MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI

MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI

 Jos. Vinc. Ngọc Biển

Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người.  Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.

Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria.  Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta.  Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu.”  Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!  Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).

Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng.  Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô.  Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô.  Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân.  Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống.  Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.

Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã giấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng.  Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.  Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, và Mẹ của toàn thể chúng sinh.  Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.  Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.

Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng.  Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ.  Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.

Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.

Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính… phát sinh từ một đức tin chân thật.  Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).

Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại.  Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.

Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an.  Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.  Amen! 

Jos. Vinc. Ngọc Biển

From: Langthangchieutim

MỘT CON NGƯỜI HAI TƯ TƯỞNG

MỘT CON NGƯỜI HAI TƯ TƯỞNG

Lm. Joshepus Quang Nguyễn

Tin mừng hôm nay cho ta thấy ông thánh Phêrô tuy một nhưng hai tính cách: một Phêrô Kitô hữu và một Phêrô Satan.  Một Phêrô nói Thầy là Đấng Mêsia mà dân Israel đã cưu mang từng bao đời.  Một Kitô hữu Phêrô rất đẹp nhưng bên cạnh đó có một con quỷ Satan đội lốt Phêrô để can dặn Chúa Giêsu chớ có dại dột mà lên Giêrusalem, Chúa Giêsu quay lại mắng một lời rất nặng mà ít thấy trong Tin mừng.  Vâng, Phêrô cũng là hình ảnh của mỗi một người chúng ta đây và tất cả những ai mang danh Kitô hữu có một tính cách rất tốt mà cũng có những tính cách rất Satan.

Thử hỏi hôm nay có người Công giáo nào dám vỗ ngực và bảo rằng tôi đã hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu và không có một Satan nào trong tôi cả.  Nhưng mỗi một con người đều pha lẫn ánh sáng và bóng tối, vừa pha lẫn tính chất Kitô hữu và lại có tính cách của quỷ Satan ở đấy.  Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Giacôbê nói: “Có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15).

Vậy thì, vấn đề ta phải suy nghĩ với nhau đó là cái gì mà làm cho ta là Kitô hữu mà lại mang tính chất Satan đó?  Có thể là nhiều lý do nhưng mình có thể dựa vào Tin mừng hôm nay đó là chúng ta quen tính toán suy nghĩ và chọn lựa đường lối của loài người mà mình quên mất những suy nghĩ vào đường lối của Thiên Chúa.  Không có ai và không có cộng đoàn nào mà không đi tìm cho mình sự sống thật và con đường nào dẫn đến sự sống thật?  Nhiều khi mình đi tìm sự sống nhưng là một sự sống giả và là con đường tính toán với thế gian.  Chẳng hạn, khi hoàng đế Nêron muốn làm thơ về thành Turoa cho nên ông đốt cả thành Rôma, rồi ông đổ tội cho người Công giáo, thế là một cuộc bách hại tàn sát rất dã man đổ lên trên đầu Hội thánh Công giáo.  Phêrô tìm cách thoát ra khỏi thành Rôma.  Bởi vì Ngài sợ rằng nếu bây giờ mà vị lãnh đạo Giáo hội bị đế quốc Rôma giết chết thì còn ai lãnh đạo, và cả đoàn chiên của Chúa mất đầu, sẽ tan tác hết cho nên Ngài phải thoát ra khỏi thành để duy trì sự sống cho Hội thánh.  Nhưng không ngờ rằng trên đường đi ra khỏi thành lại gặp Chúa Giêsu đi ngược lại, và khi Phêrô lên tiếng hỏi Thầy đi đâu, Chúa Giêsu trả lời Thầy đi vào thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa.  Phêrô hiểu và quay trở lại Rôma.  Ngài hiểu ngay việc Ngài thoát ra khỏi thành Rôma là sự khôn ngoan, nhưng nó lại là sự khôn ngoan của loài người chứ không phải sự khôn ngoan của Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Chúa muốn cho con người được hạnh phúc.  Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người bằng cái chết trên thập giá và sống lại vinh quang.  Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng, và mau qua theo kiểu thế gian hay Satan.  Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa.  Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn.  Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình.  Đó là yêu thương, tha thứ nhất là từ bỏ xu hướng của Satan ham muốn xác thịt… để chỉ sống thanh cao phần tinh thần.

Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh.  Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh nhìn ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô.  Vì vậy, là Kitô hữu luôn mang một tính cách của Chúa là: chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công; thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính, yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch, và bước theo Chúa cho đến cùng, biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người, và sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.  Vì vậy, kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: “Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình.  Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.”

Xin cho Lời Chúa hôm nay luôn thanh tẩy tư tưởng Satan trong trí lòng chúng ta để chỉ còn tư tưởng và đường lối của Chúa trong cung cách sống đạo của chúng ta hôm nay. Amen.

Lm. Joshepus Quang Nguyễn

From: Langthangchieutim

LỜI KHUYÊN CỦA THÁNH PADRE PIO.

May be an image of 1 person and sitting

KHI BẠN ĐANG TRONG THỜI ĐIỂM ĐEN TỐI CỦA ĐẠI DỊCH

MỜI BẠN THỬ ĐỌC XEM LỜI KHUYÊN CỦA THÁNH PADRE PIO.

Nếu cảm thấy mình đang ở trong thời điểm đen tối, hãy tìm đọc những lời khôn ngoan của Thánh Padre Pio.

Thánh Padre Pio thực hành những điều trên suốt cuộc đời của Cha, vì đời của cha nhiều nỗi gian truân, Ngài sống qua hai trận THẾ GIỚI ĐẠI CHIẾN và một trận ĐẠI DỊCH.

  1. KHI Ở TRONG THỜI ĐIỂM ĐEN TỐI

Con hãy cầm chặt CHUỖI TRÀNG HẠT MÂN CÔI giống như con đang cầm tay ĐỨC MẸ MARIA.

  1. CẦU NGUYỆN CHUỖI KINH MÂN CÔI hàng ngày.
  2. HÃY TỪ BỎ CHÍNH MÌNH và giao mình vào đôi tay TỪ MẪU CỦA ĐỨC MẸ MARIA, MẸ sẽ chăm sóc con.
  3. Đừng dùng năng lực của con vào những sự gì tạo ra lo lắng, âu sầu và khổ não.
  4. Chỉ có một điều cần thiết là:

HÃY NÂNG TINH THẦN LÊN và YÊU MẾN CHÚA HƠN.

  1. “CÁC CON ĐỪNG SỢ HÃI

HÃY ĐẶT MÌNH DƯỚI SỰ CHE CHỞ CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA.

ĐỪNG PHẠM TỘI và TRẬN ĐẠI DỊCH COVID-19 SẼ KHÔNG THẮNG ĐƯỢC CON .”

CÓ MỘT SỐ CON CÁI THIÊNG LIÊNG CỦA NGÀI BỊ BỆNH NHƯNG KHÔNG AI BỊ CHẾT VÌì ĐẠI DỊCH.

THÁNH PADRE PIÔ rất trân quý sự đau khổ và xem đó như một công cụ để đến gần Chúa.

Tuy nhiên, Ngài cũng nhận ra rằng nhiều người cần được xoa dịu sự đau khổ về thể xác để giúp họ nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc đời của họ.

  1. Những lời cầu nguyện ngắn, tự phát thì chúng giống như

“NHỮNG MŨI TÊN BẮN VÀO THÁNH TÂM CỦA CHÚA.”

  1. Những lời cầu nguyện như tên bắn đó có một sức mạnh đặc biệt để kín múc ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho chúng ta.
  2. KHI CẦU NGUYỆN VỚI ĐỨC TIN

Thì CHUỖI MÂN CÔI có thể là một lời cầu nguyện đầy quyền năng làm cho chúng ta hiệp nhất với Chúa Giêsu và Mẹ của Ngài là Mẹ Maria.

  1. ĐỪNG COI THƯỜNG VIỆC CẦU NGUYỆN CHUỖI MÂN CÔI.
  2. THẾ GIỚI NGÀY NAY NẾU KHÔNG CẦU NGUYỆN.

Đó là lý do tại sao thế giới đang tan nát.

  1. TRÀNG HẠT MÂN CÔI là VŨ KHÍ CHO NHỮNG THỜI ĐẠI.
  2. NHỮNG AI CẦU NGUYỆN SẼ CÓ HY VỌNG.

NHỮNG AI CẦU NGUYỆN ÍT SẼ Ở TRONG TÌNH TRẠNG NGUY HIỂM LỚN LAO.

NHỮNG AI KHÔNG CẦU NGUYỆN THÌ SẼ MẤT LINH HỒN.

St.

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

Kinh gửi quý anh em

Tháng 10 năm 2016 (chính xác là ngày chủ nhật 9.10), trong thánh lễ tạ ơn của những người cao tuổi (trên 70) của một cộng đoàn VN, tại nhà thờ Thánh Marcô, Montreal, Québec, Canada. Tôi được dự cùng gia đình hai anh Lê Minh Đường và Lê Minh Tâm, tôi giữ lại được Kinh nguyện nầy. Xin chia sẻ với quý anh em nhân Ngày Những người Cao tuổi (25.7)

Thân mến.

HCH

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

(được TGM Montréal chuẩn ấn, 2.1983)

Lạy Chúa, đã hơn bảy mươi năm nay, Chúa ban cho con ân huệ được sống ở đời; và từ khi con sinh ra, Chúa đã không ngừng ban cho con tràn đầy ơn lành và tình yêu vô cùng của Chúa. Bao nhiêu năm nay, cùng chung số phận với mọi người, đời con trôi đi trong hân hoan xen lẫn phiền sầu, thành công xen lẫn thất bại, với bao bệnh hoạn và gian khó. Nhờ ơn Chúa phù hộ giữ gìn, con đã lướt thắng được các trở ngại và tiến lại gần Chúa. Ngày hôm nay, con cảm thấy được vô cùng an ủi, vì được Chúa ban cho có nhiều kinh nghiệm phong phú, và được Chúa chiếu cố đoái thương. Vì thế, linh hồn con không ngừng ca tụng tri ân Chúa.

         Tuy nhiên, hằng ngày con gặp thấy quanh mình nhiều người cao niên mà Chúa đang thử thách nặng nề: Họ bị tê liệt, tàn tật, bất lực, và đôi khi không còn đủ sức cầu nguyện với Chúa; có những người mất hết mọi khả năng tinh thần, và trong một đời sống hư ảo vô thức, họ không còn thể tiếp xúc được với Chúa. Con nhìn ngắm họ và băn khoăn tự nhủ mình rằng: “Nếu tôi cũng bị như họ thì sao?”.

         Vì thế, lạy Chúa, ngày hôm nay, trong lúc còn được hưởng đủ mọi khả năng cử động và suy tư, con xin dâng lên trước việc sẽ chấp nhận vâng theo Thánh Ý Chúa; và ngay từ bây giờ con muốn rằng, sau này bất cứ gặp phải một thử thách nào như thế, con cũng xin dâng cho Chúa để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Và cũng ngay từ bây giờ, con xin Chúa ban ơn phù trợ cho những người lúc đó sẽ lấy trách nhiệm giúp đỡ con.

         Nếu một mai bệnh tình xâm phạm tới trí óc con, khiến con mất sự minh mẫn, thì ngay từ bây giờ, trước mặt Chúa đây, con xin hứa trước sẽ vâng chịu, và vâng chịu trong trạng thái yên lặng kính thờ. Nếu mai này con bị chìm đắm trong tình trạng hôn mê kéo dài, thì con mong rằng mỗi giờ phút còn lại của đời con sẽ đều là những thời gian liên tục chúc tụng tri ân Chúa, và chớ gì hơi thở sau hết của con cũng sẽ là một hơi thở của lòng mến yêu. Con ước ao cậy trông rằng, vào giờ đó, con sẽ được Đức Mẹ nắm tay dẫn dắt đến trình diện trước Thiên Nhan để ca tụng ngợi khen Chúa muôn đời.

Amen.

CÂM ĐIẾC TÂM LINH

CÂM ĐIẾC TÂM LINH

Cha Mark Link, S.J.

 Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc.  Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật.  Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: “Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc.  Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!”  Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers.  Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình.  Một đoạn trong lời cầu đó như sau:

            “Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác.  Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.  Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay).

            Lời kinh trên cho chúng ta thấy một nỗi niềm, một uẩn khúc nào đó của người điếc mà chúng ta thường ít người nhận ra được.  Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc.  Thế nhưng Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở radio thì chả hiểu gì, xem truyền hình cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả.  Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.

****

            Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay.  Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.

            Điều này dẫn chúng ta đến một vài câu hỏi:

–    Tại sao Chúa Giêsu đã chữa lành người câm điếc ấy?

–    Tại sao Ngài đã khai thông lỗ tai người ấy?

–    Tại sao Ngài đã phục hồi miệng lưỡi người ấy?

            Câu trả lời nằm trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay.  Trong lời mô tả vài dấu chỉ sẽ xảy ra khi Đấng Mêsia đến, tiên tri Isaia đã nói: “Kẻ điếc sẽ được nghe, ai không nói được sẽ mừng rỡ reo lên…”  Qua việc chữa lành người câm điếc trên, Chúa Giêsu đã hoàn tất hai dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói để giúp dân chúng nhận ra Đấng Mêsia.  Vậy, một trong những mục đích của việc chữa lành ngày hôm nay là xác nhận rõ hơn Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.

            Tuy nhiên, việc chữa lành ngườì câm điếc kia còn tỏ lộ một điều ẩn kín nào đó nơi bản thân Đức Giêsu.  Nó cho ta thấy Đức Giêsu là một mẫu người giàu lòng thương xót.  Điều này đặc biệt biểu lộ qua cung cách Ngài tách biệt anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông.  Như ta biết, người điếc thường hay mặc cảm nên lúng túng trước tình cảnh của mình.  Họ không hiểu ất giáp gì cả khi nghe người ta hỏi, nên họ luôn cảm thấy mình như ở ngoài rìa.  Vì thế khi dẫn anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng xót thương thực sự của Ngài đối với anh, Ngài rất nhạy cảm đối với tình cảnh đáng thương của anh.  Như thế ngoài việc tỏ cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, việc chữa lành người câm điếc còn cho ta thấy rõ lòng thương xót của Đức Giêsu.

            Cuối cùng, việc Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc đã tạo nên nguồn hy vọng cho chúng ta là những kẻ đang sống ở thời đại ngày nay.

            Trạng thái của người câm điếc không giống trạng thái của riêng chúng ta.  Nhiều người trong chúng ta không điếc về thể lý nhưng lại điếc về tâm linh.  Chúng tôi muốn ám chỉ gì đây? Hãy dùng một ví dụ để làm sáng tỏ.

            Mới đây một bà mẹ và ông bố đến thăm đứa con gái của họ đang lâm trọng bệnh ở nhà thương.  Ngay khi họ lái xe rời bệnh viện, bà mẹ bắt đầu vừa khóc vừa nói; “Anh Ron ơi, em chả biết rõ điều gì đang xảy đến cho em, lẽ ra 10 năm trước em có thể cầu nguyện với tất cả tấm lòng cho con gái chúng ta.  Lẽ ra em có thể trình bày với Chúa về nó, và lẽ ra em có thể nghe lời Chúa dặn dò em “Đừng lo.”  Thế nhưng em không còn làm điều ấy được nữa.  Em không còn cầu nguyện được nữa, em không thể nói chuyện với Chúa như em đã thường làm.  Hình như về mặt thiêng liêng em đã trở nên như câm như điếc.”

            Câu chuyện trên mô tả tình trạng của nhiều người trong chúng ta.  Chúng ta đôi lúc cũng cảm thấy khó cầu nguyện khác với chúng ta ngày xưa.  Chúng ta cũng cảm thấy khó đối thoại với Chúa và chúng ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc nghe Chúa nói với chúng ta.  Vậy trong trường hợp này, chúng ta phải làm gì?  Câu trả lời đã nằm sẵn trong bài Phúc Âm hôm nay.  Chúng ta có thể bắt chước người câm điếc trên, nghĩa là tìm kiếm Chúa Giêsu, cùng Ngài bước ra khỏi đám đông và tận hưởng đôi chút thời gian bên sự hiện diện có khả năng chữa lành của Ngài.

            Bài Phúc Âm hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta.  Nói cụ thể hơn, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta đã từng có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.

            Như thế, câu chuyện người câm điếc trên nói với chúng ta 3 điều:

–  Thứ nhất, nó mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã được mong đợi từ lâu.  Đức Giêsu đã thực hiện điều mà Isaia tiên báo Đấng Mêsia sẽ làm, tức là cho người điếc được nghe và người câm nói được.

 –  Thứ hai, câu chuyện người câm điếc mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương.  Ngài đưa người điếc ra khỏi đám đông để chữa lành cho người ấy.  Ngài không biến người ấy thành trò cười cho thiên hạ mà muốn tiếp xúc thân mật riêng tư với người ấy.

 –   Cuối cùng, bài Phúc Âm mặc khải cho chúng ta phương pháp giải quyết các vấn nạn mà nhiều người trong chúng ta đang gặp phải ngày hôm nay. Đó là chúng ta không còn cầu nguyện được nữa, không còn thưa chuyện với Chúa, lắng nghe lời Ngài nói trong tâm hồn chúng ta được nữa. Về mặt thiêng liêng quả thực chúng ta đang bị câm điếc.

Để tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề khổ tâm này, chúng ta hãy bắt chước người câm điếc, là tìm kiếm Chúa Giêsu và xin Ngài chữa lành chúng ta.  Cụ thể hơn, chúng ta hãy để riêng vài phút mỗi ngày tiếp xúc với Chúa Giêsu ngõ hầu Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.

Cha Mark Link, S.J.

***

Lạy Chúa Giêsu, nỗi bất hạnh của người điếc là nghe mà không hiểu và từ từ họ cảm thấy bị tách biệt xa lạ với thế giới bên ngoài.  Còn nỗi bất hạnh của con là theo Chúa nhưng không hiểu Chúa muốn nói gì, không biết Chúa muốn gì nơi con, nhưng bất hạnh hơn là con không biết mình đang bị câm điếc tâm linh để xin Chúa chữa lành.  Lạy Đấng giàu lòng xót thương, xin cho con nhận thức căn bịnh tâm linh thời đại mà con đang mang và xin chữa lành tâm hồn con.  Xin cho con biết sống thân mật với Chúa hơn, biết bỏ ra vài phút mỗi ngày để tiếp xúc với Chúa, để nghe mà hiểu Chúa muốn nói gì, để dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong đời sống con.  Amen!

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

Các nhà khoa học nói gì về Thiên Chúa

Các nhà khoa học nói gì về Thiên Chúa:

  1. Ông A.Einstein, một bộ óc được đánh giá là thông minh nhất của thế kỷ hai mươi, đã thú nhận rằng: “Khoa học thế kỷ XX đã giải đáp được rất nhiều bí mật của vũ trụ. Nhưng những giải đáp này so với những cái bí mật còn lại thì chỉ là một giọt nước so với đại dương. Một giọt nước so với đại dương. Ôi khả năng của lý trí loài người”.
  2. Alexis Carrel, giải Nobel 1912, nhìn ngắm những kỳ diệu của vũ trụ cực tiểu là thân xác nhỏ bé của con người, ông đã thảng thốt kêu lên “Ôi, con người là một ẩn số”. Đó là tựa đề của cuốn sách thời danh của ông, L’homme, cet Inconnu.

Alexis Carrel, là một bác sĩ vô thần, đã theo đạo Công giáo, vì ông chứng kiến một hiện tượng khỏi bệnh mà khoa học không thể giải thích được. Ông phụ trách một toa xe chở bệnh nhân từ Paris về Lộ Đức. Trong số bệnh nhân này có một cô gái chân cao chân thấp, phải đi vẹo vọ. Thế mà sau khi cầu nguyện, hai chân cô lại dài ngắn bằng nhau, đi lại bình thường. Alexis Carrel, ngẩn ngơ. Lý trí của ông đầu hàng đức tin. Ông theo đạo và viết một tác phẩm lấy tựa đề là “Cầu nguyện” (La Prière).

  1. Lecomte du NoÜy là một nhà sinh vật học nổi tiếng. Ông đã theo đạo. Hỏi tại sao thì ông trả lời: “Vì trong đạo có nhiều mầu nhiệm mà tôi không hiểu được. Nếu tôi hiểu được, thì những mầu nhiệm ấy chỉ là những triết thuyết, những định luật khoa học, không đáng để tôi thờ…”.

NỤ HÔN CỦA VỊ THÁNH chứng minh cho nụ hôn của Ơn Gọi

NỤ HÔN CỦA VỊ THÁNH chứng minh cho nụ hôn của Ơn Gọi

The Kiss of A Saint…and also the kiss for Vocation…

The kiss of Saint John Paul II bring the Kids close to the priesthood life…

Câu chuyện tuyệt vời về một người mẹ mang cậu con trai của mình là Gioan-Phaolô Tôma đến với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để được chúc lành và hôn lên trán. Giờ đây thầy Gioan-Phaolô đang học để trở thành linh mục. Tất cả là hồng ân, mọi việc Chúa làm thật vĩ đại qua vị Thánh của Ngài…

Nguồn: John Glory Nguyen

May be an image of 3 people and text

CÂM ĐIẾC TÂM LINH

CÂM ĐIẾC TÂM LINH

 Cha Mark Link, S.J.

Một phụ nữ kia có người bạn bị điếc.  Ngày nọ bà ta hỏi người bạn muốn được tặng gì vào ngày sinh nhật.  Người bạn ấy đáp lại thật bất ngờ: Xin bạn hãy vui lòng viết thư cho Ann Landers yêu cầu bà ta in lại bảng kinh cầu nguyện cho người điếc.  Bà ấy đã từng in nó trước đây vào mục của bà trong một tờ báo, nhưng tôi đã đánh mất bản sao mục đó rồi!  Thế là người phụ nữ đã viết thư cho Ann Landers.  Và vào ngày 1.6 ngày sinh nhật của cô bạn, bà Ann đã in lại lời cầu nguyện đó trong cột báo của mình.  Một đoạn trong lời cầu đó như sau:

            “Lạy Chúa, nỗi đau khổ mà người điếc phải gánh chịu là đa số thiên hạ xem họ như những người chuyên làm phiền người khác.  Người ta thường thiện cảm với người mù, người què, nhưng lại thường nổi xung và bực bội với người điếc.  Kết quả là người điếc thường phải trốn lánh bạn bè và càng ngày càng trở nên khép kín” (William Barclay).

             Lời kinh trên cho chúng ta thấy một nỗi niềm, một uẩn khúc nào đó của người điếc mà chúng ta thường ít người nhận ra được.  Đa số chúng ta đều cho rằng mù thì tệ hại hơn điếc.  Thế nhưng Helen Keller vừa bị mù lẫn điếc thì cho rằng bị điếc không nghe được, thì quả là phần lớn những cánh cửa trong cuộc đời ta đã bị khép chặt lại, chẳng hạn: mở radio thì chả hiểu gì, xem truyền hình cũng chả thú vị gì mà còn phát chán, và hầu như không thể trò chuyện với ai được cả.  Vì thế, sau một thời gian chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn như bị bỏ rơi.

***************************************

            Câu chuyện về người điếc nói trên giúp ta hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay.  Nó giúp ta hiểu được người câm điếc vui sướng như thế nào sau khi được Chúa Giêsu chữa lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh ta cảm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống.

            Điều này dẫn chúng ta đến một vài câu hỏi:

–    Tại sao Chúa Giêsu đã chữa lành người câm điếc ấy?

–    Tại sao Ngài đã khai thông lỗ tai người ấy?

–    Tại sao Ngài đã phục hồi miệng lưỡi người ấy?

            Câu trả lời nằm trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay.  Trong lời mô tả vài dấu chỉ sẽ xảy ra khi Đấng Mêsia đến, tiên tri Isaia đã nói: “Kẻ điếc sẽ được nghe, ai không nói được sẽ mừng rỡ reo lên…”  Qua việc chữa lành người câm điếc trên, Chúa Giêsu đã hoàn tất hai dấu chỉ mà tiên tri Isaia đã nói để giúp dân chúng nhận ra Đấng Mêsia.  Vậy, một trong những mục đích của việc chữa lành ngày hôm nay là xác nhận rõ hơn Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.

            Tuy nhiên, việc chữa lành ngườì câm điếc kia còn tỏ lộ một điều ẩn kín nào đó nơi bản thân Đức Giêsu.  Nó cho ta thấy Đức Giêsu là một mẫu người giàu lòng thương xót.  Điều này đặc biệt biểu lộ qua cung cách Ngài tách biệt anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông.  Như ta biết, người điếc thường hay mặc cảm nên lúng túng trước tình cảnh của mình.  Họ không hiểu ất giáp gì cả khi nghe người ta hỏi, nên họ luôn cảm thấy mình như ở ngoài rìa.  Vì thế khi dẫn anh chàng câm điếc ra khỏi đám đông, Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng xót thương thực sự của Ngài đối với anh, Ngài rất nhạy cảm đối với tình cảnh đáng thương của anh.  Như thế ngoài việc tỏ cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, việc chữa lành người câm điếc còn cho ta thấy rõ lòng thương xót của Đức Giêsu.

            Cuối cùng, việc Đức Giêsu chữa lành cho người câm điếc đã tạo nên nguồn hy vọng cho chúng ta là những kẻ đang sống ở thời đại ngày nay.

            Trạng thái của người câm điếc không giống trạng thái của riêng chúng ta.  Nhiều người trong chúng ta không điếc về thể lý nhưng lại điếc về tâm linh.  Chúng tôi muốn ám chỉ gì đây? Hãy dùng một ví dụ để làm sáng tỏ.

            Mới đây một bà mẹ và ông bố đến thăm đứa con gái của họ đang lâm trọng bệnh ở nhà thương.  Ngay khi họ lái xe rời bệnh viện, bà mẹ bắt đầu vừa khóc vừa nói; Anh Ron ơi, em chả biết rõ điều gì đang xảy đến cho em, lẽ ra 10 năm trước em có thể cầu nguyện với tất cả tấm lòng cho con gái chúng ta.  Lẽ ra em có thể trình bày với Chúa về nó, và lẽ ra em có thể nghe lời Chúa dặn dò em “Đừng lo.  Thế nhưng em không còn làm điều ấy được nữa.  Em không còn cầu nguyện được nữa, em không thể nói chuyện với Chúa như em đã thường làm.  Hình như về mặt thiêng liêng em đã trở nên như câm như điếc.”

            Câu chuyện trên mô tả tình trạng của nhiều người trong chúng ta.  Chúng ta đôi lúc cũng cảm thấy khó cầu nguyện khác với chúng ta ngày xưa.  Chúng ta cũng cảm thấy khó đối thoại với Chúa và chúng ta cũng cảm thấy khó khăn trong việc nghe Chúa nói với chúng ta.  Vậy trong trường hợp này, chúng ta phải làm gì?  Câu trả lời đã nằm sẵn trong bài Phúc Âm hôm nay.  Chúng ta có thể bắt chước người câm điếc trên, nghĩa là tìm kiếm Chúa Giêsu, cùng Ngài bước ra khỏi đám đông và tận hưởng đôi chút thời gian bên sự hiện diện có khả năng chữa lành của Ngài.

            Bài Phúc Âm hôm nay khuyên chúng ta nên tạo điều kiện thuận lợi cho Chúa Giêsu để Ngài mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, để Ngài đặt ngón tay của Ngài khai mở đôi tai điếc của chúng ta.  Nói cụ thể hơn, Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm lại những gì chúng ta đã từng có thói quen hay làm, tức là bỏ ra ít phút mỗi ngày để cầu nguyện, để Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta điều Ngài đã làm cho người câm điếc ấy, nghĩa là bài Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy để Chúa Giêsu chữa lành bệnh câm điếc của chúng ta.

            Như thế, câu chuyện người câm điếc trên nói với chúng ta 3 điều:

–  Thứ nhất, nó mặc khải cho chúng ta Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia của Israel đã được mong đợi từ lâu.  Đức Giêsu đã thực hiện điều mà Isaia tiên báo Đấng Mêsia sẽ làm, tức là cho người điếc được nghe và người câm nói được.

–  Thứ hai, câu chuyện người câm điếc mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương.  Ngài đưa người điếc ra khỏi đám đông để chữa lành cho người ấy.  Ngài không biến người ấy thành trò cười cho thiên hạ mà muốn tiếp xúc thân mật riêng tư với người ấy.

–   Cuối cùng, bài Phúc Âm mặc khải cho chúng ta phương pháp giải quyết các vấn nạn mà nhiều người trong chúng ta đang gặp phải ngày hôm nay. Đó là chúng ta không còn cầu nguyện được nữa, không còn thưa chuyện với Chúa, lắng nghe lời Ngài nói trong tâm hồn chúng ta được nữa. Về mặt thiêng liêng quả thực chúng ta đang bị câm điếc.

            Để tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề khổ tâm này, chúng ta hãy bắt chước người câm điếc, là tìm kiếm Chúa Giêsu và xin Ngài chữa lành chúng ta.  Cụ thể hơn, chúng ta hãy để riêng vài phút mỗi ngày tiếp xúc với Chúa Giêsu ngõ hầu Ngài sẽ chữa lành và làm cho chúng ta hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.

Cha Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

THƯƠNG TIẾC NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

THƯƠNG TIẾC NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Gần như chúng ta đều biết câu chuyện Zorba người Hy Lạp qua quyển sách nổi tiếng của tác giả Nikos Kazantzakis hoặc qua phim ảnh.  Và Zorba không phải là nhân vật hư cấu.  Alexix Zorba là người thật việc thật, có tính cách phóng khoáng và tinh thần hoạt bát đến nỗi khi ông qua đời, Kazantzakis không thể chấp nổi chuyện đó, tự vấn rằng một người với sức sống mãnh liệt thế kia mà có thể chết sao.

Khi biết tin Zorba qua đời, phản ứng của Kazantzakis là thế này: “Tôi nhắm mắt lại và cảm thấy nước mắt từ từ lăn xuống âm ấm trên gò má.  Ông ấy chết rồi, chết thật rồi.  Zorba đã ra đi, đi mãi không về.  Tiếng cười đã chết, bài ca im bặt, cây đàn santir vỡ tan, điệu nhảy trên bãi đá bờ biển đã dừng, cái miệng ham muốn đặt câu hỏi không ngừng giờ đã đầy bùn đất. …  Những linh hồn như thế sẽ không chết.  Đất, nước, lửa, liệu có thể tạo ra một Zorba nữa không? …  Như thể tôi tin ông ấy sẽ bất tử vậy.”

Đôi khi thật khó để tin là một người nào đó có thể chết, vì cuộc sống và sức sống của họ quá tuyệt diệu.  Đơn giản là chúng ta chẳng hình dung nổi một sức sống như thế lại nằm yên, lại chết và mãi mãi xa rời trần thế này.  Có những người dường như không thể chết vì chúng ta không hình dung nổi một sức sống, sự khoáng đạt, phong phú và tốt lành như thế lại chết.  Làm sao một sức sống diệu kỳ như thế mà chết được chứ?

Tôi đã nhiều lần cảm nhận chuyện này, gần nhất là mới tuần trước, khi hai đồng nghiệp cũ của tôi, những người khoáng đạt, sắc sảo, phong phú và cực kỳ tâm linh, đã chết.  Kazantzakis cố chấp nhận cái chết của Zorba, đồng thời tìm cách cố đương đầu với cái chết này.  Ông quyết định nỗ lực “phục sinh” Zorba, bằng cách kể những câu chuyện của Zorba cho cả thế giới sao để biến cuộc đời ông thành huyền thoại, thành vũ khúc, thành tôn giáo.

Kazantzakis tin rằng đây chính là việc Maria Mađalêna đã làm khi thương tiếc cái chết của Chúa Giêsu, khi bà rời mộ Ngài và trở lại với đời.  Bà đã “phục sinh” Chúa Giêsu bằng cách kể chuyện của Ngài, tạo nên một huyền thoại, một vũ khúc, một tôn giáo.  Nên khi thương tiếc cái chết của Zorba, Kazantzakis tự nhủ: “Hãy cho ông máu của chúng ta để ông có thể sống lại, chúng ta hãy làm những gì có thể để kéo dài thêm sinh mệnh cho con người mê ăn, mê uống, mê làm việc, mê đàn bà, mê lang bạt, người vũ công và chiến binh, linh hồn khoáng đạt nhất, thân thể rắn chắc nhất, tiếng hét tự do nhất mà tôi từng biết”.

Ông đã rất nỗ lực!  Và nỗ lực đó tạo nên một câu chuyện tuyệt vời, một thần thoại thú vị, nhưng nó không bao giờ tạo nên một tôn giáo hay một vũ khúc bất diệt, bởi nó không như những gì bà Maria Mađalêna đã làm cho Chúa Giêsu.  Dù thế, vẫn có gì đó đáng để chúng ta học hỏi về cách đương đầu với những ra đi quá lớn làm cho thế giới bỗng chốc hoang lạnh đi hẳn.  Chúng ta không được để sức sống diệu kỳ đó biến mất, chúng ta phải giữ cho nó sống.  Tuy nhiên, là tín hữu Kitô, chúng ta làm theo một cách khác.

Chúng ta đọc câu chuyện của Maria Mađalêna theo một cách rất khác.  Bà Maria đến mộ Chúa Giêsu, thấy mộ trống, và đi ra ngoài khóc, nhưng… trước khi đi kể chuyện này cho người khác, bà đã được gặp Chúa Giêsu, được Ngài nói cho cách để tìm được sức sống, sự phong phú, tình yêu thương và con người của Ngài, trong một phương thức hoàn toàn mới là trong tinh thần của Ngài.  Phương thức đó bao hàm cả bí mật về cách chúng ta trao sự sống cho những người thân yêu sau khi họ đã mất.

Làm sao để giữ những người thân yêu và sức sống kỳ diệu mà họ đã đem lại cho đời, vẫn tiếp tục sống sau khi họ đã mất?  Trước hết, là bằng cách nhận ra rằng sức sống của họ không mất đi cùng với thân thể, rằng sức sống đó không rời trần thế này.  Sức sống của họ vẫn còn sống, vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, nhưng bây giờ là ở trong chúng ta, qua tinh thần họ để lại (cũng như Chúa Giêsu đã để lại tinh thần của Ngài).  Hơn nữa, sức sống của họ truyền cho chúng ta mỗi khi chúng ta đi vào “Galilê” của họ, cụ thể là, vào những nơi mà tinh thần của họ phát triển và truyền đi dưỡng khí sinh sôi.

Thế nghĩa là sao?  “Galilê” của ai đó, nghĩa là gì?  “Galilê” của ai đó là sức sống đặc biệt, dưỡng khí đặc biệt mà người đó phát ra.  Với Zorba, thì đó là sự táo bạo và ham mê sống, với cha tôi là tinh thần ngoan cường, với mẹ tôi thì là lòng quảng đại.  Trong sức sống đó, họ phát ra một điều gì đó của Thiên Chúa.  Bất kỳ lúc nào chúng ta đến những điểm mà tinh thần của họ phát ra sức sống của Thiên Chúa, thì chúng ta hít vào dưỡng khí của họ, vũ điệu của họ và sự sống của họ.

Như tất cả các bạn, tôi cũng có những lúc choáng váng, buồn đau và hoài nghi về cái chết của một người nào đó.  Làm sao sức sống đặc biệt đó lại chết được?  Đôi khi sức sống đặc biệt đó được thể hiện nơi vẻ đẹp thể lý, sự duyên dáng, bạo dạn, hăng say, phong phú, kiên cường, cảm thương, nhân ái, nồng hậu, khéo léo hay dí dỏm.  Có thể rất khó chấp nhận rằng vẻ đẹp và dưỡng khí đem lại sự sống đó, có thể rời bỏ trần thế này.

Xét cho cùng, chẳng gì mất đi cả.  Đôi khi, trong thời gian của Thiên Chúa, khi đúng thời đúng điểm, tảng đá sẽ lăn ra, và như Maria Mađalêna đã từ mộ đi về, chúng ta sẽ biết rằng nếu đến “Galilê”, mình có thể hít thở sức sống diệu kỳ đó lần nữa.

Rev. Ron Rolheiser, OMI