Thánh nữ Luxia, Người Ý (- 304), Đồng Trinh tử đạo

Ngày thứ 3 của tuần “Hồng” thật bình an và tràn đầy niềm zui nhé! Hôm nay 13/12 Giáo Hội mừng kính Thánh nữ Luxia, Người Ý (- 304), Đồng Trinh tử đạo. Mừng Lễ Bổn Mạng đến những ai chọn Thánh nữ làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chỉ có 5 cô được vào dự tiệc. Luxia, nghĩa là “Sáng”. Cô cầm đèn cháy sáng đến chết, giờ đây cô đang dự tiệc trên trời.

Như nhiều vị tử đạo ban đầu tại Rôma, người ta không biết nhiều về cô Sáng, nhưng biết quê cô ở đảo Sicily, và cô tử đạo đời vua Diocletianô. Tên cô được ghi trong kinh nguyện Thánh Thể I, chứng tỏ giáo hội rất tôn kính cô.

Người ta kể, cô khấn không lấy chồng, để giữ mình đồng trinh cho Chúa Kitô. Khi anh chàng ham muốn kết hôn với cô khám phá ra rằng, cô là người Công giáo, hắn tố cáo và cô bị bắt, đánh đập, nhưng cô quyết trung thành với người yêu của mình là Chúa Giêsu.

Người ta truyền tụng rằng: Khi quân lính đến bắt cô, người cô nặng như đống đá dính chặt vào đất. Quân lính sợ hãi, đổ dầu lên người cô mà đốt nhưng lửa cũng không hề đụng đến người cô. Chúng ngạc nhiên hỏi cô làm sao mà có sự lạ lùng như vậy, cô cho biết là Chúa Giêsu che chở cô. Cuối cùng chúng dùng gươm đâm vào cổ cô. Chúa Giêsu, Ðấng cô hằng yêu quí suốt đời đã đến đón cô lên Thiên đàng. Từ đó có nhiều huyền thoại được thêu dệt để ca tụng lòng can đảm của thánh nữ.

Lễ kính nữ thánh Sáng cử hành vào mùa Vọng, mùa trông đợi Chúa Giêsu là Ánh sáng muôn dân. Nơi quê hương người Scandinavian có lệ mừng lễ rất hay: một thiếu nữ mặc áo trắng, khăn quàng vai đỏ tượng trưng máu tử đạo, cô cầm cành lá dừa, đầu đội triều thiên có nhiều nến sáng. Tại Thuỵ điển, người con gái nhỏ nhất trong nhà mặc như thánh nữ Luxia xưa, đầu đội khay đèn dẫn đầu đám rước đi quanh nhà. Sau đó cả nhà quây quần vui vẻ ca hát, ăn bánh ngọt và uống cà phê. Tại Hungary, người ta trồng lúa mì trong một cái nồi nhỏ. Gần lễ Giáng Sinh, những mầm non trong nồi xuất hiện, nói lên sự sống sinh ra từ sự chết, sau đó nồi lúa mì được đem tới máng cỏ tượng trưng Chúa Kitô trong Thánh Thể. (Nguồn: Dân Chúa)

❦ “Bây giờ tôi không còn gì để hy sinh, Tôi dâng hiến bản thân tôi làm của lễ sống động cho Thiên Chúa tối cao.” (Trích Hạnh thánh Lucia.) Bạn có gì để dâng hiến Chúa hôm nay? Thiết nghĩ làm một hy sinh nhỏ với hết con tim cũng đủ làm cho Chúa vui lắm đó.

Xin thánh nữ Lucia cầu bầu cho chúng con.

From : Đỗ Dzũng

 Chuyện Lạ Từ Bích Họa Bữa Tiệc Ly và Danh Họa Leonardo Da Vinci

 Chuyện Lạ Từ Bích Họa Bữa Tiệc Ly và Danh Họa Leonardo Da Vinci

Khoảng tháng Ba, tháng Tư hằng năm, vào những ngày nắng nóng gay gắt và oi ả nhất, người Công giáo nói riêng và các giáo hội có niềm tin Kitô khác long trọng kính nhớ và tưởng niệm Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô. Và danh họa Leonardo Da Vinci có công lớn khi tạo nên bức họa Bữa Tiệc Ly kỳ diệu.

Leonardo Da Vinci

Danh họa Leonardo Da Vinci vẽ bích họa Bữa Tiệc Ly (The Last Supper) mất 3 năm liền – không là 7 hoặc 20 năm như một số người nghĩ. Ðó là bức tranh vẽ mô tả Chúa Giêsu và 12 môn đệ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị môn đệ Giuđa phản bội. Bữa Tiệc Ly vào chiều tối một ngày thứ Năm, thời điểm Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức Linh mục tư tế.

Leonardo đã tốn nhiều công phu đi tìm người mẫu. Giữa hàng ngàn thanh niên ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện, một tính cách thanh khiết tuyệt đối làm người mẫu vẽ Chúa Giêsu. Da Vinci làm việc không mệt mỏi suốt 6 tháng liền trước chàng trai để hình ảnh Chúa Giêsu có thể hiện ra trên bức họa.

Những năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 môn đệ, chỉ còn Giuđa – người môn đệ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Hoạ sĩ muốn tìm một người đàn ông có khuôn mặt hằn lên sự hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả và cực kỳ thâm độc. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình…

Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất, Vinci đều thấy vẫn chưa đủ để biểu lộ cái ác của Giuđa. Một hôm, Da Vinci được thông báo có một người mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Người đó đang ở trong một hầm ngục ở Roma, bị kết án tử hình vì tội giết người và nhiều tội ác tày trời khác.

Da Vinci lập tức lên đường đi Rôma. Trước mặt ông là một gã đàn ông nước da đen sạm với mái tóc dài bẩn thỉu xoã xuống, một khuôn mặt xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hoá. Ðúng, đây là Giuđa! Ðược phép đặc biệt của Đức Vua, người tù được đưa tới Milan, nơi bức tranh đang vẽ dang dở. Mỗi ngày tên tù ngồi trước Da Vinci và người hoạ sĩ thiên tài cần mẫn với công việc truyền tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.

Khi nét vẽ cuối cùng hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Vinci quay sang bảo với lính gác: “Các anh đem người này đi đi…”. Lính canh túm lấy kẻ tử tù nhưng hắn đột nhiên vùng ra, lao đến quỳ xuống bên chân Da Vinci và khóc nức lên: “Ôi, ngài Da Vinci! Hãy nhìn tôi! Ngài không nhận ra tôi sao?”. Da Vinci quan sát kẻ mà 6 tháng qua ông đã liên tục nhìn mặt, rồi ông đáp: “Không, tôi chưa từng nhìn thấy anh cho đến khi anh được đưa đến từ hầm ngục Rôma”. Tên tử tù kêu lên: “Ngài Vinci, hãy nhìn kỹ tôi đi! Tôi chính là người mà ngài đã chọn làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu đây…”.

Câu chuyện này có thật, như bích họa Bữa Tiệc Ly là có thật. Chàng trai từng được chọn làm hình mẫu vẽ Chúa Giêsu đã tự biến mình thành hình tượng của kẻ phản bội ghê gớm nhất trong lịch sử chỉ sau một thời gian ngắn!

Leonardo di ser Piero da Vinci sinh ngày 15/4/1452 tại Anchiano (Ý), mất ngày 2/5/1519 tại Amboise (Pháp). Ông là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và là một triết gia tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Tên thành phố Vinci, nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh Firenze, cách thành phố Firenze 30 km về phía Tây, gần Empoli, cũng là họ của ông. Người ta gọi ông ngắn gọn là Leonardo vì Da Vinci có nghĩa là “đến từ Vinci”, không phải là họ thật của ông. Tên khai sinh là Leonardo di ser Piero da Vinci có nghĩa là “Leonardo là con của Ser Piero, đến từ Vinci”. Ông nổi tiếng với những bức hoạ cổ điển của mình như bức Mona Lisa, bức Bữa Tiệc Ly…

Ông là người có những ý tưởng đi trước thời đại của mình, đặc biệt là sự sáng chế máy bay trực thăng, xe tăng, cách sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép (double hull), cùng nhiều sáng chế khác, khó có thể liệt kê hết ở đây. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi ngay lúc ông còn sinh thời. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong lĩnh vực giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng (civil engineering), quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học, và bút ký.

Bức họa Bữa Tiệc Ly

Nội dung: Bức tranh mô tả một sự kiện tôn giáo trong Kinh Thánh: Giuđa Iscariôt – một môn đệ của Chúa Giêsu – đã tố giác với nhà cầm quyền La Mã để bán đứng thầy của mình chỉ với 30 đồng bạc. Chính giữa bức tranh là chúa Giêsu đang nói với các môn đệ: “Trong anh em có người sẽ bán rẻ Thầy”. 12 môn đệ ngồi đồng bàn, mỗi người một vẻ mặt khác nhau: 3 người thì thầm bàn bạc, 3 người tỏ vẻ giận dữ (trong đó có 1 người đập mạnh tay xuống bàn), 1 người lộ vẻ nghi ngờ, 1 người tỏ ra ngạc nhiên, 1 người ngồi ngay ngắn tỏ lòng trung thành, 2 người lộ vẻ xúc động. Chỉ có một môn đồ mặt tái nhợt, lưng hơi ngả về sau, tay nắm chặt túi tiền – đó chính là Giuđa, người mặc áo xanh thứ tư từ bên trái, tay cầm bọc tiền, có thể là tiền bán Chúa. Sau lưng ông là một khoảng tối, còn sau lưng Chúa Giêsu là ô cửa đầy ánh sáng. Những tia sáng chiếu vào gương mặt Chúa Giêsu làm ánh lên vẻ điềm tĩnh, hiền từ mà cương nghị. Sự tương phản mạnh mẽ này đã biểu đạt được sự căm giận sâu sắc của tác giả đối với lũ gian ác, sự ngưỡng vọng đối với chính nghĩa.

Nghệ thuật: Trước Vinci đã có nhiều họa sĩ nổi tiếng đã vẽ đề tài này, tuy nhiên họ đều thất bại. Bích họa của Da Vinci nổi tiếng nhất vì hai lý do: Thứ nhất, lần đầu tiên buổi tiệc ly được vẽ với các nhân vật hết sức sống động như người thật. Mỗi môn đệ tỏ một thái độ khác nhau khi nghe Chúa báo tin có người phản bội. Người thì bàng hoàng, người thì muốn ngất xỉu (thánh Gioan, người ngồi bên phải Chúa), mấy người khác ngạc nhiên hỏi nhau. Thứ hai, khả năng thể hiện luật viễn cận của Da Vinci trong bức họa rất tuyệt vời, mọi điểm trên bức tranh đều tụ về một điểm chung là khuôn mặt của Chúa. Một trong những nguyên nhân gây thất bại ở các họa phẩm khác là chưa phản ánh chân thực về 12 môn đệ, đặc biệt là hoạt động tâm lý phức tạp của Giuđa. Tác phẩm của Da Vinci đã giải quyết mỹ mãn vấn đề này. Từ đó về sau, không hoạ sĩ nào vẽ lại đề tài này nữa bởi họ cho rằng không thể vượt qua tác phẩm của danh họa Da Vinci.

Để vẽ nên bức tranh này, Vinci đã gặp không ít khó khăn, nhất là phải xử lý nhân vật Giuđa. Để giải quyết khó khăn này, hàng ngày Vinci phải đi lang thang trong thành phố để quan sát cử chỉ, hành động của bọn tội phạm, lưu manh rồi vẽ đi vẽ lại hàng trăm bức họa Judas ở các tư thế khác nhau. Việc đi lang thang trong thành phố như vậy đã nảy sinh lòng nghi ngờ của bao người, trong đó có cả giáo sĩ. Sau đó, nhờ thị trưởng thành phố, Vinci đã giải quyết được hiểu lầm, và bức tranh ngày nay vẫn còn trên tường nhà thờ.

Thời gian: Có một địa điểm mà mọi du khách đến thành phố Milan (Ý) đều muốn được xem, đó là nơi có bích họa Bữa Tiệc Ly của danh họa Leonardo Da Vinci, được vẽ trên tường nhà thờ Santa Maria della Grazie từ thế kỷ XV (trong 3 năm, từ 1495–1498). Thời gian đó, danh họa làm việc ở Milan dưới sự bảo trợ của công tước Sforza, và chính Sforza đã đặt vẽ bức tranh này. Do lượng khách muốn xem tranh rất đông, mà theo quy định thì mỗi lần chỉ có 25 người được vào xem trong 15 phút nên khách thường phải đặt mua vé trên Internet trước 2 tháng (giá 8 euro). Muốn xem sớm hơn thì có thể mua vé tại một số công ty du lịch với giá đắt hơn, khoảng 20 euro.

Du khách được nhân viên dẫn qua mấy lớp cửa bảo vệ để vào nhà thờ, nơi bức họa được Da Vinci vẽ trên bức tường cách đây 600 năm với kích thước 8,8m x 4,6m. Khi sáng tác bức họa, Da Vinci không theo kỹ thuật lúc bấy giờ là sử dụng thạch cao ướt mà dùng thạch cao khô. Vì vậy, bức tranh bị tàn phai nhanh chóng theo thời gian. Nhiều thế kỷ sau, người ta phải tu sửa rất nhiều lần và việc này cũng gây nhiều tranh cãi về độ chính xác của bức họa.

Khi Pháp chiếm Milan hồi thế kỷ XVIII, quân lính của Napoléon đã phá hoại không thương tiếc bằng cách ném đá lên bích họa này. Trước đó (thế kỷ XVII), một người vô ý thức ở nhà thờ còn nảy ra ý định đục một cánh cửa ra vào ở giữa bức tường, ngay vị trí chân của Chúa. Sau này, cánh cửa bị bít lại, nhưng phần chân Chúa phía dưới bàn (theo các bản vẽ ban đầu có tư thế bắt chéo như khi bị treo trên thánh giá) không được phục hồi lại. Lần bức họa bị phá hoại nặng nề nhất là thời Đệ nhị Thế Chiến, khi nhà thờ bị bỏ bom và hư hỏng nặng. | Báo Công Giáo

Cũng trong căn phòng này, đối diện với bức tranh Buổi tiệc ly là bức Thập Tự Giá của Giovanni Donato da Montorfano – một họa sĩ cùng thời với Da Vinci nhưng ít nổi danh hơn. Cho dù đã từng xem bức tranh nổi tiếng của Da Vinci trong sách, nhưng khi đứng trước tuyệt tác này, nhiều người mới khả dĩ cảm nhận được kích thước to lớn của nó và đặc biệt là nghệ thuật xử lý ánh sáng của danh họa, vì ánh sáng trong bức tranh được vẽ là hướng từ cửa sổ bên trái phía sau.

Phần bên phải của bức tranh được danh họa vẽ sáng hơn, màu sắc trang phục các nhân vật cũng được xử lý rất khéo: Cùng màu xanh, nhưng chiếc áo của những người ngồi bên phải khác với màu xanh chiếc áo của Chúa ở giữa và những người ngồi bên trái. Những điều này khó có thể cảm nhận được trên các bản sao, dù là hình hoặc phim ảnh.

Trầm Thiên Thu (tổng hợp)

NGÀY CÁNH CHUNG – TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TGM Giuse Vũ Văn Thiên
 

 Trước đây, khi giảng tĩnh tâm Mùa Chay, các Linh mục thường nhắc đến “Tứ chung” hay còn gọi là “Bốn sự sau,” nghĩa là Sự chết, Thiên đàng, Hoả ngục và Phán xét.  Đây là những vấn đề liên quan đến cùng đích của đời người.  Đó cũng là những điều mà ai cũng phải trải qua.  Người tín hữu, khi nghĩ đến “Bốn sự sau” cố gắng sống tốt và lo chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để về với Chúa.
 

Cũng có người sợ hãi không muốn đề cập tới “Bốn sự sau,” vì họ coi đó là điều xui xẻo.  Nhưng, “Bốn sự sau” là một thực tại gắn liền với đời người, dù người ta có né tránh thì cũng không thoát được.  Khi giảng tĩnh tâm, nếu nhấn mạnh tới chủ đề “Bốn sự sau,” thì lại rất có hiệu quả.  Người tín hữu tham dự tĩnh tâm xưng tội rất đông và sốt sắng.  Như thế, nếu năng nghĩ đến sự chết, người ta sẽ sống tốt hơn, nhân ái hơn và cao thượng hơn trong cách đối xử với tha nhân.
     

Vũ trụ này không tồn tại mãi mãi, nhưng sẽ có ngày tận cùng.  Các tác giả Cựu ước đều chung quan điểm này.  Ngôn sứ Malaki là một trong những tác giả trình bày ngày cánh chung của vũ trụ.  Đó sẽ là ngày ngũ hành bị thiêu rụi, và cũng là thời điểm người lành kẻ dữ được xét xử công minh.  Kẻ ác sẽ như rơm rạ bị thiêu đốt, người lành sẽ toả sáng như mặt trời.  Suy tư về đời sau làm cho cuộc đời này có ý nghĩa.  Bởi lẽ nếu không có đời sau thì xấu tốt cũng như nhau, vàng thau cũng đồng giá.  Ngày cánh chung và cuộc phán xét, chính là câu trả lời cho sự khác biệt trong cuộc sống đời này.
 

Bao giờ mới đến ngày cánh chung?  Nhiều thế hệ đã lo lắng băn khoăn và đi tìm câu trả lời.  Vào thi điểm lịch sử bước sang những năm chẵn, như năm 1900, năm 2000, năm 2010…, người ta lo sợ và tuyên truyền sắp đến ngày tận thế.  Nhưng rốt cuộc ngày tận thế vẫn chưa đến.  Chúa Giêsu dặn chúng ta: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt.”  Đối với người tin Chúa, khi nào tận thế xem ra không phải là điều quan trọng, nhưng điều quan trọng là lòng tín trung phó thác nơi Chúa.  Nếu tận thế được diễn tả như trời long đất lở hoặc các hiện tượng thiên nhiên khác, thì Chúa Giêsu lại muốn nói với chúng ta: tận thế cũng có thể là những khó khăn, bách hại và thử thách về niềm tin.  Quả vậy, tin là đi theo con đường thập giá của Chúa Giêsu.  Chúa đã vác thập giá bước đi trong niềm phó thác nơi Chúa Cha.  Như thế, cánh chung đối với chúng ta hôm nay là những gian nan thử thách trong cuộc đời.  Mỗi chúng ta phải vượt qua những gian nan ấy để gìn giữ đức tin tinh tuyền trọn vẹn.  Theo Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, nếu ngày phán xét chung còn rất xa vời, thì ngày phán xét riêng lại rất gần đối với chúng ta.  Khi chúng ta kết thúc hành trình trần thế, là lúc chúng ta ra trình diện trước nhan Chúa, để tường trình với Ngài về cuộc sống dương thế của chúng ta, với những ơn lành mà chúng ta đã lãnh nhận, như số vốn Chúa ban để chúng ta sinh lợi thiêng liêng.
 
    Tin vào ngày cánh chung ở cuối cùng của lịch sử, chúng ta tin cậy vào những giá trị vĩnh cửu.  Đền thờ Giêrusalem rất quan trọng đối với người Do Thái.  Đây là trung tâm văn hoá và là niềm tự hào của dân tộc.  Đền thờ còn là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài.  Ấy vậy mà Chúa Giêsu tuyên bố: những điều anh em đang chiêm ngưỡng và tự hào, sẽ có ngày ra tro bụi.  Viện vào câu nói này, khi tố cáo Chúa trước Công nghị, một số kỳ lão Do Thái đã nói: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền thờ khác, không phải do tay người phàm” (Mc 14,58).  Quả là một lời vu khống xuyên tạc.  Đền thờ bị phá huỷ là một sự kiện lịch sử, đã xảy ra vào năm 70 sau Công nguyên, khi tướng Titô của La Mã chiếm thành Giêrusalem.  Đền thờ nguy nga là thế, bỗng trở thành đống gạch vụn, “không còn tảng đã nào trên tảng đá nào.”  Đền thờ là thiêng liêng đối với người Do Thái, nhưng cũng hữu hạn và nhất thời.  Đền thờ là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, chứ không phải là Thiên Chúa.  Người tin Chúa mà chỉ gắn bó với Đền thờ như thể đó là thực tại vĩnh cửu, thì sẽ phải thất vọng.
   

Niềm tin vào ngày cánh chung không phải lý do để sống lười biếng.  Thánh Phaolô chia sẻ với giáo dân Thê-xa-lô-ni-ca về cuộc sống tự lập của ngài.  Ngài cũng khuyên mọi người hãy chịu khó làm việc, để nuôi sống bản thân và giúp đỡ người khác.Ngài lên án những người lười biếng và khiển trách họ là vô kỷ luật. Lời khuyên của thánh Phaolô luôn phù hợp với đời sống hiện tại của chúng ta.
   

Trong khi chờ đợi ngày cánh chung, hãy sống và làm việc.  Hãy cho đi để được nhận lãnh. Hãy khích lệ để được an vui, vì những gì ta cho đi là còn lại mãi.
    

Cuộc sống là tiếng vọng.

Điều bạn gửi đi sẽ quay trở về.
Điều bạn gieo trồng bạn sẽ gặt hái.
Điều bạn cho đi bạn sẽ nhận lại.
Điều bạn thấy ở người khác tồn tại trong chính bạn (Khuyết danh).
 
TGM Giuse Vũ Văn Thiên 

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

Anh em hãy vui luôn trong CHÚA! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì CHÚA đã đến gần. (Pl 4,4.5)

Ngày Chúa Nhật vui thật là vui nhé.

Cha Vương

CN: 11/12/2022

TIN MỪNG: Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. (Mt 11:5)

SUY NIỆM: Hôm nay Giáo Hội cử hành Chúa Nhật Gaudete—tức là niềm vui trong tiếng Latin. Hãy “mừng vui lên”! Ngọn nến hồng trên vòng hoa mùa Vọng của mọi nhà thờ Công giáo và các gia đình được đốt cháy sáng rực rỡ. Nó nhắc nhở bạn Chúa đến trong bóng tối của tội lỗi và đau khổ để mang niềm vui đầy tràn cho nhân loại. Vậy Chúa có gì để làm cho bạn vui mừng hôm nay? Chúa đến để cứu chuộc con người—“Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Công việc của Ngài thật kỳ diệu. Ngài có khả năng chữa lành không những thể xác và cả phần linh hồn của bạn nữa đó.

Tuy rằng bạn không mù què, câm điếc, không bị phong cùi… nhưng vì là con người thế nào bạn cũng có những khuyết điểm, những yếu đuối bất toàn cần đến ơn chữa lành và sự giải thoát của Chúa. Ngài đến để giải phóng nhân loại khỏi quyền lực của tội lỗi. Đây là niềm vui bất diệt của người Ki-tô hữu. Những lĩnh vực nào trong cuộc sống của bạn bây giờ cần được giải phóng, cần được chữa lành để niềm vui của Chúa ngự trị trong bạn?

LẮNG NGHE: Anh em hãy vui luôn trong CHÚA! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì CHÚA đã đến gần. (Pl 4,4.5)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian, xin giải thoát con khỏi quyền lực tội lỗi. Xin giúp con bước đi trong tự do của con cái Ngài.

THỰC HÀNH: 2 tuần của mùa Vọng đã qua rồi, bạn đã làm  gì cho mình để chuẩn bị đón Chúa? Cố gắng lên nhé.

From: Đỗ Dzũng

KHUẤT PHỤC TRƯỚC LỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Thứ Bảy Tuần II – Mùa Vọng

“Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”.

Trong tập thơ của mình, William Cowper viết, “Ôi tôi yêu mến Lời Ngài biết bao, lạy Chúa! Nó hướng dẫn tôi trên con đường bình yên; tôi gẫm suy về nó suốt ngày! Các mỏ đá quý của sự giàu sang toả sáng có là gì, sắc đẹp của tuổi trẻ có là gì, và tất cả niềm vui có là gì so với Lời Ngài! Mặc dù nhiều điều đã xuyên qua trái tim yếu ớt của tôi, nhiều điều đã khiến lòng tôi se lại, nước mắt tôi nhiều lần chảy ra; nhưng Lời Ngài đã cứu tôi khỏi sự khốn khổ đời đời. ‘Khuất phục trước Lời’; từ lâu, tôi không bị ảnh hưởng, không mất tinh thần!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“‘Khuất phục trước Lời’; từ lâu, tôi không bị ảnh hưởng, không mất tinh thần!”. Ý tưởng của William Cowper được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu cho thấy một điều gì đó đáng tiếc vì người đương thời không nhận ra Gioan trong quyền năng của Êlia, nên họ đã không nhận ra Ngài trong phẩm tính của một vị Thiên Sai, Đấng Gioan loan báo; Ngài nói, “Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”. Tại sao? Bởi lẽ, họ không ‘khuất phục trước Lời’, lời Thánh Kinh đã được tiên báo!

Bài đọc Huấn Ca gợi nhớ Êlia như một “sứ giả” dọn đường cho Đấng Messia, chính Malachia, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước đã nói đến vị sứ giả này. Nhiều người không hiểu lời của Malachia và thậm chí không biết về nó; vì thế, các thầy thông giáo đã dùng lời này để gây nhầm lẫn cho nhiều người khi họ tuyên bố rằng, vì “Êlia” đã không đến, nên “Giêsu” rõ ràng không phải là Đấng Messia. Chúa Giêsu đã làm rõ điều này, rằng, “Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”; Ngài muốn nói về Gioan Tẩy Giả. Khi làm sáng tỏ điều này, Ngài cho thấy, các thầy thông giáo đã không chính xác trong nỗ lực giải thích Thánh Kinh, họ không ‘khuất phục trước Lời’ và chủ động lấy Lời để lừa dối người khác với những sai lầm của họ.

Khiêm tốn trước Lời Chúa là điều cần thiết nếu chúng ta muốn hiểu đúng không chỉ những lời Cựu Ước mà còn cả những lời của chính Chúa Giê su. Không khiêm nhượng trước Lời, tất cả chúng ta có thể dễ dàng hiểu sai những lời đẹp đẽ và thánh thiện, sâu sắc và chân thật; vì nhờ Lời, chúng ta đến gặp chính Thiên Chúa. Vì một khi để cho tính kiêu ngạo xâm nhập, chúng ta có thể thấy mình đang bắt chước các thầy thông giáo vốn hiểu sai Lời. Kết quả sẽ là một hình ảnh sai lệch về Thiên Chúa, và điều này là một trở ngại cho cuộc gặp gỡ cá nhân của chúng ta với Ngài. Vậy nếu có thể luôn khiêm tốn trước tất cả những gì Thiên Chúa mạc khải; nói cách khác, nếu ‘khuất phục trước Lời’, chúng ta sẽ dễ dàng mở lòng đón nhận những chân lý sâu xa và đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa muốn nói với linh hồn mình.

Anh Chị em,

“Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”. Các luật sĩ không đủ khiêm tốn để nhận ra Êlia trong Gioan; vì thế, họ không nhận ra Chúa Giêsu, Đấng Gioan dọn đường! Không nhận ra Chúa Giêsu Thiên Sai, họ vuột mất ơn cứu độ! Hôm nay, hãy suy gẫm, bạn thấy mình bối rối trước Lời Chúa; hãy cố gắng khiêm tốn mở rộng trái tim của bạn hơn nữa để đón nhận điều Chúa muốn nói. Hãy nhớ Lời Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu; vì thế, hãy lắng nghe Chúa Giêsu với một tâm trí và trái tim rộng mở khi biết ‘khuất phục trước Lời’ Ngài; hãy để cho quà tặng đức tin thanh khiết này trở thành người hướng dẫn bạn hầu bạn được dẫn dắt đến những chân lý sâu xa nhất của đức tin. Ý nghĩa biết bao Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, xin phục hồi chúng con; xin toả ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. Xin cho con biết ‘khuất phục trước Lời’ để can đảm làm điều Chúa muốn!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: Kim Bang Nguyen

NGÀY CÁNH CHUNG -TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Trước đây, khi giảng tĩnh tâm Mùa Chay, các Linh mục thường nhắc đến “Tứ chung” hay còn gọi là “Bốn sự sau,” nghĩa là Sự chết, Thiên đàng, Hoả ngục và Phán xét.  Đây là những vấn đề liên quan đến cùng đích của đời người.  Đó cũng là những điều mà ai cũng phải trải qua.  Người tín hữu, khi nghĩ đến “Bốn sự sau” cố gắng sống tốt và lo chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng để về với Chúa.    

Cũng có người sợ hãi không muốn đề cập tới “Bốn sự sau,” vì họ coi đó là điều xui xẻo.  Nhưng, “Bốn sự sau” là một thực tại gắn liền với đời người, dù người ta có né tránh thì cũng không thoát được.  Khi giảng tĩnh tâm, nếu nhấn mạnh tới chủ đề “Bốn sự sau,” thì lại rất có hiệu quả.  Người tín hữu tham dự tĩnh tâm xưng tội rất đông và sốt sắng.  Như thế, nếu năng nghĩ đến sự chết, người ta sẽ sống tốt hơn, nhân ái hơn và cao thượng hơn trong cách đối xử với tha nhân.
 
Vũ trụ này không tồn tại mãi mãi, nhưng sẽ có ngày tận cùng.  Các tác giả Cựu ước đều chung quan điểm này. Ngôn sứ Malaki là một trong những tác giả trình bày ngày cánh chung của vũ trụ. Đó sẽ là ngày ngũ hành bị thiêu rụi, và cũng là thời điểm người lành kẻ dữ được xét xử công minh.  Kẻ ác sẽ như rơm rạ bị thiêu đốt, người lành sẽ toả sáng như mặt trời.  Suy tư về đời sau làm cho cuộc đời này có ý nghĩa.  Bởi lẽ nếu không có đời sau thì xấu tốt cũng như nhau, vàng thau cũng đồng giá.  Ngày cánh chung và cuộc phán xét, chính là câu trả lời cho sự khác biệt trong cuộc sống đời này.
 
Bao giờ mới đến ngày cánh chung?  Nhiều thế hệ đã lo lắng băn khoăn và đi tìm câu trả lời.  Vào thời điểm lịch sử bước sang những năm chẵn, như năm 1900, năm 2000, năm 2010…, người ta lo sợ và tuyên truyn sắp đến ngày tận thế.  Nhưng rốt cuộc ngày tận thế vẫn chưa đến.  Chúa Giêsu dặn chúng ta: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt.”  Đối với người tin Chúa, khi nào tận thế xem ra không phải là điều quan trọng, nhưng điều quan trọng là lòng tín trung phó thác nơi Chúa.  Nếu tận thế được diễn tả như trời long đất lở hoặc các hiện tượng thiên nhiên khác, thì Chúa Giêsu lại muốn nói với chúng ta: tận thế cũng có thể là những khó khăn, bách hại và thử thách về niềm tin. Quả vậy, tin là đi theo con đường thập giá của Chúa Giêsu.  Chúa đã vác thập giá bước đi trong niềm phó thác nơi Chúa Cha. Như thế, cánh chung đối với chúng ta hôm nay là những gian nan thử thách trong cuộc đời.  Mỗi chúng ta phải vượt qua những gian nan ấy để g ìn giữ đức tin tinh tuyền trọn vẹn.  Theo Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, nếu ngày phán xét chung còn rất xa vời, thì ngày phán xét riêng lại rất gần đối với chúng ta.  Khi chúng ta kết thúc hành trình trần thế, là lúc chúng ta ra trình diện trước nhan Chúa, để tường trình với Ngài về cuộc sống dương thế của chúng ta, với những ơn lành mà chúng ta đã lãnh nhận, như số vốn Chúa ban để chúng ta sinh lợi thiêng liêng.
 
Tin vào ngày cánh chung ở cuối cùng của lịch sử, chúng ta tin cậy vào những giá trị vĩnh cửu.  Đền thờ Giêrusalem rất quan trọng đối với người Do Thái.  Đây là trung tâm văn hoá và là niềm tự hào của dân tộc.  Đền thờ còn là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài.  Ấy vậy mà Chúa Giêsu tuyên bố: những điều anh em đang chiêm ngưỡng và tự hào, sẽ có ngày ra tro bụi.  Viện vào câu nói này, khi tố cáo Chúa trước Công nghị, một số kỳ lão Do Thái đã nói: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền thờ khác, không phải do tay người ph àm” (Mc 14,58). 

Quả là một lời vu khống xuyên tạc.  Đền thờ bị phá huỷ là một sự kiện lịch sử, đã xảy ra vào năm 70 sau Công nguyên, khi tướng Titô của La Mã chiếm thành Giêrusalem.  Đền thờ nguy nga là thế, bỗng trở thành đống gạch vụn, “không còn tảng đã nào trên tảng đá nào.”  Đền thờ là thiêng liêng đối với người Do Thái, nhưng cũng hữu hạn và nhất thời.  Đền thờ là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, chứ không phải là Thiên Chúa.  Người tin Chúa mà chỉ gắn bó với Đền thờ như thể đó là thực tại vĩnh cửu, thì sẽ phải thất vọng.
 
   Niềm tin vào ngày cánh chung không phải lý do để sống lười biếng.  Thánh Phaolô chia sẻ với giáo dân Thê-xa-lô-ni-ca về cuộc sống tự lập của ngài.  Ngài cũng khuyên mọi người hãy chịu khó làm việc, để nuôi sống bản thân và giúp đỡ người khác.  Ngài lên án những người lười biếng và khiển trách họ là vô kỷ luật.  Lời khuyên của thánh Phaolô luôn phù hợp với đời sống hiện tại của chúng ta. 

Trong khi chờ đợi ngày cánh chung, hãy sống và làm việc.  Hãy cho đi để được nhận lãnh.  Hãy khích lệ để được an vui, vì những gì ta cho đi là còn lại mãi.
 
Cuộc sống là tiếng vọng.
Điều bạn gửi đi sẽ quay trở về.
Điều bạn gieo trồng bạn sẽ gặt hái.
Điều bạn cho đi bạn sẽ nhận lại.
Điều bạn thấy ở người khác tồn tại trong chính bạn. (Khuyết danh).

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Kim Bằng Nguyễn

Tại sao chúng ta phải cần đến các Bí tích?

Ngày Thứ 2 tràn đầy nhiệt huyết để phục vụ Chúa và tha nhân nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 5/12/2022

GIÁO LÝ: Tại sao chúng ta phải cần đến các Bí tích? Chúng ta cần đến các Bí tích để đời sống “eo hẹp ngắn ngủi” của chúng ta, nhờ Chúa Giêsu, trở nên giống Chúa Giêsu, nên con cái Thiên Chúa, trong tự do và vinh quang.(YouCat, số 173)

SUY NIỆM: Nhờ bí tích Rửa tội con người dễ bị thương tích do ma quỷ trở thành người con được Thiên Chúa bảo vệ. Nhờ bí tích Thêm sức, con người đang dò dẫm bước đi, được bước đi vững chắc. Nhờ bí tích Hòa giải, người có tội được làm hòa. Nhờ bí tích Thánh Thể, những người đói khát trở nên bánh cho những người khác. Nhờ bí tích Hôn phối cũng như bí tích Truyền chức thánh, những người độc thân trở thành người phục vụ cho tình yêu. Nhờ bí tích Xức dầu bệnh nhân, những người đang thất vọng lấy lại được tin tưởng. Trong tất cả các bí tích, chính Chúa Kitô đích thân là Bí tích. Hễ từ bỏ đời sống chỉ nghĩ đến mình, chúng ta được lớn lên trong Chúa để sống đời sống đích thật không bao giờ chấm dứt. (YouCat, số 173 t.t.)

❦ Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân – Lumen Gentium của Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định về yếu tính của Giáo Hội: “Giáo Hội ở trong Đức Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể” (LG 1)

LẮNG NGHE: Anh Ti-mô-thê, hãy bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, và những vấn đề của tri thức giả hiệu. Có những kẻ, vì chủ trương cái tri thức đó, nên đã lạc mất đức tin. Chúc anh em được ân sủng. (1 Tm 6: 20-21)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã lập ra các bí tích để ở với con và ban ơn cho con. Trong Mùa Vọng này, xin cho con biết yêu mến các bí tích và năng lãnh nhận 2 bí tích: Giải tội và Thánh Thể để nhận được ơn cứu độ, được đón nhận chính Chúa là Đấng yêu con vô cùng.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Lạy Cha, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ.

From:  Đỗ Dzũng

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:1-2)-Cha Vương

Ngày Chúa Nhật tràn đầy yêu thương và tha thứ nhé.

Cha Vương

 CN: 4/12/2022

TIN MỪNG: Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:1-2)

SUY NIỆM: Lời rao giảng thật ngắn gọn và súc tích của Gio-an Tẩy Giả “hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” đã giáng xuống trên người dân miền Giu-đê và các bậc quyền thế vị vọng như quý ông thuộc phái Sa-đốc hay nhóm Pha-ri-sêu một cách thẳng thắn và mạnh mẽ. Hãy sám hối! Đối với họ đây là lời mời gọi mang tính cấp bách vì “Nước Trời đã gần đến” tức là ngày tận thế đã gần kề.

Để được cứu rỗi và được vào Nước Trời, điều kiện tiên quyết là họ phải sám hối, từ bỏ con đường cũ dẫu đang tốt đẹp, để trở lại với Chúa. Nếu bạn đặt mình vào vị trí cấp bách của những người thời đó thì bạn sẽ hiểu được “hãy sám hối” là một điều rất “khẩn”. Không phải cứ đến sông Gio-đan để cho Gio-an Tẩy Giả dìm mình xuống nước mà đã gọi là ăn năn sám hối.

Hành động dìm dìm mình xuống nước “biểu thị và thực hiện việc người dự tòng chết đối với tội lỗi và bước vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ nên giống Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua.” Chết với tội lỗi tức là lòng ăn năn sám hối phải tương xứng một cuộc đổi đời tận gốc. Bạn đi xưng tội mà không “… lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự; con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội…” thì chẳng sinh ích lợi gì cho bạn. Hãy từ bỏ tính hư nết xấu và thực thi bác ái, “đền bù đi đôi với việc đền tội”.

LẮNG NGHE: Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. (Rm 15:5-6)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa cho con một cơ hội nữa để nhìn lại cuộc sống của con, xin giúp con biết nỗ lực dọn đường cho Chúa đến qua “hành động sám hối” để được Chúa đến trong tâm hồn, gia đình, cộng đoàn trong Mùa Vọng thánh này.

THỰC HÀNH: Hãy tham dự vào việc sám hối cộng đồng trong mùa Vọng và hãy ăn năn dốc lòng chừa một cách nghiêm túc.

From: Đỗ Dzũng 

NGOÀI RÌA THÀNH PHỐ

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Có vẻ Thiên Chúa ưu ái người không có quyền lực, người không được chú ý, trẻ em, người ngoài rìa, người tị nạn không nơi nương tựa không có gì để bám víu.

Vì thế Chúa Giêsu mới sinh ra bên ngoài thành phố, trong hang lừa, không ai chú ý, xa những gì phô trương ầm ĩ, xa truyền thông và xa những con người cũng như sự kiện được cho là quan trọng vào thời đó, một Chúa Giêsu khiêm hạ và vô danh.  Thiên Chúa làm việc như thế.  Tại sao?

Trong vở rock opera Siêu sao Giêsu Kitô (Jesus Christ Superstar), câu hỏi đó đã được đặt ra cho Chúa Giêsu.  Tại sao Ngài lại chọn một thời xa xưa, ở một vùng đất xa lạ như thế?  Nếu Ngài đến hôm nay, Ngài có thể vươn đến cả một quốc gia.  Israel vào năm 4, làm gì có truyền thông đại chúng.

Kinh Thánh trả lời bằng cách bảo chúng ta rằng cách thức của Thiên Chúa không như chúng ta, và cách thức của chúng ta không phải của Thiên Chúa.  Đúng là thế.  Chúng ta có khuynh hướng hiểu sức mạnh qua cách nó tác động trên thế giới.  Sức mạnh có nơi tầm đại chúng, nơi truyền thông đại chúng, nơi đặc quyền có từ xưa, nơi thế lực tài chính, nơi giáo dục cao, nơi tài năng cá nhân, và thậm chí là nơi sự hung hăng, tham lam, và lãnh đạm trước nhu cầu của tha nhân và tự nhiên.

Nhưng chỉ cần lướt qua Kinh thánh, là đủ thấy đấy không phải cách làm của Thiên Chúa.  Thiên Chúa mà Chúa Giêsu thể hiện không hoành tráng đi vào thế giới, không sinh ra trong hoàng tộc với biết bao kỳ vọng và được công bố khắp nơi, không cùng cha mẹ xuất hiện trên khắp các mặt báo, không được cả thế giới trông chờ một tương lai vĩ đại và đầy ảnh hưởng, không có đặc quyền học cao và nằm trong nhóm những người quyền lực và uy thế.

Rõ ràng, quá rõ ràng, Chúa Giêsu không sinh ra như thế, và cuộc đời của Ngài cũng không như thế.  Như Kinh thánh chỉ rõ, Thiên Chúa hành động một cách vô danh hơn là nổi bật trên những trang nhất, Thiên Chúa hoạt động qua người nghèo hơn là người quyền thế, và qua những người ngoài rìa hơn là nhóm quyền lực.  Khi nhìn vào cách Thiên Chúa hành động, chúng ta thấy được, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu sinh ra ở bên ngoài thành phố, và sau khi chịu tử nạn Ngài cũng được chôn bên ngoài thành phố.

Việc Thiên Chúa làm trong thế giới chúng ta thường không lên trang nhất các mặt báo.  Thiên Chúa không bao giờ đi vào thế giới hay đi vào lương tâm của chúng ta với kiểu hoành tráng đầy uy thế.  Thiên Chúa hành động kín đáo hơn, âm thầm chạm đến linh hồn, đến lương tâm, chạm đến những gì sâu trong lòng chúng ta đã từng được Ngài chạm đến từ rất xa xưa, nơi chúng ta vẫn vô thức lưu giữ một ký ức mơ hồ về việc mình được Thiên Chúa sáng tạo, chạm đến, nâng niu và yêu thương.  Vì thế mà Chúa Kitô sinh ra trong thế giới này trong hình hài một đứa trẻ chứ không phải một siêu sao, Ngài sinh ra với một sức mạnh duy nhất là chạm đến và làm êm dịu những tâm hồn quanh Ngài.  Trẻ em không mạnh hơn ai về mặt thể lý hay tri thức.  Trẻ em chỉ nằm đó, không có quyền lực, khóc để được yêu thương chăm sóc.  Thế mà, ngược đời thay, xét cho cùng, trẻ em lại mạnh hơn tất cả.  Không một sức mạnh thể lý hay trí thức nào, có thể chạm đến lương tâm con người cho bằng một em bé, một nét vô lực ngây thơ cũng phần nào có nơi một chú chim bị thương, một chú mèo bị bỏ rơi, một đứa trẻ đứng một mình khóc.  Bản tính thiện trong chúng ta được thổi bùng lên trước sự vô lực và ngây thơ.

Đấy chính là cách Thiên Chúa đến với chúng ta, thật nhẹ nhàng không huyên náo.  Không có kiểu hoành tráng.  Và đấy cũng là lý do Thiên Chúa thường bỏ qua những nhóm người quyền thế để ưu ái những người bị bỏ rơi và dễ bị tổn thương.  Chẳng hạn trong Tin Mừng, thánh Luca đã kể lại ơn Chúa đến với Gioan Tẩy giả thế nào.  Thánh Luca liệt kê tên mọi lãnh đạo nhà nước và tôn giáo thời đó (các quan lại La Mã, các vua Palestina và các thượng tế) rồi nói rõ rằng Lời Chúa bỏ qua họ mà đến với Gioan đang sống đơn độc trong hoang địa.  (Lc 3, 1-3) Theo Tin Mừng, hoang địa là nơi dễ tìm thấy và cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa nhất, bởi Thiên Chúa thường bỏ qua các trung tâm quyền lực để tìm một nơi trong lòng những người không nằm trong các nhóm quyền thế đó.

Các bạn cũng có thể thấy điều này qua nhiều lần Đức Mẹ hiện ra, những lần đã được Giáo hội công nhận.  Có điểm chung nào giữa những lần hiện ra đó?  Đức Mẹ không bao giờ hiện ra cho một tổng thống, giáo hoàng, một lãnh đạo tôn giáo, một ông chủ ngân hàng ở Wall Street, người điều hành các công ty lớn, hay thậm chí là một nhà thần học.  Không một ai như thế.  Đức Mẹ hiện ra cho các trẻ em, cho một phụ nữ chẳng có quyền thế gì, cho một nông dân mù chữ, và cho nhiều người khác chẳng có địa vị nào.

Chúng ta có khuynh hướng xem sức mạnh nằm ở nơi tiềm lực tài chính, uy thế chính trị, tài năng lỗi lạc, ảnh hưởng truyền thông, sức mạnh thể chất, năng lực siêu phàm, nơi nhan sắc, sức khỏe, trí khôn và quyến rũ.  Nhìn qua thì thấy như vậy có vẻ đúng, và thật sự là những điều đó chẳng có gì là xấu.  Nhưng nhìn sâu hơn, như khi xem lại việc Chúa Kitô sinh hạ, chúng ta thấy được Lời Chúa bỏ qua những người quyền thế mà đến với tâm hồn của những người ngoài rìa thành phố.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

NGUỒN SÁNG ĐÁNG ĐỢI TRÔNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

NGUỒN SÁNG ĐÁNG ĐỢI TRÔNG Lm. Minh Anh, Tgp. Huế Thứ Sáu Tuần I – Mùa Vọng “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”. Một đan sĩ qua đời, người ta đọc được những lời này trong nhật ký, “Trong Chúa Kitô, chúng ta có: “Một tình yêu không bao giờ hiểu thấu; một cuộc sống không bao giờ chết; một lẽ thật không bao giờ nghi nan; một bình an không bao giờ mất; một chốn an nghỉ không bao giờ bị quấy rầy; một niềm vui không bao giờ vơi; một hy vọng không bao giờ tắt; một vinh quang không bao giờ lu mờ; một sự thanh khiết không bao giờ vấy bẩn; một vẻ đẹp không bao giờ tàn phai; một sự khôn ngoan không bao giờ bối rối; một tài nguyên không bao giờ cạn kiệt; một hải đăng không bao giờ bị che khuất. Chúa Kitô là nguồn sáng, một ‘nguồn sáng đáng đợi trông!’”. Kính thưa Anh Chị em, “Chúa Kitô là nguồn sáng, một ‘nguồn sáng đáng đợi trông!’”. Ý tưởng của vị đan sĩ được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay, khi chúng ta bước vào những ngày tối nhất của đông, khi đêm dài hơn và ngày ngắn lại, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; khi cuộc chiến Ukraine đang phủ khắp năm châu một tấm màn ảm đạm, thì Lời Chúa nêu bật chủ đề ánh sáng, Chúa Kitô, ‘nguồn sáng đáng đợi trông!’. Thánh Vịnh đáp ca xác tín, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”. Bài đọc thứ nhất hứa hẹn một tương lai tràn đầy hy vọng. Isaia trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dưới dạng những sự kiện khó có thể xảy ra trong những những ngày tăm tối, “Núi Ly Băng sẽ lại thành vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ sum sê như một cánh rừng”. Nhưng đáng chú ý hơn cả là người điếc sẽ được nghe, người mù sẽ được thấy. Người thấp cổ bé miệng, không có quyền lực hay ảnh hưởng, sẽ tìm thấy niềm vui tươi mới trong Thiên Chúa; và người thiếu thốn nhất sẽ mừng vui trong Ngài, ‘nguồn sáng đáng đợi trông’ của họ. Những gì Isaia tuyên sấm, nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Tin Mừng tường thuật việc Chúa Giêsu chữa cho hai người mù; Ngài đưa họ từ u minh ra ánh sáng, từ tăm tối ra ánh quang. Tuy nhiên, để có thể chữa họ, Ngài yêu cầu họ trả lời một điều, “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?”. Họ đáp, “Thưa Ngài, chúng tôi tin!”. Trước khi chữa cho họ chứng mù loà thể lý, Ngài mời họ hãy có cho mình một cái nhìn đức tin. Đây là một cái nhìn hết sức căn bản: nhận ra Chúa Giêsu là Đấng mà qua Ngài, Thiên Chúa đang hành động một cách mạnh mẽ trong thế giới! Chính thị lực đức tin của hai người mù, tức khả năng nhìn thấy Giêsu, Con Thiên Chúa, là ‘nguồn sáng đáng đợi trông’ của họ, mà nhờ đó, Ngài đã có thể trả lại cho họ tầm nhìn thể chất. Anh Chị em, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”. Chớ gì suốt cả cuộc đời, mỗi chúng ta vẫn có thể cậy trông Thiên Chúa cách bền bỉ. Thật an ủi, khi chúng ta già đi, tầm nhìn thể chất có thể sa sút, thì tầm nhìn đức tin lại có thể trở nên sâu sắc hơn. Quá trình lão hoá có thể có một tác động ngược so với tầm nhìn đức tin. Chúng ta có thể khó khăn khi nhìn xem mọi sự thế gian vì thị lực xấu đi nhưng lại dễ dàng quan chiêm Thiên Chúa, ‘nguồn sáng đáng đợi trông’ sau một đời theo Ngài. Chỉ cần nghĩ đến những nhân vật vĩ đại trong các chương đầu của Phúc Âm Luca! Đó là cụ già Simêon và Anna. Phaolô cũng đã nói đến điều này trong thư Côrintô, “Dù con người bên ngoài có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng ta vẫn ngày càng đổi mới”. Vậy mà, suốt cuộc đời mỗi người, Chúa Giêsu không ngừng đặt cho bạn và tôi câu hỏi Ngài đã đặt cho hai người mù, “Con có tin không?”. Và mỗi lần được hỏi, chúng ta lại có cơ hội để trả lời ‘Có’ một cách vang dội hơn, thừa nhận Ngài là ‘nguồn sáng đáng đợi trông’ của mình! Chúng ta có thể cầu nguyện, “Lạy Chúa, đừng để con chạy theo những ảo ảnh phù hoa; một chỉ dõi mắt theo Ngài, ‘nguồn sáng đáng đợi trông’ của con, một nguồn sáng ban ơn cứu độ đời đời!”, Amen. Lm. Minh Anh, Tgp. Huế From: Kim Bang Nguyen

MÓN “ĂN NĂN”  

ĐGM Vũ Duy Thống Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình.  Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối.  Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành.  Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai.  Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.  Món ấy là món gì? Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, cũng là món ăn hữu ý được nhìn qua trang Tin Mừng hôm nay.  Nhưng để tránh dị ứng hoặc phản ứng phụ, đồng thời để tận hưởng những hiệu quả bổ dưỡng, trang Tin Mừng đề nghị ta những động tác quan trọng để hưởng dùng món “ăn năn sám hối.1)    Động tác thứ nhất là chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình. Đây là động tác mở đầu trong tiến trình ăn năn sám hối, cũng là động tác mở đầu cho bất cứ một sinh hoạt phượng tự nào khi con người tiếp cận với Thiên Chúa: ta vừa mở đầu Thánh Lễ với tâm tình thú tội ăn năn.  Chính Chúa Giêsu ngày trước cũng đã mở đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi không quên “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.”  Và ngay Gioan Tẩy Giả cho dẫu trong hoang địa nắng cháy khô cằn chẳng có gì ăn, cũng hô vang đồi núi: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần trong không gian và cũng vì Nước Trời đã gần đến trong thời gian. Động tác “nhìn nhận tội lỗi” trong mắt nhìn của những kẻ xa lạ với Tin Mừng có thể là một thứ tâm lý xa rời thực tế theo kiểu “không ai bắt lỗi ngu gì mà thú nhận”; nhưng đối với những kẻ tin vào Phúc Âm đó lại là hai mắt nhìn của một tấm lòng chân thành: một mắt nhìn vào mình để nhận ra thân phận mình tội lụy và một mắt nhìn lên Chúa để nhận lấy lòng thương bao dung tha thứ của Ngài.  Ta nhận mình có tội bởi ta đã nhìn vào tình thương của Chúa từ hồi nào.  Ta nhận ra Chúa yêu ta bởi ta đã nhìn thấy từng ngày lỗi tội của mình. Như vậy, “nhìn nhận tội lỗi” chính là động tác mở đầu của món “ăn năn sám hối”, cũng là động tác mở về tình thương của Thiên Chúa và mở vào kho tàng thiêng liêng chất chứa ơn tha thứ do Thiên Chúa thết đãi con người.  Tự căn bản, xưng thú tội lỗi của mình cũng là tuyên xưng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. 2)    Động tác thứ hai được gặp thấy trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối.”  Có thể có ai đó ngẩn ngơ thầm nghĩ: “Ơ hay, cái ông Gioan Tẩy Giả này mới thật là ngớ ngẩn, sám hối như trong động tác thứ nhất tự nó đã là một việc lành rồi, cần phải làm thêm việc lành khác nữa sao?  Vẽ chuyện!”  Xin thưa rằng ông Gioan Tẩy Giả không ngớ ngẩn đâu, ngược lại, trong lời kêu gọi đơn giản của ông đã hàm chứa những ý nghĩa đẹp đến độ ngẩn ngơ cho một lòng ăn năn tích cực và đích thực. Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”  Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua Nhung việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình. Đó cũng là lòng ăn năn đích thực không đồng hóa với một thứ tình cảm chợt đến chợt đi, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ cảm tình vị kỷ theo kiểu làm việc lành cho “sướng”, thế thôi, trong khi lòng ăn năn đích thực gọi đến một phẩm cách, một trách nhiệm.  Gioan Tẩy Giả không bảo làm việc lành cho “sướng” mà hãy làm việc lành cho “xứng” với lòng sám hối. 3)    Động tác thứ ba để thưởng thus món “ăn năn”, đó là khiêm tốn đợi chờ Đấng đang đến.  Đấng ấy không phải là người xa lạ, mà là một THỰC KHÁCH viết hoa viết đậm của mọi Kitô hữu quanh bàn “ăn năn.”  Đấng ấy là Đức Kitô đã đến lần thứ nhất trong lịch sử với ngả nghiêng cây Thập Tự, sẽ đến lần thứ hai ngày cánh chung với sự công chính và nền hòa bình viên mãn, và Người đến từng ngày cho tất cả những ai khiêm tốn đợi chờ với lòng sám hối. Thảo nào trang Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến từ ngữ “dọn đường và sửa đường.”  Dọn đường bởi vì Đấng ấy đang trên đường đến với ta và sửa đường “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống” là bởi vì Người chỉ thích đến với ta trên đường công chính. Hiểu như thế, ăn năn không phải là ăn điều gì khác hơn là ăn chính Đấng đang đến: Chúa Kitô.  Chính Người là đích điểm của việc sám hối.  Vắng Người là thiếu tất cả: việc sám hối có thể co cụm lại như một thứ nghi thức thực hiện cho yên lương tâm; nhưng có Người là có tất cả: việc sám hối bấy giờ sẽ trở nên một mạch nguồn sức sống mới trong Thánh Thần.  Nói cách khác, lòng người sám hối Mùa Vọng ví tựa những căn phòng, quá ngổn ngang chật hẹp, Chúa Kitô sẽ không thể chen chân bước đến; nhưng ngược lại biết dọn dẹp sạch sẽ thẳng ngay, Người sẽ ung dung tìm vào như vào trong căn hộ của mình. Tóm lại, dẫu chẳng phải là “người có tâm hồn ăn uống” mà chỉ vì cái phong phú và lắt léo của tiếng Việt, nên đã xin chia sẻ Phúc Âm hôm nay qua dạng thức của một món ăn: món “ăn năn sám hối” với ba động tác: nhìn nhận tội lỗi, thực hiện việc lành, và chờ đợi Chúa đến; một cách trực tiếp là họa lại lời Gioan Tẩy Giả vang lên trong trang Tin Mừng, một cách gián tiếp là lòng hẹn lòng hãy tìm đến món “ăn năn” qua việc sống Bí tích Hòa Giải. Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách.  Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng.  Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé.  Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân. Mười năm trước khi kinh tế còn khó khăn, trên đường đi hằng ngày thấy xuất hiện những tấm bảng hiệu nhận phục hồi những cơ phận máy móc, tôi đã có ý nghĩ nên ghi trên tòa Hòa Giải một tấm bảng hiệu nhận “phục hồi sự sống các tâm hồn.”  Hôm nay, thời kinh tế mở cửa, trên đường từ chợ Bến Thành về đây thấy nhan nhản những bảng hiệu của các quán ăn đặc sản, từ Hương phố tới Hương đồng, từ Hương xưa tới Hương rừng lao xao.  Tôi nghĩ có lẽ phải ghi trên tòa Hòa Giải tấm bảng khác thôi: Hương thiêng đặc sản tâm hồn, món “ăn năn” dẫn đến nguồn thánh ân. ĐGM Vũ Duy Thống  (Trích từ ‘Làm Nụ Hoa Trắng’) From: Langthangchieutim