httpv://www.youtube.com/watch?v=v-hRUKG3eyw
TẠI SAO THIÊN CHÚA CHO PHÉP ĐẠI DỊCH XẢY RA?
TẠI SAO THIÊN CHÚA CHO PHÉP ĐẠI DỊCH XẢY RA?
Cha Richard Leonard S.J.
Thời nay, dường như một số tín hữu vẫn giữ những hình ảnh rất sai lệch về Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa Cha trên trời hay giận dữ, còn Chúa Giêsu dễ mến, đầy yêu thương…! Trong khi các tín điều dạy rằng, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị; Ba ngôi ấy là Một trong công trình tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa. Theo Tin mừng của thánh Gioan, Đức Giêsu đã nói rằng, Người không làm việc một mình (5,30); ‘Tôi và Chúa Cha là một’ (10,30); và ‘ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha’ (14,9). Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu xuống thế để ứng nghiệm Kinh Thánh Cựu ước; họ cũng tin rằng nên giải thích mọi điều trong Kinh Thánh Cựu ước dưới lăng kính mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
Điều này rất quan trọng khi ta muốn hiểu ý nghĩa của dịch bệnh và các thảm họa thiên nhiên khác. Đối với các dân tộc cổ đại, nếu có lũ lụt, dịch bệnh, thì Thiên Chúa như muốn nói điều gì đó ngang qua những sự kiện ấy. Nhưng trong các Tin mừng, Chúa Giêsu không bao giờ tạo ra một bệnh dịch, một thảm họa thiên nhiên hay biến ai đó thành cột muối như bà vợ ông Lót xưa. Nếu Đức Giê su không đi vào cuộc khổ nạn, hay, nếu ta không đón nhận lời tiên báo của Người về cái chết ấy, thì Thiên Chúa thật sự là Cha ư? Đức Giêsu xuống thế để uốn nắn những quan niệm sai lầm về cách thức Thiên Chúa hoạt động trong thế giới này.
Thế nên, cho dù nguồn gốc của Covid-19 vẫn chưa được xác định, nhưng đại dịch này cho ta một lời giải thích tự nhiên, và cách thức vi-rút lây lan khủng khiếp đến giờ là hệ quả của những quyết định yếu kém của con người. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không hề đưa đại dịch đến với nhân loại.
Bất cứ khi nào có một thảm họa, dù lớn hay nhỏ, dù là trận hỏa hoạn thiêu rụi mái nhà thờ Đức Bà Paris, hay sự lây lan của đại dịch AIDS, thì sẽ luôn có một số tín hữu cho rằng những điều ấy là do Thiên Chúa trừng phạt vì tội lỗi của con người thời nay. Có lẽ điều này cho thấy niềm tin vào Thiên Chúa như một nhân vật “siêu quyền lực” cai quản vũ hoàn, “một giám đốc điều hành” có thể chịu đựng những hành vi xấu xa ở một mức độ nào đó. Nhưng khi mất kiên nhẫn, ông ấy chấm dứt những điều vô nghĩa, và gởi một trận sóng thần hay một trận đại dịch đến để nhắc nhở ta rằng ai mới là ông chủ thực sự. Trong vai một tên bạo chúa, Người quả là lời lý giải đáng sợ cho những nỗi đau đớn khôn nguôi trong cuộc đời này: những đau khổ của ta phải đến từ một nơi nào đó, và dường như một số người rất dễ dàng tìm thấy lời giải thích trực tiếp từ Thiên Chúa.
Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa việc Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra trong thế giới này, và chuyện Người gây ra những sự ấy. Giáo Hội dạy rằng, điều đầu tiên là chính xác, nhưng điều thứ hai thực sự sai lầm mặc dù khi nghe một số tín hữu nói về đại dịch Covid-19, ta dễ dàng bỏ qua vì nghĩ rằng nó đúng. Bởi Thiên Chúa muốn ta được hoàn toàn tự do, ta có khả năng chọn điều dữ; nếu ngược lại, ta cũng chỉ như những con rối. Đây chính là một thế giới khác xa với việc Thiên Chúa trực tiếp gây ra đau khổ và hủy diệt.
Ta hiểu rằng con người trưởng thành hơn qua những khó khăn, đau khổ nhưng điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đã gởi những điều ấy đến như một thử thách. Đúng
hơn, sự trưởng thành minh chứng cho ta rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với ta qua từng giây phút. Người thôi thúc ta liên đới với anh chị em của cùng một Cha trên trời. Thế nên, ta cùng nhau đưa ra quyết định tốt nhất trong bóng tối của sự chết và thũng lũng của nước mắt, khổ sầu.
Thiên Chúa không gửi bệnh dịch đến để dạy ta về điều gì đó cho dù chúng cho ta nhiều bài học. Ta đang học được rất nhiều về mối tương quan mong manh của ta với trật tự tạo dựng và hệ lụy từ những lựa chọn sai lầm ở nơi này có thể gây ra những hậu quả tai hại cho những nơi khác. Ta cũng học được rằng cách ứng phó tốt nhất với những thiên tai, với những tình trạng khẩn cấp về sức khỏe là tính minh bạch, một nhà nước vì dân, những báo cáo trung thực, sự khéo léo của con người, trách nhiệm của công dân, và sự quý trọng lợi ích chung… Ta cũng học được sự phi thường nơi những con người bình thường khi đối diện với bị kịch, khổ đau.
Làm sao tôi có thể tin chắc rằng Thiên Chúa hằng sống? Người không bao giờ chết? Bởi vì Thiên Chúa được tỏ bày trong Đức Giê su Ki tô không phải như một tên bạo chúa, mà là một Đấng đầy tình yêu. Đó là một Thiên Chúa đã sẵn sàng dấn thân vào bất cứ con đường nào kể cả từ bỏ mạng sống mình trên Thập Giá. Đoạn thư của thánh Gioan Tông đồ chép rằng, “Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào.” (1 Ga 1,5). Nếu đó là sự thật, thì bệnh dịch hay đại dịch không thể là bản án của một Thiên Chúa đầy giận dữ vì tính ích kỉ và thói tham lam của ta được.
Sự tỉnh thức thiêng liêng trong những ngày khó khăn của đại dịch hệ tại ở điều này: trong mọi phút giây của ngày sống Thiên Chúa thực hiện những gì Người đã làm vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh – Người không can thiệp để ngăn người ta giết Chúa Giêsu, nhưng không để sự dữ và tuyệt vọng có tiếng nói cuối cùng. Sức mạnh tuyệt vời của ân sủng cho phép ta tận dụng cơ hội, ngay cả trong những tình cảnh tồi tệ nhất, để giúp đỡ nhau bằng mọi cách có thể, và để cho ánh sáng và cuộc sống có tiếng nói cuối cùng. Chúa Nhật Phục sinh là lời đáp trả của Thiên Chúa dành cho Thứ Sáu Tuần Thánh: sự sống thoát ách sự chết.
Cha Richard Leonard S.J.
Lyeur Nguyễn lược dịch
From: Langthangchieutim
THIÊN ĐÀNG VÀ HOẢ NGỤC
THIÊN ĐÀNG VÀ HOẢ NGỤC
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Con người sống ở đời luôn luôn phải lựa chọn. Làm thế nào để khôn ngoan chọn lựa cho mình những điều tốt đẹp và hạnh phúc lâu dài. Bối cảnh xã hội, cùng với những nguyên nhân, chủ quan và khách quan, nhiều khi làm cho người ta lầm lạc. Có những khi tưởng là chắc chắn vững bền mà thực ra chỉ là đuổi mồi bắt bóng. Đối với người tin Chúa, cuộc sống luôn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và thế gian, giữa Thiên đàng và hoả ngục. Vì con đường hạnh phúc là con đường hẹp, còn con đường hư hỏng lại rộng rãi thênh thang, nên sự chọn lựa này nhiều khi rất cam go, khiến chúng ta phải hy sinh mất mát vật chất cũng như tình cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay như một tổng hợp nhiều bài học giáo huấn trong một đoạn văn ngắn. Tác giả Luca chắc hẳn đã thu góp sưu tập những lời giảng dạy của Chúa, rồi đặt chúng bên cạnh nhau theo một lối hành văn cô đọng có chủ ý gửi gắm những thông điệp cụ thể.
Trước hết, Chúa Giêsu dạy chúng ta về tình liên đới hài hoà để chống lại sự ghen tị chia rẽ. Đây cũng là giáo huấn mà chúng ta đã nghe trong Lời Chúa Chúa Nhật trước. Tông đồ Gioan khó chịu khi thấy những người khác nhân danh Đức Giêsu mà trừ quỷ. Lập luận của ông thuần tuý trần tục, với tư tưởng phe cánh: ai không cùng nhóm với các môn đệ Thày thì không thể nhân danh Thày. Gioan cũng như một số môn đệ khác tự cho mình là được ưu tuyển, là chính danh, để coi thường những người khác và muốn phủ nhận những điều tốt lành họ đang làm. Chúa Giêsu không quan niệm như thế. Người khẳng định: Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta. Sự ganh tị cũng được nhắc tới trong Bài đọc I. Ông Giosuê, người sau này sẽ trở thành thủ lãnh kế vị ông Môisen, cũng ghen tương với những người khác và không chấp nhận cho họ nói tiên tri, trong khi chính Chúa ban cho họ khả năng ấy. Điều đó cho thấy sự nhỏ nhen của của người. Họ muốn giành quyền Thiên Chúa để phán xét theo cái nhìn thiển cận và ghen tương của mình. Chúa dạy chúng ta hãy có cái nhìn công bằng hơn. Bất cứ ai làm điều tốt, dù họ thuộc về phe phái chính trị hoặc về tôn giáo nào, đều đáng trân trọng. Thiên Chúa là nguồn gốc của Chân, Thiện, Mỹ, nên những ai làm những thiện hảo và tốt đẹp đều đang hướng về Chúa, và mặc dù không ý thức điều đó, họ vẫn đang diễn tả vẻ đẹp và sự tốt lành của Ngài.
Từ khái niệm hài hoà yêu thương, Đức Giêsu nhắc đến tình liên đới của những ai muốn làm môn đệ Chúa. Hình ảnh một chén nước lã quá đơn giản, mà khi được trao tặng với tư cách là môn đệ của Chúa, sẽ mang lại những lợi ích lớn lao. Trong bài giảng về ngày phán xét chung (x. Mt 25,31-46), Chúa Giêsu còn nhắc tới giáo huấn này. Hơn nữa, Người còn đồng hoá mình với những người bé mọn, cô thế cô thân và bất hạnh đau khổ.
Chọn lựa Thiên đàng chính là chọn lựa tình liên đới và yêu thương. Hoả ngục là nơi dành cho những người ghen ghét hận thù. Lời giáo huấn của thánh Giacôbê mang âm hưởng của vị Thẩm phán trong ngày cánh chung. Tác giả nghiêm khắc khiển trách những người giàu, vì họ chỉ lo tích trữ của cải mà vô cảm với những người nghèo xung quanh. Một cách đặc biệt, thánh Giacôbê lên án những người làm giàu bất chính, thu lợi từ những hành vi gian lận của người nghèo. Họ sẽ phải nhận được hậu quả do những việc ác họ đã làm.
Sống ở đời, con người không phải là những ốc đảo riêng rẽ cô đơn, nhưng liên đới với nhau trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ. Mỗi hành vi cử chỉ không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân, mà còn liên luỵ hoặc làm dịp cho người khác vấp phạm. Đối với Chúa Giêsu, những người làm gương xấu thật đáng lên án, đến nỗi thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển. Điều đó có nghĩa những việc xấu gây nên những hậu quả vô cùng tai hại cho những người xung quanh, nhất là đối với những người đơn sơ và trẻ em.
Như đã nói ở trên, cuộc sống là sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, cái thiện và cái ác, sự thánh thiện và tội lỗi, Thiên đàng và hoả ngục. Chân, tay, mắt là ba phương tiện chính yếu để thực thi mối tương giao với người khác. Vì vậy, cần phải có con mắt trong sáng, và phải có những hành vi thiện lành. Chắc chắn Chúa không đòi chúng ta phải chặt chân, chặt tay hay móc mắt, nhưng Chúa muốn chúng ta dành cho Chúa một tình yêu ưu tiên, vượt lên trên mọi tình cảm và quyền lợi trần gian, nhờ đó chúng ta sẽ đạt được gia nghiệp vĩnh cửu Chúa dành cho ai trọn tình yêu mến Ngài.
Một tác giả đã viết: Người quân tử khắt khe với bản thân và rộng rãi với người khác. Ý tưởng này được nhấn mạnh trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Cách nói tạo hình ảnh gây ấn tượng như chặt chân, chặt tay, móc mắt… diễn tả sự chọn lựa cương quyết giữa hạnh phúc đời này với hạnh phúc đời sau, giữa sự thanh thỏa nội tâm với những bổng lộc trần thế. Đây cũng là cách khẳng định mạnh mẽ về sự dứt khoát từ bỏ những nguyên nhân gây nên tội ác, để trung tín với Đấng đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tương lai của chúng ta là Thiên đàng hay hoả ngục? Đó là kết quả do sự lựa chọn của chúng ta.
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org
From: Langthangchieutim
Chúa ơi, Chúa gọi con sao? – Cha Phạm Quang Hồng
httpv://www.youtube.com/watch?v=fBSgDCgT26o
Chúa ơi, Chúa gọi con sao? – Cha Phạm Quang Hồng
MỘT THẤT BẠI TUYỆT VỜI
MỘT THẤT BẠI TUYỆT VỜI
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Đâu là sự công bằng trong đời sống? Vì sao một số người diễm phúc dường như không xứng đáng trong thế giới này, trong khi một số người khác lại như bị nguyền rủa? Vì sao mưu mẹo, tham vọng ích kỷ, lợi dụng người khác, lưu manh lại thường được đền thưởng? Các câu hỏi này không có câu trả lời nhanh được.
Trong quyển sách Thất bại Tuyệt vời (The Magnificent Defeat), tiểu thuyết gia và nhà thuyết giảng nổi tiếng Frederick Buechner đưa ra câu hỏi này và tập trung vào ông Gia-cóp, nhân vật của Thánh Kinh. Như chúng ta biết, ông đánh lừa anh Ê-xau hai lần. Thừa lúc anh mình đói và yếu, ông mua quyền trưởng nam của anh mình với giá một bữa ăn. Còn nặng hơn, ông đóng giả Ê-xau, lừa cha và đánh cắp lời chúc phúc và quyền thừa kế của Ê-xau. Tất cả các chuyện này là sai và phải bị trả lẽ, nhưng cuộc đời của ông Gia-cóp dường như ngược lại. Ngược với người anh bị lừa, Gia-cóp có một đời sống sung túc, được Chúa và những người khác yêu mến. Đâu là bài học? Chúa của sự sống thật sự có đứng về phía người làm những chuyện này không?
Tác giả Buechner xây dựng câu trả lời của mình bằng cách chuyển từ thực dụng và tầm ngắn hạn qua thiêng liêng và tầm dài hạn.
Đầu tiên, từ quan điểm thực dụng, câu chuyện của ông Gia-cóp dạy cho chúng ta bài học của riêng mình, biết rằng trong đời sống thực tế, những người như ông Gia-cóp là những người thông minh, xảo quyệt, và tham vọng thường là những người được thưởng theo cách mà những người chậm chạp như ông Ê-xau thường không được. Rõ ràng đây không phải như Bài giảng Trên núi, các lời dạy khác của Sách Thánh, kể cả một số lời dạy khác của Chúa Giêsu, luôn thử thách chúng ta phải thông minh, làm việc cực nhọc và đôi khi phải mưu mô. Chúa không nhất thiết phải giúp đỡ những người tự giúp mình, nhưng Chúa và cuộc sống dường như thưởng cho những người dùng tài năng của mình. Nhưng có một con đường đạo đức tốt ở đây và Buechner mô tả một cách xuất sắc.
Tác giả hỏi: khi ai đó làm những gì ông Gia-cóp làm và mang lại cho họ giàu có trong cuộc sống này, thì hệ quả đạo đức ở đâu? Câu trả lời đến từ Gia-cóp nhiều năm sau đó. Một đêm nọ, khi Gia-cóp ở một mình, có một người lạ nhảy vào, cuối cùng hai người lặng lẽ vật lộn nhau suốt đêm. Ngay khi bình minh ló dạng và dường như Gia-cóp sẽ thắng, mọi thứ đột nhiên đảo ngược. Với một sức mạnh ưu thế, dường như cố kiềm giữ cho đến lúc đó, người lạ mặt chạm vào khớp xương hông của ông làm cho ông bất động. Một cái gì đó biến đổi sâu đậm nơi Gia-cóp, ông cảm nhận mình bất lực. Cuối cùng bây giờ ông biết ông bị đánh bại, ông không còn muốn thoát khỏi sự kiềm kẹp của người lạ, thay vào đó ông bám vào kẻ thù của mình như người chết đuối. Vì sao?
Đây là lời giải thích của Buechner: “Bóng tối đã mờ đi vừa đủ để lần đầu tiên ông có thể lờ mờ thấy đối thủ của mình. Và những gì ông thấy còn khủng khiếp hơn khuôn mặt của tử thần – đó là khuôn mặt của tình yêu. Bao la và mạnh mẽ, bị hủy hoại một nửa vì đau khổ và niềm vui dữ dội, khuôn mặt của người chạy trốn tất cả bóng tối của đời mình để cuối cùng thốt lên: “Tôi không để ngài ra đi, trừ khi ngài chúc phúc cho tôi!” Không phải lời chúc mà bây giờ ông có thể có bằng sức mạnh của mưu mẹo hay sức mạnh của ý chí, nhưng lời chúc ông chỉ có thể có như món quà.”
Có cả một linh đạo ở đây. Lời chúc phúc mà chúng ta mãi chiến đấu chỉ có thể đến với chúng ta như một món quà, chứ không phải là cái gì chúng ta có thể giành lấy nhờ tài năng, mưu mô hay sức mạnh của mình. Nhờ trí óc và mưu mô, ông Gia-cóp trở thành người giàu có được ngưỡng mộ ở thế gian này. Nhưng trong cuộc chiến để có tất cả sự giàu có này, ông đã vật lộn với một lực mà trong vô thức ông xem đó là một người hay một cái gì ông phải vượt lên. Cuối cùng, sau nhiều năm chiến đấu, ông thức tỉnh. Ánh sáng chợt lóe lên, qua thất bại của sự què quặt. Và trong ánh sáng của sự thất bại này, cuối cùng ông thấy trong những gì ông đã đấu tranh trong suốt thời gian này không phải là một ai đó hay một cái gì mà ông phải vượt qua, mà là tình yêu mà ông đã hết sức vật lộn để đạt được và đi tới đàng trước.
Với nhiều người trong chúng ta, đây cũng là sự thức tỉnh thực sự trong cuộc sống, ý thức được trong tham vọng và trong tất cả các kế hoạch mà chúng ta đưa ra để tiến lên, chúng ta không chiến đấu với một ai đó hay một cái gì để vượt lên bằng sức mạnh và trí thông minh của mình; chúng ta chiến đấu với cộng đồng của mình, với tình yêu và với Chúa. Và chắc chắn nó sẽ đánh bại sức mạnh của chính chúng ta (bị đi khập khiễng mãi mãi) trước khi nhận ra những gì chúng ta đang chiến đấu. Và rồi chúng ta sẽ từ bỏ nỗ lực giành chiến thắng, thay vào đó là bám víu như người chết đuối vào khuôn mặt của tình yêu, xin được chúc phúc, một sự chúc phúc mà chúng ta chỉ có thể nhận như món quà.
Tin rằng phúc lành của chúng ta đến từ chiến thắng, chúng ta cố gắng chiến đấu để cuộc sống của mình xa cuộc sống người khác, cho đến một ngày, nếu chúng ta có đủ may mắn để bị đánh bại, chúng ta bắt đầu cầu xin người khác giữ lấy chúng ta.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
From: Langthangchieutim
THÁNH MATTHÊU TÔNG ĐỒ THÁNH SỬ
THÁNH MATTHÊU TÔNG ĐỒ THÁNH SỬ
Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý
Ít có ai chuộng người thu thuế. Vào thế kỷ thứ I tại Palestine điều này còn rõ hơn nữa, khi mà họ thủ lợi được nhờ dọa dẫm và gian dối. Nhưng dù có lương thiện đi nữa nhân viên thu thuế cũng không được cấp lãnh đạo Do thái chấp nhận vì họ làm việc cho lương dân. Họ là người nhơ uế theo luật pháp và bị loại khỏi xã hội. Khi nhận một người thu thuế vào môn đồ của Người, Chúa Giêsu quả đã khinh thường tiên kiến của dân chúng.
Điều cần ghi nhận là Matthêô không phải đi từ cửa nhà này tới cửa nhà khác để thu thuế. Ông có một văn phòng tại Capharnaum, thành phố quê hương của Phêrô và đại bản doanh của Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ tại Galilê.
“Đi ngang qua, Ngài thấy Lêvi con của Alphê ngồi nơi sở thu thuế và Ngài nói: ‘Hãy theo Ta’ và ông đứng dậy đi theo Ngài” (Mc 2,14).
Đó là lời mời gọi làm tông đồ, rất giống lời gọi dành cho Simon và Anrê (Mc 1,16t). Dầu vậy Lêvi không có tên trong danh sách mười hai (Mc 3,16; Mt 10,3; Lc 6,14t; Cv 113). Ơn gọi người thu thuế được ghi lại trong Tin Mừng thứ nhất, trong đó ông được gọi là Matthêô (Mt 9,9t). Như vậy tông đồ đồng hoá mình với Mathêô có trong danh sách các tông đồ. Lời giải thích tự nhiên được tiếp nhận rộng rãi là Matthêô với Lêvi chỉ là một người với hai tên gọi khác nhau. (Chẳng hạn anh em Macabê, 1Mcb 2, 2-5). Cũng có thể chính Chúa Giêsu đã đặt tên cho Matthêô như đã đặt tên Phêrô cho Simon (Mattai theo tiếng Aramêô có nghĩa là ấn bản của Thiên Chúa).
Từ đó Matthêô bỏ sổ sách và học theo hoa đồng và chim trời, những thứ không thể tính toán cho đời sống mình (Mt 6, 25t). Chủ nhân của ông không còn là Antipas, con cáo gian xảo (Lc 13,32) mà là một Đấng khác hẳn loài cáo, lại chẳng có lấy một căn nhà (Mt 8,20). Sự thay đổi đã hủy diệt trọn tương lai trần gian của Matthêô. Simon và Andrê còn có thể trở lại với nghề chài lưới, còn Matthêô bị tống khứ khỏi nghề cũ và không thể trở lại được nữa. Trong cộng đoàn tông đồ không phải ông mà là Giuda giữ quỹ của nhóm (Ga 13, 29).
Sau khi được gọi, Matthêô biến dạng khỏi Tân ước và chỉ còn để lại tên trong danh sách các vị tông đồ. Ngài đã ra thế nào? Chúng ta có được một câu văn của giám mục Papias trong cuốn giải thích Lời Chúa (khoảng năm 125): “Matthêô viết một tường thuật có thứ tự về lời Chúa, theo năng khiếu của Ngài” (Eusebiô lịch sử Giáo hội III, 39). Cuốn Tin Mừng Matthêô viết bằng tiếng Aramêô cho người Do thái trở lại. Khi thời thế đòi hỏi, con người Matthêô bị xã hội loại bỏ ấy đã cầm lấy viết để trước tác cuốn “Tin Mừng theo thánh Matthêô.”
Theo bản văn tiếng Hy lạp còn lại, chúng ta thấy tính khí theo toán học với những con số rõ rệt: 7 dụ ngôn về nước trời, 7 lời nguyền rủa bọn biệt phái, 7 lời cầu trong kinh Lạy Cha, và có lẽ 7 mối phúc thật. Cả con số 5 nữa: 5 cuộc tranh luận với biệt phái, 5 chiếc bánh, 5 lượng vàng, nhất là 5 phần của cuốn sách. Sau cùng như chúng ta mong đợi có dấu chỉ về sự hiểu biết tinh tường về phương diện tài chánh như đồng bạc nộp thuế thay vì đồng “denarius” trong Mác-cô và Luca hay như thuế đền thờ, với những loại thuế gián thu, thuế phân…
Như vậy Matthêô đã chuyển nghề nghiệp cũ vào một việc phụng sự mới, từ người kế toán thành người viết Tin Mừng. Thật không ngạc nhiên gì khi một mình Ngài ghi lại lời này của Chúa: “Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về nước Trời thì cũng giống như gia chủ biết rút từ trong kho của ông ra điều mới và điều cũ” (Mt 13, 52).
Không có khí cụ hèn hạ nào của chúng ta mà lại không được dùng một cách hoàn hảo và xứng đáng vào việc phụng sự Chúa.
Cuốn Tin Mừng thứ nhất là một kỷ vật của thánh Matthêô được Giáo hội ưa chuộng. Nhưng công cuộc tông đồ sau này của Ngài lại bị mai một. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho người Do thái tại Palestina có lẽ trong 15 năm (Eusebiô, Lịch sử Giáo hội III, 24, 265) nhưng sự lầm lẫn giữa tên Ngài với thánh Matthias (Cv 1,26) làm chúng ta luõng lự giữa những truyền thống khác nhau. Ethiopia, Parthia, Macedonia và cả những xứ của những kẻ ăn thịt người đều được ghi nhận là nơi thánh nhân đã làm việc tông đồ.
Thường người ta cho rằng: Ngài chịu tử đạo, nhưng ý kiến cũng không được đồng nhất. Điều chắc chắn là Ngài đã sống đời của một vị tử đạo và thế là đủ. Đối với chúng ta Ngài luôn luôn là một người đã biết được tiền của là gì, lẫn việc không có tiền của là gì.
Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý
From: Langthangchieutim
ĐỜI THÌ ĐẸP NHƯNG NGƯỜI CHƠI KHÔNG ĐẸP – Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy
httpv://www.youtube.com/watch?v=ZDrqvozj3TM
ĐỜI THÌ ĐẸP NHƯNG NGƯỜI CHƠI KHÔNG ĐẸP | Bài Giảng Để Đời Của Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy
CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU
CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU
J.B Lê Đình Nam
Đối với người đời, hình ảnh thập giá là một điều gì đó đau đớn tột cùng và một sự thất bại thê thảm. Tuy nhiên, với người Công giáo thì khác, thập giá là biểu tượng của hy sinh, của tình yêu và vinh quang.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy tôn Thánh giá, tức là chiêm ngắm tình yêu tự hủy của Thiên Chúa dành trọn cho con người. Chính nơi thập giá ấy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và cánh cửa trong thân phận làm con Thiên Chúa được rộng mở.
Chúa Giêsu đã không chỉ tự hạ mình để đến với nhân loại trong thân phận con người. Nhưng hơn thế nữa, Ngài đã tự hiến thân mình trên cây thập giá để tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn đổ trên con người.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự ô nhục và thất bại thì ngang qua cái chết của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và đem lại vinh quang cho con người bằng một tình yêu vô vị lợi.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự đau khổ và vô cảm, thì ngang qua sự hiến thân của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự hòa giải và tình liên đới với Thiên Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ.
Thay vì thập giá là biểu tượng của sự hận thù và chết chóc, thì ngang qua việc hy sinh mạng sống của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của một Đức tin tinh tuyền và một tình yêu son sắt mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại.
Thật thế, mỗi một người Công giáo luôn xác tín rằng, thập giá không phải là một kết thúc, nhưng là một sự bắt đầu. Thập giá không phải là sự yếu đuối nhưng là sức mạnh của tình yêu đến nỗi thí mạng sống cho người mình yêu. Và thập giá không phải là sự chết, nhưng hơn thế đó chính là sự sống mới của con người trong tư cách làm con Thiên Chúa.
Suy tôn Thánh giá là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa – Người là cội nguồn của tình yêu. Đây cũng là giây phút thiết thực để mỗi chúng ta nhìn lại hành trình sống chứng nhân tình yêu của mình đối với Chúa và tha nhân.
Trong một thế giới đang mải mê tìm kiếm vật chất như hôm nay, tình yêu dường như đang trở nên khan hiếm và rẻ mạt. Khi mà mọi thứ xung quanh đang được cung cấp một cách đầy đủ và tiện nghi hơn, thì xem ra tình yêu lại đang bị thiếu hụt và xem thường một cách trầm trọng.
Tình người đang được cân đong đo đếm bằng những lợi lộc vật chất và địa vị. Tình yêu nam nữ đang được xây dựng trên trên những quy chuẩn của tiền tài và dục vọng. Do đó, sự khủng hoảng đời sống gia đình đang trở nên báo động hơn bao giờ hết. Sự thờ ơ vô cảm trở nên lối sống chung của con người thời hiện đại. Và xã hội trở nên như một chiến trường của sự tranh giành, đấu đá và chỉ biết nghĩ cho riêng mình.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những đổ vỡ đó chính là sự thiếu vắng tình yêu. Và cốt lõi của đó chính là sự đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa – Đấng đầy tình yêu thương.
Lễ Suy tôn Thánh giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Một tình yêu tự hạ để đến và sẻ chia với thân phận con người. Một tình yêu tự nguyện để đồng hành và thấu hiểu nỗi thống khổ của phận người. Một tình yêu tự hiến để hàn gắn tình nghĩa phụ tử của Thiên Chúa với con người.
Suy tôn Thánh giá không chỉ dừng lại ở việc nhận ra tình yêu hải hà của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta sống tình yêu đó một cách triệt để và cụ thể nơi cuộc sống hằng ngày. Để ngang qua đời sống chứng nhân đó, hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và giàu lòng thương xót đến được với nhân loại đang quặn mình trong đau khổ và tội lỗi.
Dẫu biết rằng dòng đời vẫn còn đó lắm vất vả gian truân, nhưng sẽ đẹp biết mấy nếu mỗi chúng ta biết dành tình thương cho nhau. Xã hội sẽ trở nên giá trị và bình yên hơn nếu mỗi chúng ta biết tôn trọng phẩm giá con người bằng tình liên đới và sẻ chia trong cuộc sống. Và tất cả điều đó sẽ được bắt đầu khi mỗi chúng ta biết nhìn lên Thập giá Đức Kitô, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa và thực hành tình yêu đó mỗi ngày trong đời.
J.B Lê Đình Nam
From: Langthangchieutim
BÍ ẨN VỀ THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC – Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy
httpv://www.youtube.com/watch?v=nYrpUGwQBtA
BÍ ẨN VỀ THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC – Lm Matthew Nguyễn Khắc Hy
CỨU RỖI CÁC LINH HỒN
CỨU RỖI CÁC LINH HỒN
“Ai vả con má bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho, và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại!”.
Cuối thế kỷ 18, Adoniram Judson đi truyền giáo ở Miến Điện; suốt 40 năm, Judson vùi mình ở đó, dịch Thánh Kinh ra tiếng Miến. Trong nhật ký của Judson, người ta đọc được những lời này, “Suốt 18 năm, tôi không có một ngày nghỉ; 6 năm đầu, không một người trở lại. Bù vào đó là giam cầm, tra tấn! Chưa bao giờ nhìn thấy một con tàu nào ra khơi mà tôi không muốn nhảy lên để về nhà! Nhưng lạy Chúa, cuộc sống thật ngắn ngủi. Hàng triệu người Miến đang diệt vong. Con gần như là người duy nhất trên trái đất biết tiếng của họ, để rao truyền một Tin Mừng ‘cứu rỗi các linh hồn!’.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay xem ra cũng trăn trở ‘cái trăn trở’ của Judson. Các giá trị Tin Mừng Chúa Giêsu đề cập xem ra cũng đang dấy lên ‘một trăn trở’; đúng hơn, một cuộc ‘cách mạng’, hay ít nữa, một ‘cuộc nội chiến’ vốn sẽ diễn ra trên chiến trường trái tim mỗi người! Với Ngài, dường như có một điều gì đó trong cuộc sống còn quan trọng hơn nhiều, so với nỗi sỉ nhục bị ai đó đánh vào má hay đánh cắp tài sản của mình. Điều quan trọng hơn đó là gì? Phải chăng, là sự ‘cứu rỗi các linh hồn!’.
Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã gây sốc cho các môn đệ đầu tiên và cho cả chúng ta hôm nay. Chưa bao giờ, trong thực tế, lý tưởng tình yêu lại được đặt cao, đòi hỏi một nhân đức anh hùng như vậy! Bởi lẽ, nó khơi dậy một cuộc chiến giữa ‘con người cũ’ và ‘con người mới’ bên trong mỗi người, một ‘con người cũ’ luôn chống lại và không dễ chấp nhận những gì nghịch với lẽ thường. Thế nhưng, ai chấp nhận giáo huấn của Chúa Giêsu, trái tim người ấy sẽ vươn tới một trương độ mới; vói thấu một tầm cao mới, một tầm cao mang dáng dấp ‘Giêsu’. Vậy, câu hỏi đặt ra là, làm sao tôi có thể hoàn toàn chấp nhận những lời dạy mang tính cứu rỗi này, ‘cứu rỗi các linh hồn?’.
Nếu Kitô hữu cứ nằng nặc đòi công lý trần thế và sự trừng phạt của nó, chúng ta sẽ không tập trung vào điều quan trọng nhất, đó là cứu rỗi những người đã làm điều sai trái với mình. Thật dễ dàng để yêu những người tốt với mình; thế nhưng, tình yêu Chúa Kitô lại đòi hỏi chúng ta mở rộng đến mọi người; và đôi khi, yêu thương mà chúng ta trao tặng chính là chấp nhận vô điều kiện những bất công mà người khác gây ra cho mình. Quả là mạnh mẽ trong hành động yêu thương này! Và nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta là ‘cứu rỗi các linh hồn’, cứu đời đời, chúng ta chỉ có thể yêu theo cách này, cách ‘Giêsu yêu!’. Còn nếu tất cả những gì chúng ta muốn là công lý người đời và sự thoả đáng cho những sai trái, thật dễ, chúng ta sẽ đạt được nó; nhưng điều này có thể trả giá đắt, chính sự cứu rỗi của họ. Chúng ta có thể chiến thắng, nhưng họ thì mất linh hồn!
Trong thư Côlôssê hôm nay, thánh Phaolô kêu gọi, “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”, nghĩa là Kitô hữu phải nên giống Ngài; “Trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha”. Những lời Phaolô nói đây, thật phù hợp với tâm tình ngợi khen của Thánh Vịnh đáp ca, “Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng Chúa đi nào!”.
Anh Chị em,
Nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu, chúng ta có tất cả. Thánh giá và cái chết của Con Thiên Chúa mang lại ơn cứu độ đời đời, không chỉ ‘cứu rỗi các linh hồn’ những ai tin nhận Ngài, nhưng còn cứu rỗi cả những người đã đóng đinh Ngài; và ơn cứu độ ấy còn được ban tặng cho toàn thể nhân loại, trong đó có chúng ta. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa thật thâm trầm! Cũng thế, về phía chúng ta. Thiên Chúa biết rằng, một hành động thương xót và tha thứ sâu sắc chúng ta dành cho người khác, đặc biệt với những ai đã gây ra những tổn thương nghiêm trọng cho chúng ta, là một trong những món quà lớn nhất chúng ta có thể tặng trao. Và đó là một trong những hành động mang tính biến đổi lớn nhất mà chúng ta có thể làm trước hết cho chính linh hồn mình; tiếp đến, khi tha thứ cho người khác, hoàn toàn buông bỏ sự bất công, thì hành động yêu thương của chúng ta có một sức mạnh vĩ đại để thay đổi họ. Và nếu hành động yêu thương đó quả đã thay đổi được họ, thì đây sẽ là nguyên nhân đem lại cho chúng ta một niềm vui vĩnh viễn, niềm vui thiên đàng.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, nhờ ân sủng Chúa, xin biến đổi con; nhờ đó, con cũng trở nên công cụ ‘cứu rỗi các linh hồn’, cách riêng cứu rỗi những ai đã xúc phạm con, Giáo Hội của con”, Amen. 
From: KimBang Nguyen
TRÊN ÐƯỜNG VỀ
TRÊN ÐƯỜNG VỀ
Lm. Nguyễn Tầm Thường

Trên đường về với Chúa, tôi đã bao lần cất cánh bay lên, nhưng có mưa phùn làm đôi cánh lạnh giá.
Ðã bao lần tôi muốn đi tới, nhưng lối về có gai góc cản ngăn.
Ðã bao lần muốn giang tay ra, cho đi nhiều hơn, nhưng có nuối tiếc bảo đừng.
Vì thế, trong mơ ước có gian nan. Và, trên đường về với Chúa vẫn là khúc đường xa xăm.
***
Trong cuộc sống, những giấc mơ chưa trọn vẹn là những giấc mơ buồn. Vì không trọn vẹn nên mới buồn. Nhưng đặc tính của những giấc mơ buồn lại thường là những giấc mơ lớn. Vì lớn nên mới khó trọn vẹn. Bởi đó, cái buồn của giấc mơ không trọn vẹn dường như vẫn là cái buồn giá trị, giá trị vì nó mang một hoài bão rất cao.
Cái không trọn vẹn đó thúc bách, mời gọi đi tới. Con đường tình yêu không bao giờ có giới hạn thì giấc mơ tình yêu không bao giờ cùng. Do đấy, sự chưa được trọn vẹn trong ước mơ đi về với Chúa là sự chưa trọn vẹn dễ hiểu trong thân phận làm người của tôi nơi trần thế này. Ðường tình yêu càng dài thì giấc mơ tình yêu càng sâu. Tình yêu càng sâu thì trên đường ấy, tôi cần miệt mài đi mãi.
Trên đường về với Chúa, tôi chỉ hỏi lòng tôi là tôi đã đi xa tới đâu, đã bay cao thế nào. Chứ không thể có câu hỏi tôi đã yêu Chúa trọn vẹn chưa. Từ ngàn xưa, Ngài đã biết hồn tôi là dang dở, những lời thề của tôi là những lời đoan hứa dập gẫy. Bởi đấy, tôi không thể yêu Ngài trọn vẹn nhưng Ngài đòi tôi đi về trọn vẹn.
Trọn vẹn là một mơ ước. Dang dở vì chưa trọn vẹn có chiều sâu của nó là nó làm cho mơ ước tiếp tục còn là ước mơ. Tôi có thể cầu Chúa cho tôi đạt được mọi mơ ước không? Khi đạt được mọi mơ ước rồi thì tôi không còn mơ ước nữa. Không còn mơ ước thì còn gì để mà đi tới, còn gì để mà bay lên. Trong ý nghĩ ấy, đường về với Chúa nếu còn dang dở chỉ là lời gọi tôi đi tới. Mỗi lần sa ngã chỉ là bảo tôi nhìn lên cao. Tôi không thất vọng vì chưa đạt được mơ ước.
Mơ ước đã được rồi là hạnh phúc đã được đóng khung trong một bến bờ. Tôi muốn thứ hạnh phúc vô cùng. Tôi muốn hoài hoài mơ ước. Tôi muốn vào một không gian hạnh phúc mà càng bay cao thì càng bắt gặp trời thênh thang tự do. Càng bắt gặp thì càng si mê, càng si mê thì càng nuôi mộng đi tới nữa. Tôi tin rằng hạnh phúc ấy có thật. Ðó là chính Chúa. Bởi tôi biết, tôi không bao giờ uống cạn được ân sủng của trời cao. Vì thế, tôi không xin cho tôi đạt được điều tôi mơ ước mà chỉ xin cho tôi được mãi mãi, hoài hoài đi về Ngài, sống trung thành với mơ ước đó thôi.
Và vì thế, linh hồn tôi có vì bất toàn mà lầm lỗi, thì đấy chẳng thể là lý do làm tôi thất vọng, xuôi lòng. Trên đường về nhà Cha, nếu vì yếu đuối mà dừng nghỉ. Thì, đường về nhà Cha có xa xăm thật. Xa xăm ấy vẫn là xa xăm có Chúa. Nếu vì sa ngã mà làm cho giấc mơ gian nan. Thì, đường về nhà Cha có gian nan thật, gian nan ấy vẫn là gian nan ấm lòng.
***
Lạy Cha,
Cha cầu xin cho con không thuộc về thế gian, nhưng Cha đã chẳng đem con ra khỏi thế gian.  Ngày nào con còn trong thế gian thì con còn nghe thấy tiếng dỗ dành của những rung cảm đam mê.  Từ trong bào thai của mẹ, con đã là lỗi phạm.  Con có thể vấp ngã vì bóng đêm, nhưng con có thể không thuộc về đêm tối.  Con không thất vọng vì những đám mưa phùn làm con ướt cánh.  Con không ủ dột vì bờ đá chênh vênh giữ chân con đi tới.  Vì con biết, khi Cha dìu con, thì tình trời sẽ sưởi ấm chiều mưa lạnh ảm đạm, và ân sủng sẽ gieo trên gai nhọn.  Khi Cha dìu con thì ước mơ sẽ nên tha thiết, và dù có vất vả cánh ong vẫn bay về được với mật ngọt của hoa.  Khi Cha dìu con thì con có thể trung thành. Khi Cha dìu con thì thánh giá sẽ là sức sống.
Lạy Cha,
Ðấy là mơ ước và cũng là lời cầu nguyện của con trên đường về.
Có giấc mơ nào đẹp mà không phải trả giá bằng thương đau?  Có giấc mơ nào lớn mà không phải trả giá bằng thử thách?  Có thập giá nào lên đồi Golgotha mà không quỵ ngã?  Có chiều nào trong vườn Giệtsimani mà không lo âu rướm máu.  Những áng mây trời chỉ bay trên đỉnh đồi.  Gió lộng chỉ ở ngoài biển khơi.  Tôi phải đi lên. Tôi phải miệt mài bước tới.  Và Ngài đã nói với tôi: “Cha ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28: 20).
Tiếng gọi của trời cao là bảo tôi trung thành với ước mơ. Cho dù lầm lỗi có làm tôi đau khổ vì mất giá trị nhưng chẳng vì thế mà Người chê trái tim tôi nghèo nàn xấu xí. Ðôi cánh con chim sẻ sẽ chẳng bay cao được như con phượng hoàng. Nhưng một ly nước nhỏ mà đầy thì ý nghĩa hơn một ly nước lớn mà vơi.
Dù có yếu đuối cản đường. Dù có lầm lẫn che lối. Dù ngày tôi chết, tôi vẫn chưa leo được tới nửa đồi của thập giá, nhưng nếu tim tôi vẫn hồng lửa ước mơ, hồn tôi vẫn vất vả đi tìm cõi vô biên thì đấy là đường mở lối vào vườn hạnh phúc rồi.
Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một con chiên què mà cứ xiêu vẹo trèo lên. Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một đôi cánh đang lầm than vì gió lạnh, mưa ướt, mang thương tích vì gai rậm mà cứ nhất quyết tìm đường về. Và vì đó, dù trong yếu đuối của tôi, tôi vẫn thấy biển rộng, trong dòng xót thương của Cha, tôi tới đồi cao.
Lm. Nguyễn Tầm Thường
– Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”
From: Langthangchieutim
MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI
MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta. Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu.” Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng. Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô. Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân. Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống. Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.
Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã giấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng. Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, và Mẹ của toàn thể chúng sinh. Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng.” Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.
Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.
Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính… phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại. Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen!
Jos. Vinc. Ngọc Biển
From: Langthangchieutim






