KHÔI PHỤC NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KHÔI PHỤC NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Ba Tuần XXIV – Mùa Thường Niên

“Đừng khóc nữa!”.

Hai giọt nước mắt nhỏ xuống, cùng trôi ra dòng sông cuộc đời. Giọt này nói với giọt kia, “Bạn là ai?”. Giọt kia nói, “Tôi là giọt nước mắt của một cô gái đang yêu một người đàn ông và mất anh ta! Còn bạn, bạn là ai?”. “Ôi, tôi là giọt nước mắt của cô gái đã lấy được anh ấy!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi Lời Chúa hôm nay cũng nói đến những giọt nước mắt, không phải của những cô gái đang yêu, nhưng của một bà mẹ mất con; qua đó, tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ! Đó là một tình yêu lớn hơn sự chết! Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ trên từng khuôn mặt; vì Ngài là tình yêu, luôn ‘khôi phục những gì đã mất’, và luôn làm cho sống!

Như quả phụ Nain mất đứa con duy nhất của mình, con người có nhiều “lý do” để tuyệt vọng, bởi nó vô phương giải quyết muôn vàn khó khăn, nhất là những lúc đối diện với cái chết; lúc ấy, nó bất lực thật sự trong việc giúp đỡ người khác. Vậy mà, Chúa Giêsu vẫn trấn an, “Đừng khóc nữa!”. Quyền năng vô hạn của Ngài giải phóng chúng ta khỏi những giới hạn bi thảm của con người; hơn nữa, “Chúng ta biết rằng, mọi sự đều có ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa!”.

Với tư cách Đấng Cứu Chuộc, Ngài hành động! Vì thế, “Đừng khóc nữa!” mang trọng lượng của một mệnh lệnh hơn là một ủi an. Như ngày tận thế, khi đau khổ và cái chết có thể xuất hiện, thì cuối cùng, Thiên Chúa bày tỏ một tình yêu luôn làm cho sống; sách Khải Huyền viết, “Ngài sẽ lau mọi giọt lệ trên mắt họ, và sẽ không còn chết chóc, than khóc hay đau đớn nữa”. Quả phụ Nain sắp nhận được một ân sủng khôn lường, không thể tưởng tượng so với nỗi buồn của cô; vì rằng, con cô sống lại. Bạn và tôi cũng hãy hy vọng vào lòng nhân từ của Chúa Kitô, Đấng ‘khôi phục những gì đã mất’ nơi chúng ta và nơi cả những người thân yêu của chúng ta.

“Hỡi thanh niên, Tôi truyền cho anh hãy chỗi dậy!”. Chúa Giêsu không an ủi tôi chỉ đơn giản bằng cách loại bỏ cảm xúc hoặc để tôi tưởng tượng rằng, mọi thứ khác
với thực tế. Thay vào đó, Ngài hành động để loại bỏ nguyên nhân gây ra đau khổ và buồn phiền; sách Xuất Hành viết, “Vì Ta là Chúa, Đấng chữa lành các ngươi!”. Khi nói với quả phụ Nain, “Đừng khóc nữa!”, Ngài không kết tội cô là một phụ nữ dễ xúc động và làm quan trọng mọi việc; ngược lại, Chúa Giêsu xót thương cô vì sự mất mát con trai yêu quý. Vì vậy, với tất cả trái tim và linh hồn, tôi phải tin để hy vọng rằng, cuộc sống của tôi nằm trong tay Chúa; cuộc sống của những người thân yêu của tôi nằm trong tay Chúa. Như Phaolô, bạn và tôi cần mạnh mẽ tuyên xưng, “Chúng ta sống, là sống cho Chúa; và chúng ta chết, là chết cho Chúa!”.

Anh Chị em,

“Đừng khóc nữa!”. Đó là lời một thanh niên có tên Giêsu nói với bà mẹ Nain đi ra từ trong thành; thứ Sáu tuần thánh, Giêsu ấy cũng ra khỏi thành, Mẹ anh cũng khóc. Ô hay! Anh không an ủi bà, anh không tự cứu mình mà đã chết thật; để rồi, nhờ cái chết của mình, Giêsu ấy đã kéo toàn thể nhân loại vào Giêrusalem thiên quốc, thành thánh trên trời. Luca viết, “Đoạn tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại”. Lòng từ bi vĩ đại đã hướng dẫn hành động của Chúa Giêsu! Ngài quyết định đương đầu với cái chết, có thể nói là mặt đối mặt; và sẽ đối đầu với nó cách dứt khoát, trực diện, trên Núi Sọ! Với thanh niên Nain đã chết, Ngài nói lớn tiếng cho mọi người nghe, “Hãy chỗi dậy!”; với mỗi người chúng ta, Ngài cũng nói, “Hãy chỗi dậy!”. Giêsu muốn bạn và tôi chỗi dậy, đứng thẳng; Ngài tạo ra chúng ta để đứng thẳng và đứng vững trên đôi chân mình. Vì lý do này, lòng từ bi vĩ đại của Ngài cũng sẽ chữa lành bạn và tôi; điều quan trọng là “Hãy chỗi dậy! Đứng lên!”, và để Ngài ‘khôi phục những gì đã mất!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trong dòng sông cuộc đời của con, xin gạt bỏ những gì trở ngại cho sự mới mẻ của cuộc sống mà Chúa gọi con chỗi dậy để sống. Xin ‘khôi phục những gì đã mất’ nơi con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

Thánh Gioan Kim Khẩu- Cha Vương

Thánh Gioan Kim Khẩu

Mến chúc Bạn và gia đình một ngày an lành. Nào cùng hít thở sâu 10 lần để lấy sinh lực của Chúa Thánh Thần mà phục vụ nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 13/09/2022

Hôm nay 13/9, Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Kim Khẩu. Thánh nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 349 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là Gioan thành Antiokia, được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome. Miệng tuôn toàn những lời quí như vàng. Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục với một lòng nhân ái bao la, truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy sinh hào hiệp. Năm 373, thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách, nhưng tài lợi khẩu, hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người, từ đó danh tiếng Ngài vang dội khắp nơi. Vì danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức thuyết phục nhiều người trở về với chúa, người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên chức giám mục, nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình, ăn chay, cầu nguyện. Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu, sau bốn năm sống khắc khổ, Ngài lâm bệnh dạ dầy nặng, buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục, suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục, miệng tuôn những lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của Ngài.

Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín, cuộc sống hào phóng, xa hoa, trụy lạc của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo. Chính thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo. Năm 397, Ngài được bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv. (Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Thánh nhân qua đời vào ngày 14/9/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

Mời Bạn suy niệm những câu nói vàng ngọc của Ngài sau đây nhé:

(1) Nếu bạn không tìm thấy Chúa Kitô nơi người ăn mày này, thì bạn sẽ không tìm thấy Ngài nơi chén thánh.

(2) Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa.

(3) Cầu nguyện cho chính mình là bản năng tự nhiên; cầu nguyện cho người khác là bản năng của ân sủng.

(4) Yêu tiền bạc là một điều kinh khủng! Nó làm cho con mắt và lỗ tai không còn nghe thấy gì, khi đó con người tệ như con thú hoang dã.

(5) Tình yêu của người chồng và người vợ là sức mạnh gắn bó toàn xã hội.

(6) Dù lời của bạn có đúng cách nào, nó sẽ mất tất cả hiệu lực nếu bạn nói khi bạn giận.

Câu nào đánh động bạn nhất? (Câu 3 & 6 đánh động mình nhất)

Lạy thánh Gioan Kim Khẩu, xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa.

From: Do Dzung 

THƯƠNG XÓT LÀ MỘT QUÀ TẶNG-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THƯƠNG XÓT LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Hai Tuần XXIV – Mùa Thường Niên

“Tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi”.

Jean-Pierre de Caussade, linh mục Dòng Tên người Pháp, nói, “Để thoát khỏi nỗi đau gây nên bởi hối tiếc về quá khứ hay sợ hãi về tương lai, hãy để lại dĩ vãng cho lòng thương xót của Thiên Chúa; trao tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và dâng hiện tại cho tình yêu Chúa bằng việc trung thành với ân sủng. Vì lẽ, ‘thương xót là một quà tặng’, không phải là một quyền!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chứng thực điều cha Jean-Pierre nói, “‘thương xót là một quà tặng’, không phải là một quyền!”. Sự thật này thể hiện qua thái độ khiêm nhường tuyệt vời của viên sĩ quan ngoại giáo, khi ông sai người đến xin Chúa Giêsu chữa cho đầy tớ mình, “Tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi; nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành!”.

Một sự thật sâu sắc Tin Mừng hôm nay tiết lộ là ‘khiêm nhường, đức tin và lòng thương xót’ gắn liền nhau. Viên sĩ quan dường như đã nhận thức được sự vĩ đại của Chúa Giêsu mà ông đã nghe biết; từ đó, ông cảm thấy mình bất xứng tột cùng. Tuyên bố của ông là một hành vi đức tin cao cả; và kết quả là lòng thương xót được gửi đến cho ông và người đầy tớ của ông.

Rất thường xuyên khi cầu nguyện, chúng ta cầu nguyện như thể chúng ta có quyền hưởng mọi ân điển của Thiên Chúa. Đây là một sai lầm sâu sắc! Hãy học gương tự hạ của viên sĩ quan bằng cách hiểu rằng, chúng ta không có quyền trước bất cứ điều gì đến từ Ngài. Thừa nhận khiêm hạ này là nền tảng cần thiết để đón nhận lòng thương xót dồi dào của Ngài; vì ‘thương xót là một quà tặng’, không phải là một quyền! Nhưng tin tốt lành là trái tim Thiên Chúa luôn bùng cháy với ước muốn tuôn đổ quà tặng thương xót đó. Việc thừa nhận lòng thương xót của Thiên Chúa như một món quà tuyệt đối mà chúng ta không có quyền đòi hỏi, mở ra sức mạnh của nó trong cuộc sống chúng ta. Hiểu được lẽ thật này là một lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và làm vui lòng Ngài
cách tuyệt đối và dồi dào nhất.

Trong thư Côrintô hôm nay, thánh Phaolô nhắc đến Bí Tích Thánh Thể, một hồng ân thương xót nhưng không của Thiên Chúa. Vì thế, một khi đến với Thánh Thể, tín hữu Côrintô phải nên tốt hơn, chứ không để nên tệ hơn. Thánh Thể biểu hiện rõ nét rằng, ‘thương xót là một quà tặng’. Vì thế, “Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”. Thánh Lễ không là đặc quyền của ai, nhưng cho mọi người.

Anh Chị em,

“Con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con!”. Hôm nay, bạn và tôi cùng suy gẫm về những lời đầy cảm hứng của viên sĩ quan ngoại giáo giàu có này, lời mà chúng ta đọc mỗi lần trước khi rước Chúa, “Nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh!”. Hãy lặp đi lặp lại nhiều lần, hãy để những lời này ứa trào từ trái tim chật hẹp của mình; hãy để chúng trở thành nền tảng của mối quan hệ giữa bạn với Chúa Thánh Thể. Với sự khiêm nhường này, bạn và tôi sẽ được ban phúc dồi dào cùng với niềm vui chứa chan. Không ai trong chúng ta dám nói, lòng tôi xứng đáng trở nên cung điện cho Vua muôn vua, Chúa các chúa; cũng không ai dám nghĩ tâm hồn mình trong ngần như tâm hồn một trẻ thơ! Chúng ta là những tội nhân khốn cùng, đáng chết ngàn lần, nhưng được xót thương. Và như vậy, rõ ràng, ‘thương xót là một quà tặng’ hoàn toàn miễn phí. Vấn đề còn lại, mỗi người sống sao cho xứng đáng với quà tặng xót thương đó!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con; xin giúp con bớt bất xứng mỗi ngày trước khi rước Chúa, Vua Cả Thiên Đàng!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG, MỘT CÁCH NGHIÊM TÚC?

CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG, MỘT CÁCH NGHIÊM TÚC?

Một đoạn trích từ cuốn Hướng Dẫn để Cầu Nguyện Dành cho Người Bận Rộn.

Bởi: DEACON GREG KANDRA

Chuyển ngữ:  Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương

Khi tôi còn là một thiếu niên, tôi đã dành mùa hè để đi rửa chén bát và dọn bàn tại tiệm kem Gifford ở Silver Spring, Maryland.  Tôi vẫn có thể nhớ mùi khó chịu giữa kem tan chảy hòa quyện với mùi hương xà phòng của nước rửa chén.  Thật là kinh dị.

Thú thật, cả mùa hè năm đó tôi không tài nào ăn nổi một chút kem.  Nghĩ đến nó tôi đã buồn nôn.  Chiều tối nào tôi cũng ăn đầy miệng các loại kem trái cây với sôcôla, phô mai chảy, quả xơri (đã lấy hạt) và những vụn cốm đủ màu ỉu xìu.  May thay, tôi đã lấy lại được phong độ.   Kem không còn là vấn đề đối với tôi nữa (dù bác sĩ của tôi và vợ tôi có thể không đồng tình với tôi).

Dù sao, tôi đã có lý do để nhớ vào mùa hè đó khi tôi nhặt được một bản sao Việc thực hành về sự hiện diện của Thiên Chúa của một tu sĩ dòng Camêlô (Cát Minh) ít ai biết, tên là Nicolas Herman, anh được biết đến nhiều hơn với tên gọi Anh Lawrence.

Nhiều thế kỷ trước, anh Lawrence đã tạo ra một hình thức tâm linh đơn giản nhưng sâu sắc làm say mê các thế hệ tín hữu.  Tôi nghĩ rằng nó cung cấp cho chúng ta một mô hình để thực hiện việc cầu nguyện không chỉ là một phần trong cuộc sống của chúng ta mà còn thực sự là phần tuyệt vời nhất.  Thực hành sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi chính hành động sống thành một lời cầu nguyện bền bỉ, liên tục, một cách cầu nguyện không ngừng.

Một Khởi Đầu Không Cảm Hứng.  Nicolas Herman sinh ra ở Pháp vào năm 1614.  Anh bị thương trong nghĩa vụ quân sự và trong khi hồi phục, ông quyết định muốn trở thành một thầy tu.  Khi hai mươi sáu tuổi, anh gia nhập Dòng Carmel (Cát Minh) đi chân đất (khổ hạnh) ở Paris với tư cách là anh em giáo dân và lấy tên trong dòng là Lawrence.

Đó không phải là điều mà bất cứ ai cũng có thể coi là hấp dẫn.  Lawrence làm việc trong nhà bếp tu viện, nấu các bữa ăn cho các anh em tu sĩ.  Trong những năm sau đó, anh chuyển sang làm sandal.  Đó là khoảng thời gian thú vị như cuộc sống của anh.

Nhưng thật là bận rộn, tẻ nhạt,… không cảm hứng.

Anh Lawrence nhận thấy cuộc sống trong một tu viện gần như không thăng hoa như anh mong đợi.  Anh cầu nguyện, suy gẫm và dành hàng giờ trong thinh lặng.  Và không gì trong số đó thực sự lấp đầy được anh.  Thay vào đó, anh ta đã phát triển hình thức tâm linh độc đáo của riêng mình bằng cách rèn luyện bản thân để thực hành sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa.  Và nó đã xảy ra chỉ bằng cách rửa chén đĩa.  Như anh đã viết: Tôi đã từ bỏ tất cả những hình thức đạo đức và những lời cầu nguyện không cần thiết và tôi tận hiến chính mình cách độc chiếm để luôn luôn ở trong sự hiện diện linh thiêng của Chúa . Tôi giữ mình trước sự hiện diện của Chúa bằng sự chăm chú đơn giản và nhận thức yêu thương chung về Thiên Chúa mà tôi gọi là “sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa” hay tốt hơn, một cuộc trò chuyện thầm lặng và bí mật của linh hồn với Chúa đang kéo dài.

Anh Lawrence đã chết trong lặng lẽ ở tuổi bảy mươi bảy, và cuốn sách mỏng manh anh để lại là một kho báu nhỏ nhưng cao đẹp.  Nó tương đương với “quy tắc” của riêng anh, một sự hướng dẫn cho tất cả những ai muốn biến cuộc sống hàng ngày thành một lời cầu nguyện không ngừng (liên lỉ).

Khả Năng Thích Ứng của Việc Cầu Nguyện.  Về cuộc sống trong bếp, Anh Lawrence viết: “Thời gian hoạt động hoàn toàn không khác với những giờ cầu nguyện, vì tôi có Chúa cách bình an trong sự hỗn loạn của nhà bếp, nơi mọi người thường hỏi tôi về những điều khác nhau cùng một lúc, tôi làm như khi tôi quỳ trước Bí tích Thánh Thể vậy.”

Cho đến ngày nay, Anh Lawrence vẫn là một nhân chứng quan trọng cho một điều mà nhiều người trong chúng ta bỏ bê hoặc bỏ qua: cầu nguyện thì vô cùng sáng tạo và thích nghi.  Nó có thể và nên liên quan đến tất cả những gì chúng ta là.  Chúng ta cầu nguyện với Chúa như sự sáng tạo của Người, như những con vật đang vất vả, vật lộn, vui mừng, và, vâng, đang làm việc.  Bạn muốn “cầu nguyện không ngừng?”  Hãy bắt đầu bằng cách biến mọi hành động, mọi cử chỉ, mọi nhiệm vụ thành một hình thức cầu nguyện.  Hãy dâng tất cả cho Thiên Chúa.  Hãy cầu nguyện tại bồn rửa, trong nhà để xe, trên xe buýt, trong vườn, trong phòng ngủ nhỏ phía sau một đống giấy tờ đang chờ nộp.

ất kỳ công việc nào, được dâng lên với tình yêu dành cho Chúa, có thể là một lời cầu nguyện nếu chúng ta muốn.  Có thật không.  Trả lời điện thoại, chăm sóc khu vườn, đánh máy một tờ giấy về thời hạn, cân bằng sổ séc, thay tã, băng bó vết thương – tất cả những điều này và hơn thế nữa là một phần của thế giới vô cùng kỳ diệu và không hoàn hảo của Thiên Chúa.

Chúng ta có thể làm nhiều hơn là chỉ thực hiện các nhiệm vụ này.  Chúng ta có thể cầu nguyệnvới chúng.

Khi tôi lớn lên, mẹ tôi có một tấm bảng cầu nguyện nhỏ treo trên bồn rửa trong nhà bếp của chúng tôi.  “Lời cầu nguyện trong nhà Bếp” nói về sự tận tâm của Anh Lawrence và lòng đạo đức hàng ngày mà rất nhiều người trong chúng ta cố gắng sống.

Klara Munkres, một giáo viên đã nghỉ hưu từ Savannah, Missouri, đã viết lời cầu nguyện.  Chị chết năm 1971 và mặc dù hầu hết mọi người chưa bao giờ nghe nói về chị, nhưng vô số người biết những lời của chị, được trích ra dưới đây.

Lạy Chúa của tất cả mọi sự.
Vì con không có thời gian để trở thành
một vị thánh bằng cách làm những điều đáng yêu hoặc
thức khuya với Chúa; hay mơ màng dưới ánh bình minh hoặc
gõ Cổng thiên đàng.  Xin Chúa hãy làm cho con thành một vị thánh
qua việc nấu những  bữa ăn và rửa chén đĩa.

Klara Munkres đã tiếp tục với một thứ gì đó – chị có được sự thanh thản có thể đến từ việc làm bất cứ điều gì và mọi thứ cho Chúa.

Hãy Hiến Dâng Chính Mình cho Chúa.  Anh Lawrence, năm thế kỷ trước đó, hiểu rằng cầu nguyện không ngừng không khó như nó có vẻ.  Anh nắm vững thần học về sự hiện diện, ân huệ về sự hiện diện với Thiên Chúa và biến nhận thức sâu sắc đó thành một thực hành từng phút giây trong cuộc đời mình.

Bí mật của anh Lawrence? “Tôi chuyên tâm không làm gì và không nghĩ gì có thể làm mất lòng Chúa. Tôi hy vọng rằng khi tôi đã làm những gì tôi có thể, Chúa sẽ làm với tôi những gì Người muốn.”

Nghe có vẻ đơn giản, nhưng thách đố rất lớn.  Đó là công việc của một người trọn cả cuộc đời, khi tôi còn là một thiếu niên, đó là cách tôi cảm nhận về việc rửa chén bát tại một tiệm kem.

Nhưng những lợi ích của kiểu cầu nguyện trọn đời được mô tả bởi Anh Lawrence kéo dài lâu hơn.  Và mùi hương thì vô cùng ngọt ngào.

Phó tế Greg Kandra là phó tế vĩnh viễn cho Giáo phận Brooklyn.  Ông viết blog tại patheos.com và phục vụ như là biên tập viên đa phương tiện cho Hiệp hội phúc lợi Công giáo Cận Đông.

Cuốn sách mới của ông, Hướng Dẫn Cầu Nguyện cho Người Bận Rộn có sẵn tại wau.org và amazon.com.

Theo The Word Among Us
July/August 2019 Issue
Chuyển ngữ:  Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương

 From: Langthangchieutim 

  Ta có được thờ kính Đức Maria không? Cha Vương

  Ta có được thờ kính Đức Maria không?

Mừng Tết Trung Thu nhé! Thay vì rước lồng đèn thì mời bạn đốt một ngọn nến để tôn kính Mẹ vì Mẹ được ví như là vầng trăng tuyệt vời, vầng trăng đón nhận ánh sáng từ Thiên Chúa và phản chiếu cho nhân loại. Xin Mẹ đồng hành với bạn hôm nay.

Cha Vương

 

Thứ 7: 10/09/2022

GIÁO LÝ: Ta có được thờ kính Đức Maria không? Không. Chúng ta chỉ thờ một mình Thiên Chúa. Nhưng chúng ta có thể tôn kính Đức Maria cách đặc biệt, vì Người là Mẹ Đấng Cứu Thế. (YouCat, số 149)

SUY NIỆM: Thờ kính có nghĩa là nhìn nhận cách khiêm tốn vô điều kiện quyền tối cao tuyệt đối của Thiên Chúa trên mọi thụ tạo. Đức Maria là một thụ tạo như ta. Người là Mẹ ta theo đức tin. Và ta phải thảo kính cha mẹ, đó là Kinh thánh dạy. Và Đức Maria đã nói về mình rằng: Vâng từ nay mọi thế hệ sẽ khen tôi có phước (Lc 1,48). Trong Hội thánh, việc tôn kính này được diễn ra một cách độc đáo trong các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ, trong các lễ phụng vụ kính Mẹ Thiên Chúa và trong các kinh nguyện tôn kính Đức Mẹ, như kinh Mân Côi, được xem là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng. (YouCat, số 149 t.t.)

❦ Là người tôn sùng Đức Mẹ, có biệt danh là Linh mục Kinh Mân Côi, Bậc đáng kính Patrick Peyton (1909-1992) nói: “Gia đình cầu nguyện với nhau thì hòa thuận với nhau. Thế giới cầu nguyện là thế giới bình an”

LẮNG NGHE: Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc 1:35)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, đoàn con tôn kính Mẹ vì Mẹ  là Mẹ của Đấng Cứu Thế và là Mẹ của những ai tin vào Chúa, “xin Mẹ lấy đức đơn sơ, điềm tĩnh, khôn ngoan, hiền dịu và quả cảm của Mẹ thay thế vào lòng con” để con nên giống Mẹ hôm nay.

THỰC HÀNH: Sắp xếp có giờ đọc kinh chung trong gia đình hoặc nối mạng với những người thân thương bạn bè đọc kinh trên “zoom/điện thoại” cũng mang lại hiệu quả rất tương xứng.

From: Đỗ Dzũng

KHÔNG SỢ SAI LẦM – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KHÔNG SỢ SAI LẦM

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Sáu Tuần XXIII- Mùa Thường Niên

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!”.

Một người bạn nói với mục sư Adoniram Judson rằng, một bài báo đã ví anh như một số tông đồ. Judson trả lời, “Tôi không muốn giống Phaolô hay bất kỳ ai khác. Tôi muốn giống Chúa Kitô! Tôi chỉ muốn theo Ngài, uống Thánh Linh của Ngài, đặt chân tôi vào dấu chân Ngài, sống lời Ngài, và dạy lời Ngài mà ‘không sợ sai lầm’. Ồ, tôi muốn giống Chúa Kitô thôi!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Tôi muốn giống Chúa Kitô thôi!”. Phải chăng đây cũng là ý chí kiên định của Phaolô khi ngài quyết tâm đánh đổi tất cả để nên giống Chúa Kitô, có Chúa Kitô, và muốn muôn dân biết Chúa Kitô, “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!”. Uống Thánh Linh của Chúa Kitô, sống lời Ngài, Phaolô can đảm bôn tẩu, rong ruổi, loan báo Tin Mừng Đức Kitô mà ‘không sợ sai lầm’.

Thế nhưng, với chúng ta, phải bắt đầu từ đâu? Phải rao giảng làm sao mà ‘không sợ sai lầm?’. Như Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, coi “mọi sự như rác rưởi trước mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô”; trước hết, chúng ta phải được nung nấu bởi tình yêu của Chúa Kitô, hiểu biết Ngài nhờ quyền năng của Thánh Thần. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sẽ giải thích điều này rõ hơn; Ngài nói, “Người mù có thể dắt người mù được sao?”. Nghĩa là, trước tiên, tông đồ phải là người biết thật rõ, thấy thật rõ, mình đang đi đâu, trên con đường nào, và sẽ dẫn đến đâu? Là một người chỉ đường, rao giảng Chúa Kitô, chúng ta cần xác tín, ngoài con đường Giêsu, không có con đường nào khác! Ngài là Đấng đến từ Chúa Cha, nên Ngài biết rõ đường. Hãy suy gẫm về tầm quan trọng và vị trí trung tâm của Chúa Kitô đối với hành trình tiến về Nhà Cha của chính chúng ta và của những người chúng ta sẽ hướng dẫn mà ‘không sợ sai lầm!’.

Thứ đến, là người dẫn đưa người khác đến với Chúa, chúng ta cần có ‘một lo lắng’ nào đó; không phải sợ hãi, nhưng thực sự là không thể coi thường! Trước trách vụ lớn lao và cấp bách đó, cách khôn ngoan nhất là chúng ta dựa vào Giáo Hội. Chúa Giêsu không chỉ thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sự dạy dỗ của Ngài, nhưng còn ban cho Giáo Hội ân sủng Thánh Thần để gìn giữ Giáo Hội khỏi sai lầm. Chúng ta không cậy mình, nhưng biết rằng, tôi không hề lẻ loi. Sự tự tin của chúng ta cần bắt nguồn từ sự hiểu biết rằng, chúng ta đang ở trong Giáo Hội, hợp nhất với Giáo Hội và thực hành giáo huấn của Giáo Hội.

Học tập là một ‘tiến trình thường huấn’ kéo dài suốt đời; vậy mà, chúng ta hay coi thường, không cần đào sâu cho mình những hiểu biết đức tin. Vì thế, tuy không sợ sai lầm, nhưng việc giảng dạy của chúng ta thường chỉ dừng lại ở cấp Rước Chúa lần đầu hoặc Thêm Sức! Tại sao, vì chúng ta tự mãn, chúng ta không biết mình ‘nghèo’, nên những người chúng ta dạy dỗ không bao giờ ‘giàu’; và như thế, không ít người lớn chỉ được chúng ta đào tạo với những gì đủ cho một đứa trẻ! Vậy hãy học biết Chúa Kitô mỗi ngày, đào sâu đức tin, suy tư, nghiên cứu, chiêm ngắm những mầu nhiệm của Ngài; đồng thời, cho phép ân điển Thánh Thần biến đổi cuộc sống chúng ta mỗi ngày. Được như thế, chúng ta mới có thể nâng cao đời sống đức tin, làm nóng sốt hồn tông đồ nơi chính mình và nơi những người chúng ta hướng dẫn mà ‘không sợ sai lầm’.

Anh Chị em,

“Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!”. Chớ gì mỗi người chúng ta có chung một thao thức như Phaolô! Vậy mà, chúng ta chỉ có thể rao giảng Chúa Kitô, giúp đỡ và dạy dỗ người khác đến với Ngài bằng chính những gì chúng ta đã học biết và nhận được từ Ngài. Ngài là vị Thầy, Hướng Đạo thông thái, Đức Hôn Phu tuyệt vời của Hiền Thê Giáo Hội vốn là người mẹ khôn ngoan nhất của chúng ta. Ngài còn là Thầy Thuốc đa khoa có thể chữa lành sự mù loà, đánh bại mọi tội lỗi, băng bó mọi thương tích, nâng đỡ bao yếu đuối và lấp đầy những nông nổi của chúng ta. Được như thế, chúng ta có thể dẫn dắt người khác mà ‘không sợ sai lầm!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin hạ thấp dãy núi tự mãn nơi con, cho con biết mình ‘nghèo’; xin dạy con mỗi ngày trên đầu gối Giáo Hội. Từ đó, con làm cho anh chị em con ‘giàu’ mà ‘không sợ sai lầm!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

From: Kim Bang Nguyen 

Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên (1580-1654)-Cha Vương

Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên (1580-1654)

Chúc Bạn một cuối tuần an lành trong Tình Yêu Thiên Chúa. Đừng quên cầu nguyện cho nhau nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 09/09/2022

Hôm nay 09/09, Giáo hội mừng lễ nhớ Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên, truyền giáo tại nước Colombia, Nam Mỹ Tây ban nha-Columbia (1580-1654). Sau khi tốt nghiệp  tại đại học Barcelona nước Tây ban nha, cậu quyết định theo ơn gọi Dòng Chúa Giêsu. Dưới sự giám hộ của thánh Alphonsô Rodriguez cậu được huấn luyện làm chiến sĩ truyền giáo cho Nam Mỹ.

Người Tây ban nha truyền giáo tại Colombia: Khấn dòng rồi, thầy được gửi đi Cartagena nước Colombia năm 1610, được chịu chức linh mục năm 1615.  Làm việc truyền giáo tại một trung tâm mua bán người nô lệ da đen. Mỗi tháng có tới hàng ngàn nô lệ được đổi chác.

Tự nhận mình là “nô lệ của những người nô lệ”, cha đã dành hầu cả cuộc đời mình (40 năm) để phục vụ người nô lệ.  Mỗi khi nghe có tàu Âu châu cập bến, cha đem quần áo,  thực phẩm, thuốc và nước uống cho họ, vì thế mà cha chinh phục được nhiều người trở lại với Chúa.  Ngài đã rửa tội được 300,000 người nô lệ tại Cartagena.

Cha Peter khi cầu nguyện, thường mở cuốn sách “Đời sống Chúa Giêsu “, nhìn vào hình ảnh Chúa trong đó mà cầu nguyện theo lối thánh Ignatio chỉ dạy.  Ngài mở nhiều đến nỗi sách rách và cũ mèn. Hình coi cũ nhất là hình Chúa Giêsu đau khổ cầu nguyện trong vườn Giêtsimani, Chúa bị đánh đòn, đội mũ gai, và chết trên thánh giá. Nhớ tới Chúa Giêsu tử nạn làm tăng sức cho cha Peter thương những người da đen cùng khổ.

Nguyên tắc nên thánh: Cha Peter viết trong tập sổ tay 4 nguyên tắc hướng dẫn đời ngài, những nguyên tắc giúp ngài nên thánh: (1)Tìm Chúa trong mọi sự, (2) vâng lời các bề trên như vâng lời Chúa, (3) làm mọi sự cho vinh danh Chúa hơn, (4) vui lòng đón nhận bất cứ đau khổ nào, hoặc việc làm nào có thể cứu các linh hồn.

Năm 1560, cha Peter bị bệnh dịch, mệt mỏi vì công việc, ngài nằm liệt giường 4 năm. Ngài chết tại Cartagena ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ  8 tháng 9 năm 1654.  Ngài được phong thánh năm 1888.  Năm 1896, Đức Giáo Hoàng Lêô 13 đã tôn ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo da đen. (Nguồn: Dân Chúa, Hạnh các thánh)

Sau đây là những câu nói của thánh nhân:

 Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay rộng lượng trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.

Tìm kiếm Chúa trong mọi sự và bạn sẽ tìm thấy Chúa ở bên cạnh bạn. 

Để làm theo ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ chính mình: càng chết cho chính mình, thì càng sống cho Thiên Chúa. (Thánh Peter Claver)

Hôm nay mời Bạn hãy nói gương thánh nhân để nên thánh trong mọi hoàn cảnh của mình nhé.

From: Đỗ Dzũng

THIÊN CHÚA CHỜ MONG-TGM Giuse Vũ Văn Thiên

THIÊN CHÚA CHỜ MONG

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Chuyện kể rằng, có cậu bé hư hỏng, bỏ nhà đi hoang, nay muốn hối lỗi trở về, nhưng lại sợ bố mẹ không chấp nhận.  Trước khi về, cậu viết thư cho cha mẹ, với lời xin nếu cha mẹ sẵn sàng đón nhận, thì hãy treo trên cành cây trước cửa nhà một đồ chơi là chiếc xe tăng mà cậu bé rất thích.  Cậu sẽ trở về nếu nhận được tín hiệu vui.  Nhận được thư này, cha mẹ cậu bé treo trên cành cây, không chỉ là chiếc xe tăng, mà còn cả quần áo, đồ dùng và đồ chơi của cậu bé.  Khi lén đi ngang qua nhà và nhìn thấy, cậu bé cảm động và bước vào nhà, lao vào vòng tay âu yếm bao dung của cha mẹ.

Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng thánh Luca thường được đọc trong Mùa Chay, với lời mời gọi hãy trở về với Chúa, vì Ngài giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương.  Quả vậy, nếu chúng ta có thể tự tin trỗi dậy từ tình trạng tội lỗi để trở về với Chúa, là vì chúng ta tin vào lòng bao dung của Ngài, bởi “Người nổi giận, giận trong giây látnhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 29, 6).

Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.  Ngài luôn chờ đợi chúng ta.  Người cha trong dụ ngôn, kể từ khi người con thứ bỏ nhà ra đi, luôn chờ mong con trở về.  Trong khi người con đi hoang, với ảo tưởng có thể vươn cao vươn xa trong cuộc đời, thì người cha lại vẫn trông chờ và hy vọng nó sẽ trở về.  Bằng chứng là ông vẫn vỗ béo con bê, để khi người con thứ trở về, thì đã có sẵn thực phẩm để đãi bạn bè láng giềng.  Tình Cha thật cao siêu vời vợi.  Sự chờ mong này cũng thể hiện ở chi tiết, khi người con thứ còn ở đàng xa, người cha đã nhận ra và chạy ra đón cậu.  Tình thương vô bờ được thể hiện ở chỗ, ông không để cho cậu nói hết câu cậu định nói, mà gọi gia nhân mang đồ ra cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo và giày cho cậu đi.  Người cha muốn thay đổi thân phận của người con trở về, từ một người chăn heo thành một người con được yêu thương chiều chuộng.

Lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả trong suốt bề dày của lịch sử.  Tác giả sách Xuất Hành kể với chúng ta: khi Thiên Chúa giận dữ vì tội lỗi của dân Do Thái trong sa mạc, Ngài quyết định sẽ tru diệt họ, vì họ đã phản bội Ngài và tôn thờ con bê vàng.  Ông Môisen đã năn nỉ với Chúa.  Lời xin của ông đã làm Chúa nguôi cơn giận, và Ngài không trừng phạt dân.  Nếu đọc sách Xuất Hành, chúng ta còn thấy nhiều trường hợp như vậy.  Mỗi lần dân phản loạn, Thiên Chúa muốn trừng phạt, nhưng rồi Ngài lại thứ tha.  Chúa nghiêm khắc đối với dân Do Thái, giống như một người cha trong gia đình.  Sự nghiêm khắc ấy xuất phát từ tình thương và thiện ý muốn cho con nên người.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể.  Phụng vụ Chúa nhật này nối kết ba dụ ngôn: người chăn chiên bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được một con chiên lạc; người phụ nữ vất vả kỳ công để tìm cho được một đồng bạc đã mất.  Cả hai dụ ngôn này cũng diễn tả sự chờ mong của Thiên Chúa.  Ngài vừa chờ đợi tội nhân trở về, vừa đi tìm kiếm những gì đã mất.  Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người để đi tìm kiếm những tội nhân.  Trong câu chuyện ông Giakêu, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Con người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).  Dụ ngôn người chăn chiên và người phụ nữ, là những minh chứng cho điều Chúa đã khẳng định, đồng thời nêu lên sứ mạng của Người.  “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi” (Bài đọc II).

Nếu Thiên Chúa thương xót con người, thì con người lại không thương yêu đồng loại.  Người con cả trong dụ ngôn là đại diện cho những người cố chấp, ghen tương và thù hận.  Anh đã từ chối mối tương quan huyết nhục khi tuyên bố với cha mình: “Thằng con của cha kia…” (câu 30).  Hình ảnh người con cả cũng phổ biến trong xã hội của chúng ta hôm nay.  Ghen tương thù hận đã dẫn tới tranh giành và xung đột huynh đệ tương tàn.  Hậu quả là bạo lực, chém giết rồi tù tội.  Thái độ người anh cả cũng là thái độ của những người hay kỳ thị coi thường những người đã một thời lầm lỗi, làm cho họ khó hoàn lương hội nhập cuộc sống bình thường.

Mỗi khi khởi đầu Thánh lễ, chúng ta thưa với Chúa ba lần: Xin thương xót chúng con!”  Lời van xin này thể hiện tâm tình sám hối của chúng ta trước nhan Chúa.  Thánh Phaolô nhận mình là kẻ tội lỗi đầu tiên được Chúa cứu.  Kinh nghiệm của ông trên đường đi Đa-mát vẫn sống động và ghi dấu ấn suốt cuộc đời ông.  Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu giúp ông cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa.  Ngài chờ đợi ông trên đường đi Đa-mát, để cải hoá và làm cho ông trở thành Tông đồ.  Điểm đến hành trình của ông vẫn là thành Đa-mát, nhưng mục đích đã thay đổi.  Ông đã là con người mới.

Ước chi kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của mỗi chúng ta.  Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta.  Ngài luôn phát đi tín hiệu gọi mời chúng ta trở về.  Bạn và tôi, chúng ta có ý thức được điều đó không?

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

Tại sao Đức Maria lại có một chỗ cao vượt trong mầu nhiệm “Các Thánh thông công”- Cha Vương

  Tại sao Đức Maria lại có một chỗ cao vượt trong mầu nhiệm “Các Thánh thông công”

Một ngày đầy nhiệt huyết trong sức mạnh của Chúa sau những buổi ăn uống vui chơi của ngày nghỉ dài nhé. 

Cha Vương

Thứ 3: 06/09/2022

GIÁO LÝ: Tại sao Đức Maria lại có một chỗ cao vượt trong mầu nhiệm “Các Thánh thông công”? Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu khi còn ở dưới thế và khi lên trời, sự liên kết mật thiết này vẫn không ngừng. Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng, và trong tình mẫu tử, Mẹ chắc chắn rất gần gũi với chúng ta. Mẹ đã được đón tiếp về Trời cả hồn lẫn xác.(YouCat, số 147)

SUY NIỆM: Bởi vì Đức Maria đã dấn thân cả xác hồn trong một cuộc phiêu lưu liều lĩnh và nguy hiểm, dù là có tính cách thần linh, Mẹ đã được đón nhận về trời cả xác lẫn hồn. Ai sống và tin giống như Đức Maria thì được về trời. (YouCat, số 147 t.t.)

❦ Chúng ta có một Mẹ ở trên trời. Được sống trong Chúa và với Chúa, Mẹ gần gũi mỗi chúng ta, hiểu biết nỗi lòng chúng ta, nghe lời cầu nguyện, giúp đỡ chúng ta như Mẹ nhân lành, và như lời Chúa Giêsu nói, Mẹ được trao ban là Mẹ thật của chúng ta mà chúng ta có thể nói với Mẹ mọi lúc. (Đức Bênêđictô XVI 15-8-2005)

❦ Thiên Chúa không ban cho loài người một người tớ gái nhưng là một người mẹ. (B.Adolf Kolfring, 1813-1865, linh mục Đức tông đồ giới thợ và thủ công)

LẮNG NGHE: Bấy giờ, bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:28)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã ban cho con một người Mẹ tuyệt mỹ, xin Mẹ ban cho con một tâm hồn thanh sạch và thánh thiện, một lối sống đơn sơ và vâng phục để con bước theo Con Mẹ bây giờ và mãi mãi.

THỰC HÀNH: Dành 10 phút để nhõng nhẽo với Mẹ Maria như bạn nhõng nhẽ với mẹ mình vậy nhé. 

From: Đỗ Dzũng

KHUÔN MẪU CỦA GIÁO HỘI – Lm. Minh Anh, Tgp Hue

KHUÔN MẪU CỦA GIÁO HỘI

Lm. Minh Anh, Tgp Hue

Thứ Ba Tuần XXIII  – Mùa Thường Niên

“Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện”; “Ngài đi xuống cùng với các ông”.

John Bunyan nói, “Ai không lên ‘núi thánh’ của Thiên Chúa vào buổi sáng, sẽ hiếm khi tìm thấy Ngài dưới ‘đồng bằng’ suốt thời gian còn lại!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng thú vị của John Bunyan được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay; ở đó, chúng ta khám phá ra hình ảnh của người Kitô hữu, của Giáo Hội, một Giáo Hội lên ‘núi thánh’ và xuống ‘đồng bằng’; một Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động như Chúa Giêsu, ‘khuôn mẫu của Giáo Hội!’.

Trước hết, Luca nói, “Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa”. Hơn các thánh sử khác, Luca miêu tả Chúa Giêsu là một con người cầu nguyện! Cũng thế, Giáo Hội của Chúa Kitô là một Giáo Hội cầu nguyện, liên lỉ cầu nguyện. Mỗi ngày Giáo Hội không ngừng lên những ‘núi thánh’ là các bàn thờ của mình để cùng Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha lời cầu nguyện. Giáo Hội cầu nguyện với Chúa Giêsu, cùng Chúa Giêsu; và tuyệt vời nhất, Giáo Hội được Chúa Giêsu cầu nguyện cho trước nhan thánh Cha Trên Trời!

Luca ghi nhận, “Sáng ngày, Ngài gọi các môn đệ, chọn mười hai vị mà Ngài gọi là tông đồ”. Suốt hai ngàn năm, Giáo Hội đang tiếp tục công việc của Chúa Giêsu. Chính nhờ Ngài, với Ngài, và trong Ngài; nhất là với Thánh Thần của Ngài, Giáo Hội tiếp tục ‘xuống núi’, chọn gọi, và sai con cái của mình ra đi. Đúng thế, từ khắp năm châu, các thừa tác viên có chức thánh hoặc không có chức thánh, bao tâm hồn tận hiến không ngừng được chọn, gọi, và được sai đi.

Luca mô tả, “Ngài đi xuống…, có nhóm môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp các xứ… đến nghe Ngài giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật”. Quyền giáo huấn là đặc quyền các Tông Đồ, tức các Giám Mục nhận từ Chúa Giêsu; và như thế, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội là rao giảng Chúa Kitô, rao giảng Nước Thiên Chúa và mở rộng Vương Quốc Ngài. Bên cạnh đó,
như Chúa Giêsu, ‘khuôn mẫu của Giáo Hội’, Giáo Hội không ngừng tiếp tục chữa lành hồn xác cho con cái mình và tất cả những ai đến với mình. Quả vậy, cùng vậy, cùng Chúa Kitô và ân sủng Thánh Thần, qua các Bí Tích, Giáo Hội đang tiếp tục tìm kiếm, chữa lành, băng bó những con chiên lạc, những ai yếu nhược hẩm hiu khắp cùng thế giới.

Như vậy, ‘núi thánh’ và ‘đồng bằng’ hình thành khuôn mẫu cuộc sống của Chúa Giêsu; cũng là ‘khuôn mẫu của Giáo Hội’, của các cộng đoàn. Thật xót xa, cộng đoàn Côrintô trong bài đọc hôm nay xem ra thiếu ‘lên núi’, họ kiện tụng nhau ngoài toà đời, khiến Phaolô phải lên tiếng. 

Anh Chị em,

“Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện”; “Ngài đi xuống cùng với các ông”. Đó không chỉ là khuôn mẫu của Chúa Giêsu, của Giáo Hội, nhưng còn là khuôn mẫu của mỗi người chúng ta; vì lẽ, Giáo Hội là bạn và tôi! Giáo Hội không ở đâu xa tận Rôma, nhưng “Giáo Hội là tôi!”. Nhịp sống của Chúa Giêsu, của Giáo Hội, nhất định là nhịp sống của bạn và tôi. Buổi sáng, chúng ta lên núi gặp Chúa, ở lại với Ngài; để thời gian còn lại, chúng ta tìm gặp khuôn mặt trìu mến của Ngài nơi những người thân yêu trong gia đình, thân ái trong công sở, thân thiết trong học đường. Nhờ việc lên ‘núi thánh’, chúng ta vui lòng đón nhận những biến cố mừng vui, và cả nước mắt, lao nhọc của bản thân, của tha nhân và của cả thế giới. Mô hình của hai nhịp sống này là đặc điểm của từng ngày sống và cả cuộc sống của người Kitô hữu. Chúng ta lên ‘núi thánh’ qua Bí Tích Thánh Thể mà chóp đỉnh là Thánh Lễ, hay các hình thức cầu nguyện công khai khác; hoặc cầu nguyện thầm lặng và cá nhân hơn; sau đó, chúng ta xuống ‘đồng bằng’, đến với tha nhân, mang theo một điều gì đó từ ‘núi thánh’ Chúa; một nhịp sống tốt lành như thế, hẳn sẽ chứng tỏ điều Thánh Vịnh đáp ca nói đến, “Chúa yêu thương dân Ngài!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Giêsu, ‘khuôn mẫu của Giáo Hội’, của mỗi cộng đoàn, mỗi gia đình và mỗi người chúng con. Xin ban cho con một trái tim khát khao Chúa, cũng là trái tim khát khao Chúa cho anh chị em con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Hue

From:KimBang Nguyen

ĐI TÌM “PHỐ ĐẠO TÂY NGUYÊN”

ĐI TÌM “PHỐ ĐẠO TÂY NGUYÊN”

 F.X Vũ Sinh Hiên

Kể từ sau ngày 30/4/1975, đất nước thống nhất liền một dải, người Kinh từ khắp nơi lên Tây Nguyên Trung phần lập nghiệp, đặc biệt là khu vực gần Ban Mê Thuột- Đaklak. Hàng loạt xứ đạo từ miền Trung được thành lập gần Ban Mê Thuột khiến người người đã “thuổng” một câu kinh trong Thánh lễ Công Giáo mà truyền miệng nhau : “Trời đất đầy Vinh”. Đi từ Nam lên Bắc theo quốc lộ 14, rời Đaklak lên Gia Lai, đến Kontum là gặp con sông Đakbla từ Bắc chảy xuống rồi ngoằn ngoèo ôm trọn bình nguyên Kontum. Địa thế này đã được vị Giám mục Đàng Trong, Đức Cha Cuenot Thể nhìn rõ, mặc dù cả đời Giám mục Đàng Trong của ngài chỉ sống dưới hầm ở Bình Định nhưng tầm nhìn của ngài đã phóng lên Tây Nguyên. “Anh cứ xẻ rừng mà đi, khi gặp con sông lớn, anh dựng lều ở đó và rao giảng Tin Mừng”, lệnh của vị Giám mục cho thầy Sáu Do năm 1848. Vì vậy, khi qua cầu Đakbla là chúng tôi vào địa phận Kontum rồi đấy. Thành phố Kontum hôm nay được phát triển dọc theo quốc lộ 14 lên hướng Bắc thành đại lộ Phan Đình Phùng, trục chính của thành phố, các cửa hiệu cung cấp mọi thứ cho sinh hoạt đều ở đại lộ này.

Nhưng khi vừa qua cầu Đakbla, rẽ tay phải vào đường Nguyễn Huệ, bắt đầu phố đạo Tây Nguyên rồi đấy. Từ thế kỷ 19, các giáo dân : ông cả Ninh, ông cả Quới đã dẫn các thừa sai lên Tây Nguyên qua ngả Quảng Trị, Phú Yên nhưng không thành. Tây Nguyên và vùng đồng bằng Trung phần được coi như hai lãnh thổ, mặc dù trong một quốc gia. Người Kinh không thể vào các buôn làng Baham, Bơlu, Kolphar, Kol Kelang, Kol Kesam mà phải dừng lại ở những cửa khẩu để trao đổi hàng hóa với người dân tộc. Đức Giám mục cẩn thận căn dặn phải tránh gặp các già làng khó tính như ông Baham, ông Lập, ông Bliu và nhất là ông Khiem ở Kolpha được triều đình tin cẩn trao quyền quản trị Tây Nguyên và được người Tây Nguyên gọi là “Bok” (bố). Ông sẵn sàng chặn bắt những đoàn người Kinh xâm nhập vào Tây Nguyên và trao cho triều đình. Đó là số phận của nhiều đoàn thừa sai đi trước thầy Sáu Nguyễn Do.

Lạ lùng thay, tình cờ gặp Bok Khiem trên đường xâm nhập Tây Nguyên, Bok mềm nhũn và lịch sự, kết nghĩa anh em với thầy Sáu Do, nhận các thừa sai Combes (cha Bê) và Fontaine (cha Khâm) là bố. Được sự đỡ đần của “hung thần Tây Nguyên”, thầy Sáu Do lập nghiệp ngay gần con sông, chỗ có tên là Gò Mít, Trại Lý nay là Tân Hương nằm trên đường Nguyễn Huệ. Chung quanh Tân Hương, Giáo hội Chúa phát triển, tòa Giám mục, nhà thờ gỗ chính tòa, trường Cuénot, trường Lê Hữu Từ, nối liền những cơ sở này là đường Bok Do, Bok Khiem và hàng loạt xứ đạo. Giáo phận Kontum được thành lập năm 1933 theo sắc chỉ của Đức Thánh Cha Pio XI và tỉnh Kontum được thành lập năm 1913, khi mà đại lộ Phan Đình Phùng mới chỉ là một con đường mòn. Phố Đạo Tây Nguyên được hình thành mà công đầu là của những người giáo dân can trường, của những người Việt Nam bình dị. Phố Đạo Tây Nguyên đã như một dấu ấn đóng lên Tây Nguyên, dựng lều giữa anh em nhiều sắc tộc khác nhau, níu anh em lại trong cộng đồng Việt để cùng chia sẻ một giang sơn gấm vóc. Cái xương sống của Đông Á này với trăm ngàn đường thượng đạo len lỏi giữa núi rừng, có thể dẫn lên Hoa Nam, vào Gia Định và từng bị nhiều ánh mắt để ý, nhòm ngó, thèm thuồng.Từ thế kỷ 12, 13 vương quốc Chàm đã từng đặt chân lên đây, rải rác ở Ayunpa còn những ngọn tháp như chúng ta thường gặp ở miền Trung. Rồi thực dân Anh sau khi chiếm đóng Ấn Độ, Miến Điện đã thôn tính Thái Lan tràn sang Hạ Lào về tận Bản Đôn, cũng muốn chiếm cao nguyên này để lên Hoa Nam.Với thực dân Pháp thì ý đồ thôn tính Tây Nguyên càng lộ liễu hơn mà cố gắng cuối cùng đầy tuyệt vọng là việc thành lập Hoàng Triều Cương Thổ với dụ số 16 của Quốc trưởng Bảo Đại ký ngày 21/5/1951 “Ấn định một quy chế đặc biệt cho dân cư khác dòng giống Việt Nam, sinh sống tại các miền và tỉnh gọi là Hoàng Triều Cương Thổ miền Nam”. Chỉ 4 năm sau, ngày 11/3/1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm ban hành dụ số 21 “Sát nhập các vùng cao nguyên miền Bắc và miền Nam thuộc Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam và đặt hoàn toàn thuộc quyền quản trị của chính phủ quốc gia”. Mặc cho những tranh chấp của thế lực chính trị ở Tây Nguyên, đã có một cộng đồng Kinh Thượng chan hòa, chấp nhận nhau là anh em trong cùng một gia đình, không ai có thể ép uổng hoặc mê hoặc được để tách rời họ xa nhau. Công đầu này phải là của thầy Sáu Do, của quý ông cả Ninh, cả Quới, của những cư dân khố rách áo ôm từ Quảng Ngãi, Bình Định theo thầy Sáu lên đây, của những thừa sai Pháp Việt bất chấp gian khổ. Kính thưa quý vị, hậu sinh chúng con mang ơn quý vị nhiều lắm.

Và chúng con quyết tâm giữ vững Phố Đạo này như một chứng tích. Hôm nay có thể có những cơ sở, tên đường đã bị đổi thay, chiếm dụng nhưng lịch sử còn đó. Tiện đây chúng tôi muốn nhắc lại lập trường của Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh về các cơ sở tôn giáo bị tịch thu từ sau năm 1975. Được chia làm 3 loại :

  1. Các cơ sở tôn giáo vốn trước đây được dùng trong việc thờ phượng và huấn luyện các chức sắc, chính quyền phải trả lại cho các tôn giáo.
  2. Các cơ sở vốn trước đây được dùng để phục vụ cộng đồng như trường học, nhà thương, chính quyền trưng dụng và phải phục vụ cho lợi ích của dân.
  3. Các cơ sở vốn trước đây các tôn giáo dùng để kinh tài giúp cho sinh hoạt của các tôn giáo, chính quyền cứ giữ lại nhưng phải dùng để phục vụ cho lợi ích của dân.

        Điều cốt lõi là những cơ sở của Phố Đạo chỉ nên được tôn tạo mà không cần phải dẹp bỏ để thay thế bằng những khối bê tông, cho dù là hoành tráng đến mấy đi nữa. Tôn tạo là điều đã được áp dụng cho nhà thờ gỗ ở Kontum.

        Rất mong giáo phận Kontum làm đẹp mãi cho Phố Đạo Tây Nguyên.

   F.X Vũ Sinh Hiên

From: Hồ Công Hưng

HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

HÀNH TRÌNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Luca nói với chúng ta rằng “có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu.”  Và, trong số rất đông người đó, Chúa kêu gọi những ai muốn làm môn đệ thì hãy theo Người, đồng thời Chúa cũng đưa ra những điều kiện cần có để theo Người.  Như thế, môn đệ của Chúa Giêsu là những người được gọi tách ra khỏi đám đông dân chúng, tình nguyện chấp nhận những điều kiện khắt khe và những hệ luỵ của ơn gọi làm Kitô hữu.  Theo Chúa Giêsu, đó là hành trình của người môn đệ. 

Theo từ điển Tiếng Việt, môn có nghĩa “cửa”; đệ có nghĩa là “em”, là “học trò.”  Hai từ này (môn đệ) có nghĩa học trò của một người thày.  Học theo một vị thày cũng có nghĩa bước vào một cửa, mà cửa chính là vị thày đó.  Theo nghĩa này, người theo Chúa Giêsu là người bước vào một cửa – cửa ấy là chính Chúa.  Môn đệ của Chúa là người thụ giáo với Chúa và chuyên tâm thực hành những gì Người dạy. 

Theo Chúa là tách ra khỏi đám đông.  Việc tách khỏi đám đông nói lên sự chọn lựa dứt khoát để không còn sống và suy nghĩ như người đời.  Đòi hỏi của Chúa có khi làm cho ta tưởng chừng như đi ngược với những liên hệ tình cảm đời thường.  Những điều được liệt kê trong lời Chúa nói cho thấy người môn đệ phải từ bỏ tất cả, chẳng giữ lại gì cho mình từ của cải vật chất cho đến những tình cảm thân thiết.  Khi nêu ra những điều kiện đó, Đức Giêsu nhắc tới thập giá, như sự từ bỏ triệt để nhất.  Chính Người đã dùng thập giá để chứng minh sự từ bỏ hoàn toàn vì vâng phục Chúa Cha.  Từ bỏ chính mình, đó là một nét đặc biệt của người người môn đệ.  Thiếu sự từ bỏ chính mình, chúng ta vẫn chưa thuộc về Đức Giêsu cách trọn vẹn mà chỉ trên danh nghĩa.  Đấng đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước” (Đường Hy vọng, số 3).  Tự nguyện vác thập giá đời mình để theo Chúa không phải là một khẩu hiệu được hô vang, nhưng là những thực hành cụ thể trong mối tương quan hằng ngày.  Vác thập giá trong cách âm thầm khiêm tốn chứ không ồn ào tô vẽ lấy tiếng khen.  Xin trích dẫn một ý tưởng nữa cũng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong.  Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình?  Anh hùng thinh lặng khó lắm” (ĐHV, số 171).  Vâng, chúng ta sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc rước, nhưng không mấy sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc đời. 

Theo Chúa là chấp nhận lối sống theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Sự khôn ngoan của Thiên Chúa không giống như sự khôn ngoan của con người, bởi lẽ con người đánh giá theo những gì họ ghi nhận bề ngoài.  Tác giả sách Khôn ngoan đã suy tư về sự cao siêu của thánh ý Thiên Chúa, vượt xa trí hiểu của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hãy cầu xin cho được đức khôn ngoan để nhìn nhận và đánh giá sự việc theo cái nhìn của Chúa, chứ không theo suy nghĩ thiển cận của chúng ta (Bài đọc I).  Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người dự tính xây tháp và một vị vua sắp giao chiến để nói với chúng ta hãy khôn ngoan cân nhắc kỹ lưỡng trong việc chọn lựa cho mình một lý tưởng sống.  Việc xây dựng và giao chiến là những sự kiện rất quan trọng không thể coi thường.  Thiếu cẩn trọng sẽ dẫn tới sự thất bại và có thể mất mạng sống.  Nhờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà chúng ta được trang bị sức mạnh cần thiết trong cuộc sống hằng ngày, khi xung quanh ta có biết bao khuynh hướng khác nhau đang giằng co lôi kéo con người.  Có thể đó là một triết thuyết vô thần làm cho chúng ta bỏ Chúa, hay một người đồng nghiệp có lối sống vụ lợi ích kỷ, hoặc một thành viên trong gia đình có quan điểm sống trái với giáo huấn của Tin Mừng.  Sống khôn ngoan theo lời Chúa dạy, chính là sự chọn lựa và quyết định cho mọi hành vi của mình.

Môn đệ là người sống quảng đại bao dung.  Ônêximô là một người đầy tớ của ông Philêmôn.  Anh đã dại dột trộm cắp tài sản của chủ.  Thánh Phaolô đã tiếp đón chàng thanh niên này và cho anh nhập Đạo, đồng thời muốn gửi lại cho ông Philêmôn và mời ông đón nhận “không phải như một người nô lệ, mà là một người anh em rất thân mến,” thậm chí còn “đón nhận nó như đón nhận chính tôi.”  Chỉ có người môn đệ đích thực của Chúa mới có thể thực hiện nghĩa cử này.  Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình cả nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết. 

Trở lại với khái niệm “môn đệ” được quảng diễn trên đây, người Kitô hữu được mời bước qua cửa là chính Chúa Giêsu.  “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9).  Bước qua cửa Giêsu là một chuỗi những cố gắng nỗ lực để lắng nghe và thực thi lời Người.  Người môn sinh chỉ có thể trưởng thành và được giáo huấn khi đón nhận những gì thày mình dạy và làm gương.  Vâng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta bằng chính cuộc sống của Người, nhất là bằng thập giá.  Người đang mời gọi ta hãy vác thập giá cuộc đời mà đi theo Người.  Thập giá sẽ nở hoa nếu chúng ta vác đi trong tâm tình yêu mến và phó thác.

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim