lời.  Ngài đã chọn ở lại, đối diện với lo âu, với sỉ nhục, với đau đớn vì Ngài thấy đây là lòng trung tín chính xác, Ngài được mời gọi trong chính tình yêu mà Ngài rao giảng.  Ngài xuống thế để nhập thể, để giảng dạy thế nào là tình yêu thực sự và bây giờ cái giá phải trả cho những chuyện này là sỉ nhục, là lo âu, Ngài biết và chấp nhận những gì đòi hỏi Ngài bây giờ.  Nỗi đau Ngài chịu không có nghĩa là Ngài đã làm cái gì đó sai, Ngài ở không đúng nơi, hoặc cộng đoàn này không đáng để Ngài chịu đau khổ này.  Ngược lại: nỗi đau được hiểu là cách thể hiện lòng trung tín sâu thẳm nhất của chính sứ vụ và thiên chức của Ngài.  Cho đến lúc này, chỉ có những lời kêu xin Ngài, bây giờ chúng ta xin Ngài nâng đỡ chúng ta trong thực tế; Ngài cần phải nuốt khó khăn để làm.

Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?  Chúng ta có đủ khôn ngoan và quảng đại để nói những lời này khi, trong sự dấn thân riêng của mình, chúng ta bị thách thức chịu đựng nỗi lo âu nóng bỏng trong lòng này không?  Khi Chúa Giêsu đặt câu hỏi này, những gì Chúa phải đối diện là tấm gương gần như hoàn hảo cho các tình huống mà đôi khi chúng ta phải đối diện.  Trong hầu hết mọi dấn thân, nếu chúng ta trung thành thì sẽ có khi chúng ta phải phải chịu đựng một nỗi lo âu trong lòng (và cũng có khi do hiểu lầm bên ngoài), chúng ta phải đối diện với một quyết định khó khăn: nỗi đau và sự hiểu lầm này (dù cho đó là do sự non nớt của chính mình) có phải là dấu chỉ tôi ở không đúng chỗ, tôi phải ra đi và tìm một ai khác, một cộng đoàn nào khác cần đến tôi không?  Hoặc bên trong nỗi lo âu nội tâm này, hiểu lầm do bên ngoài, do sự non nớt của cá nhân tôi, tôi được gọi để nói: Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?  Đây là điều tôi đã được gọi!  Tôi sinh ra để làm điều này!

Tôi nghĩ câu hỏi này rất quan trọng vì thường nỗi lo thường xuyên trong lòng có thể làm lung lay các cam kết dấn thân chúng ta, thúc đẩy chúng ta buông bỏ.  Các hôn nhân, các ơn gọi sống đời sống thánh hiến, các dấn thân làm việc cho công lý, cho cộng đoàn tu sĩ và các dấn thân cho gia đình, bạn bè có thể bị buông bỏ vì đương sự nghĩ rằng không ai được gọi để sống trong lo âu tột độ, bị sầu khổ và hiểu lầm như vậy.  Thật vậy, ngày nay nỗi đau, sầu khổ, hiểu lầm chung chung được xem như dấu chỉ để từ bỏ những chuyện mình đã dấn thân để đi tìm một ai khác, một cộng đoàn khác sẽ khẳng định mình, thay vì xem đây là dấu chỉ, bây giờ, chỉ có bây giờ, chỉ có giờ phút này, bên trong sự lo âu đặc biệt, sự hiểu lầm này, chúng ta mới có dịp mang lại ân sủng cho đời sống dấn thân của mình.

Tôi đã chứng kiến nhiều người từ bỏ hôn nhân, từ bỏ chức thánh, từ bỏ đời sống tu trì, từ bỏ cộng đoàn tôn giáo, từ bỏ bạn bè thân yêu, từ bỏ các dấn thân phục vụ cho công lý và hòa bình vì có một lúc nào đó họ cảm nhận mình quá đau và bị hiểu lầm.  Và trong nhiều trường hợp này, tôi cũng thấy thực tế hóa ra là một điều tốt.  Tình huống họ gặp không tốt cho họ cũng như cho người khác.  Họ phải được cứu khỏi “lúc này.”  Trong một vài trường hợp, điều ngược lại là đúng.  Họ đau đớn tột cùng, nhưng nỗi đau đó là lời mời đến một nơi sâu đậm hơn, mang lại sự sống hơn trong đời sống dấn thân của họ.  Họ rời đi, ngay lúc họ nên ở lại.

Chắc chắn, phân định không phải là chuyện dễ.  Không phải lúc nào cũng vì thiếu quảng đại mà chúng ta từ bỏ dấn thân.  Một số người quảng đại nhất, vị tha nhất mà tôi quen biết đã từ bỏ hôn nhân, chức thánh, đời sống tu trì hay bỏ giáo hội của mình.  Nhưng tôi viết điều này vì ngày nay, nhiều tài liệu tâm lý và thiêng liêng đáng tin cậy không đủ làm nổi bật thách thức, như Chúa Giêsu đã trụ vững bên trong nỗi đau đớn tột cùng, hiểu lầm, nhục nhã của mình, thay vì bỏ đi để đến với một ai đó, một cộng đoàn nào đó chấp nhận và hiểu nỗi khao khát của mình, thì chúng ta chấp nhận nó sẽ mang đến sự sống hơn khi nói: Tôi sẽ nói gì bây giờ, cứu tôi khỏi giây phút này sao?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

ĐẤNG CHỮA LÀNH

ĐẤNG CHỮA LÀNH

TGM Vũ Văn Thiên

Thế giới của chúng ta đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19.  Đã gần 2 năm, đại dịch gây biết bao hậu quả nghiêm trọng trong mọi lãnh vực.  Một con virus mắt thường không thấy mà có sức phá huỷ ghê gớm.  Số người chết vì Covid-19 tính đến giữa tháng 6-2021 đã lên tới gần 4 triệu người.  Một số người đã nhận định đại dịch là hình phạt của Thiên Chúa.  Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta: không phải vậy.  Thiên Chúa không bao giờ là tác giả của sự dữ.  Không những thế, Ngài còn là Đấng chữa lành những thương tổn về tinh thần và thể xác của con người.

Thiên Chúa không tạo nên sự ác. Ngài cũng không muốn cho con người phải chết. Tác giả sách Khôn ngoan nói với chúng ta như vậy. Tình yêu thương của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài tạo dựng vũ trụ trời đất và con người.  Một tác giả đã viết: yêu thương tức là muốn cho người khác hiệu hữu (Aimer, c’est vouloir que l’autre soit).  Chúng ta được hiện hữu trên đời là do kết quả tình yêu thương của Thiên Chúa.  Một câu hỏi được đặt ra: nếu Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, vậy sao con người vẫn phải chết?  Vì quỷ dữ ghen tỵ nên cái chết đã xuất hiện trên thế gian.  Vậy, tại sao sự dữ vẫn hiện hữu: thưa, do con người gây nên.  Con người không tuân thủ trật tự Chúa đã xếp đặt, đi ngược lại ý muốn của Đấng Tạo Hoá, phá huỷ công trình sáng tạo của Ngài, nên sự dữ vẫn tồn tại trên thế gian.

Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai.  Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến thế gian để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất (x. Lc 19,10).  Trong trình thuật của thánh Máccô hôm nay, chúng ta sẽ thấy có 4 nhân vật chính: Chúa Giêsu, người cha đang đau khổ, bé gái 12 tuổi đã chết và người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm.

Hai nhân vật, ông trưởng Hội đường và người phụ nữ, đều có điểm giống nhau là đức tin, tuy mỗi người thể hiện một cách khác nhau.  Ông trưởng Hội đường thì trực tiếp đến gặp Chúa và xin Người chữa lành con gái ông đang đau nặng gần chết.  Người đàn bà thì kín đáo tế nhị hơn, vì bệnh của bà không tiện nói ra, nhưng ý chính là bà tin vào quyền năng xuất phát từ Chúa Giêsu.  Người phụ nữ chỉ mong sao chạm được vào áo Chúa; viên cai quản Hội đường lại sấp mình nài nỉ van xin.  Cả hai hình thức đức tin đều xuất phát từ lòng xác tín và cậy trông.  Hai người đều tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể làm được điều họ đang kêu xin.  Tuy vậy, xem ra sự xác tín của người phụ nữ có vẻ mạnh mẽ hơn.  Bà không dám được Chúa biết đến hay can thiệp.  Bà chỉ cần chạm vào áo Người.  Trong khi đó, viên cai quản Hội đường, khi thấy con mình đã chết, đã bị dao động băn khoăn.  Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nhắc đến “đức tin.”  Nếu Người ngỏ lời với người phụ nữ để khen đức tin của bà, thì với viên cai quản Hội đường, Người lại mời gọi ông hãy vững tin.  Người hiểu tâm trạng của ông khi nghe tin con mình đã chết.  Người cũng hiểu nỗi khổ đau của người phụ nữ mang bệnh lâu năm cần được chữa lành.

Trước nhu cầu của hai nhân vật này, Chúa Giêsu như một lang y vừa quyền thế vừa luôn sẵn sàng phục vụ.  Xin lưu ý: chủ đề chính của Tin Mừng thánh Máccô là trình bày Chúa Giêsu như một người phục vụ.  Hai phép lạ được trình bày đan xen, vừa gây sự hấp dẫn vừa diễn tả nhu cầu cấp thiết của các bệnh nhân: bé gái và người đàn bà.

Vì con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” (x St 1,27), mỗi tín hữu có sứ mạng làm cho sự tốt lành của Chúa lan tỏa nơi lòng cuộc đời.  Nếu hôm nay, Đức Giêsu không hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt để chữa lành những bệnh nhân, thì Người lại đang mượn cánh tay và tấm lòng của chúng ta để đem tình thương đến cho người bất hạnh, đem niềm vui cho người sầu khổ và đem tự do cho người bị giam cầm.  Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu thành Côrinhtô hãy quảng đại trong cuộc lạc quyên giúp người nghèo.  Theo vị Tông đồ dân ngoại, Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về lòng quảng đại, vì Người là Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giàu có” (Bài đọc II).  Mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban.  Hơn nữa, chúng ta giàu có là do Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta.  Chính vì thế, san sẻ cho tha nhân là chúng ta làm cho hình ảnh Chúa trở nên rạng ngời nơi cuộc đời này.  Sự sẻ chia không làm cho chúng ta nghèo đi, nhưng trái lại, giúp cho chúng ta trở nên phú quý hơn trong cuộc sống.

Người đàn bà bị bệnh đã mười hai năm được Chúa chữa lành.  Bé gái con ông trưởng hội đường đã chết được Chúa cho sống lại… Biết bao điều kỳ diệu hôm nay Chúa vẫn đang thực hiện nơi lòng cuộc đời, nếu chúng ta có đức tin vững vàng và lòng cậy trông sâu xa.  Ông Chesterton, văn sĩ, thần học gia và triết gia người Anh (1874-1936) đã viết: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự đều tùy thuộc vào Thiên Chúa.  Hãy hành động như thể mọi sự đều tùy thuộc vào chúng ta.  Quả vậy, khi quyền năng của Thiên Chúa và thiện chí của con người gặp gỡ nhau, thì những điều kỳ diệu sẽ xảy đến trong cuộc đời.

TGM Vũ Văn Thiên

From: langthangchieutim

XIN THIÊN CHÚA THƯƠNG GIÚP CHÚNG CON SỐNG THEO Ý CHÚA

XIN THIÊN CHÚA THƯƠNG GIÚP CHÚNG CON SỐNG THEO Ý CHÚA

 Tuyết Mai

** Là nhắc nhớ chúng con ngay đầu ngày

Phủ phục sấp mình thờ lạy kính tôn

Trước một Thiên Chúa quyền năng cao cả

Để cảm tạ Người ban cho hết thảy

Chúng con từng hơi thở

Từng nhịp đập của trái tim

Để chúng con được sống khỏe mạnh

Mà ngày ngày chúng con sống quá vô tình

Không hề biết cảm tạ tri ân Chúa.

 

** Chúng con tha thiết mong muốn

Là xin Thiên Chúa giúp cho chúng con

 Luôn sống trong khiêm nhường

Trong bác ái kiên nhẫn và chờ đợi

Nhất nhất một lòng trung thành

 Bền đỗ với Chúa

 Trong suốt cuộc đời sống ở trần gian này.

 

** Xin Thiên Chúa thương giúp chúng con

Can đảm chịu đựng để sống từng ngày

Trong tình yêu thương của Chúa

 Là biết chấp nhận mọi khổ đau bệnh tật

Là biết quý trọng hết thảy mọi người

Như Chúa không ngừng yêu thương

Như nhịp đập của trái tim của mỗi người

Không hề biết mỏi mệt.

 

** Xin Thiên Chúa thương giúp chúng con

Thường xuyên tìm đến với Người

Để được dâng lên Chúa lời cảm tạ

Vì đã ban cho chúng con có khối óc

Còn biết suy nghĩ là còn được bình thường

Cùng ban cho chúng con

Một thân thể còn lành mạnh ít có ốm đau

Còn đi đứng bình thường

Và còn đi được đó đây – Cảm tạ Chúa!

 

** Xin Thiên Chúa thương giúp chúng con

Hằng ngày có nhiều thời giờ

Nhất là trong thời dịch Covid-19 này

Để siêng năng đọc kinh Mân Côi

Để cầu nguyện, tâm sự và giãi bày

 Những khó khăn mà chúng con gặp phải

 

**Đó là thời gian chúng con mới thật sự

Được nghỉ ngơi, yên tĩnh và bình an

Là năng lượng thiết yếu ngày lại ngày

Chúng con được lãnh nhận từ Chúa

Để có cuộc sống dư đầy và sung mãn

Trong tình yêu thương

Cao vời diệu vợi của Thiên Chúa.

 

** Xin Thiên Chúa thương giúp chúng con

Phải cố gắng nhiều hơn thế nữa

Để chúng con sống trong Giới Răn Chúa

Cùng giữ Luật của giáo hội cho trọn

Cho nên để chứng minh lòng con thảo

Là để luôn được Chúa yêu thương.

 

** Xin Thiên Chúa mồi lửa yêu thương

Trong trái tim nguội lạnh của chúng con

Cùng hướng dẫn chúng con sống

Một cuộc sống đơn sơ và chân thật

Xem hết thảy mọi người như anh chị em

Có chung một Cha trên Trời

Và tôn trọng nhau vì tất cả là bình đẳng.

 

** Xin Thiên Chúa biến đổi chúng con

Nên hoàn thiện để xứng đáng

Làm con của Chúa ngày một hơn

Bắt chước Chúa Giêsu sống đức vâng lời

Công bằng, minh bạch và ngoan ngoãn

Cùng tránh xa mọi cám dỗ, mọi dịp tội.

 

** Xin Thiên Chúa luôn dìu dắt chúng con

 Cùng đi chung trên một con đường

Con đường Thập Giá (gai nhọn nở hoa)

Con đường về Nhà Cha … là cùng đích

Để nhắc nhở cuộc sống trần gian này

Chỉ là cõi tạm chỉ là phù du.

 

** Xin Thiên Chúa thương giúp chúng con

Dần bỏ được lòng tham lam ích kỷ

Luôn ham muốn danh lợi, thú trần gian

Giúp thân xác chúng con giữ cho thơm sạch

Để xứng đáng mời Chúa đến ngự vào lòng

Để linh hồn được Chúa tẩy sạch

Bao tội lỗi nhớp nhơ

Vì rằng linh hồn là giống thiêng liêng

Chúa ban tặng cho từng người

Không hề và chẳng thể chết được.

 

** Xin Thiên Chúa là Cha

Là Con và là Thánh Thần

Xin mở mắt tâm hồn chúng con ra

Để thấy rõ đường tìm lên Nước Chúa

Nơi có Chúa nhân lành đã dọn sẵn chỗ

Cho tất cả những ai khi còn sống

Luôn cố gắng thực thi hai Giới Răn:

Kính Chúa và yêu người

Bao gồm cả đức tính khiêm nhường Bác ái, tha thứ và hy sinh. Amen.

Y tá con của Chúa,

Tuyết Mai

 21 tháng 6, 2021

Xin bấm vào mã số dưới đây để cùng hát:

Kính Chúa Yêu Người

Kính Chúa Yêu Người

Chúa ở trên thuyền

 No photo description available.

Chúa ở trên thuyền

“Đời là bể khổ” – Tôi rất thường trích dẫn câu này của Đức Phật, bởi vì tôi thấy nó đúng. Liệu rằng tôi có tiêu cực quá chăng? Nhưng chẳng phải là ai trong chúng ta cũng đều có cảm nghiệm rằng những niềm vui trong đời thì ít, lại còn chóng qua; còn sầu đau thì vô số mà lại kéo dài dường như bất tận hay sao? Điều này có lẽ đến từ kinh nghiệm chủ quan khi tâm trí con người thường chú tâm và khái quát hoá vào những tiêu cực hơn là những tích cực.

Tuy vậy, đau khổ là có thật. Tôi khẳng định điều đó. Những đau khổ trên bình diện cá nhân như: mất mát, bệnh tật, nghèo khổ, bất hoà, thất tình, thất nghiệp, tai nạn, cái chết… Và những đau khổ trên bình diện nhân loại như: thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, đói nghèo, bất công… Rõ ràng tất cả vẫn đang tiếp tục diễn ra trên đời này. Và trong thời kỳ lan tràn của dịch bệnh chết người, chúng ta càng dành nhiều thời gian hơn để suy ngẫm về cái gọi là đau khổ.

Ai tránh được đau khổ? Chẳng một ai! Đau khổ dường như là số mệnh của con người rồi. Ngay từ khi Adam và Eva đưa tay hái Trái Cấm, con người đã tự định đoạt cho mình đau khổ và cái chết. Ngay cả chính Chúa Giêsu, trong thân phận làm người, Ngài cũng không tránh khỏi việc “uống chén đắng”.

“Đời là bể khổ”. Từ “bể” ở đây không phải là bể nước nhỏ, mà nó có nghĩa là biển. Người Công giáo hay ví cuộc đời giống như một cuộc lữ hành trần thế để về với quê Trời (Thiên Đàng). Nếu là như vậy, thì ta hoàn toàn có thể tưởng tượng rằng mình đang “lữ hành” trên một chiếc thuyền giữa biển đời bao la – “biển khổ”. Biển thì cũng có lúc dịu dàng, yên ả; nhưng khi giông bão nổi lên, biển dường như muốn nuốt chửng ta trong muôn vàn những con sóng dữ. Để làm rõ hình ảnh này, chúng ta cùng đến với một sự kiện mang tính biểu tượng rất cao trong Tân Ước: Một chuyến đi của Chúa Giêsu và các môn đệ.

Ngày hôm đó, Chúa Giêsu cùng các môn đệ xuống thuyền để vượt Biển Hồ. Trên đường, Chúa gối đầu ở đàng lái và ngủ thiếp đi. Một trận cuồng phong bất ngờ ập xuống, nước tràn vào thuyền, mọi thứ chao đảo và toàn bộ những người trên thuyền rơi vào cảnh lâm nguy tính mạng. Tuy vậy, Chúa vẫn ngủ, và dường như là ngủ rất ngon. Thật lạ! Khó có thể tưởng tượng ra người nào đó lại ngủ được giữa trời giông bão. Các môn đệ hoảng sợ cực độ và gọi Chúa dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Ngài tỉnh giấc, ngăm đe gió và truyền cho biển phải lặng. Ngay lập tức, mọi sự yên ổn trở lại và Chúa bảo các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (x Mc 4, 35 – 41).

Rõ ràng Chúa Giêsu muốn tận dụng tình huống này để dạy các môn đệ nhiều điều. Tuy nhiên, tạm gác lại những suy tư quá sâu về Thần học vượt sức chúng ta, tôi chỉ muốn các bạn để ý một điều: Chúa ở trên thuyền.

Cũng như các môn đệ chèo chống trong cơn giông bão, chúng ta đang đi qua biển đời mình với đầy những điều không như ý và đau khổ. Và cũng lại thật giống các môn đệ khi nhiều người trong chúng ta, vì quá thất vọng mà thốt lên: “Chúa ở đâu? Chúa bỏ mặc con sao?”; trong khi Chúa đang đồng hành với ta, ngay trên thuyền đời của ta.

Chúa ở trên thuyền – điều này có nghĩa là Ngài luôn bên cạnh và cùng chịu mọi rủi ro với các môn đệ. Thử tưởng tượng rằng giả như thuyền bị lật, thì chắc chắn Chúa cũng sẽ phải cùng các học trò của mình rơi xuống biển. Nhưng Ngài vẫn bình thản, vẫn ngon giấc giữa giông bão. Cũng vì lẽ đó, chúng ta lại được dịp oán trách khi nghĩ rằng Ngài dửng dưng hay vô tâm trước tình cảnh ngặt nghèo mà ta phải đối diện. Không phải như vậy! Khi ngăm đe gió và bắt biển phải lặng im, Chúa muốn ta hiểu rằng mọi việc vẫn luôn nằm trong tầm kiểm soát của Ngài và Ngài luôn làm chủ mọi sự. Còn khi Chúa hỏi: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”; Ngài muốn tìm nơi ta sự phó thác nơi Ngài, dù hoàn cảnh có ra sao. Chỉ là, trí khôn ta giới hạn và tinh thần ta nhát đảm; thật khó để ta hiểu thấu, chấp nhận và tin tưởng.

Có những giông bão sẽ bị Chúa đẩy lùi, như cách Chúa làm để bảo vệ con thuyền trong sự kiện kể trên. Nhưng cũng sẽ có những giông bão mà Chúa muốn ta đón nhận vì những ích lợi vĩnh cửu, như cách Chúa đã làm gương khi tự nguyện hiến mạng sống mình trên Đường Thập Giá. Thật khó để biết được rằng Chúa sẽ chọn cách thức nào cho đau khổ mà ta đang phải đối diện. Tuy nhiên, điểm chung của cả hai cách thức, đó là, Chúa đều muốn ta đặt cuộc đời trong tay Ngài và cộng tác vào kế hoạch của Ngài. Vậy ra bổn phận của ta là phải phó thác mọi sự cho Thánh Ý Chúa: Dù có ra sao, ta cũng vâng phục Ngài, như thái độ của ông Gióp khi thốt lên một cách đầy minh triết: “Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng Danh Đức Chúa!”

Chúa đã hứa rằng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đừng bao giờ nghĩ là Chúa dửng dưng hay bỏ mặc ta bơ vơ giữa đau khổ. Ngài luôn bên cạnh ta mọi lúc. Ngài ở cùng người lính trên chiến trường; Ngài ngồi trên giường bệnh của người đau ốm; Ngài theo chân của những y bác sĩ, những người tình nguyện chống dịch bệnh; Ngài khóc cùng ta trong những mất mát…

Người Việt Nam hay dùng cụm từ “chung một thuyền” để chỉ những người sẵn sàng cùng nhau chia sẻ hoạn nạn. Chúa đang “chung một thuyền” với ta, điều này có ý nghĩa thật lớn lao.

Một ngày nào đó, khi thuyền đang lướt trên biển đời; nếu giông bão có nổi lên, gió biển có đe doạ, sấm chớp có gầm gừ hay sóng dữ có đòi nuốt chửng ta; thì mong các bạn đừng quên một điều: Chúa ở trên thuyền.

=Lỡ Hữu Trọng=

———-

Ảnh: Bức tranh “Cơn bão trên Biển hồ Galilee”, của họa sĩ nổi tiếng thế giới Rembrandt. Vẽ năm 1633.