TÔI PHẢI LÀM GÌ?

TÔI PHẢI LÀM GÌ?

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Một bạn trẻ đã đến với Chúa Giêsu và đặt câu hỏi: Thưa Thày, tôi phải làm gì?  Bạn trẻ này là đại diện của số đông những người đang đi kiếm tìm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời.  Quả vậy, cuộc sống là một hành trình liên lỉ kiếm tìm hạnh phúc.  Có điều là quan niệm về hạnh phúc nơi mỗi người lại khác nhau.  Chàng thanh niên trong Tin Mừng được kể là một người đạo hạnh.  Từ thuở nhỏ, anh nghiêm túc tuân giữ những gì Chúa dạy trong luật Môisen: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ.  Anh rất tự tin để khẳng định với Chúa Giêsu về những thực hành đạo đức của mình.  Tuy vậy, Chúa muốn cho anh tiến xa hơn trên con đường trọn lành.  Xem ra Chúa chưa hài lòng về những gì anh đã và đang làm.  Người đặt ra một điều kiện: ai muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mọi sự.  Khi Người yêu cầu người thanh niên bán hết mọi gia sản, tức là Người đòi hỏi anh phải từ bỏ những gì gắn bó, thậm chí từ bỏ chính bản thân để theo Chúa.

Tôi phải làm gì?  Đó cũng là câu hỏi mà chúng ta phải đặt ra thường xuyên, để lượng giá những việc mình đang làm, và mục đích mình đang hướng tới.  Câu hỏi này cũng giúp chúng ta nhìn lại bản thân, để nhận ra sứ vụ mà Chúa muốn mình phải thực hiện trong cuộc sống.  Sống trên đời, mỗi người có một sứ vụ phải hoàn thành.  Tuy vậy, để nhận ra sứ vụ đích thực của cuộc đời là một vấn đề khó khăn.  Có nhiều người long đong lận đận, ôm nhiều ảo mộng, nên đã ở tuổi xế chiều vẫn chưa xác định được sứ mạng cuộc đời của mình.

Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?  Thưa cần có ơn khôn ngoan.  Bài đọc I chỉ cho chúng ta thấy sự cần thiết của ơn khôn ngoan.  Tác giả đã nói đến giá trị của sự khôn ngoan như sau: “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không.  Tôi cũng không so sánh nó với kim cương, vì mọi thứ vàng đem so sánh với nó thì kể như hạt cát nhỏ bé, và bạc đem để trước nó thì kể như đất bùn.”  Theo giáo huấn của Giáo Hội, ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần.  Ơn này giúp chúng ta nhìn rõ bản chất của sự việc hay của một con người, chứ không quan sát theo cảm tính hay theo vẻ hào nhoáng bên ngoài.  Vì những gì bóng bẩy bên ngoài thì hay đánh lừa giác quan.  Giống như cách tiếp thị của dịch vụ quảng cảo trên các phương tiện truyền thông.  Trong số những quảng cáo này, có nhiều sản phẩm là hàng giả hoặc kém chất lượng, nhiều người đã bị lừa và tiền mất tật mang.

Cũng theo giáo huấn của Giáo Hội, sự khôn ngoan đích thực là Thiên Chúa.  Sự khôn ngoan ấy được ngôi vị hoá nơi Ngôi Lời nhập thể là Chúa Giêsu Kitô.  Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Người là Đấng Cứu độ trần gian.  Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống.”  Qua lời tuyên bố này, Người khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Người dẫn tới Chúa Cha, là nguồn mạch của mọi ơn phúc.

Tin vào Đức Giêsu Kitô, đó là bí quyết để đạt được khôn ngoan và cũng đạt được hạnh phúc đời này và đời sau.  Khi nghe Chúa Giêsu so sánh việc vào nước trời khó khăn giống như con lạc đà chui qua lỗ kim, thánh Phêrô đã nói với Chúa: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.”  Lời thánh Phêrô diễn tả mối băn khoăn của ông khi theo Chúa.  Đó cũng là mối băn khoăn của chúng ta: theo Chúa thì được gì?  biết bao nhiêu người không theo Chúa mà cũng hạnh phúc sung sướng.  Chúa hứa với thánh Phêrô và các môn đệ: họ sẽ được gấp trăm những gì họ đã từ bỏ vì Chúa.  Thực tế đã chứng minh: đối với linh mục và tu sĩ, là những người từ bỏ mọi sự trần gian để theo Chúa, Chúa ban cho họ gấp trăm, thậm chí gấp ngàn lần.

Cùng với tác giả Thánh Vịnh 89, chúng ta cầu nguyện: “Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con.”  Giữa thời buổi bất an và tràn ngập những ưu tư lo lắng, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan và nghị lực để chúng ta can đảm chọn lựa Chúa, với xác tín Chúa sẽ thưởng gấp trăm những gì chúng ta dám hy sinh vì Ngài.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

KHI CHÚNG TA HOÀI NGHI SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

KHI CHÚNG TA HOÀI NGHI SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

Chúng ta cần cầu nguyện kể cả khi đó là việc thiếu sức sống nhất để làm.  Đó là lời khuyên của linh mục triết gia Dòng Tên Michael J. Buckley về những gì chúng ta cần thách thức bản thân mỗi ngày.  Khi đối diện với đời sống thực tế, lời cầu nguyện thường là việc thiếu sức sống nhất để làm.  Vậy lời cầu nguyện tạo nên được khác biệt gì?

Tôi sẽ cầu nguyện cho bạn!  Xin nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện!  Chúng ta luôn nói những câu này.  Tôi cho là không ngày nào chúng ta không hứa cầu nguyện cho ai đó.  Tuy nhiên, chúng ta có thật sự tin lời cầu nguyện của chúng ta tạo nên khác biệt không?  Chúng ta thật sự tin lời cầu nguyện của chúng ta có thể chặn đứng được đại dịch, xoa dịu căng thẳng trong cộng đồng, xóa bỏ hàng thế kỷ hiểu lầm giữa các giáo phái, chữa lành căn bệnh nan y, đưa con em chúng ta trở lại với nhà thờ, hay làm cho ai đó tha thứ cho chúng ta không?  Lời cầu nguyện có thể làm gì khi chúng ta bất lực trong một hoàn cảnh nào đó?

Chúa Giêsu nói rằng có những con quỷ chỉ có thể bị xua đuổi nhờ lời cầu nguyện và chay tịnh.  Tôi cho rằng, chúng ta tin câu này theo nghĩa đen như việc trừ quỷ thì dễ hơn là tin lời cầu nguyện có thể xua trừ những con quỷ trần tục như hận thù, bất công, hiểu lầm, chia rẽ, chiến tranh, kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc, định kiến bất dung và những chứng bệnh thể xác cũng như tâm hồn.  Đây là những con quỷ thật sự đang bủa vây cuộc sống chúng ta và dù chúng ta xin Thiên Chúa giúp đỡ trong lời cầu nguyện, nhưng thường chúng ta không mấy tin tưởng lời cầu nguyện của mình sẽ tạo nên khác biệt.  Sao có thể như thế?

Lịch sử lâu dài của Do Thái giáo và Kitô giáo dạy chúng ta, Thiên Chúa không có thói quen can thiệp trực tiếp vào đời sống tự nhiên và đời sống nhân loại, ít nhất không phải theo cách mà chúng ta thấy được.  Các phép lạ có xảy ra, có thể theo hàng triệu cách mà chúng ta không nhận thức được.  Nhưng nếu chúng ta không thể nhìn thấy phép lạ, thì chúng có thật không?

Hiện thực có những phương thức khác.  Có kinh nghiệm và thần nghiệm.  Cả hai đều có thật, dù chúng ta không xem cả hai như nhau về phương diện hành động của Thiên Chúa trong lịch sử.  Nếu một xác chết đội mồ sống lại (Phục sinh), hay nếu cả một dân tộc bước đi khô ráo qua Biển Đỏ (Xuất hành) thì rõ ràng đó là sự can thiệp của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta, nhưng nếu một lãnh đạo thế giới hồi tâm chuyển ý và đột nhiên đồng cảm với người nghèo, làm sao chúng ta biết được điều gì dẫn đến chuyện này?  Với mọi sự chúng ta cầu nguyện cũng vậy.

Điều gì thúc đẩy trí khôn dẫn đến việc tìm ra vắcxin cho đại dịch?  Thuần túy là cơ may sao?  Hay sự can thiệp từ trời cao?  Ta cũng có thể đặt câu hỏi đó với hầu hết mọi điều chúng ta cầu nguyện, từ tình hình thế giới cho đến sức khỏe của mình.  Nguồn nào đem lại hứng khởi, phục hồi sức khỏe, xóa tan cay đắng, biến đổi nhân tâm, giúp đem lại quyết định sáng suốt hay một cơ hội gặp ai đó khiến cả cuộc đời chúng ta tốt đẹp hơn?  Cơ may thuần túy hay ngẫu nhiên tình cờ?  Hay là ơn phúc và sự dẫn dắt của Chúa nhờ lời cầu nguyện, dù là của chính mình hay người khác cầu cho mình?

Tâm điểm của đức tin Kitô giáo là chúng ta đều thuộc về một thân thể nhiệm mầu, Nhiệm thể Chúa Kitô.  Đây không phải là cách nói ẩn dụ.  Cơ thể này là một cơ thể sống, cũng thật như một cơ thể vật chất.  Bên trong cơ thể vật chất, mọi phần đều ảnh hưởng đến nhau, dù tốt hay xấu.  Các enzym (chất xúc tác sinh học) lành mạnh giúp cơ thể duy trì sức khỏe, còn các vi-rút không lành mạnh thì làm suy yếu cả cơ thể.  Nếu đúng là thế, mà đúng là thế thật, thì cái gọi là hành động thật sự cá nhân không tồn tại.  Mọi việc chúng ta làm, dù là trong tư tưởng, có tác động đến người khác, và do đó tư tưởng và hành động của chúng ta hoặc enzym lành mạnh, hoặc vi-rút gây hại cho người khác.  Lời cầu nguyện của chúng ta là enzym lành mạnh tác động đến toàn bộ cơ thể, nhất là đến những người, những sự việc mà chúng ta hướng tới.  Đây là giáo lý đức tin, chứ không phải một ý nghĩ đơn thuần.

Bà Dorothy Day từng có thời không thích Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu, nghĩ rằng tách mình vào một tu viện nhỏ và “con đường thần nghiệm nhỏ” là lòng mộ đạo ngây thơ.  Về sau, khi bà Dorothy dốc sức làm những việc lớn lao cho công lý và hòa bình, nhưng bà thấy dường như chúng không thay đổi được đời sống thực tế bao nhiêu, bà đã nhận thánh Têrêxa làm quan thầy.  Điều mà bà Dorothy Day nhận ra qua kinh nghiệm của mình là những hành động dường như nhỏ bé và vô ích về mặt thực dụng cho công lý và hòa bình, lại không vô ích chút nào.  Dù nhỏ, nhưng chúng đã giúp mở ra một không gian, mới đầu thì nhỏ, nhưng dần dần mở rộng thành một thứ lớn hơn và có tác động hơn.  Khi đưa một vài enzym bé xíu vào cơ thể của thế giới, cuối cùng Dorothy Day đã giúp thế giới lành mạnh hơn một chút.

Lời cầu nguyện là một chất kháng sinh kín đáo khó thấy, có khi dường như vô dụng, nhưng lại thật sự cần thiết.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

BÁNH VÀ NƯỚC

BÁNH VÀ NƯỚC

 Lm Mark Link

Chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ người khác chứ không phải để được người khác phục vụ.”

Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: “CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người.”  Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.

Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài.”  Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo.  Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ.  Trong cuốn sách nhan đề “Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời” (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu.  Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa.

 William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: “Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp.  Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.

Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình?  Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn?  Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?

Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình.  Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: “Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm,” để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.

Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.

Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình.  Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:

Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu.  Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé.  Con nghe rõ chưa?”  Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu.  Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.

 Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời.  Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu.  Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao!  Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã.  Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.

 Allan Peterson, tác giả câu chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: Người bố chờ cho bầu khí căng thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…” Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu đang làm.  Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối của riêng cậu….  Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và nói: Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!

 Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; “Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người.”  Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu.  Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.

Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm việc của ta.  Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.

Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo.  Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình.  Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã.  Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán:

“Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người.”

Lm Mark Link

TÔI PHẢI LÀM GÌ?

TÔI PHẢI LÀM GÌ?  

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Một bạn trẻ đã đến với Chúa Giêsu và đặt câu hỏi: Thưa Thày, tôi phải làm gì?  Bạn trẻ này là đại diện của số đông những người đang đi kiếm tìm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời.  Quả vậy, cuộc sống là một hành trình liên lỉ kiếm tìm hạnh phúc.  Có điều là quan niệm về hạnh phúc nơi mỗi người lại khác nhau.  Chàng thanh niên trong Tin Mừng được kể là một người đạo hạnh.  Từ thuở nhỏ, anh nghiêm túc tuân giữ những gì Chúa dạy trong luật Môisen: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ.  Anh rất tự tin để khẳng định với Chúa Giêsu về những thực hành đạo đức của mình.  Tuy vậy, Chúa muốn cho anh tiến xa hơn trên con đường trọn lành.  Xem ra Chúa chưa hài lòng về những gì anh đã và đang làm.  Người đặt ra một điều kiện: ai muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mọi sự.  Khi Người yêu cầu người thanh niên bán hết mọi gia sản, tức là Người đòi hỏi anh phải từ bỏ những gì gắn bó, thậm chí từ bỏ chính bản thân để theo Chúa.

Tôi phải làm gì?  Đó cũng là câu hỏi mà chúng ta phải đặt ra thường xuyên, để lượng giá những việc mình đang làm, và mục đích mình đang hướng tới.  Câu hỏi này cũng giúp chúng ta nhìn lại bản thân, để nhận ra sứ vụ mà Chúa muốn mình phải thực hiện trong cuộc sống.  Sống trên đời, mỗi người có một sứ vụ phải hoàn thành.  Tuy vậy, để nhận ra sứ vụ đích thực của cuộc đời là một vấn đề khó khăn.  Có nhiều người long đong lận đận, ôm nhiều ảo mộng, nên đã ở tuổi xế chiều vẫn chưa xác định được sứ mạng cuộc đời của mình.

Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?  Thưa cần có ơn khôn ngoan.  Bài đọc I chỉ cho chúng ta thấy sự cần thiết của ơn khôn ngoan.  Tác giả đã nói đến giá trị của sự khôn ngoan như sau: “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không.  Tôi cũng không so sánh nó với kim cương, vì mọi thứ vàng đem so sánh với nó thì kể như hạt cát nhỏ bé, và bạc đem để trước nó thì kể như đất bùn.”  Theo giáo huấn của Giáo Hội, ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần.  Ơn này giúp chúng ta nhìn rõ bản chất của sự việc hay của một con người, chứ không quan sát theo cảm tính hay theo vẻ hào nhoáng bên ngoài.  Vì những gì bóng bẩy bên ngoài thì hay đánh lừa giác quan.  Giống như cách tiếp thị của dịch vụ quảng cảo trên các phương tiện truyền thông.  Trong số những quảng cáo này, có nhiều sản phẩm là hàng giả hoặc kém chất lượng, nhiều người đã bị lừa và tiền mất tật mang.

Cũng theo giáo huấn của Giáo Hội, sự khôn ngoan đích thực là Thiên Chúa.  Sự khôn ngoan ấy được ngôi vị hoá nơi Ngôi Lời nhập thể là Chúa Giêsu Kitô.  Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Người là Đấng Cứu độ trần gian.  Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống.”  Qua lời tuyên bố này, Người khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Người dẫn tới Chúa Cha, là nguồn mạch của mọi ơn phúc.

Tin vào Đức Giêsu Kitô, đó là bí quyết để đạt được khôn ngoan và cũng đạt được hạnh phúc đời này và đời sau.  Khi nghe Chúa Giêsu so sánh việc vào nước trời khó khăn giống như con lạc đà chui qua lỗ kim, thánh Phêrô đã nói với Chúa: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.”  Lời thánh Phêrô diễn tả mối băn khoăn của ông khi theo Chúa.  Đó cũng là mối băn khoăn của chúng ta: theo Chúa thì được gì?  biết bao nhiêu người không theo Chúa mà cũng hạnh phúc sung sướng.  Chúa hứa với thánh Phêrô và các môn đệ: họ sẽ được gấp trăm những gì họ đã từ bỏ vì Chúa.  Thực tế đã chứng minh: đối với linh mục và tu sĩ, là những người từ bỏ mọi sự trần gian để theo Chúa, Chúa ban cho họ gấp trăm, thậm chí gấp ngàn lần.

Cùng với tác giả Thánh Vịnh 89, chúng ta cầu nguyện: “Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con.”  Giữa thời buổi bất an và tràn ngập những ưu tư lo lắng, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan và nghị lực để chúng ta can đảm chọn lựa Chúa, với xác tín Chúa sẽ thưởng gấp trăm những gì chúng ta dám hy sinh vì Ngài.

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

CÓ THỰC SỰ THI THỂ CỦA CHA PIO NĂM DẤU KHÔNG BỊ PHÂN HỦY?

 

CÓ THỰC SỰ THI THỂ CỦA CHA PIO NĂM DẤU KHÔNG BỊ PHÂN HỦY?

Nhiều người tín hữu đạo đức vẫn cho rằng thi thể của cha Pio Năm Dấu không hề bị phân hủy trong điều kiện thông thường dù ngài đã qua đời hơn 50 năm qua. Hôm ngày 23/9 vừa qua, nhân ngày lễ kính thánh nhân, nhiều trang mạng Công Giáo vẫn tiếp tục nhắc đến điều này.

Để làm rõ hơn vấn đề có thực sự thi thể của cha Pio Năm Dấu không hề bị phân hủy hay không, chúng tôi đã tìm hiểu từ nhận định của những người làm việc trong ủy ban bảo vệ các thi thể thánh nhân cũng như tuyên bố chính thức của Giáo hội về việc này.

Gần đây, những người làm việc trong ủy ban bảo vệ thi thể các vị thánh đã công bố trên trang fanpage của họ bức ảnh về chiếc mặt nạ silicone bao phủ thi hài của cha Pio Năm Dấu (xem ảnh), cũng khiến nhiều người ngỡ ngàng.

Họ đã giải thích rằng đó là chiếc mặt nạ phủ khuôn mặt của vị thánh vì khuôn mặt đã bị phân hủy một phần. Thông tin đơn giản đó gây ra sự thất vọng và những bình luận nghi ngờ và thậm chí có những lời lẽ xúc phạm về thông tin của ủy ban.

Nhưng hãy hiểu rõ cho: không có thẩm quyền nào của Giáo hội tuyên bố rằng thi thể của cha Pio không bị phân hủy nhờ một phép mầu kỳ diệu.

Tuy nhiên, một số trang Công giáo đã đưa thông tin về một phép mầu về thi thể của cha Pio Năm Dấu hoàn toàn không hề bị phần hủy và khiến hàng triệu người sùng đạo tin vào đó là điều không đúng.

Vì vậy, để tôn trọng tất cả những quan điểm về vấn đề này, chúng tôi xin trình bày ý kiến của các chuyên gia bảo quản thi hài của cha Pio Năm Dấu đáng kính của chúng ta.

Đây là nội dung chính của cuộc phỏng vấn do nhà báo Stefano Campanella thực hiện. Những người được phỏng vấn là thành viên của ủy ban do Giáo hội chỉ định về việc bảo quản thi hài cha Pio.

Thấy gì nơi thi thể cha Pio khi vừa khai quật lên?

Người trả lời câu hỏi này là Nazzareno Gabrielli, một trong các chuyên gia về việc bảo tồn thi thể các thánh, ngoài thi thể của cha Pio, còn có thánh Gabrielli, thánh Clara thành Assisi, thánh Gioan XXIII, Pio IX và Pio X.

Ông Gabrielli cho biết khi mở quan tài của cha Pio, người ta đã ghi nhận rằng:

Da mặt của ngài vẫn nguyên vẹn

Tai và môi vẫn còn nguyên vẹn

Trên cầm của ngài vẫn còn hàm râu dài

Nhưng không còn mắt và mũi

Đầu, thân và hông ở trong tình trạng tốt

Tứ chi rất xấu

Điều ngạc nhiên nhất mà tất cả các thành viên của ủy ban khai quật và bảo vệ thi thể đều xác nhận rằng thi thể của ngài tuyệt đối không có mùi hôi.

Trong bức ảnh dưới đây, có thể thấy đôi tay trên thi thể của Padre Pio bị tổn thương khá nhiều.

Thi thể của cha Pio được tái tạo như thế nào sau khi khai quật?

Thi thể của cha Pio đã được tái tạo bằng hóa chất để được bảo quản sau khi khai quật như thế nào?

Ông Gabrielli cho biết “dùng giải pháp nồng độ formalin” để tẩm vào thi thể của ngài, cùng với các hóa chất creosote, axit benzoic và tinh chất nhựa thông.

Sau đó thi thể được quấn bằng những dải băng ngâm trong dung dịch hóa chất ướp xác, ngoại trừ phần đầu. Sau đó, thi thể được đặt trên một tấm nệm chứa đầy chất silica gel để hút ẩm.

Cuối cùng, thi thể được đặt bên trong lồng kính với công nghệ đặc biệt: không khí bên trong nó được thay thế bằng khí nitơ, giúp tránh mọi quá trình ôxy hóa và ngưng chậm phát triển của hệ vi khuẩn.

Có vấn đề siêu nhiên đã xảy ra trên thi thể cha Pio?

Người trả lời câu hỏi trọng tâm này là ông Orazio Pennelli, một giám định y khoa. Từ năm 1977 đến 2005, ông là giám đốc y tế của Casa Sollievo della Sofferenza (Ngôi nhà cứu trợ người đau khổ), một bệnh viện do cha Pio thành lập:

Tôi hy vọng sẽ không gây sốc cho bất kỳ ai khi nói rằng hy vọng của con người đã bị thất vọng, nhưng tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta đều nuôi dưỡng ý tưởng rằng cơ thể của mình không bị phân hủy hoặc ít nhất có một dấu hiệu siêu nhiên nào đó đã được phát hiện. Tiếc thay, thiên biến vạn hóa, mặc dù đã giữ nguyên hình dáng thi thể của cha, nhưng Năm Dấu Thánh trên thi thể của cha đã bị “xóa mất”, đó là dấu mà Chúa đã in trên thân thể ngài suốt nửa thế kỷ.

Người ta thường nuôi hy vọng rằng có một yếu tố siêu nhiên nào đó liên quan đến thi thể của cha Pio.

Nhưng với tư cách là một nhà khoa học, không có dấu hiệu nào để khẳng định điều đó.

Cha Pio là một con người của sự thánh thiện tuyệt vời, cuộc đời của ngài luôn chịu những đau khổ dữ dội trên thân xác. Chúa cũng ban cho ngài những dấu lạ và ngài cũng thực hiện nhiều phép lạ ngay khi còn sống.

Đó là lý do tại sao người ta nuôi dưỡng ảo tưởng về một thi hài hoàn toàn không bị phân hủy sau khi chết. Điều này là không cần thiết, và không giúp ích gì hơn thêm cho niềm tin của Ki-tô hữu.

Xin đừng háo hức đi tìm kiếm vào những điều siêu nhiên. Đức tin Công giáo trên hết là lời kêu gọi trở nên thánh trong sự tầm thường của cuộc sống hàng ngày.

Có rất nhiều sự kiện siêu nhiên tuyệt đẹp vẫn diễn ra xung quanh đời sống của Giáo hội. Ví dụ, tấm vải liệm Chúa Giêsu là một di tích thánh không thể giải thích được bằng khoa học. Nhưng chúng ta hãy luôn cân bằng và thận trọng trong với những phép lạ mà Giáo hội không xác nhận.

Gx. Cần Giờ – DCCT

CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU

CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU

   Đối với người đời, hình ảnh thập giá là một điều gì đó đau đớn tột cùng và một sự thất bại thê thảm.  Tuy nhiên, với người Công giáo thì khác, thập giá là biểu tượng của hy sinh, của tình yêu và vinh quang.

     Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cùng nhau suy tôn Thánh giá, tức là chiêm ngắm tình yêu tự hủy của Thiên Chúa dành trọn cho con người.  Chính nơi thập giá ấy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và cánh cửa trong thân phận làm con Thiên Chúa được rộng mở.

   Chúa Giêsu đã không chỉ tự hạ mình để đến với nhân loại trong thân phận con người.  Nhưng hơn thế nữa, Ngài đã tự hiến thân mình trên cây thập giá để tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa được tuôn đổ trên con người.

  Thay vì thập giá là biểu tượng của sự ô nhục và thất bại thì ngang qua cái chết của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và đem lại vinh quang cho con người bằng một tình yêu vô vị lợi.

    Thay vì thập giá là biểu tượng của sự đau khổ và vô cảm, thì ngang qua sự hiến thân của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của sự hòa giải và tình liên đới với Thiên Chúa bằng một tình yêu khiêm hạ.

   Thay vì thập giá là biểu tượng của sự hận thù và chết chóc, thì ngang qua việc hy sinh mạng sống của Đức Giêsu, thập giá đã trở nên biểu tượng của một Đức tin tinh tuyền và một tình yêu son sắt mà Thiên Chúa dành tặng cho nhân loại.

    Thật thế, mỗi một người Công giáo luôn xác tín rằng, thập giá không phải là một kết thúc, nhưng là một sự bắt đầu.  Thập giá không phải là sự yếu đuối nhưng là sức mạnh của tình yêu đến nỗi thí mạng sống cho người mình yêu.  Và thập giá không phải là sự chết, nhưng hơn thế đó chính là sự sống mới của con người trong tư cách làm con Thiên Chúa.

    Suy tôn Thánh giá là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa – Người là cội nguồn của tình yêu.  Đây cũng là giây phút thiết thực để mỗi chúng ta nhìn lại hành trình sống chứng nhân tình yêu của mình đối với Chúa và tha nhân.

   Trong một thế giới đang mải mê tìm kiếm vật chất như hôm nay, tình yêu dường như đang trở nên khan hiếm và rẻ mạt.  Khi mà mọi thứ xung quanh đang được cung cấp một cách đầy đủ và tiện nghi hơn, thì xem ra tình yêu lại đang bị thiếu hụt và xem thường một cách trầm trọng.

   Tình người đang được cân đong đo đếm bằng những lợi lộc vật chất và địa vị.  Tình yêu nam nữ đang được xây dựng trên trên những quy chuẩn của tiền tài và dục vọng.  Do đó, sự khủng hoảng đời sống gia đình đang trở nên báo động hơn bao giờ hết.  Sự thờ ơ vô cảm trở nên lối sống chung của con người thời hiện đại.  Và xã hội trở nên như một chiến trường của sự tranh giành, đấu đá và chỉ biết nghĩ cho riêng mình.

   Một trong những nguyên nhân dẫn đến những đổ vỡ đó chính là sự thiếu vắng tình yêu.  Và cốt lõi của đó chính là sự đánh mất niềm tin vào một Thiên Chúa – Đấng đầy tình yêu thương.

  Lễ Suy tôn Thánh giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô tận của Thiên Chúa.  Một tình yêu tự hạ để đến và sẻ chia với thân phận con người.  Một tình yêu tự nguyện để đồng hành và thấu hiểu nỗi thống khổ của phận người.  Một tình yêu tự hiến để hàn gắn tình nghĩa phụ tử của Thiên Chúa với con người.

   Suy tôn Thánh giá không chỉ dừng lại ở việc nhận ra tình yêu hải hà của Thiên Chúa trên cuộc đời mình, mà còn mời gọi mỗi người chúng ta sống tình yêu đó một cách triệt để và cụ thể nơi cuộc sống hằng ngày.  Để ngang qua đời sống chứng nhân đó, hình ảnh một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và giàu lòng thương xót đến được với nhân loại đang quặn mình trong đau khổ và tội lỗi.

    Dẫu biết rằng dòng đời vẫn còn đó lắm vất vả gian truân, nhưng sẽ đẹp biết mấy nếu mỗi chúng ta biết dành tình thương cho nhau.  Xã hội sẽ trở nên giá trị và bình yên hơn nếu mỗi chúng ta biết tôn trọng phẩm giá con người bằng tình liên đới và sẻ chia trong cuộc sống.  Và tất cả điều đó sẽ được bắt đầu khi mỗi chúng ta biết nhìn lên Thập giá Đức Kitô, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa và thực hành tình yêu đó mỗi ngày trong đời.

J.B Lê Đình Nam 

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen                                

CẦU NGUYỆN GIỮA NHỮNG KHỦNG HOẢNG CUỘC ĐỜI

CẦU NGUYỆN GIỮA NHỮNG KHỦNG HOẢNG CUỘC ĐỜI

Chúa luôn ở đó với chúng ta, Ngài luôn muốn bày tỏ tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta và an ủi chúng ta, đặc biệt trong những lúc khó khăn, đen tối nhất của cuộc đời.

Hơn bao giờ hết, những lúc gặp khủng hoảng, đau khổ lại là lúc cần thiết nhất để chúng ta tìm đến với Chúa.  Mỗi lần chúng ta kêu lên Chúa: “Lạy Chúa, xin Ngài hãy cứu con!” “Xin Chúa làm ơn cứu con!” “Xin cứu con!” chính là lúc Chúa muốn ở đó với chúng ta.  Chúa muốn chúng ta tìm đến Chúa và cầu xin Người giúp mình cảm nhận được sự thân mật, ủi an và trợ giúp của Người.

Tuy nhiên, giữa những lúc đau khổ, khủng hoảng, nhiều người trong chúng ta lại cảm thấy rất khó cầu nguyện.  Những lúc đó chúng ta thật sự không biết phải cầu xin điều gì.  Muốn cầu xin một phép lạ, thế nhưng, kinh nghiệm của những lần cầu nguyện trước, chúng ta cũng đã cầu xin phép lạ, nhưng phép lạ chẳng bao giờ xảy ra.  Chúng ta cảm thấy thất vọng hoặc tệ hơn nữa là nghi ngờ không biết có Chúa hay không.  Nếu Chúa có mặt thì tại sao mỗi lần chúng ta thực sự cần đến Ngài, tha thiết cầu xin với Ngài mà Ngài lại chẳng đáp ứng những điều chúng ta xin.  Điển hình là khi tôi cầu xin Chúa chữa lành cho bà nội được khỏi bệnh nhưng Chúa chẳng nhận lời.  Hoặc lúc chúng ta cầu xin cho kết quả sinh thiết của mình được tốt đẹp nhưng cũng chẳng được.  Có khi chúng ta cầu xin nhận được một sự hỗ trợ mà mình đang cần đến nhưng rồi điều đó cũng chẳng xảy ra.  Đã có khi nào chúng ta cầu nguyện cho việc hàn gắn một mối tương quan đã bị rạn nứt mà không được đáp lời chưa?

Thay đổi hình ảnh của Chúa

Nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta thường nhìn Chúa như một nhà ảo thuật – một người hùng vô cùng quyền lực với đầy đủ mọi phép thần thông biến hóa có thể sửa đổi mọi thứ nếu Ngài muốn.  Một trong những lý do khiến chúng ta khó thay đổi hình ảnh này của Chúa là vì chúng ta không biết thay thế bằng hình ảnh nào cả.  Đường dẫn vào đời sống cầu nguyện là đường giúp chúng ta mở lòng đón nhận Chúa là Đấng nhân từ và xót thương.  Đấng đã được Kinh Thánh mô tả trong suốt dọc dài lịch sử cứu độ.  Đồng thời cũng là đường giúp chúng ta biết để cho Đức Giêsu bày tỏ Tin Mừng của Ngài cho chúng ta.  Thiên Chúa không điều khiển thế giới như một người múa rối, cứ giật giây và bắt mọi sự di chuyển theo.  Ngài cũng không phải là Đấng bác bỏ những quy luật tự nhiên để chiều theo và đáp ứng hết mọi lời cầu xin của chúng ta.  Trong đức tin, Thiên Chúa tỏ cho chúng ta thấy Ngài là một vị Thiên Chúa quyền năng ngay giữa những nơi mà Thiên Chúa dường như ít quyền lực nhất.  Trong đức tin, Thiên Chúa đau với nỗi đau của chúng ta.  Trong đức tin, chúng ta được Tin Mừng giải thoát và soi sáng để xác tín rằng Thiên Chúa đã đánh bại quyền lực cuối cùng của chúng ta là tội lỗi và sự chết.  Chúa không ngăn cản tội lỗi và sự chết nhưng khi chúng ta xác tín vào lòng thương xót của Thiên Chúa và tin rằng chúng ta được dựng nên cho đời sống vĩnh cửu của Chúa, lúc đó chúng ta sẽ được giải thoát khỏi sự sợ hãi của tội và sự hủy diệt của cái chết vốn làm tê liệt đời sống của chúng ta. 

Chúng ta hãy nhìn vào những khó khăn thường gặp để tìm ra cách thế giúp chúng ta trở về với Chúa ngay trong những khủng hoảng đó.  Từ “khủng hoảng – crisis” bắt nguồn từ chữ “krisis” trong tiếng Hy Lạp, đó là một quyết định – decision.  Nó hàm ý đến sự xác quyết mà chúng ta gọi là một quyết định then chốt trong những thời điểm gay go của cuộc đời.  Đây là một bước ngoặt, là thời điểm khi mà nỗi đau đã đến tột cùng hoặc khi mọi thứ dường như bị đảo lộn, đe dọa sẽ nhấn chìm chúng ta.  Chúng ta cảm thấy mình không biết phải xử lý cách nào và phải bắt đầu từ đâu.  Những lúc đó, sự sợ hãi bóp nghẹt chúng ta.

Nếm cảm về chính cái chết của mình

Dị tật, khiếm khuyết và cái chết đem đến những khủng hoảng lớn nhất trong cuộc đời chúng ta.  Hầu hết trong chúng ta cho rằng cái chết hoặc dị tật của một người thân là một trong những khủng hoảng lớn nhất mà chúng ta phải đối diện trong cuộc sống.  Cái chết cũng như những dị tật của bản thân làm cho chúng ta mất định hướng, làm tê liệt nhuệ khí của mình, làm cho chúng ta mất bình an và thất vọng.  Đôi khi chúng ta thường sống như thể không có cái chết hoặc “từ chối cái chết,” tuy nhiên, việc từ chối sự thật này tạo ra những tổn thương tâm lý trầm trọng trong lòng chúng ta.  Niềm tin vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Kitô đã cho chúng ta niềm hy vọng khi phải đối diện với cái chết hay những khiếm khuyết của mình, mặc dù xét về mặt tự nhiên của con người, điều đó không dễ đón nhận chút nào cả.

Tất cả chúng ta, lúc này hay lúc khác, đều đã trải qua những kinh nghiệm về sự bất lực.  Càng lớn tuổi, chúng ta càng cảm thấy mình bị giới hạn nhiều điều, khi tuổi đã cao, sức đã tàn, thể xác không còn khả năng làm được những thứ mà trước đây mình vẫn làm một cách dễ dàng.  Tuổi càng cao, sức khỏe thể lý cũng như tinh thần lại giảm theo chiều ngược lại.  Điều đó đôi khi làm cho chúng ta cảm thấy suy sụp hoàn toàn.  Tất cả mọi thứ, từ việc thoái hóa xương khớp, đến việc suy sụp tinh thần, tình cảm, hoặc có khi là những chứng nghiện thuốc giảm đau, từ sự mất kiểm soát trong việc tiểu tiện đến cảm giác bất an, sợ hãi, tất cả đều là những hệ lụy bởi sự giới hạn và mong manh của phận người.  Trong cầu nguyện, chúng ta hướng lòng lên với Chúa để xin Ngài giúp đỡ.  Những kinh nghiệm về sự bất lực, một mặt chúng có thể đẩy chúng ta đến chỗ thất vọng, mặt khác đó lại là cơ hội giúp chúng ta sống khiêm tốn hơn và xây dựng một lòng biết ơn sâu xa trước tình thương mà Chúa dành cho chúng ta.  Chính trong giới hạn của phận người, trong sự suy giảm về sức khỏe thể lý cũng như tâm lý, chúng ta lại càng cảm nghiệm sâu hơn về tình yêu và sự kiên nhẫn của Chúa dành cho mình.  Hơn bao giờ hết, ngay khi chúng ta cảm thấy bất lực, lại là lúc chúng ta cần đến Đức Giêsu – Đấng Cứu Độ chúng ta. Ngài luôn sẵn sàng giang rộng đôi tay của Ngài để ôm lấy chúng ta.

Sự sợ hãi về cái chết tự bản chất là một cú sốc tâm lý.  Sự sợ hãi trước bệnh tật, có thể là một khối u ở vú, hoặc kết quả xét nghiệm kháng nguyên tuyến tiền liệt dương tính khiến chúng ta tê liệt hay suy sụp tinh thần.  Những ngày tháng chờ đợi kết quả có thể là thời gian khiến chúng ta cảm thấy mỏi mệt, lo lắng, bất an.  Tuy nhiên, đó cũng có thể là thời gian giúp chúng lớn lên trong ân sủng của Chúa.  Chúng ta cảm thấy sợ trước những điều vô định, điều đó thật dễ hiểu và cũng rất bình thường.  Tuy nhiên, nỗi sợ này cũng có thể chuyển thành niềm tin, một sự trở về với Thiên Chúa và cậy trông vào lòng thương xót của Chúa.  Ngoài sự sợ hãi về cái chết, nỗi sợ phải mất người thân hoặc phải từ bỏ một công việc quan trọng cũng khiến chúng ta kiệt sức.  Càng đến với Chúa và nương tựa vào Chúa trong những lúc khó khăn, đau khổ, chúng ta lại càng đi sâu hơn vào mầu nhiệm sự chết, và sống sự khiêm tốn thẳm sâu về sự mong manh và bất lực của mình.  Lòng biết ơn về cuộc sống và mối tương quan hài hòa của chúng ta với sự sống luôn luôn được đổi mới.  Chính thái độ này sẽ mang đến cho chúng ta nguồn sinh lực mới.  Như thế, giữa cơn khủng hoảng về sức khỏe thể lý cũng như tâm lý, sự sợ hãi cũng có thể giúp chúng ta có cái nhìn tích cực hơn, cảm nhận được một sự bình an nội tâm, và tin tưởng vững vàng hơn vào Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương chúng ta.

Khi sự chết viếng thăm chúng ta, thế giới quanh ta dường như ngừng lại, mọi sự như đã kết thúc.  Tuy nhiên, trong đức tin, chúng ta có thể chạy đến với Chúa và cầu xin Chúa ban ơn để giúp chúng ta hiểu được cách Chúa Giêsu ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa Cha như thế nào.  Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn sức mạnh để chúng ta dám phó thác cuộc sống của người thân, hoặc của chính chúng ta trong vòng tay yêu thương của Chúa.  Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta biết đặt trọn tình yêu trong từng phút sống của mình.  Và nếu chúng ta sống trọn vẹn từng phút sống của mình thì cuộc sống của chúng ta vẫn còn mãi cho dù có phải trải qua những căn bệnh hiểm nghèo, hay thậm chí cả cái chết đi nữa.  Một trong những khủng hoảng của cái chết là sự chia cắt tương quan.  Trong một số trường hợp, chúng ta không thể mường tượng được cuộc sống sẽ như thế nào nếu không có người khác, hoặc nỗi đau phải lìa xa người thân là điều không thể chịu được.  Đức tin giúp chúng ta đi vào một mối tương quan mới vượt trên cả những hủy hoại của cái chết về thể lý.  Chúng ta tin rằng, ngay cả sau khi chết, chúng ta vẫn tiếp tục sống trong sự hiệp thông với những người thân yêu của mình.  Khi chúng ta để cho mối tương quan đó tiếp tục lớn lên, chúng ta sẽ được giải phóng khỏi những rào cản mà đôi khi làm cho cuộc sống của chúng ta bị khập khiễng, đem đến cho chúng ta sự an ủi thật sự và nếm trước sự sống vĩnh cửu.  Nỗi mất mát lớn nhất là không bao giờ được nhìn thấy hay được đụng chạm người thân của mình ở trên đời này nữa. Với đức tin và sự cố gắng, chúng ta có thể lớn lên trong sự hiệp thông sâu xa với những người thân yêu của mình, ngay cả sau khi chết.

Khủng hoảng trong mối tương quan

Khi mối tương quan bị rạn nứt hoặc tệ hơn nữa là vợ chồng phải ly thân hay ly dị, đó quả là một sự khủng hoảng lớn lao.  Trong những lúc đó, chúng ta không chỉ có cảm giác bị mất mát mà còn cảm thấy bị thất bại, bị lừa gạt, hoặc ảo tưởng.  Lòng trí chúng ta ngập tràn những cảm giác đan xen, vừa giận dữ, tội lỗi, thù hận, vô dụng, trầm cảm hoặc bị loại trừ.  Nếu những nỗi đau này lại còn liên quan đến con cái, thì những rối rắm và đau khổ cũng sẽ ảnh hưởng đến những đứa trẻ vô tội mà chúng ta hết mực yêu thương và thông thường nỗi đau đó sẽ khó phai hơn.  Khi ở trong những hoàn cảnh này, chúng ta cảm thấy rất khó cầu nguyện.  Có thể chúng ta cảm thấy rất xấu hổ khi đến với Chúa, hoặc cảm thấy lo sợ không biết Chúa sẽ nói gì, hoặc có khi đơn giản chỉ vì chúng ta giận Chúa, hờn Chúa, đổ lỗi cho Chúa vì đã không ra tay ngăn cản hoặc cứu chúng ta thoát khỏi những nỗi bất hạnh đó.  Vì thế, ở bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần xây dựng một mối tương quan mật thiết với Chúa.  Trở nên bạn thân với Chúa, chạy đến với Chúa bất cứ lúc nào.  Vì nếu trong những lúc vui vẻ, hạnh phúc, mà chúng ta còn không đến với Chúa, lơ là với Chúa thì những lúc khó khăn, khủng hoảng thì lại càng khó để xây dựng mối tương quan với Chúa biết bao.

Chúa muốn yêu thương và an ủi chúng ta.

Những lúc khó khăn, đau khổ là lúc chúng ta cần đến Chúa nhất, là thời gian quan trọng nhất để cầu nguyện.  Một điều giúp chúng ta tìm đến với Chúa, đó là chúng ta cảm nhận được sự an ủi nội tâm và tin tưởng rằng Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự.  Thiên Chúa, Đấng dựng nên chúng ta, hằng ở bên chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống, Ngài không ngạc nhiên và cũng không bối rối trước những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta.  Điều duy nhất Chúa muốn là an ủi chúng ta khi chúng ta cần đến Ngài, nương tựa vào Ngài.  Ngài tiếp tục dõi theo chúng ta và chất vấn chúng ta khi chúng ta bị cám dỗ rời xa Ngài.  Chúng ta chẳng cần phải giải thích tất cả với Chúa.  Chúng ta chỉ cần thầm thĩ với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Ngài hiểu con.  Con biết Ngài cũng đang đau với nỗi đau của con.  Con biết duy chỉ có Ngài mới giúp con vượt qua được những thử thách này để bước tới tương lai tươi sáng hơn.”  Đây là một lời cầu nguyện rất sâu sắc, xuất phát tự đáy lòng.  Lời cầu nguyện này dẫn chúng ta đi sâu hơn vào tương quan mật thiết với Chúa, phó thác trọn vẹn cho Chúa, và biết phân định mọi tình huống cách chín chắn hơn.  Những khủng hoảng này cũng có thể trở thành những kinh nghiệm sâu sắc về lòng khiêm tốn và chân thành giúp chúng ta thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực, những nỗi đắng cay trong cuộc sống.  Những khó khăn, thử thách trong cuộc sống cũng có thể trở thành sức mạnh giải thoát chúng ta, chữa lành cho chúng ta và vực chúng ta dậy để tiếp tục sống một cuộc sống yêu thương và lạc quan hơn.

Có nhiều nỗi khủng hoảng khác trong cuộc sống như sự khủng hoảng về tài chánh, bị mất việc, con hư hỏng vì sự nuông chiều của mình, hoặc những khủng hoảng của người thân cũng làm chúng ta cảm thấy rất khó để cầu nguyện.  Có những cảm giác hoặc những tâm trạng, chưa hẳn là sự khủng hoảng, nhưng cũng làm chúng ta phân tâm, đó là cảm giác không hài lòng, chưa mãn nguyện với những gì mình đang có hoặc đang làm.  Những lúc phải đối diện với những lo âu, hoảng sợ, hoặc cảm giác bất an, đó là thời điểm quan trọng để chúng ta chạy đến với Chúa, cảm nhận tình yêu và sự giải thoát của Chúa.  Không gì có thể cướp mất sự bình an của chúng ta trừ khi chúng ta để cho nó bị cướp đi, hoặc trừ khi chúng ta giải quyết theo những suy nghĩ hơn thua của người đời mà không dựa trên niềm tin, tình yêu, và niềm hy vọng mà Chúa muốn ban cho chúng ta.  Khi chúng ta thưa với Chúa “Lạy Chúa, cuộc sống của con ở trong tay Chúa” là lúc chúng ta tìm thấy ước muốn sâu thẳm nhất và nguồn sức mạnh lớn nhất của chúng ta.  Mọi sự mất mát, mọi suy nghĩ và tình cảm của chúng ta sẽ được biến đổi khi chúng ta sống trong tình yêu của Đấng đã sống và chết cho chúng ta.  Tất cả nguồn sức mạnh của một cuộc sống anh dũng và tình yêu hy hiến được nảy sinh từ một tâm hồn dám sống cái trần trụi của phận người để từ đó xác tín rằng mình là người được yêu và tự do.

Chuyển ngữ: Nt. Theresa Nguyễn Thị Ngọc Hà

Nguồn: https://onlineministries.creighton.edu/CollaborativeMinistry/OrdinaryTime/Praying-crisis.html

From: Langthangchieutim