THƯƠNG TIẾC NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

THƯƠNG TIẾC NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Gần như chúng ta đều biết câu chuyện Zorba người Hy Lạp qua quyển sách nổi tiếng của tác giả Nikos Kazantzakis hoặc qua phim ảnh.  Và Zorba không phải là nhân vật hư cấu.  Alexix Zorba là người thật việc thật, có tính cách phóng khoáng và tinh thần hoạt bát đến nỗi khi ông qua đời, Kazantzakis không thể chấp nổi chuyện đó, tự vấn rằng một người với sức sống mãnh liệt thế kia mà có thể chết sao.

Khi biết tin Zorba qua đời, phản ứng của Kazantzakis là thế này: “Tôi nhắm mắt lại và cảm thấy nước mắt từ từ lăn xuống âm ấm trên gò má.  Ông ấy chết rồi, chết thật rồi.  Zorba đã ra đi, đi mãi không về.  Tiếng cười đã chết, bài ca im bặt, cây đàn santir vỡ tan, điệu nhảy trên bãi đá bờ biển đã dừng, cái miệng ham muốn đặt câu hỏi không ngừng giờ đã đầy bùn đất. …  Những linh hồn như thế sẽ không chết.  Đất, nước, lửa, liệu có thể tạo ra một Zorba nữa không? …  Như thể tôi tin ông ấy sẽ bất tử vậy.”

Đôi khi thật khó để tin là một người nào đó có thể chết, vì cuộc sống và sức sống của họ quá tuyệt diệu.  Đơn giản là chúng ta chẳng hình dung nổi một sức sống như thế lại nằm yên, lại chết và mãi mãi xa rời trần thế này.  Có những người dường như không thể chết vì chúng ta không hình dung nổi một sức sống, sự khoáng đạt, phong phú và tốt lành như thế lại chết.  Làm sao một sức sống diệu kỳ như thế mà chết được chứ?

Tôi đã nhiều lần cảm nhận chuyện này, gần nhất là mới tuần trước, khi hai đồng nghiệp cũ của tôi, những người khoáng đạt, sắc sảo, phong phú và cực kỳ tâm linh, đã chết.  Kazantzakis cố chấp nhận cái chết của Zorba, đồng thời tìm cách cố đương đầu với cái chết này.  Ông quyết định nỗ lực “phục sinh” Zorba, bằng cách kể những câu chuyện của Zorba cho cả thế giới sao để biến cuộc đời ông thành huyền thoại, thành vũ khúc, thành tôn giáo.

Kazantzakis tin rằng đây chính là việc Maria Mađalêna đã làm khi thương tiếc cái chết của Chúa Giêsu, khi bà rời mộ Ngài và trở lại với đời.  Bà đã “phục sinh” Chúa Giêsu bằng cách kể chuyện của Ngài, tạo nên một huyền thoại, một vũ khúc, một tôn giáo.  Nên khi thương tiếc cái chết của Zorba, Kazantzakis tự nhủ: “Hãy cho ông máu của chúng ta để ông có thể sống lại, chúng ta hãy làm những gì có thể để kéo dài thêm sinh mệnh cho con người mê ăn, mê uống, mê làm việc, mê đàn bà, mê lang bạt, người vũ công và chiến binh, linh hồn khoáng đạt nhất, thân thể rắn chắc nhất, tiếng hét tự do nhất mà tôi từng biết”.

Ông đã rất nỗ lực!  Và nỗ lực đó tạo nên một câu chuyện tuyệt vời, một thần thoại thú vị, nhưng nó không bao giờ tạo nên một tôn giáo hay một vũ khúc bất diệt, bởi nó không như những gì bà Maria Mađalêna đã làm cho Chúa Giêsu.  Dù thế, vẫn có gì đó đáng để chúng ta học hỏi về cách đương đầu với những ra đi quá lớn làm cho thế giới bỗng chốc hoang lạnh đi hẳn.  Chúng ta không được để sức sống diệu kỳ đó biến mất, chúng ta phải giữ cho nó sống.  Tuy nhiên, là tín hữu Kitô, chúng ta làm theo một cách khác.

Chúng ta đọc câu chuyện của Maria Mađalêna theo một cách rất khác.  Bà Maria đến mộ Chúa Giêsu, thấy mộ trống, và đi ra ngoài khóc, nhưng… trước khi đi kể chuyện này cho người khác, bà đã được gặp Chúa Giêsu, được Ngài nói cho cách để tìm được sức sống, sự phong phú, tình yêu thương và con người của Ngài, trong một phương thức hoàn toàn mới là trong tinh thần của Ngài.  Phương thức đó bao hàm cả bí mật về cách chúng ta trao sự sống cho những người thân yêu sau khi họ đã mất.

Làm sao để giữ những người thân yêu và sức sống kỳ diệu mà họ đã đem lại cho đời, vẫn tiếp tục sống sau khi họ đã mất?  Trước hết, là bằng cách nhận ra rằng sức sống của họ không mất đi cùng với thân thể, rằng sức sống đó không rời trần thế này.  Sức sống của họ vẫn còn sống, vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, nhưng bây giờ là ở trong chúng ta, qua tinh thần họ để lại (cũng như Chúa Giêsu đã để lại tinh thần của Ngài).  Hơn nữa, sức sống của họ truyền cho chúng ta mỗi khi chúng ta đi vào “Galilê” của họ, cụ thể là, vào những nơi mà tinh thần của họ phát triển và truyền đi dưỡng khí sinh sôi.

Thế nghĩa là sao?  “Galilê” của ai đó, nghĩa là gì?  “Galilê” của ai đó là sức sống đặc biệt, dưỡng khí đặc biệt mà người đó phát ra.  Với Zorba, thì đó là sự táo bạo và ham mê sống, với cha tôi là tinh thần ngoan cường, với mẹ tôi thì là lòng quảng đại.  Trong sức sống đó, họ phát ra một điều gì đó của Thiên Chúa.  Bất kỳ lúc nào chúng ta đến những điểm mà tinh thần của họ phát ra sức sống của Thiên Chúa, thì chúng ta hít vào dưỡng khí của họ, vũ điệu của họ và sự sống của họ.

Như tất cả các bạn, tôi cũng có những lúc choáng váng, buồn đau và hoài nghi về cái chết của một người nào đó.  Làm sao sức sống đặc biệt đó lại chết được?  Đôi khi sức sống đặc biệt đó được thể hiện nơi vẻ đẹp thể lý, sự duyên dáng, bạo dạn, hăng say, phong phú, kiên cường, cảm thương, nhân ái, nồng hậu, khéo léo hay dí dỏm.  Có thể rất khó chấp nhận rằng vẻ đẹp và dưỡng khí đem lại sự sống đó, có thể rời bỏ trần thế này.

Xét cho cùng, chẳng gì mất đi cả.  Đôi khi, trong thời gian của Thiên Chúa, khi đúng thời đúng điểm, tảng đá sẽ lăn ra, và như Maria Mađalêna đã từ mộ đi về, chúng ta sẽ biết rằng nếu đến “Galilê”, mình có thể hít thở sức sống diệu kỳ đó lần nữa.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Ta sống ở đời này để làm gì?

Mến chào ngày mới! Chúc Bạn và gia đình một ngày tốt lành trong tình yêu và sự quan phòng của Chúa.

Cha Vương

Thứ 3: 17/08/2021

GIÁO LÝ: Ta sống ở đời này để làm gì? Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để làm việc lành theo ý Thiên Chúa, và để một ngày nào đó sẽ đạt tới quê Trời.

SUY NIỆM:  Được làm người có nghĩa là đến từ Thiên Chúa và đi về với Thiên Chúa. Nguồn gốc của con người đến từ cao xa hơn là từ cha mẹ họ, nghĩa là đến từ Thiên Chúa, nơi có chứa hạnh phúc của cả trời đất, nơi ta được chờ đón để hưởng hạnh phúc đời đời vô hạn định. Ta đang sống ở trần gian này. Đôi khi, ta thấy gần gũi với Đấng Tạo hóa, nhưng thường là chẳng thấy gì. Để dẫn ta vào đúng hướng tốt, Thiên Chúa đã sai con của Người là Chúa Giêsu để giải thoát ta khỏi tội, cứu ta khỏi mọi sự dữ và dẫn ta vào sự sống thật không sai lầm. Người “là Con Đường, là Sự Thật, là Sự Sống”. (Ga 14,6) (Youcat, số 1)

❦  Điều gì đang làm bạn không nhận biết và yêu mến Thiên Chúa?

Có phải là bạn đang bị cuốn hút trong cơn lốc của văn minh, của tiền bạc, danh vọng và hưởng thụ. Bạn hãy nghĩ xem, nếu con người quá chú trọng đến nhu cầu thể xác mà quên đi đời sống tâm linh, thì họ đã tự tách ra khỏi quỹ đạo của Sự Sống, tự đánh mất chính mình. Họ chỉ là những thây ma không hồn, gieo tai hoạ và khổ đau cho nhau. Con người sẽ đối xử tàn bạo với nhau nếu con người chỉ coi mình thuần túy là loài vật mà chối bỏ niềm tin vào Trời, vào Thiên Chúa, vào Ðấng tạo thành. Thiết tưởng rằng bạn cũng cảm nhận được điều này trong cơn đại dịch COVID này…

LẮNG NGHE: Thiên Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu rỗi và nhận biết sự thật (the truth) (1 Tm 2:4)

CẦU NGUYỆN: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… Vì chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

THỰC HÀNH: Hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại mục đích đời người là gì?

ĐÊM TỐI LINH HỒN

ĐÊM TỐI LINH HỒN

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Chủ nghĩa vô thần là ký sinh trên một tôn giáo xấu.  Đó là lý do vì sao, xét cho cùng, những phê phán của chủ nghĩa vô thần lại là bạn của chúng ta.  Những lời đó giữ chúng ta cảnh giác.

Chẳng hạn như, Friedrich Nietzsche, Ludwig Feuerbach, và Karl Marx, họ cho rằng mọi cảm nghiệm tôn giáo xét cho cùng chỉ là phóng chiếu tâm lý.  Với họ, Thiên Chúa chúng ta tin và nền tảng cho Giáo hội của chúng ta, xét cho cùng, chỉ đơn thuần là một tưởng tượng mà chúng ta tạo ra để phục vụ nhu cầu của mình.  Họ nói rằng chúng ta tạo ra Thiên Chúa như thuốc phiện êm dịu và cho mình sự phê chuẩn thần thánh để làm điều mình muốn.

Họ đúng, nhưng lại sai, và điểm sai của họ là về nền tảng của tôn giáo đích thực.  Phải thừa nhận, họ đúng khi nói rằng nhiều cảm nghiệm tôn giáo và đời sống trong đời sống chúng ta rõ ràng là không, rất không nguyên tuyền.  Thật khó để thừa nhận rằng chúng ta luôn mãi đem những tham vọng và khí lực của mình trộn lẫn với điều mà chúng ta gọi là cảm nghiệm tôn giáo.  Đó là lý do vì sao chúng ta quá thường xuyên là những con người mộ đạo, nhưng lại hoàn toàn chẳng hướng về Thiên Chúa.  Chúng ta ngông cuồng khi đáng ra phải khiêm nhượng, phán xét khi phải tha thứ, thù hận khi phải yêu thương, ích kỷ khi phải vị tha, và hằn học xấu xa khi phải thông hiểu cùng thương xót.  Cuộc sống và giáo hội của chúng ta thường không chiếu tỏa Chúa Giêsu.  Chủ nghĩa vô thần là một thách thức cần thiết, bởi chúng ta quá thường xuyên trộn lẫn xung lực đời mình với Thiên Chúa, đem những hệ tư tưởng của mình xáo lẫn với Phúc âm.

May thay, Thiên Chúa không để chúng ta yên ổn với việc đó quá lâu.  Thiên Chúa cho chúng ta một ơn hoang mang và đau đớn, là đêm tối linh hồn.  Trong đêm tối linh hồn, chúng ta kiệt quệ lòng đạo, cảm nghiệm tôn giáo một thời nâng đỡ cho chúng nhiệt thành giờ khô cạn khiến chúng ta không còn tưởng tượng, xúc động, hay ý thức cảm xúc về tình yêu hay sự hiện hữu của Thiên Chúa.  Dù chúng ta có cố gắng thế nào cũng không thể gợi lên lại những cảm giác và hình tượng từng có về Thiên Chúa cũng như sự bảo đảm mà chúng ta từng cảm thấy về đức tin và niềm tin tôn giáo của mình.  Thiên đàng như trống rỗng, và trong lòng chúng ta cảm thấy không thể nhận thức được gì, như thể Thiên Chúa không hiện hữu, và ta cũng không thể tạo ra một hình ảnh Thiên Chúa từng một thời rất thật với ta.  Chúng ta trở nên tuyệt vọng khi cố khơi lên một ý thức về Thiên Chúa.

Nhưng đấy chính là khởi đầu của đức tin đích thực.  Trong đêm tối đó, khi chẳng còn gì nữa, khi cảm thấy như không có Chúa, thì Thiên Chúa bắt đầu đi vào chúng ta một cách nguyên tuyền.  Bởi các chức năng tôn giáo trong chúng ta bị tê liệt, nên chúng ta không còn có thể lạm dụng cảm nghiệm của mình về Thiên Chúa, không còn lạm dụng phóng chiếu bản thân vào hình ảnh Thiên Chúa, hay dùng lòng đạo để lập luận sự phê chuẩn thần thánh cho hành động của mình.  Đức tin đích thật bắt đầu từ chính lúc những phê phán vô thần nghĩ rằng mình đã thành công, là chính sự tối tăm và trống rỗng, trong sự bất lực của lòng đạo, trong sự vô lực để tác động lên cách Thiên Chúa đi vào chúng ta.

Chúng ta thấy rõ điều này trong đời sống của Mẹ Têrêxa.  Trong nhật ký của Mẹ, trong 27 năm đầu đời, mẹ có một nhận thức sâu sắc đầy hình tượng, và sốt mến về Thiên Chúa trong đời mình.  Mẹ sống với một niềm xác tín sắt đá về sự hiện hữu và tình yêu của Thiên Chúa.  Nhưng đến tuổi 27, khi đang cầu nguyện trên tàu hỏa, như thể có ai đó đã gạt công tắc đường dây kết nối với Chúa của Mẹ.  Trong tưởng tượng và cảm giác của Mẹ, thiên đàng trống rỗng.  Thiên Chúa mà Mẹ biết trong nhận thức và cảm giác, đã biến mất.

Nhưng chúng ta biết câu chuyện theo như thế nào.  Mẹ sống tiếp 60 năm còn lại với một đức tin xây trên đá, và đã sống dấn thân quên mình khiến không một lời chỉ trích vô thần nào có thể cáo buộc cảm nghiệm tôn giáo của Mẹ là nảy sinh từ sự phóng chiếu bản thân ích kỷ, hoặc nói việc hành đạo của Mẹ không nguyên tuyền.  Trong đêm tối lòng đạo của Mẹ, Thiên Chúa có thể đổ tràn vào Mẹ một cách nguyên tuyền, chứ không như nhiều người chúng ta với đời sống đức tin rõ ràng nằm ở một niềm tin ích kỷ.

Ngay cả Chúa Giêsu khi làm người, cũng phải trải qua đêm tối này, như lúc Ngài ở trong Vườn Cây Dầu, và than khóc vì bị bỏ rơi và sợ thập giá.  Sau cơn thống khổ trong Vườn Cây Dầu, một thiên thần đến và tăng sức cho Ngài.  Chúng ta sẽ hỏi, tại sao thiên thần không đến sớm hơn, lúc Ngài đang cần giúp đỡ nhất?  Sự giúp đỡ của Thiên Chúa không thể đến nếu Chúa Giêsu không vắt kiệt sức lực của mình, nhân tính của Chúa Giêsu không để cho sinh lực thiêng liêng đổ vào một cách nguyên tuyền nhưng lại chăm chăm vào cảm nghiệm.  Chúa Giêsu phải dùng hết sức lực của mình, rồi sinh lực thiêng liêng mới có thể đổ vào cách thật sự và nguyên tuyền.  Và chúng ta cũng vậy.

Những đêm tối đức tin cần thiết để tẩy sạch chúng ta, bởi chỉ như thế thiên thần Chúa mới đến để giúp chúng ta.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CHỌN LỰA VÀ TRUNG THÀNH  

CHỌN LỰA VÀ TRUNG THÀNH  

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Hôm nay là lần thứ năm, Phụng vụ Lời Chúa hướng chúng ta về một đề tài duy nhất, đó là: Bánh hằng sống.  Thánh Gioan ghi lại diễn từ “Bánh hằng sống” như một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái.  Thực ra, đây là một khảo luận, một bài giáo lý về Bí tích Thánh thể được sử dụng thời Giáo Hội sơ khai.  Thánh Gioan và cộng đoàn tín hữu thời bấy giờ đã tổng hợp các lời giảng dạy của Chúa Giêsu về đề tài Bánh hằng sống để chứng minh sự hiện diện của Người trong Bí tích này.  Đây cũng là giải thích của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi với những người Do Thái về Bí tích Thánh Thể.

Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết thúc của diễn từ về Bánh hằng sống.  Xem ra đây không phải là một cái kết tích cực.  Bởi lẽ, khi nghe Chúa Giêsu khẳng định bánh Người sẽ ban là Thịt của Người, thì ngay một số môn đệ cũng cho điều đó là khó nghe và khó tin. Kết quả là một số trong họ đã bỏ Chúa.

Tuy vậy, cái kết của câu chuyện không hoàn toàn bi quan bế tắc.  Chúa đặt câu hỏi với các môn đệ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”  Ai trong chúng ta nghe câu hỏi này mà không thấy nặng trĩu trong lòng.  May mắn thay, Phêrô đã trả lời Thưa Thày, bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai?  Thày mới có những lời đem lại sự sống đời đời.  Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thày là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”  Lời nói của Phêrô là một lời tuyên xưng Đức tin.  Đó cũng là lời thề hứa trung thành.  Trong Phúc âm, Phêrô thường xuất hiện và phát ngôn vào thời điểm tế nhị khó khăn.  Đó là lúc Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ về bản thân Người (x Mt 16, 13-20). Sau này, trong bầu khí nặng nề buồn thảm của bữa tiệc ly, Phêrô khẳng khái tuyên bố: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng!” (Lc 22,34).  Lời phát ngôn của ông cũng là lời nói đại diện cho những môn đệ trung thành, đồng thời diễn tả niềm xác tín.

Tin là chọn lựa.  Đức tin không phải là hùa theo đám đông một cách mù quáng.  Đức tin cũng không phải là một thứ mốt thời trang.  Đức tin là gặp gỡ Chúa và kết quả của cuộc gặp gỡ ấy là chọn lựa Ngài, đồng thời trung thành với sự chọn lựa ấy.

Dân Do Thái đã trải qua bốn mươi năm hành trình sa mạc và đã định cư ở đất hứa.  Thế hệ định cư là những người không được chứng kiến những phép lạ Thiên Chúa đã làm khi dẫn đưa dân ra khỏi Ai Cập.  Những người này bị cám dỗ theo những thói tục và thần linh của dân bản địa.  Tại Sikhem, ông Giôsuê, người kế vị ông Môisen để đưa dân Israen vào Đất hứa, đã triệu tập và kêu gọi một cuộc thanh tẩy toàn dân, để dứt bỏ quá khứ, bước sang một trang sử mới.  Vị thủ lãnh mời gọi dân hãy chọn lựa Chúa và sống theo giới luật Ngài đã truyền ban cho các bậc tổ tiên.  Lời tuyên xưng của dân chúng thật mạnh mẽ quyết liệt, thể hiện sự gắn bó trung thành với Đấng đã cứu họ khỏi Ai Cập và dẫn đưa họ vào Đất hứa.

Đức tin đi đôi với lòng trung thành.  Không phải vô cớ mà Phụng vụ cho chúng ta nghe thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi giáo dân Êphêsô, đoạn nói về bổn phận vợ chồng trong gia đình.  Thánh nhân đã kết thúc bằng câu: “Mầu nhiệm này thật là cao cả.  Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo Hội.”  Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, hình ảnh hôn nhân đã được dùng để so sánh với mối liên kết giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người.  Không có Chúa Giêsu, Giáo Hội sẽ chỉ còn như một tổ chức xã hội.  Chúa Giêsu là đầu của Giáo Hội.  Người yêu thương Giáo Hội và đổ máu vì Giáo Hội.  Lòng trung thành cần thiết và làm nên vẻ đẹp của cuộc sống vợ chồng thế nào, thì lòng trung thành của người tín hữu với Chúa cũng làm nên vẻ đẹp của Giáo Hội như vậy.  Thánh Phêrô đã có lúc băn khoăn về việc đi theo Chúa Giêsu, nên ông đã hỏi: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.  Vậy chúng con sẽ được gì?”  Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.  Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).  Để tiến tới lời tuyên xưng trung thành, Phêrô đã chọn lựa, đã suy tư và đã đem cả cuộc đời mình để “đặt cược” cho tương lai của mình.

Thánh Thể là mối dây liên kết các tín hữu và là biểu tượng của tình hiệp thông trong Giáo Hội.  Tuy vậy, trong lịch sử, do sự ích kỷ của con người, nên đã có những ý kiến bất đồng về Thánh Thể và làm cho Bí tích này trở nên một trong những nguyên nhân gây chia rẽ nghiêm trọng giữa các Kitô hữu.  Phải chăng vấn đề bất đồng ý kiến này đã có từ thời ban đầu do việc có những người khước từ giáo huấn của Chúa Giêsu về Bánh hằng sống?  Trong thực tế, vẫn còn đó những người tin và những người không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu nơi Bí tích này.

Năm 1996, nhân dịp kỷ niệm 1500 năm vua Clovis của nước Pháp được rửa tội, thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã đến Pháp để chủ sự thánh lễ tạ ơn.  Trước hằng triệu người tham dự, vị Giáo Hoàng người Balan đã hỏi: “Hỡi nước Pháp, ái nữ của Giáo Hội, ngươi có trung thành với lời hứa của bí tích Thanh tẩy không?” Tiếng thưa “Có” vang dậy đã làm nên một hình ảnh sống động về Giáo Hội luôn trung thành chọn lựa Đức Giêsu Kitô.

Có thể vào những lúc đen tối của cuộc đời, Chúa hỏi chúng ta: “Con có muốn bỏ Thầy mà đi không?”  Xin cho chúng ta có đủ can đảm để thưa như thánh Phêrô: “Bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.  Được như vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

VÌ SAO TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA

VÌ SAO TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Một số tác giả tôi yêu thích là những người theo thuyết bất khả tri, những người chân thành và dũng cảm đối diện cuộc đời mà không có đức tin vào một Thiên Chúa của mình.  Hầu như họ đều khắc kỷ, những người bình an với việc có lẽ Thiên Chúa không tồn tại và có lẽ chết là hết.  Tôi thấy được điều này nơi James Hillman, một người mà tôi vô cùng ngưỡng mộ, và là người có rất nhiều điều để dạy cho các tín hữu về ý nghĩa của việc lắng nghe và tôn trọng linh hồn con người.

Nhưng có một điều tôi không ngưỡng mộ nơi các nhà khắc kỷ bất khả tri.  Dù họ dũng cảm đối diện với giả định rằng Thiên Chúa không tồn tại và chết là hết, nhưng họ lại không có cùng dũng cảm đó để đặt ra chất vấn về chuyện nếu Thiên Chúa tồn tại, và chết không phải là hết thì sẽ thế nào.  Nếu như có Thiên Chúa và nếu giáo lý của đức tin chúng ta đúng thì sao?  Họ cũng cần phải đối diện với chất vấn đó nữa.

Tôi tin rằng Thiên Chúa tồn tại, không phải bởi tôi chưa từng có chút nghi ngờ, cũng không phải bởi tôi được nuôi dạy trong đức tin với những người đã làm chứng sâu đậm cho chân lý của đức tin đó, cũng không phải bởi đại đa số nhân loại trên hành tinh này tin vào Thiên Chúa.  Tôi tin rằng một Thiên Chúa của lòng mình tồn tại vì những lý do mà tôi không thể nói rõ được: là sự tốt lành của các thánh, một hạt giống không bao giờ phôi phai trong lòng tôi, biểu hiện của đức tin trong cảm nghiệm của riêng tôi, lòng dũng cảm của các bậc tử đạo xuyên suốt dòng lịch sử, chiều sâu thăm thẳm trong giáo huấn của Chúa Giêsu, những thấu suốt sâu sắc trong các tôn giáo khác, trải nghiệm thần nghiệm của vô số người, nhận thức của chúng ta về mối liên kết với cộng đoàn các thánh và những người thân yêu đã qua đời, những lời chứng chung và riêng của hàng trăm người đã chết lâm sàng rồi được sống lại, những chuyện chúng ta trực cảm vượt ngoài mọi lý luận lô-gích, vòng tuần hoàn hồi sinh trong cuộc đời chúng ta, chiến thắng của sự thật và sự thiện trong suốt lịch sử, sự thật rằng hy vọng không bao giờ chết, sự cưỡng bách không nguôi trong chúng ta muốn được hòa giải với người khác trước khi chết, chiều sâu vô tận của trái tim con người, và việc các nhà vô thần và bất khả tri trực cảm rằng có thể điều này cũng hợp lý.  Tất cả cho tôi thấy sự hiện hữu của một Thiên Chúa sống động của tôi.

Tôi tin Thiên Chúa hiện hữu vì đức tin thành sự, ít nhất là thành sự đến mức độ của chúng ta.  Sự hiện hữu của Thiên Chúa tự chứng minh đến mức độ mà chúng ta đón nhận một cách nghiêm túc và sống cuộc đời mình dựa trên điều đó.  Nói đơn giản, chúng ta hạnh phúc và bình an đến mức độ chúng ta liều mình sống đức tin, một cách rõ ràng hay không chút nghi hoặc gì.  Những người hạnh phúc nhất mà tôi biết cũng là những người đáng kính, dễ thương, vị tha, và quảng đại nhất tôi biết.  Đây không phải tình cờ.

Leon Bloy từng nói rằng trong đời chỉ có một nỗi buồn thực sự, đó là không được làm thánh.  Chúng ta thấy trong câu chuyện về chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng đã từ chối lời mời của Chúa Giêsu muốn anh sống đức tin sâu sắc hơn.  Anh đã buồn rầu bỏ đi.  Dĩ nhiên, làm một vị thánh và sống buồn bã, không phải là chuyện trắng hay đen, cả hai đều có những mức độ.  Nhưng trong chuyện này có sự nối tiếp.  Chúng ta hạnh phúc hay buồn bã cũng tương xứng với mức độ chúng ta thành tín hay bất tín với những gì là độc nhất, là chân, thiện, mỹ.  Tôi biết rõ điều này trong đời mình.  Tôi hạnh phúc và bình an đến mức độ tôi đón nhận đức tin cách nghiêm túc và sống đức tin trong thành tín, càng thành tín tôi càng thấy bình an, và ngược lại.

Trong tất cả chuyện này, còn có một “luật nghiệp quả” nói cụ thể là vũ trụ trả lại cho chúng ta chính xác những gì chúng ta cho nó.  Như Chúa Giêsu đã nói, “Anh em đong bằng đấu nào sẽ được đong lại bằng đấu ấy.”  Những gì chúng ta thở ra, đến cuối cùng chính là những gì chúng ta hít vào.  Nếu chúng ta thở ra ích kỷ thì sẽ hít vào ích kỷ, nếu chúng ta thở ra cay đắng thì sẽ gặp đắng cay, nếu chúng ta thở ra tình yêu, nhân từ và tha thứ thì chúng ta sẽ nhận lại cùng mức độ đó.  Cuộc sống và vũ trụ của chúng ta có một cơ cấu yêu thương và công bằng thâm sâu, tự nhiên và không thể bàn cãi đã được viết sẵn, một cơ cấu chỉ có thể được viết nên bởi một trí tuệ thần thiêng sống động và một tâm hồn yêu thương.

Dĩ nhiên, không điều nào trong những điều này chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa với những bằng chứng theo kiểu khoa học hay toán học, nhưng đâu thể tìm được Thiên Chúa bằng một thí nghiệm kinh nghiệm luận, một phương trình toán học hay một tam đoạn luận triết học.  Chúng ta tìm thấy Thiên Chúa, rõ ràng và dứt khoát, nơi một đời sống quên mình, nhân từ, chân thành và tốt lành.  Điều này có thể có trong tôn giáo hay ngoài tôn giáo.

Thầy dòng Biển Đức người Bỉ, Benoit Standaert, đã nói rằng khôn ngoan là ba sự thêm một.  Khôn ngoan là tôn trọng tri thức, tôn trọng sự chân thật và vẻ đẹp, tôn trọng mầu nhiệm.  Và điều thứ tư, khôn ngoan là tôn trọng một Đấng nào đó.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: NguyenNThu

ĐƯỜNG NÊN THÁNH TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19 HÔM NAY

ĐƯỜNG NÊN THÁNH TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19 HÔM NAY

Bs. Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà

Ngày lễ Đức Mẹ Maria Hồn Xác lên Trời có nhiều ý nghĩa quan trọng về phương diện thần học và đời sống đức tin, tôi chỉ chia sẻ một ánh sáng chợt đến khi suy niệm hôm nay.  Ngày lễ này, Giáo Hội chọn đoạn Tin Mừng Đức Maria vội vã lên đường thăm viếng và giúp đỡ, chăm sóc người chị họ Elizabeth đang mang thai lúc tuổi già (Lc 1,39-56).  Thật bất ngờ và ngỡ ngàng!  Ngày lễ Đức Mẹ Maria Hồn Xác lên Trời được Giáo Hội làm nổi bật với cuộc lên đường của Mẹ Maria, một mình Mẹ không ngần ngại đường xá xa xôi gập ghềnh sỏi đá của xứ Palestine để phục vụ tha nhân, cho ta thấy con đường lên đến Trời cao chính là con đường của cuộc sống đời thường, chính là con đường mà mỗi người chúng ta hàng ngày đi đến bệnh viện, trường học, công sở, đi gặp gỡ… tùy theo nhiệm vụ và nghề nghiệp của mỗi người, khi con đường đó được dệt bằng tình yêu, bằng trái tim yêu thương, bằng hành động nhân ái, bằng tấm lòng chia sẻ và liên đới.  Như thế, ngày lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời nhắc nhớ chúng ta hướng về Trời cao, với niềm hy vọng hạnh phúc vĩnh hằng, nhưng đồng thời cũng nhắc chúng ta con đường dẫn tới Trời cao chính là con đường phục vụ, sẻ chia, liên đới trong cuộc sống đời thường hiện tại.  

Giữa cơn đại dịch đang diễn biến khốc liệt trên quê hương Việt Nam, cách riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), hầu hết chúng ta phải đối diện với rất nhiều thử thách cho đời sống thường nhật về mọi mặt, kể cả khía cạnh đức tin.  Tuy nhiên, dưới ánh sáng đức tin, đoạn suy niệm ngắn trên lại chiếu tia sáng cho mỗi người chúng ta hôm nay, trong hoàn cảnh này, Chúa muốn chỉ cho ta con đường hướng về Trời cao như Mẹ Maria, hay nói cách khác, con đường NÊN THÁNH hôm nay. 

NHỮNG NGƯỜI TRÊN ĐƯỜNG NÊN THÁNH

Các bác sĩ (BS), y tá, nhân viên y tế đang ở tuyến đầu chống dịch, họ đang bước vào một trận chiến thực sự, luôn có nguy cơ bị phơi nhiễm và hy sinh cả mạng sống.  Trong nhiều tháng liền, họ đã phải xa gia đình, cha mẹ, vợ /chồng, con thơ, để giành giật từng mạng sống của các bệnh nhân nguy kịch.  Chính bản thân cũng mang nhiều nỗi lo toan và nhớ thương, nhưng các thiên thần áo trắng vẫn nỗ lực đem lại hy vọng, niềm an ủi, sức khỏe và sự sống cho người bệnh.  Vâng, các vị là chứng nhân sống động của tình yêu tha nhân, huynh đệ đại đồng!  Các vị đã đặt quyền lợi bản thân dưới quyền lợi của người bệnh.  Các chiến sĩ áo trắng là những anh hùng thời đại.  Các vị đang trên đường NÊN THÁNH!

Đã có các chiến sĩ áo trắng quỵ ngã, như BS Lý Văn Lượng, thuộc nhóm các bác sĩ đầu tiên ở Vũ Hán chết vì tham gia điều trị bệnh nhân COVID-19.  Câu thơ Anh để lại trước khi chết là lời của Thánh Phaolô:

Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp,

Tôi đã chạy hết chặng đường,

Tôi đã giữ vững đức tin,

Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính (2Tm 4, 7-8a).

Các tu sĩ và các tình nguyện viên ở các bệnh viện chăm sóc, điều trị bệnh nhân COVID-19, các anh chị không tránh khỏi nỗi lo lắng, sợ hãi ban đầu: mới tiêm một mũi vaccine ngày hôm trước, hôm sau đã lên đường, vaccine chưa kịp phát huy tác dụng; không có chuyên môn về y khoa lại tiếp xúc trực tiếp với F0, sự an toàn của chính mình có thể gặp nguy cơ.  Vâng, nỗi sợ thật bình thường và chính đáng!  Các anh chị vẫn sợ nhưng một tình yêu lớn đối với Thiên Chúa và tha nhân đã giúp các anh chị vượt qua nỗi sợ để lên đường dấn thân!  Nếu ai cũng sợ và lùi bước thì ai sẽ xông pha chiến trận bảo vệ quê hương, người bệnh?  Các anh chị không phải là nhân viên y tế, chỉ tham gia công tác vệ sinh phòng bệnh, thay tã, đổ bô, thay drap cho bệnh nhân, cho người bệnh ăn, và vệ sinh thân thể cho họ… công việc nhỏ nhưng với tình yêu lớn!  Vâng, các anh chị đang là chứng nhân sống động của tình yêu Thiên Chúa!  Các anh chị đang trên đường NÊN THÁNH!

Các công nhân vệ sinh môi trường, hàng ngày âm thầm đẩy xe rác nặng nề, tiếp xúc với rác thải dơ bẩn và nguy hiểm, để bảo vệ sức khỏe cho mọi người.  Các tình nguyện viên ở tuyến đầu chống dịch, hay tham gia công tác hậu cần, đặc biệt những nơi phong tỏa, cách ly, nhóm tài xế thiện nguyện thành lập đội xe cấp cứu 0 đồng, chuyên chở F0 đi cách ly… khi nhận việc các anh chị quên hẳn những cảnh báo của người thân về việc mình có thể bị nhiễm bệnh.  Các anh chị đã được thúc bách bởi một Tình Yêu.  Vâng, các anh chị đang là chứng nhân sống động của tình yêu tha nhân HƠN chính mình!  Các anh chị đang trên đường NÊN THÁNH! 

Biết bao người Samari nhân hậu thời đại, tại TP HCM và nhiều tỉnh thành khác, nhiều sáng kiến được đưa ra để hỗ trợ những người bán vé số, lượm ve chai, xe ôm, người nghèo… bị ảnh hưởng trong thời gian cách ly xã hội.  Từ các cha xứ đi phát lương thực từ thiện, các siêu thị mini 0 đồng, các ATM gạo, nam sinh viên chở rau miễn phí từ Kontum về TP HCM, anh công an hỗ trợ sản phụ trên đường đến bệnh viện phụ sản, các chiến sĩ  gặt lúa giúp dân ở khu phong tỏa, em bé dành tiền tiết kiệm để giúp người nghèo…  Thật ấm lòng!  Thật đẹp thay tình người!  Công việc ý nghĩa trên đời là những gì ta làm để chăm sóc lẫn nhau, bảo vệ lẫn nhau và mang lại lợi ích cho nhau, sống tình liên đới.  Những người Samari nhân hậu thời dịch bệnh đang trên đường NÊN THÁNH!

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.  Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm…  Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25, 34;37). 

Có lẽ hơn bao giờ hết, giữa đau thương thử thách, tình người lại được thắp sáng cả bầu trời.

Hàng trăm ngàn bệnh nhân COVID-19 đang đau khổ và thậm chí đối diện với cái chết bất ngờ.  Đau khổ, cách riêng là đau khổ trong những giờ phút cuối cuộc đời, có một vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.  Đau khổ quả thật là chia sẻ cuộc khổ nạn của Đức Kitô và hiệp nhất với hy tế cứu độ của Ngài trong sự vâng phục thánh ý Chúa Cha.  Như thánh Phaolô nói: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Ðức Giêsu, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10).  Sự thật này tuy không làm vơi đi nỗi đau và sự sợ hãi, nhưng cho chúng ta sự tin tưởng, và ân sủng để mang lấy sự đau khổ thay vì để nó đè bẹp chúng ta.  Và như thế, các bệnh nhân đang trên đường NÊN THÁNH!

Những ngày qua hàng ngàn người bệnh nhiễm SARS-CoV-2 chết cô độc.  Karl Rahner, nhà thần học lớn thế kỷ XX đã chiêm niệm về cái chết: “bất luận sự chết có tàn bạo, có làm con người đau khổ thế nào thì cũng không thể hủy hoại tính cách độc lập và tự ý thức của con người.  Chính nhờ sức sống của đức tin mà chúng ta biết rằng: khi đối mặt với cái chết, con người có thể nhìn thấu vào những giới hạn của cái chết, và chính khi ấy chân trời mới của huyền nhiệm Thiên Chúa được khai mở, nhờ thế cuộc sống con người có được ý nghĩa tròn đầy vĩnh viễn.”  Chính thời khắc vô cùng đáng sợ của sự chết lại biến thành thời cơ quan trọng nhất để con người tiến gần Thiên Chúa hơn.

Có những người Kitô hữu hấp hối đã tỉnh thức chờ đợi Chúa đến trong bình an, nhưng cũng có nhiều người chưa tỉnh thức sẵn sàng.  Ắt hẳn mọi người Công giáo đều biết đến câu chuyện của người trộm lành, “Kẻ của phút thứ năm mươi lăm của giờ thứ mười một.” 

Ở một nhà thờ của Giáo Hội Chính Thống kia có bức tranh Chúa Phục Sinh.  Bức tranh mô tả cảnh Chúa Phục sinh đang giải thoát những người công chính thời Cựu Ước: Ngài giúp Ađam chỗi dậy khỏi mồ, Evà đang quỳ mọp đôi tay hướng về Đấng Cứu Độ, trong khi các ngôn sứ đang diễn hành, tay cầm biểu ngữ trên có ghi lời sấm nổi tiếng nhất của mình.  Thiên đàng còn trống vắng, chỉ một mình tên trộm lành giữa cây cối tươi tốt.  Anh ta đã không có thì giờ khoác chiếc áo cưới của những người được tuyển chọn, vẫn còn đóng cái khố của tên tử tù, nhưng giờ đây nó lại trắng tinh, tươm tất.  Anh ta là vị thánh đầu tiên của thiên đàng, là kẻ được chính Chúa Giêsu phong thánh: “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở trên thiên đàng với ta.”  Vì sao anh ta lại được diễm phúc như thế?  Vì hắn đã tin!  Và bởi tin, hắn đã thốt lên lời cầu xin bất hủ trong giờ phút chót: “Ông Giêsu ơi, khi nào ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42).  Vậy đừng ai bỏ lỡ cơ hội phút cuối cùng: với lòng tin cậy, hãy nài xin lòng thương xót của Chúa. Khi ấy bạn vẫn có cơ hội NÊN THÁNH!

Với gia đình có người thân qua đời vì COVID-19, không được gặp lại nhau phút lìa đời, thật đau đớn, và chỉ nhận được hũ tro cốt sau đó.  Có người đã than thở “Nước mắt người ra đi cũng xong, nhưng nước mắt người thân yêu còn sống chẳng biết đến bao giờ mới nguôi ngoai.  Lệ có khô, nhưng nước mắt chảy vào trong còn mãi, ngậm ngùi nhớ thương chẳng bao giờ cạn.”  Trong đức tin, chúng ta biết rằng: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất” (Kh 21,4).  Đức Maria hồn xác về Trời, Kinh Tin K ính tuyên xưng niềm tin: xác chúng ta ngày sau sống lại.  Thân xác và linh hồn hiệp nhất với nhau, hiện tại thân xác người thân yêu qua đời có thành tro bụi, chúng ta sẽ gặp lại người thân, cả hồn và xác trong ngày sau hết.  Trong tin yêu phó thác, hãy kết hợp với Đức Maria dưới chân thập giá, hiệp thông với Người Con thân yêu bị các môn đệ bỏ rơi, chết trần trụi, khi ấy, chúng ta được thông phần với hy tế cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta NÊN THÁNH trong vâng phục Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu.

Với các bạn trẻ thời gian cách ly xã hội, ở trong nhà nhiều hơn, nhờ đó bạn trẻ có thể học thinh lặng và thấy được giá trị của đời sống nội tâm, dành nhiều thời gian để sống cho những người thân yêu trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, hay sống gần Chúa, gần thiên nhiên nhiều hơn.  Mỗi ngày bạn trẻ tham dự thánh lễ online, bàn học bạn trở thành bàn thờ!  Bạn hãy tạ ơn Chúa và tôn vinh Ngài qua những nỗ lực học tập, mong muốn góp phần xây dựng quê hương mai sau, và làm vinh danh Chúa hơn.  Khi ấy, các bạn trẻ đang trên đường NÊN THÁNH!

Các cặp vợ chồng đang gặp khó khăn, thất nghiệp, phải ở nhà cùng nhau 7 ngày/24 giờ.  Hãy dành cho nhau những lời an ủi, ân cần chăm sóc cho nhau: “Anh/ chị em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều.  Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn.  Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).  Được như thế, các anh chị đang trên đường NÊN THÁNH!

Và biết bao người nữa, mỗi người chúng ta, khi làm một việc nhỏ cho tha nhân, cho cộng đồng với tình yêu lớn thúc bách, chúng ta đang trên đường NÊN THÁNH.

Xin tạ ơn Chúa!  Xin chúc tụng và ngợi khen Chúa!

Giữa bao đau thương cuộc đời, qua Mẹ Maria, Chúa đã chỉ cho chúng con Con đường hướng về Trời cao, con đường NÊN THÁNH của mỗi người chúng con được hiện thực hóa trong từng hành vi, cử chỉ, chọn lựa yêu thương trong cuộc sống đời thường.

Bs. Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà

From: langthangchieutim

THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO – Ngày 10 tháng 8

May be art of 2 people

Ngày 10 tháng 8

THÁNH LAURENSÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO

“Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.”

Thánh Laurensô sinh tại thôn Huêca nước Tây Ban Nha. Cha mẹ ngài là người rất đạo hạnh. Quãng đời thơ ấu của Laurensô không được ghi lại tường tận, chỉ biết rằng: Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để sang du học tại Rôma và đã sống cả cuộc đời trần thế tại đây

Được sống nơi kinh đô Giáo Hội, Laurensô hăm hở học hành và rèn luyện nhân đức, nên chẳng bao lâu tiếng nhân đức và tài học rộng hiểu sâu của ngài vang lừng khắp nơi. Khi vừa lên ngôi ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức tân Giáo Hoàng Xíttô đã chọn Laurensô làm Phó tế giúp việc cho ngài.

Nhưng rồi cơn bách hại đạo làm cho Giáo Hội Chúa lại phải sống trong âu lo và thử thách. Giông tố đó do Hoàng đế Valêrianô gây ra. Để trốn tránh, giáo sĩ cũng như giáo dân phải sống dưới những hang toại đạo hoặc trong những nhà giáo dân kín cổng, cao tường.

Hoàng đế Valêrianô ra lệnh cho quân lính bí mật theo dõi Đức Giáo Hoàng và một đêm kia, quân lính đã tìm ra con đường nhỏ, quanh co dẫn xuống hầm giữa nghĩa địa Prêtêta. Bắt được Đức Giáo Hoàng đang ngồi giảng dạy Lời Chúa giữa đông đảo giáo dân. Quân lính xông vào bắt Đức Giáo Hoàng và đoàn tháp tùng đem nộp cho quan. Ngài bị án chém đầu. Được tin sét đánh này, thầy Phó tế Laurensô vội vã chạy theo Đức Giáo Hoàng và năn nỉ xin được cùng chết với vị cha chung. Nhưng Đức Giáo Hoàng Xíttô an ủi:

– Con yêu dấu, cuộc bách hại đạo dữ dội đang chờ đợi con, vài ngày nữa con sẽ theo Cha. Phần Cha, nay đã già cả, Cha sẽ trải qua những thử thách này cách nhẹ nhàng, nhưng con còn trẻ trung, đầy nghị lực, con sẽ phải trải qua cuộc bách hại đạo vẻ vang hơn nhiều. Rồi Đức Giáo Hoàng ban phép lành vĩnh biệt người con yêu dấu, để đi ra pháp trường.

Trước cái tang chung của Giáo Hội và trước cảnh “Đoàn chiên không chủ chăn”, thầy Phó tế Laurensô suốt ngày đêm đi săn sóc và an ủi giáo dân đang ẩn nấp, rải rác khắp thành Rôma.

Hoàng đế Valêrianô là con người độc ác, lại tham lam, khi biết Giáo Hội còn nhiều tài sản, lập tức, ông hạ lệnh bắt thầy Phó tế Laurensô tới để tra của. Hoàng đế nói với thầy:

– Giáo Hoàng và các người Kitô giáo trách ta xử ác với họ. Giờ đây ta hứa sẽ dễ dãi nếu ông đem nộp cho ta tất cả của cải như chén vàng, đĩa bạc, chân nến và các đồ thờ quý giá: Ta rất cần các đồ đó để tăng cường ngân quỹ quốc gia.

Thầy nhanh nhẹn trả lời:

– Thưa Hoàng đế, tôi rất giàu, chính kho bạc của Hoàng đế cũng không thấm vào đâu, tôi sẽ nộp cho Hoàng đế những vật quý báu ấy. Vậy xin Hoàng đế cho tôi ít ngày để kịp thu gom của cải đó lại.

Hoàng đế gia hạn ba ngày.

Còn thầy Phó tế Laurensô ngang nhiên đi khắp thành phố Rôma, tập trung các bệnh nhân mà Giáo Hội vẫn cấp dưỡng, gồm mọi thứ bệnh: Phong cùi, mù loà què quặt, độ chừng 1.500 người. Ngài thuê những chiếc xe ngựa chở họ thẳng tới cung điện Hoàng đế.

Thấy công việc kỳ lạ của thầy, dân thành Rôma rủ nhau đi xem rất đông. Đoàn xe ngừng trước cung điện Hoàng đế, thầy tâu trình lớn tiếng:

– Tâu Hoàng đế, đây là tất cả kho tàng quí báu của Giáo Hội Công giáo chúng tôi, đây là những người nghèo khổ, bệnh tật, nhưng chính nhờ công việc cứu trợ họ và chúng tôi đã tích trừ được nhiều kho báu trên trời. Xin Hoàng đế hãy đón nhận tất cả của cải này để dùng cho thành Rôma và cho chính Hoàng đế.

Trước những lời đầy khiêu khích đó, Hoàng đế Valêrianô đỏ mặt, tía tai, nổi giận đùng đùng, ông truyền đánh đòn thầy bằng roi sắt; rồi truyền đem các dụng cụ hành hình ra trước mặt thầy và nói:

– Ngươi sẽ phải chết, nhưng ngươi đừng tưởng sẽ được chết ngay đâu ta sẽ kéo dài cái chết của ngươi bằng trăm ngàn cực hình .

Người lính dũng cảm của Chúa Kitô mạnh dạn thưa:

– Ngài tưởng tôi sợ cực hình sao? Không đâu! Ngài cho những cực hình đó là ghê sợ, nhưng tôi không sợ chút nào, mà còn ước mong từ lâu.

– Ngươi tưởng rằng, “những của cải quí báu” kia sẽ cứu ngươi thoát những cực hình sao?

– Tôi cậy vào của cải trên trời, đó là lòng Chúa nhân từ thương xót. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi được giải thoát, dù khi thân xác tôi phải phanh ra làm trăm ngàn mảnh.

Hoàng đế truyền đánh đòn thầy lần nữa. Đồng thời, Hoàng đế truyền cho lý hình nung đỏ những thanh sắt dí vào khắp mình ngài.

Không kêu la, than trách, thầy ngửa mặt lên trời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương đến tôi tớ Chúa đã bị kết án là không chối Chúa, đã bị tra tấn vì dám tuyên xưng Danh Thánh Chúa giữa trăm ngàn cực hình”.

Hoàng đế tức giận hét lên:

– Mày là thằng phù thủy, mày coi khinh cực hình, nhưng nhân danh các thần minh, nếu mày không tế lễ các ngài, ta sẽ hành hạ mày như chưa từng ai có thể làm được.

Thầy mạnh dạn trả lời:

– Nhờ ơn Chúa, tôi không sợ chút nào, mọi cực hình sẽ qua đi. Chúc Hoàng đế hăng hái thi hành điều ngài dự định để làm khổ tôi.

Được lệnh, lý hình lấy roi sắt tua gắn chì đánh túi bụi vào thân xác ngài, đến nỗi những mảnh thịt bóc ra tung toé. Khắp mình mẩy tím bầm, đẫm máu. Thầy tưởng giờ phút vinh quang đã tới. Nhưng từ trời có tiếng vang lên báo cho ngài biết ngài còn phải chịu đựng thử thách gay go hơn nữa. Chính Hoàng đế cũng nghe thấy những tiếng vang đó, Hoàng đế kêu lên:

– Đoàn quân Rôma, các ngươi không nghe thấy ác quỉ đang kéo tới cứu phạm nhân, khinh dể thần minh và coi thường các khổ hình sao?

Như không để ý đến lời hò hét của Hoàng đế, thầy sốt sắng cầu xin:

– Lạy Chúa, xin thương đến người tôi tớ bất xứng này, con nguyện xin Chúa hãy ban cho những người có mặt đây được trở lại cùng Chúa. Xin Chúa hãy an ủi họ trước toà phán xét.

Bấy giờ, một Thiên thần lấy hình một thanh niên tới an ủi và lau chùi các vết thương cho thầy. Một binh sĩ tên là Rômanô được Chúa cho xem thấy sự lạ này, đã mạnh dạn tiến thẳng tới xin thầy Phó tế Laurensô rửa tội cho anh và sau đó Rômanô cũng được phúc tử đạo.

Hoàng đế Valêrianô vẫn chưa nguôi căm tức, Hoàng đế truyền đặt trước mặt thầy những dụng cụ hành hình có thể làm sởn tóc gáy người xem. Hoàng đế hỏi lý lịch, thầy trả lời:

– Quê tôi ở Tây Ban Nha, từ nhỏ tôi đến ở Rôma được rửa tội và được giáo dục trong đức tin Công giáo.

– Ngươi tôn thờ Thiên Chúa, Đấng dạy ngươi bất kính các thần minh và coi thường các khổ hình phải không?

– Nhân danh Chúa Kitô, tôi không sợ khổ hình chút nào .

Nghe lời thách thức đó, Hoàng đế căm giận như điên cuồng, truyền nung đỏ giường sắt và đặt thầy lên giường sắt nung đỏ. Lúc đó, ngài cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin nhận hy lễ xông hương thơm ngọt ngào này.

Rồi, quay sang phía Hoàng đế, ngài nói:

– Tâu Hoàng đế, Hoàng đế có biết không, lửa này chỉ làm cho tôi tươi tỉnh hơn, nhưng nó sẽ dành sức nóng để thiêu đốt Hoàng đế đời đời.

Hoàng đế Valêrianô tức giận, sùi bọt mép và trở nên mù quáng trong giận dữ còn thầy tươi cười nói tiếp:

– Hoàng đế không thấy nửa người tôi được nướng chín kỹ rồi sao? Hãy lật phía kia để nướng tiếp cho kỹ đi để Hoàng đế có thể ăn thịt nướng này.

Khi lý hình đã lật thầy lên, ngài nói:

– Đã chín rồi, mời Hoàng đế ăn đi.

Lúc đó, đoàn giáo dân đứng vây quanh, thấy một vầng sáng lạ lùng bao quanh thầy và xác ngài toả ra hương thơm ngào ngạt.

Biết rằng cuộc chiến đấu sắp hoàn tất, thầy cảm tạ Thiên Chúa:

– Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì nhờ Chúa mà con sắp được vào nước hạnh phúc,

Rồi ngài tắt thở, hôm đó là ngày 10 tháng 8 năm 258.

Xác thầy được hai linh mục kính cẩn an táng một nơi cách thành phố Rôma hai ngàn thước. Thế kỷ IV, Hoàng đế Constantinô đã xây cất một ngôi thánh đường nguy nga trên chính mộ thánh nhân và được mang tên thánh Laurensô.

TgpSaigon.net