ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Thiên Chúa là tình yêu.  Con người là họa ảnh của Thiên Chúa.  Con người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian.  Thế gian cần có tình yêu để tồn tại.  Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đọa đầy. 

Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời.  Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương, để nhớ.  Tình yêu là lẽ sống còn của con người.  Con người không có tình yêu sẽ đầy đọa mình và làm khổ anh em.

Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau và hy sinh cho nhau.  Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh chung quanh.  Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm với nhau.  Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố tình yêu.

Em bé trong Tin Mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá ăn.  Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói.  Em đã dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn.  Em đã làm tất cả vì tình yêu đối với đồng loại của mình.  Chính lòng quảng đại của em đã được Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.

Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Đôi khi chúng ta cũng áy náy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ.  Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua.  Và đôi khi chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.

Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng.  Một ông lão đến gõ cửa nhà phú hộ.  Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong chiếc áo rách tả tơi.  Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi thì hơn.  Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để ông lão ra đi.  Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu để ra đi.

Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn vùi dưới tuyết.  Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng.  Người phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.

Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta.  Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời.  Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình thương đến với những anh em bất hạnh.  Có thể là những cơ hội cứu sống người khác.  Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân.  Có thể chỉ là những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ ngay chính gia đình của mình.  Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân.  Tha nhân là hiện thân của Chúa.  Ai giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa.  Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả năng, trong hoàn cảnh của mình.  Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân. 

Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người.  Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi.  Biết bao người chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục lẫn nhau.  Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng ta.  Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót thương. 

Chúa Giêsu Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất hạnh.  Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người.  Từ mọi thành phần.  Từ mọi tầng lớp.  Ngài đều thi ân giáng phúc.  Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính anh em hãy cho họ ăn.”  Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói rằng: “lực bất tòng tâm.”  Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu.  Bắt đầu từ việc thu gom một phần bánh nhỏ bé.  Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu.  Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng.  Bắt đầu từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành những việc phi thường.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài.  Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá hầu mang lại niềm vui cho mọi người.  Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen! 

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

From: Langthangchieutim

MẢNH ĐẤT GIÀU

MẢNH ĐẤT GIÀU

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai có tai để nghe, thì hãy nghe!”

Một nghệ sĩ vĩ cầm bất ngờ khám phá tiếng đàn của mình có tác dụng thôi miên người nghe; anh cũng thấy tác động này trên các vật cưng trong nhà.  Và anh tự hỏi, điều ấy sẽ thế nào đối với những thú hoang?  Và ngày kia, đến một bìa rừng, anh cất tiếng đàn.  Điều kỳ diệu đã xảy ra!  Một con sư tử cái, một con voi và một con khỉ lao vào chỗ anh, chúng say mê lắng nghe.  Chẳng mấy chốc, động vật các loại đến chật ních.  Đột nhiên, một con sư tử khác lao ra khỏi rừng, vồ lấy người nghệ sĩ.  Sư tử cái hét lên, “Sao ông làm thế?”  Sư tử đực khum hai chân sau đôi tai đáp, “Cái gì?”

Kính thưa Anh Chị em,

Con sư tử đực kia xem ra không có một ‘đôi tai nội tâm’ và một ‘mảnh đất giàu’ bên trong như các con thú khác.  Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một ‘đôi tai’ và một ‘mảnh đất giàu’; nhưng ‘đôi tai’ Chúa Giêsu nói đến có nhiều điều hơn đôi tai thể lý.  Ngài nói đến một ‘đôi tai’, qua đó, chúng ta có thể nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận thánh ý Thiên Chúa từ một ‘mảnh đất giàu’ của linh hồn.

Bằng nhiều cách, Chúa Giêsu nói Lời Thiên Chúa cho chúng ta, nhưng chúng ta có lắng nghe và sẵn sàng để Lời Ngài thấm nhuần hay không, điều này tuỳ thuộc nội tâm mỗi người.  Chỉ khi chăm chú vào Lời Ngài, chúng ta mới có thể nắm bắt ý muốn của Thiên Chúa; cùng lúc, tâm hồn chúng ta phải là một ‘mảnh đất giàu.’  Để có được ‘mảnh đất giàu’ màu mỡ trong tâm hồn, quả không dễ!  Vì sẽ dễ hơn rất nhiều để đất khô cằn, gai gốc, sỏi đá và không đón nhận.  Vậy, làm sao để nuôi dưỡng một tâm hồn hầu nó có thể trở nên một ‘mảnh đất giàu?’

Để bắt đầu công việc này, một trong những nơi quan trọng nhất là chúng ta phải đi xuống ‘vùng trũng’ khiêm tốn.  Khiêm tốn, cuối cùng, là nhìn nhận sự thật về con người mình; và đặc biệt, nhận thức được sự cần thiết của ân sủng Thiên Chúa trong đời.  Việc khiêm tốn thừa nhận chúng ta bất lực nếu không có ân sủng là một điều cần thiết trước tiên để tạo ra một ‘mảnh đất giàu’ nội tâm; từ đó, chúng ta hoàn toàn cậy trông vào Chúa.  Lần đầu tiên, khi hạ mình xuống tận ‘vùng trũng’ lòng mình, tựa nương vào Đấng Quyền Năng, chúng ta bắt đầu ở trong tư thế sẵn sàng lắng nghe khi Thiên Chúa nói; và lúc Ngài mở lời, qua ‘đôi tai nội tâm’, chúng ta vui mừng lắng nghe, hiểu, lựa chọn và chấp nhận thánh ý; tức là vâng lời.  Chỉ khi đó, hoa trái tốt lành của lòng thương xót Chúa mới có thể đổ vào cuộc sống chúng ta và qua chúng ta, đổ vào cuộc đời những người khác.

Bài đọc Xuất Hành hôm nay là một minh họa cho thấy thái độ lắng nghe với ‘đôi tai nội tâm’ của Môisen và Aaron, những con người có những ‘mảnh đất giàu.’  Bị dân ta oán giữa sa mạc với những lời lẽ khó nghe nhất, “Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê!”, Môisen và Aaron vẫn không một lời phàn nàn hay khiển trách, một chỉ khiêm tốn lặng thinh, chờ đợi để lắng nghe Thiên Chúa.  Và Thiên Chúa đã phán cùng Môisen để ông nói lại cho dân, “Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê!”   Quả đúng như vậy!  Thú vị thay, ở sách Dân Số, Môisen sẽ nói với dân, “Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày, nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi!”  Thánh Vịnh đáp ca hôm nay xác nhận điều đó, “Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ!” khi Ngài cho chim cút và sương mai rơi rợp trại!

Anh Chị em,

Không ai đã bước xuống ‘vùng trũng’ khiêm tốn bằng Thiên Chúa.  Bằng chứng là dân, miệng vừa, “Vang lên muôn lời ca, ta ca ngợi Chúa!”, lại vừa ta oán Ngài.  Vậy mà, Thiên Chúa vẫn chịu đựng, Ngài kiên nhẫn lắng nghe họ.  Ngày nay, vẫn vị Thiên Chúa đó, đang bước xuống trong Chúa Giêsu Kitô.  Ngài đã bước xuống thật thấp, thấp đến nỗi hiến mình treo cao trên nhục hình thập giá; thấp đến nỗi hiến mình lấy Máu Thịt nuôi dưỡng nhân loại trên các bàn thờ.  Ôi, một nhân loại vĩ đại, cao quý!  Chúng ta có nhận ra điều đó không, hay suốt ngày chỉ kiếm tìm những gì thỏa mãn cơn đói vật chất và để cho ‘đôi tai tâm hồn’ mình điếc đặc.  Chớ gì mỗi ngày, chúng ta biết cần mẫn khiêm tốn cúi xuống mảnh đất tâm hồn để nhặt đi những hòn sỏi ích kỷ, nhổ đi những cọng cỏ kiêu căng, hầu hạt giống Lời Chúa có thể mọc lên từ một ‘mảnh đất giàu’ màu mỡ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin đừng để hạt giống Lời Chúa chết nghẹt nơi con; nhưng cho con biết cộng tác với ân sủng, từ việc đón nhận với ‘đôi tai nội tâm’ nhạy bén đến việc ra sức vun xới cho tâm hồn trở nên ‘mảnh đất giàu’; nhờ đó, Lời Chúa có thể sinh hoa trái cho linh hồn con và anh em con.  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

SỨC MẠNH CỦA NGUYỆN CẦU

SỨC MẠNH CỦA NGUYỆN CẦU

Một phụ nữ bước vào cửa tiệm tạp hóa lớn, cô ngó quanh dáo dát rồi đến bên quầy tính tiền nói với ông chủ.

“Thưa ông, tôi cần mua một ít thức ăn, nhưng tôi không có tiền ngày hôm nay. Ông có thể cho tôi mua chịu được không? Tôi hứa sẽ đem tiền đến trả ngay khi sớm nhất có thể.”, cô cuối đầu ngượng ngùng nói.

“Oh, không được đâu. Tôi đâu biết cô là ai? Làm sao tôi có thể bán chịu cho cô khi cô chưa từng là khách quen ở cửa tiệm tôi?”, ông chủ lắc đầu.

Nước mắt lưng tròng, người phụ nữ van xin: “Chồng tôi bị bệnh nặng, không thể đi làm được. Chúng tôi có 5 đứa con, và chúng đang rất đói. Xin ông hãy rủ lòng thuơng giúp đỡ cho một lần này thôi. Tôi hứa khi có tiền sẽ đem đến trả ông ngay!”.

Ông chủ tiệm chỉ tay ra phía cửa nói: “Cô vui lòng ra khỏi đây ngay. Đừng cản trở tôi mua bán chứ. Khách đang xếp hàng sau lưng cô kia kìa …”.

Từ phía sau người phụ nữ, một người đàn ông nãy giờ đã nghe 2 người đối thoại bước lên. Ông nói: “Hãy để tôi ứng tiền cho cô ấy, ông cứ để cô ấy lấy những gì cô ấy cần.”

Người chủ tiệm nhìn 2 người, lưỡng lự một chút, rồi ông ta chợt nảy ra ý tưởng hay. Ông hỏi người phụ nữ: “Cô có biết cô cần mua gì không? Nếu biết thì hãy viết ra giấy đưa cho tôi.”.

Người phụ nữ mừng rỡ nói: “Vâng, thưa ông. Tôi sẽ viết ngay đây.”

Nhưng ông chủ tiệm lại tiếp: “Viết xong đưa tờ giấy đó cho tôi, tôi sẽ bỏ lên bàn cân này. Nó nặng bao nhiêu thì cô cứ lấy những gì cô cần cho đến khi đủ. Tôi sẽ không tính tiền những gì cô lấy!”. Ông chủ tiệm cúi xuống gầm lôi lên bàn một cái cân to tướng, và chỉ vào một phía.

Người phụ nữ và ông khách phía sau ngạc nhiên trước thái độ ông chủ, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác. Người phụ nữ lục trong túi xách một mảnh giấy nhàu nát, cô run run viết lên tờ giấy đó .. Rồi cô gấp đôi tờ giấy lại đưa cho ông ta.

Ông chủ tiệm nhếch mép cười, rồi bỏ tờ giấy lên một bên cân. Nhưng lạ thay, mảnh giấy từ từ chìm xuống cho đến đụng đáy trước sự ngạc nhiên của 3 người. Người phụ nữ vội đi gom thức ăn bỏ vào bên thau bên kia, nhưng dù cô có bỏ lên bao nhiêu, phía bên tờ giấy vẫn không nhúc nhích. Ông chủ tiệm nhìn kỹ 2 bên cân, nhưng rõ ràng nó không có gì khác thường …

Cho đến khi thau đồ đã đầy, ông chủ tiệm đành để người phụ nữ ôm túi đầy thức ăn bước ra tiệm mà không thể tính tiền trước sự ngạc nhiên của người khách lạ.

Ông chủ tiệm lật hẳn cái cân lên coi, thì ra phía dưới một bên cân đã gãy. Ông tức tối nhặt tờ giấy người phụ nữ gấp lại mở ra để xem cô đã lấy đi những gì của ông, thì ra cô chẳng hề viết list đồ cô cần mua, mà chỉ vỏn vẹn có giòng chữ:

“Lạy Chúa, Người biết chúng con đang cần gì, con xin phó thác tất cả trong tay người.”

Ông chủ tiệm nhắm mắt ngước lên Trời, giờ thì ông đã hiểu …

Bạn, xin hãy đừng đánh giá thấp một lời cầu nguyện. Chỉ có Chúa mới biết được lời nguyện cầu nặng bao nhiêu.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,

 Lời nguyện

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng, thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa, dối trá,
xin được sống chân thật, đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc, đam mê,
xin được sống hồn nhiên, thanh khiết.
Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỷ người kitô hữu
vẫn giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

NIỀM VUI – MỘT DẤU CHỈ CỦA THIÊN CHÚA

NIỀM VUI – MỘT DẤU CHỈ CỦA THIÊN CHÚA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Chỉ có một nỗi buồn thực sự, đó là không làm thánh được!  Tiểu thuyết gia, triết gia người Pháp, Leon Bloy đã kết thúc quyển tiểu thuyết Người phụ nữ nghèo (The Woman Who Was Poor) bằng câu nói thường xuyên được trích dẫn này.  Còn đây là một câu khác của Leon Bloy ít được trích dẫn hơn, nhưng rất hữu ích để giúp ta hiểu lý do vì sao lại buồn khi không được làm thánh!  Niềm vui là dấu chỉ chắc chắn về cuộc sống của một tâm hồn có Chúa trong lòng.

Niềm vui không chỉ là một dấu chỉ chắc chắn về cuộc sống thuộc về Thiên Chúa, nó còn là dấu chỉ của một cuộc sống có Thiên Chúa.  Niềm vui cấu thành cuộc sống nội tâm có Thiên Chúa.  Thiên Chúa là niềm vui.  Đây là điều mà chúng ta không dễ gì tin.  Vì nhiều lý do, chúng ta thấy thật khó để nghĩ về một Thiên Chúa hạnh phúc, vui vẻ, thoải mái, tự tại và mỉm cười (theo lời Julian thành Norwich).  Kitô Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, dù có nhiều khác biệt, nhưng đều có điểm này là điểm chung.  Trong nhận thức chung của mình, chúng ta hình dung Thiên Chúa là người nam, độc thân, và thường không hài lòng, thường thất vọng về chúng ta.  Chúng ta khó nghĩ Thiên Chúa vui với cuộc sống chúng ta, và quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa là Đấng hạnh phúc, vui vẻ, tự tại và mỉm cười.

Sao lại có thể khác được chứ?  Kinh Thánh cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng tạo ra mọi sự tốt lành và mọi sự tốt lành đều đến từ Thiên Chúa.  Mà trên đời này, có sự gì tốt đẹp hơn hạnh phúc, vui vẻ, tiếng cười và vẻ đẹp mang lại sự sống của một nụ cười nhân hậu?  Rõ ràng là không.  Những điều này cấu thành sự sống thiên đàng và là những gì làm cho cuộc sống trên đời này đáng sống.  Chắc chắn chúng phải phát xuất từ Thiên Chúa.  Và như thế có nghĩa, Thiên Chúa vui vẻ, Thiên Chúa là niềm vui.

Nếu đúng thế, mà đúng thế thật, thì chúng ta không nên xem Thiên Chúa như một người yêu hay thất vọng, một người chồng hay giận dữ, một người mẹ hay đau lòng, cau mày trước những thiếu sót và phản bội của chúng ta.  Đúng hơn, chúng ta phải hình dung Thiên Chúa như người ông, người bà, vui mừng trước cuộc sống và sinh lực của chúng ta, thoải mái với những kém cỏi của chúng ta, tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta và luôn mãi nhẹ nhàng dỗ dành hướng chúng ta đến những gì cao đẹp hơn.

Một phần đang ngày càng phát triển trong dòng văn học hiện đại, gợi ý rằng sự hiện diện thuần khiết nhất của tình yêu và niềm vui trên trái đất này không phải là những gì giữa các tình nhân, giữa vợ chồng, hay thậm chí giữa bố mẹ và con cái.  Trong những mối quan hệ này, có đủ căng thẳng và sự vị kỷ không thể tránh khỏi và cũng không phải là chuyện lạ lùng gì, và chính chúng làm cho sự thuần khiết và niềm vui của các mối quan hệ này bị phủ lên một màu khác.  Nhưng điều này lại không mấy đúng trong quan hệ giữa ông bà và cháu chắt.  Mối quan hệ đó ít căng thẳng và vị kỷ hơn, thường là sự hiện diện thuần khiết của tình yêu và niềm vui trên trái đất này.  Trong mối quan hệ này, sự phấn khởi tuôn trào tự do hơn, thuần khiết hơn, đẹp đẽ hơn, và phản chiếu thuần khiết hơn những gì nội tại của Thiên Chúa, cụ thể là niềm vui và phấn khởi.

Thiên Chúa là tình yêu, Kinh Thánh cho chúng ta biết như vậy, nhưng Thiên Chúa còn là niềm vui.  Thiên Chúa là nụ cười nhân hậu của người ông người bà nhìn ngắm con cháu với niềm tự hào và phấn khởi.

Tuy nhiên, làm sao điều này hợp với đau khổ, với khổ nạn phục sinh, với một Đức Kitô chịu khổ nạn dùng máu và thống khổ để chuộc tội chúng ta?  Niềm vui của Thiên Chúa nằm ở đâu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu đau đớn trên thập giá?  Cũng vậy, nếu Thiên Chúa là niềm vui, làm sao chúng ta giải thích biết bao lần cuộc sống của chúng ta, dù chân thành tin tưởng và dâng hiến, lại chẳng cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, tiếng cười?

Niềm vui và đau đớn không phải là hai thứ bất tương hợp.  Hạnh phúc và buồn sầu cũng thế.  Đúng hơn, chúng ta thường cảm nhận chúng cùng đi với nhau.  Chúng ta có thể rất đau đớn mà vẫn hạnh phúc, cũng như chúng ta có thể không đau đớn, thấy khoái lạc, nhưng lại bất hạnh.  Niềm vui và hạnh phúc được khẳng định dựa vào một điều gì đó tồn tại được qua đau đớn, cụ thể là ý nghĩa, nhưng chuyện này không dễ gì hiểu được.  Chúng ta có xu hướng mang một ý niệm hời hợt vô ích về cấu thành của niềm vui và hạnh phúc.  Với chúng ta, chúng bất tương hợp với đau đớn, thống khổ và buồn sầu.  Tôi tự hỏi nếu vào Thứ Sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu đang bị treo trên thập giá, mà có người hỏi “Ngài có hạnh phúc khi ở trên đó không?” thì Chúa sẽ trả lời thế nào.  Tôi cho rằng Ngài sẽ nói tương tự thế này. “Nếu ngươi hình dung hạnh phúc theo cách của ngươi, thì câu trả lời là không!  Ta không hạnh phúc!  Nhất là trong ngày hôm nay!  Nhưng giữa những thống khổ Ta trải qua hôm nay, Ta cảm nghiệm được ý nghĩa, một ý nghĩa quá sâu sắc đến nỗi nó bao hàm cả niềm vui và hạnh phúc đi kèm thống khổ.  Trong đau đớn, có một niềm vui và hạnh phúc thâm sâu từ việc hy sinh bản thân vì điều này.  Cái bất hạnh và thiếu vắng niềm vui như ngươi cảm nhận, là thứ đến rồi đi, nhưng ý nghĩa thì tồn tại mãi trong mọi cảm giác này.”

Biết được thế nhưng chúng ta vẫn không dễ gì chấp nhận Thiên Chúa là niềm vui và là một dấu chỉ chắc chắn về cuộc sống thuộc về Thiên Chúa trong tâm hồn.  Tuy nhiên, biết được vậy là một khởi đầu quan trọng để dần dần chúng ta cảm nhận và ý thức thêm về nó.

Có một nỗi buồn thực sự khi không làm thánh.  Tại sao lại thế?  Vì khoảng cách giữa chúng ta với sự thánh thiện cũng là khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa, và khoảng cách giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng là khoảng cách giữa chúng ta với niềm vui.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Hành trang người môn đệ

 Hành trang người môn đệ

Điều gì quan trọng nhất??

CN 15 Thường niên – năm B. 

Lung Linh

Tin Mừng Chủ nhật 15 B Thường niên nói về việc rao giảng mà hiện nay chúng ta gọi là Loan báo Tin Mừng.

Trên internet chúng ta nhận được những lời khuyên thật chí tình:

Đây là những lời khuyên điển hình và giá trị nhất

Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật thiết với Đức Giêsu.

Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt đẹp.

Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn sơ phó thác.

Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.

Hành trang của người môn đệ là tình liên đới. 

Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.

Hành trang của người môn đệ là trái tim biết cảm thương.

Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.

***

Nhưng thực tế thì thế nào?

Từ lời khuyên tới thực hiện…từ lý thuyết tới thực hành..có một khoảng cách cả chục cây số!!!

Như vậy, chúng ta tha hồ khích lệ nhau..Hãy cố gắng mà chuẩn bị hành trang thật tốt để lên đường loan báo Tin Mừng…

Nhưng công cuộc Loan báo Tin Mừng dường như vẫn dậm chân tại chỗ

Hay nói u buồn hơn: công cuộc Loan báo Tin Mừng dường như bị chết yểu từ trong trừng nước..

Tại sao lại nói kiểu “Bùi Lan” – bàn lui hoặc ‘đâm sau lưng chiến sĩ’ như thế???

Vì những lý do sau:

Có tới hơn 90 % chúng ta vẫn nghĩ rằng:

Hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha Là chuyện không tưởng.

Chúa thì thánh đức ngàn trùng, tôi thì thội lỗi phàm hèn…

Làm theo ý Chúa Cha Là chuyện mò kim đáy biển.

Làm sao biết chắc rằng đây là ý của Chúa Cha??? Toàn là đoán mò…!!!

Đây là 2 yếu tố nền tảng mà chúng ta không nắm được coi như chúng ta đã xây tòa nhà Loan Báo Tin Mừng trên cát mất rồi!!!

Sao lại xây trên cát: Vì lý do sau:

Dù tôi dụ được hàng ngàn người vào cộng đoàn..

Dù tôi thuyết trình hàng trăm lần trước hàng trăm cử tọa

Dù tôi đi Đông đi Tây, ra Bắc vào Nam để Loan Báo Tin Mừng

Dù tôi giúp cho nhiều người cảm thấy sống tốt hơn, vui vẻ hơn…

Nhưng còn chính mình thì sao nhỉ??? Chúa vẫn là người khách lạ ngay trong ngôi nhà tâm hồn mình.

Khi đi Loan Báo Tin Mừng, tôi lên kế hoạch thật hoàn hảo để đạt được hiệu quả cao. Đó chính là mục đích mà tôi phải đạt cho bằng được.

Còn chuyện Hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha … Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới. Tôi chỉ thấy  tôi và một số anh chị em trong ban điều hành cùng nhau thực hiện thế nào cho thật hoành tráng.

Quả thực Hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha Là chuyện không tưởng.

Kết luận:

Tới đây câu hỏi tựa để nêu ở trên cùng

Hành trang người môn đệ… Điều gì quan trọng nhất?

Đã có câu trả lời:

Nhận ra Chúa sống trong mình và tập sống kết hiệp với Ngài ngay trong đời sống hằng ngày của mình…

Làm sao nhận ra Chúa sống trong mình?

Thánh Phaolo nhắc nhở chúng tôi:

Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu. (Cv 17:28)  

Một ngày nào đó tôi có thể chọn một cử động nào đó như: lên xuống cầu thang; chạy xe đi làm, nhai cơm một mình…

Vừa cử động vừa lên xuống từng bậc thang, hay vừa vặn ga, hoặc vừa từ từ nhai cơm… vừa nhử lòng mình….từng cử động này đang được thực hiện trong Chúa…. Chúa Cha, Chúa Kitô, Chúa Thánh Thần đều được..

Kiên trì tập ngày này qua ngày khác…tháng này qua thánh khác..năm này qua năm khác…Mỗi ngày khởi đầu khoảng  10 phút…30 phút…rồi 1 tiếng…đã là quý lắm rồi…

Chắc chắc một ngày đẹp trời nào đó.. tôi chắc chắn sẽ dần dần cảm nhận rằng mình quả thực đang sống từ nguồn sống của Ngài..

Lúc đó mới nói tới chuyện  Hoàn toàn kết hiệp với Chúa Cha.

Tất nhiên đây cũng chính là hành trang quan trọng nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng,

Thiếu điều này, tôi chỉ là một thùng rỗng… kêu hết sức to!!!

Nguồn  https://tramtubensuoi.blogspot.com/2021/07/hanh-trang-nguoi-mon-e-ieu-gi-quan.html

From: Kim Bang Nguyen

TÊN THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

TÊN THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

 Sương Mai

Mỗi người sinh ra đều được đặt một cái tên.  Tên hay còn gọi là danh xưng của một cá nhân nhằm xác định cụ thể và định dạng về một ai đó.  Nói đến tên là nói đến sự hiện hữu của người đó.  Mỗi cái tên mang một ý nghĩa và có một tầm quan trọng rất lớn.  Tên gắn bó với người đó trong suốt cuộc đời và còn mãi cho đến khi đã khuất tên vẫn còn “lưu truyền hậu thế,” như câu ngạn ngữ: “Hổ chết để da, con người ta chết để tiếng;” lưu truyền đó tốt hay xấu là do cách sống của ta.  Khi nói đến tên của ai đó ta nghĩ về cuộc đời và con người của họ.  Người Công giáo ngoài tên thường gọi, còn có tên Thánh, được đặt từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội.  Tên con người là thế, nhưng có ai đã đặt vấn đề: Con người sinh ra ai cũng có tên, vậy Thiên Chúa là Đấng dựng nên ta, Ngài có tên không?  Và tên Ngài là gì?

Khi ta biết tên của ai đó là lúc ta bắt đầu biết về họ.  Chúng ta không ai biết tên Thiên Chúa.  Sở dĩ chúng ta biết tên Thiên Chúa là nhờ Ngài mạc khải chính tên của Ngài cho chúng ta.  Cho nên, khi con người biết tên Thiên Chúa là bước khởi đầu để con người có cơ hội biết về Ngài, và Ngài sẵn sàng thiết lập tương giao giữa Ngài với con người.  Điều này được thấy rõ trong Kinh Thánh Cựu Ước, khi Thiên Chúa mạc khải tên của Ngài cho dân qua Môsê trên núi Sinai (Xh 3,1-15).  Thiên Chúa mạc khải cho Môsê biết tên Ngài là Giavê (Yahweh), Đấng Tự Hữu, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob.”  Khi Thiên Chúa mạc khải tên của Ngài cũng là lúc Ngài mạc khải bản tính của Ngài.  Ngài là Thiên Chúa của tình yêu.

Theo dòng lịch sử của mình, Israel đã có thể khám phá ra rằng Thiên Chúa chỉ có một động lực duy nhất khiến Ngài tự mạc khải cho họ, và chọn họ giữa mọi dân để họ là dân của Ngài: đó là tình yêu nhưng không của Ngài.  Nhờ các tiên tri, Israel hiểu rằng, cũng vì tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng giải cứu họ và tha thứ cho sự bất trung và tội lỗi của họ.  Tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel được so sánh với tình yêu của một người cha đối với con mình (Hs 11,1).  Tình yêu đó còn mạnh hơn tình yêu của một người mẹ dành cho con cái mình (Is 49, 14-15).  Thiên Chúa yêu dân Ngài hơn người chồng yêu người vợ yêu dấu của mình (Is 62,4-5). Tình yêu đó cũng chiến thắng những bất trung, tình yêu là tha thứ, và tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel là vĩnh cửu “tồn tại muôn đời” (Is 54,8).  “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi” (Is 54,10).  “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng thương xót” (Gr 31,3).  Tình yêu vĩnh cửu đó thể hiện rõ nhất qua việc “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16).  Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8.16), vì chính Hữu thể của Thiên Chúa là tình yêu.  Với mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh, tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cụ thể, rõ ràng qua dung mạo của Đức Giêsu Kitô.  Đức Kitô chính là lời mạc khải trọn vẹn về tình yêu Thiên Chúa.  Qua Con Một, Thiên Chúa mạc khải điều bí ẩn thâm sâu nhất của Ngài: Chính Ngài là sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và Ngài đã tiền định cho chúng ta được dự phần vào sự trao đổi tình yêu đó. (GLHTCG 218-221)

Chúng ta biết Tên của Thiên Chúa là Tình Yêu, và chúng ta được Thiên Chúa dựng nên bằng tình yêu của Ngài, khi Ngài cho con người giống hình ảnh Ngài, nên chúng ta được thông phần với tình yêu của Ngài.  Vì thế, tên của chúng ta cũng phải thể hiện được bản chất vốn sẵn có mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong mỗi người chúng ta đó là Tình Yêu.  Chúng ta được mời gọi hãy sống và phản chiếu dung mạo của Thiên Chúa là Tình yêu.  Khi ta sống trong tình yêu và thể hiện tình yêu ấy là ta đang sống đúng bản chất tình yêu như Thiên Chúa muốn ban tặng cho chúng ta; được kết hiệp nên một với Thiên Chúa, cuộc đời ta được tháp nhập hoàn toàn vào tình yêu của Ngài, dù tình yêu của ta nhỏ bé và giới hạn so với tình yêu của Thiên Chúa.

Từ muôn thuở Thiên Chúa đã khắc ghi tên ta là Tình yêu trong trái tim Ngài.  Ngài muốn hiện hữu cùng ta với tên gọi Tình yêu.  Ta là Tình yêu của Thiên Chúa.  Thế nhưng, đối với ta, Thiên Chúa có là Tình yêu của ta không?  Hay chỉ là một thụ tạo, một đam mê, một vui thú thế gian nào đó mới là tình yêu của ta?  Ta đã thực sự thông phần vào bản chất tình yêu mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong trái tim Ngài chưa?

Thân phận con người vốn mỏng manh, yếu đuối và dễ đổi thay.  Thiên Chúa thấu suốt mọi tâm can từng gang tấc nơi con người hơn bất cứ ai.  Ta đã từng khấn hứa giao ước tình yêu với Thiên Chúa, nhưng liệu ta có giữ mãi được lời thề hứa sắt son đó không?  Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu trung tín, không thay đổi; chỉ có tình yêu nơi con người mới đổi thay.  Thiên Chúa mãi mãi thể hiện đúng bản chất tình yêu của Ngài.

Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng có những lúc ta muốn buông xuôi tất cả, cảm thấy chán nản, thất vọng, đau khổ, sợ hãi, căng thẳng, mệt mỏi…  Có những lúc tình yêu và lòng nhiệt huyết đi theo Chúa của ta không còn nồng nàn như thuở ban đầu, ta cảm thấy tình yêu ta dành cho Chúa sao hời hợt, tẻ nhạt quá.  Dù như thế, ta hãy nhớ ta vẫn mãi là Tình yêu của Thiên Chúa vì ngay cả khi ta không trung tín với Ngài thì Ngài cũng vẫn tín trung, vì Ngài không thể nào tự chối bỏ chính mình (2Tm 2,13).  Dù ta có như thế nào Thiên Chúa chỉ muốn ta một điều đó là không được thay đổi tình yêu.  Tình yêu là chất keo gắn kết ta với Chúa và giúp ta hiệp thông với anh chị em.  Trung thành trong tình yêu là điều cần thiết để theo Ngài.  Cuộc sống có lúc thăng, lúc trầm, điều đó giúp cho cuộc sống ta thêm phong phú hơn, nó như một bản nhạc cuộc đời làm cho ta thêm khởi sắc hơn.  Ta hãy nhìn cuộc sống bằng đôi mắt đức tin và trong cái nhìn tích cực để thúc đẩy ta trung thành với tình yêu giao ước thuở ban đầu của ta với Chúa.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sớm cảm nghiệm được tình yêu, nên ngài viết lên một lời bất hủ: “Trong lòng Giáo hội, con sẽ là Tình yêu.”  Một tình yêu âm thầm nhưng vĩ đại và sâu sắc.  Tình yêu của hoa hồng đầy gai nhưng tràn ngập hạnh phúc vì được yêu Chúa.  Chị thánh đã nói: “Tôi đã chẳng cho Thiên Chúa tốt lành điều gì ngoài tình yêu, và Ngài sẽ trả lại cho tôi chính tình yêu.”  Thánh nữ không chỉ là bông hoa bé nhỏ của Chúa Giêsu nhưng còn là của toàn Giáo hội, chị đã để lại một kho tàng quý giá là linh đạo “Con đường thơ ấu” với một tình yêu mạnh mẽ và vĩ đại.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã thương chọn gọi con, đã yêu thương con bằng mối tình muôn thuở, và đã khắc tên con trong trái tim Ngài.  Xin cho con biết thể hiện và sống đúng bản chất tên Tình yêu như Chúa.  Ước gì trái tim con luôn cùng nhịp đập với trái tim Ngài để con biết yêu thương như Ngài đã yêu bằng đời sống đức ái với anh chị em con.  Xin cho con được mãi trung thành với giao ước tình yêu mà Chúa dành cho con trong ơn gọi thánh hiến.   Amen!

 Sương Mai

Nguồn: https://dongten.net

LỜI DẶN DÒ CẦN THIẾT

LỜI DẶN DÒ CẦN THIẾT

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai.  Ngài cho các ông sống bên cạnh mình.  Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm.  Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo.  Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ.  Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ.  M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103).

*1) Hành trang người tông đồ                                                                           

 a)Hành trang đi đường: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo.  Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu.  Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

  • Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.  Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

  • Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường.  Truyền giáo là ra đi.  Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.  Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”

  • Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu.  Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.  Đó là hành trang quan trọng hàng đầu.  Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.  Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

           b)Phương tiện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc.  Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn. 

          c)Tương lai bấp bênh.  Chúa Giêsu cũng không giấu diếm họ điều gì.  Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó.  Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi.  Cần phải hy sinh bản thân.  Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi.  Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén.  Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.  Thành công cũng không thụ hưởng, mà thất bại cũng chẳng đắng cay.  Bởi lẽ như lời Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghỉ trong những thành công tạm bợ… và không muốn ra đi.  Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ.  Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.  Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi.  Lên đường bao giờ cũng đẹp.  Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

*2) Phương thức hoạt động: “từng hai người một”

Khi sai đi “từng hai người một,” Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9).  Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35).  Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15, 22)…  Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm.  Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu.  Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội.  Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

  • 3) Tinh thần tông đồ là ra đi

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì.”  Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống.”  Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó.  Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước để truyền giáo.  Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23).  Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường.  Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34).  Có khi “mệt mỏi vì đường sá,” một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6).  Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.  Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).  Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên.  Theo ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan, rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê.  Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum… Ngài ngang qua đồng lúa … Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh cuộc sống.  Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng.  Cánh huệ mọc ngoài đồng.  Đàn chim sẻ đang bay.  Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời.  Một mẻ cá lớn bên biển hồ.  Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn, giữa bụi gai, trên sỏi đá.  Một đàn cừu người chăn lùa về buổi chiều tối.  Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối để vất đi.  Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…  Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).  Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghỉ, hưởng thụ hay củng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình.  Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: “Sáng đến, Ngài ra đi vào nơi hoang vắng.  Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ.  Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có nhà thờ.  Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài đang sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.  Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.  Từ tòa đạo qua tòa đời.  Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô.  Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm đường trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình.  Hai tay dang rộng, bị đóng đinh trên thập giá.  Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47).  “Lính canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66).  Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết.  Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.  Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, củng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng.

Hoàn thành sứ mạng, “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và “thiết lập Nhóm Mười Hai” để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi.  Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.  Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghỉ.  Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới.  Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có.  Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là.  Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi.

Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần.  Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.  Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.  Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim

MỘT CÁN BỘ CAO CẤP VỀ HƯU TRỞ LẠI ĐẠO

MỘT CÁN BỘ CAO CẤP VỀ HƯU TRỞ LẠI ĐẠO

(Trích từ hồi ký “Một linh mục trong ngục tù cộng sản’’)

LỜI DẪN: Hồi cha Phêrô Đinh Ngọc Quế phụ trách Hội Legio Mariae Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, các hội viên hoạt động rất nhiệt thành. Các anh chị em này đã dẫn đưa được nhiều người trở lại đạo, trong đó có một số cán bộ lớn bé đã về hưu. Trong hồi ký của mình, Cha Quế kể một số trường hợp là cán bộ to.

Tôi cũng xin nói thêm, chính các thành viên Hội Legio này là những chiến sĩ tiên phong của Chúa Kitô trong việc truyền giáo ở An Thới Đông. Nhờ các anh chị em này cũng như nhờ Cha Chân Tín và các anh em DCCT, một vùng chiến khu của cộng sản trước 75, từ đầu năm 1990, đã dần dần trở nên một họ đạo đông đảo và sinh động của huyện Cần Giờ, ngoại thành Sài Gòn.

***

Một ông cán bộ cao cấp, tren 40 năm tuổi đảng, nhờ anh chị em Legio kiên trì làm việc, đã trở lại đạo. Chính tôi được diễm phúc đến tận nhà Rửa Tội và Thêm Sức cho ông, hợp thức hóa hôn nhân cho ông, dâng Thánh Lễ Tạ Ơn để cho ông cùng gia đình được rước Mình Thánh Chúa. Khi rửa tội cho ông tôi hỏi: Cụ xin gì cùng Hội Thánh Chúa? Cụ thưa:

-Thưa “Đức Cha” , “Đức Cha” rửa tội cho tôi để tôi có sức phục vụ Chúa, Đảng và Nhà Nước.

Mọi nghi lễ được tiến hành tuần tự. Trước khi chính thức đổ nước Rửa Tội cho cụ, tôi, một lẫn nữa, lại hỏi ý muốn của cụ:

-Thưa Cụ, cụ có muốn cho tôi Rửa tội cho cụ không?

Ông cụ rất chững chạc nói lớn:

-Thưa “Đức Cha”, xin “Đức Cha” rửa tội cho tôi để tôi thêm sức phục vụ Chúa, Đảng và Nhà Nước.

Tôi đã đổ nước trên đầu cụ và Thêm Sức cho cụ, đã hợp thức hóa hôn nhân và dâng lễ Tạ Ơn để cụ rước lễ.

Mọi sự diễn biến tốt đẹp. Anh em Legio cùng với gia đình dọn một bữa tiệc nhỏ để mừng ông cụ. Vì sợ đang đau và sợ cụ mệt, nên gia đình định dọn cơm trên giường cho cụ. Nhưng lạ thay, cụ nhất định phải ăn cơm chung, đòi ngồi bên “Đức Cha” để tiếp “Đức Cha” mới được. Cụ nói, cụ cười, cụ đã trở nên như con trẻ. Tinh thần của cụ lúc này thật thoải mái vì cụ đã làm con của Chúa. Cụ cứ lặp đi lặp lại hoài: “Đời tôi chưa bao giờ hạnh phúc như ngày hôm nay. Cám ơn “Đức Cha”, cám ơn anh chị em. Anh chị em nhớ đến thăm tôi luôn nghe.”

Sau này tôi được biết, Rửa tội cho cụ rồi, cụ đổi hẳn tính tình. Trước kia hay gắt gỏng, chửi bới vợ con. Bắt vợ con phải cung phụng, không được thì đập phá. Chửi cả Đảng và Nhà Nước, vì đã cướp công của cụ. Bao nhiêu năm theo cách mạng, rất nhiều thành tích, nhưng giờ đây về hưu, già cả, bệnh tật, hàng tháng Nhà Nước chỉ cấp dưỡng cho mấy chục ngàn (VN). Nhưng bây giờ rửa tội xong, cụ trở nên hiền hòa, gia đình vui hẳn lên. Ai cũng tỏ ra quí mến cụ. Cám ơn Chúa về công việc Chúa đã làm!

(Lm. Phêrô Đinh Ngọc Quế, Hồi ký Một linh mục trong ngục tù cộng sản, trang 33-35. Trích đăng với sự ban phép của Cha Phêrô Bùi Quang Tuấn, Bề Trên Giám Phụ Tỉnh DCCT Hải Ngoại.)

***

LỜI BÀN: Ông cán bộ mà cha Quế kể ở đây có lẽ thuộc thế hệ những người đầu tiên ở VN theo cộng sản và thuộc loại cộng sản “chân chính.” Lớp người này về hưu hồi những năm 80-đầu 90 của thế kỷ trước, khi chế độ cộng sản chưa thành “tư bản đỏ” như hiện nay. Lớp cán bộ này phần lớn thường khá nghèo khi đương chức cũng như khi về hưu, vì thế ở Hà Nội hồi thập niên 80 mới có câu: “Đầu đường đại tá vá xe/ Cuối đường trung tá bán chè đỗ đen”.

Hồi tôi ở Hà Nội cuối những năm 80 tôi thường thấy khá đông các cán bộ này tụ tập ở bờ hồ Tây, khu vực cổng Đền Quan Thánh và nhất là cổng Chùa Trấn Quốc và hay được nghe họ kể chuyện xưa và chửi chế độ. Đây là câu vè tự thú tổng kết cuộc đời họ: “Ăn như tu. Ngủ như tù. Nói như lãnh tụ. Đến khi về già mới biết mình Ngu! Ngu! Ngu!”

Roma 08.07.2021

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

KHÁNG CỰ TÌNH YÊU

KHÁNG CỰ TÌNH YÊU

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Làm người thật không hề đơn giản.  Chúng ta thường là một bí ẩn với ngay chính bản thân mình, thậm chí là kẻ thù tồi tệ nhất của mình.  Sự phức tạp nội tâm làm trì trệ, và còn cản trở chúng ta.  Và chúng ta thấy điều này thật nhất trong nỗ lực vì tình yêu và sự mật thiết.

Chúng ta khao khát sự mật thiết hơn bất kỳ điều gì, khao khát được chạm đến nơi dịu dàng nhất của mình, nơi chúng ta được là chính mình nhất, nơi chất chứa những gì quý giá nhất, mỏng manh nhất, và khắc khoải nhất của chúng ta.  Nhưng khi thực sự đối diện với sự mật thiết, những người nhạy cảm thường trở nên bất an và kháng cự.

Chúng ta thấy hai ví dụ rất rõ trong Phúc âm.  Thứ nhất là câu chuyện có cả trong bốn Phúc âm, kể về một người phụ nữ đi vào phòng nơi Chúa Giêsu đang dùng bữa, và đập vỡ một lọ dầu thơm đắt giá, đổ lên chân Chúa, rửa chân Ngài bằng nước mắt, rồi lấy tóc lau khô, và hôn chân Ngài.  Trừ Chúa Giêsu, những người trong phòng đã có phản ứng thế nào?  Khó chịu và phản đối.  Chuyện này không được xảy ra!  Mọi người ngoảnh mặt đi trước sự bày tỏ nguyên sơ của tình yêu, và Chúa Giêsu phải thách thức họ nhìn thẳng vào nguyên cớ gốc rễ của sự khó chịu đó.

Trong đó, Chúa chỉ ra rằng họ khó chịu với những gì nằm ở trọng tâm cuộc sống và trọng tâm những khát khao thâm sâu nhất của họ, chính là sự trao đi và đón nhận thuần túy trước tình yêu.  Chúa Giêsu xác nhận, đây chính là mục đích chúng ta sống và đây là cảm nghiệm chuẩn bị cho chúng ta đi đến cái chết.  Đây là mục đích sống của chúng ta.  Đây cũng là điều chúng ta mong mỏi nhất?  Vậy tại sao chúng ta lại quá khó chịu và kháng cự khi thật sự đối diện với nó trong đời?

Ví dụ thứ hai là trong Phúc âm theo thánh Gioan, khi Chúa Giêsu cố rửa chân cho các môn đệ.  Theo thánh Gioan kể lại, Chúa Giêsu đứng dậy khỏi bàn, thắt tà áo, lấy chậu và khăn, rồi bắt đầu rửa chân cho các môn đệ.  Nhưng đáp lại là một sự khó chịu và kháng cự, thánh Phêrô nói rõ ràng rằng: “Không bao giờ!  Thầy không bao giờ rửa chân cho con!”

Tại sao lại thế?  Tại sao lại kháng cự?  Tại sao lại kháng cự khi đối diện với điều mà chắc chắn là Phêrô khao khát vô cùng, đối diện với sự mật thiết với Chúa Giêsu.

Trả lời cho câu hỏi về những đấu tranh với sự mật thiết trong hai bối cảnh này, cho chúng ta thấy ra lý do vì sao thỉnh thoảng chúng ta trở nên khó chịu và kháng cự khi thực sự đối diện với điều chúng ta khắc khoải mong mỏi.  Bàn chân của chúng ta là sự mật thiết quá mức, chúng là một phần thân thể dễ dơ bẩn và bốc mùi, không phải là phần chúng ta thấy thoải mái để người khác chạm đến.  Khi có ai đó chạm đến và rửa cho, chúng ta có cảm thấy một sự mỏng manh, khó khịu và hổ thẹn mơ hồ.  Mật thiết cần sự thả lỏng thanh thản, mà đôi khi tính mỏng manh của chúng ta không thể chấp nhận.

Nhưng sự kháng cự của Phêrô cũng nói lên một điều khác, dễ thấy hơn.  Nếu lành mạnh và nhạy cảm, chúng ta sẽ tự nhiên cảm thấy một sự khó chịu và kháng cự trước một món quà quá thẳng thắn, một sự mật thiết quá thẳng thắn, và cả lòng biết ơn quá thẳng thắn nữa.  Và trong khi rõ ràng chúng ta phải cố gắng để vượt qua chuyện đó, nhưng đó không phải là một lỗi phạm, một sai sót tinh thần hay thể lý của chúng ta.  Ngược lại, nó là một biểu hiện bình thường, là dấu hiệu của sự nhạy cảm tinh thần và thể lý.

Tại sao tôi lại nói thế?

Tại sao khi có điều gì đó dường như ngăn chúng ta tiến tới điều căn bản của cuôc đời, lại không phải là chuyện gì sai trái trong chúng ta?  Tôi cho rằng nó không phải là một sai lỗi nhưng là một cơ chế lành mạnh trong chúng ta, bởi những người ái kỷ và vô cảm, thường miễn nhiễm với sự khó chịu và kháng cự này.  Sự ái kỷ khiến họ không còn biết xấu hổ, và sự vô tâm khiến họ dễ dàng thoải mái với sự mật thiết, cũng kiểu như một người đã quá chán tình dục nên chẳng thấy khó chịu gì khi xem phim khiêu dâm, hay như một người xem mật thiết như là chuyện mình dĩ nhiên phải có, dù là do ngẫu nhiên hay chiếm đoạt.  Trong trường hợp này, họ chẳng thấy hổ thẹn hay khó chịu gì, bởi họ không có sự mật thiết đích thực.

Ngược lại, những người nhạy cảm thì đấu tranh với sự thẳng thừng của mật thiết, bởi họ biết, sự mật thiết đích thực, cũng như thiên đàng, không phải là chuyện chóng qua hay thứ dễ đạt được.  Mà mật thiết là cuộc đấu tranh cả đời, một cuộc trao đi và nhận lãnh với nhiều biến cố, một cuộc trốn và tìm, mở ra và kháng cự, ngây ngất và cảm thấy mình không xứng đáng, chấp nhận và lại cố gắng không thực sự từ bỏ, một sự vị tha vẫn còn dư vị ích kỷ, một sự ấm áp đôi khi trở nên lạnh lẽo, một sự dấn thân vẫn có điều kiện, và một hy vọng nỗ lực để đứng vững.

Mật thiết không như thiên đàng.  Mà là sự cứu rỗi.  Là Nước Trời.  Do đó cũng như Nước Trời, con đường đến và cánh cửa vào thì nhỏ hẹp và không dễ tìm thấy.  Nên chúng ta hãy ân cần, nhẫn nại và tha thứ cho người khác và cho bản thân mình, khi trên đường đấu tranh tìm sự mật thiết.

Rev. Ron Rolheiser, OMI