Hỏa ngục là gì?

Hỏa ngục là gì?

Hôm nay là ngày cuối cùng của 2021, bạn chuẩn bị đón giao thừa chưa? Chúc bạn một ngày an lành. Xin bạn đừng quên trong lúc đốt pháo, bạn hãy đốt đi những gì của năm 2021 mà không thuộc về Chúa nhé.

Thứ 6: 31/12/2021

GIÁO LÝ: Hỏa ngục là gì? “Hỏa ngục”, theo đức tin của chúng ta, là tình trạng con người phải dứt khoát chia cách với Thiên Chúa. Khi ai thấy rõ tình yêu nhờ đối mặt với Thiên Chúa, nhưng họ lại từ chối, không muốn được ở trong Tình yêu ấy, đó là họ đã chọn hỏa ngục. (YouCat, số 53)

SUY NIỆM: Chúa Giêsu biết hỏa ngục và nói về nó như những nơi tối tăm bên ngoài (Mt 8,12). Theo quan niệm thời nay người ta nói đến một hỏa ngục lạnh hơn là nóng. Dựa vào sự rùng mình vì rét lạnh người ta gợi đến một tình trạng hoàn toàn tê cóng đờ đẫn và hoàn toàn tuyệt vọng không còn mong được ai giúp đỡ, làm giảm nhẹ, đem niềm vui và an ủi trong suốt đời. (YouCat, số 53 t.t)

❦  Cuối cùng sẽ chỉ còn hai nhóm người đứng trước mặt Thiên Chúa, những người thưa với Chúa rằng: “Vâng ý Cha”; và những người mà Chúa bảo rằng: “Ý con được vâng theo”. Tất cả những ai ở hỏa ngục là do họ tự ý chọn lựa chỉ theo ý mình. (C.S. Lewis)

LẮNG NGHE: Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. (Mt 6:24)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-tinh)

THỰC HÀNH: Làm một việc hy sinh nhỏ để cầu nguyện chung cho các linh hồn qua đời bất đắc kỳ tử, không có giời gian để chuẩn bị cho cái chết của mình.

From: Đỗ Dzũng

THIÊN ĐÀNG là gì?

THIÊN ĐÀNG là gì?

Năm 2021 sắp hết rồi bạn ơi, lẹ quá! Trong suốt thời gian qua, bạn đã và đang làm gì cho Chúa và cho tha nhân? Hãy nhớ nhau trong lời kinh nguyện nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 30/12/2021

GIÁO LÝ: Trời [Thiên đàng] là gì? Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là chỗ ở của các Thiên thần và các thánh, là đích điểm của việc sáng tạo. Thuật ngữ “trời đất” nói đến toàn thể những thực tại được Thiên Chúa dựng nên. (YouCat, số 52)

SUY NIỆM: Trời không phải là một nơi nhất định nào đó trong vũ trụ. Trời là một tình trạng trong cuộc sống mai sau. Trời là nơi Chúa thực thi ý muốn của Người mà không có gì chống đối. Trời là nơi có cuộc sống mãnh liệt nhất, hạnh phúc nhất, một cuộc sống không thể có được ở trần gian. Khi nhờ on Chúa giúp ta được về trời, ta chờ đợi ở đó điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng chưa hề cảm biết, tất cả những gì Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người (1Cr 2,9). (Chú thích của người dịch: Cựu ước chỉ nói về vườn địa đàng (St 2,15); Tin Mừng chỉ nói về trời với nghĩa nơi có Thiên Chúa và các Thánh, và một lần nói về “người trộm lành được ở trên Thiên Đường” (Lc 23,42). Thiên Đường ở đây có nghĩa “Nước của Người, Nước Trời, hay Trời”). (YouCat, số 52 t.t)

❦  Chúng ta luôn nhớ đến niềm vui trên trời, nơi Thiên Chúa ngự. Chúng ta có khả năng ngay từ bây giờ ở với Chúa trên trời, và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với Chúa. Tuy nhiên hưởng hạnh phúc với Chúa ngay lúc này có nghĩa là: giúp đỡ như Người giúp đỡ, cho đi như Người cho đi, phục vụ như Người phục vụ, cứu vớt như Người cứu vớt, yêu thương như Người yêu thương, ở với Người suốt 24/24 tiếng đồng hồ và gặp gỡ Người dưới tấm áo kinh khủng nhất. Vì Người đã nói với ta: Điều mà bạn đã làm cho người bé nhỏ nhất của Ta, đó là đã làm cho chính ta vậy. (Mẹ Thánh Têrêsa)

❦  Chúa Giêsu đã đến để cho ta biết rằng Người muốn mọi người được ở thiên đường, và hỏa ngục mà ngày nay người ta ít nói đến là có thật, và hỏa ngục là vô tận cho những ai đóng của lòng mình với tình yêu của Người. (Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI)

LẮNG NGHE: Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời. (Ep 2:4-7)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa hứa ban hạnh phúc cho con không chỉ là thiên đàng mai sau mà còn là thiên đàng tại thế khi con sống theo thánh ý Chúa.  Xin giúp con biết tránh xa tội lỗi, chọn Chúa từng giây từng phút mà từ chối những niềm vui bất chính để được sống trong hạnh phúc muôn đời với Chúa.

THỰC HÀNH: Hãy tự hỏi: Nhịp sống của tôi hiện nay là gì?  Đang hướng về thiên đàng hay hoả ngục?

Giáo lý về sự dữ

Giáo lý về dữ

Một ngày bình an trong Chúa và Mẹ yêu nhé. Xin bạn cộng tác với mình để quảng bá bài Giáo Lý hôm nay vì nó trả lời cho một câu hỏi rất khó trả lời trong thế giới ngày nay. Xin đa tạ!

Thứ 4: 29/12/2021

GIÁO LÝ: Nếu Thiên Chúa biết mọi sự và có thể làm được mọi sự, tại sao Người không ngăn cản được sự dữ? Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt lành từ những sự dữ. Chẳng một đau khổ nào ta có thể giải mã được. Nhưng nó vẫn luôn đặt nền tảng trên sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa (Thánh Tôma Aquinô). (YouCat, số 51)

SUY NIỆM: Sự dữ trong thế gian là một mầu nhiệm vừa đen tối vừa khổ đau. Đấng chịu đóng đinh thập giá đã xin với Cha Người: Lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mt 27,36). Nhiều chuyện trong lãnh vực này vẫn còn khó hiểu. Nhưng ta biết được một điều chắc chắn: Thiên Chúa luôn tốt lành một trăm phần trăm. Không khi nào Người có thể là tác giả của những cái xấu. Chúa đã dựng nên một thế giới tốt, nhưng chưa được hoàn thành. Thế giới đi tới chỗ hoàn thành phải trải qua những xáo trộn dữ dội và những quá trình đau khổ. Ta cần phân biệt cho tốt hơn cái mà Hội Thánh gọi là sự dữ thể lý, chẳng hạn khuyết tật bẩm sinh, hoặc thiên tai lũ lụt, với cái goi là sự dữ luân lý phát xuất do con người sử dụng tự do sai lầm trong thế gian. “Hỏa ngục trần gian” – trẻ em làm lính, mưu sát – tự sát, trại tập trung – hầu hết đều là do con người. Vấn đề quyết định không phải là: “Làm sao có thể tin được là Thiên Chúa tốt lành đang khi có biết bao sự dữ như vậy?”, nhưng là: “Làm sao con người có trái tim và lý trí lại có thể đành chịu sống trong thế giới như vậy, nếu không có Thiên Chúa?”. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu chứng tỏ cho ta rằng sự dữ không có tiếng nói đầu tiên và nó sẽ không có tiếng nói cuối cùng (nghĩa là nó không phải tuyệt đối mà còn có cái khác nữa). Bởi vì Thiên Chúa làm cho từ sự dữ xấu xa nhất nảy sinh ra sự tốt lành tuyệt đối. Kitô hữu tin rằng đến ngày phán xét chung Thiên Chúa sẽ chấm dứt mọi bất công. Trong đời sống mai sau, sự dữ không còn nữa và đau khổ sẽ chấm dứt. (YouCat, số 51 t.t)

❦ Thiên Chúa thấy mọi sự Người sáng tạo: mọi sự đều rất tốt đẹp. (St 1,31)

❦ Không đau khổ nào mà không mang một ý nghĩa. Đau khổ luôn luôn có nền móng nơi sự khôn ngoan của Chúa.

(Thánh Tôma Aquinô)

❦ Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn và mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới mê ngủ. (Clive Staples Lewis, 1898–1963, văn sĩ Anh, tác giả cuốn Ký sự Namia)

LẮNG NGHE: Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. (Rm 8:18)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, tình trạng biến thể của vi rút đang làm nhiều người hoảng sợ và biến loạn, xin cho con tìm được niềm ủi an vì tin rằng còn có Chúa yêu thương con đến cùng, xin cho con đón nhận những gì xảy đến là do Chúa yêu thương quan phòng và đừng để con thất vọng trước nỗi bất hạnh con đang gánh chịu trong lúc này. Lạy Chúa, hơn bao giờ hết, con rất cần đến Chúa!

THỰC HÀNH: Nhắm mắt lại và nghe lại bài nhạc suy niệm hôm nay, ước gì bạn cảm nhận được “suối tình thương, tình Cha với con, thắm thiết nồng nàn…” trong lúc gian nan.

From: Đỗ Dzũng

Những thánh gia Na-da-rét thời đại mới  

Những thánh gia Na-da-rét thời đại mới

(Suy niệm Lễ Thánh gia)

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

Hằng năm vào dịp lễ Thánh gia là ngày bổn mạng của giáo xứ, sau khi lễ xong, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên hàng đôi đến trước bộ tượng ba đấng, dâng lên Chúa Giê-su, Đức Mẹ và thánh Giu-se những bông hoa thắm tươi để tỏ lòng tôn kính mến yêu.

Thế mà hôm qua, chỉ còn ba ngày nữa là đến lễ Thánh gia, lợi dụng bóng tối, có kẻ bất lương đến đập vỡ ba bức tượng thánh Giu-se, Mẹ Maria và Chúa hài đồng có tầm cao như người thật, đặt trong hang đá lớn nằm bên hông nhà thờ, khiến mọi người trong xứ đạo rất đau lòng và bối rối.

Biết tính sao đây, khi lễ Thánh gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba đấng mới thế vào bộ tượng bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba đấng vào mỗi dịp lễ Thánh gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được? Ngoài ra, ngày lễ Thánh gia đã cận kề nên cũng không thể đặt một bộ tượng khác thay thế.

Trước tình thế đó, Cha xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giê-su thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ dâng hoa cho ba vị nầy trong tư cách là hình ảnh của thánh gia Na-da-rét.

Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba đấng thánh.

Cha Sở diễn giảng cho họ như sau:

Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Giê-su thế chỗ cho bộ tượng ba đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không hề xúc phạm đến ba đấng thánh, nhưng xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý của thánh gia Na-da-rét.

Tại sao tôi nói như vậy?

Thứ nhất, bộ tượng ba đấng mà ta kính viếng xưa nay là hình ảnh của Thánh Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Giê-su do tay người phàm tạo nên bằng thạch cao, không có sự sống; trong khi gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh của ba Ngôi Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa tạo dựng nên, có linh hồn, có lương tri, có sự sống.

Thứ hai, nhờ lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, anh chị Năm cũng như mỗi người chúng ta được trở thành chi thể của Chúa Giê-su (GLHTCG số 1267). Thánh Phao-lô cũng xác nhận điều nầy: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?” (I Cor 6,15).

Thứ ba, nhờ rước lấy Mình thánh Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể, anh chị Năm được trở nên cùng chung máu thịt với Ngài, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1, 4).

Ngoài ra, Chúa Giê-su và Hội thánh thường dạy chúng ta rằng “Thiên Chúa đồng hóa với con người”, con người là hiện thân của Thiên Chúa.

Thứ tư, Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của ki-tô hữu là gia đình thánh nên Giáo hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia, tức là thánh gia.

Như vậy, không có một bức tượng nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý… xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giê-su, của Mẹ Maria, của thánh Giu-se cho bằng chính mỗi Ki-tô hữu chúng ta.

Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Na-da-rét.

Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Na-da-rét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con trai và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giu-se, Đức Mẹ và Chúa Giê-su để cho giáo dân thăm viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giê-su những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giu-se những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào…

Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Na-da-rét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như Mẹ Maria và thánh Giu-se; Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giu-se đã làm cho Chúa Giê-su; Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giê-su đối với thánh Giu-se và Đức Mẹ.

Từ đó, niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà  

@ Muốn đọc thêm bài suy niệm cũ hơn, kính mời vào website: https://nguonvui.net

From: Do Tan Hung & KimBằng Nguyễn

90 NĂM NHÀ THỜ CHÍNH TÒA “CHÚA KITÔ ĐẤNG CỨU THẾ” TẠI MATXCOVA BỊ STALIN PHÁ HỦY

Make Christianity Great As Always

90 NĂM NHÀ THỜ CHÍNH TÒA “CHÚA KITÔ ĐẤNG CỨU THẾ” TẠI MATXCOVA BỊ STALIN PHÁ HỦY

Công trình Đại Thánh Đường Chúa Kitô Vua Cứu Thế mà chúng ta thấy ngày nay chỉ mới được bắt đầu xây dựng vào những năm 1990 sau khi nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết bị sụp đổ, đại thánh đường là bản sao một kiệt tác kiến trúc thế kỷ XIX. Tòa giáo đường đầu tiên đã bị phá hủy dưới thời lãnh tụ Joseph Stalin.

Nhà thờ Chúa Kitô Đấng Cứu Thế được thi công lần đầu trong vòng 44 năm nhưng chỉ tồn tại 48 năm. Công trình dường như bị một số mệnh nghiệt ngã theo đuổi.

Nhà thờ Chúa Kitô Đấng Cứu Thế khánh thành vào tháng 5 năm 1883. Các cuộc cách mạng vô sản do V.I Lênin xách động bùng nổ ở Nga năm 1917 và những người Cộng sản lên nắm quyền đã coi tôn giáo như thứ “thuốc phiện đối với nhân dân”. Hàng loạt nhà thờ và tu viện lần lượt bị đóng cửa, các linh mục bị xử tử và bị tù đày chung thân. Năm 1931, Đảng Cộng sản Liên Xô có quyết định xây dựng Cung Xô Viết bề thế — như biểu tượng chiến thắng của ý thức hệ cộng sản trên mặt bằng của giáo đường. Trên đỉnh kết cấu cao 420 mét sẽ là tượng đài Bác Lênin vĩ đại cao 100 mét.

Ngày 5 tháng 12 năm 1931, Đảng Cộng Sản Liên Xô lệnh cho đội công binh đặt thuốc nổ vào móng nhà thờ. Vụ nổ mạnh làm rung chuyển các tòa nhà xung quanh. Nhưng nhà thờ không đổ! Đội lính chuyên nghiệp không tin vào mắt họ. Người ta phải tăng gấp đôi lượng thuốc nổ để phá vỡ các bức tường. Gần một năm rưỡi sau mặt bằng mới được dọn sạch.

Việc thi công Cung Xô Viết buộc phải ngừng vì chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ và sau đó dự án hoàn toàn bị đình chỉ. Năm 1960, tại nơi nhà thờ bị phá hủy và công trình cung Xô Viết không thành, xuất hiện bể bơi ngoài trời “Matxcova” mà người dân thủ đô đã sử dụng suốt ba thập kỷ.

Năm 1964, Trong phiên họp Uỷ Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô, đồng chí Yuri Gagarin – phi hành gia bay lên vũ trụ đầu tiên đã yêu cầu xây dựng lại Vương Cung Thánh Đường Chúa Kitô Đấng Cứu Thế trên nền cũ đã bị Stalin phá đổ vào năm 1931 như là biểu tượng vinh quang của người Nga. Nhiều đại biểu trong phiên họp đều sửng sốt nhưng rồi mọi người cùng đứng lên vỗ tay hoan nghênh lời phát biểu này, còn đồng chí Tổng bí Thư Đảng Nikita lại giận dữ tím mặt trước lời phát biểu này

Vào ngày Lễ Giáng Sinh 25 tháng 12 năm 1991, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết sụp đổ, chính phủ Liên Bang Nga mới thành lập đã quyết định khôi phục lại nhà thờ Chúa Kitô Đấng Cứu thể theo nguyện vọng của đa số người dân Nga, theo đúng thiết kế nhà thờ cũ đã bị phá hủy vào năm 1931. Công trình hoàn thành ngày 31 tháng 12 năm 1999. Bước vào thế kỷ mới, thủ đô nước Nga nhận một món quà tuyệt vời, kiệt tác kiến trúc được phục chế trở thành điểm hành hương đông đảo của nhiều du khách.

Công trình Đại giáo đường Chúa Kitô Đấng Cứu thế Matxcova có kích thước đáng kinh ngạc: mái chóp vàng cao 103 m, nhà thờ có sức chứa đến 10 nghìn người. Tường đá trắng tô điểm những bức phù điêu bằng đồng với các cốt truyện trong Kinh Thánh. Bài trí nhà thờ lộng lẫy với các bích họa tuyệt đẹp được thực hiện bởi bàn tay các nghệ nhân xuất sắc nhất của Nga. Trên những phiến đá cẩm thạch lớn được ốp dọc theo hành lang nhà thờ khắc họ tên những người lính Nga đã xả thân trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812, tham gia đánh đuổi đội quân xâm lược của Hoàng đế Pháp Napoleon khỏi nước Nga.

Nguồn : Chiến sĩ Chúa Kitô

“NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI”- TGM Giuse Vũ Văn Thiên

“NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Có lần, khi dẫn các vị khách không cùng tôn giáo đi thăm hang đá Giáng Sinh, có vị đã hỏi ý nghĩa của dòng chữ ghi trên hang đá “Ngôi Lời đã làm người”, tôi thấy thật khó để giải thích một điều cốt lõi của Đức tin Kitô giáo.  Quả vậy, mầu nhiệm Nhập thể không thể diễn đạt trong vài câu từ.  Ngay cả đối với các Kitô hữu, tín điều này là một huyền nhiệm mà lý trí hữu hạn của con người phải im lặng cung kính tôn thờ trước quyền năng cao cả và tình thương vô bờ của Thiên Chúa Tối cao.

“Ngôi Lời đã làm người”, Tác giả Tin Mừng thứ bốn khẳng định với chúng ta như thế.  Ông đã khởi đầu tác phẩm của mình bằng cách đi tìm nguồn gốc của Ngôi Lời thiên linh.  Ngôi Lời ấy đã hiện hữu từ muôn thuở.  Ngôi Lời vừa giống Chúa Cha, lại vừa khác với Ngài.  Ngôi Lời giống Chúa Cha vì Ngôi Lời là Thiên Chúa, Ngôi Lời khác với Chúa Cha vì “Người vẫn hướng về Thiên Chúa.”  Sự tương tự và khác biệt chỉ có thể hiện hữu do quyền năng của Thiên Chúa.  Thánh Gioan muốn chứng minh: Đức Giêsu Kitô thành Nagiarét là Thiên Chúa thật, và cũng là người thật.  Như trên đã nói, lý trí con người hữu hạn, suy bao nhiêu cũng không thể hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, tức là sự kiện Thiên Chúa và con người nên một nơi Đức Giêsu.  Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Đức Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha.  Lời tuyên xưng ấy nói lên sự tương tự huyền nhiệm này.

“Ngôi Lời đã làm người”, để làm gì?  Thưa, để chiếu sáng thế gian.  Đức Giêsu là ánh sáng trần gian.  Chính Người đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian.  Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).  Sứ mạng của Đức Giêsu là soi sáng trần gian, giúp con người nhận ra Chân lý, và nhờ đó họ được sống đời đời.  Ánh sáng của Chúa Giêsu là cuộc đời và giáo huấn của Người.  Ai đến với Người, thì không còn phải đau khổ, vì họ được an ủi và tìm thấy bình an.  Lịch sử Kitô giáo hai ngàn năm qua đã chứng minh điều đó.  Bất cứ ai đến với Đức Giêsu, đều được Người đón nhận.  Sự kiện lễ Giáng sinh được cử hành vào nửa đêm theo truyền thống từ xa xưa, cũng nhằm khẳng định Đức Giêsu là ánh sáng bừng lên trong đêm tối cuộc đời.

“Ngôi Lời đã làm người” trong hoàn cảnh nào?  Tác giả Tin Mừng thứ bốn viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).  Thánh Gioan muốn nói đến những người khước từ Chúa Giêsu.  Sự khước từ ấy thể hiện qua việc Thánh Giuse và Đức Trinh nữ Maria gõ cửa nhiều quán trọ, mà không tìm được một chốn trú ngụ qua đêm.  Những chủ quán thời đó có thể khước từ vì thấy hai ông bà nghèo nàn, mà bà thì lại sắp sinh con.  Chính vì sự khước từ này mà Ngôi Lời đã phải khởi đầu hành trình trần thế trong khung cảnh nghèo nàn tột bậc.  Đó là hang đá, nơi dùng cho chiên bò trú ngụ qua đêm để tránh sương lạnh mùa đông buốt giá.  Trải dài suốt lịch sử, có rất nhiều người đón nhận Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Người.  Tuy vậy, cũng có nhiều người khước từ Chúa.  Những người đón tiếp Chúa vì đã nhận ra nơi Người con đường Chân lý và ý nghĩa cuộc đời.  Những người khước từ Người vì thấy nơi Người những ràng buộc kìm hãm mọi đam mê của họ.  Theo Đức Giêsu phải chấp nhận bỏ mình.  Bởi lẽ, Đức Giêsu đã đi trên con đường thập giá và đã chết trên thập giá.  Kitô hữu là người nên giống Chúa Kitô trong cuộc sống, thì cũng phải nên giống Người trong mầu nhiệm thập giá.  Cũng tác giả Tin Mừng thứ bốn đã khẳng định: “Những ai đón nhận, tức là tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (c 12).

“Ngôi Lời đã làm người” dạy ta điều gì?  Thiên Chúa cao cả đã hạ mình trở nên Hài Nhi bé nhỏ, sinh ra bởi một người phụ nữ.  Đó là sự khiêm nhường của Thiên Chúa.  Mầu nhiệm nhập thể dạy chúng ta, muốn nên thánh, trước hết phải là con người theo đúng nghĩa, tức là con người với đầy đủ những đức tính nhân bản.  Có những người chưa làm người đã đòi làm thánh, vì vậy họ sống trong ảo tưởng, lang thang vô định mà chẳng thấy bình an.  Noi gương Đức Giêsu, chúng ta sống khiêm nhường trước mặt Chúa và đối với anh chị em mình, vì “ai hạ mình xuống sẽ được Chúa nâng lên.”

Ngôi Lời đã làm người”, và hôm nay Người đang ở giữa chúng ta.  Hang đá máng cỏ chỉ là phác họa sự kiện lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm.  Khi mừng lễ Giáng sinh, mỗi tín hữu hãy nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương ấy.  Và, cũng như Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng hãy trở nên nhân chứng của Ánh Sáng ngàn đời, đem Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang khát khao Chân lý và đang tìm ý nghĩa cuộc đời.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NHẬP THỂ SÂU ĐẬM – MỘT Ý NGHĨA KHÁC CỦA LỄ GIÁNG SINH

NHẬP THỂ SÂU ĐẬM – MỘT Ý NGHĨA KHÁC CỦA LỄ GIÁNG SINH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cách đây vài năm, trong một buổi hội thảo tôn giáo, một người tiến đến gần máy vi âm, sau khi xin lỗi vì ông nghĩ đây là câu hỏi không phù hợp, ông hỏi: “Tôi mê con chó của tôi.  Khi nó chết, nó có lên thiên đàng không?  Động vật có đời sống vĩnh cửu không?”

Câu trả lời cho câu hỏi này có thể làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng qua cái nhìn của đức tin Kitô giáo, thì có, con chó có thể lên thiên đàng.  Đó là một trong các ý nghĩa của lễ Giáng Sinh.  Chúa xuống trần để cứu thế giới, không phải chỉ con người sống trên quả đất.  Nhập thể có một ý nghĩa cho nhân loại, nhưng cũng có ý nghĩa cho toàn vũ trụ.  Chính xác điều đó có nghĩa là gì, trí tưởng tượng của chúng ta không ở tầm mức hình dung ra được, nhưng, nhờ nhập thể, con chó cũng có thể lên thiên đàng.  Có hoang tưỏng đây không?  Không, đó là giảng dạy của Kinh Thánh.

Lễ Giáng Sinh là lễ mừng Chúa ra đời, chúng ta thấy trong sự ra đời của Ngài là khởi đầu mầu nhiệm nhập thể diễn ra trong lịch sử, mầu nhiệm Chúa mặc xác phàm để cứu nhân loại.  Và với điều này, chúng ta có khuynh hướng đấu tranh, làm sao để hiểu Chúa cứu thế giới có nghĩa là gì.  Hầu hết chúng ta xem điều này có nghĩa là Chúa Kitô xuống trần để cứu con người, những người trong chúng ta có ý thức về mình và những tâm hồn vĩnh cửu.

Điều đó đúng, nhưng đức tin cũng đòi hỏi chúng ta tin rằng hành động cứu rỗi của Chúa trong Chúa Kitô trải rộng ra ngoài cả loài người, ngoài cả động vật và các sinh vật sống khác.  Hành động của Chúa trong Chúa Kitô đạt đến mức sâu đậm đến mức có thể cứu được chính sự tạo dựng – đại dương, núi đồi, đất đai trồng trọt, cát trong sa mạc và chính quả đất.  Chúa Kitô xuống trần cứu tất cả mọi sự, chứ không phải chỉ một mình loài người chúng ta.

Chúng ta có thể hỏi ở đâu Sách Thánh đã dạy những điều này?  Điều này được dạy ở hầu hết mọi chỗ một cách ngầm mặc, nhưng nó được dạy một cách khá rõ ràng ở một số nơi khác nhau.  Chẳng hạn trong Thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma (8, 19-22), ngài viết: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.  Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.  Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang.  Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở.”

Điều này có thể làm chúng ta ngạc nhiên, vì cho đến gần đây, việc giảng dạy và giáo lý của chúng ta thường không làm điều này trở nên rõ ràng.  Tuy nhiên ở đây Thánh Phaolô đã nói, chính sự tạo dựng thể lý, toàn vũ trụ, vào ngày tận thế, sẽ được biến đổi một cách vinh quang nào đó và được lên thiên đàng, tất cả cũng như loài người.  Ngài cũng nói rằng, như chúng ta, cũng cảm nhận được sự chết và những rên siết để thoát khỏi các giới hạn hiện nay của mình.

Chúng ta cũng phải tự đặt cho mình câu hỏi này không?  Chúng ta nghĩ gì sẽ xảy ra với tạo dựng thể lý vào cuối thời gian?  Nó sẽ bi hủy hoại, đốt cháy, tiêu diệt?  Hoặc đơn giản nó sẽ bị bỏ rơi, bỏ trống, bỏ hoang như cảnh sân khấu sau khi vở diễn kết thúc, trong khi chúng ta tiếp tục cuộc sống ở nơi khác?  Sách Thánh chỉ dẫn cho chúng ta một cách khác, Sách Thánh nói với chúng ta chính tạo dựng thể lý, quả đất chúng ta sẽ được biến đổi (“không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát”) và sẽ lên thiên đàng với chúng ta.  Làm thế nào điều này sẽ xảy ra?  Chúng ta không thể hình dung được điều này, cũng như chúng ta không hình dung được trạng thái biến đổi của chính mình.  Nhưng Sách Thánh bảo đảm với chúng ta điều này sẽ xảy ra, vì cũng như chúng ta, thế giới chúng ta, tạo dựng thể lý cũng được định sẵn để chết, và cũng như chúng ta, cảm nhận được sự chết và những rên siết để thoát khỏi các giới hạn của mình và trở thành bất tử.

Khoa học đồng ý.  Nó cho chúng ta biết, tạo dựng thể lý là chết, mặt trời thiêu cháy, năng lượng từ từ giảm dần và quả đất như chúng ta biết sẽ có ngày chết.  Trái đất cũng sinh tử như chúng ta, vì thế để có tương lai, trái đất phải được cứu bởi một cái gì đó hay bởi một ai đó bên ngoài.  Cái Gì Đó và Ai Đó được mạc khải qua mầu nhiệm nhập thể, qua đó Chúa mặc xác phàm trong Chúa Kitô để cứu thế giới – và những gì Ngài cứu không phải chỉ có một mình chúng ta, những người sống trên quả đất nhưng đúng ra là “thế giới”, chính hành tinh và tất cả mọi thứ trên đó.

Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta không có gì cuối cùng là hư mất.  Không một sợi tóc của một ai rơi, không một con chim sẻ nào rơi và biến mất mãi mãi, như thể nó chưa tồn tại.  Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương, chăm sóc và cuối cùng làm sống lại từng mảnh tạo dựng cho muôn đời kể cả con chó yêu quý.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

ĐÁNH MẤT CƠ HỘI NGÀN VÀNG

ĐÁNH MẤT CƠ HỘI NGÀN VÀNG

 Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

(Suy niệm lễ Giáng sinh)

Có một thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ phút gặp mặt đầu tiên.

Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.

Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.

Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến dựng lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la làm quen với cô gái trong hình hài nông dân.

Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!

Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.

Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến dựng lều bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.

Chúa Giê-su khẳng định rằng mỗi người đang sống chung quanh ta cũng chính là Ngài. Những ai cho người đói khát cơm ăn, áo mặc thì Ngài nói là họ đang cho Ngài ăn, mặc. Những ai chăm sóc người đau bệnh là đang chăm sóc Chúa. Tóm lại, bất cứ điều gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Chúa… Vì những người đó là phần thân thể của Chúa Giê-su (Mt 25, 34 – 40).

Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy tượng ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.

Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta không nhận ra Chúa nơi những người đó, nên chúng ta thường đối xử tệ bạc với họ. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày. Thế là “Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gioan 1, 11).

Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!

Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.

Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.

Xin soi sáng cho chúng con biết rằng Chúa và những con người mà chúng con gặp gỡ hằng ngày chỉ là một, để rồi chúng con biết tôn trọng, yêu thương và phục vụ Chúa nơi những anh chị em đó.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

“Trời cao hãy đổ sương xuống…”

“Trời cao hãy đổ sương xuống…”, chúc bạn một ngày tràn đầy ơn thánh nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 20/12/2021

GIÁO LÝ: Tại sao sách Sáng thế mô tả sự sáng tạo như là “công trình 6 ngày”? Đây là cách nói nhằm đề cao ngày nghỉ cuối tuần sau 6 ngày làm việc (St 1-2,3). Nó còn diễn tả rằng sự sáng tạo thật là tốt lành, đẹp đẽ, và được sắp xếp thật khôn ngoan. (YouCat, số 46)

SUY NIỆM: – Từ cách nói tượng trưng là Chúa tạo dựng trong 6 ngày, ta có thể rút ra những yếu tố căn bản sau đây:

1/ Mọi vật đang hiện hữu là do Đấng Tạo Hóa ban cho hiện hữu.

2/ Mỗi thụ tạo có cái tốt lành của nó.

3/ Cả những gì đã trở nên xấu cũng đều có một cái nhân tốt lành.

4/ Tất cả mọi thụ tạo đều tùy thuộc vào nhau, và hiện hữu cho nhau.

5/ Trật tự và hòa hợp nơi vạn vật là phản ánh sự tốt đẹp của Chúa.

6/ Có một cấp bậc nơi vạn vật: con người vượt trên con vật, con vật vượt trên cây cối, cây cối vượt trên các vật vô sinh.

7/ Tạo vật đang tiến bước tới ngày đại lễ, khi Chúa Kitô sẽ đến chinh phục vũ trụ, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. (YouCat, số 46 t.t)

❦ Sáng thế là sách đầu tiên của Kinh thánh diễn tả việc sáng tạo thế giới và sáng tạo loài người.

❦ Đừng tưởng rằng Thiên Chúa muốn cấm ta yêu thế giới. Không, ta phải yêu thế giới vì tất cả những gì trong thế giới đều đáng ta yêu mến. (Thánh Catarina Sienna (1347-1380, nhà thần bí và tiến sĩ Hội Thánh)

LẮNG NGHE: Đây là lời của ĐỨC CHÚA, Đấng tạo dựng trời cao – chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ -, Người phán thế này: Ta là ĐỨC CHÚA, chẳng còn chúa nào khác. (Is 45:18)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa”, xin giúp con luôn hướng về Chúa để tìm được sự bình an đích thực.

THỰC HÀNH: Một lần cha sở họ Ars (thánh Gioan Vianey) nói: “Thiên Chúa đã ban cho con người miệng lưỡi để ca ngợi.’’ Tự kiểm soát lại miệng lưỡi của mình hôm nay nhé.

NIỀM VUI CỦA HAI NGƯỜI MẸ

NIỀM VUI CỦA HAI NGƯỜI MẸ

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Đối với người phụ nữ, được làm mẹ là một hạnh phúc tuyệt vời. Những người phụ nữ không may son sẻ, phải mang nỗi niềm đau khổ suốt đời. Phụng vụ Chúa nhật 4 Mùa Vọng nói với chúng ta niềm vui của hai người mẹ, đó là Đức Trinh nữ Maria và bà Elisabet. Cả hai bà mẹ đều đang mang thai. Cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con. Niềm vui của hai bà mẹ, cũng là niềm vui của hai hài nhi. Bởi thế mà bà Elisabet cảm nhận rõ hài nhi nhảy mừng trong lòng mình. Cuộc gặp gỡ này để lại ấn tượng sâu đậm nơi Đức Trinh nữ, và đoạn Tin Mừng này chắc chắn là do Trinh nữ thuật lại với tác giả Luca. Trước đó vài ngày, sứ thần Gabrien đã cho Đức Trinh nữ biết, bà Elisabet là chị họ của Trinh nữ đã mang thai được sáu tháng dù ở tuổi cao niên. Sau cuộc gặp gỡ, Trinh nữ Maria đã vội vã lên đường để thăm người chị, và cũng để kể cho chị nghe những điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp thực hiện cho dân tộc mình.

Hai người mẹ cảm nhận được những kinh nghiệm rất đặc biệt.  Cả hai người đều khám phá qua hài nhi còn trong lòng dạ mình ánh sáng sâu thẳm đến từ Thiên Chúa. Trinh nữ Maria cảm nhận sâu sắc rằng hài nhi trong lòng là ánh sáng của quyền năng trên cao, lan tỏa và tác động nơi những người đến gần mình.  Sự nhảy mừng của Gioan Tiền hô đã chứng minh điều đó. “Khi bà Elisabet nghe lời chào của Maria, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng bà.  Bà Elisabet được ơn Chúa Thánh Thần và thốt lên: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?” Đó là tiếng kêu ngạc nhiên vui mừng. Đó cũng là lời ca tụng tán dương quyền năng cao cả của Thiên Chúa.

Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều cùng sống niềm hy vọng của dân tộc mình.  Như những người tín hữu đạo hạnh, họ ngày đêm mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát dân tộc khỏi đau khổ lầm than. Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều đang chuẩn bị sinh con và đang nóng lòng chờ đón con mình chào đời.  Chúng ta, những tín hữu cũng đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Ngôi Hai ra đời.  Hai người phụ nữ là gương mẫu cho chúng ta trong tâm thế chờ đợi Chúa.  Việc đón Chúa đến trong đời không còn chỉ là dựa vào những lời sấm xa xưa, nhưng phải được thực hiện với tâm tình yêu mến và với trái tim rộng mở.  Chúa Giêsu không đến với hình hài bé thơ như cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng Người đang đến với chúng ta qua anh chị em, qua những biến cố vui buồn của cuộc sống và nhất là qua các cử hành Phụng vụ.

Ngôi Lời giáng trần là một sự kiện lịch sử.  Chúa Giêsu xuống thế làm người có một quê hương và một gia đình.  Nơi Người sinh hạ là thành phố bé nhỏ có tên là Belem, thuộc xứ Ephata như lời Ngôn sứ Mika đã tuyên sấm (Bài đọc I).  Gia đình của Chúa là Thánh Giuse, người cha nuôi, và Đức Trinh nữ Maria, người mẹ hiền. S ự sinh hạ và cuộc sống của Chúa gắn liền với những địa danh và những nhân vật của thời đại Người.  Chúa Giêsu không phải là một nhân vật của huyền thoại, nhưng là nhân vật lịch sử.  Sự sinh hạ của Người là một mốc son trong lịch sử loài người.  Tác giả thư Do Thái đã chiêm ngắm và suy tư Đức Giêsu ở khía cạnh tư tế.  Người là Thượng tế vĩnh viễn, đã dâng trọn vẹn con người của mình làm của lễ hy sinh dâng lên Chúa Cha.  Hiệu quả của hy lễ ấy là ơn thánh hoá mà nhân loại mọi nơi mọi thời đều được hưởng.  Hôm nay, Người vẫn tiếp tục dâng hy lễ lên Chúa Cha.  Nói rõ hơn, mỗi khi thừa tác viên của Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể, thì làm cho hy lễ thập giá năm xưa trở thành hiện tại, nên suối nguồn ân phúc cho những ai tham dự.  Như thế, cung kính đón nhận Thánh Thể cũng là một điều kiện quan trọng để mừng lễ Giáng Sinh.

Đấng Cứu độ đã hóa thân làm người, và đang ở giữa chúng ta.  Người là Đấng Emmanuel.  Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn và trong cuộc sống, nhờ đó, chúng ta luôn có trái tim mở rộng, chân thành đón tiếp Người.  Như Mẹ Maria, chúng ta có bổn phận phải đem Chúa đến với mọi người, để niềm vui lan toả mọi nẻo đường của cuộc sống và ơn cứu độ đến với trần gian.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?

 ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?

Lm. Mark Link

Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề “Ngày Đức Kitô đến.”  Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến.  Đoạn văn đó như sau:

“Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia.  Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin.  Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến.  Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm.  Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến.  Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục.  Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai.”

Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất là phấn khởi.  Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa biển chết.  Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến.  Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới.  Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng và làm phép rửa.  Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hãy dọn đường cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi” (Lc. 3,3-4).

Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan tẩy giả đã đến tai những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem.  Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan.  Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế.  Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế.  Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cấm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình.  Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.

Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: “Ông là ai?”  Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế.”  Các tư tế hỏi: “nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai?  Ông có phải là Êlia không?”  Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu.  Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa vào cuối đời.  Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến.  Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ.  Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến.  Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.

Họ hỏi: “Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?”  Gioan lại trả lời: “Không!  Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel.”  Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?”  Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến.”  Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội.  Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại.  Người “tiền hô” còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới.  Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa.” (Mc.4).

Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài.  Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến.  Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm.  Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.

Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng.  Giáo Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu.  Giáo Hội hành động giống như vị “Tiền hô” của Ngài.  Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.

Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến.  Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.

Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: “Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài.  Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê…  Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc!  Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp…  Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).

Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người “Tiền hô” của Ngài.  Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.

Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải.  Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:

“Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa.  Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa.  Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng.

Lm. Mark Link