Năm 1917, tại đất nước Nga, bên trời Âu, đã xảy ra cuộc chính biến lật đổ chế độ phong kiến Nga Hoàng, thay vào là một chế độ cai trị chuyên chế dưới nhãn hiệu Xô Viết. Chế độ mới lên cầm quyền tại Nga giương ngọn cờ màu “máu đỏ” làm nền, nổi bật với hình tượng hai vật thể đan chéo nhau, cây búa và cái liềm màu vàng, được xưng tụng là biểu tượng của lực lượng nổi dậy gồm hai giai cấp vô sản bị “bóc lột” trong xã hội nước Nga thời ấy.
Trong ý nghĩa đó, hình cây búa là biểu tượng của lực lượng công nhân, đã liên kết với giai cấp nông dân lấy biểu tượng cái liềm, hiệp lực cướp chính quyền.
Cuộc chính biến tại Nga được mệnh danh là “Cách mạng vô sản”, hay “Cách mạng tháng Mười” do đảng Cộng sản xử dụng chủ thuyết đấu tranh giai cấp của Karl Marx làm nền tảng hoạt động, đặt dưới quyền lãnh đạo của Vladimir Lenin chiếm quyền cai trị, thay đổi quốc hiệu nước Nga thành Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết.
Sau 74 năm tồn tại.
Vào năm 1991, lá quốc kỳ búa liềm của Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết đã bị chính những thành phần cấp tiến trong nội bộ đảng cộng sản Liên Xô hạ xuống, dẹp bỏ không thương tiếc trên toàn lãnh thổ liên bang. Thay vào, lá quốc kỳ tam sắc của chế độ Nga Hoàng trước kia lại được phất phới kéo lên, kèm theo quốc hiệu mới, Cộng Hòa Liên Bang Nga.
Điểm lại hai biến cố lịch sử nêu trên trong thế kỷ 20, vốn từ lòng tin vào ý nghĩa cách mạng tốt đẹp của biểu tượng “búa, liềm” mà đảng cộng sản Nga khuấy động, nhằm so sánh với dòng phát triển trí tuệ của nhân loại khối tự do trong thế kỷ qua, để minh chứng sự thất bại tất yếu của toàn thể khối “búa liềm cộng sản”.
Chuyện“búa và liềm”. Khởi đi từ thế kỷ thứ 19.
Cơ sở nền tảng văn minh “cơ khí học” của phương Tây được tổ chức hoàn thiện.
Trước nhất là những dụng cụ kỹ thuật căn bản, chế tạo bằng kim loại gang, sắt, thép, đồng, như: dao, kéo, búa, kìm, cưa, đục … cung cấp cho những xưởng thợ chuyên sản xuất hàng hóa gia dụng số lượng lớn, để từ đó hình thành tầng lớp công nhân.
Cây “búa” để đập, đóng, cùng với cái “kìm” dùng để giữ chặt vật liệu là hai dụng cụ đầu tiên mà mọi công nhân đều phải thực hành thành thạo trong các xưởng thợ.
Cùng vào thời đại ấy, đối với nhà nông, cái “liềm” để gặt lúa mì cũng là một dụng cụ thiết yếu trong công việc đồng áng, sản xuất ra lương thực phục vụ đời sống người dân trong xã hội.
Bước sang thế kỷ 20. Hình ảnh của cây búa và cái liềm đã bị chọn làm biểu tượng đề cao hai lực lượng sản xuất, mà đảng cộng sản “đệ Tam Quốc Tế Nga” cho là “bị bóc lột” đem gắn lên nền lá cờ màu đỏ thể hiện ý chí đấu tranh cách mạng một mất một còn, nhằm mục đích khích động tinh thần bất mãn, xử dụng bạo lực đối kháng trong tầng lớp người lao động chiếm đa số giữa xã hội đương thời.
Kết quả, cuộc cách mạng “búa liềm” năm 1917 tại Nga đã thành công.
Đó là chuyện từ hơn 100 năm trước.
Bên ngoài thế giới cộng sản, một nửa nhân loại văn minh tiến bước vào thế kỷ 21.
Biết bao tiến bộ khoa học kỹ thuật phát minh lần lượt được áp dụng. Biết bao biến cố thăng tiến chính trị làm thay đổi bộ mặt xã hội toàn cầu. Máy móc vạn năng dần dần thay thế cho sức lao động tay chân của con người. Hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp lẫn nông nghiệp đều đã được phân loại tính năng kỹ thuật, xếp vào những hạng mục công trình chuyên môn, áp dụng theo từng dây chuyền sản xuất khoa học, bảo đảm chất lượng và sản lượng cao.
Nếu xưa kia, giai cấp thợ thuyền từng đổi bát mồ hôi lấy bát cơm, giai cấp nông dân một nắng hai sương thu hoạch vụ mùa, thì nay, theo đà thời gian tiến hóa, cả hai giai cấp lao động đều dần dần được chuyển đổi vào các phương thức sản xuất mới mẻ, nhẹ nhàng, nhờ bởi vô số những phát minh kỹ thuật, hữu hiệu gấp trăm, gấp ngàn lần thời buổi sơ khai “cách mạng tháng Mười 1917”.
Nhân loại thực sự chuyển mình bước vào giai đoạn kỹ nghệ hóa, tự động hóa. Cây búa trong xưởng thợ hay cái liềm ngoài ruộng đồng ngày nay đã trở thành những dụng cụ lạc hậu lỗi thời, kém hiệu quả sản xuất, không còn tồn tại trong hầu hết đôi bàn tay của lực lượng lao động tập thể công, nông.
Thế kỷ 21. Trong khắp công xưởng những cổ máy đóng, máy cắt, máy ép, máy hàn, máy kéo, người máy robot đủ loại lớn nhỏ, đã thay thế hẳn chức năng cây búa.
Lực lượng công nhân tiến bộ trên toàn thế giới ngày nay không chấp nhận hình ảnh cây búa thô sơ của hơn 100 năm trước là biểu tượng cho giới sản xuất hiện đại.
Nhìn thẳng vào giá trị thực tại, cây búa đóng đinh giờ đây chỉ là một đồ vật gia dụng nhỏ bé rẻ tiền thường xuyên nằm ụ, bất động trong hộp đồ nghề tại các tư gia.
Cái liềm gặt lúa cũng biến mất, không còn là dụng cụ trên ruộng đồng, bởi vì, đâu đâu cũng đã xuất hiện các loại máy liên hợp gặt đập lúa cở lớn, cở nhỏ trong mỗi vụ mùa thu hoạch của nhà nông khắp năm châu.
Kỹ nghệ hóa cộng với tự động hóa chính là thành tựu của trí tuệ con người dưới thể chế tự do, giúp thăng tiến nền sản xuất toàn cầu, bao gồm luôn những đất nước vẫn còn bị chìm đắm trong cơn mê chủ thuyết lạc hậu Marx-Lenin.
Trí tuệ đã thực sự làm chủ đời sống loài người, không cần đến loại bạo lực đấu tranh “giải phóng”, đấu tố thủ tiêu tương tàn man rợ, mà cộng sản quốc tế từng gieo rắc kinh hoàng trên gần bán phần địa cầu trong thế kỷ trước.
Trí tuệ thế kỷ 21 thật sự đã đánh bật chủ thuyết hoang tưởng “cộng sản” xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, tan biến khỏi con đường tiến hóa của nhân loại.
Có trên dưới 200 quốc gia kề vai trong tổ chức Liên Hiệp Quốc cùng gìn giữ hòa bình, củng cố phát triển trên hành tinh trái đất, hiện nay chỉ sót lại vỏn vẹn có 3 quốc gia châu Á, là: Trung Cộng, Việt Nam cộng sản, Bắc Triều Tiên, vẫn còn cam chịu ách thống trị độc đảng mê muội, gian hùng, tráo trở, không hổ thẹn, không chùng tay, khi vẫn khư khư nấp bóng dưới lá cờ máu mang hai biểu tượng của sự lạc hậu là cây búa và cái liềm.
Thực trạng đời sống cho thấy rõ, người dân của ba quốc gia Á châu bất hạnh kể trên đang cùng chung một chịu đựng khốn khó cay nghiệt hơn cả thời phong kiến Nga Hoàng. Cần phải kể ra tại Việt Nam, như:
– Giai cấp nông dân bị cán bộ cộng sản cầm quyền ức hiếp đuổi nhà, cưỡng chiếm đất đai, mất hết phương tiện sinh sống, nâng con số dân oan khiếu kiện tăng lên hàng chục vạn người, nền tảng đạo đức xã hội băng hoại, tệ nạn xã hội hoành hành.
– Giai cấp công nhân bị hệ thống buôn dân, bán nước, chèn ép, lường gạt, ăn chận, cướp công, xảy ra khắp nơi, lâm cảnh thất nghiệp, bế tắc sinh kế.
– Tệ nạn bè phái tham nhũng đục khoét công quỹ hoành hành trong hầu hết cơ quan ban ngành trên cả nước, từ trung ương xuống đến địa phương làng, xã.
– Công nợ nhà nước bội tăng hàng năm. Số lượng doanh nghiệp sản xuất bị rút ruột sạch vốn, liên tiếp công bố phá sản, gây ra nạn suy trầm kinh tế không có lối thoát.
Kết luận
Tầng lớp công, nông toàn cầu đang tiếp nối phát triển theo kỷ nguyên thời đại mới. Trong khi cây búa và cái liềm mà các chế độ cộng sản tôn vinh là biểu tượng, tự nó đã thoái thân trở thành đồ vật rẻ tiền nhỏ bé, trì trệ, lạc hậu, không có giá trị mang lại hiệu quả thực chất cho đời sống con người giữa cao trào nhân loại tiến triển vượt bậc.
Toàn cảnh xã hội ngày nay đã bước khoảng cách rất xa, hơn hẳn 100 năm trước.
Có một điều chắc chắn, các thế hệ nhân loại sinh ra và lớn lên trước hoặc sau năm 2000, thế kỷ 21, đến nay vừa tròn tuổi trưởng thành, như Joshua Wong và Denise Ho của xứ sở Hồng Kông, đều không biết, hoặc không cần biết, hoặc thậm chí không thể ngờ, về sự đa dụng của cây búa và cái liềm đến độ đã từng gây nên những cơn bão máu trầm luân, thảm sát hàng triệu con người đồng loại, được ghi lại trên nhiều trang sử thời tiền bán thế kỷ 20. Với thế hệ đang tuổi trưởng thành, nếu họ biết đến cây búa hay cái liềm, thì cũng chỉ là 2 vật dụng thô sơ, hạ tiện còn tồn tại mà trí tuệ chẳng bao giờ cần thiết chạm đến nó.
Vậy mà, vẫn còn có một nhóm đầu óc vữa vụn hoang mê, vừa to mồm tô đậm chủ thuyết cộng sản ngoại lai dưới lá cờ “búa liềm”, vừa công khai thú nhận nghi ngờ “không biết chắc” cho tới cuối thế kỷ 21 này, tức là gần ngót 2 thế kỷ xuất hiện, đảng cộng sản của họ sẽ “có hay không đủ” khả năng xây dựng cho xong cái hình thù xã hội chủ nghĩa theo kiểu Mác-Lê, hoặc, hình thù xã hội chủ nghĩa cải lương kiểu Mao-Tập (?); đã vậy, họ lại vừa dùng mánh khóe gian hùng cố hữu, bám chắc chiếc ghế thống trị quyền uy, duy trì biện pháp xử dụng bạo lực, tù đày, để đàn áp khát vọng tự do, dân chủ của muôn triệu dân lành.
Bất hạnh thay, đảng cộng sản sau hơn 70 năm thống trị, đã cho thấy, chỉ là một thiểu số não trạng xơ cứng kém phẩm chất, thiếu kiến thức, vô lương tâm, có biệt tài luồng lách hiến đất, dâng biển cho ngoại bang phương bắc, khoác lác che giấu hành vi bán rẻ giang sơn để làm giàu cho bè nhóm, sống vinh thân phì gia ích kỷ, hủy hoại giá trị truyền thống văn minh và công lao dựng nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt, giữa thời đại trí tuệ ngày càng vươn cao trong cộng đồng nhân loại.
Chẳng thể tin được rằng, một dân tộc từng dựng nước qua 4 nghìn năm văn hiến, ngày nay lại không còn có đủ năng lực và trí tuệ để loại trừ, vứt bỏ 2 biểu tượng lạc hậu “búa, liềm” vô trí, vô thức, vô nghĩa, đã, đang, và sẽ còn đè nặng lên đời sống xã hội, tiếp tục cản trở con đường hướng tới tương lai của dân tộc Việt.
Mười năm trước, “xã hội dân sự” còn là một khái niệm hết sức xa lạ và nhạy cảm. Mười năm đủ để bình thường hóa và đưa khái niệm này vào cuộc sống hàng ngày.
“Xã hội dân sự” xa lạ và nhạy cảm bởi hầu hết người Việt Nam đang sống ngày nay đều không có cơ hội được học và được trải nghiệm một xã hội bình thường với ba thành tố chính: chính quyền, thị trường và xã hội dân sự. Từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên cả nước, đảng Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách kiểm soát xã hội một cách toàn diện và không cho phép thị trường lẫn xã hội dân sự tồn tại. Cuộc cải cách kinh tế mang tên “Đổi Mới”, bắt đầu từ năm 1986, đã bình thường hóa khái niệm “thị trường”, nhưng “xã hội dân sự” thì phải chờ đến cuối những năm 2000 mới bắt đầu được nói đến. Các tổ chức phi chính phủ (NGO) dần đóng vai trò chính trị lớn hơn trong đời sống xã hội, tuy vậy, gần như chỉ mang tính chất phụ họa và tư vấn cho chính quyền nhiều hơn là gây được sức ép.
Bước ngoặt đến vào năm 2011, sau sự kiện tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của PetroVietnam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 26/5. Một làn sóng phẫn nộ lan khắp Internet, cả blog lẫn mạng xã hội Facebook. Nhật Ký Yêu Nước (một trang facebook thành lập ngày 12/4/2010, chính thức hoạt động ngày 16/4/2010) phát lời kêu gọi biểu tình phản đối Trung Quốc.
Và ngày Chủ nhật, 5/6/2011, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã nổ ra cả ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, thu hút hàng nghìn người tham dự. Phong trào biểu tình này sau cùng kéo dài tới 11 tuần lễ, kết thúc vào ngày 21/8. Đây không phải là phong trào biểu tình đầu tiên ở Việt Nam kể từ sau năm 1975, nhưng nó là một bước ngoặt lịch sử: Lần đầu tiên có một phong trào xã hội chấp nhận những rủi ro cao nhất để công khai thách thức sự kiểm soát của chính quyền đối với các sinh hoạt chính trị của người dân, vốn trước đó bị coi là cấm kỵ.
Phong trào biểu tình năm 2011 tạo đà cho sự ra đời của hàng loạt hội, nhóm độc lập, công khai đấu tranh đòi các quyền chính trị “nhạy cảm” như tự do ngôn luận, lập hội, tụ tập ôn hòa, bầu cử công bằng, v.v. Kể từ đây, các thiết chế phi chính phủ không còn thuần túy đóng vai phụ họa và tư vấn cho chính quyền nữa, mà trực tiếp huy động quần chúng gây sức ép buộc chính quyền phải thay đổi thái độ, hành vi và thể chế.
Không ai hiểu điều này hơn đảng Cộng sản, bởi họ đã thành công bằng chính phương pháp này trong suốt lịch sử đấu tranh của mình.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: kenhthoitiet.vn.
Thập niên qua đã xác lập một thực tế không thể phủ nhận: Môi trường không còn được coi là vấn đề thuần túy kỹ thuật nữa, nó đã biến thành (hoặc được thừa nhận là) một vấn đề chính trị hệ trọng.
Khi “đại dự án” khai thác bauxite ở Tây Nguyên được thông qua năm 2009, đã có hàng nghìn người Việt trong và ngoài nước lên tiếng phản đối, chỉ ra các tác hại của dự án trên nhiều mặt: quốc phòng, môi trường, kinh tế, văn hóa bản địa… Ô nhiễm môi trường chỉ là một trong các nguyên nhân – dường như không mấy ai khi ấy hình dung được rằng chỉ nửa thập niên sau, đó sẽ là một trong các vấn đề đau đầu nhất ở Việt Nam đương đại.
Mùa xuân 2015, chính quyền Hà Nội tiến hành “cải tạo và thay thế cây xanh” bằng cách chặt hạ 2.000 cây gỗ, cây lâu năm trên toàn thành phố. Đó cũng là năm mà mùa hè nắng nóng kỷ lục làm ít nhất một người dân chết vì cảm nắng ngay giữa vườn hoa thủ đô, và tới tháng Sáu, mưa bão làm cây đổ, giết chết thêm vài người. Nhiều cây bị bật gốc, cho thấy bộ rễ còn nằm nguyên trong bọc ni-lông buộc dây nhựa.
Năm 2016, cá chết hàng loạt nổi lên ven bờ ở một loạt tỉnh miền Trung: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng… Được ghi nhận từ ngày 3/4/2016, số cá chết phải lên đến hàng nghìn tấn, cả cá biển lẫn cá nuôi trong bè ở các nhà dân địa phương. Tháng Tư chính thức đánh dấu sự bắt đầu của một trong những thảm họa môi trường biển lớn nhất từ trước tới nay trong lịch sử Việt Nam. Không ai có thể biết chính xác tất cả các nguyên nhân dẫn tới thảm họa này, chỉ mơ hồ hiểu rằng nghi phạm chính là tập đoàn thép Formosa của Đài Loan, đối tượng bị cáo buộc xả chất thải độc hại vào thẳng đại dương.
Cách chính quyền đối phó với thảm họa và giải quyết hậu quả không hứa hẹn điều gì tốt đẹp, vì chỉ xoay quanh: (1) các cuộc họp kín và thông báo ra công luận sau đó rằng “biển đã tự làm sạch”, “đã an toàn”, ngư dân có thể yên tâm bám biển; (2) trấn áp các ý kiến chống đối, đặc biệt là đàn áp biểu tình và bỏ tù nhà hoạt động.
Bên cạnh nguyên nhân biến đổi khí hậu, nguyên nhân cực kỳ quan trọng (và nghiêm trọng) dẫn tới suy thoái môi trường là những đại dự án, những chủ trương lớn của đảng và nhà nước, trải dài suốt từ bauxite Tây Nguyên (2009) đến thủy điện, nhiệt điện và điện hạt nhân, lấn biển xây khu đô thị… Theo các dự báo khác nhau, đồng bằng sông Cửu Long có thể biến mất do chìm dưới biển trong vòng 30-50 năm tới. Cũng theo một báo cáo quốc tế, riêng trong năm 2017, có hơn 71.300 người chết ở Việt Nam do các nguyên nhân liên quan đến ô nhiễm môi trường; trong đó, số tử vong vì ô nhiễm không khí lên tới 50.232 người.
Năm 2019, hạn hán, cháy rừng xảy ra trên diện rộng. Bụi mịn trở thành nỗi ám ảnh của người dân ở các thành phố lớn. Chất lượng không khí ở Việt Nam đã lập kỷ lục thế giới về ô nhiễm, độc hại. Chính quyền vẫn vậy: vụng về trong ứng phó khẩn cấp, tùy tiện và luộm thuộm trong xử lý dài hạn, nhưng rất khẩn trương, mạnh mẽ, triệt để trong đàn áp tiếng nói phê phán, nhất là những trường hợp “có tổ chức”.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: RFA.
Đất đai luôn nằm ở trung tâm của mọi nghị trình chính trị và kinh tế Việt Nam. Xưa, sở hữu toàn dân về đất đai là viên ngọc đính trên chiếc vương miện ý thức hệ xã hội chủ nghĩa mà các nhà lãnh đạo của đảng đội vào. Nay, khi lý tưởng ý thức hệ đã sụp đổ, nó trở thành bổng lộc chính mà đảng phân phối cho các tín đồ của mình để đổi lấy lòng trung thành với chế độ. Chuyện cưỡng chế đất đai, do đó, không có gì mới. Cái mới của thập kỷ qua là bức tranh đất cát được phơi bày ở một quy mô lớn chưa từng thấy, nhờ một công cụ mới: mạng xã hội.
Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa. Cùng với đó là nhiều tên người, là những nạn nhân của bạo lực, gồm cả giết chóc, đánh đập lẫn tù tội, từ chính quyền: Đặng Ngọc Viết (nổ súng bắn chết cán bộ rồi tự sát), Đặng Văn Hiến (tử tù), Cấn Thị Thêu (hai lần đi tù), Nguyễn Mai Trung Tuấn (trẻ vị thành niên, bản thân và cả nhà đi tù), Vũ Thị Hải, Trần Ngọc Anh (bị bỏ tù và bị hành hung nhiều lần), Lê Thị Trâm (bị máy xúc đè, chấn thương sọ não nhưng thoát chết nhờ ruộng lún), v.v.
Tai vạ cho dân bắt đầu từ khi các tập đoàn “đỏ” xuất hiện, bắt tay với nhà nước thâu tóm đất đai nhân danh các dự án “phát triển kinh tế”. Dân chỉ nhận được mức bồi thường rẻ mạt, nếu có. Trong khi đó, một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của các quyền liên quan đến đất đai, theo luật quốc tế, là: đất đai chỉ được chuyển giao với sự đồng ý của người dân; sự đồng ý đó phải là đồng ý từ trước, tự nguyện, và trên cơ sở được thông tin đầy đủ. Nguyên tắc ấy đương nhiên bị vi phạm hoàn toàn trong thực tế ở Việt Nam.
Tất cả những điều này được các nhà lý luận của chế độ “tổng kết” đơn giản, đại loại thành: đất nước đang trên đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tạo áp lực lớn về sự phát triển, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, dẫn đến mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân diễn biến phức tạp, có mặt còn diễn ra gay gắt. Cách đối phó là “làm tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở”, đồng thời “chủ động đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khiếu nại, tố cáo để tuyên truyền, kích động, lôi kéo quần chúng tham gia tập trung đông người, gây rối an ninh, trật tự…”.
Không có dấu hiệu gì cho thấy vấn đề đất đai sẽ bớt nhức nhối ở Việt Nam trong thập niên tới, chừng nào một đảng chính trị vẫn có độc quyền lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, quyết định giá đất, và có quyền dí súng vào đầu chủ đất bắt phải nhận tiền đền bù.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Reddit/Chưa rõ nguồn.
Ngày 20/8/2012, ông Nguyễn Đức Kiên – sáng lập viên Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), tên thường gọi là “bầu Kiên” – bị bắt giam. Sự việc được báo trước trên một trang blog có tên “Quan Làm Báo”, kéo theo một chiến dịch thông tin rầm rộ tiếp sau đó trên blog này, mang đầy màu sắc “thuyết âm mưu”. Có lẽ rất ít người hiểu được vụ án bầu Kiên, vì nó liên quan đến nhiều khái niệm kinh tế-tài chính-ngân hàng còn quá mới và phức tạp đối với dân chúng Việt Nam, nhưng quan trọng hơn cả, là vì về bản chất, nó là “chuyện cung đình”, chuyện của một thế giới mà dân thường không được phép đặt chân vào và không thể hiểu. Thế giới ấy là của riêng các tập đoàn “tư bản đỏ” và nhà nước.
Tuy không hiểu về từng vụ án, nhưng dần dần, người dân Việt Nam, nếu tỉnh táo quan sát, cũng nhận ra rằng các tập đoàn, công ty lớn đang nổi lên, trở thành những thế lực hùng mạnh có đủ khả năng lũng đoạn cả nền kinh tế lẫn chính trị Việt Nam. Bề nổi của tảng băng khổng lồ này là vụ án tập đoàn AVG, mà cựu chủ tịch là doanh nhân Phạm Nhật Vũ, đẩy hai cựu bộ trưởng vào tù, một trong hai người đó đã khai phạm tội theo “tinh thần chỉ đạo” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Dường như những “ông lớn” này muốn gì, đảng và nhà nước phải chiều nấy, từ đất đai đến tín dụng, đến việc gần như thành lập các “khu tự trị” bất khả xâm phạm. Nhưng cái quan trọng hơn cả mà họ nhận từ đảng và nhà nước chính là… bộ máy thể chế. Nói cách khác, những nhà tư bản đỏ đã sử dụng chính guồng máy chính sách làm công cụ phục vụ cho mình. Họ thường được gọi bằng cái tên chung chung là “nhóm lợi ích”.
Dĩ nhiên, họ cũng thao túng truyền thông – cả báo chí chính thống lẫn mạng xã hội – để bịt tất cả những thông tin bất lợi. Chẳng hạn, người dùng facebook Việt Nam lâu nay vẫn tự hiểu rằng: động đến chính quyền nhiều khi không sao, chứ động đến các tập đoàn lớn là có nguy cơ bị bịt miệng ngay lập tức, bởi đội ngũ “dư luận viên” của họ đông tới hàng ngàn, sẵn sàng “báo cáo vi phạm” (report abuse) tập thể để Facebook gỡ bài, hình ảnh, thậm chí đánh sập luôn trang facebook đăng tin hại đến uy tín của họ. Nặng hơn nữa, người đưa tin có thể bị công an bắt – đây là chuyện đã từng xảy ra không chỉ một lần.
Truyền thông chính thống dường như không có bất kỳ bản tin bất lợi nào cho các tập đoàn lớn như Vingroup, Sungroup, hay FLC, mặc dù mạng xã hội luôn có nhiều tin đồn và nghi vấn về các vụ tai nạn, hỏa hoạn hay các vụ thâu tóm đất đai của các tập đoàn này. Ấn tượng của xã hội về các tập đoàn này như là những thành trì bất khả xâm phạm là rất rõ ràng, nhưng gần như không thể có bằng chứng chứng minh. Báo chí quốc doanh tê liệt, còn báo chí độc lập thì bất lực, không điều tra nổi.
Nền chính trị Việt Nam đã chính thức bước vào chế độ tài phiệt (plutocracy). Đây là điều rất đáng lo ngại, bởi chống một nhà nước độc tài đã khó khăn, chống một nhà nước độc tài kết hợp chặt chẽ với tài phiệt còn khó khăn, nguy hiểm gấp bội.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Thanh Niên.
Các cuộc cạnh tranh quyền lực trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam không phải là hiện tượng mới. Cái mới của thập kỷ qua là cuộc cạnh tranh này đã mang một hình hài khác. Nếu như trước đây, nội bộ đảng chỉ dàn xếp về mặt chính trị với nhau, thì nay, xu hướng xử lý về mặt pháp lý ngày càng gia tăng. Trước đây, nội chiến giữa các quan chức có căng lắm cũng chỉ có kết quả là một phe bị cho thôi chức vụ, hạ cánh an toàn (dĩ nhiên, chúng tôi hiểu bạn còn đang nghĩ đến chuyện thủ tiêu). Nhưng trong 10 năm qua, án tù, thậm chí là án tử hình được mang ra để xử lý những bất đồng nội bộ ở cấp cao nhất: Bộ Chính trị.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật trung tâm của chính trị Việt Nam thập kỷ qua, đã phơi bày một phần cuộc đấu đá quyền lực trong đảng ra trước mặt báo và pháp đình, thông qua chiến dịch chống tham nhũng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đảng. Chiến dịch này đã làm thay đổi hẳn cách nhìn về quan chức nhà nước và cơ quan nhà nước trong công chúng nước ta. Trước đây, người ta coi làm quan, làm nhà nước là một công việc ổn định, vừa màu mỡ vừa an toàn, “đến hẹn lại lên”. Nay, ấn tượng đó đã sụp đổ cùng với những Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, v.v.
Tuy vậy, bộ mặt mới của cuộc chiến nội bộ không làm bản chất của cuộc chiến thay đổi. Không có bất kỳ một cuộc cải cách thể chế nào được khởi xướng để chống tham nhũng một cách có hệ thống, chiến dịch chống tham nhũng sau cùng chỉ là bình mới của một thứ rượu cũ. Hai cái chết bí ẩn của Nguyễn Bá Thanh và Trần Đại Quang, cùng với vụ mất tích kỳ lạ của Đinh Thế Huynh, tiếp tục phủ bóng chính trường với nhiều màu sắc ma quái, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ trong công chúng về những phương pháp thanh trừng nội bộ cổ xưa. Pháp luật, suy cho cùng, vẫn chỉ là công cụ thanh trừng chứ không phải là nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Không có thứ công lý nào đạt được với một thứ pháp luật như vậy.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: AFP.
Nếu 10 năm đầu tiên của thế kỷ 20 có thể coi là thập kỷ WTO, khi chính trị Việt Nam xoay vần theo các vòng đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), rồi kể từ 2006 là ảnh hưởng của tổ chức này tới xã hội Việt Nam, thì thập kỷ tiếp theo mọi thứ lại xoay vần theo hai hiệp định thương mại đặc biệt quan trọng: TPP và EV-FTA.
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) có nguồn gốc từ một hiệp định thương mại giữa bốn nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore năm 2005. Đến cuối những năm 2000, Việt Nam chính thức tham gia các vòng đàm phán cùng với Mỹ, Nhật và nhiều nước khác ven bờ Thái Bình Dương. Khi chính quyền Barack Obama (Mỹ) quyết định xoay trục từ châu Âu và Trung Đông sang Đông Á thì TPP nằm ở trung tâm bàn cờ địa chính trị của Mỹ, mà một lý do lớn là cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc.
Suốt từ đó cho tới năm 2016, khi 12 nước chính thức ký kết hiệp định này, Việt Nam đã phải gật đầu với các yêu cầu thay đổi thể chế, mà đặc biệt nhất là công nhận quyền thành lập công đoàn độc lập của người lao động, cũng như phải đối mặt với các sức ép lớn về nhân quyền từ Mỹ và một số nước khác để đổi lấy những lợi ích về thương mại. Đến tháng 1/2017, Tổng thống Mỹ mới lên nắm quyền là Donald Trump rút Mỹ khỏi hiệp định này, các nước còn lại thay đổi nội dung hiệp định và biến nó thành CPTPP, với những ràng buộc lỏng lẻo hơn về thể chế.
Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam (EV-FTA) cũng chi phối chính trị Việt Nam gần như cả thập kỷ qua, bắt đầu từ năm 2012 và cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Mặc dù các cơ quan hành pháp của hai bên đã đàm phán và ký kết xong vào tháng 12/2015, tiến trình phê chuẩn hiệp định tại các cơ quan lập pháp lại diễn ra rất chậm chạp.
EV-FTA một mặt dỡ bỏ 99% các hàng rào thuế quan hai chiều, tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận thị trường rộng lớn của 28 nước Liên minh Châu Âu (EU), nhưng cũng ràng buộc Việt Nam vào hàng loạt vấn đề nhân quyền gai góc như công đoàn độc lập và bảo vệ môi trường. Kết quả là Việt Nam phải sửa đổi Bộ luật Lao động, ghi nhận quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động và cam kết sẽ phê chuẩn các hiệp định lõi của Tổ chức Lao động Quốc tế. Các nhóm nhân quyền cũng tranh thủ cơ hội này để vận động EU gây sức ép lên Việt Nam trong hàng loạt các vấn đề nhân quyền như án tử hình, xét xử công bằng, tự do biểu đạt, tự do Internet, v.v. Dự kiến, Nghị viện EU sẽ bỏ phiếu quyết định số phận của hiệp định này vào tháng 2/2020.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: TIME.
Là một nước không nhỏ về quy mô lãnh thổ và dân số, nhưng nhỏ về mọi thứ khác, số phận của Việt Nam không thể thoát ra khỏi cuộc chơi địa chính trị của các nước lớn. Trung Quốc và mối quan hệ Mỹ – Trung tiếp tục phủ bóng nền chính trị Việt Nam.
Suốt 10 năm qua, không một năm nào tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc không có chuyện. Ngày 25/8/2010, tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ông Nguyễn Phú Trọng – khi đó là Chủ tịch Quốc hội – đã nói là chưa cần báo cáo về tình hình Biển Đông vì “không có gì mới” so với một năm trước đó. Câu “không có gì mới” sau này được nhiều người đem ra chế giễu, cho rằng nó hàm ý là vẫn căng thẳng như thế.
Năm nào, người dân Việt Nam, nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn, cũng biểu tình phản đối Trung Quốc hoặc các chính sách có liên quan đến Trung Quốc. Gần như cuộc biểu tình nào cũng bị đàn áp, chưa tính những sách nhiễu “hậu biểu tình” mà lực lượng an ninh tiến hành đối với những gương mặt phản kháng.
Hậu quả là, sau nhiều lần bị đàn áp, dần dần dư luận Việt Nam có vẻ đã… quen với việc Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông, xâm phạm vào chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Nếu đó là sự thật thì chứng tỏ chiến lược “tằm ăn dâu” (phương Tây gọi là “salami slicing”, nghĩa là “cắt từng lát salami”) của Trung Quốc trên Biển Đông đã thành công: gây ảnh hưởng, lấn át, xâm phạm đối phương bằng từng hành động nhỏ, không đủ để gây chiến tranh, nhưng từng bước lấn chiếm, cho đến khi đối phương giật mình tỉnh ra thì đã muộn, chủ quyền đã mất hoàn toàn về tay Trung Quốc.
Hành xử của Bắc Kinh với Hà Nội thể hiện trong một loạt từ khóa: tằm ăn dâu, đàm phán song phương, gác tranh chấp cùng khai thác, giữ đại cục. Đáp lại, Hà Nội có “bốn không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. “Bốn không” này đã được nêu trong Sách trắng Quốc phòng 2019. Ngoài ra, còn một chiến thuật đã và vẫn đang được Hà Nội sử dụng vô cùng hiệu quả, nhưng không được nêu chính thức trong văn bản nào: đu dây.
“Đu dây” cũng là một cách ngoại giao khéo léo để “không liên kết với nước này để chống nước kia”, không làm bên nào mất lòng. Điều đáng nói là Hà Nội không chỉ “đu dây” giữa hai siêu cường Trung Quốc và Mỹ, mà còn đu dây với… chính nhân dân mình. Sự đu dây này thể hiện qua nhiều điểm:
Báo chí chính thống lúc thì đồng loạt đưa tin rầm rộ về việc Trung Quốc gây hấn, xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam; lúc lại im lặng, nghìn tờ như một.
Các trang mạng xã hội (của ngành tuyên giáo và công an) một mặt hô hào yêu nước, một mặt kêu gọi “theo sát chủ trương, đường lối của nhà nước”, một mặt nữa, công kích, lăng mạ những người biểu tình;
Hàng loạt cuộc biểu tình bị đàn áp khốc liệt, nhưng lại cũng có vài cuộc diễn ra an toàn. (Thường thì lần biểu tình đầu có thể sẽ được “bật đèn xanh”, nhưng đến lần thứ hai thì cơ quan công quyền có thái độ khác hẳn, cứng rắn, thô bạo hơn).
Trong ngắn hạn, cái sự đu dây này có thể mang lại hiệu quả. Nhưng một nhà nước chính danh thì phát ngôn và hành động phải minh bạch, nhất quán, không được “bóng gió”, “gửi tín hiệu” này nọ đến dân chúng và nhất là, tuyệt đối không được lừa dân, không được phép dùng bạo lực với dân.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Getty Images.
Một số khuynh hướng, biến động chính trị-xã hội được nhắc tới ở trên, như vấn nạn cưỡng chế đất đai, tranh chấp chủ quyền biển đảo, và cuộc đấu đá nội bộ đảng Cộng sản, thật ra vốn là những gì vẫn liên tục xảy ra trong nền chính trị Việt Nam hơn nửa thế kỷ nay. Tuy nhiên, điều khác biệt là, trong quá khứ, tất cả những mâu thuẫn, xung đột, biến động và khuynh hướng đó diễn ra âm thầm như sóng ngầm, bởi vì thời ấy chưa có Internet và mạng xã hội.
Hai sự kiện – Việt Nam nối mạng toàn cầu (Internet) vào cuối năm 1997, và mạng xã hội Yahoo! 360 ra đời vào giữa 2005 – đã thật sự tạo nên những bước ngoặt lịch sử. Dù vậy, xét về tính tương tác và khả năng kết nối, Yahoo! 360 không thể bằng Facebook. Và toàn bộ Việt Nam, trên mọi mặt kinh tế-văn hóa-xã hội-truyền thông, cả thể chế chính trị lẫn cuộc đấu tranh dân chủ để thay đổi thể chế ấy, đều đã biến đổi hoàn toàn từ khi Facebook lên ngôi vào đầu thập niên vừa qua.
Kể từ khi có mạng xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử, người Việt có thể viết ra những suy nghĩ, cảm xúc, quan điểm của mình, và phổ biến cho nhiều người khác (đại chúng) đọc, mà không phải thông qua một tờ báo hay một nhà xuất bản nào, không bị ai kiểm duyệt. Lần đầu tiên, người Việt có thể tự chụp hình, tự làm phim, tự viết nhạc, tự biểu diễn, và phổ biến đến đại chúng, nhận tương tác, phản hồi ngay lập tức. Lần đầu tiên, người Việt có thể tự mình lập ra một trang báo, một nhà xuất bản, một kênh truyền hình/phát thanh. Lần đầu tiên, người Việt có thể mở diễn đàn, tổ chức thảo luận, tranh luận, thậm chí cãi vã nhau, mà không nhất thiết phải gặp mặt nhau. Lần đầu tiên, người Việt có thể kêu gọi tụ tập, tuần hành, biểu tình không xin phép nhà nước.
Về phía nhà nước, lần đầu tiên, họ phải đối phó với tình trạng thông tin về các sai phạm, tiêu cực của quan chức, cán bộ bị phơi lên mạng. Dân trở nên bạo dạn hơn và khôn ngoan hơn, không dễ bắt nạt, hà hiếp họ như thời chưa có mạng xã hội.
Hơn thế nữa, mạng xã hội lại còn có nhiều thông tin đa dạng hơn, nhanh chóng hơn và rất nhiều khi là thông tin “độc” hơn, tồn tại song song và cạnh tranh với các cơ quan báo đài chính thống.
Những người dân yếu thế cảm thấy được bảo vệ hơn, nếu họ biết cách tận dụng mạng xã hội. Và lực lượng đối lập, những người bất đồng chính kiến, người hoạt động dân chủ-nhân quyền, không còn là các nạn nhân bị chính quyền đàn áp trong câm lặng nữa. Họ đã có một công cụ, một diễn đàn hiệu quả để thể hiện mình trước công luận, công khai thu hút quần chúng trong cuộc chiến không cân sức với đảng cầm quyền.
Tóm lại, nhờ mạng xã hội, người dân Việt Nam lần đầu tiên được “mở miệng” và phần nào có được tiếng nói, ảnh hưởng trong tiến trình chính sách (dù vẫn còn vô cùng hạn chế).
Mạng xã hội, nhất là Facebook, đã trở thành “mặt trận truyền thông”, là nơi đảng Cộng sản và các xu hướng chính trị đối lập cạnh tranh để gia tăng ảnh hưởng, thu hút quần chúng. Cuộc chiến chống độc tài đã được dịch chuyển lên không gian mạng, nơi ấy người ta sinh sống, làm việc, mua bán, hưởng thụ, học tập, yêu thương nâng đỡ nhau hay căm ghét tiêu diệt nhau.
Không chỉ là mặt trận, mạng xã hội đã thực trở thành cuộc sống của người Việt Nam.
Đồ họa: Luật Khoa. Ảnh: Reuters.
Bất chấp mọi báo cáo đẹp đẽ về sự phát triển của Việt Nam, dòng người đào thoát khỏi quê hương chưa bao giờ dừng lại, mà còn ngày một lớn hơn, ồ ạt hơn.
Có hai thứ đo được phẩm chất của một quốc gia: số nước miễn visa cho công dân nước mình và số người rời bỏ nước đó ra đi. Số nước miễn visa cho thấy người Việt Nam được thế giới tôn trọng và chào đón cỡ nào, còn số người bỏ nước ra đi cho thấy Việt Nam đáng sống ra sao.
Tiếc rằng, cho đến nay, trong thời đại toàn cầu hóa, công dân Việt Nam chỉ có thể tới thăm 51 trên tổng số hơn 200 nước mà không cần xin visa, trong đó hầu hết là các nước đang và kém phát triển. Còn số người rời Việt Nam ra đi nhiều đến mức người ta chỉ có thể cảm nhận, chứ không thể có con số, bởi không ai đếm được những người ra đi theo những con đường bất hợp pháp.
Sự kiện chấn động 39 người Việt Nam chết trong một chiếc container khi đang tìm cách nhập cư lậu vào Anh năm 2019 chỉ là phần nổi của một dòng chảy lớn suốt thập kỷ qua. Những tưởng nạn thuyền nhân vượt biển ra đi đã chấm dứt hơn 20 năm trước, nhưng vẫn có những đoàn thuyền đưa người Việt Nam vượt biên tới Úc, tới Đài Loan và không ai biết còn tới những nơi nào khác nữa.
Rời bỏ quê hương bằng đường máy bay đi xuất khẩu lao động, đi lấy chồng nước ngoài, đi đầu tư, đi du học vẫn là xu hướng ngày càng lớn. Các làng quê Việt Nam, đặc biệt là ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ ngày càng vắng bóng người trẻ hơn.
Khi những đứa con của một quốc gia lũ lượt rời bỏ nó, là lúc quốc gia đó phải bắt đầu suy nghĩ về sự tồn vong và tưởng tượng lại về tương lai của mình.
***
Bình minh vẫn sẽ đến trên mọi miền Việt Nam vào sáng ngày 1/1/2020, nhưng mặt trời thì không phải nơi nào cũng thấy.
….”Nguyễn Văn Bông dầu được chánh quyền mời về, nhưng ông không e dè đăng đàn thuyết trình đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ” ngày 1 Tháng Tám năm 1963, nhân buổi lễ khai giảng năm học, trước cử tọa gồm viện trưởng, khoa trưởng, giáo sư cùng hàng ngàn sinh viên.”…
( Trích bài phát biểu của GS Trần Văn Chi nhân ngày giỗ GS Nguyễn Văn Bông Little Saigon, 10/11/2006)
Đối Lập Chính Trị – GS Nguyễn Văn Bông
I – Định Nghĩa Và Các Quan Niệm Về Đối Lập
Nói đến Dân Chủ là chúng ta nghĩ ngay đến vấn đề đối lập, mà đối lập là gì? Và được quan niệm như thế nào?
A – Định Nghĩa
Chúng ta đã dùng nhiều danh từ đối lập. Mà đối lập là gì? Thế nào là đối lập? Đứng về phương diện lịch sử mà suy xét, đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề. Ý niệm đối lập cần phải được phân tích rõ ràng hơn nữa để phân biệt nó với những hiện tượng tương tự. Đối lập có ba đặc điểm: Một sự bất đồng về chánh trị, có tánh cách tập thể và có tính cách hợp pháp.
Trước nhất, đối lập phải là một sự bất đồng về chánh trị. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào những kẻ chống đối có thể tổng hợp lại tất cả những vấn đề được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mực độ đại cương và phán đoán theo một tiêu chuẩn chính trị. Có thể có một số đông người dân chận đường chận xá để phản đối một chính sách của chính phủ, có thể có một số đông sinh viên, một đoàn thể văn hóa hay tôn giáo biểu tình đòi hỏi những cái gì. Đành rằng những sự kiện ấy có thể có hậu quả chính trị, nhưng đó không phải là đối lập. Đó chỉ là một sự khước từ, kháng cự hay phản đối. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào sự khước từ ấy, sự kháng cự ấy, sự phản đối ấy được chính trị hóa.
Là một sự bất đồng về chính kiến. Đối lập phải có tính cách tập thể. Trong bất cứ lúc nào, luôn luôn có những người bất đồng chính kiến với chính quyền. Có thể có một thiểu số đông anh em, thỉnh thoảng họp nhau, rồi trong lúc trà dư tửu hậu, bàn quốc sự, có một thái độ chống đối đường lối, chủ trương của chính phủ. Đó là những kẻ chống đối, những cá nhân đối lập. Và những kẻ chống đối ấy có thể có trong chính thể Độc Tài, Cộng Sản. Đó không phải là đối lập.
Đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến ấy có tính cách tập thể, khi nào nó là kết quả biểu hiện một sự hành động có tổ chức của những kẻ chống đối. Nói đến sự hành động có tổ chức là nghĩ ngay đến chính đảng. Chỉ có đối lập khi nào có một chính đảng đối lập.
Là một sự bất đồng về chính kiến có tính cách tập thể, đối lập phải hợp pháp nữa. Có thể vì một lý do gì mà một đoàn thể phải dùng võ lực chống lại chính quyền. Có thể vì một lý do gì mà một chính đảng phải hoạt động âm thầm trong bóng tối. Những hành động ấy, đành rằng nó có tính cách tập thể và kết quả của một sự bất đồng chính kiến, không được xem là đối lập. Những hành động ấy chỉ được xem là những cuộc âm mưu phiến loạn hay kháng chiến, nó không còn là đối lập nữa. Vì đối lập chỉ hoạt động trong vòng pháp luật.
B – Các Quan Niệm Về Đối Lập
Một khi đã ý thức được danh từ “đối lập” và nhận định tầm quan trọng của nó trong cuộc sinh hoạt chính trị, vấn đề then chốt được đặt ra là xác định vị trí của đối lập trong các chính thể. Nếu tinh túy của dân chủ là lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị, thì lẽ tất nhiên lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị ấy được thể hiện trên bình diện chính trị, qua những quyền của đối lập và sự hiện diện của đối lập chỉ là kết quả của sự thừa nhận tự do chính trị. Đối lập chỉ có giá trị và hiệu quả trong một chế độ mà triết học chính trị là Dân Chủ Tự Do. Vì đối lập dựa trên tinh thần khoan dung, trên sự chính đáng của bất đồng chính kiến. Vì thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chính trị.
Một quan niệm đối lập như thế, dựa trên Chủ Nghĩa Tự Do, Chính Thể Độc Tài không thể chấp nhận được. Trong chính thể này, chính quyền là tất cả, còn đối lập chẳng những vô ích mà còn nguy hiểm nữa. Vô ích vì những nhà độc tài luôn cho rằng ý thức hệ của mình là bất di bất dịch và vai trò của cơ quan công quyền không phải tìm lấy một ý chí đi sát với nguyện vọng của quốc gia mà trái lại chỉ có nhiệm vụ áp dụng mệnh lệnh của chính đảng nắm quyền lãnh đạo. Chẳng những vô ích, đối lập còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm cho sự thực hiện nguyện vọng của quần chúng, vì hành động của đối lập phân ly quần chúng. Bởi thế, đối lập cần phải được thanh trừng và những cái mà người ta gọi là Dân Chủ, quyền tự do công cộng, những lợi khí mà đối lập dùng để hoạt động, lợi khí ấy cần phải được cấm nhặt.
Bị khước từ bởi những chính thể Độc Tài, đối lập chỉ được thừa nhận trong chính thể Dân Chủ, chẳng những trên bình diện triết lý chính trị, đối lập còn được chứng minh qua khía cạnh cuộc điều hành thực tiễn của định chế. Chính sự hiện diện của đối lập phản ảnh tính cách chân chính của ý chí quốc gia. Trong những chế độ mệnh danh là “nhất tề – nhất trí”, trong những chế độ mà người ta chỉ nghe 99 phần trăm, đành rằng không phải không thể có được, nhưng sự vắng mặt của đối lập làm cho người ta lắm lúc phải hoài nghi. Chỉ trên bình diện thực tại, vai trò của đối lập chứng tỏ rằng, mặc dù bị loại ngoài hệ thống chính quyền, đối lập cần có mặt và phát biểu.
Một quan niệm quá ư rộng rãi về Dân Chủ, lẽ tất nhiên – dựa trên một sự đối lập chân thành, xây dựng. Nhưng ý niệm đối lập ngày nay quá biến chuyển. Một hiện tượng mới đã xảy ra, một đối lập, không phải trong chính thể, mà chống chính thể Dân Chủ, một sự đối lập hoàn toàn phủ nhận nguyên tắc Dân Chủ, một sự đối lập về ý thức hệ. Tất cả vấn đề là thử hỏi, trước một sự đối lập như thế, thái độ của chính thể Dân Chủ phải như thế nào. Một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và trên bình diện quốc tế, những giải pháp bảo vệ chính thể Dân chủ tùy thuộc hoàn cảnh thực tại chính trị của mỗi nước.
Dù sao, để trở lại vấn đề đối lập trong chính thể Dân Chủ, không ai có thể chối cãi tính cách chính đáng của sự hiện diện của đối lập. Nhưng đối lập, chẳng những phải có mặt mà còn phải có thể phát biểu nữa. Mà đối lập phát biểu để làm gì và hành động của đối lập sẽ có tác dụng gì trong guồng máy chính trị quốc gia? Và theo thủ tục nào, dưới hình thức nào, với những bảo đảm nào, đối lập có thể mạnh dạn và thành thực phát biểu ý kiến?
Đó là hai vấn đề cực kỳ quan trọng, vấn đề vai trò của đối lập và vấn đề qui chế của đối lập, hai vấn đề căn bản mà chính thể Dân chủ cần phải giải quyết một cách phân minh để ổn định cuộc sinh hoạt chính trị và để đối lập làm tròn sứ mạng của nó.
II- Vai Trò Của Đối Lập
Trong chính thể Dân Chủ thật sự, hiện diện của đối lập là một điều hết sức chính đáng. Chính đáng vì thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Chẳng những chính đáng, đối lập lại còn cần thiết nữa. Cần thiết cho phẩm tính, đối lập còn cần thiết cho sự hiện hữu của chính quyền nữa. Trong cuộc sinh hoạt chính trị ổn định, đa số ở đâu ra, chính quyền hiện tại ở đâu ra, nếu không phải là sự kết tinh của sự tranh chấp với đối lập? Trên khía cạnh này, đối lập đóng vai trò căn bản, vai trò hợp tác với chính quyền, đó là hai khía cạnh của vai trò đối lập.
A – Vai Trò, Hạn Chế Và Kiểm Soát Chính Quyền
1- Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Đó là một trong những hoạt động cốt yếu của đối lập ở bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt chính trị. Trước hết, ở giai đoạn tuyển cử đối lập có mặt, có thể phát biểu ý kiến, đối lập có quyền phủ nhận làm cho chính quyền bỏ bớt thái độ cứng rắn, những chương trình mỵ dân, những hứa hẹn hão huyền. Đối lập chận đứng lại những tư tưởng hẹp hòi, những quan điểm thiển cận, tư tưởng và quan điểm không phải của một chính phủ quốc gia mà hoàn toàn lệ thuộc vào mệnh lệnh của đảng phái.
2- Đối lập bảo đảm tính cách đích xác công khai của những quyết định của nhà nước. Thật vậy, khi mà chúng ta nói đến ý chí của toàn dân, ý chí của quốc gia, cần phải nhận định rằng đó chỉ là ý chí của đa số. Ý chí của đa số là ý chí của quốc gia, cái phương trình ấy chỉ có giá trị khi nào quyết định của đa số được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do. Chính đối lập bảo đảm tính cách đích xác của quyết định của đa số và bắt buộc đa số nắm chính quyền phải tham dự một cuộc tranh luận công khai. Vẫn biết rằng, trong chế độ Tổng Thống hay trong chế độ Đại Nghị mà chính phủ có đa số ở Quốc Hội, đối lập không thể ngăn cản chính quyền hành động theo ý của họ. Nhưng, tự do chỉ trích, đối lập bắt buộc địch thủ phải tiết lộ dự định của họ, những lý do của một quyết định của họ. Và như thế, đối lập bảo đảm rằng, khi một biện pháp hay chính sách được chấp thuận, những lý lẽ chống đối hay bênh vực biện pháp, chính sách ấy, đều được công khai đưa ra dư luận. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền, đối lập đảm đương một cách thiết thực hơn nữa trên diễn đàn Quốc Hội.
3 – Với phương tiện nào đối lập đóng vai trò của nó trên bình diện nghị viện? Đành rằng cơ cấu chính phủ nước này không giống nước kia, nhưng trong bất cứ chính thể Dân Chủ nào, người ta cũng tìm thấy từng ấy phương tiện cho phép đối lập phát biểu công khai ý kiến của họ. Trong những lúc bàn cãi và biểu quyết ngân sách quốc gia, sự hiện hữu của đối lập bắt buộc chính quyền bỏ hẳn chương trình mỵ dân, thái độ cứng rắn, và nhứt là chính quyền hết sức dè dặt khi bắt buộc toàn dân phải hy sinh quá độ. Cuộc đối thoại giữa chính phủ và quốc hội – chung qui giữa chính quyền và đối lập – qua những cuộc tranh luận, những câu hỏi, những cuộc tiếp xúc với ủy ban hay giữa phiên họp công khai là những dịp mà các vị Dân Biểu đối lập nói lên những lạm dụng của cơ quan hành chánh, hay nhận được – qua cuộc trình bày của các vị Bộ Trưởng – tin tức về một vấn đề nhất định hay câu trả lời đích xác. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền được biểu hiện một cách thiết thực nữa qua nguyên tắc trách nhiệm chính trị. Chúng ta biết rằng trong chế độ Đại Nghị, chính phủ bắt buộc phải từ chức khi đa số ở Quốc Hội biểu quyết chống chính phủ. Yếu điểm này sẽ là một ảo mộng nếu không có một đối lập thực sự.
Vậy qua từng giai đoạn của sự khởi thảo chương trình và trong hành động hàng ngày, chính quyền luôn luôn để ý đến lập trường của đối lập, tự kiểm soát lấy mình và trong việc ấn định kế hoạch quốc gia, lắm lúc phải nhận lấy chủ trương của đối lập. Thái độ này không nhằm làm vui lòng đối lập mà cho toàn dân, vì để ý đến lập trường của đối lập trong việc xác định đường lối chính trị, chính quyền hướng về nguyện vọng của quốc gia.
4 – Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Vai trò tối quan trọng này, không phải đối lập luôn luôn đảm đương với tất cả hiệu quả thật sự. Không, vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là ở khía cạnh tâm lý của toàn dân. Vấn đề là mỗi công dân có thể chắc chắn rằng, ngoài Quốc Hội hay trên diễn đàn Quốc Hội, có những người đại diện có thể phát biểu ý kiến của mình, không phải theo đường lối của chính quyền mà khác hẳn chính quyền. Và dù rằng ý kiến không được chấp thuận đi nữa, họ có cảm giác rằng sự kiện ấy do nơi quyền lợi tối cao của quốc gia, chứ không phải vì tính thị hiếu nhất thời, chuyên chế. Cần phải nhận định rằng, đối lập không những là tượng trưng cho một khuynh hướng chính trị, đối lập còn có giá trị tự bản chất nó nữa. Vì chỉ có đối lập và bởi đối lập mà việc kiểm soát của toàn dân mới có tính cách chân thành và hiệu lực trong một chế độ thương nghị, không những hạn chế, kiểm soát chính quyền, đối lập còn cộng tác với chính quyền nữa.
B – Vai Trò Cộng Tác Với Chính Quyền
Cho rằng đối lập cộng tác với chính quyền, đó là một khẳng định có hơi mâu thuẫn. Tuy nhiên chính đó là khía cạnh tích cực của vai trò đối lập. Và chúng ta có thể quả quyết rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập.
1 – Qua những cuộc tranh luận trong một bầu không khí cởi mở, những ý tưởng khích động tinh thần, những định kiến bớt phần cứng rắn, những ý kiến được chọn lọc và uy quyền sáng tỏ. Bất cứ một chính quyền nào cũng có khuynh hướng tự giam mình trong tình trạng cô đơn, chỉ nghe lời của đồng chí và lấy quyết định phù hợp với ảo vọng hoang đường qua những nhận xét riêng biệt của mình về thời cuộc. Đối lập có mặt, nhắc lại cho đoàn thể ở chính quyền tính cách phức tạp của thực tại chính trị, đem lại những màu sắc chính trị và đôi khi phản kháng lại những truyền tin báo cáo đơn phương của chính phủ. Qua những hành vi tích cực ấy, chính quyền thâu lượm được những dấu hiệu quý giá về tình trạng tinh thần của dư luận. Chẳng những trong lãnh vực thông tin, vai trò cộng tác với chính quyền của đối lập nổi bật lên nữa qua khía cạnh nghị viện.
2 – Tất cả những công việc thuộc về thiết lập chương trình nghị sự, về những vấn đề cần phải được thảo luận, những dự án ưu tiên, những cuộc tiếp xúc v.v…, tóm lại, vấn đề liên hệ đến việc tổ chức công tác của Quốc Hội, sự thỏa thuận giữa đối lập và chính quyền là điều kiện cốt yếu của một tình trạng chính trị ổn định. Và lịch sử đã chứng minh rằng, trong những trường hợp đặc biệt, trong những tình trạng khẩn cấp, tối cần, trong những trường hợp mà sinh tồn của quốc gia được đặt ra, trong những trường hợp ấy, lịch sử đã chứng minh rằng đối lập từ khước độc lập và lắm lúc lại ủng hộ chính quyền để bảo vệ uy thế của chính quyền lúc phải đương đầu với mọi cuộc ngoại xâm.
3 – Hướng dẫn chính quyền tham gia vào cuộc điều hành công tác Quốc Hội, một sự đối lập có tổ chức, có hệ thống đóng một vai trò cực kỳ quan trọng là chủ trương một chính sách để thay thế cho chính sách chính quyền. Cần phải nhấn mạnh đặc điểm này. Trong những xứ mà tình trạng chính trị chưa ổn định, trong những xứ mà đối lập vắng mặt, người ta luôn luôn lo ngại cho tương lai chính trị quốc gia. Ai sẽ thay thế nhà lãnh tụ hôm nay? Viễn tượng những cuộc cách mạng đẫm máu, những cuộc chính biến, viễn tượng những gián đoạn chính trị đầy hậu quả làm cho cuộc sinh hoạt chính trị kém phần tích cực. Đối lập, trong chính thể Dân Chủ, cho phép Quốc Gia xoay chiều, đổi hướng trong khung cảnh của định chế và không tổn thương đến sự liên tục của cuộc sinh hoạt chính trị. Đối lập là chính phủ của ngày mai, đối lập tượng trưng sự tin tưởng vào định chế quốc gia, đối lập duy trì sự liên tục của chính quyền.
Một sự đối lập hữu hiệu là một lực lượng tích cực. Cần phải nhận định rằng đối lập không phải là lực lượng luôn luôn chống đối chính quyền. Đối lập và chính quyền là hai yếu tố căn bản của thế quân bình chính trị trong chính thể Dân Chủ.
Hạn chế và kiểm soát chính quyền, cộng tác với chính quyền, một khi đã hiểu như thế, vai trò của đối lập, vấn đề được đặt ra bây giờ là thử hỏi trong điều kiện nào đối lập có thể làm tròn sứ mạng của nó trong một bầu không khí khoan dung, khi mà một số quyền hạn của đối lập được xem là bất khả xâm phạm và đồng thời đối lập thông suốt nhiệm vụ của mình. Kê khai những quyền hạn ấy, ấn định nghĩa vụ của đối lập, tức là bàn đến vấn đề quy chế của đối lập.
III – Quy Chế Của Đối Lập
Vấn đề ấn định quy chế của đối lập tùy thuộc mỗi quan niệm riêng về đối lập. Nếu đối lập chỉ được xem là một quyền đối lập, nó chỉ là hậu quả tất nhiên của thể chế chính trị Dân Chủ Tự Do. Đối lập tức là có quyền xử dụng tất cả những tự do hợp pháp. Trái lại, nếu đối lập được đưa lên hàng một chức vụ rất cần thiết cũng như chính quyền, nếu đối lập được xem không phải là một việc bất đắc dĩ, mà là một liều thuốc kích thích chính quyền, thì theo quan niệm này, quy chế chẳng những bảo đảm tự do của đối lập mà còn chú ý tới công hiệu của nó nữa. Tổ chức đối lập, định chế hóa đối lập đó là quan niệm thứ hai của đối lập.
Nhưng dù có được định chế hóa hay không, đối lập để có thể đảm đương vai trò chủ yếu của nó, phải là một đối lập tự do và xây dựng. Nói đến đối lập tự do là phải nghĩ ngay đến quyền hạn của nó; nói đến đối lập xây dựng là nghĩ đến ngay nghĩa vụ của nó.
A – Một Trong Những Quyền Hạn Của Đối Lập
1 – Là quyền không thể bị tiêu diệt. Vì đối lập luôn luôn là một chướng ngại, chính quyền hay có khuynh hướng thừa một cơ hội nào đó, tẩy trừ phần tử rối loạn ấy đi. Vẫn biết rằng, có những lúc, những giờ phút nguy nan, đối lập hoặc tự mình, hoặc thỏa thuận với chính quyền, ngưng hẳn những phê bình hay chỉ trích. Nhưng đó chỉ là im hơi, lặng tiếng; chớ quyền sinh tồn vẫn là quyền tối cao của đối lập. Tiêu diệt đối lập tức là dọn đường cho Chủ Nghĩa Độc Tài. Đối thoại trở thành độc thoại.
2 – Quyền thứ hai của đối lập là quyền phát biểu. Và quyền phát biểu này được thể hiện bởi những cái mà người ta gọi là tự do công cộng. Số phận của đối lập sẽ ra sao nếu đối lập không tự do có ý kiến khác hẳn ý kiến chính quyền, và tự do phát biểu ý kiến ấy trên báo chí và sách vở? Nếu đối lập không được tự do hội họp? Chỉ có đối lập thật sự trong một chế độ mà các tự do này được ấn định và chế tài một cách hợp lý.
Chúng ta có nói rằng thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chánh trị Dân Chủ. Tính cách tương đối này được thể hiện qua sự tự do tuyển cử. Tự do tuyển cử tức là tự do trình ứng cử viên, tự do cổ động và nhất là sự bảo đảm tính cách chân thành của kết quả cuộc bầu cử.
Trên bình diện đại nghị, đối lập cần phải được đặc biệt bảo vệ. Trường hợp Dân Biểu đối lập bị bắt bớ hay tống giam không phải là những trường hợp hiếm có. Vì thế mà quyền bất khả xâm phạm của Dân Biểu là một thực tại.
Những quyền hạn mà chúng tôi đã sơ lược kê khai không phải chỉ dành riêng cho đối lập. Đó là quyền bảo vệ tất cả công dân trong chính thể Dân Chủ. Nhưng phải thành thật mà nhận định rằng tự do phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm v.v… là những điều kiện quí giá cho đối lập luôn luôn bị chính quyền đe dọa.
Đó là điều kiện tối thiểu. Một quan niệm cấp tiến đã đi đến chỗ định chế hóa đối lập. Đối lập trở thành một thực thể có hiến tính. Đó là trường hợp của Anh Quốc vậy.
Ở nước Anh, đối lập có một tước vị chính thức “đối lập của Nữ Hoàng”. Và đối lập của Nữ Hoàng có cả chính phủ riêng của họ, một nội các bóng trong Hạ Nghị Viện. Vị lãnh tụ đối lập của Nữ Hoàng là một nhân vật cao cấp đầy uy thế, luôn luôn được mời đến cùng vị Thủ Tướng tham dự những buổi lễ chính thức và luôn luôn được tham khảo ý kiến về những vấn đề chính trị trọng đại. Và xin nhắc lại một điều rất lý thú là “nhà nước lại phải trả lương cho vị lãnh tụ đối lập”.
Nhưng dù sao, định chế hóa hay không, quyền sinh tồn và những điều kiện thuận tiện để tự do phát biểu, chỉ có ý nghĩa khi nào đối lập tin tưởng có quyền nắm lấy chính quyền. Chính sự bình đẳng trong vận hội ấy làm cho cuộc sinh hoạt chính trị thêm phần phấn khởi.
Đối lập có vài quyền hạn để đảm đương vai trò của nó. Nhưng đối lập không phải chỉ có quyền. Một số nghĩa vụ hạn chế hoạt động của đối lập, nghĩa vụ nhằm mục tiêu tôn trọng tinh thần Dân Chủ.
B – Những Nghĩa Vụ Của Đối Lập
Một trong những nghĩa vụ của đối lập là thừa nhận quy luật đa số. Những ai quan tâm đến cuộc bầu cử đều rõ rằng có thể xảy ra trường hợp mà vị Tổng Thống đắc cử hay một chính đảng chiếm đa số ở Quốc Hội trong lúc phiếu của mình lại kém địch thủ thất bại. Nhưng đó chỉ là hậu quả kỹ thuật của luật tuyển cử. Và công lý là một chuyện, mà hợp pháp là một chuyện khác nữa. Trường chính trị là một cuộc tranh đấu công nhận quy luật đa số, tức là thẳng thắn tham gia cuộc đấu tranh bởi đó là luật lệ của nguyên tắc dân chủ.
Nghĩa vụ thứ hai của đối lập là hoạt động một cách ôn hòa xây dựng và có tinh thần trách nhiệm. Những chỉ trích vớ vẩn, những vu khống không có căn bản chính trị của những kẻ tự cho là chính khách, những phê bình chỉ đem lại hoài nghi và bất mãn, đó là những tệ đoan của sự đối lập không xứng đáng với danh hiệu của nó. Vì đâu lại có một hiện tượng bất thường như thế? Ngoài tham vọng cá nhân, hiện tượng này phát sinh từ một hệ thống chính đảng nhất định và liên quan đến khía cạnh ý thức hệ của một vài chính đảng.
Trong một xứ, một hệ thống đa đảng là một thực tại chính trị, khi mà không một chính đảng nào chiếm đa số hay ưu thế trên sân khấu chính trị. Chính phủ luôn luôn là một chính phủ liên hiệp. Mà liên hiệp tức là tập hợp những khuynh hướng mâu thuẫn, dung hòa những chính sách tương phản. Chính cái viễn tượng không bao giờ tự mình chiếm được hoàn toàn quyền và thực hiện những chương trình hứa hẹn làm cho chính đảng thiếu ý thức xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Tính cách rời rạc và chia rẽ của đối lập, chỉ biết phá hoại biến đổi hẳn mối tương quan truyền thống giữa đa số và thiểu số. Đối lập không còn là đối lập ngoài và chống chính phủ, đối lập ở đây là đối lập trong chính phủ.
Chẳng những thế, khía cạnh ý thức của một vài chính đảng là nguyên do thứ nhì của sự thiếu tinh thần xây dựng. Đối lập chỉ có nghĩa trong một khung cảnh chính trị nhất định. Nếu chúng ta đồng ý về một nguyên tắc căn bản, nếu chúng ta thừa nhận chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân quyền, tự do chính trị, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị, sự độc lập của Thẩm Phán hay quyền tự do phát biểu, thì cuộc tranh chấp chính trị chỉ nằm trên lãnh vực thực tiễn qua những nguyên tắc thứ yếu. Trái lại, nếu đối lập nhằm chống lại, không phải một khuynh hướng chính trị hay một chính sách nhất định, mà chính cả nền tảng của xã hội, nghĩa là chống cả chính thể, thì khẳng định rằng đối lập là chính phủ tương lai không còn giá trị nữa. Vì đặc tính của đối lập về ý thức hệ là chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.
Trong một tình trạng như thế, trước tình trạng mà đối lập không thi hành nghĩa vụ của nó, những quyền hạn không còn lý do tồn tại nữa. Và “Chính Thể Dân Chủ” cần phải có những biện pháp thích nghi để đối phó. Sa thải những phần tử bất chính trong hành chính, bắt buộc đối lập phải có một chương trình và có năng lực nắm chính quyền trước khi lật đổ chính phủ, sửa đổi luật bầu cử, đặt ngoài vòng pháp luật những chính đảng quá khích, đó là một vài ví dụ cụ thể về biện pháp được áp dụng để bảo vệ Chính Thể Dân Chủ.
IV – Đối Lập Trong Các Quốc Gia Chậm Tiến
Phác họa như thế, vai trò và “qui chế đối lập” trong “chính thể dân chủ” qua sự biến chuyển của ý niệm trong xã hội cận đại, chúng ta không khỏi tự nhủ rằng đó là lý tưởng. Và tự hỏi rằng lý tưởng ấy có phù hợp với những quốc gia trên đường phát triển, với hiện tình những nước vừa thu hồi độc lập.
Thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng, đối lập nếu không hoàn toàn vắng mặt, thì chỉ được dung túng một phần nào, một phần nhỏ nào, trong những nước mới này, những nước mệnh danh là Dân Chủ và đồng thời cũng được xem là những chính thể không độc tài. Tại sao lại có một sự kiện oái oăm như thế?
Lý do thứ nhất mà người ta đưa ra là sự đe dọa trầm trọng của độc tài Cộng Sản. Những nước mới này, là những nước bị nạn Cộng Sản đe dọa và có nước đang chiến đấu một mất một còn với Cộng Sản. Dung túng đối lập tức là cho Cộng Sản cơ hội núp sau lá cờ đối lập để phá hoại nền dân chủ. Đối lập Cộng sản là đối lập về ý thức hệ, và chúng ta biết rằng đối lập về ý thức hệ là đối lập chống chính thể Dân Chủ.
Lý do thứ hai là trình độ giáo dục của quần chúng. Người ta cho rằng dân chúng chưa có một trình độ giáo dục về chính trị khá đầy đủ để cho có thể xử dụng một cách hoàn hảo những quyền tự do công cộng. Và như thế, đối lập chỉ có hại vì nó sẽ là bức bình phong của những tham vọng cá nhân của những kẻ không cơ sở chính trị chỉ dựa trên cuộc chính đồ sinh hoạt. Hơn nữa, thì giờ gấp rút, nâng cao mực sống của toàn dân là một việc tối cần, lúc kiến quốc không phải lúc bàn cãi, phê bình hay chỉ trích.
Những lý do mà chúng ta vừa nêu ra rất là chính đáng. Nhưng chính đáng không có nghĩa là phải chấp nhận. Trong lĩnh vực chính trị và xã hội, sự hoàn hảo của một định chế chính trị là kết quả của kinh nghiệm. Làm sao hy vọng một nhận thức khá cao của quần chúng, nếu hôm nay không có học tập hướng về Dân Chủ? Không phải nhất thiết áp dụng tất cả những gì đã có hay đang có ở Tây Phương. Thực tại chính trị xã hội văn hóa của mỗi nước là yếu tố căn bản. Nhưng điều kiện tối thiểu phải có để đối lập được phép khởi đầu và phát triển.
Vả lại, vì thiếu đối lập mà Cộng Sản và những phần tử phản Dân Chủ nắm mất chính nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần chúng.
Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chính quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho phần tử phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do và xây dựng cần phải được đặt ra. Và như thế không những trong những nước tiền tiến, mà chính ngay trong những tân quốc gia, công cuộc kiến quốc và cứu quốc, công cuộc xây dựng nền Dân Chủ phải là kết tinh của hoạt động song phương giữa chính quyền và đối lập.
CON NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG PHƠI BÀY TỘI ÁC MAO TRẠCH ĐÔNG
About this website
Tháng 12/2014 trên mạng có lưu truyền một bài viết ký tên tác giả là Trang Quế Tam, tổng kết 7 tội ác lớn nhất của nhân loại do ông Mao Trạch Đông gây ra. Cựu lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông nắm quyền 27 năm, lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh chủ yếu để tiến hành con đường cực tả. Trên đường lối đó, ông đã dùng dẫn dụ và cưỡng bức để gây ra biết bao thảm họa vô cùng tàn nhẫn cho xã hội mà mỗi thảm cảnh có thể được coi như là lớn nhất của nhân loại.
Năm 1957 “Phản cánh hữu”, chụp mũ và giám sát 550.000 người phe cánh hữu, lấy những lời phát biểu của những người phe cánh hữu lập hồ sơ, khống chế nội bộ phe cánh hữu, tổng số gần 1 triệu người. Những người trong phe cánh hữu này hầu hết là thành phần tri thức, họ trong khi phe đấu đã tự sát nhiều đến mức không kể xiết. Đây là cuộc chiến chống lại nhiều người trí thức nhất của nhân loại.
Năm 1958 “Đại nhảy vọt”, để hùa theo cách làm liều lĩnh của Mao Trạch Đông, toàn quốc hưởng ứng một cách quá khích. Các nơi đua nhau phóng đại sản lượng thu hoạch mùa vụ, sáng tạo ra con số không tưởng, sản lượng trên một mẫu là 5.000 – 60.000 kg lương thực, thậm chí ông còn “nghiêm trọng” đặt ra vấn đề “lương thực nhiều quá ăn không hết thì phải làm sao?”Đây là chuyệnhoang đường nhất của lịch sử loài người.
Theo thống kê của Hồ sơ giải mật Quốc gia, từ mùa xuân năm 1958 đến mùa xuân năm 1962, tại Trung Quốc có 37 triệu 500 nghìn người chết đói. Người dân cho rằng, nếu như tính cả người chết đói, chạy nạn bị thất lạc, trẻ sơ sinh chết do không đủ sữa, chết do bị bội thực, chết vì đói rét, vì quá đói đi ăn trộm đồ ăn bị đánh chết, không cho chạy nạn bị đánh chết… Nếu như tính tất cả những nguyên nhân đó, thì con số người chết ước chừng 60 triệu người. Mao Trạch Đông đứng đầu vềthảm họaliên quan đến tính mạng con người, là điều thê thảm nhất của nhân loại.
Năm 1957 sau khi chống lại phe cánh hữu, phần tử cánh hữu và cả người nhà bị đưa về nông thôn, họ đều bị giám sát lao động, đồng thời bất kể lúc nào cũng có thể bị lôi ra phê đấu, để làm tài liệu sống cho đấu tranh giai cấp. Các vùng nông thôn rộng lớn này biến thành một trại giam khổng lồ, không cần tường bao, không có thời hạn thi hành án. Mao Trạch Đông tạo ra một trại giam khổng lồ chưa từng có trong lịch sử, cũng như tương lai.
Mao Trạch Đông thông qua rất nhiều thủ đoạn, khi mới đề xuất thì rất rõ ràng, nhưng khi kết thúc thì rất đen tối, thực thi sự sùng bái cá nhân, mê tín cá nhân. “Sáng xin chỉ thị, chiều phải báo cáo”, “Kính nghênh hồng bảo thư”… Mê tín cá nhân và sùng bái cá nhân của Mao Trạch Đông đã lừa gạt con người mấy thế hệ, từ cổ chí kim, trong nước ngoài nước không ai sánh nổi.
Tháng 9/1962, bà Giang Thanh, vợ của ông Mao từ hậu trường bước ra khoa tay múa chân nói về việc chính trị quốc gia. Năm 1965 Mao Trạch Đông và bà ta ở trong phòng kín mưu đồ, đưa ra “Bình tân biên lịch sử kịch (hải thụy bãi quan)”, Giang Thanh được đề cử lên làm Phó Tổ trưởng Cách mạng Văn hóa Trung ương, sau đó lên làm Cố vấn Cách mạng Văn hóa Quân ủy, rồi Ủy viên Cục Chính trị. Ngoài Mao Trạch Đông ra, bà Giang Thanh trở thành cánh tay đắc lực với quyền lực vượt qua tất cả các lãnh đạo trong Trung ương ĐCSTQ. Bà Giang Thanh đã lợi dụng quyền lực mà Mao Trạch Đông giao cho để làm vô số việc ác, chuyện xấu và các vụ bê bối. Mao Trạch Đông trao quyền lực lớn nhất cho vợ của mình, chuyện này cũng chưa từng có trong lịch sử.
Mao Trạch Đông phát động kẻ thù chính trị đả kích Đại Cách mạng Văn hóa, khiến cho Trung Quốc lâm vào đại loạn. Trong 10 năm Đại Cách mạng Văn hóa, hơn 20 triệu người bị giết chết, tự sát và thảm sát. Đây là tội ác giết người vô tội, tàn khốc vàvô nhân tính lớn nhấttrong lịch sử nhân loại.
Chính sách liên tục thay đổi, nội bộ các đảng chính trị liên tục bất đồng, các đảng chính trị liên tục tranh cãi, luận tội, truất phế, là đặc tính nổi bật trong sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ.
Vậy tại sao nhiều người vẫn tin tưởng vào thể chế tự do và xem nền dân chủ Mỹ như một mẫu mực chính trị tiến bộ nhất thế giới?
Chủ quyền thuộc về toàn dân
Nước Mỹ thành lập từ 13 thuộc địa Anh Quốc, nên ngay từ thời lập quốc người Mỹ đã lo ngại quyền lực chính trị bị tóm thâu vào tay 1 cá nhân, 1 nhóm chính trị gia, 1 tiểu bang lớn đông dân hay 1 đa số quá bán ủng hộ độc tài.
Vì thế Bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ nêu rõ mọi người phải được bình đẳng và có quyền được sống, được tự do và được hạnh phúc.
Các nhà lập quốc xây dựng một Hiến pháp với nguyên tắc chủ quyền thuộc về toàn dân, chính phủ chỉ được làm những điều người dân cho phép.
Người dân cho phép Tổng thống đại diện cho quốc gia, Thượng viện đại diện cho tiểu bang và Hạ Viện đại diện cho cử tri quận hạt.
Chính phủ trung ương với 3 nhánh có thẩm quyền và chức năng rõ rệt: Quốc Hội làm luật, Tư pháp giải thích luật và Hành Pháp thi hành luật. Mọi đạo luật phải được cả Thượng viện và Hạ Viện thông qua và đồng thời phải được Tổng thống ký ban hành.
Ba nhánh vừa độc lập với nhau, vừa kiểm soát và cân bằng quyền lực cho nhau. Vì thế ngay chính Tổng thống cũng bị luận tội và có thể bị truất phế.
Mỗi tiểu bang có cơ quan Lập pháp, Tư pháp và Hành pháp riêng để quản trị những vấn đề thuộc thẩm quyền và chức năng của tiểu bang.
Nói tóm lại thể chế chính trị Mỹ chặt chẽ đến độ không thể phát sinh độc tài, cũng như tối thiểu được nạn lạm dụng quyền lực và tham nhũng.
Toàn dân chính trị
Chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống do Cử tri đoàn từ các tiểu bang bầu lên.
Mỗi tiểu bang có số đại cử tri bằng với số dân biểu và nghị sĩ tiểu bang cộng lại. Việc bầu chọn các đại cử tri tuỳ thuộc mỗi tiểu bang, vì thế tại nhiều tiểu bang các đảng chính trị phải cạnh tranh từng lá phiếu.
Các đảng chính trị phải vận dụng chiến thuật và chiến lược tranh cử vừa sáng tạo vừa thích hợp nhất để thu hút cử tri đi bầu và bầu cho ứng cử viên đảng mình.
Người Mỹ ngay từ khi còn bé ở gia đình đã được khuyến khích tranh luận chính trị, khi lớn lên thường hiểu rõ quyền hạn và nghĩa vụ chính trị, nên thường rất tích cực tham gia tranh luận chính trị và thực hiện quyền chính trị.
Chính phủ hay Quốc hội không được phép lập ra cơ quan tuyên truyền cho đường lối chính sách.
Truyền thông báo chí tự do và tư nhân quảng bá bầu cử một cách rầm rộ tạo một bầu không khí tranh cử nhộn nhịp khác xa với thế giới.
Chính trị Mỹ có thể được xem là một nền chính trị được toàn dân tham gia rất đáng để người Việt chúng ta học hỏi.
Hai đảng cùng mục đích
Cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa bắt nguồn từ đảng Dân chủ Cộng hòa (Democratic Republican Party), được hai nhà lập quốc Mỹ James Madison và Thomas Jefferson thành lập năm 1791.
Mục đích là đối lập với đảng Liên bang (Federalist Party) thuộc giới tinh hoa và quý tộc giàu có, những người muốn đề cao sức mạnh của chính phủ liên bang.
Đảng Dân chủ Cộng hòa ủng hộ quyền của các tiểu bang, ưu tiên hỗ trợ cho nông dân và giới lao động thành thị.
Khi nắm được chính quyền, đảng Dân chủ Cộng hòa lại bị chia thành hai đảng Dân Chủ và đảng Whig. Đảng Whig đổi thành đảng Cộng hòa với chủ trương xóa bỏ chế độ nô lệ.
Năm 1860, Tổng thống Cộng Hòa đầu tiên Abraham Lincoln đắc cử và chiến thắng trong cuộc nội chiến Bắc Nam.
Tổng thống Lincoln tái lập hòa bình, thực hiện hòa giải và hòa hợp với mục đích tạo ra một chính quyền của dân, do dân và vì dân.
Từ đó cả hai đảng Cộng Hòa và đảng Dân chủ đều có chung mục đích là cạnh tranh để thành lập một chính quyền của dân, do dân và vì dân.
Lưỡng đảng tranh quyền
Nhờ có chung mục đích cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ chấp nhận tồn tại nhiều khuynh hướng khác nhau, dễ dàng chấp nhận thành viên thay đổi chính kiến và cả việc thay đổi đảng.
Cả hai đảng thật ra bao gồm hằng ngàn tổ chức chính trị, kinh doanh, tín ngưỡng, nghiệp đoàn, dân sự và phong trào xã hội lớn nhỏ cùng hằng chục triệu đảng viên cá nhân không tham gia tổ chức.
Cả hai đảng không có bất kỳ cơ quan nào kiểm tra lý lịch, hoạt động hay quan điểm chính trị của đảng viên.
Đảng viên không có bất kỳ tư lợi, nghĩa vụ hay bó buộc nào liên quan đến đảng mình tham dự, chỉ cần ghi danh là có quyền bầu đại diện đảng trong cuộc bầu cử sơ bộ.
Lãnh đạo đảng là những chính trị gia thắng cử như Tổng Thống, Thống Đốc, lãnh đạo đảng ở Thượng Viện và Hạ Viện liên bang và tiểu bang.
Ở cấp tiểu bang các Uỷ Ban của đảng sẽ chịu trách nhiệm gây quỹ, tổ chức tranh cử và bầu cử sơ bộ.
Các Ủy Ban không có quyền ngăn cản người ra tranh cử ngay cả khi người ấy bất đồng quan điểm với đa số trong đảng hay công khai chống lại các mục tiêu của đảng.
Ứng cử viên phải tự đưa ra chương trình hành động, tự xây dựng nhóm tham mưu và tự vận động các cử tri đảng viên trong các cuộc bầu cử sơ bộ.
Quyết định ai đại diện đảng ra tranh cử Tổng thống và Phó Tổng Thống chủ yếu thuộc về cử tri đoàn của các tiểu bang tham dự Đại hội đảng.
Tất cả chính trị gia đều phải qua cuộc bầu cử sơ bộ. Chính trị gia thắng cử sẽ được Ủy Ban vận động hỗ trợ tranh cử với các đảng khác.
Bằng cách công khai tranh luận chính sách các chính trị gia lôi cuốn các nhóm nhỏ và cá nhân gia nhập đảng, xây dựng sức mạnh chiến thắng đối phương.
Chương trình hành động hay Cương lĩnh chính trị của mỗi đảng được đại biểu các tiểu bang soạn thảo và thông qua trong Đại hội đảng tổ chức mỗi bốn năm, vì thế chính sách đảng luôn luôn thay đổi, thậm chí thay đổi cả chiến lược quốc gia.
Quyết định ai thắng cử Tổng thống và Phó Tổng thống lãnh đạo quốc gia sẽ thuộc về Cử tri đoàn.
Nhờ hệ thống tranh cử này Tổng thống được dân Mỹ chọn đều là những người thật sự tài giỏi và đều thích ứng với thời cuộc trong và ngoài nước Mỹ.
Nhưng như đã trình bày bên trên quyền lực của Tổng thống bị giới hạn rất nhiều, họ làm được gì thì còn tùy thuộc vào thế mạnh mà cử tri ban cho ở Thượng Viện và Hạ Viện.
Học được gì?
Xã hội Mỹ là xã hội tự do, đa văn hóa, đa nguyên, đa đảng chính nhờ nền tảng chủ quyền thuộc về toàn dân và cách sinh hoạt toàn dân chính trị người Mỹ không bị ràng buộc bởi ý thức hệ, không cực đoan chính trị, dễ đồng thuận, dễ thỏa hiệp và rất thực dụng.
Chính sách liên tục thay đổi, nội bộ các đảng chính trị liên tục bất đồng, các đảng chính trị liên tục tranh cãi, luận tội, truất phế, tất cả những xáo trộn chính trị đều đã được các nhà lập quốc Mỹ nghĩ tới khi xây dựng thể chế chính trị tự do, 250 năm về trước, và trở thành một giá trị dân chủ của nền chính trị Hoa Kỳ.
Mục đích chung của cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ là cạnh tranh để thành lập chính quyền của dân, do dân và vì dân.
160 năm đã qua mục đích này không hề thay đổi, nhờ vậy dân Mỹ ngày càng giàu hơn, nước Mỹ càng ngày càng mạnh lên.
Từ 13 thuộc địa bị phân hóa bởi chiến tranh Nam Bắc, Hoa Kỳ trở thành một cường quốc số 1 trên thế giới và giữ vững vị thế cho đến nay. Chính trị Mỹ được nhiều người xem là tiến bộ và dân chủ nhất thế giới.
Sau biến cố 30/4/1975, nước Mỹ trở thành quốc gia định cư của 3 triệu người Việt tự do.
Nhiều người Mỹ gốc Việt đã trở thành dân cử liên bang, tiểu bang và địa phương, nhiều tướng lãnh quân đội, nhiều công chức cao cấp và nhiều người thành đạt luôn hướng về bên kia Thái Bình Dương mong mỏi một ngày Việt Nam có tự do.
Rút tỉa những ưu điểm và kinh nghiệm của Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam tự do sớm vượt qua những khó khăn ban đầu xây dựng một thể chế chính trị lưỡng đảng tranh quyền tân tiến như Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Hôm đó là ngày 11 tháng 9, 1987 và Mikhail Gorbachev đang nghỉ ngơi trong một biệt thự ở Hắc Hải. Một phụ tá trình lên ông lá thư từ chức Ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Liên Xô của Boris Yeltsin . Gorbachev đọc lá thư mà không tin đó là sự thật. Trong lịch sử đảng CSLX đây là lần đầu một lãnh tụ CS cấp trung ương từ chức. Đấu tranh nội bộ dù sâu sắc như giữa Leon Trotsky và Stalin mấy chục năm trước cũng không có chuyện từ chức. Việc tự ý rời nhiệm sở là việc chưa từng có và cũng không được phép. Leon Trotsky bị tước đoạt mọi chức vụ, loại trừ ra khỏi đảng năm 1927 và cuối cùng bị ám sát ở Mexico năm 1940.
Theo lời Gorbachev, ông gọi về Moscow và ra lịnh cho các phụ tá đến khẩn thiết với Yeltsin đừng tiết lộ nội dung lá thư ra ngoài vì quần chúng và thế giới sẽ biết sự rạn nứt trong nội bộ đảng CSLX.
Hơn một tháng sau đó, trong phiên họp của ban chấp hành trung ương đảng CSLX, Boris Yeltsin chính thức từ chức.
Tuy phiên họp được tổ chức trong vòng bí mật, các tin tức về Boris Yeltsin từ chức cũng đã nhanh chóng lọt ra ngoài. Mảnh vỡ đó đã dẫn tới tự tan vỡ từ trung tâm đảng CSLX, một tổ chức chính trị bí mật, sắt máu và chặt chẽ nhất từ trước đến nay.
Đặc điểm bí mật và sắt máu đã giúp cho cơ chế CS tồn tại với một kỷ lục 74 năm tại Liên Xô so với Đảng Cách Mạng Thể Chế Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary Party) cầm quyền được 71 năm.
Nhưng đó không phải là lý do duy nhất.
Người viết xin tổng kết các lý do chính để những ai, nhất là những người nghĩ mình đang đấu tranh cho dân chủ Việt Nam, hy vọng sự rạn nứt giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản và tốt đẹp cho đất nước thì cũng đừng mơ mộng và kỳ vọng nữa.
Việc mong đợi đảng CS tự thay đổi chẳng những làm nhụt ý chí đấu tranh, chứng tỏ sự yếu kém của mình mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến các phong trào dân chủ đang cố gắng vươn lên.
Những thư kiến nghị, thỉnh cầu lần nữa “đem đàn gảy tai trâu” như bao nhiêu lần trước. Với Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, quyền lợi của đảng bao giờ cũng được đặt lên trên quyền lợi cá nhân.
Rồi mai đây, sóng gió trong nội bộ đảng sẽ qua, Nguyễn Tấn Dũng mất quyền nhưng không mất lợi, chỉ có đất nước là bị xâm thực dần cho đến khi mất hẳn vào tay Trung Cộng.
Dưới đây là sáu lý do :
1. Đảng CS kiểm soát toàn bộ cơ cấu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội bằng tuyên truyền và khủng bố
Lý do này rất hiển nhiên và dễ hiểu. Tuyên truyền kết hợp với khủng bố tạo thành cột xương sống của chế độ độc tài CS. Ngoài nhà tù và sân bắn, đảng CS áp dụng một chính sách tuyên truyền tàn độc nhất trong lịch sử loài người. Tinh vi đến mức người bị tẩy não hoàn toàn không biết mình bị tẩy não mà cho CS là một lý tưởng của đời người và hiến thân cho đến chết.
Sau cách mạng CS Nga, 1917, công việc đầu tiên Lenin phải làm ngay là thành lập cơ quan tuyên truyền Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính Lenin đích thân lãnh đạo. Tại Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách nhiệm tuyên truyền.
Cơ quan tuyên truyền tẩy não trung ương đảng kiểm soát từng chi tiết các sinh hoạt tri thức, thông tin, truyền thanh, truyền hình, báo chí. Hệ thống kiểm duyệt trong chế độ Cộng Sản không chỉ ở trung ương mà theo nhiều tầng lớp. Ngay cả khi các tác giả viết bài cũng đã thực thi tự kiểm duyệt vì họ biết những gì nên viết và những gì không được viết trước khi nạp bản thảo cho cơ quan kiểm duyệt nhà nước. Các tác phẩm phim ảnh được duyệt nhiều lần để bảo đảm khi đến người dân không có một tình tiết nào đi ngược với đường lối của đảng.
Để tồn tại sau những đãi lọc của văn minh nhân loại, phương pháp và mục đích tuyên truyền CS cũng thay đổi theo thời gian.
Chẳng hạn, trước năm 1990 nền giáo dục CS đặt nặng lên học thuyết Marx-Lenin nhưng sau này thêm vào một cái đuôi tư tưởng dân tộc như tư tưởng Mao tại Trung Cộng và tư tưởng Hồ Chí Minh tại Việt Nam.
2. Đấu tranh nội bộ nhưng có cùng một mục tiêu và bị chi phối bởi một kỷ luật đảng
Lịch sử phong trào CS thế giới từ Liên Xô đến Trung Cộng hay như vừa diễn ra tại Việt Nam cho thấy dù có đấu tranh nội bộ, các lãnh tụ CS luôn đặt mục tiêu chung của đảng lên hàng đầu.
Các lãnh đạo đảng chọn hy sinh quyền lợi cá nhân vì sự sống còn của đảng. Tất cả đảng viên CS bị chi phối bởi một cương lĩnh duy nhất là cương lĩnh đảng CS.
Để duy trì tính thống nhất, đảng CS áp dụng một kỷ luật sắt trong nội bộ đảng.
Ngoại trừ trường hợp Khrushchev tố Stalin trong đại hội lần thứ XX của đảng CS Liên Xô, ít khi nào một lãnh đạo Cộng Sản đứng lên thẳng thắn vạch trần tội lỗi của lớp lãnh đạo trước. Làm như thế là phản đảng vì đã tạo chỗ hở cho kẻ thù tấn công vào đảng. Không ai tiên đoán được số phận của Boris Yeltsin ra sao nếu ông ta từ chức, đừng nói chi dưới thời Stalin mà chỉ 10 năm trước đó.
Đời tư các lãnh tụ CS là tài sản bí mật của đảng.
Các lãnh tụ độc tài dù tự sát như Adolf Hitler, bị giết như Benito Mussolini hay bị treo cổ như Hideki Tojo, tội ác của họ cũng đều được phanh phui sau Thế Chiến thứ Hai. Các thế hệ lãnh tụ CS thì khác. Tội ác của các lãnh tụ CS được che giấu kỹ. Vai trò của Kim Nhật Thành trong chiến tranh chống Nhật, Hồ Chí Minh trong chiến tranh chống Pháp, Fidel Castro trong chiến tranh chống độc tài Batista, Stalin trong chiến tranh chống Đức, Mao Trạch Đông trong chiến tranh chống Nhật được đề cao đến độ làm như nếu không có họ có thể toàn dân tộc đã bị xóa tên khỏi lịch sử loài người.
Hình ảnh Mao Trạch Đông chính thức tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hình ảnh Hồ Chí Minh đọc “tuyên ngôn độc lập” đã được đánh bóng sáng đến mức mọi tội ác tày trời khác của họ đã trở thành tội ăn cắp, tội trộm vặt.
3. Bảo vệ tính kế tục cai trị của đảng
Chế độ CS là một chế độ phong kiến đỏ và do đó, đặc điểm kế tục cai trị CS vô cùng quan trọng.
Trường hợp Đặng Tiểu Bình đối với Mao Trạch Đông là một ví dụ điển hình.
Đặng Tiểu Bình là một trong những người chịu đựng sự hành hạ và mất mát lớn lao về nhân mạng trong thời Cách mạng văn hóa. Bản thân Đặng Tiểu Bình bị chính Mao thanh trừng nhiều lần và con trai của họ Đặng trọng thương khi bị ném từ cửa sổ xuống đường. Chuyện đời tư của Mao, từ bản chất độc tài, nghi kỵ cho đến cá tính trăng hoa dâm dật, Đặng Tiểu Bình biết hơn ai hết, nhưng khi lên nắm quyền hành, ông ta vẫn tiếp tục sơn son thiếp vàng lên một hình tượng mà cá nhân ông vô cùng căm hận.
Trên đồng nhân dân tệ từ đơn vị một đồng cho đến một trăm đồng vẫn in khuôn mặt mỉm cười của một trong những kẻ từng điều khiển bộ máy giết người tập thể khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại.
Là một trong số rất ít lãnh đạo Cộng Sản lão thành còn sót lại từ thời Vạn lý trường chinh và cũng quá thuộc sử Tàu, Đặng Tiểu Bình biết, giống như các triều đại phong kiến Trung Hoa, đặc tính kế thừa của một quyền lực trung tâm là một yếu tố sinh tử của chế độ Cộng Sản.
Họ Đặng biết rằng điểm trung tâm vỡ toàn bộ hệ thống cai trị sẽ vỡ theo.
Đặc điểm kế tục còn được thể hiện qua tầng lớp “Thái tử đảng,” con cháu của các cựu lãnh đạo đảng, tiếp tục vai trò lãnh đạo như trường hợp Ôn Gia Bảo, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình tại Trung Cộng. Tại Việt Nam, thành phần “Thái tử đảng” cũng đang “nối bước cha anh.”
4. Sử dụng “thành phần xăng nhớt” cho bộ máy toàn trị
Thành phần trung thành và cuồng tín do chính sách tẩy não nặn ra đa số là những kẻ dốt nát, ngu ngốc, phát biểu những câu chỉ làm trò cười cho thiên hạ và không thể điều hành bộ máy nhà nước.
Bộ máy độc tài toàn trị CS chạy được nhờ vào một thành phần khác có trình độ kỹ thuật chuyên môn cao thuộc các lãnh vực của đời sống mà người viết tạm gọi là “thành phần xăng nhớt.”
Khá đông trong “thành phần xăng nhớt” này là những người có học, có kiến thức về kinh tế chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội, biết được lẽ đúng sai nhưng thỏa hiệp với tập đoàn cai trị để đổi lấy một cuộc sống an nhàn, vinh hoa cho bản thân và gia đình.
Thành phần này chấp nhận là xăng nhớt cho bộ máy độc tài tiếp tục cày xéo lên đất nước. Nhiều trong số họ được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng thế giới, học và hiểu tường tận các nguyên tắc để xây dựng một xã hội dân chủ nhưng khi về nước họ đã bán thân cho đảng CS.
Một khi lớp xăng nhớt này trở thành cặn bã lại có một lớp khác lên thay.
Như người viết đã phân tích trong bài “Bàn về tẩy não”, lbert D. Biderman trong bản tin của Viện Hàn Lâm Y Khoa New York gọi thành phần này là những người “cho thấy việc chống lại chỉ là hành động vô ích”, từ đó “phát triển một thói quen tuân phục,” và cuối cùng “đầu hàng có điều kiện” trước đảng CS.
5. Các lãnh tụ CS chỉ giết nhân dân nước họ nên thế giới ít quan tâm
Không giống chế độ độc tài Đức Quốc Xã tàn sát dân Do Thái, lãnh đạo Cộng Sản các nước thường giết chính đồng bào cùng máu mủ, cùng tổ tiên, cùng đất nước với họ.
Ngay từ sau 1975, dư luận thế giới đã biết đến tội ác của chế độ Pol Pot. Năm 1976, tạp chí Time còn đăng cả bức hình một tội nhân đang bị đánh vào đầu bằng cuốc, tuy nhiên, ngoài Việt Nam tấn công chế độ bằng một lý do riêng vào tháng Giêng, 1978, không một quốc gia nào có hành động cụ thể để ngăn chặn tội ác của Pol Pot.
Theo Black Book of Communism do Harvard University Press xuất bản, gần một trăm triệu người bị giết dưới chế độ CS nhưng không phải do nước ngoài xâm lược mà do chính các lãnh tụ CS giết nhân dân nước họ như trường hợp Mao giết 65 triệu, Lenin và Stalin giết 20 triệu, Pol Pot giết 2 triệu, Hồ Chí Minh giết 1 triệu (không tính nhiều triệu người Việt vô tội của cả hai miền trong chiến tranh xích hóa Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975).
6. Lãnh đạo Cộng Sản thường tận dụng ảnh hưởng của kẻ thù đã chết
Những lãnh tụ Cộng Sản thường tận diệt kẻ thù còn sống nhưng ca tụng kẻ thù đã chết. Stalin ca tụng Lenin, Fidel Castro ca tụng Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình ca tụng Mao Trạch Đông.
Lấy trường hợp Che làm ví dụ.
Nếu Ernesto “Che” Guevara không làm cách mạng phiêu lưu Nam Mỹ mà tiếp tục ở lại Cu Ba, thật khó tưởng tượng ông ta có thể sống sót dưới bàn tay của Fidel Castro. Một rừng không có hai cọp, một nước không có hai vua, đừng nói chi là quan hệ giữa Che và Fidel Castro rạn nứt trước khi Che tạm biệt vợ con lần cuối và lên đường đi Bolivia cuối năm 1966. Che chủ trương kỹ nghệ hóa đất nước, trong khi Fidel Castro chủ trương củng cố quyền lực trung ương.
Sự khác biệt của Che và Fidel Castro khá giống trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông. Nhưng hôm nay, nếu ai đến Havana, sẽ gặp hình ảnh Che trên khắp ngả đường. Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực.
Chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn rụi ở châu Âu nhưng trong năm nước còn sót lại sự khổ đau, chịu đựng vẫn còn đến hôm nay và không biết đến bao giờ mới hết.
Chiến tranh Lạnh đã tàn. Các nước tư bản tự do vì lý do kinh tế đã không còn giương cao ngọn cờ dân chủ như trước nữa. Họ mặc nhiên chấp nhận chế độ Cộng Sản như là một thực tế của mỗi quốc gia hơn là một phong trào quốc tế. Nhân dân Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Trung Hoa vì thế sẽ tiếp tục là những dân tộc chịu đựng trong cô đơn.
Toàn văn bài phát biểu của Bà Thái Anh Văn – Tổng thống Đài Loan – tại Đại học Columbia ở New York ngày 12/7/2019.
Được lời mời tới phát biểu ở đây, nơi tiền phong về tự do ngôn luận và sự đa dạng quả là vinh hạnh lớn lao.
Tôi tốt nghiệp trường Luật Cornell năm 1980, hôm nay trở lại môi trường đại học ở New York làm sống lại bao kỷ niệm. Đời sống ở New York những năm 1980 quả là đã mở mắt cho người sinh viên trẻ đến từ Đài Loan hồi đó chẳng thể nào dám coi là cái nôi của dân chủ. New York lúc đó với chuẩn mực về sự đa dạng cùng với các quan điểm khác nhau cùng tồn tại và hôm nay đứng đây tôi vui sướng thấy rằng điều này ở New York vẫn trường tồn và không hề thay đổi.
Câu chuyện về ‘sự thay đổi’ chính là điều tôi muốn nói hôm nay. Đó là câu chuyện Đài Loan. Đó là câu chuyện về một hành trình của hòn đảo không xa Trung Hoa lục địa đã tìm ra cho mình con đường dân chủ hoá và đã nêu tấm gương cho thế giới về bước đi lên tới nền dân chủ.
Trong thời kỳ đầu của sự quá độ về mặt chính trị, người ta bảo có dân chủ nào tồn tại được dưới cái bóng của Trung Quốc? Vậy mà Đài Loan hôm nay là biểu hiện của một xã hội dân chủ rộng rãi và hệ thống chính trị vững mạnh.
Người ta còn bảo hòn đảo tài nguyên hạn hẹp với số dân có 23 triệu người thì làm được trò trống gì trong nền kinh tế toàn cầu. Vậy mà nay chúng tôi đã trở thành đối tác kinh tế đứng thứ 11 trong số các đối tác lớn nhất của Hoa Kỳ.
Người ta còn nói các giá trị tiến bộ là sao mà bén rễ được ở xã hội Đông Á. Nhưng hôm nay tôi đứng đây là người phụ nữ đầu tiên làm Tổng thống Đài Loan, và chúng tôi là quốc gia đầu tiên ở châu Á thực hiện hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính.
Câu chuyện Đài Loan có vẻ như là không thể nào thành công. Người ta còn bảo chúng tôi là thể hiện sự kỳ diệu của dân chủ, nhưng bản thân tôi không bao giờ tin rằng trên đời này có ‘sự kỳ diệu’ nào cả. Mà tôi tin vào ý chí của người dân, tôi đặt niềm tin vào tầm nhìn của nhân dân về một thế giới tốt đẹp hơn.
Cũng như nước Mỹ, con đường tiến lên dân chủ của chúng tôi cũng thật gian nan, cũng có máu đổ, cũng thật khó nhọc với bao mồ hôi và nước mắt của tiền nhân. Giờ đây thế hệ chúng tôi phải gánh vác trọng trách và tiếp tục gương cao bó đuốc soi sáng con đường cho các quốc gia vẫn đang trên hành trình hướng tới dân chủ.
Trọng trách trên vai chúng tôi thật nặng nề, và con đường đang đi đâu phải dễ dàng. Bởi những thử thách ở trước Đài Loan hôm nay lại hoàn toàn khác với những thử thách mà chúng tôi đã vượt qua trong những thập kỷ trước. Những thử thách ấy cũng là điều mà tất cả quốc gia dân chủ của thế giới trong thế kỷ 21 phải đương đầu. Vì sao như vậy? Bởi vì nền tự do trên thế giới hiện đang đứng trước sự đe doạ chưa từng có trong lịch sử.
Chúng ta thấy sự đe doạ đó đang diễn ra tại Hồng Kông. Vì không có phương tiện nào khác để lên tiếng, giới trẻ đã xuống đường để đấu tranh đòi tự do trong một xã hội dân chủ. Nhân dân Đài Loan chúng tôi sát cánh với những thanh niên dũng cảm ấy.
Kinh nghiệm của Hồng Kông với cái gọi là “một quốc gia, hai thể chế” là bài học cho thế giới thấy rõ hơn bao giờ hết rằng độc tài không thể nào cùng tồn tại với dân chủ. Khi có dịp là thể chế độc tài sẽ bóp chết dân chủ, chỉ cần một tia sáng yếu ớt hé lên ánh dân chủ thôi thì cũng đã bị dập cho phải tắt. Hành trình dân chủ có thể từ từ như giọt nước thấm vào đất, chỉ nhẹ như làn gió và dường như người ta không cảm thấy điều đó đang diễn ra.
Thử tưởng tượng: Bộ máy độc tài càng ngày càng làm cho đời sống con người bị bó chặt. Bỗng nhiên một ngày quán sách bị đóng cửa vì bán sách cấm. Bỗng nhiên người ta bị đưa đi thẩm vấn vì đã đăng bài trên mạng xã hội phê phán chính sách gì đó của nhà nước. Quý vị đang yên đang lành, bỗng dưng lại cảm thấy như bị một thế lực vô hình kiểm soát từng bước đi. Vậy là quý vị bắt đầu phải ngẫm lại để tự kiểm duyệt lời nói và cách tư duy của mình. Quý vị không dám bàn thế sự với bạn bè như trước vì sợ lời nói của mình sẽ bị ai đó nghe. Quý vị phải dành bao thời gian cảnh giác trước sau để được an toàn thì còn đâu thời gian để suy nghĩ về tương lai chi nữa.
Từ giảng đường Đại học Columbia đây, điều tôi đang nói có vẻ như lạ lùng lắm, như xa xôi lắm. Nhưng trên thực tế, tình cảnh ấy đang diễn ra ngay trước mắt. Bởi vậy chính lúc này đây, câu chuyện của chúng tôi, câu chuyện Đài Loan cần phải được thế giới nghe thấy. Đó là câu chuyện về sự kiên trì hướng tới dân chủ, là câu chuyện về lòng quyết tâm với mục tiêu dân chủ sẵn sàng vượt qua mọi trở lực. Câu chuyện của chúng tôi là câu chuyện tại sao các giá trị vẫn phải là nền tảng bền vững. Vực sâu ngăn cách sự khác biệt về chính trị và văn hoá nơi eo biển Đài Loan mỗi ngày mỗi sâu hơn. Mỗi ngày Đài Loan chọn cho mình tự do ngôn luận, quyền cho con người và nền pháp trị là mỗi ngày chúng tôi trôi ra xa hơn khỏi cái vòng ảnh hưởng của độc tài toàn trị.
Câu chuyện của chúng tôi, sự tồn tại của chúng tôi chính là điều đánh thức thế giới rằng dân chủ là tài sản quý báu nhất của chúng ta. Chúng ta phải bảo vệ dân chủ bằng mọi giá. Từng ngày từng ngày, Đài Loan đứng vững trên tiền tuyến của dân chủ, đương đầu với các thử thách mới đầy cam go, đầy khác biệt chỉ có ở kỷ nguyên công nghệ thông tin.
Nhưng chúng tôi không đơn độc. Thực tế là các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, trên thế giới đều đang phải trong trận chiến chống lại sự xâm nhập trong cuộc chiến tranh kiểu mới về nhận thức từng ngày. Các chính phủ độc tài toàn trị muốn khai thác sự tự do ngôn luận đặc thù của xã hội dân chủ để gieo mầm chia rẽ chúng ta, những mong sẽ làm cho chúng ta phải nghĩ lại về hệ thống chính trị của mình và chúng ta sẽ mất đi niềm tin vào dân chủ. Đài Loan đã ở nơi tiền tuyến của cuộc chiến ấy ròng rã bao nhiêu năm rồi, nhờ đó mà chúng tôi cũng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm để chia sẻ với thế giới.
Ở kỷ nguyên kỹ thuật số, thông tin sai sự thật có thể được biến hoá thành sự thật chỉ trong vài giờ đồng hồ. Nhưng thử thách lớn nhất để chống lại sự đe doạ này là chúng ta phải tìm được sự cân bằng giữa một bên là an ninh quốc gia và một bên là tự do ngôn luận. Ở Đài Loan, chúng tôi đã thực hiện các bước đầu tiên coi vấn đề này là chính sách ưu tiên.
Chúng tôi đã củng cố sức mạnh của hệ thống pháp lý nhằm xác định và ngăn cản sự lan toả của thông tin sai sự thật. Chúng tôi đang đi sâu vào vấn đề chống rò rỉ tin tình báo bởi các thế lực bên ngoài. Cùng với hệ thống chia sẻ tin tình báo mạnh mẽ hơn với các quốc gia khác, chúng tôi sẽ nâng cao được năng lực làm việc tốt hơn nhằm ngăn chặn các đe doạ loại này.
Nhưng dân chủ cũng phải đương đầu với các thử thách khác nữa, nhất là trong vấn đề lấy đòn bẩy kinh tế treo theo các điều kiện ngầm. Nhiều quốc gia trên thế giới đang bị người ta đặt vào vị thế phải chọn một bên là dân chủ, một bên là phát triển kinh tế và vấn đề lựa chọn thế nào là đúng lại càng ngày càng trở nên mù mờ hơn.
Nhưng khi nào tôi còn ở cương vị Tổng thống, thì Đài Loan sẽ còn tiếp tục chứng minh cho thế giới thấy rằng dân chủ và tăng trưởng kinh tế không chỉ có lợi cả hai mặt và là hai vấn đề thực sự gắn chặt với nhau. Nền kinh tế của chúng tôi đã từng rơi vào tình trạng bị lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc làm cho sự chủ động của chúng tôi bị giới hạn trong các vấn đề song phương. Trung Quốc đã triệt để khai thác sự lệ thuộc này, lấy đó làm phương tiện xâm nhập xã hội chúng tôi, nhằm tạo cơ sở làm con bài để mặc cả đòi chúng tôi phải lấy nền dân chủ của mình ra để đánh đổi. Nhưng Đài Loan đã quyết tâm theo đuổi con đường khác để phát triển kinh tế. Nền dân chủ sẽ ý nghĩa gì nếu để mất đi mảnh đất gieo mầm cho sự sáng tạo và nuôi dưỡng ý tưởng mới được trở thành hiện thực?
Chúng tôi đã dấn bước cải cách nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư dễ dàng nhờ đó đã đạt được con số kỷ lục các công ty Đài Loan trở về. Cũng nhờ thế mà các công ty nước ngoài, nhất là các công ty lớn cũng mở rộng đầu tư và hoạt động tại Đài Loan. Chỉ trong năm nay, các công ty này đã đầu tư hàng tỷ đô la Mỹ vào nền kinh tế của chúng tôi và tạo ra hàng vạn việc làm. Dòng chảy đầu tư sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm trước mắt.
Chúng tôi đã làm việc không mệt mỏi để đóng vai trò tích cực xây dựng trât tự thương mại khu vực dựa trên các quy định pháp luật và xây dựng mối quan hệ thương mại vững mạnh hơn với các thị trường ở vùng Nam Á và Đông Nam Á. Chính sách mới của chúng tôi hướng về phía Nam đã mang lại mức tăng trưởng vượt bậc ở khu vực trong ba năm qua và điều quan trọng hơn nữa đó là sự tăng trưởng thực sự bền vững.
Trong khi nhiều quốc gia trên thế giới bị rơi vào hoàn cảnh là nạn nhân của cái bẫy vốn vay, chúng tôi trụ vững với chính sách nhấn mạnh sự hợp tác phải là sự phát triển bền vững cho cả đôi bên, và các quốc gia đối tác của chúng tôi ở Nam Á và Đông Nam Á là minh chứng cho sự có lợi của cả hai bên trên cơ sở đó.
Trong khi Trung Quốc tập trung vào thủ đoạn cướp giật đồng minh của chúng tôi nhằm cô lập chúng tôi, chúng tôi vẫn kiên quyết thực hiện các dự án với mục tiêu làm sao cho cả hai bên đối tác đều phải trở thành các quốc gia tốt hơn cho đời sống con người. Chúng tôi cũng đang giúp cho các quốc gia trên thế giới xây dựng năng lực kinh tế và năng lực dân chủ nhằm tạo dựng lực lượng lao động sẵn sàng cho thế kỷ 21 với hệ thống hạ tầng rõ ràng về cấu trúc cơ bản và công nghệ số.
Một lần nữa, Đài Loan mang tới cho thế giới một hình mẫu về sự phát triển tích cực và phát triển tiến bộ. Chúng tôi từ chối bị thao túng bởi các hành vi đe doạ nhằm nuốt sống chúng tôi, và chúng tôi vẫn từng bước chứng minh rằng sự hợp tác thành thực và công khai sẽ mang lại kết quả thật sự và lâu dài.
Chúng tôi đã thành công trong lĩnh vực điều chỉnh để thích ứng với các thử thách đặt ra bởi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, không phải vì chúng tôi bất chấp dân chủ mà chính vì chúng tôi có dân chủ nên mới thành công. Hệ thống dân chủ của chúng tôi đã làm cho chúng tôi trở thành quốc gia thân thiện với các các ý tưởng đa dạng và các phát kiến có đất dụng võ, tạo cho quốc gia có sự linh hoạt để phá đi những khuôn mẫu mòn mỏi nay đã lỗi thời.
Nhân câu hỏi quý vị đặt ra rằng làm thế nào để lựa chọn giữa dân chủ và tăng trưởng kinh tế, tôi xin đáp rằng sự lựa chọn đã rõ ràng: dân chủ và tăng trưởng kinh tế là hai mặt không thể tách rời.
Lịch sử đã cho chúng ta bài học rằng các quốc gia dân chủ có sức mạnh nhất khi thống nhất hành động và yếu nhất khi bị chia rẽ. Nếu không có Đài Loan, liên minh quốc tế giữa các quốc gia đồng chí hướng sẽ mất đi sự nối kết mấu chốt trong nỗ lực đảm bảo các giá trị của chúng ta sẽ được truyền lại cho các thế hệ tương lai.
Đài Loan hiên ngang là một minh chứng hiếm có về một quốc gia vừa đã từng nếm mùi độc tài chuyên chế nay lại là quốc gia tiên phong cho dân chủ trong thời hiện đại. Chính vì lẽ đó điều càng quan trọng hơn bao giờ hết là cộng đồng quốc tế hãy ủng hộ một Đài Loan tự do và dân chủ. Sự sống còn của Đài Loan không phải chỉ là trong mối quan hệ xuyên eo biển. Đài Loan là ngọn hải đăng của nền dân chủ ở vùng Ấn Độ -Thái bình dương, và cả thế giới đang theo dõi chặt chẽ những tiền lệ chúng tôi đặt ra cho tương lai của nền dân chủ.
Là một thành viên của cộng đồng thế giới các quốc gia đồng chí hướng, chúng tôi biết rằng chúng tôi không đứng một mình. Xin nhắc lại lời của Herbert Hoover “Tự do là cánh cửa mở ra đón ánh sáng của tinh thần nhân văn và nhân phẩm của con người”. Thử thách ở phía trước quả là không dễ dàng, nhưng cộng đồng quốc tế sát cánh với chúng tôi. Đài Loan luôn đứng vững với quyết tâm của mình. Cùng nhau, chúng ta sẽ làm cho ánh sáng của tinh thần ấy chiếu lên mọi nơi trên thế gian, chỉ cần rằng chúng ta chọn cách mở cánh cửa và trực diện với tương lai đang chờ phía trước.
Quy luật ‘3,5%’: Làm sao một thiểu số nhỏ có thể thay đổi thế giới
Các cuộc biểu tình bất bạo động có khả năng thành công cao gấp đôi so với các cuộc xung đột vũ trang – và những người tham gia ở ngưỡng 3,5% dân số chưa bao giờ thất bại trong việc mang lại sự thay đổi.
Năm 1986, hàng triệu người Philippines đã xuống đường ở Manila phản đối trong ôn hòa và cầu nguyện của phong trào Sức Mạnh Nhân Dân. Chế độ Marcos đã kết thúc sau 4 ngày.
Năm 2003, người dân Georgia đã lật đổ ông Eduard Shevardnadze thông qua cuộc Cách Mạng Hoa Hồng không đổ máu, trong đó những người biểu tình đã xông vào tòa nhà quốc hội, cầm hoa trên tay.
Đầu năm nay, cả hai tổng thống Sudan và Algeria đều tuyên bố sẽ nhường quyền sau nhiều thập kỷ tại vị, nhờ các chiến dịch kháng cự trong hòa bình.
Trong mỗi trường hợp, sự phản kháng dân sự của công chúng đã thắng giới chóp bu chính trị để đạt được sự thay đổi căn bản.
Tất nhiên, có nhiều lý do đạo đức để sử dụng các chiến lược bất bạo động. Nhưng nghiên cứu thuyết phục của Erica Chenoweth, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Harvard, xác nhận sự bất tuân dân sự không chỉ là lựa chọn đạo đức; nó cũng là cách mạnh mẽ nhất để định hình chính trị thế giới – một cách lâu dài.
Khi nhìn vào hàng trăm chiến dịch trong thế kỷ qua, Chenoweth nhận thấy các chiến dịch bất bạo độngcó khả năng lớn gấp đôi để đạt được mục tiêu so với các chiến dịch bạo động. Và mặc dù các động lực chính xác sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bà đã cho thấy phải cần khoảng 3,5% dân số tham gia tích cực vào các cuộc biểu tình để đảm bảo thay đổi quan trọng về chính trị.
“Nếu có ai muốn từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ một cách chính thức để có thể gia nhập quốc tịch các nước độc tài cộng sản hay những nơi quá khích về tôn giáo… Thì tôi sẵn sàng giúp điền đơn hay giúp đóng tiền lệ phí nộp đơn, một cách hợp pháp…”
Người viết thường tự nhắc nhở chính mình và dạy con cái trong nhà phải ý thức rằng, chúng ta không thể xem đất nước Hoa Kỳ như chỗ để mình lợi dụng sống qua ngày, để chỉ ăn bám mà không đóng góp, hoặc chỉ để hưởng thụ vật chất mà lại không góp phần bảo vệ, vun bồi cho tốt hơn, giống như căn nhà của riêng mình.
Để làm sáng tỏ ý niệm đó, tôi xin phép thu gọn đất nước Hoa Kỳ nhỏ lại như căn nhà của một gia đình, để mạo muội nêu ra một câu hỏi rằng: Nếu chúng ta từng hoan nghênh ai đó vào tá túc trong nhà của mình lâu dài, nhưng họ chẳng bao giờ quan tâm đến nhà cửa của chúng ta. Trái lại họ chỉ lợi dụng để lén lút bòn rút tài sản của chúng ta hầu chuyển đi hay gởi về một nơi nào khác. Khi họ cần giúp đỡ thì nhờ cậy chúng ta, nhưng cứ xem chúng ta như người xa lạ hay kẻ thù của họ… Đối với loại người như thế thì chúng ta sẽ nghĩ về họ như thế nào? Người Việt Nam gọi đó là những kẻ “ăn cháo đá bát”, người Mỹ gọi đó là “cắn luôn bàn tay người đút thức ăn cho mình” (bite the hand that feeds you).
Nếu có ai nghĩ rằng Hoa Kỳ không xứng đáng là nơi để họ có thể sinh sống, thì tại sao họ không quay về cái nơi họ từng bỏ ra đi? Ngoài ra, họ cũng có thể xin “tỵ nạn Hoa Kỳ” tại các nước độc tài cộng sản như Bắc Hàn, Trung Cộng, Cu Ba và Việt Nam… hoặc những nơi quá khích về tôn giáo. Dĩ nhiên ra khỏi nước Mỹ thì rất dễ dàng, tuy nhiên nếu có ai muốn từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ một cách chính thức để có thể gia nhập quốc tịch của những nơi vừa nêu… Thì tôi sẵn sàng giúp điền đơn hay giúp đóng tiền lệ phí nộp đơn một cách hợp pháp. Tôi nói thật, không đùa. Xin giữ bài viết này của tôi để làm bằng chứng.
Chúng tôi thường xuyên nhắc nhở những thành viên trong gia đình mình rằng: 1 Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, sẽ không ngại phê bình hay lên án những sai quấy của Tổng Thống hay chính phủ Mỹ, nhưng chúng ta sẽ không ngu xuẩn đến độ đứng ở vị trí cùa kẻ thù nước Mỹ để vô cớ hay điên cuồng lên án Tổng Thống và chính phủ của mình. 2 Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, không thể xúc phạm quốc kỳ Hoa Kỳ, bằng cách xé, đốt hay giẫm đạp dưới chân, để bày tỏ sự tức giận Tổng Thống hay chính phủ. Thái độ đó là sự xúc phạm đối với những người đã và đang hy sinh để bảo vệ nước Mỹ. Cho dù quốc kỳ chỉ là một miếng vải vô tri, nhưng là biểu tượng thiêng liêng của nước Mỹ. Tôi không tin có ai mất dạy đến độ mang hình ông bà cha mẹ mình ra xé, đốt hay giẫm đạp dưới chân, chỉ vì tức giận anh chị em mình. Hãy để kẻ thù nước Mỹ làm điều đó nếu họ muốn, còn chúng ta là công dân Mỹ thì chớ nên dại dột làm như thế. Chúng ta được Hiến Pháp Hoa Kỳ bảo vệ sự tự do bày tỏ chính kiến, sự bất mãn nào đó, ngay cả những “bất mãn” không chính đáng… Nhưng chúng ta không thể đập phá nhà cửa, hành hung những người không cùng suy nghĩ như mình. Luật pháp và chính sách để vận hành nước Mỹ, phải được bàn luận, hình thành trong tự do dân chủ và trong sáng tại Quốc Hội, chứ không thể giải quyết ngoài đường phố. Các nước cộng sản hay độc tài mới đáng nhận lãnh sự phẩn nộ của người dân giống như thế, chứ nước Mỹ tự do, dân chủ, thì không thể giải quyết những bất đồng bằng các loại bạo động. 3 Một công dân Hòa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, nếu muốn chứng tỏ mình biết tôn trong quyền lợi của người khác thì cũng phải biết xem trọng quyền lợi đất nước mình. Một Tổng Thống hay chính phủ biết đặt quyền lợi tối thượng cho đất nước mà mình được cử tri giao trách nhiệm lãnh đạo, thì có gì sai? Không ai cấm chúng ta bày tỏ lòng nhân đạo với những người đến từ quốc gia khác, nhưng điều đó phải hợp pháp, hợp lý và có trật tự, giống như cựu Tổng Thống Clinton và Obama từng khẳng định:
Hoa Kỳ không phải là cái chợ trời để ai muốn vào thì cứ xé rào hay phá cổng mà vào. Người khôn ngoan sẽ không ngu xuẩn đến độ rước giặc vào nhà bằng cách mở toang cửa biên giới, hầu hy vọng đạt được danh vọng cá nhân, quyền lợi của đảng phái mà bất chấp quyền lợi hay sự an nguy của đất nước mình. Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, sẽ không xem bất kỳ một cá nhân nào như thể thần thánh, như thể họ có quyền ngồi xổm trên luật pháp, hoặc điên cuồng ủng hộ một đảng đảng phái mà mình có bằng chứng là họ chỉ xem quyền lợi của đảng họ trọng, còn đất nước Hoa Kỳ là thứ yếu. Chúng ta sẽ không im lặng đứng nhìn những kẻ xem thường sự sống còn của nước Mỹ. Chúng ta phải can đảm chống đối và dùng lá phiểu để tẩy chay những kẻ cố tình san bằng những gì đã được hiến pháp Hoa Kỳ vạch rõ, mà những nhiệm kỳ của các Tổng Thống hay chính phủ vì dân đã bảo vệ mấy trăm năm qua. 4 Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, sẽ không ủng hộ hay a tòng với những kẻ tìm cách loại bỏ những giá trị căn bản của nước Mỹ. Ai nhận mình là Cơ Đốc Nhân tuyệt đối không ủng hộ những giới dân cử nào cố tình cho những kẻ vô thần, hay những tôn giáo quá khích được cơ hội tràn vào đất nước mình, để rồi cùng tìm cách sửa đổi luật, cấm mọi người cầu nguyện với Thiên Chúa ở trường học và các nơi công cộng. Chúng ta không thể dễ dãi đến độ ngu khờ khi họ bày tỏ đức tin của họ thì được, còn chúng ta thì lại mất cái quyền thiêng liêng đó. Tại sao chúng ta có thể im lặng trước những kẻ tìm cách ngăn cản chúng ta bày tỏ đức tin với Thiên Chúa? Tại sao chúng ta lại bày ra hay tham dự vào những vụ bỏ phiếu để loại trừ ý niệm “one Nation under God” qua lời bày tỏ sự trung thành với Hoa Kỳ được ghi trong bản “The Pledge of Allegiance to the Flag”. Có phải chúng ta đã trở thành những kẻ dại khờ, chỉ vì muốn chìu ý những kẻ muốn triệt hạ nước Mỹ để mình khỏi bị mang tiếng là kỳ thị đức tin của người ta? Trong tiếng Anh có câu nói đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Người ta sẽ không bao giờ thật sự hiểu thấu một vấn đề éo le nào đó, cho đến khi chuyện ấy xảy ra với chính họ”. (People will never truly understand something until it happens to them). Người viết tin rằng không một dân tộc nào trên thế giới có thể thấm thía về đời sống tha phương nơi xứ người cho bằng những dân tộc từng bị mất nước, trong đó có dân tộc Việt Nam.
Trong thời chiến tranh Việt Nam, một số người dân Hoa Kỳ với chiêu bài phản chiến đã biểu tình đòi hỏi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Họ đòi hỏi như thế cũng là dễ hiểu, bởi vì qua những sự tường trình về hình ảnh chiến đấu can trường của binh sĩ Hoa Kỳ và chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bóp méo. Những cơ quan truyền thông thiếu lương thiện đã làm những điều có lợi cho bọn VC và khối cộng sản quốc tế. Kết quả sự hy sinh của trên dưới 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã trở nên vô nghĩa dưới con mắt của những người Mỹ “chống chiến tranh Việt Nam”. Hoa Kỳ “thua” một cuộc chiến, còn người Việt Nam phải mất trọn đất nước vào tay quân cộng sản kể từ ngày tan thương đó và bao nhiêu chia ly, tang tóc, liên tục xảy ra cho đến ngày nay.
Nhân dân Hoa Kỳ thật có phước vì họ được hưởng sự tự do đích thực mà khó có quốc gia nào có được. Cho nên cái câu “People will never truly understand something until it happens to them.”, có thể áp dụng cho người Mỹ với tình hình chính trị tại Hoa Kỳ hiện nay. Những người sinh ra và lớn lên tại nước Mỹ chưa có kinh nghiệm chạm trán với thực tế của những chia ly, tang tóc như người Việt Nam, cho nên nếu họ có ” take freedom for granted” là điều cũng dễ hiểu. Tiếc là trong hàng ngũ người Việt tỵ nạn có người đã chóng quên. Họ không còn ý thức vì sao họ có mặt tại Hoa Kỳ ngày hôm nay, và họ lại giống những người chuyên “take freedom for granted” tại xứ tự do này.
Tôi không ngại để nói rằng, bất cứ ai được sanh ra và trưởng thành tại quốc gia này hay được chính phủ Hoa Kỳ đón nhận vào đây sinh sống hợp pháp, thì những người đó thật sự may mắn và hạnh phúc, nếu không muốn nói họ là những người vô cùng có phước. Tại Hoa Kỳ người dân có nhiều sự tự do. Quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do bày tỏ quan điểm chính trị và nhất là quyền tự do lập đảng đối lập với chính quyền. Tiếc là nhiều người không biết trân quý những thứ tự do đó và dường như họ đang đi tìm một “thế giới đại đồng”, một loại “xã hội chủ nghĩa” thiếu thực tế, là chiêu bài của kẻ cướp, mà nhiều nước từng kinh qua và đã quăng nó vào sọt rác lâu rồi. Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan từng nói: “Tin tưởng nhưng phải kiểm chứng và đừng e ngại nhìn nhận sự thật…” (Trust but verify; watch closely and don’t be afraid to see what you see)
Nếu chúng ta cứ tin vào một điều gì đó mà không kiểm chứng, hoặc không dám nhìn nhận một sự thật hiển nhiên, hoặc cứ cúi đầu tin vào màn ảnh TV hay các loại tin tức một chiều, và nếu chẳng may đất nước Hoa Kỳ lọt vào tay kẻ thù của nước Mỹ, thì mọi người nên coi chừng, chúng ta sẽ không còn đường nào để chạy, kể cả những kẻ hay những cơ quan truyền thông từng làm lợi cho kẻ thù nước Mỹ.
Nhà văn Mỹ đã từng đoạt giải Nobel Văn Chương là ông Eugene Gladstone O’Neill (1888-1953) có để lại một câu nói nổi tiếng: “There is no present or future, only the past happening over and over again” (không có hiện tại hay tương lai, mà chỉ có quá khứ cứ lập đi lập lại không ngừng).
Nếu nhìn vào những gì đang diễn ra trên thế giới trong năm 2019 này, người ta sẽ thấy lời tiên tri của nhà văn O’Neill đang trở thành hiện thực.
Bóng ma của những cuộc chiến tranh khủng khiếp trong quá khứ như đang nhập thể trở lại. Hãy nhìn vào mối đe dọa của Bắc Hàn. Quốc gia Cộng sản này hiện đang có trong tay một kho vũ khí hạt nhân đủ để nhận chìm một phần thế giới vào biển lửa. Hỏa tiễn của nước này có đủ khả năng để bay tới Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi. Sau cuộc họp thượng đỉnh giữa Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, một cuộc gặp gỡ vốn được 2 bên rêu rao như một biến cố lịch sử chưa từng có, Bắc Hàn không những giữ nguyên kho vũ khí hạt nhân của mình, mà còn tiếp tục phát triển những vũ khí mới kèm theo những lời đe dọa đáng sợ hơn.
Nhưng có lẽ mối đe dọa của quốc gia cộng sản côn đồ Bắc Hàn vẫn không đáng sợ cho bằng cuộc chạy đua vũ trang hiện nay của hai siêu cường nguyên tử là Nga và Hoa Kỳ: một cuộc chiến tranh lạnh mới đã thực sự bắt đầu!
Thế giới đang bị đe dọa không chỉ vì cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Nga và Mỹ hay kho vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn. Tình hình thế giới cũng bấp bênh không kém vì mối căng thẳng giữa một số nước đang có vũ khí hạt nhân ở Á Châu. Năm 2017 vừa qua, hai nước cựu thù là Ấn Độ và Trung Cộng, 2 quốc gia có đông dân số nhất thế giới, đã từng lăm le tấn công nhau vì xích mích tại một biên giới ở Bhutan. Không riêng với Trung Cộng, mối quan hệ của Ấn Độ và Pakistan, một quốc gia láng giềng hiện cũng đang có trong tay vũ khí hạt nhân, cũng căng thẳng không kém.
Tại Trung Đông, cuộc chiến ở Syria vẫn đang tiếp diễn. Viễn ảnh hòa bình xem ra ngày càng mờ mịt. Các trại tỵ nạn đã không còn chỗ để chứa người di tản. Cũng như người Việt Nam đã trốn chạy chế độ cộng sản sau năm 1975, người dân Syria cũng liều mạng trèo lên những chiếc thuyền mong manh để vượt biển khơi với hy vọng tìm được an toàn ở bất cứ bến bờ nào họ trôi dạt tới.
Cuộc xung đột tại Syria ngày càng tồi tệ, nhưng cuộc chiến tại Yemen lại càng thê thảm hơn. Bị xâu xé giữa hai cường quốc Hồi giáo là Iran và Á Rập Saudi, Yemen đã biến thành một bãi chiến trường dẫn đến một cuộc khủng hoảng nhân đạo chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, trong 3 năm vừa qua, đã có khoảng 85.000 trẻ em dưới 5 tuổi bị chết đói! Hình ảnh của những đứa trẻ chỉ còn da bọc xương không thể không gợi lại nạn đói khủng khiếp tại Ethiopia hồi thập niên 1980. Ngày đó, cả thế giới đã rúng động trước những hình ảnh khủng khiếp của nạn đói. Các ca sĩ thượng thặng của thế giới đã góp giọng để kêu gào và đánh động trái tim của nhân loại. Các chính phủ đã bắt tay nhau và quyết tâm không để cho một thảm kịch như thế tiếp diễn.
Nhưng lịch sử cứ lập lại một cách tàn nhẫn. Ngay lúc này đây, Liên Hiệp Quốc khẳng định rằng Yemen hiện đang phải đối diện với thảm họa nhân đạo lớn nhất của Thế kỷ 21: 14 triệu người đang có nguy cơ chết đói!
Bên cạnh nạn đói do chiến tranh tạo ra, thế giới lại còn phải đương đầu với một cuộc chiến khác dường như không bao giờ kết thúc là cuộc chiến chống khủng bố. Đã hơn 18 năm kể từ cuộc khủng bố tại Hoa Kỳ ngày 11 tháng Chín năm 2001, nay cuộc chiến chống khủng bố như chỉ mới bắt đầu. Chẳng còn nơi nào trên thế giới này được xem là an toàn. Từ London, Brussels, Paris…đến Nairobi ở Phi Châu, Jakarta ở Nam Dương và Sydney ở Úc Đại Lợi, nơi nào cũng đều có thể là điểm nhắm của các tổ chức khủng bố.
Không bị khủng bố trực tiếp đe dọa, nhưng Ukraine cũng không ở yên trước sự đe dọa trắng trợn của Nga. Thế giới tự do đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trước những hành động ngang tàng và bạo ngược của Nga.
Đệ nhứt Thế chiến đã chấm dứt cách đây vừa đúng 100 năm và Đệ nhị Thế chiến cũng đã kết thúc hơn 70 năm qua. Nếu tính từ Đệ nhị Thế chiến đến nay, mặc dù có chiến tranh lạnh và cuộc chiến đẫm máu có diễn ra tại một vài nơi trên thế giới, nhưng có lẽ chưa bao giờ nhân loại hưởng được một nền hòa bình lâu dài như thế. Nhưng nay dường như lịch sử đang trở lại. Bóng dáng của chiến tranh đang lấp ló ở đâu đó.
Với cuộc chạy đua vũ trang hiện nay, Hoa Kỳ và Nga đang đi vào một cuộc chiến tranh lạnh mới. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất hiện nay vẫn là một cuộc chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào giữa hai siêu cường kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và Trung Cộng. Bất cứ một cuộc đụng độ nào giữa 2 siêu cường này cũng đều là một đại họa cho toàn thế giới. Mặc dù hai bên đều tuyên bố sẽ bằng mọi cách tránh chiến tranh, nhưng trong thực tế hiện nay cả hai bên đều chuẩn bị tư thế sẵn sàng ứng chiến.
Hồi năm 2015, tổ chức phi lợi nhuận “The Rand Corporation”, chuyên nghiên cứu về chiến lược toàn cầu, đã gởi cho Quân đội Mỹ một bản phúc trình có tựa đề “War with China. Thinking Through the Unthinkable” (Chiến tranh với Trung Cộng. Suy nghĩ về điều không thể ngờ được). Bản phúc trình kết luận rằng nếu chiến tranh xảy ra chắc chắn Trung Cộng sẽ chịu nhiều thiệt hại hơn Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bản phúc trình lại cảnh cáo rằng với sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng và cải tiến, Trung Cộng có thể tạo ra một cuộc chiến hủy hoại lâu dài.
Ngày nay, ai cũng nhận thấy rằng nếu chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng có xảy ra thì bãi chiến trường chính chỉ có thể là Biển Đông.
Kể từ năm 1974 đến nay, sau khi đã ngang nhiên chiếm lấy Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Cộng áp đặt chủ quyền của mình lên toàn bộ Biển Đông và xem đây như ao nhà của mình. Nhiều đảo trong vùng biển này, vốn trước đây đã từng là vùng tranh chấp giữa nhiều nước Đông Nam Á, nay đã bị Trung Cộng quân sự hóa. Nhiều phi đạo dành cho Không lực của Trung Cộng đã được thiết lập. Các loa phóng thanh được bắt dày đặc trên các đảo này lúc nào cũng phóng ra những lời cảnh cáo đối với các tàu bè nước ngoài nào đi gần những hòn đảo đã được quân sự hóa ấy.
Trong năm 2018 vừa qua, đã có lúc thế giới gần như đứng tim khi tàu chiến của Hoa Kỳ và Trung Cộng tiến đến tư thế gần như muốn đụng độ nhau trên Biển Đông.
Trung Cộng hiện đang củng cố sức mạnh quân sự của họ. Ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Cộng đứng hàng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. Hiện quốc gia cộng sản khổng lồ này đang phát triển phi cơ chiến đấu có khả năng tấn công các tiềm thủy đĩnh và hỏa tiễn liên lục địa. Trung Cộng cũng đang cho thiết lập điều mà họ gọi là “Vạn lý Trường thành dưới biển”.
Chuyên gia phân tách lão thành của Học viên Chính sách Chiến lược của Úc là ông Malcolm Davis khẳng định rằng với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật hiện nay, Trung Cộng “khiến cho quân lực của Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn mỗi khi muốn can thiệp vào một cuộc khủng hoảng trong Biển Đông”.
Chuyên gia này cảnh cáo rằng về khả năng quân sự, Trung Cộng có thể “cỡi lên lưng Hoa Kỳ”. Hoa Kỳ đã nhận ra mối đe dọa ấy. Năm ngoái, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã cập nhật chiến lược quốc phòng và nêu đích danh Trung Cộng và Nga là hai mối đe dọa lớn nhất cho quyền lợi của Hoa Kỳ. Bộ Quốc Phòng Mỹ khẳng định: “Ngày càng có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho thấy Trung Cộng và Nga muốn hình thành một thế giới phù hợp với mô hình độc tài của họ”. Với chiến lược mới, Bộ Quốc Phòng Mỹ kêu gọi thay vì chú tâm vào cuộc chiến chống khủng bố, hãy dồn mọi nỗ lực vào việc đối đầu với mối đe dọa của Trung Cộng và Nga. Tướng Jim Mattis, người vừa đệ đơn từ chức Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã từng kêu gọi phải “cấp tốc thay đổi” chiến lược để sẵn sàng ứng chiến.
Chủ tịch Tập Cận Bình đang cai trị Trung Cộng chẳng khác nào một hoàng đế. Sau Mao Trạch Đông, họ Tập được xem là người quyền thế nhất tại Trung Cộng. Thật ra, Tập Cận Bình còn tỏ ra nhiều quyền lực hơn cả Mao Trạch Đông, bởi vì ông hiện đang lãnh đạo một quốc gia, theo một số thước đo nào đó, có thể là nền kinh tế mạnh nhất thế giới.
Là con của một đảng viên Cộng sản, họ Tập luôn đặt Đảng lên trên mọi sự. Ông đàn áp mọi nhà bất đồng chính kiến, giam tù các đối thủ chính trị, bịt miệng mọi cơ quan truyền thông và các nhà tranh đấu cũng như tìm cách tiêu diệt sắc tộc Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.
Năm vừa qua, với lời hứa hẹn sẽ hoàn thành “Giấc mơ Trung hoa”, ông đã tự phong cho mình làm chủ tịch mãn đời. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có nhà độc tài nào đáng sợ cho bằng Tập Cận Bình.
Nhìn vào các diễn tiến trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng như nhà văn Eugene O’Neill, các sử gia đều cho rằng quá khứ đang trở lại.
Vào năm 1914, có ai nghĩ rằng Đệ nhứt Thế chiến sẽ xảy ra. Đức và Anh đang là những đối tác thương mại quan trọng. Quốc vương Anh và Thủ tướng Đức là anh em cô cậu hay chú bác với nhau. Có ai ngờ rằng chiến tranh sẽ xảy ra. Nhìn lại Đệ nhứt Thế chiến, sử gia Úc Sir Christopher Clarke đã gọi các lãnh tụ của thời đó là “Những Kẻ Mộng Du”. Chỉ vì cái chết của một hoàng tử kế vị trên ngai vàng Áo-Hung mà “cuộc chiến để chấm dứt mọi cuộc chiến” đã bùng nổ, sát hại cả 50 triệu người trên thế giới.
Ngày nay, với tham vọng không đáy của một Tập Cận Bình, với sự hung hãn của một Putin, với thái độ côn đồ của một Kim Jong-un và dĩ nhiên với sự bốc đồng và không lường trước được của một Donald Trump, chuyện gì cũng có thể xảy ra cho thế giới. Biển Đông hiện đang là nơi dậy sóng với một bên là Trung Cộng và bên kia là Hoa Kỳ, các nước còn lại bị buộc phải theo bên này hay bên kia.
Kịch bản cho cục diện thế giới có lẽ đã được kịch tác gia Hy Lạp Thucydides viết ra năm 400 trước Công nguyên. Đây là thời điểm xảy ra cuộc chiến giữa Athens và Sparta. Ngày nay rất nhiều nhà chiến lược quân sự cảnh cáo về điều mà họ gọi là “Chiếc Bẫy sập của Thucydides”: một cường quốc đang lên muốn đối đầu với sức mạnh của một cường quốc đang đi xuống và sẵn sàng gây chiến để làm bá chủ. Sự vươn lên của một Athens đã tạo ra nỗi lo sợ cho Sparta. Và đó chính là điều khiến cho chiến tranh không thể tránh được.
Năm 1989, tức cách đây 30 năm, khi chứng kiến sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Đông Âu và kế đó là sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại cái nôi của nó là Nga, một nhà chính trị học Mỹ nổi tiếng là ông Francis Fukuyama đã viết một cuốn sách với tựa đề “The End of History and the Last Man” (Lịch sử đã kết thúc và Người cuối cùng). Trong tác phẩm, ông Fukuyama biện luận rằng các chế độ độc tài đã bị đánh bại, nền dân chủ tự do, chủ nghĩa tự bản và kinh tế thị trường là điểm đến tất yếu trong sự tiến hóa văn hóa xã hội của nhân loại. Theo ông, “Lịch sử đã kết thúc”, “chiến tranh” sẽ chỉ còn là một phạm trù của quá khứ.
Nhưng liệu những gì đang diễn ra trong năm 2019 có cho phép thế giới chia sẻ niềm lạc quan của ông Fukuyama không? Phải chăng lịch sử đã không kết thúc, mà đang trở lại với bộ mặt còn đẫm máu hơn?