Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN (1)

Làn sóng mới người tỵ nạn chính trị từ VN (1)

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-06-18

06182015-the-vn-new-wav-of-refug.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Sau tám năm chờ đợi, chiều thứ Ba 25/11 vừa qua thêm 39 người Việt cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Vancouver của Canada. Đây là đợt thứ nhì. Đợt đầu tiên với 28 người đã tới Vancouver hôm 13 tháng 11, 2014.

Sau tám năm chờ đợi, chiều thứ Ba 25/11 vừa qua thêm 39 người Việt cư trú bất hợp pháp tại Thái Lan đã đặt chân xuống phi trường quốc tế Vancouver của Canada. Đây là đợt thứ nhì. Đợt đầu tiên với 28 người đã tới Vancouver hôm 13 tháng 11, 2014.

Từ khi VN tiến hành cải cách về kinh tế vào năm 1986, cho dù nền kinh tế đã phần nào phát triển. Tuy vậy trước việc chính quyền VN tiếp tục, bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ và tôn giáo, thì đến nay vẫn có một làn sóng ngầm không ít những người đấu tranh tìm đường trốn khỏi VN để xin tỵ nạn vì lý do chính trị và tôn giáo.

Cuộc sống hiện nay của họ ra sao và những người này còn sẽ tiếp tục đấu tranh hay không?

Trong bài thứ nhất, Anh Vũ sẽ giới thiệu về chặng dừng chân đầu tiên của những người tỵ nạn này ở Thái lan và Campuchia.

…Buộc phải rời bỏ quê hương

Sau khi chiến tranh VN kết thúc, do sự sai lầm trong các chính sách chính trị và kinh tế của nhà cầm quyền cộng sản, đã dẫn đến một làn sóng người VN lên đến gần một triệu người bỏ nước ra đi để tìm kiếm cơ hội tỵ nạn ở nước ngoài.

Từ năm 1986, đảng CSVN phải thực hiện một cuộc cải cách kinh tế để thoát ra khỏi bờ vực phá sản. Đời sống kinh tế trong nước có khá hơn, cũng như sau đó các trại tỵ nạn của người Việt ở nhiều nơi trên thế giới bị đóng cửa, các nước không còn muốn nhận thuyền nhân nữa; khi đó cuộc khủng hoảng người tị nạn Việt nam tưởng như đã chấm dứt.

Tuy vậy ít người biết rằng từ đó đến nay, vẫn còn một làn sóng người Việt nam tị nạn chính trị mới. Nhiều người trong số họ buộc phải bỏ nước ra đi, mà các nước trong khu vực Đông Nam Á là chặng dừng chân đầu tiên của họ.

Theo số liệu thống kê, hiện tại ở Thái lan đang có khoảng 950 người tỵ nạn, tương tự ở Campuchia cũng có đến gần 200 người.

Nói về lý do khiến bản thân phải chạy sang Campuchia để tỵ nạn, ông Hồ Văn Chỉnh cho chúng tôi biết:

” Trước đây tôi ở tỉnh Vĩnh long, tôi đã bị chính quyền VN bắt cóc từ Campuchia đưa về VN bỏ tù. Sau khi tôi vượt ngục và trốn sang đây thì tôi bị kết án vắng mặt 17 năm, vì liên quan đến việc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi đa nguyên, đa đảng

ông Hồ Văn Chỉnh”

“Trước đây tôi ở tỉnh Vĩnh long, tôi đã bị chính quyền VN bắt cóc từ Campuchia đưa về VN bỏ tù. Sau khi tôi vượt ngục và trốn sang đây thì tôi bị kết án vắng mặt 17 năm, vì liên quan đến việc đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ và đòi đa nguyên, đa đảng.”

Anh Hoàng Đức Ái một nhà tranh đấu ở Nghệ An bị truy đuổi nên buộc phải bỏ nước ra đi đến Thái lan, anh nói:

“Lý do tôi phải đến Thái lan tỵ nạn là do tôi là 1 trong 8 người ở Nghệ An đã rải truyền đơn tẩy chay cuộc bầu cử Quốc hội.”

Thân phận tỵ nạn này còn dành cho những người sắc tộc H’mông, vì bị chính quyền đàn áp buộc họ phải từ bỏ tôn giáo mà họ tin theo. Một thầy truyền đạo người H’mông đang tỵ nạn ở Thái lan, yêu cầu được dấu danh tính cho chúng tôi biết. Ông nói:

Một gia đình dân tộc theo đạo Tin Lành, từ vùng Tây Nguyên chạy sang Thái Lan xin tị nạn năm 2010. Sau đó gia đình của anh Siu A Nem và 7 người con khi đến Canada tháng 7 năm 2014 (RFA)

Một gia đình dân tộc theo đạo Tin Lành, từ vùng Tây Nguyên chạy sang Thái Lan xin tị nạn năm 2010. Sau đó gia đình của anh Siu A Nem và 7 người con khi đến Canada tháng 7 năm 2014 (RFA)

“Quê quán của tôi ở VN là ở Lào cai, vì lý do ở VN tôi là một lãnh đạo tôn giáo, đã đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo cũng như tranh đấu chống việc chính quyền cướp đất của cộng đồng người H’mông chúng tôi.”

Khó khăn nơi “đất khách quê người”

Những khó khăn của những người bỏ nước ra đi tìm đường tỵ nạn ở nước ngoài khó mà kể hết, vì đối với họ tất cả đều mới lạ. Nói về những khó khăn hiện nay, anh Hoàng Đức Ái ghi nhận:

“Khó khăn thứ nhất là về công việc, mình không có việc làm. Thứ 2 là chính quyền Thái lan họ không cho mình nhập cư, nên nếu mình ra ngoài làm việc thì sợ họ bắt, vì nếu bị họ bắt thì chắc chắn sẽ nguy hiểm. Thứ 3 là vấn đề ngôn ngữ, vì không có ngôn ngữ thì rất khó khăn cho mình.”

Thầy truyền đạo người H’mông tiếp lời:

” Quê quán của tôi ở VN là ở Lào cai, vì lý do ở VN tôi là một lãnh đạo tôn giáo, đã đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo cũng như tranh đấu chống việc chính quyền cướp đất của cộng đồng người H’mông chúng tôi

Một thầy truyền đạo người H’mông”

“Ở Thái lan này thì cuộc sống nói chung cũng có nhiều cái khó khăn lắm, một là mình phải cố gắng đi kiếm việc làm, song vì mình là người sống bất hợp pháp nên người thuê mình làm họ ép giá rất là thấp. Cũng vì Thái lan họ không ký cái Công ước Quốc tế năm 1951 để bảo vệ người tỵ nạn, vì thế chúng tôi sang lánh nạn ở đây thì sự nguy hiểm luôn thường trực 24/24.”

Những khó khăn thì chồng chất như vậy, song việc có được Cao ủy tỵ nạn LHQ (UNHCR) cứu xét để cấp quy chế tỵ nạn cho những người tỵ nạn hay không thì là cả một vấn đề lớn và cũng hết sức khó khăn. Anh Hoàng Đức Ái khẳng định:

“Hiện tại, tình hình những người tỵ nạn ở Trung Đông hay những người tỵ nạn ở VN cũng rất là nhiều, mà Cao ủy (tỵ nạn) ở đây thì làm việc hết sức chậm trễ. Cho nên các hồ sơ tỵ nạn sau này càng lâu hơn vì số người tỵ nạn ngày càng đông. Như lịch phỏng vấn của tôi cũng đã dời lại 2-3 lần, bây giờ cũng đã hết 1 năm rồi.”

Kể cả những trường hợp đã được chấp nhận cho hưởng quy chế tỵ nạn ở Campuchia, song quyết định đó cũng không có hiệu lực. Từ đó dẫn đến tình cảnh những người này vẫn phải sống một cuộc đời vô tổ quốc từ nhiều năm nay. Từ Campuchia, ông Hồ Văn Chỉnh nói với chúng tôi:

“Sau khi UN rút quân thì họ giao tôi lại cho phía Capuchia và họ cấp cho tôi một cái giấy do Phó Thủ tướng ký, nhưng cái giấy này không có hiệu lực gì hết. Bây giờ thì họ khong công nhận, mà họ chỉ công nhận giấy nhập tịch thôi. Do đó hiện tại cuộc sống của chúng tôi cũng hết sức khó khăn và ở Campuchia bây giờ chúng tôi không có tương lai gì hết.”

Tuy nhiên, ở miền đất mới đa số những người tỵ nạn vẫn không từ bỏ công việc đấu tranh của mình, họ vẫn tiếp tục tham gia công việc đấu tranh trong điều kiện có thể. Anh Hoàng Đức Ái bày tỏ:

“Đối với những người tỵ nạn như tôi hay một số người bạn ở đây, hàng ngày vẫn theo dõi tình hình ở VN để tiếp tục đồng hành đấu tranh với những người đấu tranh trong nước. Đặc biệt là đối với các bạn trẻ, bằng những bài viết trên các trang blog.”

” Hiện tại, tình hình những người tỵ nạn ở Trung Đông hay những người tỵ nạn ở VN cũng rất là nhiều, mà Cao ủy (tỵ nạn) ở đây thì làm việc hết sức chậm trễ. Cho nên các hồ sơ tỵ nạn sau này càng lâu hơn vì số người tỵ nạn ngày càng đông

Anh Hoàng Đức Ái”

Thầy truyền đạo người H’mông cho chúng tôi biết hiện tại số người H’mông tỵ nạn về vấn đề tôn giáo ở Thái lan có khoảng 350 người và ông vẫn tiếp tục đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho bà con sắc tộc H’mông ở trong nước. Ông nói:

“Tôi vẫn tiếp tục hoạt động về niềm tin tôn giáo ở đây. Trước tình hình cộng sản VN đã ngăn cấm không cho đồng bào hoạt động tôn giáo tự do theo ý muốn của người dân thì tôi cũng tìm hiểu các thông tin về vấn đề này để viết các báo cáo để cho các tổ chức Nhân quyền biết, để lên tiếng bảo vệ đồng bào H’mông của chúng tôi.”

Về nguyện vọng chung của những người tỵ nạn hầu như cũng giống nhau, tất cả đều mong nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt nam ở khắp nơi trên thế giới và mong muốn nhanh chóng được đi định cư ở nước thứ 3. Ông Hồ Văn Chỉnh cho biết:

“Bây giờ cộng đồng thế giới hãy lên tiếng để giúp chúng tôi được đi định cư ở nước thứ 3, vì chỉ có thế chúng tôi mới có tương lai cho con cái sau này. Cho đến giờ tôi đã tỵ nạn ở đây 15 năm rồi, mà họ không cho chúng tôi nhập tịch gì hết. Chẳng biết tương lai của chúng tôi sẽ ra sao nữa.”

Được biết không phải chỉ có ở các nước Đông Nam Á, nhất là Thái lan mới có những người VN tỵ nạn về các lý do chính trị và tôn giáo. Tại một số quốc gia thuộc các châu lục khác hiện nay cũng có người tỵ nạn Việt Nam.

Trong bài sau, mời quý vị đón nghe phần tường trình của thông tín viên Tường An từ Paris, về cuộc sống của những người tỵ nạn đến từ VN ở Âu châu và Úc châu.

Cách Mạng Mùa Thu: Oán thù chồng chất!

Cách Mạng Mùa Thu: Oán thù chồng chất!

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

Năm 2015 này đánh dấu 70 năm kể từ Việt nam dành lại được nền tự chủ độc lập thóat khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp sau biến cố đảo chính vào ngày 9 Tháng Ba, 1945 (1945 – 2015). Nhưng đến ngày 19 Tháng Tám năm đó, thì người Việt Minh Cộng Sản lại tổ chức một “cuộc cướp chính quyền” và tuyên bố ngày đó là khởi sự cho “Cách Mạng Mùa Thu” ở nước ta – theo khuôn khổ “Cách Mạng Tháng Mười” của Liên Xô bắt đầu vào năm 1917.

Sau 70 năm, thời gian đã đủ nguôi ngoai lắng đọng để cho người Việt chúng ta có thể bình tâm luận định về biến cố lịch sử đày dãy những tang thương thống khổ – với biết bao nhiêu máu và nước mắt của hàng triệu người lương dân vô tội đã đổ ra tại khắp nơi trên quê hương đất nước mình.

Nói chung, thì cũng chỉ vì cái chủ trương cuồng tín quá khích gọi là “bạo lực cách mạng”, “chuyên chính vô sản” mà người cộng sản du nhập từ Liên Xô và Trung Cộng vào đất nước ta ngay từ năm 1945, nên mới xảy ra bao nhiêu cuộc thảm sát hàng lọat những người quốc gia yêu nước mà người cộng sản gán cho đủ các thứ nhãn hiệu xấu xa như : “ quân ngụy”, “việt gian”, “phản quốc”, “phản động”, “lưu manh”,“tay sai ngọai bang” v.v… Để rồi họ ra tay truy lùng, trừ diệt khủng bố cực kỳ dã man tàn bạo, không mảy may xót xa thương tiếc đối với người anh em cùng một nòi giống da vàng máu đỏ như chính mình.

Bài viết này nhằm ghi lại những cuộc thảm sát rùng rợn đó và tìm hiểu nguồn gốc sâu xa của những hành vi cực kỳ tàn ác man rợ do người cộng sản cố tình gây ra ngay kể từ lúc họ mới nắm được chính quyền trong tay kể từ năm 1945 cho đến ngày nay. Xin trình bày một số vụ thảm sát điển hình theo thứ tự thời gian xảy ra lần lượt tại khắp các miền Trung, Nam, Bắc.

I-Những cuộc khủng bố tàn sát man rợ do người cộng sản gây ra tại khắp các nơi trong nước.

1-Vụ thảm sát tín đồ Cao Đài tại Quảng Ngãi Tháng Tám và Tháng Chín, 1945.

Ngay sau khi Việt Minh Cộng Sản chiếm được chính quyền trong tay vào Tháng Tám, 1945, thì tại nhiều làng xã thuộc các huyện Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Hành trong tỉnh Quảng Ngãi đã đồng lọat xảy ra các cuộc tàn sát tập thể (mass killing) tổng cộng lên đến gần 3,000 tín đồ Cao Đài. Có vùng người dân “bị giết hết cả già trẻ lớn bé mà mồ chôn tập thể cùng khắp các miền quê…” Sự việc này đã được Giáo Hữu Ngọc Sách Thanh tại Hoa Kỳ trình bày chi tiết trước Ủy Hội Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc gần đây vào Tháng Tư, 1999.

Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có bảng liệt kê danh tánh các nạn nhân lên đến con số 2,791 người. Và trong tài liệu nghiên cứu có nhan đề là “Colonial Caodaists” do sử gia Janet Hoskins biên sọan, thì cũng ghi nhận con số 2,791 nạn nhân này. Danh sách này cũng được ghi nơi Đài Tưởng Niệm thiết lập từ năm 1956 tại Quảng Ngãi – mà sau năm 1975 chính quyền cộng sản đã cho triệt hạ phá bỏ hết tất cả mọi dấu tích đi.

Người đồ tể khét tiếng trong vụ thảm sát này có tên là Đặng Bửu sau này giữ chức vụ hiệu trưởng Trường Chính Trị Nguyễn Ái Quốc ở Hà nội.

So với cuộc thảm sát tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968, thì cuộc tàn sát này tại Quảng Ngãi năm 1945 cũng thật là khủng khiếp ghê rợn không kém – nhưng mà nó lại ít được công chúng ở miền Nam trước năm 1975 biết đến. Nhưng có dấu hiệu lạc quan là gần đây giới học giả quốc tế cũng đã có điều kiện tìm hiểu nhiều về vụ thảm sát năm 1945 này.

Nhân tiện, cũng xin ghi thêm là nhà ái quốc Tạ Thu Thâu cũng đã bị Cộng Sản giết hại tại Quảng Ngãi hồi mùa thu năm 1945, vào lúc ông trên đường trở lại miền Nam sau cuộc viếng thăm miền Bắc vài tháng trước đó.

2-Những vụ khủng bố tiêu diệt người quốc gia yêu nước tại miền Nam trong thời gian từ 1945 đến 1947.

Tại miền Nam vào năm 1945, thì tuy không có vụ tàn sáp tập thể có quy mô lớn như tại Quảng Ngãi, nhưng lại có vô số những cuộc ám sát khủng bố giết hại những người quốc gia yêu nước do cán bộ cộng sản theo khunh hướng Đệ Tam Quốc Tế gây ra. Và tổng số các nạn nhân bị giết hại trong các năm 1945, 1946 và 1947 có thể lên đến hàng nhiều ngàn người.

Cụ thể là những nhân vật trí thức có tên tuổi thuộc khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế (thường được gọi là Trotskystes) thì đều bị giết hại như: Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Hùm v.v… Còn phải kể đến những vị lãnh đạo chính trị nổi tiếng cũng đều bị Cộng Sản chém giết, điển hình như nhân sĩ Bùi Quang Chiêu, vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký và Nguyễn Thị Sương, luật sư Dương Văn Giáo. v.v…

Tệ hại nhất là vụ sát hại Giáo Chủ Hùynh Phú Sổ người sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo ở miền đồng băng sông Mekong – do người Cộng Sản thực hiện vào Tháng Tư, 1947. Sự việc động trời này đã gây ra mối hận thù dai dẳng kinh khiếp cho hàng triệu tín đồ Hòa Hảo tại khắp miền Nam.

Đối với các tín đồ Cao Đài tại miền Đông Nam Bộ cũng vậy, cán bộ Cộng Sản cũng ra tay tàn sát đến cả hàng ngàn nạn nhân nữa.

Chỉ riêng có một ngày 13 Tháng Mười, 1947, thì đã có đến con số 300 nạn nhân bị Việt Minh Cộng Sản ra tay sát hại tại khu vực Hóc Môn, Thủ Đức chỉ cách thành phố Sài Gòn có chừng vài chục cây số mà thôi.

Người chủ chốt phát động các cuộc tàn sát này chính là Tướng Nguyễn Bình (tên thật là Nguyễn Phương Thảo) do Trung Ương ở Hà Nội phái vào miền Nam để phụ trách điều hành guồng máy chính trị và quân sự tại đây.

3-Những vụ sát hại các thành viên ưu tú của các đảng Đại Việt, Duy Dân và Quốc Dân Đảng ở miền Bắc.

Tại miền Bắc, thì các đảng phái quốc gia như Đại Việt, Duy Dân, Quốc Dân Đảng đều lần lượt bị người Cộng Sản dùng mọi thủ đọan tàn bạo thâm độc mà tiêu diệt cho bằng hết. Điển hình là các lãnh tụ nổi danh như Trương Tử Anh của Đại Việt, Lý Đông A của Duy Dân và vô số những đảng viên ưu tú khác của Quốc Dân Đảng cũng đều bị ám hại bằng cách thủ tiêu hay giam giữ ngặt nghèo trong các trại tù đến nỗi phải bỏ xác nơi xa xôi hẻo lánh – mà thân nhân không hề được thông báo để lo việc ma chay chôn cất và cúng giỗ. Có thể nói tổng số nạn nhân bị sát hại như vậy ở miền Bắc trong thời gian từ năm 1945 đến 1954 phải lên đến con số nhiều ngàn người.

Xin ghi lại vài trường hợp bị bắt giam rồi bị sát hại rất thương tâm của mấy nhân vật rất nổi tiếng như sau:

A-Nhà văn Khái Hưng.

Khái Hưng là một nhà văn nổi tiếng từ thập niên 1930 trong Nhóm Tự Lực Văn Đòan do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng. Vào năm 1940, Khái Hưng và họa sĩ Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp bắt đi an trí tại vùng quê xa Hà nội. Năm 1947, ông đang ở nhà nhạc phụ trong huyện Trực Ninh, Nam Định, thì bị công an Việt Minh đến bắt đi và sát hại rồi vất xác xuống dòng sông Ninh Cơ chỗ gần bến đò Cựa Gà.

B-Bộ trưởng Chu Bá Phượng.

Ông Chu Bá Phượng sinh năm 1908 tại Bắc Giang là một kỹ sư đã từng tham gia vào công trình thiết lập đường xe lửa Đông Dương vào hồi thập niên 1930. Ông còn là một người trong thành phần lãnh đạo nòng cốt của Quốc Dân Đảng. Năm 1946, ông Chu Bá Phượng giữ chức bộ trưởng Kinh Tế trong Chính Phủ Liên Hiệp trong đó có ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch, ông Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch, ông Nguyễn Tường Tam làm bộ trưởng Ngọai Giao. Cuối năm 1946, vì các nhân vật quốc gia như Bảo Đại, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam đều đào thóat ra nước ngòai, nên chỉ còn có một mình ông Chu Bá Phượng bị kẹt lại và phải đi theo văn phòng chính phủ di tản lên chiến khu ở Việt Bắc.

Không bao lâu sau, ông Phượng bị đem đi quản chế ngặt nghèo tại vùng Hà Giang, Sơn La. Và từ cuối năm 1960, thì gia đình ông ở Hà Nội không hề nhận được bất kỳ tin tức nào của ông nữa. Mấy chục năm sau vào đầu thập niên 1990, con cháu mới nhờ người sử dụng ngọai cảm mà tìm được hài cốt của ông tại nơi rừng núi hoang vắng vùng Việt Bắc giáp giới với Trung Quốc và cải táng đem về quê nhà ở miền xuôi.

Giám đốc công an ở miền Bắc thời đó chính là ông Lê Giản, ông này phải chịu trách nhiệm nghiêm trọng về các cuộc đàn áp và giết chóc này.

II-Tìm hiểu nguyên do tại sao người cộng sản lại gây ra những vụ tàn sát với quy mô rộng lớn khủng khiếp như thế?

Trước khi đi sâu vào vấn đề, ta cần phải tĩnh trí để nhận định tình hình xã hội chính trị thực tế ở nước ta vào thời kỳ trước năm 1945 đại khái như thế này:

1-Không hề có sự ân óan thù hận nào giữa người cộng sản với người không Cộng Sản cả. Bởi lẽ vào lúc đó, tất cả hai nhóm đều là những người yêu nước và cùng hành động giống nhau là chống thực dân Pháp. Như vậy là tất cả đều ở cùng chung một phe để đối nghịch chống lại cái ách đô hộ của người Pháp để cùng dành lại nền độc lập tự chủ cho người Việt Nam. Và cả hai nhóm đều bị chính quyền Pháp đàn áp, bị bắt giam chung với nhau trong cùng một nhà tù nữa. Vì cùng có tinh thần yêu nước như nhau, lại cùng là nạn nhân khốn khổ vì sự tàn ác của đế quốc thực dân, cho nên giữa người cộng sản và không cộng sản lúc đó lại có sự thương yêu đùm bọc liên đới gắn bó chặt chẽ với nhau nữa.

Điều này khác hẳn với hai phe Quốc Gia và Cộng Sản ở bên Trung Quốc, vì hai phe đánh phá giành giật, giết chóc lẫn nhau suốt trong mấy chục năm kể từ cuối thập niên 1920 cho đến năm 1949, thì phe Cộng Sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo mới tòan thắng và buộc phe Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu phải rút lui qua đảo Đài Loan. Từ đó mà phe Cộng Sản thắng trận phát động chiến dịch trả thù những người thua trận nào mà còn bị kẹt lại ở nội địa Trung Quốc. Tình trạng này chỉ xảy ra tại Việt Nam năm 1975 sau khi quân đội Cộng Sản từ miền Bắc xâm chiếm được tòan thể lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.

2-Ấy thế mà tại sao vào năm 1945, khi có chính quyền nắm trong tay được rồi, thì người Cộng Sản lại ra tay tận diệt người quốc gia một cách tàn bạo man rợ đến thế?

Câu trả lời cho vấn nạn này có thể thật ngắn gọn như sau: Đó là do họ áp dụng triệt để cái chủ trương “Bạo Lực Cách Mạng” (the Revolutionary Violence) mà họ học tập được từ Trung Ương Đệ Tam Quốc Tế Comintern do Liên Xô lãnh đạo.

Ngay từ thập niên 1920 cho đến năm 1945, thì đã có đến hàng trăm cán bộ cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam được đào tạo rất bài bản tại Trường Đông Phương tại Moscow do Comintern điều hành. Tại đây, họ được học rất kỹ về kỹ thuật gọi là “agitprop = agitation – propaganda” – tức là tổ chức vận động quần chúng, tuyên truyền và đặc biệt về phương thức gây bạo lọan để tạo thời cơ cướp chính quyền. Họ cũng học được kỹ thuật xây dựng guồng máy công an mật vụ theo mô hình của Liên Xô để kềm kẹp dân chúng một khi họ đã nắm giữ được chính quyền.

Nói vắn tắt là Cộng Sản Việt Nam được Comintern đào tạo hương dẫn rất kỹ về mọi thủ đọan tinh vi để thiết lập được một chế độ độc tài chuyên chính vô sản (proletarian dictatorship). Do đó mà họ đã không từ bỏ bất kỳ một thủ đọan tàn ác vô nhân đạo nào – miễn sao đạt được mục đích tối hậu của đảng Cộng Sản là nắm vững được chính quyền trong gọng kềm sắt thép của mình.

Trái lại, các đảng phái quốc gia khác, thì không hề có được sự huấn luyện đào tạo hay sự yểm trợ vật chất tinh thần nào từ phía ngọai quốc tương tự như của Comintern cấp phát dồi dào cho đảng cộng sản Việt Nam.

Do đó mà từ năm 1945, Cộng Sản đã mặc sức tung hòanh ở Việt Nam với đủ mọi thứ đòn phép thâm độc và quỷ quyệt để vô hiệu hóa và tiêu diệt được mọi sức đối kháng của các đảng phái quốc gia hay của các tổ chức tôn giáo.

III-Tóm lược

Ta có thể tóm lược bài viết này bằng mấy nét chính yếu như sau:

1-Trước năm 1945, những người yêu nước dù là Cộng Sản hay không Cộng Sản, thì đều cùng theo đuổi một mục tiêu là đánh đổ chế độ thực dân Pháp để giành lại nền độc lập cho Việt Nam.

Thế nhưng, từ khi người Cộng Sản nắm giữ được quyền hành trong tay, thì ngay tức khắc họ ra tay tiêu diệt những người yêu nước khác để dành độc quyền riêng cho mình trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế cũng như văn hóa tinh thần. Đó là một thứ độc tài chuyên chế tòan trị (totalitarian dictatorship).

Hâu quả tai hại trầm trọng nhất của chủ trương này là đã phá hoại tận gốc rễ cái nền nếp nhân bản, nhân ái truyền thống của dân tộc Việt Nam chúng ta.

2-Dĩ nhiên là trong cái xã hội do thực dân, phong kiến tạo lập ra, thì có đầy rẫy những bất công áp bức. Nhưng vì người Cộng Sản đã cuồng tín du nhập cái chủ trương “hận thù giai cấp”, “bạo lực cách mạng” của Liên Xô và Trung Quốc vào đất nước ta, cho nên mới gây ra không biết bao nhiêu tang thương khổ nhục chết chóc cho tòan thể dân tộc ròng rã suốt 70 năm qua.

Như cha ông chúng ta từ xưa vẫn cảnh báo rằng “Lấy óan báo óan, óan ấy chập chùng”. Thì rõ ràng từ năm 1945 đến nay, đảng Cộng Sản đã liên tiếp gây ra biết bao nhiêu điều oan trái, khốn khổ cho cả hàng mấy chục triêu gia đình lương dân vô tội. Đó là một cái tội tày đình mà “Trời không dung, Đất không tha” cho người Cộng Sản vẫn còn cực kỳ ngoan cố mãi được.

3-Bài viết này là một lời nhắc nhở cho giới lãnh đạo chóp bu Cộng Sản ở Hà Nội phải biết phục thiện và thành khẩn công khai nhận lỗi của mình trước tòan thể dân tộc và dám có can đảm nói lên sự xám hối ăn năn về các tội ác man rợ kinh khủng như thế.

Có làm được như vậy, thì họ mới xứng đáng đón nhận được sự khoan dung tha thứ của đại khối dân tộc Việt Nam vậy./

Westminster California, Tháng Sáu 2015

Tài liệu tham khảo

Bài viết này được xây dựng trên những chứng từ của một số gia đình nạn nhân bị cộng sản sát hại với sự tham khảo từ một số bài nghiên cứu nghiêm túc mới đây của các chuyên gia sử học quốc tế. Cụ thể xin được trưng dẫn ra như sau đây :

1-Nhiều thư của ông Chu Bá Phượng viết về cho con vào cuối thập niên 1950 lúc ông bị quản chế tại Việt bắc. Búc thư sau cùng viết vào cuối năm 1960, sau đó thì biệt tăm luôn.

2-Thông tin do gia đình cụ Lê Quang Sách cung cấp. Cụ Sách năm nay đã 88 tuổi, cụ là người thóat chết trong vụ thảm sát gần 3,000 tín đồ Cao Đài tại Quảng Ngãi vào Tháng Tám và Tháng Chín, 1945.

3-Về các tư liệu lấy từ Internet, thì đặc biệt có các tài liệu sau đây:

A-Vụ tàn sát tín đồ Cao Đài tại Quảng Ngãi vào Tháng Tám và Tháng Chín, 1945 (tiếng Việt). Do tổ chức của Giáo Hội Cao Đài phổ biến trên Trang Nhà “Hành Trình về Chân Lí Đạo” vào ngày 21/3/2015.

B-“Caught between Propaganda and History” by Shawn McHale, 2014. Tài liệu dài 10 trang là bài Điểm sách về cuốn “Lịch sử Nam bộ Kháng chiến” được đăng trong Tủ sách “Cold War International History Project”

C-“Autopsy of a Massacre” – “On a Political Purge in the Early Days of the Indochina War” (Nam Bộ 1947)  by Francois Guillemot, 2010. Tài liệu này dài 40 trang là một bài nghiên cứu rất công phu về sự khủng bố và tàn sát vì lí do chính trị ở miền Nam được đăng trong European Journal of Asian Studies.

D-“The Viet Minh Elimination of National Parties and Groups (1945-47)” by Human Rights Watch, April 23, 2013. Tài liệu dài 17 trang viết chi tiết về việc Việt minh tiêu diệt các đảng phái chính trị tại miền Nam trong giai đọan 1945 – 1947./

Đoàn Thanh Liêm

Bàn Tay Nào Sắp Xếp Cho Thiện Thắng ÁC?

Bàn Tay Nào Sp Xếp Cho Thin Thng ÁC?

Le Nguyen

Liên minh thế giới tự do dân chủ gồm các nước tư bản giẫy hòai không chết do Hoa Kỳ lãnh đạo đã kết thúc hệ thống nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng con đường hòa bình, không kinh qua giải pháp đối đầu quân sự, một mất một còn thật ngoạn mục – như loài người đã thấy cái cách cộng sản chủ nghĩa sụp đổ. Do đó, việc kết thúc các chế độ cộng sản, dọn dẹp vài ba xác chết cộng sản còn sót lại không nhanh gọn như mong muốn nhưng nó cũng sẽ diễn ra…chắc chắn sẽ diễn ra cùng kịch bản, cùng với cung cách kết thúc nhẹ nhàng, êm đẹp như nó từng diễn ra ở thế kỷ trước. Thời đó lúc đế chế cộng sản hùng mạnh, mọi người bình thường ai cũng đều có suy nghĩ đánh sập hệ thống phi nhân, phá vỡ thành trì nhà nước xã hội chủ nghĩa là không thể, là nhiệm vụ bất khả thi nhưng nó đã diễn ra như phép lạ, đúng với nguyên tắc, quy luật tự nhiên của thiện thắng ác, chính nghĩa cuối cùng cũng sẽ thắng gian tà.

Những năm đầu của thập niên 90S của thế kỷ trước, các nước xã hội chủ nghĩa thi nhau sụp đổ hàng loạt, lan đến tận thành trì Xô Viết, cái nôi sản sinh ra hệ thống độc tài tòan trị xã hội chủ nghĩa và những nước cộng sản chưa sụp đổ, còn trụ lại trong đó có Trung Cộng. Thật ra trước đó, Trung Cộng đã manh nha làm theo ý tưởng của Đặng Tiểu Bình “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng miễn là bắt được chuột” để cứu nguy nhà nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc đang chìm sâu trong lạc hậu, chậm tiến, đóí nghèo. Vì thế khi đứng trước tình thế nguy ngập của mô hình tổ chức xã hội chủ nghĩa, Trung Cộng vội vã chuyển đổi mô hình kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường theo tư bản chủ nghĩa với tên gọi xã hội chủ nghĩa mang màu sắc trung Quốc, nghĩa là làm kinh tế theo kinh tế thị trường như tư bản nhưng vẫn ôm chặt độc quyền lãnh đạo chính trị.

Trước tín hiệu thay đổi để cứu nguy chế độ của Trung Cộng, thế giới tự do hào hiệp mở cửa giao thương, làm ăn buôn bán trong tinh thần sống chung hòa bình, đôi bên cùng có lợi, với thiện chí giúp nhà nước Trung Cộng, giúp người dân Trung Hoa có đời sống sung túc, tạo ra số đông trung lưu tiếp cận nếp sống tự do, dân chủ văn minh làm động lực tác động, chuyển đổi thể chế độc tài sang dân chủ như quy luật phát triển tự nhiên của loài người có khuynh hướng hướng thiện, hướng về cái đẹp, về đời sống tốt đẹp hơn.

Thế nhưng khi Trung Quốc ăn nên làm ra, đời sống người dân có khá hơn, giàu có hơn và thành phần giàu có, thành phần trung lưu đã đủ sức làm cuộc thay đổi đất nước Trung Quốc nhưng lãnh đạo nhà nước Trung Cộng không dịch chuyển đồng bộ, không thực hiện tiến bộ về hướng tốt hơn theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử xã hội loài người đã diễn ra trong quá khứ.

Thế giới dân chủ, tự do đã lầm lẫn, đã dự đóan sai về nhà nước cộng sản Trung Quốc bởi Trung Cộng giống như Việt Cộng là một nhà nước không giống ai nên nó đã không diễn ra, không chuyển đổi mô hình tổ chức về hướng tiến bộ, tốt đẹp hơn theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử phát triển tổ chức bộ máy cai trị như xã hội loài người vốn có.

Có lẽ mọi người đều thấy cái không giống ai của Trung Cộng là khi giàu có, tiền bạc rủng rỉnh dư ăn dư để thì lộ ra bản chất nhà nước lưu manh, bá quyền qua việc tập trung ngân sách vào quốc phòng, là mua lẫn nghiên cứu, chế tạo vũ khí “khủng” hiện đại hóa quân đội và sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự khống chế, lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải của các nước nhỏ yếu chung quanh. Cũng như việc Trung Cộng không thể hiện là một nước lớn có trách nhiệm với nền hòa bình của thế giới mà còn tạo thêm bất ổn qua việc chủ động thay đổi hiện trạng vô nguyên tắc, tự ấn định đường biên giới trái với luật pháp quốc tế, tự vẽ lại đường biên giới luật định của các nước có chung đường biên giới đã được thế giới công nhận, thừa nhận!

Sự vô trách nhiệm không giống ai hay nói cách khác là tham vọng bá quyền không chỉ tồn tại trong tư duy của các lãnh đạo đảng nhà nước Trung Cộng mà tư duy không giống ai này còn hiện hữu trong giới trí thức, giới trung lưu trong xã hội Trung Quốc, là thành phần chủ lực, nồng cốt cho mọi cuộc thay đổi xã hội, kinh tế…kể cả thay đổi chế độ nhưng họ vẫn bình chân như vại, sống chết mặc ai và sự vô cảm, vô trách nhiệm của thành phần này hiển lộ qua các hình thái sau:

Thứ nhất là thành phần trí thức, trung lưu làm giàu qua việc đi tắt đón đầu cơ hội làm ăn với thế giới tư bản và nhờ vào môi trường giao tiếp nên biết khá rõ ưu, khuyết điểm của mô hình tự do trong các nhà nước dân chủ so với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Đứng trước việc xấu, việc chưa tốt đó những công dân có trách nhiệm, nhất là giới trung lưu trí thức trong các nhà nước dân chủ, không phải là tất cả nhưng vẫn không hiếm người lên tiếng đấu tranh vì sự công bằng cho xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng với công dân có ưu thế như giới trí thức, doanh gia trung lưu, cả đại gia trong nước Trung Cộng, họ không đấu tranh vì xã hội công bằng, vì một đất nước tốt đẹp hơn mà luôn trong tư thế tháo chạy với tài sản kiếm được trên lưng người dân kém may mắn để xây dựng tương lai ở các nước tư bản giẫy chết, vì họ biết chắc đời sống ở đó tốt đẹp vạn lần hơn ở nước Trung Hoa cộng sản.

Thứ hai là lớp trẻ thuộc thành phần con ông cháu cha trong giới lãnh đạo cộng sản đi du học bằng học bổng trong các chương trình viện trợ hoặc tự túc ở các nước dân chủ văn minh. Thành phần du học được thế giới dân chủ tây phương kỳ vọng là những hạt nhân, là động lực cho cuộc chuyển đổi độc tài sang dân chủ qua nhiều thập kỷ đã không diễn ra như lịch sử phát triển của xã hội loài người.

Dự đoán trên lý thuyết, sách vở của các lý thuyết gia tây phương đã không xảy ra với Trung Cộng, Việt Cộng bởi thành phần con ông cháu cha được ra ngoài học hỏi tổ chức khoa học của loài người văn minh tiến bộ, không góp phần tác động lên chế độ làm cuộc thay đổi mà lại sử dụng sở học, kiến thức củng cố chế độ thế tập “cha truyền con nối”, phát triển độc tài toàn trị tinh vi, độc đoán, rùng rợn hơn như mọi người thấy trong chế độ độc tài toàn trị Trung Cộng và Việt Cộng.

Nhiều thập kỷ phát triển liên tục đều đặn với những thành công nhất định về kinh tế của Trung Cộng nhờ giao thương buôn bán với các nước dân chủ giàu mạnh và tích lủy, thặng dư được nhiều ngàn tỷ đô la trong ngân hàng dự trữ trung ương, cùng với kim ngạch tổng sản lượng quốc gia (GDP) vượt mức 10 ngàn tỷ Mỹ kim tiến lên đứng hàng thứ hai thế giới chỉ sau Hoa Kỳ khiến cho nhiều nước trong giai đọan phát triển thèm thuồng, mơ ước.

Thành công bề ngoài của Trung Cộng tạo ra ảo tưởng mô hình xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc là mô hình nhà nước lãnh đạo kinh tế xã hội hiệu quả, là mẫu mực của thế giới thời đương đại, thậm chí là còn vượt qua được khủng hoảng chu kỳ như các nước tư bản đã từng gặp phải?

Với những thành quả trên “bề nổi” của Trung Cộng đạt được trong nhiều thập kỷ thực hiện mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc khiến cho không ít bình luận gia, chuyên gia phân tích bình luận thời cuộc tiên đóan với đà phát triển, tăng trưởng đều đặn và mạnh tay bỏ vốn đầu tư vào công nghệ quốc phòng, không bao lâu nữa Trung Cộng sẽ vượt mặt siêu cường Hoa Kỳ để trở thành cường quốc số một thế giới trong tương lai?

Phải công nhận thành quả đạt được của Trung Cộng ngày nay là có sự hào phóng của các nước dân chủ văn minh, giàu mạnh góp phần và đến khi có vốn rủng rỉnh trong túi thì lãnh đạo nhà nước Trung Cộng không bày tỏ thiện chí sống chung hòa bình, chuyển đổi thể chế lại tỏ rõ ý đồ xấu như: trong nước thì tăng cường khủng bố những nhà bất đồng chính kiến, xiết chặt kiểm soát các tôn giáo ngoài nhà nước, ra tay đàn áp các dân tộc thiểu số đòi nới rộng tự do cho ngưòi dân của họ…; bên ngoài thì biểu dương lực lượng gây hấn, áp đặt chủ quyền trên biển Hoa Đông, Biển Đông, vẽ lại đường biên giới trên đất liền đã được xác lập, có quốc tế công nhận và sử dụng ưu thế kinh tế, quân sự, chính trị của nước lớn, chi phối công việc nội bộ của các nước nhỏ…

Trước sự hung hăng, tàn bạo của nhà nước côn đồ Trung Cộng trong đối nội lẫn đối ngoại khiến cho dư luận bất bình dẫn đến việc nghi ngờ thiện chí của các nước dân chủ đề cao giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền mà không có hành động kinh tế, quân sự cụ thể để trừng phạt hành động rừng rú vi phạm nhân phẩm, nhân quyền của nhà nước du côn Trung Cộng thì việc dọn dẹp tàn dư cộng sản không tiếng súng, không cần đến giải pháp quân sự là đều không thể và không ai tin là nó sẽ diễn ra!

Tuy nhiên, nếu bình tĩnh quan sát những diễn biến xảy ra gần đây liên quan đến Trung Cộng thì việc kết thúc độc tài Trung Cộng cũng chính là chấm dứt các chế độ cộng sản còn sót lại trong hòa bình, là có cơ sở bởi các nguyên nhân, yếu tố thuận lợi lẫn không thuận lợi như sau:

Một là rút kinh nghiệm từ việc hàng triệu người Việt Nam chạy nạn cộng sản lúc Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, thật sự đã là gánh nặng cho các nước dân chủ. Thử tưởng tượng nếu các nước dân chủ manh động, bất chấp luật pháp quốc tế, trang bị vũ khí cho lực lượng chống đối đấu tranh lật đổ độc tài Trung Cộng và Trung Cộng có chuyện gì không dám làm, chúng tương kế tựu kế ra tay tàn sát, tạo cớ đẩy vài chục triệu người xuống biển thì thế giới này sẽ ra sao?

Hai là những tài sản, của cải vật chất của các tham quan cộng sản ăn cắp, ăn cướp được đều chảy vào các nước tư bản giẫy chết. Thế thì cần gì phải vội kết thúc tàn dư cộng sản khi độc tài cộng sản còn sinh lợi cho họ trong lúc thời cơ chưa chín mùi, chưa đủ điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hoà thuận lợi để xóa sổ cộng sản?

Ba là thế giới tự do dân chủ chưa dốc toàn lực, chỉ ngấm ngầm hỗ trợ nhỏ giọt nuôi sống các lực lượng đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền bởi phong trào dân chủ Trung Quốc có những hạn chế nhất định vì người dân Trung Hoa không rơi vào tâm thế bức bối “tự do hay là chết” và không nằm trong vị thế chông chênh không còn chỗ để lùi khi dấn thân vào con đường đấu tranh dân chủ cho tổ quốc của họ.

Bốn là hiệp ước dẫn độ tội phạm xuyên quốc gia của Trung Cộng với cảnh sát quốc tế (Interpol) đang thu hẹp khoảng trống cho tội phạm, nhất là quan chức đảng viên cộng sản xóa bỏ tư duy hạ cánh an toàn trên các nước tư bản sau khi phạm tội tham nhũng, hối lộ và trong số 100 tham quan Trung Cộng đang bị truy nã trên toàn thế giới, đã có gần phân nửa sa lưới bị dẫn độ về Trung Quốc cũng ít nhiều tác động lên tư duy “hạ cánh an toàn” đã không còn an toàn của những tên quan tham.

Năm là tranh chấp trên biển Hoa Đông với Nhật và áp đặt 80% chủ quyền tùy tiện trên Biển Đông, buộc lực lượng hải quân hùng hậu của Trung Cộng phải hiện diện, trực chiến thường trực và hải quân Trung Cộng vô tình trở thành nút chặn các lực lượng đấu tranh dân chủ lẫn người dân bị đàn áp tháo chạy chạy xuống biển vượt thoát tìm tự do khi biến động xảy ra và các biên giới đường bộ hiểm trở cùng với nhiều hiểm nguy bất tiện cho vượt biên đường bộ tìm tự do, buộc họ phải ở lại chiến đấu tới cùng.

Sáu là việc Trung Cộng công khai khối nợ khổng lồ 28 ngàn 200 tỷ Mỹ kim, tương đương với 282% tổng sản lượng của Trung Cộng (GDP). Thực tế đó giúp cho các nước cộng sản còn sót lại thôi ảo tưởng về mô hình xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc, là mô hình phát triển lý tưởng và nợ khủng của Trung Quốc kết hợp với các mâu thuẩn, xung đột sắc tộc, tôn giáo, giàu nghèo…tiềm ẩn trong lòng chế độ tạo thành ngòi nổ, có khả năng tác động làm sụp đổ chế độ độc tài toàn trị Trung Cộng không tiếng súng.

Với những diễn biến trong nội tình Trung Cộng hiện nay, không khó để thấy việc kết thúc chế độ cộng sản Trung Hoa cũng là việc chấm dứt tàn dư cộng sản đã đến gần. Điều thuận lợi đang diễn ra cho thời điểm này và thời gian sắp tới để kết liễu các chế độ cộng sản còn sót lại không cần sử dụng đến siêu vũ khí chiến tranh của các siêu cường. Nhân tố chính để kết thúc Trung Cộng là lực lượng đấu tranh lãnh đạo nhân dân Trung Hoa đang tiến gần đến chỗ “tự do hay là chết” và con đường để lùi của người dân trung hoa đã bị nhà cầm quyền Trung Cộng “vô tình” dần khép lại cũng là một trong nhiều nguyên nhân, động lực làm cho chế độ sụp đổ, vỡ ra từng mảng nhỏ.

Những chuyển biến đang diễn ra hiện nay rất thuận lợi để kết thúc các tàn dư cộng sản còn sót lại và những điều thuận lợi này, không hẳn do các bộ óc thông minh, thánh thiện của con người xếp đặt(?) Có thể nó diễn ra do bàn tay vô hình của đấng tối cao sắp xếp theo quy luật tự nhiên: “…thiện thắng ác…chính nghĩa thắng gian tà…”

40 năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, hòa giải dân tộc vẫn còn xa vời

40 năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, hòa giải dân tộc vẫn còn xa vời

Asahi Shimbun

Tác giả: NAOJI SHIBATA

Người dịch: Trần Văn Minh

25-05-2015

Thành phố Hồ Chí Minh – Những hình ảnh về chiến tranh Việt Nam vẫn còn sống động trong ký ức của một giáo sư 54 tuổi, đang giảng dạy tại một trường đại học tư ở thủ phủ miền nam này.

Một người lính bị bắn và ngã xuống đất trước nhà của bà. Một vụ nổ trên đường phố, thổi tung các bộ phận cơ thể con người và làm cho đám đông chạy tứ tán. Sau đó lệnh đầu hàng được công bố.

Chiến tranh kết thúc ngày 30 tháng 5 năm 1975, với một chiếc xe tăng Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập của miền Nam Việt Nam. Sự sụp đổ của Sài Gòn 40 năm trước đây được chính quyền miền Bắc gọi là “giải phóng” hoặc thống nhất Việt Nam.

Vị giáo sư, người viết blog về những gì mà nhà nước không muốn nghe, nói với tôi vào cuối cuộc phỏng vấn, rằng bà muốn giữ kín danh tính. Bà nói rằng bà không muốn có bất kỳ rắc rối nào đến với gia đình hay nơi làm việc của bà.

Quốc kỳ đỏ và cờ đỏ của Đảng Cộng sản Việt Nam được thấy tung bay tại rất nhiều góc đường của thành phố. Lá cờ đỏ cũng được cài theo tất cả các xe tắc xi. Tất cả biểu ngữ này đang tạo bầu không khí cho sự kiện đáng nhớ đánh dấu kỷ niệm lần thứ 40.

“Tôi chưa bao giờ giăng lá cờ đỏ tại nhà của tôi trong 40 năm qua”, vị giáo sư nói với một giọng thấp nhẹ khi tôi sửa soạn rời khỏi. “Tôi chỉ giả vờ như không để ý”.

Chắc hẳn bà phải có can đảm để không làm như thế ở đất nước này.

Dân chúng chưa đồng lòng

Mặc dù Sài Gòn đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh sau khi chiến tranh chấm dứt, tên cũ của thủ đô Nam Việt Nam vẫn còn tồn tại ở nơi cách [Sài Gòn] 13.000 cây số về phía đông.

Little Saigon, thường được biết đến như một địa hạt ở quận Cam, California, là nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất ở nước ngoài, nơi có gần 200.000 người Việt.

Nhiều biển báo trong khu vực được viết bằng tiếng Việt. Một bảng hiệu ở lối vào khu vực ghi: “Chào mừng bạn đến Little Saigon”. Lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá quốc kỳ của Nam Việt Nam, được thấy bay phất phới đây đó.

Tôi gặp một nhân viên cao cấp của một công ty của người Việt ở trung tâm khu vực. Người đàn bà 59 tuổi là em gái của vị giáo sư.

Bà cho biết bà đã chạy khỏi Sài Gòn vào ngày Sài Gòn sụp đổ và bị quân đội Mỹ bắt giữ. Cuộc sống thật khó khăn cho các thành viên của gia đình bà còn lại ở Việt Nam vì cha bà làm việc cho chính quyền miền Nam. Bà đã lần lượt mang sáu người em trai và em gái của bà, ngoại trừ vị giáo sư, đến Hoa Kỳ.

Bà làm việc cho một công ty Mỹ sau khi tốt nghiệp cao học. Bà đã đổi việc để làm việc cho người chủ hiện nay, mặc dù với điều kiện kém thuận lợi hơn, bởi vì bà muốn gắn bó với quê hương của mình.

Nhiều người Việt lưu vong có lẽ cùng chia sẻ quan điểm với hai chị em.

Người chị nói: “Họ nói thống nhất. Hệ thống chính trị đã được thống nhất, nhưng mọi người thì không – cho đến bây giờ. Lý tưởng của chủ nghĩa xã hội ở đâu? Tham nhũng và cách biệt kinh tế đang trở nên tệ hơn nhiều so với 40 năm trước đây. Chính phủ Nam Việt Nam cũng tham nhũng, nhưng ít nhất các phương tiện truyền thông có thể chỉ trích điều đó. Nhưng bây giờ không có tự do báo chí để chỉ trích nạn tham nhũng”.

Cách Little Saigon hai tiếng lái xe, cảng San Diego bên bờ Thái Bình Dương là nơi đặt hàng không mẫu hạm USS Midway. Được đóng từ thời Đệ Nhị Thế chiến và ngưng hoạt động vào năm 1992, tàu đã được chuyển đổi thành viện bảo tàng và mở cửa cho công chúng vào xem.

Máy bay chiến đấu và trực thăng quân sự được trưng bày trên boong tàu. Máy bay cùng loại cũng được trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh. Nếu các máy bay trên hàng không mẫu hạm tượng trưng cho cuộc chiến tranh mà Hoa Kỳ đã chiến đấu cho tự do, máy bay ở viện bảo tàng được trưng bày như chiến lợi phẩm của một cuộc chiến tranh mà trong đó chủ nghĩa đế quốc đã bị đánh bại.

Một người cháu của Dương M. Nguyễn, Giám đốc điều hành của công ty DS Fibertech Corp, một nhà sản xuất máy móc chuẩn xác ở San Diego, ví tàu USS Midway như chiếc “Mayflower” của gia đình.

Ông Nguyễn, 70 tuổi, từng là một phi công trực thăng quân sự của miền Nam. Ông và gia đình rời Việt Nam một ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. Gia đình ông so sánh hàng không mẫu hạm với con tàu đã đưa dân hành hương từ Anh đến Mỹ trong thế kỷ 17 bởi vì ông Nguyễn đến Hoa Kỳ sau khi tàu Midway, khi đó đang đậu ngoài khơi Sài Gòn, đã cứu ông.

Ông Nguyễn là một trong những người thành công nhất trong số khoảng 1,7 triệu người Việt sang định cư ở Hoa Kỳ. Ông bắt đầu làm việc với mức lương tối thiểu 2 USD một giờ. Hiện nay, ông có 75 nhân viên đồng hương của ông làm việc trong một công ty với doanh số 10 triệu USD hàng năm.

Nhiều người Việt Nam tha hương đã về thăm quê hương kể từ thập niên 1990, nhưng ông Nguyễn vẫn chưa lần nào đặt chân lên đất nước xuất thân của mình.

Ông nói, “Chúng tôi không muốn trở lại và chứng tỏ rằng chúng tôi là công dân Mỹ gốc Việt, là những người có đủ tiền để tận hưởng một kỳ nghỉ sang trọng trong khi có rất nhiều người Việt vẫn còn rất nghèo. Tốt hơn chúng tôi nên tiết kiệm tiền để giúp đỡ người nghèo, đặc biệt là các cựu chiến binh tàn phế ở Việt Nam”.

Vết thương cũ vẫn còn đau

Tôi đã đến thăm Văn Lê, một nhà làm phim kiêm nhà văn nổi tiếng với phim tài liệu chiến tranh của ông tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi hỏi một cựu chiến binh và cựu phóng viên Bắc Việt 66 tuổi những gì ông nhớ về ngày Sài Gòn sụp đổ.

“Trái tim tôi tràn đầy niềm vui từ ý nghĩ rằng chúng tôi không phải chiến đấu nữa, và về nỗi đau buồn thực sự là có quá nhiều người đã bị chết”, ông Lê nói thêm rằng chỉ có năm người sống sót trong số 300 người thuộc đơn vị của ông.

Nhà làm phim đã có những lời cay đắng nói về người Việt ở nước ngoài.

“Họ không tham gia vào xây dựng đất nước, và dù vậy họ nói xấu chúng tôi từ bên ngoài”, ông nói.

Không ít người có cảm xúc lẫn lộn về cuộc sống giàu có ở nước ngoài của những người chạy khỏi Việt Nam sau thất bại trong chiến tranh.

Tất cả những người tôi gặp ở Hoa Kỳ và Việt Nam đã có một quá khứ đầy ác mộng, mà chỉ có thể để cho lịch sử phán xét. Họ có những quan điểm khác nhau, nhưng họ đã chia sẻ một sự hiểu biết rằng bốn thập niên sau chiến tranh vẫn chưa mang lại hòa giải dân tộc. Chiến tranh Việt Nam cũng là một cuộc nội chiến, đã đẩy nhóm này chống lại nhóm kia trong một quốc gia với mục đích giết hại lẫn nhau.

Các bãi chiến trường đã trở thành các khu chợ, nhưng vết thương cũ vẫn còn đau. Là một sinh viên, cảm thông cho sự xung đột của người Việt Nam để giải phóng dân tộc, tôi thấy thương tiếc cho tình hình hiện nay của đất nước này.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhà lãnh đạo mà sau đó tên ông được đặt cho thành phố Sài Gòn nói.

Độc lập đã đạt được. Nhưng tự do cho công chúng vẫn còn hạn chế, và con đường đi đến dân chủ có vẻ xa vời hơn bao giờ hết.

Mỹ Hết Lý Do Giúp VNCS

Mỹ Hết Lý Do Giúp VNCS

Vietbao.com

Kiểu tráo bài ba lá của CSVN đã bị bể mánh. Kiểu đi du dây của CSVN cũng bị đứt dây. Mỹ không còn lý do gì nữa để giúp VNCS lấy lại biển đảo bị Trung Cộng chiếm cứ. Đừng nói Ngoại Trưởng Kerry người “nhiệt tình” ủng hộ Mỹ bình thường hoá bang giao và giao thương với CS Hà nội, ngay Đệ Nhứt Phu Nhân Mỹ Michelle Obama đầu ấp tay gối với TT Obama giả sử có năn nỉ, ỉ ôi TT Obama và dù Mỹ có tung hạm đội, tăng cường tàu chiến tuần tra vùng Biển Đông, chống TC lập vùng nhân dạng phòng không đi nữa — Mỹ cũng không giúp VN giành lại chủ quyền ở Biển Đông. Lý do:

Một, về tâm lý chánh trị, chánh quyền Mỹ không thể thuyết phục công luận để Mỹ giúp VNCS. Chánh quyền Mỹ là chánh quyền của dân, vì dân, do dân, do dân bầu. Mà CSVN chửi mắng Mỹ thậm tệ thì làm sao chánh quyền có thể đi ngược lại lòng dân, lấy tiền thuế của dân giúp, đưa quân nhân Mỹ giúp bảo vệ Biển Đông của CSVN là chế độ đã chửi mắng Mỹ thâm tệ gần đây.

Thực tế đã cho thấy CSVN đã theo đuôi TC một cách rõ ràng như hai với hai là bốn rồi. Bằng cớ rõ rệt nhứt là sau chuyến đi của Tổng bí thư CSVN sang Bắc Kinh, diện kiến Tâp cận Bình, thì CSVN chuyển hướng ngoại giao với Mỹ ngược 180 độ. Tiêu biểu nhứt là Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng đọc bài diễn văn 30/4 tại Saigon trong cuộc duyệt binh, chửi mắng Mỹ là “đế quốc”, là “dã man” và cám ơn CS Nga Tàu giúp CS Bắc Việt đáng cho “ Mỹ cút, Nguỵ nhào”, chửi còn bạo hơn thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước nữa.

Theo tinh lý hiến pháp, luật pháp Mỹ, Mỹ chưa bao giờ giúp quân sự cho một chế độ CS. Nhưng mấy năm nay vì vấn đề TC bành trướng lấn chiếm Biển Đông, Mỹ gia giảm có phát triễn họp tác toàn diện với VNCS, chỉ hứa bán vũ khí sát thương từng vụ cho CSVN. Bây giờ CSVN chửi mắng Mỹ như vậy, hỏi có tổng thông, ngoại trưỏng, bộ trưởng quốc phòng, đại sứ, nghị sĩ, dân biểu nào giả câm, giả điếc mở miệng đề nghị Mỹ giúp VNCS trong vấn đề biển đảo ở Biển Đông.

Hai, về hiện tình tương quan quân sự, nếu Mỹ giúp cho VNCS là nối giáo cho TC. Hiện nay hai bộ trưởng quốc phòng của CS TQ và VN tuy hai nhưng là một rồi. Ngày 15/5 vừa qua Bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh của VNCS và Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn của TC “ hồ hởi, phấn khởi” gặp nhau ở biên giới, ca ngợi hai Quân đội “quyết tâm hợp tác, đoàn kết hữu nghị, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển triển kinh tế của nhân dân ở hai nước.” Cả hai hôn hít nhau, siết chặt tay như hai người đồng tinh luyên ái, chứng tỏ hợp tác chiến lược hết súc toàn diện và thấm thía”. Tin VOA cho biết hai người còn còn trồng cây lưu niệm, chứng kiến cuộc tuần tra chung của lực lượng biên phòng hai phía, Tướng Toàn còn tặng cho Tướng Thanh một chiếc bình gốm mà báo chí của Đang Nhà Nước CSVN ca ngợi đó là “đặc trưng phong cách Trung Hoa”.

Với tình thế đó, nếu Mỹ chia xẻ tin tình báo với quân đội, cảnh sát biển, bán vũ khí kỹ thuật cao và mật cho VNCS là giao trứng cho ác, nhắm con mắt cũng biết là quân đội VNCS sẽ chia xẻ, chuyển giao bí mật cho TC.

Ba, về tình hình Biển Đông, VN không có một vai trò kinh tế, chánh trị, quân sự, ngoại giao nào thiết yếu cho Mỹ trong chiến lược chuyển trục quân sự về Á châu Thái bình dương. Vị trí địa lý vhiến thuật của VN có thể thành tiền đồn kiểm soát đường hàng hải huyết mạch từ Eo Biển Mã Lai đi lên, Cảng Cam Ranh Mỹ cần thời Chiến tranh VN bây giờ đã lỗi thời vì chiến lưọc, chiến thuật đã thay đổi, chánh yếu là dùng không lực và hải lực của hàng không mẫu hạm, Mỹ có cả thảy 11 chiếc và dự trù chuyển 60% về đây.

Về kinh tế, VNCS cần thị trường Mỹ, chớ Mỹ không cần VN làm nơi bỏ vốn đầu tư. Trong khi VNCS qua lệ thuộc kinh tế của TC. VNCS không thể thoát Trung về kinh tế. Bất chấp cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, kim ngạch thương mại Việt-Trung tăng 17% hồi năm ngoái, lên tới 58,77 tỉ đôla, theo các dữ liệu của nhà nước Việt Nam. Nhưng mức thâm hụt mậu dịch của Việt Nam với Trung Quốc gia tăng lên tới gần 29 tỉ trong năm 2014, so với năm trước đó chỉ có 23,7 tỉ đôla.

Bốn, Mỹ ngăn cản TC ở Biển Đông của VN, hoàn toàn không phải vì VN. Mỹ chuyển trục quân sự về Á châu Thái bình dương và ngăn chận TC chiếm cứ Biển Đông vì quyền lợi tự do hàng hải trước tiên là của Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nhựt, Nam Hàn, chớ không phải vì muốn giúp cho VN tái chiếm lại biển đảo. Có thế thấy trong suốt 7 ngày USS Fort Worth, tàu chiến cận duyên lớp Freedom của Mỹ tiến vào gần khu vực quần đảo Trường Sa mà TC đang xây cất các công trình, Mỹ cũng tự chế không đi sâu vào bên trong hải phận quá 12 hải lý của các đảo và bải đá mà TC đang chiếm. USS Fort Worth cũng thông báo qua radio để nhắc nhở phía Trung Quốc rằng chiến hạm Mỹ đang hoạt động trong vùng biển quốc tế. TC cũng vậy, tàu Yancheng Type 054A của TC theo dõi chặt chẽ nhưng không có hành dộng cản trở nào. Tin mới đây hai bên tàu của Mỹ và TC đều biết và tỏ ra tuân thủ hiệp ước của Mỹ và TC đã ký để tránh đối đầu trong những tao ngô, bất trắc.

Và quan trọng nhưt là Mỹ lúc nào cũng tuyên bố không đứng phía bên nào trong các tranh chấp, chỉ khuyên dùng biện pháp ngoại giao và luật biển như chính Mỹ cũng không có ký gia nhập luật biển, thử hỏi khuyên ai.

Trong khi Á châu Thái bình dương căng thẳng vì TC xây Vạn lý Trướng Thanh Bắng cát ở Biển Đông, và toan lập vùng nhân dang phong không trên không phận vùng này, Ngoại Trưởng Mỹ Kerry đi Bắc Kinh gặp Chủ Tịch Tâp cận Bình, hai bên không có một lời nào về Biển Đông. Quyền lợi của Mỹ và TC vạn lần lớn hơn đối với Biển Đông, hai siêu cường nương nhau làm bá chủ trong vùng, có lợi hơn để đụng chạm vì một vấn đề nhỏ.

Năm và sau cung, CSVN ắt phải đi với TC. Ắt phải đi với TC vì con đường CSVN đi không phải do CSVN chọn, mà do Đảng CS Trung Quốc sấp sếp, vạch ra, dàn dựng. CSVN về ý thức hệ như đệ tử đối với quan thầy TC, về tổ chức chánh quyền như thần tử đối với long nhan là Hán Triều. Hai đảng, nhà nước CS tách người dân Việt qua một bên, nhà cầm quyền hoàn toàn của đảng, vì đảng, do đảng. Người dân hoàn toàn không có tiếng nói trong thương lượng và đảng nhà nước không cần mất thì giờ giải trình một thoả ước quốc gia đại sư như thế cho quốc dân.

Khi Tổng bí Thư Đảng CSVN đi triều kiến TC, cùng đi theo gần hết những người nắm quyền bính của Đảng Nhà Nước CSVN. Trọng đi với 1/3 thành viên của Bộ Chánh trị gồm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh; Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Trần Quốc Vượng; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh; Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân.

Mỹ hoàn toàn hết lý do giúp VNCS dù TT Obama quen thuật hùng biện nói đạo lý nghe cho êm tai, là chống kẻ mạnh TC hiếp VN yếu. Nhưng bây giờ kẻ yếu ấy đã theo phe mạnh là TC và chửi mắng Mỹ công khai, trịch thượng, thì dù có uống cả kí lô thuốc liều, TT Obama, Quốc Hội Mỹ cũng thể liều mạng chánh trị giúp cho một chế độ CS chửi mắng Mỹ thậm tệ hơn thời Chiến tranh VN nữa./.

(Vi Anh)

Nhà nước khủng bố

Nhà nước khủng bố

Nguyễn Hưng Quốc

Ở Việt Nam, từ mấy năm nay, dư luận thường xôn xao trước hiện tượng công an bắt người trái phép, mang vào đồn và đánh đập đến chết. Thi thể được mang vào bệnh viện xét nghiệm, người ta thấy người thì giập phổi, người thì toàn bộ nội tạng đều bị nát nhừ. Có trường hợp công an thừa nhận dùng nhục hình để tra tấn; có trường hợp chúng chối phăng, cho là nạn nhân hoặc tự tử hoặc bị bệnh từ trước hoặc lén lút dùng ma tuý quá liều.

Tổ chức Human Rights Watch ghi nhận được 31 trường hợp bị đánh chết trong các trại tạm giam của công an trong bốn năm (2011-2014). Con số này chắc chắn không đầy đủ. Theo một báo cáo của Bộ Công an mới đây, trong khoảng bốn năm, từ ngày 1/10/2011 đến 30/9/2014, tổng cộng có 226 người bị chết trong các nhà tạm giam vì nhiều lý do khác nhau, trong đó, có lý do là nhục hình. Điều cần lưu ý là công an chỉ thừa nhận việc dùng nhục hình khi không thể chối cãi được nữa nên những lý do vớ vẩn họ đưa ra như tự tử hay bị bệnh đều có thể không đúng sự thật.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý không phải chỉ việc công an tra tấn nhiều người đến chết mà còn một khía cạnh khác không kém quan trọng: khi việc tra tấn bị phanh phui, không thể giấu nhẹm được nữa, phải mang ra toà xét xử, các bản án dành cho công an phạm tội tra tấn dẫn đến cái chết của những người dân vô tội đều rất nhẹ, người thì được tha bổng, người thì bị tù treo, chỉ hoạ hoằn mới có một số công an bị tù giam, nhưng ngay trong trường hợp ấy, án tù cũng chỉ vài ba năm, nói theo luật sư Võ An Đôn, hoàn toàn không có tác dụng răn đe để công an đừng tái phạm.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao công an lại càng ngày lại càng tra tấn người dân một cách dã man như vậy? và tại sao các bản án dành cho các công an tra tấn dân chúng đến chết lại nhẹ nhàng đến như vậy? Trả lời câu hỏi trên, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ không hề đưa ra chủ trương và hình thức kỷ luật nào để hạn chế các hành động tra tấn đến chết. Trả lời câu hỏi dưới, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ cũng không hề muốn trừng phạt những công an phạm tội dùng nhục hình để bức cung. Hai câu trả lời ấy lại dẫn đến một sự thật khác: Chính phủ muốn dùng sự khủng bố để đe doạ mọi người.

Khủng bố là hành vi bạo động nhằm gây hoang mang, lo lắng và sợ hãi trong dân chúng. Về phạm vi, có hai hình thức khủng bố chính: Khủng bố thuộc tổ chức (organization terrorism) và khủng bố thuộc nhà nước (state terrorism).

Tiêu biểu nhất cho loại khủng bố thuộc tổ chức gần đây là sự khủng bố của các nhóm Hồi giáo cực đoan: Họ sống rải rác trên nhiều quốc gia khác nhau nhưng có chung một nỗi hận thù đối với văn hoá và văn minh Tây phương, chung một tham vọng muốn phát triển nhà nước Hồi giáo khắp nơi trên thế giới và chung một biện pháp: sử dụng bạo lực để giết càng nhiều người càng tốt, gây tiếng vang càng lớn càng tốt và càng làm cho càng nhiều người khiếp hãi càng tốt.

Khủng bố thuộc nhà nước thì có hai mức độ: Một, ủng hộ và tài trợ cho các tổ chức khủng bố để chúng gieo rắc tội ác ở những nơi khác và hai, bản thân nhà nước đóng vai trò khủng bố đối với dân chúng trong chính nước của họ. Thuộc loại trên, Tổng thống Mỹ George W. Bush, vào năm 2002, cho có ba quốc gia chính được gọi là “trục ma quỷ” (Axis of evil), bao gồm Iraq, Iran và Bắc Triều Tiên. Thuộc loại dưới, tất cả các quốc gia độc tài, với những mức độ khác nhau, đều là những nhà nước khủng bố: Họ sử dụng bạo lực để làm dân chúng sợ hãi, từ đó, triệt tiêu mọi ý định phản kháng, hoặc thậm chí, phản biện.

Trong ý nghĩa đó, không còn hoài nghi gì nữa, nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước khủng bố.

Thật ra, tính chất khủng bố ấy đã xuất hiện ngay từ khi nhà nước Việt Nam (cộng sản) vừa mới ra đời. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, họ đã có chính sách tiêu diệt những người đối lập và đối kháng, qua đó, gây khiếp hãi trong quần chúng để không ai dám chống lại họ nữa. Chính sách này càng trở thành phổ biến trong cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1954-75. Chính sách gọi là “trừ gian diệt bạo” thực chất là một sự khủng bố. Theo Anthony James Joes, trong cuốn “The War for South Vietnam 1954-75” (New York: Fraeger, 1989, tr. 46), trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, Việt Cộng đã giết khoảng 20% các cán bộ làng xã ở miền Nam. Chỉ trong năm 1960, họ giết khoảng 1.400 công chức và thường dân; năm 1965, con số bị họ giết lên đến 25.000 người. Theo Walter Laqueur, trong cuốn “Guerrilla, a Historical and Critical Study” (London: Weidenfeld and Nicolson, 1977, tr, 262-271), những sự khủng bố của chính quyền miền Bắc có quy mô và mức độ tàn độc hơn cả Trung cộng trong cuộc chiến chống lại Tưởng Giới Thạch trong thập niên 1940.

Đó là thời chiến tranh. Tại sao bây giờ, thời bình, chính quyền lại tiếp tục sử dụng các biện pháp khủng bố như vậy đối với dân chúng?

Câu trả lời, theo tôi, là vì họ sợ.

Chính quyền Việt Nam hiện nay thừa biết dân chúng không còn tin họ, không còn phục họ, và sẵn sàng đứng dậy chống lại họ khi quyền lợi của người dân bị xâm phạm. Bởi vậy, chính quyền quay mặt làm ngơ, nếu không muốn nói là âm thầm khuyến khích, việc công an dùng nhục hình đối với dân chúng. Chính quyền không hề có ý định răn đe công an. Chính quyền chỉ muốn răn đe dân chúng: Chống lại chính quyền thì chỉ có chết!

Bất cứ chế độc tài nào cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng: tuyên truyền và khủng bố. Công việc tuyên truyền của chính quyền Việt Nam gần đây rõ ràng là đã thất bại: Họ không còn thuyết phục được dân chúng về tính chính nghĩa của họ, đặc biệt trước hai vấn nạn: dân chủ và chủ quyền (đặc biệt ở Biển Đông). Thất bại về tuyên truyền, họ chỉ còn cách duy nhất là gia tăng mức độ khủng bố.

Mục tiêu của khủng bố là làm cho dân chúng sợ. Nhưng động cơ thực sự của sự khủng bố là sợ dân chúng nổi dậy chống lại chính quyền.

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người” (Bài 2)

II – Giáo Dục Giải Phóng Con Người : Nội dung & Ảnh hưởng

Đoàn Thanh Liêm

Trước khi đề cập đến nội dung của chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” của Paulo Freire, người viết xin được kể sơ lược về cái duyên hạnh ngộ với nhà tư tưởng nổi danh này, xuất thân từ xứ Brazil là quốc gia đông dân nhất của Châu Mỹ La Tinh. Đó là vào cuối năm 1970, trong dịp tham dự một hội nghị quốc tế tại Paris, nhằm thành lập Institut Oecuménique au service du Développement des Peuples ( INODEP = Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc), tôi đã được gặp đích thân Paulo Freire là một thuyết trình viên chính của Hội nghị, mà ông cũng còn được bàu là vị chủ tịch của INODEP nữa. Người tầm thước với bộ râu tóc dài đã điểm muối tiêu của người đã bước vào tuổi ngũ tuần, Paulo Freire có lối nói thật say mê sôi nổi, lôi cuốn như là một thi sĩ, mà lại diễn giải quan điểm lý luận của mình với niềm xác tín sâu sắc của một triết gia. Cử tọa gồm nhiều nhân vật đại diện từ khắp năm châu đều chăm chú theo dõi bài nói chuyện quan trọng, mà đày nhiệt tình của ông. Rồi qua năm 1972, lúc tôi đến Geneva để trao đổi gặp gỡ với một số vị tại văn phòng trung ương của Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới (WCC World Council of Churches), thì tôi cũng gặp lại Paulo Freire đang phụ trách về vấn đề giáo dục của tổ chức này.

Mùa hè năm 1971, vào dịp đến tham dự một cuộc hội thảo khác nữa tại Mindanao Philippines, thì tôi thấy sinh viên ở đây chuyền tay bán cho nhau cuốn sách “The Pedagogy of the Oppressed”, ấn bản địa phương đơn giản, chỉ có ruột sách, chứ không có bìa riêng theo kiểu tự làm lấy, cho nên giá rất rẻ, có 2 US$ một cuốn thôi. Và dĩ nhiên là tôi cũng đã mua vài cuốn để đem về cho các bạn ở Việt nam. Chuyện nhỏ này lại càng khiến tôi chăm chú theo dõi tư tưởng và đường lối giáo dục của Paulo Freire suốt từ hồi năm 1970 cho đến nay.

A – Nét chính yếu của tư tưởng và hành động của Paulo Freire.

Có thể nói Paulo Freire luôn nhất quán về cả phần lý thuyết, cũng như thực hành trong đường lối Giáo dục, nhằm giúp khối quần chúng bị áp bức tìm ra cho mình một phương cách cụ thể, hữu hiệu để tự giải thóat khỏi thân phận của người bị áp bức, bị tha hóa do các điều kiện khách quan của môi trường xã hội, cũng như chủ quan nội tại của bản thân mình. Quan điểm của ông có tính chất triệt để, dứt khóat là : Xã hội đương thời ở châu Mỹ La tinh, cũng như ở nhiều nơi khác đều do bao nhiêu bất công, áp bức bóc lột tạo ra nỗi lầm than cơ cực triền miên cho đa số quần chúng nhân dân. Và không khi nào mà giới thống trị lại chịu tự nguyện đứng ra chủ động việc cải thiện các định chế xã hội vốn bảo vệ các đặc quyền đăc lợi cho riêng họ.

Như vậy, chỉ khi nào chính cái đại khối quần chúng là nạn nhân của sự áp bức thống trị tệ hại đó, mà nhất quyết dấn thân vào công cuộc giải phóng kiên trì để tự cứu thóat lấy mình, thì xã hội mới có cơ may được xây dựng tốt đẹp, và con người mới phục hồi được nhân phẩm cao quý cho từng cá nhân được. Nói khác đi, chỉ khi nào chính quần chúng nhân dân mà được thức tỉnh giác ngộ về vai trò làm chủ nhân đích thực của xã hội, và cùng đồng lòng lăn xả vào cuộc tranh đấu giải phóng đó, thì họ mới có được một tương lai tươi sáng viên mãn, như từng mơ ước từ bao nhiêu thế hệ xưa nay.

Với niềm xác tín như thế, Paulo Freire đã nhập cuộc với xã hội quê hương mình, bằng cách phát triển phương thức giáo dục tráng niên, thúc bách cho các học viên cần phải có sự suy nghĩ với thái độ phê phán (critical thinking = conscientization) về hiện trạng xã hội, mà họ là nạn nhân của bao nhiêu áp bức bất công. Và rồi từ đó, chính họ sẽ ra tay hành động, nhằm biến đổi xã hội hủ lậu đó đi (transformative action). Do lối suy nghĩ và hành động cụ thể, cấp tiến như vây, mà ông đã bị phe quân nhân cầm quyền ở Brazil bắt giữ, rồi trục xuất đi ra khỏi nước vào năm 1964.

Trong thời gian sống lưu vong, ông có dịp đúc kết các suy nghĩ và hoạt động của mình, để rồi trình bày trong 2 cuốn sách xuất bản hồi cuối thập niên 1960, và được nhiều người đánh giá rất cao. Đó là cuốn sách đầu tiên có nhan đề  “ Education, the Practice of Freedom”, và đặc biệt là cuốn “The Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ phân tích chi tiết rành mạch hơn về tác phẩm quan trọng này trong một đoạn sau. Và ông đã kiên trì tiếp tục tìm kiếm trong suốt cuộc đời còn lại, nhất là kể từ ngày được trở về lại quê hương vào năm 1980, để khai triển cho thêm phong phú hơn nữa cái chủ trương giáo dục có tính cách khai phóng và nhân bản cao độ này.

Tác giả Henry A Giroux nhận định về Freire rằng : “ Thực ra, ông là người đã kết hợp được điều mà tôi gọi là cả hai thứ ngôn ngữ phê phán với thứ ngôn ngữ khả thể” (In effect, Freire has combined what I call the language of critique with the language of possibility).

B – Giới thiệu tác phẩm “ Giáo dục của Người bị Áp bức”.

Trong cuốn sách 160 trang ngắn gọn, xúc tích với chỉ có 4 chương này, Paulo đã phân tích khá rành mạch, dứt khoát về chủ trương kiên quyết không thỏa hiệp với nền thống trị đàn áp, vẫn ngự trị lâu đời trong xã hội đương thời, đặc biệt là tại châu Mỹ La tinh là quê hương bản quán của ông. Và sau khi cuốn sách ấn bản tiếng Anh ra đời vào năm 1970, tác giả lại còn có nhiều dịp trao đổi với các thức giả khắp thế giới, và từ đó ông đã hoàn chỉnh hơn quan điểm và lý luận của mình, như được trình bày trong nhiều cuốn sách và bài báo xuất bản vào thập niên 1980-1990 nữa. Ta có thể tóm gọn tư tưởng của ông trong mấy khía cạnh chính yếu sau đây :

1 / Giáo dục đại chúng cốt yếu là một cuộc đối thoại giữa” người dậy” và “người đi học” ( a dialogue between the educator and the learner), trong đó phải có sự tương kính lẫn nhau giữa hai phía (mutual respect). Paulo Freire đặc biệt phê phán cái lối dậy học “nhồi nhét”, mà ông gọi là “banking concept”, tức là chỉ có người dậy chủ động chuyển mớ kiến thức vào đầu óc của học viên, y hệt như việc ký gửi các số tiền vào nơi chương mục tại ngân hàng (making deposits). Như vậy, thì người học viên hoàn toàn đóng vai trò “thụ động” của một đối tượng, chứ không hề được khuyến khích để chủ động phát huy óc sáng tạo và sự suy nghĩ có tính cách phê phán (critical thinking), để mà có thể tự mình khám phá ra hoàn cảnh bị áp bức của mình và rồi đưa đến một hành động thích đáng.

Thay vào đó, tác giả đề ra cái khái niệm “Giáo dục đặt vấn đề” (problem-posing concept of Education), trong đó cả hai phía người dậy và người học đều cùng hợp tác với nhau trong một quá trình hỗ tương (a mutual process), nhằm cùng nhau khám phá thế giới, và chung với nhau cố gắng vươn tới một mức độ nhân bản viên mãn hơn (their attempt to be more fully human).

2 / Cuộc đối thoại này không phải chỉ nhằm đào sâu sự hiểu biết, mà còn là một phần làm thay đổi nơi thế giới. Tự bản thân, sự đối thoại là một loại hoạt động có tính hợp tác bao gồm sự tôn kính (a co-operative activity involving respect). Quá trình này quan trọng, vì nó giúp tăng thêm sức mạnh cho cộng đồng và đồng thời lại xây dựng nên nguồn vốn xã hội  (enhancing community and building social capital), mà lại đưa dẫn chúng ta đến hành động cho công lý và phát triển nở rộ về phương diện nhân bản (human flourishing) nữa.

Cơ sở cụ thể cho hệ thống giáo dục căn cứ vào sự đối thoại này chính là nơi các“câu lạc bộ văn hóa” (culture circle), trong đó các học viên và người phối trí hợp cùng nhau bàn thảo về những” chủ đề khởi sinh” (generative themes), mà có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc sống thực tiễn của người học viên. Các chủ đề này liên hệ tới thiên nhiên, văn hóa, công việc làm và các tương quan xã hội, thì đều được khám phá ra qua sự tìm kiếm chung nhau giữa nhà giáo dục với học viên. Rồi các chủ đề đó được sử dụng làm căn bản cho cuộc đối thoại trong phạm vi sinh họat nội bộ của câu lạc bộ. Từ đó, mà dần dần diễn ra quá trình cấu tạo được ý thức phê phán (critical consciousness) nơi các học viên tham gia, với tư cách là chủ thể của xã hội, mà chính họ đang cùng nhau ra sức xây dựng với quyết tâm của cả tập thể của mình.

3 / Tính chất độc đáo trong tư tưởng của Paulo Freire chính là việc ông đã khôn khéo tổng hợp đến độ nhuần nhuyễn được kinh nghiệm của những nhà tư tưởng tiền bối, và đem áp dụng vào đường lối giáo dục của ông. Điển hình là phép biện chứng của triết gia Hegel giữa “ông chủ và đày tớ”, thì đã được Freire áp dụng trong lối “giải thóat khỏi các hình thức độc đóan trong giáo dục”(liberation from authoritarian forms of education). Chủ thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre và của Martin Buber, triết gia Do Thái đã giúp Freire đưa ra khái niệm về “ sự tự biến đổi của người bị áp bức để tiến vào trong lãnh vực của tình trạng liên chủ thể tiến bộ” (the self-transformation of the oppressed into a space of radical intersubjectivity). Kể cả thuyết duy vật lịch sử của Karl Marx cũng ảnh hưởng tới quan niệm của Freire về lịch sử tính của các mối quan hệ xã hội (historicity of social relations).

Và chủ trương “Thần học giải phóng” cũng ảnh hưởng rõ rệt đến quan điểm của Freire, khi ông cho là “Tình yêu thương là điều kiện thiết yếu cho một nền giáo dục đích thực”. Rồi quan điểm cách mạng chống đế quốc của Ernest Che Guevara và Frantz Fanon, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Les Damnés de la Terre”, cũng ảnh hưởng đến sự phân tích của Freire về tình trạng trầm đọng (sedimentation) của tư tưởng của giới áp bức thống trị, mà vẫn còn hằn sâu nơi não trạng của chính bản thân lớp người nạn nhân bị áp bức. Và rồi từ đó, ông đã dấn thân hết mình vào công cuộc tranh đấu chống lại chế độ thực dân đế quốc ở khắp mọi nơi.

C – Ảnh hưởng của tư tưởng Paulo Freire trên thế giới.

Có thể nói Paulo Freire là mẫu “con người tri hành hợp nhất” theo lối nói của Vương Dương Minh là nhà tư tưởng nổi danh của Trung quốc ngày xưa. Ông không chỉ đơn thuần là một lý thuyết gia, mà còn là một con người dấn thân hoạt động hết mình cho lý tưởng giải phóng con người. Chủ trương Giáo dục của ông tuy rất cương quyết dứt khoát, triệt để tiến bộ, nhưng đày tính nhân bản ôn hòa, khác hẳn với khuynh hướng quá khích, bạo hành của lớp người cộng sản Marxist tại châu Mỹ La tinh, cụ thể như Che Guevara, Fidel Castro. Vì thế mà đại bộ phận quần chúng nhân dân tại khu vực quê hương ông, vốn theo Thiên chúa giáo, thì đã tiếp nhận tư tưởng của Freire một cách nồng nhiệt, phấn khởi.

Tại Phi châu cũng vậy, trong nhiều dịp đến làm việc tại châu lục này, nhất là tại mấy nước trước đây cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha, như Angola, Mozambique, Guinea Bissau, Paulo Freire đã được đón tiếp một cách rất thân tình trân trọng, bởi lẽ ông cùng chia sẻ cái thân phận của người dân đã từng phải sống dưới sự thống trị hà khắc của các chánh quyền thực dân đế quốc trước kia, cũng như của các chế độ độc tài bản xứ trong giai đoạn độc lập tự chủ hiện nay.

Tại Á châu, ông cũng được đón tiếp tại nhiều nơi như Ấn độ, Papua New Guinea, và có nhiều dịp trao đổi với các giới chức hoạt động trong lãnh vực giáo dục, cũng như hoạt động cộng đồng.

Đã có nhiều quốc gia thiết lập các Viện Nghiên cứu Paulo Freire (Paulo Freire Institute = PFI) nhằm cổ võ và quảng bá tư tưởng của ông về lãnh vực cải cách giáo dục tráng niên, cũng như thúc đảy công cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội trên phạm vi toàn cầu. Điển hình như PFI tại Nam Phi, tại Tây Ban Nha, tại Phần Lan, tại đảo quốc Malta, và dĩ nhiên tại Brazil là quê hương của ông.

Riêng tại Mỹ, thì có FPI đặt tại đại học UCLA ở thành phố Los Angeles California. Viện nghiên cứu này được thiết lập năm 2002 và rất hoạt động với việc xây dựng những mạng lưới liên kết giới học giả, nhà giáo,  nhà họat động xã hội, nghệ sĩ và các thành viên của cộng đồng. Thông qua các cuộc gặp gỡ trao đổi thường xuyên, tất cả các thành viên và các thân hữu của Viện FPI đều dồn nỗ lực vào việc xây dựng công bằng xã hội, và sử dụng giáo dục như là một phương tiện để tạo sức mạnh cho khối quần chúng bị áp bức, bị khuất phục tại khắp nơi trên trái đất.

Ngòai ra, cũng còn phải kể đến các Diễn Đàn Paulo Freire ( bi-annual PF Forums) được tổ chức mỗi năm 2 lần, nhằm mở rộng và nâng cao sự nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm của những thức giả vốn theo đuổi đường lối giáo dục tiến bộ do Paulo Freire đã dày công khai phá từ trên nửa thế kỷ nay.

D – Thay lời kết luận.

Có thể nói Paulo Freire là một con người tòan diện, vừa có trình độ suy tư lý luận rất thâm hậu, mà cũng vừa là con người dấn thân họat động suốt đời, không bao giờ mệt mỏi. Ông được quần chúng mến phục, không những do các tác phẩm sâu sắc về triết lý giáo dục, về phương pháp vận động khích lệ cho tầng lớp người bị áp bức bóc lột, mà còn vì cái nhân cách sáng ngời, cái tinh thần khiêm cung hòa ái, và nhất là vì tấm lòng tha thiết yêu mến tột cùng đối với nhân quần xã hội nữa.

Quả thật, Paulo Freire là một tiêu biểu rất xứng đáng, là niềm tự hào cho tầng lớp sĩ phu trí thức của xứ Brazil, cũng như của tòan thể châu Mỹ La tinh vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010

Đoàn Thanh Liêm

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

Paulo Freire và chủ trương “Giáo Dục Giải phóng Con người”

( Paulo Freire : 1921 – 1997)

Paulo Freire sinh năm 1921 tại Brazil. Ông học Luật và Triết học, nhưng lại dấn thân vào công cuộc giáo dục đặc biệt cho giới tráng niên, nhằm gây ý thức cho đại chúng phải mạnh dạn tự giải thoát  mình ra khỏi tình trạng áp bức nặng nề, tàn bạo của xã hội đương thời. Vì có tư tưởng và hành động cấp tiến như vậy, nên ông bị giới quân nhân cầm quyền bắt buộc phải sống lưu vong ở nước ngoài, từ năm 1964, mãi cho đến năm 1980, ông mới có thể trở về quê hương mình được.

Tại nước Chi lê, ông đã làm việc cho tổ chức văn hóa Unesco của Liên Hiệp Quốc, và Viện Cải cách Ruộng đất của chánh phủ Chi lê. Ông còn được mời tới làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu về Phát triển và Biến đổi xã hôi thuộc đại học Harvard ở Mỹ (Center for Studies in Development and Social Change). Rồi sau này làm giám đốc chương trình giáo dục của Hội đồng Tôn giáo thế giới (World Council of Churches) tại Geneva, Thụy sĩ.

Năm 1970, ấn bản tiếng Anh “The Pedagogy of the Oppressed” (Giáo dục của Người bị Áp bức) của Paulo Freire đã gây một tiếng vang lớn trong giới giáo dục và hoạt động xã hôi khắp thế giới. Sau trên 40 năm, thì đã có hàng triệu cuốn được phổ biến rộng rãi qua nhiều lần tái bản, và hàng mấy chục bản dịch ra các thứ tiếng khác nữa. Ông là người đã cổ võ cho ý niệm “ Conscientizacao’ nguyên văn tiếng Bồ đào nha, mà bây giờ đã trở thành thông dụng khắp thế giới với tiếng Anh là “Conscientisation” (= Consciousness Raising, Critical Conciousness). Ta có thể diễn tả ý niệm này là :  Sự thức tỉnh Ý thức và Suy nghĩ có tính cách phê phán.

Quả thật, chủ trương giáo dục có tính chất cách mạng triệt để của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào giáo dục và xã hội cùng khắp thế giới. Và tư tưởng triết học của ông cũng ảnh hưởng đến nhiều ngành học thuật như thần học, xã hội học, nhân chủng học, sư phạm, ngữ học thực hành và nghiên cứu văn hóa (applied linguistics & cultural studies).

Có thể nói : Paulo Freire là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất về bộ môn giáo dục vào cuối thế kỷ XX ( the most influential thinker about education).

Bài viết này nhằm giới thiệu tư tưởng độc đáo và dứt khoát của ông. Đồng thời cũng lược qua về ảnh hưởng của tư tưởng này trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại các quốc gia vốn xưa kia là thuộc địa của thực dân Tây phương ở Châu Mỹ La tinh, Châu Phi và Châu Á. Để bạn đọc có thể dễ dàng theo dõi quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Paulo Freire, là một nhân vật tiêu biểu của trào lưu thức tỉnh và vận động xã hội tại Châu Mỹ La tinh là quê hương của ông, người viết xin được dàn trải việc trình bày trong 2 bài như sau :

Bài 1 / – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh vào cuối thế kỷ XX.

Bài 2 / – Cốt lõi chủ trương “Giáo dục giải phóng” & Ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.

I – Bối cảnh văn hóa xã hội của Châu Mỹ La tinh.

Châu Mỹ La tinh (Latin America) là khu vực nằm ở phía nam của nước Mỹ, mà xưa kia hầu hết đều là các lãnh thổ nằm dưới sự cai trị của hai nước Tây ban nha và Bồ đào nha. Hiện nay khu vực này có chừng 30 nước với tổng số dân là trên 560 triệu. Chỉ có Brazil với dân số trên 190 triệu là nói tiếng Bồ đào nha. Còn lại, thì tất cả đều nói tiếng Tây ban nha. Trừ một số rất nhỏ xưa kia là thuộc địa của Pháp, Anh, Hòa lan, thì vẫn còn nói tiếng như tại “mẫu quốc” cũ của họ.

Có tới 70% dân chúng trong khu vực theo đạo Thiên chúa giáo La mã (Roman Catholic). Và chừng 15% theo đạo Tin lành.

A – Tình trạng bất ổn trong thời kỳ chiến tranh lạnh.

Kể từ thập niên 1960 trở đi, khu vực này đã trải qua nhiều biến động về chính trị kinh tế, cũng như về mặt văn hóa xã hội thật sôi động, nhiều khi đưa đến những tranh chấp tàn bạo đẫm máu, do các chế độ độc tài thiên hữu, quân phiệt hay thiên tả gây ra. Nhiều cuộc đảo chính đã liên tục xảy ra, khiến cho xã hội luôn bất ổn định, và chế độ độc tài quân phiệt dễ có cơ hội được củng cố, và người dân bị dồn vào thế bị động, không thể hợp nhau góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển quốc gia được.

Lại nữa, vào giữa thời chiến tranh lạnh, nên phía Liên Xô đã tìm nhiều cách để gây ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản tại đây; điển hình là tại Cuba từ khi Fidel lên nắm chánh quyền năm 1959 và đã ngả hẳn về phía Liên Xô. Chúng ta hẳn đều còn nhớ việc Liên Xô cho đem thiết trí lọai hỏa tiễn tại Cuba nhằm hướng vào nước Mỹ, khiến xúyt gây nên cảnh chiến tranh giữa hai siêu cường Nga-Mỹ vào năm 1962, trước sự đối đầu nẩy lửa của hai lãnh tụ Kruschev và Kennedy.

Mà phía Mỹ, thì cũng tìm mọi cách can thiệp nhiều khi rất nặng tay tàn bạo, để bảo vệ toàn thể khu vực được gọi là“cái sân sau” (backyard) của riêng nước Mỹ; điển hình như có bàn tay của CIA trong việc lật đổ chế độ thiên tả của Tổng thống Salvador Allende tại Chi lê năm 1973. Rồi sau này vào thập niên 1980, thì phe Sandinista khuynh tả đã lên nắm được chánh quyền ở Nicaragua, với sự trợ giúp đắc lực của Cuba cộng sản cũng như của Liên Xô. Và chánh quyền Mỹ dười thời Tổng thống Reagan đã ra tay can thiệp mạnh bạo, để giúp phe đối lập Contras lập lại thế cờ tại đây. Đại khái đó là vài nét đại cương về ảnh hưởng của chiến tranh lạnh tại khu vực Châu Mỹ La tinh, từ hồi thập niên 1960 cho đến khi khối Liên Xô bị tan rã kể từ 1990.

B –  Sự nhập cuộc của Giáo hội công giáo La mã.

Về phía Thiên chúa giáo, thì do ảnh hưởng của tinh thần đổi mới của Công đồng Vatican 2, trong giới tu sĩ và giáo dân tại khu vực đã có sự chuyển biến rất mạnh mẽ trong sự nhận thức, cũng như trong hành động của Giáo hội công giáo. Điển hình như trường hợp của Tổng giám mục Helder Camara của Brazil; ông là người rát năng động trong việc phục vụ và tranh đấu cho khối đa số nghèo túng, đến nỗi bị chụp mủ là “vị giám mục đỏ” (the red bishop). Ông nói chua chát như sau : “Khi tôi cho người nghèo ăn, thì người ta gọi tôi là một ông thánh. Khi tôi hỏi tại sao người nghèo lại không có thực phẩm, thì người ta gọi tôi là một người cộng sản!” Giám mục Camara và cầu thủ Pele’ là hai người xứ Brazil mà được biết đến nhiều nhất trên thế giới.

Lại có trường hợp vị Giám mục cấp tiến Oscar Romero ở nước El Salvador, ông còn bị chánh quyền cho dùng tay chân ám sát, ngay giữa lúc ông  đang cử hành thánh lễ an táng cho bà mẹ của một người bạn vào năm 1980. Và đã có đến 250,000 người đến tham dự lễ an táng của vị mục tử kiên cường này, mà họ coi như là một vị thánh tử đạo (Martyr).

Cũng tại El Salvador, vào cuối năm 1980 đã xảy ra việc sát hại 4 nữ tu người Mỹ, do bàn tay của nhân viên công lực nhà nước. Sự kiện này đã gây sự phẫn nộ tột cùng của báo chí và công luận nước Mỹ, đến độ tạo thành áp lực buộc chánh phủ Mỹ phải có biện pháp răn đe mạnh mẽ đối với chánh quyền tàn bạo của El Salvador.

Cũng phải kể thêm về trường hợp của vị linh mục Camilo Torres ở nước Colombia, ông là một tu sĩ cấp tiến, được đào tạo tại đại học công giáo nổi tiếng Louvain bên nước Belgium ở Âu châu. Vì áp lực nặng nề từ phía chánh quyền Colombia, ông phải thóat ly theo hẳn phe du kích chống chánh phủ, và đã bị hạ sát vào năm 1966 trong một cuộc đụng độ với quân đội. Tên tuổi của Camilo Torres, cũng như của Che Guerava bị hạ sát năm 1967 tại Bolivia, thì đã trở thành một huyền thoại lôi cuốn giới trẻ trong toàn thể khu vực Châu Mỹ La tinh từ trên 40 năm nay.

Nhân tiện, cũng cần phải ghi lại cái thủ đọan cực kỳ độc ác là “làm mất tích” (disappearance), bằng cách thủ tiêu những người chống đối, mà cơ quan an ninh tại nhiều nước trong khu vực sử dụng, để đàn áp phong trào tranh đấu cho dân chủ tự do tại các nước này. Điển hình là tổ chức Các Bà Mẹ có con bị mất tích ở Argentina, đã liên tục trong nhiều năm tháng đến tụ hợp với nhau tại một quảng trường Plaza de Mayo trong thành phố thủ đô, để đòi hỏi chánh quyền phải cho công bố về các vụ mất tích này. Các tổ chức tranh đấu bảo vệ nhân quyền quốc tế như Hội Ân xá Quốc tế (Amnesty International) cũng đã thâu thập được khá nhiều chứng từ về các trường hợp “ người bị mất tích” (disappeared persons) tại nhiều quốc gia trong vùng, mà có nơi con số này lên tới nhiều ngàn người. Rõ ràng chế độ độc tài nào dù theo phe tả như cộng sản, hay theo phe hữu như chế độ quân phiệt, thì cũng đều tàn bạo độc ác như thế cả.

C – Nền Thần học Giải phóng.

Châu Mỹ La tinh này lại còn là nơi phát sinh một trào lưu tư tưởng đặc biệt sôi nổi sinh động, đó là nền “Thần học giải phóng”          ( Liberation Theology). Đó là cả một phong trào của các giáo sĩ và giáo dân phản ứng không khoan nhượng trước thực trạng xã hội đày rẫy bất công áp bức, bóc lột trong xã hội các quốc gia trong khu vực. Họ lục tìm trong Kinh thánh và trong Giáo huấn chân truyền của Giáo hội công giáo từ xưa nay, để xây dựng được một nhận thức đứng đắn, trung thực về vai trò dấn thân nhập cuộc của Giáo hội trong công trình giải thoát con người và xã hội khỏi các định chế chính trị xã hội hủ lậu, phản động và vô luân trong xã hội đương thời. Trừ một số nhỏ thiên về phía marxit cộng sản quá khích, còn đa số giáo sĩ và giáo dân đều giữ vững lập trường tranh đấu ôn hòa, bất bạo động của tôn giáo. Hệ thống tư tưởng tiến bộ này luôn được sự hưởng ứng của quần chúng giáo dân và giới chức sắc của giáo hội, mà tiêu biểu sáng ngời nhất là “Hội Đồng Giám mục Châu Mỹ La tinh (CELAM = the Latin American Episcopal Conference). Dưới sự thôi thúc của những vị lãnh đạo năng nổ, nhiệt tình như Helder Camara, Hội Đồng này đã biểu quyết thông qua chủ trương rất tiến bộ là : “ Giáo hội phải dứt khoát chọn lựa đứng về phía người nghèo” ( Church’s Option for the Poor).

D – Vai trò của giới trí thức và văn nghệ sĩ.

Trong khi đó, thì giới hàn lâm đại học (Academia), cũng như giới văn nghệ sĩ, đều sôi nổi góp phần vào công cuộc dấn thân phục vụ xã hội, mà điển hình là sự đóng góp thật là vĩ đại của Paulo Freire với chủ trương “Giáo dục Giải phóng Con người” như đã được trình bày rất khúc chiết trong cuốn “Pedagogy of the Oppressed”. Ta sẽ đề cập chi tiết vế tư tưởng này trong một bài sau.

Cũng cần phải ghi thêm về ảnh hưởng của phong trào trí thức tả phái phát xuất từ Âu châu, đặc biệt là từ thập niên 1950, đối với tư tưởng và hành động của học giới và văn nghệ sĩ tại Châu Mỹ La tinh. Khuynh hướng “Bài Mỹ” (Anti-Americanism) từ Âu châu đã làm tăng thêm sự hậm hực, ân óan vốn có sẵn từ lâu đời đối với sự thống trị và khuynh lóat của chánh sách bá quyền (hegemony) của nước Mỹ đối với tòan thể các quốc gia và lãnh thổ yếu thế, mà lại bị chia rẽ, phân tán ở phía Nam bán cầu (hemisphere). Lâu lâu, người ta vẫn nghe thấy dân chúng tại đây hô thật to cái khẩu hiệu “Yankees, Go Home” (Người Mỹ, Hãy Cút Đi!) mỗi khi có phái đòan cao cấp của Mỹ đi qua một số thành phố lớn. Điển hình là vụ phản đối rầm rộ, đến độ xô xát bạo hành đối với Phó Tổng thống Nixon của Mỹ trong chuyến viếng thăm Nam Mỹ vào năm 1958.

Lại nữa, chánh phủ Mỹ vì luôn bênh vực che chở cho giới tài phiệt Mỹ làm ăn buôn bán khai thác tại các nước trong khu vực, nên đã cho thiết lập và ủng hộ các chánh quyền cực hữu, độc tài mà được đặt tên một cách mỉa mai là “Banana Republics”, vì chuyên làm tay sai cho các đại gia chuyên môn khai thác trồng chuối để xuất cảng về Mỹ, hoặc khai thác các nguồn lợi thiên nhiên khác, để thu về được một số lợi nhuận khổng lồ cho các tập đòan kinh tế có độc quyền khai thác, mà điển hình là United Fruit.

Trước tình trạng bất ổn căng thẳng như thế, ta không lạ gì với sự chống đối quyết liệt như của những lãnh tụ mới đây như Tổng thống Hugo Chavez của Venezuela đối với nước Mỹ. Và qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ thêm về phản ứng dứt khóat và triệt để của giới trí thức như Paulo Freire trong bối cảnh chung của khu vực Châu Mỹ La tinh vậy./

( Bài 2 :  Giáo dục Giải phóng : Nội dung và Ảnh hưởng)

Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’

Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’

Nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đang đấu đá để tranh quyền lãnh đạo?

Một nhà quan sát từ trong nước cho rằng bài diễn văn bế mạc hội nghị trung ương lần thứ 11 hôm 7/5 của ông Trọng nêu ra một loạt các tiêu chuẩn để được vào Ban Chấp hành Trung ương khóa tới là ‘có nhiều hàm ý’.

Hội nghị trung ương 11 đã bàn bạc về các tiêu chí lựa chọn những người vào ban lãnh đạo tối cao của Đảng trong khóa tới.

Nhiều tiêu chí

Trong diễn văn bế mạc, ông Trọng đã nêu một loạt các ‘khuyết điểm’ mà theo ông Đảng ‘kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành trung ương’, trong đó có: cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị, không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc, bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính…

Trao đổi với BBC, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, một nhà quan sát chính trị từ Tp HCM, nhận định rằng ông Trọng đề cập đến tiêu chí ‘không tham vọng quyền lực’ là ‘muốn đề cập đến người vì tham vọng quyền lực mà gom góp cho cá nhân mình’.

“Tham vọng quyền lực thật ra không xấu nếu nó có thể giúp giải quyết những vấn đề cho nhân dân,” ông Dũng giải thích, “Còn tham vọng quyền lực để củng cố địa vị độc tôn cho mình để gom góp lợi ích cho cá nhân, gia đình mình thì điều đó hoàn toàn xấu.”

“Ở Việt Nam bây giờ có quá nhiều nhóm lợi ích.”

” Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể.

Tiến sỹ Phạm Chí Dũng “

“Đối với nhiều người dân đánh giá Đảng Cộng sản chỉ là nhóm lợi ích mà thôi chứ không phải cái gì mang tính chất ý thức hệ như hồi xưa,” ông nói thêm.

Hàm ý nữa mà ông Trọng muốn đề cập tới là ‘cuộc tranh giành đấu đá nội bộ trong Đảng’, theo ông Dũng.

“Những người phe này không chấp nhận những người phe kia tham vọng quyền lực trong khi những người phe này cũng có tham vọng quyền lực,” ông nói.

Không còn giằng co?

Theo nhận định của ông Dũng thì bài diễn văn này cho thấy cuộc đấu đá nội bộ trong Đảng ‘không còn ở thế tương quan giằng co lực lượng như giữa năm trước nữa’.

“Dường như sau diễn văn kỷ niệm ngày 30/4 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sau Hội nghị trung ương 11 thì vấn đề tương quan lực lượng khó mà giằng co được nữa mà bên Đảng đang chiếm ưu thế,” ông Dũng nói.

“Theo nhiều người quen của tôi làm trong Nhà nước thì hiếm khi nào họ chứng kiến bài diễn văn nêu ra những từ ngữ như cơ hội, xu nịnh, mị dân của Tổng bí thư Đảng Cộng sản rõ đến như vậy,” ông nói thêm, “Điều đó làm cho người ta có cảm giác ông Trọng nếu không phải ở thế thượng phong thì cũng là đang chiếm ưu thế trong nội bộ Đảng.”

“Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể,” ông Dũng nói.

Chiến tranh Việt Nam có thực sự cần thiết?

Chiến tranh Việt Nam có thực sự cần thiết?

Nguyễn Hưng Quốc

28.04.2015

Liên quan đến biến cố 30 tháng Tư 1975, có một câu nói của một quan sát viên quốc tế mà tôi rất tâm đắc: “Không có ai chiến thắng cả. Tất cả đều là nạn nhân” (There were no winners, only victims).

Nhưng tại sao lại không có người chiến thắng?

Trước hết, không còn hoài nghi gì nữa, người miền Nam chắc chắn là những người thua cuộc và từ đó, là những nạn nhân không những của chiến tranh mà còn của hoà bình với hàng trăm ngàn người bị bắt đi cải tạo, hàng triệu người liều mạng vượt biển để tìm tự do và hầu như tất cả đều sống trong cảnh vừa lầm than vừa bị áp bức.

Mỹ cũng không phải là những kẻ chiến thắng. Nói cho đúng, họ thắng trong cuộc chiến tranh lạnh với khối xã hội chủ nghĩa bằng việc phân hoá Trung Quốc và Liên Xô đồng thời bằng cách vô hiệu hoá hiệu ứng liên hoàn, gắn liền với thuyết domino vốn là nguyên nhân chính khiến họ tham dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Về phương diện quân sự, họ không thắng không bại: họ đã rút quân ra khỏi Việt Nam mấy năm trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên, về phương diện chính trị, họ đã thất bại trong nỗ lực bảo vệ một đồng minh là chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Sau đó, về phương diện tâm lý, họ là những nạn nhân với hội chứng Việt Nam, một ám ảnh đầy day dứt trong lương tâm của những người từng tham chiến. Đó là chưa kể hơn 58.000 người lính bỏ mình tại Việt Nam cũng như hàng mấy trăm ngàn người bị thương tật trở thành một gánh nặng trong xã hội Mỹ.

Thế còn miền Bắc?

Đương nhiên họ là những người thắng cuộc. Thắng về quân sự: đánh bại được quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Thắng về chính trị: thống nhất được đất nước sau 20 năm chia cắt. Tuy nhiên, bên cạnh những chiến thắng ấy, họ cũng gánh chịu không ít thất bại. Những thất bại ấy làm cho chiến thắng của họ trở thành một tai hoạ cho mọi người.

Trước hết, như là hệ quả của việc chà đạp lên hiệp định Paris, xua quân cưỡng chiếm miền Nam, Việt Nam phải gánh chịu sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trừ Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa, họ không có một người bạn nào cả. Ngay cả với một nước đồng minh thân cận từng giúp đỡ họ cả mấy chục năm, Trung Quốc, cũng biến thành kẻ thù với hậu quả là, ngay sau chiến tranh Nam -Bắc chấm dứt, Việt Nam phải chịu đựng thêm hai cuộc chiến tranh mới: chiến tranh với Campuchia và chiến tranh với Trung Quốc.

Hệ quả của tất cả những điều vừa nêu là, về phương diện kinh tế, Việt Nam hoàn toàn kiệt quệ. Lạm phát tăng nhanh; nạn đói lúc nào cũng lởn vởn trước mắt mọi người. Trong nhiều năm, ngay cả lúa gạo, nguồn thực phẩm chính và cũng là điểm mạnh của miền Nam, cũng bị thiếu hụt nghiêm trọng. Dân chúng phải thường xuyên ăn độn hoặc ăn bo bo để thế cơm. Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nghèo khó và chậm phát triển nhất thế giới.

Về phương diện xã hội, hầu như mọi người đều bị lâm vào cảnh khốn cùng. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam và Bắc càng lúc càng sâu sắc. Sự thống nhất chỉ có trên phương diện chính trị và hành chính, nhưng về tâm lý, nhìn nhau, dân chúng giữa hai miền vẫn đầy những nghi kỵ và đố kỵ.

Về phương diện chính trị, dân chúng không còn chút tự do nào cả. Tự do tư tưởng: Không. Tự do ngôn luận: Không. Tự do cư trú và tự do đi lại: Không. Tất cả các quyền tự do căn bản của dân chủ, từ tự do hội họp đến tự do thành lập và tham gia vào đảng phái đều bị tước sạch.

Có thể nói, trong hơn mười năm, từ 1975 đến 1985, khi phong trào đổi mới xuất hiện, ở Việt Nam, dân chúng trong cả nước đều chia sẻ nỗi bất hạnh chung xuất phát từ việc miền Bắc thắng miền Nam. Không có gì quá đáng nếu chúng ta nói, trừ giới lãnh đạo cộng sản, tất cả mọi người đều là nạn nhân của biến cố 30 tháng Tư 1975. Không phải chỉ những người bị bắt đi học tập cải tạo hoặc bị lùa đi kinh tế mới mới là nạn nhân: Tất cả mọi người đều là nạn nhân. Không phải chỉ những người bị bỏ mình trên biển mới là nạn nhân, ngay cả những người may mắn vượt thoát và được định cư ở nước ngoài cũng là nạn nhân: họ phải xa lìa tổ quốc để sống tha hương, không lúc nào nguôi nỗi khắc khoải trông ngóng về đất nước cũ.

Nhưng nếu mọi người đều là nạn nhân, cuộc chiến tranh Nam Bắc vốn kéo dài hai mươi năm có thực sự cần thiết hay không?

Bộ máy tuyên truyền của miền Bắc trước năm 1975 cũng như trong cả nước sau năm 1975 nêu lên ba lý do chính tại sao miền Bắc phát động cuộc chiến tranh ấy: Một, để giải phóng miền Nam; hai, để phát triển chủ nghĩa xã hội sang nửa phần lãnh thổ còn chịu khổ nạn dưới ách “áp bức” của Mỹ và “nguỵ”; và ba, để đánh bại sự “xâm lược” của “đế quốc” Mỹ.

Xin nói về nguyên nhân thứ ba trước. Đó chỉ là một nguỵ biện. Việc Mỹ đổ cả nửa triệu quân vào miền Nam chỉ là để giúp miền Nam chống lại sự xâm lấn của miền Bắc. Như vậy, nó chỉ là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân. Nói cách khác, nếu miền Bắc không mưu toan đánh chiếm miền Nam, chả có lý do gì để Mỹ đổ quân vào miền Nam cả.

Về nguyên nhân thứ hai, người ta dễ dàng nhận thấy là hoàn toàn không chính đáng. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản tại Đông Âu, hầu như ai cũng biết chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với áp bức và nghèo đói. Mở rộng chủ nghĩa xã hội từ miền Bắc sang miền Nam, do đó, thực chất là việc xuất cảng áp bức và nghèo đói. Đó là một tai hoạ.

Chỉ có nguyên nhân thứ nhất là cần phân tích kỹ. Trước hết, không ai có thể phủ nhận sự cần thiết của việc thống nhất đất nước, một di sản của tổ tiên từ ngàn đời trước. Đó là một mệnh lệnh của lịch sử, của đạo lý và của tình cảm. Tuy nhiên, vấn đề là: sự thống nhất ấy có thể được thực hiện bằng cách nào và được trả bằng giá nào? Nó có cần thiết để cả nước phải trải qua hai chục năm chiến tranh tàn khốc với trên ba triệu người bị giết chết? Lịch sử cung cấp hai bài học chính:  Thứ nhất, Đông Đức và Tây Đức đã được thống nhất mà không cần phải trải qua cuộc chiến tranh nào cả. Thứ hai, Nam và Bắc Triều Tiên đến nay vẫn bị chia cắt. Nhưng sự chia cắt ấy được đền bù bằng mức phát triển cực nhanh và cực cao của Nam Triều Tiên. Sự thống nhất không sớm thì muộn, không bằng cách này thì bằng cách khác cũng sẽ xảy ra, nhưng khi nó xảy ra, Đại Hàn cũng đã có một nền tảng kinh tế và chính trị vững chắc là Nam Triều Tiên (như trường hợp của Tây Đức và Đông Đức). Ở đây, sự chia cắt không có gì đáng phàn nàn hay ân hận cả.

Chúng ta tưởng tượng: nếu miền Bắc đừng phát động chiến tranh thì tình hình chính trị Việt Nam hiện nay sẽ ra sao? Thì tất cả những tai hoạ nêu lên ở phần đầu bài viết này sẽ không có. Thì cả hai miền sẽ có hoà bình và nhờ hoà bình, sẽ được phát triển nhanh chóng. Ngay cả khi hai miền Nam và Bắc chưa được thống nhất thì, tuy về phương diện tình cảm, vẫn là một nỗi nhức nhối, nhưng trên mọi phương diện khác, đó lại là một điều may mắn.

“Không thể hòa giải vì VN vẫn độc tài”

“Không thể hòa giải vì VN vẫn độc tài”

Các lãnh đạo chính trị của cộng đồng người gốc Việt ở Hoa Kỳ khẳng định ‘sẽ không có chuyện hòa giải’ chừng nào chính quyền trong nước vẫn duy trì các chính sách đàn áp dân chủ, nhân quyền đối với người dân trong nước.

Trao đổi với BBC tại Nam California, ông Trí Tạ, thị trưởng thành phố Westminster và ông Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam, nói cộng đồng người Việt tại hải ngoại sẽ không hợp tác với chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam để chống lại tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Quận Cam và thành phố Westminster thuộc tiểu bang California là nơi có đông người gốc Việt sinh sống và được xem là ‘thủ đô của người Việt tị nạn ở hải ngoại’.

‘Vẫn giữ căn cước tị nạn’

“Trong 40 năm vừa qua, cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ vẫn giữ được căn cước tị nạn của mình,” ông Trí Tạ nói.

“Chúng tôi hiểu được chúng tôi đến Mỹ với lý tưởng tự do và chúng tôi bảo vệ lý tưởng đó,” ông giải thích, “Chúng tôi luôn tiếp tục cùng với đồng bào trong nước đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ tự do.”

Theo ông Trí Tạ thì ngày 30/4 năm 1975 ‘luôn là ngày đau thương của cộng đồng người Việt tị nạn’ vì ngày này đánh dấu ‘hàng triệu đồng bào trong nước phải bỏ ra đi và có vài trăm ngàn người Việt xấu số đã chết trên biển cả’.

” Tập thể người Việt tị nạn tại hải ngoại lúc nào cũng quan tâm đến việc Trung Quốc xâm lấn và có âm mưu chiếm biển đảo Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt tại hải ngoại sẽ không bao giờ đồng quan điểm với chính quyền Cộng sản Việt Nam.

Trí Tạ, thị trưởng Westminster”

Khi được hỏi về vấn đề hòa hợp, hòa giải với chính quyền trong nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, ông Trí nói rằng ‘không thể làm được’ do ‘trong 40 năm qua nhà cầm quyền cộng sản vẫn giữ chính sách độc tài’.

“Người Việt tị nạn tại hải ngoại lúc nào cũng muốn cho Việt Nam tự do, dân chủ, phú cường,” ông nói và cho biết bản thân ông chỉ về Việt Nam khi nào đất nước này ‘có tự do, dân chủ thật sự’.

Khi được hỏi liệu sức ép của Trung Quốc trên Biển Đông có khiến cho cộng đồng người gốc Việt tại Mỹ đoàn kết với chính quyền trong nước hay không, ông Trí Tạ nói: “Tập thể người Việt tị nạn tại hải ngoại lúc nào cũng quan tâm đến việc Trung Quốc xâm lấn và có âm mưu chiếm biển đảo Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt tại hải ngoại sẽ không bao giờ đồng quan điểm với chính quyền Cộng sản Việt Nam.”

“Toàn thể người Việt tại hải ngoại vẫn đang vận động chính giới Hoa Kỳ, dân biểu, thượng nghị sỹ liên bang để nêu lên sự quan tâm về sự xâm lấn của Trung Quốc đối với Việt Nam và chúng tôi hy vọng tập thể người Việt khắp nơi trên thế giới sẽ tiếp tục đưa sự quan tâm này lên để quốc tế và Hoa Kỳ có phản ứng thích hợp,” ông nói.

‘Mong thế hệ sau tiếp tục sứ mạng’

Ông Trí cũng cho biết thế hệ người gốc Việt sinh ra ở Mỹ sau năm 1975 nhờ tham gia vào các trường Việt ngữ và các sinh hoạt cộng đồng nên ‘vẫn hiểu được vì sao thế hệ thứ nhất đến Mỹ, hiểu được vì sao cộng đồng Việt Nam tại Mỹ và khắp nơi trên thế giới vẫn quan tâm về hiện trạng nhân quyền Việt Nam’.

Ông nói ông mong rằng các thế hệ người gốc Việt ở Mỹ sau này ‘sẽ tiếp tục theo sứ mạng của thế hệ đi trước tiếp tục quan tâm và tranh đấu cho Việt Nam tự do và dân chủ’.

Ông Trí cho biết sau 40 năm hình thành và phát triển, hiện cộng đồng người Việt ở Mỹ ‘rất thành công ở mọi lĩnh vực’ và ‘có rất nhiều bác sỹ, chuyên gia, kỹ sư, khoa học gia, phi hành gia’.

Ông Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam, thì nói rằng đấu tranh cho dân chủ, tự do trong nước là ‘trách nhiệm của mỗi người Việt tị nạn tại hải ngoại’.

“Trước khi muốn nói đến vấn đề gì về hợp tác cùng nhau để bảo vệ đất nước thì vẫn phải đòi hỏi chính phủ coi trọng nhân quyền trong nước.

Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam “

Ông Andrew Đỗ cũng có ý kiến giống ông Trí Tạ là phải tách bạch giữa hai vấn đề là việc Trung Quốc có tham vọng trên Biển Đông và chính phủ Việt Nam phải tôn trọng quyền lợi của người dân.

“Trước khi muốn nói đến vấn đề gì về hợp tác cùng nhau để bảo vệ đất nước thì vẫn phải đòi hỏi chính phủ coi trọng nhân quyền trong nước,” ông nói.

“Cho đến khi chính quyền trong nước coi trọng cái đó thì chúng ta vẫn phải nghi ngờ mình có thể tin tưởng một chính phủ như vậy hay không,” ông nói thêm.

Khi được hỏi có nhìn nhận về ý nghĩa thống nhất đất nước ngày 30/4 của hay không, ông Andrew Đỗ nói: “Thống nhất có nhiều cách làm. Những người độc tài cũng thống nhất đất nước của mình vậy. Đất nước thống nhất rồi đặt dưới chế độ độc tài thì đâu phải việc mình coi là đúng đâu.”

Khi được hỏi về việc tranh đấu cho tự do, dân chủ trong nước của cộng đồng người Việt tại Mỹ có đem lại kết quả gì hay không, ông trả lời: “Phần lớn việc coi trọng suy nghĩ của thế giới và họ (chính quyền Việt Nam) biết sẽ phải chống lại cộng đồng Việt Nam trên nước Mỹ và cả thế giới thì phần nào đó họ cũng phải e dè trong hành động của họ.”

Cuộc phỏng vấn của BBC Việt ngữ với ông Trí Tạ, thị trưởng thành phố Westminster và ông Andrew Đỗ, giám sát viên Quận Cam được thực hiện trong tháng Tư, 2015 tại Nam California.

Việt Nam và Trung Quốc không thể là bạn’

Việt Nam và Trung Quốc không thể là bạn’

Ông Tiến là thượng nghị sỹ dưới thời Việt Nam Cộng hòa

Một vị cựu thượng nghị sỹ dưới thời Việt Nam Cộng hòa nói ông ‘bi quan về tình hình đất nước hiện nay’ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và nói tương lai đất nước chỉ có thể thay đổi khi giáo dục phát triển và ý thức người dân được nâng cao.

Trao đổi với BBC Việt ngữ từ nhà riêng tại miền Nam California, bác sỹ Nguyễn Hữu Tiến, hiện nay đã 86 tuổi, cũng so sánh sự khác biệt trong nền chính trị của Việt Nam Cộng hòa và của nước Việt Nam thống nhất hiện nay.

‘Biết trước miền Nam sẽ mất’

Ông Tiến nói ông đã ‘tiên đoán được Việt Nam Cộng hòa sẽ mất từ nhiều năm trước năm 1975’ và khi thấy ở Ban Mê Thuột và các nơi khác rút quân từ từ thì ông đã chuẩn bị rời khỏi Việt Nam.

“Tôi chạy ngược chạy xuôi, ngày nào cũng tìm đường dây, tổ chức nào đó để họ đưa mình ra ngoài,” ông kể và cho biết cuối cùng khi vào được sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 25/4 thì gia đình đã được một tổ chức có tên là ‘Food for the Hungry’ cho lên máy bay di tản của họ.

Tình hình Sài Gòn vào lúc đó, theo lời ông Tiến, thì ‘không có gì hỗn loạn lắm’ nhưng ‘tình hình thay đổi hàng giờ’.

“Tôi vào sân bay Tân Sơn Nhất thấy người ra người vô, trật tự lắm. Tôi vô căn cứ của Mỹ ở Tân Sơn Nhất thì thấy đã đầy người làm việc cho Mỹ ở đó rồi,” ông nói.

“Ngày 25/4 ra vô (sân bay Tân Sơn Nhất) thong thả mặc dù có kiểm soát một chút,” ông nói thêm, “Nhưng ngay ngày hôm sau thì không vào được nữa. Có những người bạn bè khác mà tôi muốn giúp lại không vào được.”

Ông mô tả cảm giác ra đi của ông và gia đình lúc đó là ‘nhục nhã’.

” Tôi nghĩ tại sao mình sống trong hoàn cảnh tủi nhục như thế này: đi như một con chó hoang không biết đi đâu cả để tìm sự sống. Tôi nhớ tôi ngồi khóc. Nhưng mình còn may mắc còn đi được còn biết bao nhiêu người không đi được.

Nguyễn Hữu Tiến, cựu thượng nghị sỹ Việt Nam Cộng hòa

“Tôi nghĩ tại sao mình sống trong hoàn cảnh tủi nhục như thế này: đi như một con chó hoang không biết đi đâu cả để tìm sự sống,” ông kể, “Tôi nhớ tôi ngồi khóc. Nhưng mình còn may mắc còn đi được còn biết bao nhiêu người không đi được.”

“Nhưng nếu mình không đi thì mình bị đi tù rồi, Đi tù rồi thì cái gì xảy ra không biết được.”

Tuy nhiên, ông Tiến không cho rằng ngày 30/4 năm 1975 là ngày ‘mất nước’ như nhiều người dân Việt Nam Cộng hòa trước đây.

“Đối với tôi, tôi không dùng từ mất nước bởi vì nước Việt Nam vẫn còn, dân tộc Việt Nam vẫn còn nhưng thời cuộc thay đổi, vận nước thay đổi,” ông giải thích.

“Trong giai đoạn này Đảng Cộng sản độc tài đang cai trị,” ông nói thêm, “Nhưng tôi hy vọng trong thời gian tới thời cuộc biến chuyển, dân mình ý thức được nhân quyền, quyền tự do căn bản của con người thì họ sẽ đoàn kết và họ sẽ có sự chống đối.”

‘Không có Đảng Cộng sản, Việt Nam sẽ khác’

“Cuộc chiến là một bất hạnh mà người gieo rắc là Hồ Chí Minh,” ông Tiến phân tích, “Nói thẳng thừng như vậy. Nếu Việt Nam không có Hồ Chí Minh và không có Đảng Cộng sản thì Việt Nam vẫn giành được độc lập từ lâu rồi, từ năm 1943.”

“Họ (những người cộng sản) lèo lái cuộc đấu tranh sang bình diện khác,” ông nói.

Theo lời ông thì Đảng Cộng sản đã ‘lợi dụng tình trạng ngu dân do thực dân Pháp tạo ra’ để lên nắm quyền.

“Đảng Cộng sản lợi dụng tình trạng đó để lên với danh nghĩa đuổi thực dân để lòng người đi theo,” ông nói.

Ông dẫn chứng là vào thời kỳ năm 1945 khi ông còn là một thiếu niên đã ‘bị cộng sản lừa’.

“Lúc đó tôi không có ý thức chính trị, chỉ đến trường học thế thôi. Lúc Đảng Cộng sản lên năm 1945 thấy hợp lý quá. Thấy bảo gia nhập tổ chức tổ chức nhân dân tự vệ thì tôi cũng vác vậy, đội mũ, đeo ba lô đi gác,” ông nói.

” Nếu có một chính quyền quốc gia (không theo đường lối cộng sản) nghĩ đến dân đến nước thì nước Việt Nam bây giờ khá rồi chứ không ở trong tình trạng như thế này.

Nguyễn Hữu Tiến, cựu thượng nghị sỹ Việt Nam Cộng hòa

“Thật sự bất kỳ người dân Việt Nam cũng có tinh thần yêu nước nhưng thời còn trẻ mình cũng không biết thế nào là cộng sản,” ông nói thêm.

Ông cũng kể lại việc ông bị những người cộng sản ‘bắt và giữ một đêm’ khi đem nói câu chuyện mà ông nghe người quen kể lại ở Hà Nội lúc đó ngoài Đảng Cộng sản còn có những đảng khác như đảng của ông Nguyễn Hải Thần ở phố Quán Thánh.

“Sau năm 1954, đất nước chia đôi, ngoài bắc do cộng sản kiểm soát. Tôi biết ngay kinh nghiệm của tôi mình không thể sống với Đảng Cộng sản được nên cả nhà tôi di cư vào Nam,” ông kể.

‘Miền Nam còn non nớt’

Vị cựu thượng nghị sỹ này cũng cho rằng miền Nam lúc đó ‘không có ý thức chính trị’ và ‘vẫn còn non nớt trong vấn đề dựng nước’.

Sau khi tốt nghiệp y khoa ra trường vào năm 1957 và bị trưng tập vào bác sỹ quân y, ông Tiến kể ông thấy ‘đất nước thanh bình’ và ông đi từ ‘Sài Gòn đến Châu Đốc, từ Châu Đốc đến Rạch Giá’ vào ban đêm mà không sợ gì cả.

“Ngô Đình Diệm là người ái quốc nhưng lối cai trị của ông ấy là của một vị quan. Ông ấy nói ra mọi người chỉ nghe có thế thôi,” ông Tiến nhận xét về vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, “Ông ấy có hơi thiên vị những người lương với người giáo và tin tưởng những người dòng dõi con ông cháu cha.”

“Ông ấy thiên vị gia đình và đưa toàn những người thân tín trong gia đình lên. Những người ấy không cho ông ấy biết sự thực,” ông giải thích, “Lúc mới đầu không sao nhưng về sau ông ấy không nắm vững tình hình đất nước cho nên mới xảy ra vụ thượng tọa (Thích Quảng Đức) tự thiêu.”

Khi được hỏi về tình trạng tham nhũng dưới thời Việt Nam Cộng hòa, ông Tiến thừa nhận là có.

“Tham nhũng thì ở đâu cũng có cả. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa cũng có tham nhũng nhưng tham nhũng chỉ có tính giới hạn và mang tính cá nhân. Không có tập thể nào, lãnh đạo nào hay đảng nào tham nhũng cả,” ông Tiến nói với hàm ý ám chỉ Đảng Cộng sản hiện nay.

‘Con cờ trên bàn cờ’

Ông Tiến nhận định hai miền Việt Nam lúc đó chỉ là ‘con cờ trên bàn cờ mà người đánh cờ là các cường quốc’.

“Họ chơi nước cờ nào mình đâu có biết?’

“Chính bấy giờ người đàn anh đánh cờ là Mỹ với kế hoạch domino xem miền Nam là nút chặn cộng sản nên muốn đưa quân vào. Lúc Mỹ đưa quân vào thì chiến tranh Việt Nam không do người Việt Nam chỉ huy nữa,” ông nói.

“Khi đánh nhau súng đạn, xăng nhớt hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ thì khi bị cắt đi lấy gì mà đánh?”, ông nói, “Thành ra là mình bị bức tử.”

” Khi đánh nhau súng đạn, xăng nhớt hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ thì khi bị cắt đi lấy gì mà đánh?Thành ra là mình bị bức tử.

Nguyễn Hữu Tiến, cựu thượng nghị sỹ Việt Nam Cộng hòa

“Phía cộng sản không có Nga, Tàu đi kèm hoặc có đi kèm thì không có lộ liễu,” ông phân tích sự khác biệt trong chiến thuật hai miền, “Còn đằng này Mỹ rất lộ liễu. Nó đến chiếm chỗ nào thì bom napalm cháy hết cỡ.”

“Thành ra quân đội mình (Việt Nam Cộng hòa) đánh anh dũng nhưng cơ quan chỉ huy cuộc chiến không phải là sỹ quan Việt Nam,” ông nói, “Khi thấy dùng Việt Nam chặn Trung Quốc không cần thiết nữa thì Mỹ cử Kissinger qua (Paris để hòa đàm với Bắc Việt).”

Ông Tiến thừa nhận rằng sau ngày 30/4 năm 1975 đất nước Việt Nam có sự thống nhất, quy về một mối.

Tuy nhiên, ông chỉ trích những chính sách của Đảng Cộng sản sau đó là ‘không có lương tâm’.

“Thay vì nâng người bại trận lên thì lại trù yểm và diệt bằng cách này hay cách khác,” ông phân tích, “Nếu có một chính quyền quốc gia (không theo đường lối cộng sản) nghĩ đến dân đến nước thì nước Việt Nam bây giờ khá rồi chứ không ở trong tình trạng như thế này.”

Tương lai đất nước

Về tương lai đất nước, ông Tiến nói: “Bây giờ Đảng Cộng sản cầm quyền nhưng họ không thể cầm quyền mãi được.”

Theo lời ông Tiến thì những người trong Đảng Cộng sản ‘cấu kết với nhau vơ vét tài nguyên của đất nước’ về cho bản thân và gia đình mình.

Theo ông phân tích thì hai cường quốc hiện nay có thể can thiệp trực tiếp vào Việt Nam là ‘Trung Quốc và Mỹ’.

“Mỹ thì bị chiến tranh Việt Nam đã ê càng lắm rồi. Bây giờ họ có thể giúp được về kinh tế, cả về mặt quân sự nhưng họ đòi hỏi thể chế Việt Nam phải có sự cải thiện. Ít nhất phải có bộ mặt dân chủ.”

“Đáng quan tâm là Trung Quốc – kẻ thù truyền kiếp của người Việt Nam,” ông nói, “Người Việt Nam với người Trung Quốc không thể nào là bạn được.”

“Cá lớn bao giờ cũng nuốt cá bé. Nó (Trung Quốc) ở thế mạnh. Nó cần kiếm chỗ kiếm lương thực, tài nguyên về nuôi dân nó. Nếu nó còn trục lợi được, còn ăn hiếp được thì mình vẫn bị ăn hiếp chưa nói đến chuyện nó có thể đô hộ mình.”

“Khi đó thì ai cứu mình? Phải có một cường quốc có một lực tương đương. Việt Nam phải trông vào Mỹ. Lãnh đạo Việt Nam họ biết cả,” ông phân tích.

 

Tương lai Việt Nam rất là đen tối. Tôi bi quan nhưng không đến nỗi. Tôi nghĩ dân tộc mình đến lúc nào đó bị nhấn quá thì sẽ nổi lên.Nguyễn Hữu Tiến, cựu thượng nghị sỹ Việt Nam Cộng hòa “Muốn chống lại sức mạnh của Trung Quốc thì phải có điều kiện mình có dân. Dân đồng lòng thì mình không sợ gì cả,” ông nói thêm và cho biết dân chủ ở Việt Nam hiện nay ‘rỗng tuếch’ và ‘thực quyền trong tay Đảng’.

Tuy nhiên, theo ông Tiến thì Đảng Cộng sản ‘không bao giờ thay đổi cả’.

“Cho nên Việt Nam chỉ khá lên chỉ khi nào Đảng Cộng sản bị thay thế,” ông nói, “Nếu chính quyền Đảng Cộng sản thay đổi được thì quá tốt nhưng tôi nghĩ họ không bao giờ thay đổi mà chỉ càng sa lầy thêm.”

“Tương lai Việt Nam rất là đen tối,” ông nói, “Tôi bi quan nhưng không đến nỗi. Tôi nghĩ dân tộc mình đến lúc nào đó bị nhấn quá thì sẽ nổi lên.”

“Trong tương lai gần thì tôi bi quan nhưng về lâu dài nếu vận nước xoay chiều thì mình sẽ không thua gì các nước láng giềng,” ông nói.

“Bây giờ tình trạng văn hóa xã hội nước mình quá suy sụp nếu muốn khôi phục lại đòi hỏi vài thế hệ. Để thay đổi văn hóa chỉ có vấn đề giáo dục là ưu tiên.”

“Người Việt Nam không thua kém ai về sự thông minh, nhẫn nại, cố gắng,” ông phân tích, “Nếu mình được lãnh đạo tốt có thể khá lên được.”