‘Chính Trị Bình Dân’ và nhận thức chính trị của người trẻ Việt Nam

2018-03-02
 

Bìa sách 'Chính trị bình dân' của blogger Phạm Đoan Trang.

Bìa sách ‘Chính trị bình dân’ của blogger Phạm Đoan Trang.

 Courtesy of luatkhoa.org
 

Mạng xã hội Facebook những ngày qua lan truyền bản điện tử cuốn sách Chính Trị Bình Dân của blogger Phạm Đoan Trang viết và hoàn thành vào năm 2017.

Những người tìm đọc và chia sẻ cho nhau thuộc nhiều lứa tuổi, trong đó có nhiều bạn trẻ. Liệu điều đó có cho thấy nhận thức về tương quan chính trị với đời sống xã hội đã đi vào cuộc sống người trẻ ở Việt Nam?

Từ thực tiễn và trực diện

Hệ thống giáo dục Việt Nam đã dành hẳn một môn học được gọi là môn Chính trị và Lý luận chính trị ở chương trình đại học. Và chính tác giả Phạm Đoan Trang cũng dành hẳn một chương để mô tả về “Chính trị là gì?” Trong đó, có một đoạn tác giả định nghĩa: “Chính trị có mặt trong tất cả các hoạt động xã hội, tương tác xã hội. Chính trị hiện diện ngay trong gia đình, trong mọi nhóm người, mọi cộng đồng, mọi quốc gia.”

Những người quan tâm đến các diễn biến trong xã hội, sau khi chia sẻ thường hay có câu bình luận rằng “Cứ thờ ơ với chính trị đi, chính trị sẽ ‘quan tâm’ đến bạn rất chu đáo”.

Có một nhóm bạn trẻ ở Việt Nam hiện tại, họ tìm đến và hiểu về chính trị không phải bằng những bài giảng của môn Chính trị học, mà chính từ những trải nghiệm thực tiễn trong cuộc sống.”

Bạn trẻ Huy Jos, người có tiếng nói mạnh mẽ cùng với người dân miền Trung phản đối Formosa là một trong những bạn trẻ ấy. Anh cho biết với suy nghĩ của anh, chính trị là ‘bộ máy chính quyền’. Và người dân thì rất ít cơ hội để hiểu về nó. Chính bản thân anh cũng thế.

“Em chỉ trải qua cuộc sống thì mới biết về chính trị là nhiều, còn sách thì đọc qua ít. Mình thấy những bất công, mà trước tiên mình cũng không nhận thức được chính trị qua những bất công đó, nhưng dần dần tham gia vào những hoạt động, tìm hiểu thêm rồi mình mới biết nó như thế nào. Lúc nhỏ, đâu biết gì là chính trị đâu.”

Va chạm thực tiễn, rồi sau đó kết nối, truyền đạt cho nhau. Đó là cách mà người trẻ trong nước đang sử dụng để học và hiểu về chính trị.

Em chỉ trải qua cuộc sống thì mới biết về chính trị là nhiều, còn sách thì đọc qua ít. Mình thấy những bất công, mà trước tiên mình cũng không nhận thức được chính trị qua những bất công đó, nhưng dần dần tham gia vào những hoạt động, tìm hiểu thêm rồi mình mới biết nó như thế nào. Lúc nhỏ, đâu biết gì là chính trị đâu. – Huy Jos

Cô Nguyễn Xoan, con dâu của nhà hoạt động Lê Đình Lượng, tức facebooker Lỗ Ngọc, người hiện đang bị giam giữ với cáo buộc là có hành vi ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”, cho biết cô nhận thấy ngày càng có nhiều người trẻ dấn thân vào con đường đấu tranh dân chủ khi họ nhận ra những bất công trong xã hội.

“Họ nhận thức được, họ biết được và họ dám đứng lên đòi hỏi quyền lợi của mình và của mọi người. Nhìn 1 người nào đó, mình nói với họ. Ví dụ người chạy taxi chẳng hạn, mình có thể giải thích với họ là giá xăng tăng như thế, quyền lợi của họ sẽ bị thiệt thòi như thế nào. Ít nhiều họ cũng hiểu.”

Bên cạnh những người tìm đến chính trị vì chính những va chạm thực tiễn, hoặc những lần chứng kiến tận mắt sự bất công trong đời sống xã hội, hoặc chính quyền lợi cá nhân bị ảnh hưởng, thì có một nhóm người khác nhận thức chính trị thông qua tin tức trên mạng xã hội.

Đặc biệt là Facebook trở thành công cụ truyền tin có sức lan toả bật nhất, thì hầu như bất kỳ những sự việc xấu, tốt nào diễn ra trong đời sống hàng ngày đều được truyền đến người dân một cách chi tiết và thẳng thắn nhất. Từ giá xăng dầu, giá điện, giá vé qua trạm BOT, giá bán hoa trái dịp Tết… cho đến những tấm bằng giáo sư nặng ký, hay thảm hoạ ô nhiễm môi trường, tất cả đều được cập nhật nhanh chóng đến người dân trong nước.

Bạn trẻ Nguyễn Xung Lâm, một giáo dân ở Cồn Sẻ chia sẻ ý kiến rằng Facebook chính là một tác động vô cùng rộng lớn. Từ facebook của những nhà hoạt động, nhà đấu tranh, lần lượt có nhiều người tò mò tìm hiểu và biết được thế nào là ‘quyền lợi của người công dân’.

“Chứ thật sự ra để quan tâm chính trị trực diện, nghĩa là họ chủ động tìm đến chính trị khi họ biết vai trò của họ là có quyền quan tâm đến chính trị thì hầu như không có. Cái điều tác động đến các bạn trẻ trực diện nhất hiện tại chính là facebook, tiếng nói của các nhà hoạt động, những người đấu tranh.”

Chính trị bình dân – ngòi nổ ban đầu

Theo nhận xét của Nguyễn Xung Lâm, tuy mỗi ngày, số người bị bắt bớ, giam cầm chỉ vì cất lên tiếng nói ngày càng nhiều, nhưng trên thực tế, số người quan tâm đến chính trị, đặc biệt là những người trẻ, chưa phải là nhiều. Qua cái nhìn của anh, những người ấy vẫn còn bị đóng khung trong một đời sống cá nhân quá chặt. Họ chỉ tìm đến và chủ động tìm hiểu chính trị khi họ biết mình có quyền, có vai trò, có trách nhiệm với quốc gia.

‘Chính trị bình dân’ là 1 cơ sở. Không phải nói là ít, mà là cũng có nhiều cuốn về chính trị, những bài giảng về chính trị nhưng những tài liệu ấy họ ít tiếp cận. Chỉ có những bạn trẻ họ hoạt động trong xã hội công giáo thì không quan ngại. – Nguyễn Xung Lâm

Với Huy Jos, anh cũng nhận thấy vẫn còn rất nhiều người thờ ơ trong nhận thức về chính trị:

“Đa số những người công nhân, học sinh chỉ đi làm rồi đi học, đi chơi làm gì biết đến chính trị như thế nào. Nhắc đến còn sợ. Không khéo nghe mình nói người ta còn chạy.”

Do đó, để trả lời cho câu hỏi về vai trò của những cuốn sách như “Chính Trị Bình Dân” trong việc nâng cao nhận thức và tương quan chính trị của mỗi người dân là như thế nào? Huy Jos nói rằng:

“Nếu nói về chính trị, nếu người dân đọc được quyển sách này thì người dân sẽ nhận thức ra được.”

Nếu nói về chính trị, nếu người dân đọc được quyển sách này thì người dân sẽ nhận thức ra được. Huy Jos

Nguyễn Xung Lâm bày tỏ rằng tuy chưa nhiều, nhưng các bạn trẻ trong nước đã bước đầu hiểu về chính trị bằng sách vở, bài viết trên mạng xã hội.

Và trong những hiệu ứng ấy, ‘Chính trị bình dân’ của blogger Phạm Đoan Trang là một cơ sở, giữa nhiều những tài liệu về chính trị khác.

“Giới trẻ Việt Nam, cái tương quan của họ với chính trị không được thoải mái và nhạy bén. ‘Chính trị bình dân’ là 1 cơ sở. Không phải nói là ít, mà là cũng có nhiều cuốn về chính trị, những bài giảng về chính trị nhưng những tài liệu ấy họ ít tiếp cận. Chỉ có những bạn trẻ họ hoạt động trong xã hội công giáo thì không quan ngại.”

Anh gọi cuốn sách “Chính Trị Bình Dân” như một “ngòi nổ ban đầu” để châm lên ngọn lửa soi đường dẫn các bạn trẻ tìm đến những định nghĩa về quyền công dân, quyền con người, quyền sống…Tất cả đều được gom góp trong hai từ “chính trị”.

Rất nhiều những hình thức có vai trò dẫn nhập nhận thức và tương quan chính trị đến với người dân, như mạng xã hội, thực tiễn, sách vở, môi trường sống…

Nhưng qua những người bạn trẻ chúng tôi tiếp xúc, họ đều có chung một nhận định, đó là cho dù mạng xã hội là công cụ mạnh nhất, nhưng chính thực tiễn va chạm mới chính là động lực bộc phát mạnh nhất và rõ ràng nhất về tương quan chính trị trong nhận thức của người trẻ hiện nay.

90 triệu người Việt phải “sáng tròn mắt” khi người Nhật tiết lộ về mối quan hệ Việt – Trung

90 triệu người Việt phải “sáng tròn mắt” khi người Nhật tiết lộ về mối quan hệ Việt – Trung

Bài viết dưới đây mượn lời của một người Nhật vốn sinh sống và làm việc tại Việt Nam khá lâu.

Anh bạn này có góc nhìn rất khác đối với quan hệ Việt Nam của Trung Quốc, đồng thời châm biếm, đả kích sự thờ ơ của một số người trước mối đe dọa đặt ra cho đất nước.

Tâm sự của anh nhận được hàng ngàn bình luận và chia sẻ trên mạng xã hội những ngày qua, nội dung như sau:

Tôi đã sinh sống và làm việc khá lâu tại đất nước các bạn, dĩ nhiên trước khi sang đây, chúng tôi đã nghiên cứu rất nhiều về văn hóa và lịch sử Việt Nam để có thể hòa nhập tốt.

Cũng như các bạn, nước Nhật chúng tôi đang trải qua thời kỳ vô cùng khó khăn khi liên tục phải cảnh giác và đối phó với những âm mưu thôn tính Quần đảo Senkaku trên biển Hoa Đông của Trung Quốc. Đối với tình hình đất nước bạn hiện nay, tôi có một số đánh giá như sau:

Quần đảo senkaku

Thói quen bành trướng của người Trung Quốc đã có từ xa xưa, quốc gia này luôn lăm le xâm chiếm nước Việt, điển hình là sự kiện An Dương Vương mất nước đã bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1000 năm trong lịch sử Việt Nam, đến khi Ngô Quyền đánh thắng giặc trên sông Bạch Đằng. Rồi thì hàng loạt cuộc chiến tranh biên giới khác kéo dài từ xưa cho đến nay, tham vọng bành trướng của người Trung Quốc vẫn cháy rực không ngừng. Quốc gia phía Nam luôn là mục tiêu mà người Trung Quốc nhắm đến, tuy nhiên các bạn không dễ dàng bị ức hiếp và xâm lược.

Ngô Quyền đánh thắng giặc trên sông Bạch Đằng

Từ thời xưa, người Trung Quốc đã không ngừng nỗ lực xâm phạm bờ cõi Việt Nam, điều này vẫn kéo dài cho đến ngày nay và họ sẽ tiếp bước thế hệ cha ông tiếp tục sự nghiệp bành trướng. Âm mưu của người Trung Quốc được gọi là chiến thuật “cắt lát salami”. Nghĩa là họ sẽ không cùng lúc chiếm toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam mà là “ăn mòn” từng bộ phận, sau đó độc chiếm trọn vẹn, toàn bộ. Chiến thuật này không chỉ áp dụng tại Biển Đông – từng bước độc chiếm các bãi cạn và đảo nhỏ, củng cố yêu sách chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông, mà còn được áp dụng trong âm mưu xâm lược trên đất liền Việt Nam.

Kế hoạch “tích tiểu thành đại” của Trung Quốc gồm nhiều hành động nhỏ: từ việc thâu tóm và biến các công ty Việt Nam thành công ty Trung Quốc, tăng cường sự hiện diện của người Trung Quốc tại Việt Nam; cho tới việc đẩy mạnh đầu tư lớn trên khắp đất nước, đặc biệt là khu vực Quảng Trị đến Thừa Thiên Huế – nơi hẹp nhất theo chiều Đông-Tây của dải đất hình chữ S (bề rộng chỉ khoảng 40km).

Con đường bê tông dẫn vào khu dự án nghỉ dưỡng 5 sao trên đèo Hải Vân – nơi có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự của Việt Nam

Việc di dân âm thầm xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam là bước nhỏ tạo bàn đạp để người Trung Quốc đồng hóa cũng như gây nhiễu trật tự xã hội tại đất nước các bạn.

Trên dải đất hẹp nhất của Việt Nam, họ muốn dần thay thế người Việt bằng người Trung Quốc nhằm phục vụ cho âm mưu chia cắt Việt Nam và mưu chiếm Biển Đông. Bởi vì từ căn cứ quân sự Du Lâm của Trung Quốc trên đảo Hải Nam đến Cửa Việt (Gio Linh, Quảng Trị) của đất nước các bạn chỉ khoảng 320 – 350km theo đường chim bay. Do đó, họ dễ dàng thực hiện âm mưu chia cắt hai miền Nam Bắc trên cả về đường bộ lẫn đường biển.

“Mất đất là mất nước”, người Trung Quốc đã lợi dụng điểm này để thực hiện âm mưu xâm lược của họ. Cách đây không lâu, họ không tiếc tay chi mạnh tiền thuê đất đầu nguồn trồng rừng của Việt Nam nằm ở cả ba miền Bắc – Trung – Nam với thời gian thuê dài hạn là 50 năm.

Những vùng đất đầu nguồn đều có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng đối với Việt Nam, việc dễ dàng cho Trung Quốc thuê đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện mưu đồ “xâm chiếm”.

Tập đoàn Innov Green (Hồng Kông, Trung Quốc) được cấp phép thuê đất 50 năm trồng rừng nguyên liệu tại Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam, Lạng Sơn, Kon Tum

Mới đây nhất là việc lên kế hoạch xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine (Huế) nằm ở khu vực đèo Hải Vân – nơi có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự của Việt Nam. Năm 2013, tỉnh Thừa Thiên – Huế đồng ý cấp phép gần 200 ha đất ở khu vực đèo Hải Vân cho một công ty Trung Quốc để thực hiện Dự án xây dựng Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine với tổng mức đầu tư lên đến 250 triệu USD.

Theo thông tin mà tôi biết, nơi này có liên quan đến quân khu V và quân khu IV của Việt Nam, nếu chiếm được đèo Hải Vân tức là chiếm được Đà Nẵng.

Từ Đèo Hải Vân nếu “lấn chiếm” sang Đèo Ngang thì Vịnh Bắc Bộ chắc chắn sẽ bị chia cắt, Trung Quốc khi đó hoàn toàn đủ sức đe dọa an ninh quốc gia của Vịệt Nam. Đây là binh pháp có từ tời xa xưa, từ lợi dụng kinh tế nhắm đến mục tiêu quốc phòng, tung hỏa mù khiến cho địch mất phương hướng, đây là điều người Trung Quốc đang hướng tới.

Nhưng lạ thay, các vị chủ tịch huyện tỉnh của Việt Nam có lẽ chưa được học binh pháp này. Trung Quốc chỉ cần vung tiền mua đất để đầu tư thì các bạn đã nhanh chóng cắt đất cho thuê mà không mảy may nghi ngờ. Dĩ nhiên mưu đồ này không thể qua mắt được các vị tướng lĩnh quân đội. Âm mưu bị vạch trần và kế hoạch của người Trung Quốc thất bại ngoài ý muốn.

Việt Nam không đồng ý với đề xuất đưa 1000 xe cùng 1500 người Trung Quốc vào Việt Nam “nhân dịp hội chợ thương mại Việt Nam – Trung Quốc” trong tháng 12/2014. Có lẽ, các bạn đã bắt đầu đề cao cảnh giác hơn trước âm mưu của Trung Quốc.

Nhưng các bạn nên nhớ, Trung Quốc sẽ không từ bỏ kế hoạch thâm độc của mình và tôi lo ngại rằng vẫn còn nhiều vị Chủ tịch tỉnh sẵn sàng cấp phép cho các dự án nhanh chóng để đạt được cái mà họ gọi là “lợi ích chung của cộng đồng, cũng như vì sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và quốc gia” (nhưng thực ra là lợi ích của riêng họ). Không mấy khó khăn khi thuyết phục những vị lãnh đạo này, họ có vẻ khá dễ dãi và nhìn nhận sự việc quá đơn giản, trong khi người Trung Quốc thì quá thâm độc!

Mới đây, chính quyền thành phố Bằng Tường (Trung Quốc) đã đề nghị phía Việt Nam cấp phép cho 1.000 xe với khoảng 1.500 người Trung Quốc du lịch tại Việt Nam và quá cảnh sang các nước ASEAN, viện cớ là “nhân dịp hội chợ thương mại Việt Nam – Trung Quốc” trong tháng 12/2014.

Yêu cầu của Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối của Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Quốc phòng Việt Nam. Có lẽ, các bạn đã bắt đầu đề cao cảnh giác hơn trước âm mưu của Trung Quốc khi cố tình đề nghị được phép đi lại tự do từ 5 cửa ngõ của Việt Nam.

Thông qua việc đưa một số lượng lớn người Trung Quốc đi khắp đất nước này, họ dễ dàng do thám tình hình, cài người Trung Quốc vào người Việt Nam, gây nguy hiểm cho chính người Trung Quốc để có cớ bắt bớ Việt Nam… Những điều như vậy chẳng phải rất dễ dàng xảy ra nếu đề nghị trên được chấp thuận hay sao?

Một điểm khiến tôi cảm thấy lạ nhất đó là khi âm mưu của Trung Quốc bị vạch trần, một số người lại dễ dàng phủi bỏ trách nhiệm quanh co biện minh cho quyết định sai lầm. Dường như các vị ấy chưa từng được học về “nhận sai và sửa sai”, nếu như ở đất nước chúng tôi, thì ngay lập tức các lãnh đạo của chúng tôi sẽ tạ lỗi trước người dân và xin từ chức.

Thiết nghĩ nếu Việt Nam vẫn còn nhiều vị quan chức dùng lý do “lo lắng cho lợi ích chung của cộng đồng” (thực chất là của riêng họ) và cố tình lờ đi “sự an nguy của đất nước” thì âm mưu xâm lược Việt Nam của người Trung Quốc chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.

Nguồn : http://asianbeutylives.com/tin-tuc/hang-trieu-nguoi-viet-sang-mat-khi-mot-nguoi-nhat-tiet-lo-ve-moi-quan-he-viet-trung/

Tử huyệt của nhà lãnh đạo chuyên quyền

 

Tử huyệt của nhà lãnh đạo chuyên quyền

Nguồn: Alina Polyakova & Torrey Taussig, “The Autocrat’s Achilles’ Heel“, Foreign Affairs, 2 Febrary 2018.

Biên dịch: Huỳnh Hoa

Cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc đã trở lại. Nga và Trung Quốc – hai cường quốc được lèo lái bởi các nhà lãnh đạo chuyên quyền – đang tích cực thử thách độ bền của trật tự quốc tế khi phương Tây dường như đang thoái trào. Tổng thống Nga Vladimir Putin, không hề bối rối vì những cuộc cấm vận của phương Tây, không chỉ dẫn dắt một chiến dịch tung tin giả mạo ở các nước dân chủ phương Tây để lũng đoạn các cuộc bầu cử quan trọng mà còn tiếp tục duy trì sự chiếm đóng của Nga ở bán đảo Crimea và vùng Donbas ở miền đông Ukraine. Trong khi đó, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang khai triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc ra Biển Đông và sức mạnh kinh tế trên khắp châu Mỹ Latin, châu Phi và châu Á.

Cả hai quốc gia này đều tìm cách tác động tới các nhà nước dân chủ thông qua việc sử dụng “sức mạnh bén” (sharp power). Nhận biết tầm với của Nga và Trung Quốc đang mở rộng, chính phủ của ông Trump đã có quyết định đúng đắn khi nhìn nhận hai quốc gia này là những đối thủ cạnh tranh của Mỹ trong bản Chiến lược An ninh quốc gia và Chiến lược Quốc phòng quốc gia mới công bố gần đây. Lần đầu tiên kể từ ngày 11/9/2001, cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc chứ không phải là chủ nghĩa khủng bố toàn cầu được coi là ưu tiên số một của an ninh quốc gia Hoa Kỳ.

Dường như không có biện pháp hiệu quả nào để kiểm soát những tham vọng ngày càng lớn của Putin và Tập. Tuy nhiên, cả hai nhà lãnh đạo này có thể đang thực hiện một lỗi lầm chiến lược. Họ đang đặt cược tương lai và triển vọng quốc tế của đất nước họ vào một chỗ: chính bản thân họ. Trong suốt sự thống trị của mình, Putin và Tập đã có những bước đi nhằm củng cố quyền kiểm soát cá nhân của họ đối với quyền lực. Trong ngắn hạn, đây có thể là một cơ chế tạo sự ổn định nhưng về lâu dài, nó có thể làm trầm trọng thêm những mối căng thẳng nội bộ cố hữu đến mức cuối cùng có thể xói mòn sự cai trị của họ.

Là nhà lãnh đạo chuyên quyền lâu năm của hai quốc gia lớn, Putin và Tập cùng đối mặt với hai tình trạng khó xử tương tự nhau: đó là quản lý cuộc cạnh tranh khốc liệt trong giới tinh hoa để thể hiện lòng trung thành và giành quyền kế vị, và cân bằng các tham vọng quốc tế với tình trạng căng thẳng sâu sắc giữa chính phủ trung ương và các khu vực bất ổn trong nước. Khi cả hai nhà lãnh đạo này tìm cách giành thêm nhiều “thắng lợi” để biện minh cho quyền kiểm soát cá nhân của họ ở trong nước, có khả năng họ sẽ theo đuổi mạnh mẽ những chính sách đối ngoại rủi ro hơn, liều lĩnh hơn.

Trong khi Hoa Kỳ cân nhắc cách tiếp cận của mình cho thời kỳ mới của chính trị siêu cường, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ sẽ cần phải tính tới chuyện tình trạng căng thẳng nội bộ trong nước cố hữu của các hệ thống cá nhân sẽ tác động tới nghị trình và chính sách ngoại giao của Putin và Tập như thế nào.

DAO KIẾM ĐÃ CHÌA RA

Các nhà lãnh đạo chuyên quyền phải là những người quản lý tốt. Vị trí của một nhà độc tài chỉ được bảo đảm bởi mạng lưới các thành viên trung thành trong giới tinh hoa của ông ta. Nhưng lòng trung thành chính trị, ngay cả dưới các chế độ chuyên chế, cũng thường xuyên thay đổi. Hoàn toàn có thể chắc chắn rằng Putin sẽ chiến thắng trong cuộc tái tranh cử chức tổng thống vào tháng Ba tới. Như vậy, cuộc cạnh tranh thực thụ nằm ở cuộc đấu đá nội bộ trong giới tinh hoa ở Kremlin – có thời những cuộc chiến tranh nội bộ này được giấu kín nhưng nay chúng ngày càng được phơi bày ra trước mắt công chúng. Ngay cả các đồng minh của Putin, chẳng hạn như Igor Sechin – người đứng đầu tập đoàn Rosneft, cũng đang chấp nhận các rủi ro chính trị để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Hồi tháng 11 năm 2016 Sechin đã thực hiện một chiến dịch đột ngột để hạ bệ bộ trưởng bộ kinh tế Nga Aleksei Ulyukayev qua việc tiết lộ sự tham gia của ông này trong một âm mưu hối lộ. Đã có những dấu hiệu cho thấy vòng kiềm tỏa của ông Putin với giới tinh hoa, và với Sechin nói riêng, đã bị nới lỏng. Được biết ông Putin đã yêu cầu ông Sechin ra điều trần về vụ Ulyukayev nhưng Sechin từ chối, giáng một cái tát công khai vào nhà lãnh đạo Nga.

Trong lúc trò chơi cung đình ở Moscow gia tăng cường độ trong thời gian trước cuộc bầu cử tháng Ba, ông Putin sẽ cần chứng tỏ cho giới tinh hoa đang lo âu và dao động rằng ông ta vẫn là nhà lãnh đạo được nhân dân chọn lựa. Để tái khẳng định sứ mệnh được người dân giao cho, ông Putin được biết đang tìm cách đạt được mục tiêu 70/70: thắng một cuộc bầu cử có 70% số cử tri đi bỏ phiếu và giành được 70% số phiếu bầu. Ít ra ông ta cũng cần phải vượt qua kết quả bầu cử năm 2012 (65% số cử tri đi bầu và giành được 64% số phiếu). Về khía cạnh này, hầu như không phải là trùng hợp ngẫu nhiên khi cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức đúng vào dịp kỷ niệm [4 năm] ngày nước Nga sáp nhập bán đảo Crimea, một canh bạc ngoại giao đã giúp cho tỷ lệ ủng hộ ông Putin tăng thêm 21 điểm phần trăm, mức tăng cao nhất từ trước tới nay. Trái lại, việc nước Nga can thiệp vào Syria chỉ mang về cho ông Putin thêm 5 điểm phần trăm, từ 83% lên 88%. Ngoài những cuộc bầu cử, ông Putin còn phải nạp lại năng lượng cho đám đông cử tri ủng hộ ông bằng cách thúc đẩy những cảm xúc dân tộc-dân túy chủ nghĩa – cho đến nay, xâm lấn nước ngoài đã là công thức duy nhất để đạt được mục đích ấy.

Không giống như nước Nga của ông Putin, cuộc cạnh tranh trong giới tinh hoa Trung Quốc bị thu gọn trong hệ thống độc đảng đã được thiết chế hóa. Nhưng công cuộc củng cố quyền lực nhanh chóng của ông Tập đang thử thách những giới hạn của mô hình lãnh đạo tập thể của Trung Quốc. Tập được coi là nhà cai trị quyền lực nhất của Trung Quốc từ sau Mao Trạch Đông. Cuộc thâu tóm các chức vụ chính thức của Tập (hiện thời ông ta nắm 13 chức vụ khác nhau) đã lên đến cực điểm khi đại hội 19 của đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định thánh hóa “Tư tưởng Tập Cận Bình” trong hiến pháp của quốc gia [chi tiết này có thể tác giả nhầm, đại hội đảng chỉ có thể đưa Tư tưởng Tập Cận Bình vào cương lĩnh của đảng chứ không đưa vào hiến pháp của quốc gia – ND]. Hơn thế nữa, chiến dịch chống tham nhũng khắc nghiệt của Tập, gọi là “đả hổ diệt ruồi” đang thử thách lòng trung thành của giới tinh hoa Trung Quốc. Cho dù Tập lên cầm quyền với sứ mệnh làm trong sạch hàng ngũ của đảng, việc Tập nhổ tận gốc các cán bộ cấp cao và cấp trung đã làm cho nhiều người trong đảng cảm thấy phân vân, không biết sự ưu ái của ông này sẽ đặt ở đâu – và không muốn thử nghiệm chuyện này. Những trường hợp nổi tiếng liên quan tới các “con hổ” bao gồm cả các tướng lãnh như Từ Tài Hậu (Xu Caihou) và Quách Bá Hùng (Guo Boxing) – cả hai đều là phó chủ tịch quân ủy trung ương và đều bị buộc tội tham nhũng nghiêm trọng. Việc các ông tướng này bị thất sủng là lời nhắc nhở rằng trong đảng không có vị trí cao cấp nào là an toàn – một cảm xúc sẽ mang lại cho ông Tập nhiều kẻ thù hơn là tay chân thân tín.

Hiện thực mới của Trung Quốc cho thấy nếu ông Tập thể hiện sự ủng hộ cho một cuộc thay đổi chính sách – cho dù quyết đoán hơn hay thận trọng hơn – quyết định của ông ta sẽ không gặp phải sự phản kháng đáng kể nào từ hàng ngũ chóp bu của giới lãnh đạo Trung Quốc. Điều này có thể mang lại cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc một ý thức sai lầm về niềm tin vào những khả năng của đất nước họ và dẫn tới kết quả là sự đồng tâm nhất trí trong các cố vấn của Tập. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng tỏ, các chiến lược ngoại giao được nghĩ ra dưới hai tiêu chuẩn này thường kết thúc bằng các thảm họa.

CĂNG THẲNG TRUNG TÂM-NGOẠI VI

Các nước lớn cai trị bởi các nhà lãnh đạo chuyên quyền – những người tập trung quyền kiểm soát – tất yếu sẽ đương đầu với những căng thẳng nội bộ giữa trung tâm và ngoại vi. Theo cơ cấu chính trị, sự quản lý tài chính của nước Nga có tính tập trung cao: các nguồn tài chính như doanh thu sản xuất dầu khí và thuế chảy về Moscow từ các khu vực giàu tài nguyên để phân bổ về những tỉnh nghèo tài nguyên. Trong khi nền kinh tế bùng nổ đầu thập niên 2000 nhờ giá dầu cao thì điện Kremlin có thể duy trì vũ điệu cân bằng, giữ hòa bình giữa 85 tỉnh thành của nước Nga. Nhưng khi giá dầu lao dốc năm 2015 và tiếp tục giữ mức thấp một cách ngoan cố thì ngân sách nhà nước dựa vào dầu khí bị tổn hại rất trầm trọng. Những cuộc cấm vận của phương Tây cũng bắt đầu có tác dụng, góp 1,5% vào sự sút giảm tổng sản lượng quốc gia (GDP) của Nga năm 2015.

Khi ngân khố nhà nước co lại cùng với nền kinh tế nói chung, Moscow đã gia tăng rất nhiều phần ngân sách mà các tỉnh phải nộp về trung ương, và các tỉnh này đã bắt đầu phản kháng công khai. Nỗi oán giận đang tăng lên ở vùng Sakhalin giàu tài nguyên dầu mỏ, nơi mà Moscow đòi chia phần lớn hơn từ doanh thu dầu khí. Mùa thu năm ngoái, Moscow thông qua một đạo luật liên bang mới, tìm cách thâu tóm khoảng 75% tiền thuế và tiền chia phần từ dự án Sakhalin-2 đang có nhiều lợi nhuận. Theo luật hiện hành, Moscow chỉ được chia 25%. Các thống đốc và dân chúng địa phương, hiện sống nhờ thu nhập khiêm tốn, đã công khai bày tỏ nỗi phẫn uất của họ thông qua các cuộc biểu tình phản kháng. Cũng trong thời gian này, các vùng miền đối mặt với sự cắt giảm ngân sách cũng than phiền rằng họ không nhận được đủ tiền từ Moscow để duy trì các dịch vụ căn bản và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng. Trên khắp nước Nga, các chính quyền vùng miền đang đòi hỏi nhiều quyền tự chủ hơn, nhiều quyền kiểm soát ngân sách của họ hơn. Khả năng của điện Kremlin nhằm xoa dịu tình hình hoặc đàn áp đối lập đã bị hạn chế bởi nhu cầu liên tục có thêm nhiều tiền và tầm kiểm soát giới hạn ở bên ngoài thủ đô Moscow và thành phố St. Petersburg. Không có sự tăng trưởng kinh tế trong tầm nhìn, Putin sẽ phải đối mặt với tình trạng Catch-22 (bế tắc không lối thoát): nỗi oán hận gia tăng ở các tỉnh đi kèm với nhu cầu thường xuyên phải thúc đẩy sự ủng hộ của dân chúng thông qua các chiến dịch tốn kém ở nước ngoài.

Tập Cận Bình cũng phải xử lý vấn đề mối căng thẳng giữa trung ương và ngoại vi, trong lúc ngự trị trên sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa ái quốc sôi nổi trên khắp Trung Quốc. Bài diễn văn ba tiếng rưỡi đồng hồ mà Tập đọc trước đại hội 19 [của đảng Cộng sản] hồi tháng 10 đầy những xúc cảm dân tộc chủ nghĩa. Ông ta tái khẳng định lời hứa sẽ thúc đẩy một “cuộc trẻ hóa vĩ đại của đất nước Trung Hoa” và thề sẽ khôi phục vị trí xứng đáng của nước này trên thế giới. Bằng một giọng điệu huênh hoang, Tập khoe khoang dự án Trung Quốc bồi đắp các đảo nhân tạo ở Biển Đông như là một trong những thành quả vĩ đại nhất của ông ta. Nhưng những kế hoạch đầy tham vọng của Tập đối với Trung Quốc, cả với trong nước lẫn quốc tế, đều có giá của chúng. Tập đã phải tiêu tốn rất nhiều nguồn lực để trấn áp những cộng đồng dân chúng bất mãn của Trung Quốc, như ở Hong Kong và Tân Cương. Những nỗ lực này có nghĩa là phải bảo đảm sự ổn định quốc nội, sự an toàn của chế độ và cảnh cáo tất cả các công dân Trung Quốc phải hậu thuẫn cho “giấc mộng Trung Hoa” của Tập.

Vào tháng 11-2017, đại hội nhân dân toàn quốc [tức quốc hội] Trung Quốc yêu cầu vùng lãnh thổ bán tự trị Hong Kong phải tuân thủ “Luật quốc ca” của Trung Quốc, theo đó mọi hành vi sỉ nhục hoặc không tôn trọng bài quốc ca Trung Quốc đều là phi pháp và bị phạt tù giam. Hành động này có lẽ là một phản ứng chống lại những người biểu tình không phục tùng ở Hong Kong, những người đã từng la ó khi bài quốc ca Trung Quốc được cất lên trong các trận đấu bóng đá gần đây. Có thời là hình mẫu cho một nước Trung Quốc cởi mở và phồn vinh, khả năng của Hong Kong trong việc chống chọi với hệ thống chuyên chế ngày càng lấn tới của Trung Quốc đang phai mờ dần. Ở tỉnh Tân Cương phía tây bắc, Tập đã thực thi sự giám sát hà khắc và áp bức của cảnh sát đối với toàn bộ khối dân Uighur thiểu số. Trong khi Bắc Kinh tuyên bố rằng những biện pháp này là nhằm xử lý mối đe dọa khủng bố, những quan hệ căng thẳng cũng nhắm tới nỗi oán hận đang gia tăng trong cộng đồng dân chúng địa phương đối với chính quyền trung ương.

Sự bất đồng nội bộ đặt đảng Cộng sản Trung Quốc vào vị trí khó khăn. Một mặt, ông Tập nhắm tăng cường tính chính danh nội bộ của ông ta thông qua những lời kêu gọi dân tộc chủ nghĩa, trong khi mặt khác, ông tìm cách tái bảo đảm cho các lân bang đang lo ngại rằng đất nước ông mong muốn hòa bình và hợp tác. Nhìn về phía trước, nếu Tập nhận thấy rằng, dập tắt sự bất ổn nội bộ bằng tuyên truyền dân tộc chủ nghĩa và thể hiện sức mạnh về những lợi ích cốt lõi như Biển Đông quan trọng hơn là trấn an các quốc gia láng giềng thì sự ổn định có thể sẽ bị tổn hại.

ỔN ĐỊNH ĐẾN KHI KHÔNG CÒN NỮA

Khi Putin và Tập xử lý những mối căng thẳng nội bộ trong giới tinh hoa và dân chúng, [thế giới] sẽ trở nên ngày càng khó đấu tranh với chiến lược đối ngoại của họ. Trong lúc theo đuổi những lợi ích an ninh quốc gia của mình, Hoa Kỳ sẽ cần phải cân nhắc chống lại một Trung Quốc hung hăng hơn và một nước Nga hay thay đổi. Mặc dù những thách thức mà Putin và Tập đặt ra sẽ xâm chiếm suy nghĩ của Hoa Kỳ trong nhiều năm tháng sắp tới, nhưng trong ngắn hạn, chính phủ Trump cần phải có những bước đi cụ thể để ứng phó với hai nhà nước cạnh tranh này.

Cuộc can thiệp của Putin vào Ukraine và Syria dường như bất ngờ với chính quyền Obama, và hậu quả là phản ứng của Hoa Kỳ diễn ra chậm chạp và thận trọng. Cần phải phản ứng nhanh và quyết liệt hơn đối với những cuộc can thiệp của Nga trong tương lai. Trong khi không thể nào biết chính xác ông Putin có thể nắm bắt cơ hội sắp xảy ra để phát động một cuộc tấn công quy ước hoặc phi quy ước vào đất nước nào, lãnh thổ nào, chính phủ Trump vẫn cần phải chuẩn bị cho hàng loạt hành vi xâm lấn có thể xảy ra, cho dù đó là một cuộc chiến tranh nửa bí mật nửa công khai chống lại các quốc gia chung biên giới với Nga hoặc tiếp tục các chiến dịch tung tin giả ở phương Tây.

Tuy vậy, những tham vọng toàn cầu của Tập mới đặt ra thách thức lớn nhất trong dài hạn cho nước Mỹ. Trung Quốc có được lợi thế thời gian; năng lực quân sự và kinh tế của Trung Quốc đang gia tăng tương đối so với Hoa Kỳ. Vì vậy, chính phủ Trump ngay bây giờ nên tận dụng lợi thế hiện có. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ nên đầu tư vào các mối quan hệ đối tác đã thiết lập từ lâu, xây dựng quan hệ với các quốc gia khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương để làm giảm những khích lệ cho hành vi xâm lược từ phía Trung Quốc.

Cuối cùng, sự củng cố quyền kiểm soát của Putin và Tập sẽ buộc họ phải chịu trách nhiệm cá nhân về những thành công và sai lầm của chính phủ của họ. Họ không thể đổ trách nhiệm cho ai được. Đổi lại, Putin và Tập sẽ có thể ứng phó với áp lực tăng trưởng kinh tế và chính trị bằng cách tìm thêm nhiều quyền kiểm soát ở trong nước trong khi chấp nhận rủi ro lớn hơn ở nước ngoài. Đối nội, điều đó có nghĩa là những biện pháp hà khắc hơn để bịt miệng phe đối lập, trung hòa cuộc cạnh tranh chính trị và hạn chế quyền tiếp cận thông tin. Nhưng đàn áp là phương cách tốn kém để bảo đảm sự tuân phục lâu dài của công dân. Có thể Putin và Tập sẽ thấy cách thức dễ dàng hơn để nâng cao tính chính danh là mô tả chế độ của họ như là “người bảo vệ của nhân dân”, chống lại những thế lực thù địch bên ngoài và như vậy họ có thể cảm thấy nhu cầu theo đuổi những chiến thuật hung hăng ở nước ngoài cho dù những động lực này cuối cùng sẽ chỉ làm sâu thêm sự rạn nứt trong mỗi chế độ. Putin và Tập trông giống như những nhà lãnh đạo độc tài quyền lực nhất thế giới, nhưng câu châm ngôn xưa cũ vẫn còn áp dụng được: các chế độ chuyên chế ổn định cho đến khi chúng không còn nữa.

Alina Polyakova là nhà nghiên cứu thuộc chương trình Chính sách đối ngoại, Viện Brookings, Mỹ; còn Torrey Taussig là nghiên cứu sinh sau tiến sĩ chương trình Chính sách đối ngoại của Viện Brookings và tại Trung tâm Belfer về khoa học và những vấn đề quốc tế thuộc trường Kennedy của Đại học Harvard.

Nguồn: Viet-studies

Bất đồng chính kiến, sự thật, và sự tan rã của Liên Xô

Trần Bang added 2 new photos.

Chống lại dối trá, trở về với Sự thật là cách đã giúp Đông Âu, LX thoát khỏi chế độ cộng sản toàn trị dựa vào bạo lực và tuyên truyền dối trá?

“…Nếu Liên Xô là ví dụ lớn nhất của thế kỷ 20 về một chế độ sử dụng tuyên truyền và thông tin để kiểm soát các công dân của mình – hay 70 năm thao túng tin giả – thì dịp kỷ niệm một trăm năm Cách mạng Bolshevik là một thời điểm quan trọng để đánh giá lại cách mà nó tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong xã hội dân sự “ngầm” tại Moskva và Leningrad.

Phản kháng nội bộ thực sự chống lại chế độ Liên Xô bắt đầu nổi lên trong những năm 1960, vào thời điểm nhiệt độ chính trị trong nước đang chuyển từ thời kỳ hậu Stalin hừng hực sang lạnh lẽo trở lại. Đàn áp bắt đầu với phiên tòa xét xử các nhà văn trào phúng Yuli Daniel và Andrei Sinyavsky vào đầu năm 1966. Khi các đợt phản kháng và các phiên tòa tiếp diễn sau đó, phe bất đồng chính kiến đã phải đối mặt với một tình trạng lưỡng nan thú vị: làm thế nào để chống đối hiệu quả nhất trong bối cảnh thông tin họ có đang ngày càng nhiều. Gần như hàng ngày, họ đều được nghe chi tiết về những cuộc thẩm vấn, những câu chuyện được truyền lại về cuộc sống trong các trại lao động, cũng như những cuộc lùng sục và bắt bớ.

Nhóm bất đồng chính kiến có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền riêng của mình, nhấn mạnh cuộc bức hại và biến vốn từ ngữ phong phú của Liên Xô về những kẻ “côn đồ” và “phần tử phản xã hội” thành những áng văn dài cay đắng chống lại nhà nước. Nhưng họ đã không làm vậy. Thay vào đó, họ đã chọn cách truyền đạt một cách phi cảm xúc và trong trẻo nhất có thể. Họ đã đạt được những gì chúng ta có thể gọi là sự khách quan.

Nhiều thế hệ công dân Liên Xô đã tự đào tạo mình để nghĩ về sự thực như một khái niệm mang tính tương đối. Các bài báo đã được đọc như những câu chuyện nhằm tôn vinh nhà nước chứ không phải phản ánh thực tế. Và người ta cũng bị tách biệt thành những con người riêng tư, thường khác biệt với khuôn mặt và lời nói chốn công cộng của họ.

Do xã hội Liên Xô được xây dựng dựa trên sự lừa dối kéo dài hàng thập niên này, điều đáng chú ý và khiến ta yên tâm là việc nói thật và nói rõ ràng vẫn có quyền lực lớn lao trong số cho các nhà bất đồng chính kiến vào những năm 1960. Và thực sự là vậy. Hãy nghe Lyudmila Alexeyeva, một trong những nhà sáng lập của một tạp chí ngầm quan trọng nhằm tôn vinh sự thật, tờ A Chronicle of Current Events, mô tả về sự cuốn hút gần giống với tôn giáo:

“Đối với từng người trong chúng tôi, làm việc cho tờ Chronicle có nghĩa là cam kết trung thành với sự thật, nó có nghĩa phải gội sạch bản thân khỏi mọi dơ bẩn của việc ‘suy nghĩ nước đôi’ vốn đã tràn ngập mọi giai đoạn trong đời sống Liên Xô,” bà viết. “Tác động của Chronicle là không thể đảo ngược. Mỗi người trong chúng tôi đã trải qua điều này một mình, nhưng ai cũng biết những người khác cũng đã trải qua cuộc tái sinh đạo đức này.”

Liệu hành trình “ngầm” nhằm tìm kiếm sự thật dựa trên các báo cáo khách quan, thận trọng này có góp phần thúc đẩy sự tan rã của Liên Xô?

Thật khó để xác định, vì còn có rất nhiều yếu tố khác, đặc biệt về kinh tế, cũng góp phần vào sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào cuối những năm 1980. Nhưng nó đã ảnh hưởng đến cách Liên Xô tan rã. Không giống như Trung Quốc, vốn cũng phải đối mặt với một thách thức lớn đối với quyền lực của đảng cộng sản vào năm 1989, Liên Xô không thể hy vọng tự cải cách chỉ bằng perestroika (về kinh tế). Việc Gorbachev thông qua khái niệm glasnost đã thừa nhận rằng cũng cần phải thay đổi xã hội dân sự nữa.

Các nhà bất đồng chính kiến đã tạo ra kỳ vọng rằng có thể sẽ có một loại ngôn ngữ khác, một ngôn ngữ thể hiện được thực tế mà không bị sàng lọc qua các mệnh lệnh của Liên Xô. Họ khao khát sự trung thực và minh bạch ở một quốc gia mà ngay cả tỷ lệ tự tử cũng được coi là bí mật nhà nước. Samizdat cung cấp một phương tiện để họ đạt được mục đích này.

Và những sự thật, không ngừng xếp chồng lên nhau, đã trở thành cách mà các nhà bất đồng chính kiến xây dựng một nước Nga khác, nơi mà họ hy vọng một ngày nào đó có thể đứng lên và vượt qua tất cả những điều dối trá.”

Trích từ http://nghiencuuquocte.org/…/bat-dong-chinh-kien-su-va-su-…/

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor
Image may contain: night and outdoor
 

WHO IS TRAN DAI QUANG?

From facebook:  Hoa Kim Ngo shared Phạm Thanh Nghiên‘s post.
 

WHO IS TRAN DAI QUANG?
(Trần Trung Đạo)

Khắp nơi đang bàn tán về bức ảnh Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull chụp và sau đó đăng trên Twitter của ông. Nhiều người đã phân tích, tôi chỉ xin góp thêm một hai ý về bang giao quốc tế.

Bức ảnh có ba người, ngoài ông ra còn có Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch CSTQ Tập Cận Bình với lời ghi chú “Gặp gỡ Donald Trump và Chủ tịch Tập tại APEC2017, cùng nhau làm việc để bảo vệ an toàn và thịnh vượng của khu vực chúng ta.” (Catching up with @realDonaldTrump & President Xi at # APEC2017 working together to secure our region’s safety & prosperity.)

Cùng lúc, một phóng viên của Thông Tấn Xã Việt Nam cũng chụp nhưng có Chủ tịch CSVN Trần Đại Quang và phổ biến rộng rãi trên các báo Việt Nam.

Nếu phóng viên không chụp hay Thông Tấn Xã Việt Nam không khoe khoang bức ảnh thì có lẽ không ai biết Thủ tướng Úc đã cắt bớt hay không chụp Chủ tịch CSVN Trần Đại Quang.

Cắt bớt hay không chụp Trần Đại Quang về ý nghĩa cũng giống nhau.

Trong ý định của Thủ tướng Malcolm Turnbull vốn đã không có hình ảnh người đóng vai “Chủ tịch nước Việt Nam” đang đứng bên cạnh Tổng thống Donald Trump. Ông chỉ chú ý đến Donald Trump và Tập Cận Bình vì họ là những con người có quyền lực.

Nếu hôm nay có ai đó bất chợt nhắc tới tên “Trần Đại Quang”, có thể Thủ tướng Úc sẽ hỏi ngược “Who is Tran Dai Quang?”

Không giống như các chế độ dân chủ, nơi mà các chức vụ lãnh đạo do dân bầu, vai “chủ tịch nước” dưới chế độ CS chỉ là một vai phụ và rất ít được các lãnh đạo thế giới quan tâm.

Bằng chứng.

Nikolai Podgorny là Chủ tịch Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết kiêm Chủ Tịch Sô Viết Tối Cao suốt 12 năm, 1965-1977, nhưng thế giới ít ai biết đến Nikolai Podgorny. Hiệp ước Giới hạn Vũ khí Chiến lược (SALT I) ký ngày 26 tháng 5, 1972 được ký giữa Tổng thống Richard Nixon và Tổng Bí Thư đảng CS Liên Sô Leonid Brezhnev chứ không phải ký với Chủ tich nước Nikolai Podgorny.

Đặng Tiểu Bình viếng thăm Mỹ vào tháng Giêng 1979 và được Tổng thống Jimmy Carter tiếp đãi như quốc khách mặc dù chức vụ của ông ta chỉ là Phó Thủ tướng. Tất cả hiệp định và cam kết thay mặt Trung Cộng đều qua họ Đặng. Tuy nhiên xin lưu ý, trong thời gian đó Chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Lý Tiên Niệm (1983-1988) và theo sau bởi Dương Thượng Côn (1988-1993). Nhưng bao nhiêu lãnh đạo thế giới biết Lý Tiên Niệm và Dương Thượng Côn là ai? Chắc không nhiều.

Một số người Việt trong nước tỏ ra bất bình với Thủ tướng Malcolm Turnbull và cho rằng ông khinh thường dân tộc Việt Nam. Một người nhận xét “đến nhà người ta phải biết ai là chủ nhà.”

Thủ tướng Úc không khinh thường dân tộc Việt vì Trần Đại Quang không đại diện cho dân tộc Việt và nhà Việt Nam.

Thủ tướng Malcolm Turnbull rõ ràng muốn nhấn mạnh đến yếu tố bảo vệ “an toàn và thịnh vượng” cho khu vực Nam Thái Bình Dương, và nếu vậy thì anh chàng CSVN đứng bên cạnh đó chẳng đóng vai trò gì tích cực và quan trọng để xứng đáng đứng chung trong bức hình.

Nếu phải phân tích cho sâu, hành động của Thủ tướng Malcolm Turnbull cho thấy ông xem thường chế độ CS, mà càng xem thường chế độ CS bao nhiêu ông càng kính trọng và cảm thông với dân tộc Việt Nam đang chịu đựng bấy nhiêu.

Trần Trung Đạo

09/11/1956: Jean-Paul Sartre từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

 

09/11/1956: Jean-Paul Sartre từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

Nguồn: Sartre renounces communistsHistory.com

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vào ngày này năm 1956, nhà triết học và nhà văn người Pháp Jean-Paul Sartre – trước đây từng là một người ngưỡng mộ Liên Xô – giờ lại lên tiếng tố cáo cả Liên Xô lẫn hệ thống cộng sản của nước này sau cuộc xâm lược tàn bạo của Liên Xô vào Hungary.

Jean-Paul Sartre, sinh ra ở Paris vào năm 1905, là một trong những đại diện hàng đầu cho chủ nghĩa hiện sinh, một phong trào triết học cổ vũ cho bản tính tự do trong sự tồn tại của cá nhân con người, đồng thời tiếc thương cho sự vô nghĩa vốn có của nó. Là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết, kịch và luận văn triết học, Sartre đã từ chối Giải Nobel năm 1964 vì lý do một nhà văn “nên từ chối để bản thân mình bị biến thành một thể chế.” Tuy nhiên, chính Sartre đã là một thể chế: đầu tiên là như tiếng nói của chủ nghĩa hiện sinh và sau đó như lương tâm của chủ nghĩa cộng sản.

Khi còn là một sinh viên ở Paris và Berlin, Sartre bị ảnh hưởng rất nhiều bởi triết học Đức, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh của Martin Heidegger và phương pháp hiện tượng học của Edmund Hussel, người đã ủng hộ một cách thận trọng, không thiên vị đối với việc mô tả ngắn gọn. Tác phẩm chính đầu tiên của Sartre là cuốn tiểu thuyết La Nausée (Nausea/Buồn Nôn, 1938), một câu chuyện về nỗi tức giận hiện sinh, viết dưới dạng nhật ký. Các công trình hiện sinh quan trọng khác của ông là Huis Clos (No Exit/Không Lối thoát, 1946) và L’Être et le néant (Being and Nothingness/Hiện hữu và Hư không, 1956).

Sau khi Thế chiến II nổ ra vào năm 1939, Sartre đã từng phục vụ trong quân đội Pháp trước khi trở thành tù binh chiến tranh từ năm 1940 đến năm 1941. Sau khi được thả ra, ông đã định cư tại Paris (khi ấy đang bị Đức chiếm đóng), nơi ông giảng dạy, sáng tác và liên kết với quân Kháng chiến Pháp. Chính trong thời kỳ chiến tranh này, chủ nghĩa Marx đã phát triển thành tình yêu trí tuệ thứ hai của Sartre. Mặc dù không bao giờ tham gia Đảng Cộng sản Pháp, ông là một trong những người cộng sản nổi tiếng nhất của Pháp, và thường xuyên lên tiếng ủng hộ Liên Xô và các chính sách của nước này. Năm 1954, ông đã đến thăm Liên Xô.

Sau khi quân đội Liên Xô xâm lược Hungary vào ngày 04/11/1956, Sartre đã lên án sự can thiệp của Liên Xô và việc Đảng Cộng sản Pháp luôn tuân theo mệnh lệnh từ Moskva. Ngày 09/11, trên tạp chí Pháp L’Express, ông tuyên bố: “Tôi cực lực lên án cuộc xâm lược của Liên Xô mà không hề có chút do dự nào. Dù không đặt bất cứ trách nhiệm nào lên người dân Nga, tôi vẫn nhấn mạnh rằng chính phủ hiện tại của họ đã phạm tội …. Và tội ác, đối với tôi, không chỉ là việc xe tăng của quân đội xâm lăng Budapest, mà là sự thật rằng điều này đã trở nên khả dĩ bởi mười hai năm khủng bố và hành động ngu xuẩn … Hiện tại hay tương lai tôi đều không thể thiết lập lại bất cứ hình thức liên lạc nào với những người hiện đang đứng đầu [Đảng Cộng sản Pháp]. Mỗi câu họ nói, mỗi hành động mà họ thực hiện đều là đỉnh điểm của 30 năm gian dối và bảo thủ.”

Mặc dù hy vọng của Sartre đối với chủ nghĩa cộng sản đã bị nghiền nát, ông vẫn tiếp tục ủng hộ chủ nghĩa Marx và tìm cách phát triển một loại chủ nghĩa xã hội mới trong cuốn Questions de méthode (Search for a Method/Tìm kiếm một Phương pháp, 1960). Sartre chính thức đoạn tuyệt với Liên Xô vào năm 1968 khi nước này đàn áp phong trào Mùa xuân Praha của Tiệp Khắc. Sau đó, sự trung thành của Sartre đã được dành cho các nhà cách mạng trẻ tuổi ở Pháp, và đôi khi ông còn trở thành biên tập viên chuyên đề cho các tờ báo nhỏ cấp tiến. Tác phẩm chính cuối cùng của ông là một nghiên cứu đồ sộ gồm bốn phần về nhà văn người Pháp sống vào thế kỷ 19, Gustave Flaubert. Jean-Paul Sartre qua đời vào năm 1980, và đám tang của ông đã có 25.000 người tham dự.

Trung Quốc trở về với sự cai trị độc tài

Trung Quốc trở về với sự cai trị độc tài

Nguồn: Minxin Pei: “China’s Return to Strongman Rule”,  Foreign Affairs, 1 November 2017

Người dịch: Huỳnh Hoa

Ý nghĩa việc thâu tóm quyền lực của Tập Cận Bình

Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu trong chính trị Trung Quốc. Vào ngày 24 tháng 10, khi đại hội toàn quốc lần thứ 19 của đảng Cộng sản Trung Quốc hạ màn, các đại biểu của đảng đã sửa đổi điều lệ của tổ chức này để thiêng hóa một nguyên tắc ý thức hệ có vai trò dẫn dắt mới: “Tư tưởng Tập Cận Bình” (Xi Jinping). Ít có nhà quan sát nào biết chính xác học thuyết này dẫn tới cái gì – đó là một tập hợp vô hình vô ảnh những ý tưởng về duy trì nhà nước độc đảng của Trung Quốc và chuyển hóa đất nước thành một cường quốc toàn cầu – nhưng đa số đều lập tức nắm được cái biểu trưng chính trị trong sự ra đời học thuyết này. Đảng Cộng sản đã đề cao những đóng góp về ý thức hệ của nhà lãnh đạo Trung Quốc lên ngang tầm với những đóng góp của Mao Trạch Đông (Mao Zedong) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), hai lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc duy nhất có ý tưởng được thánh hóa như vậy.

Đây mới chỉ là dấu hiệu đầu tiên rằng ông Tập đã giành được một thắng lợi chính trị quan trọng tại đại hội đảng. Quy mô thực sự của chiến thắng của ông trở nên rõ ràng vào ngày hôm sau, khi các đại biểu đảng chọn ra các ủy viên mới của ủy ban thường vụ bộ chính trị, cơ quan quyết định cấp cao nhất của Trung Quốc. Ông Tập lấp đầy cái ủy ban bảy người này bằng những người trung thành với ông, tất cả đều quá già để có thể có cơ hội lên thay vị trí của ông trong đại hội đảng lần tới vào năm 2022. Kết quả là ông Tập sẽ cai trị 15 năm nữa và có thể lâu hơn.

Tuy có vẻ rất vững mạnh, giờ đây ông Tập phải có đủ vốn chính trị để bảo đảm một nhiệm kỳ kéo dài trong tư cách lãnh tụ Trung Quốc. Trong thực tế, ông sẽ cần thực hiện lời cam kết tái cân bằng và làm cho bền vững đà tăng trưởng kinh tế và tái cơ cấu hệ thống tư pháp của Trung Quốc.

Sự gia tăng quyền lực của ông Tập

Trong số bảy ủy viên thường trực bộ chính trị khóa trước của đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ hai người còn tại nhiệm: ông Tập và người phó của ông, thủ tướng Lý Khắc Cường (Li Keqiang). Năm ủy viên khác của cơ quan này là người mới và bốn trong số họ là thân tín của ông Tập.

Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), nhân vật thứ ba và mới của đảng, đã gây dựng một tình bạn thân thiết với ông Tập hơn 30 năm về trước và là chánh văn phòng của ông Tập trong nhiệm kỳ đầu của ông, từ năm 2007. Một thuộc hạ trung thành khác, ông Triệu Lạc Tế (Zhao Leji) sẽ là người chỉ huy mới của công cuộc chống tham nhũng, đóng vai người canh tay chủ lực thực hành chỉ thị của ông Tập. Người lãnh đạo cũ của cơ quan này, ông Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan) đã giữ vai trò người xoay chuyển trong việc giúp ông Tập loại bỏ các đối thủ và củng cố quyền lực trong nhiệm kỳ đầu.

Nhiều nhà quan sát Trung Quốc đã nhận ra hai gương mặt mới và khác trong ủy ban thường vụ, ông Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) và Hàn Chính (Han Zheng), là thành viên của cái gọi là Nhóm Thượng Hải – một nhóm đầu sỏ câu kết với cựu chủ tịch Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) – một lối suy nghĩ nhằm đặt nghi vấn về lòng trung thành của hai ông này đối với ông Tập. Nhưng cách đánh giá như vậy là không chính xác. Ông Vương đã từng là cố vấn chính về ý thức hệ cho cả ba đời lãnh tụ đảng – ông Giang, ông Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) và ông Tập – và không có khả năng ông ta sẽ gắn bó với nhóm của ông Giang để gây nguy hiểm cho mối quan hệ với ông Tập sau khi nhóm ông Giang đã bị tiêu hao nhiều vì đòn phép chống tham nhũng của ông Tập. Ông Hàn cũng vậy, ông ta là người có năng lực, một nhà kỹ trị điềm tĩnh không có sự trung thành vĩnh viễn với Nhóm Thượng Hải. Thực ra, khi ông Tập làm bí thư Thượng Hải trong các năm 2006-2007 thì ông Hàn đã là thị trưởng thành phố và là cánh tay mặt của ông Tập. Ủy viên thứ bảy trong ủy ban thường vụ là ông Uông Dương (Wang Yang), một người có quan hệ với Nhóm Đoàn Thanh niên đối lập. Ông Uông sẽ trở thành lãnh đạo của hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp) – một cơ quan tư vấn của đảng.

Ông Tập cũng thành công trong việc lấp đầy bộ chính trị 25 thành viên bằng những đồng minh của mình. Có ít nhất 11 trong số 15 thành viên mới của bộ chính trị nằm trong nhóm của ông Tập. Kết quả là, giờ đây ông có thể giành tới 18 phiếu trong bộ chính trị. Các quyết định của ông sẽ được bộ chính trị và ủy ban thường vụ phê chuẩn với số phiếu áp đảo, từ đó sẽ có quyền lực phi thường. Hơn thế nữa, các đồng minh của ông Tập trong bộ chính trị, một số người còn khá trẻ, sẽ là những ứng viên mạnh để được đưa vào ủy ban thường vụ trong đại hội đảng lần thứ 20 vào năm 2022.

Thắng lợi chính trị lớn lao nhất mà ông Tập giành được tại đại hội là sự chấm dứt thông lệ của đảng, theo đó một nhà lãnh đạo mới sẽ được chính thức đề bạt ít nhất 5 năm trước ngày nhận chuyển giao quyền lực. Truyền thống này có từ năm 1992, khi ông Đặng chọn ông Hồ làm người kế tục ông Giang mười năm trước ngày ông Hồ đảm nhiệm chức vụ. Tương tự như vậy năm 2007 đảng đã chọn ông Tập làm người kế nhiệm ông Hồ. Thông lệ này làm giảm rủi ro tranh giành quyền kế tục trong đảng và giúp thực thi quy định không chính thức về giới hạn số nhiệm kỳ của các lãnh đạo cấp cao nhất là hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Nhưng đảng chưa bao giờ pháp chế hóa những truyền thống này trong điều lệ của mình và một lãnh đạo đương nhiệm muốn tìm cách kéo dài sự cai trị của mình sẽ luôn có thể chấm dứt các truyền thống đó nếu như có đủ quyền lực.

Đây rõ ràng là trường hợp của ông Tập; ông và các đồng minh của ông đã đi những nước cờ xuất sắc để thoát ra khỏi tiền lệ. Trước tiên, vào mùa thu năm 2016, đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức phong ông Tập là “lãnh tụ hạt nhân” (core leader) của đảng, khiến ông là lãnh tụ duy nhất từ thời ông Đặng tự mình có được cái danh hiệu đáng thèm muốn ấy và gửi một thông điệp cho các nhân vật cao cấp khác rằng vị trí của ông Tập là bất khả xâm phạm. (Ông Giang cũng được làm core leader nhưng do ông Đặng phong, còn ông Hồ không bao giờ nhận được danh hiệu này). Vài tháng sau đó, vào tháng Giêng năm nay, các đặc vụ an ninh Trung Quốc đã bắt cóc nhà tài phiệt Tiểu Kiến Hoa (Xiao Jianhua) tại một căn hộ trong khu Four Seasons ở Hong Kong. Vụ bắt cóc nhằm ngăn chặn những thách thức tiềm tàng đối với kế hoạch của ông Tập: là nhà tài phiệt cung cấp tiền bạc cho nhiều lãnh đạo chóp bu Trung Quốc, ông Tiểu có khả năng nắm giữ nhiều thông tin có thể dùng để buộc tội một số đối thủ của Tập.

Tháng Bảy, Tập có thêm một động tác nữa: ra lệnh bắt giam bí thư đảng thành phố Trùng Khánh Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai) về tội tham nhũng. Vụ hạ bệ ông Tôn có nhiều ý nghĩa, một phần vì ông này kết giao với nhóm ông Giang và còn vì ông này còn trẻ đến mức nếu để cho ông ta yên thì ông ta sẽ là một người kế nhiệm hợp lý của ông Tập. (Ủy viên bộ chính trị nói chung phải dưới 55 tuổi thì mới đủ điều kiện xem xét làm người kế tục tương lai). Giờ đây sau khi ông Tôn đã bị loại bỏ thì chỉ còn một ủy viên bộ chính trị có tuổi đủ trẻ để có thể làm người kế nhiệm ông Tập vào năm 2022: cựu bí thư tỉnh Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (Hu Chunhua). Nhưng ông Hồ 55 tuổi này vừa rồi không được đề bạt vào ủy ban thường vụ bộ chính trị, rõ ràng ông ta không đủ điều kiện để kế nhiệm ông Tập vào năm 2022 nữa. Ông Hồ có khả năng sẽ được bố trí chức phó chủ tịch nặng tính tượng trưng vào tháng Ba năm tới.

Với ít sự lựa chọn như vậy, ông Tập sẽ có cái cớ hoàn hảo để trì hoãn việc đưa ra quyết định ai là người sẽ kế nhiệm ông. Sự thống trị của ông trong bộ chính trị và ủy ban thường vụ sẽ giúp ông có đủ quyền lực để làm như vậy, bảo đảm cho ông có thêm nhiệm kỳ lãnh đạo thứ ba tại đại hội kế tiếp của đảng vào năm 2022.

Ông Tập sẽ sửa đổi điều lệ đảng và hiến pháp Trung Quốc để hợp pháp hóa sự kéo dài quyền lực của ông. Chẳng hạn như ông có thể đảm nhiệm vị trí chủ tịch đảng – khôi phục một chức vụ đã bị bãi bỏ trong điều lệ đảng – và khởi động lại việc tính thời gian lãnh đạo đảng của ông. Còn đối với giới hạn hai nhiệm kỳ ở chức vụ chủ tịch nhà nước Trung Quốc (thường được nói tới “chức chủ tịch” (presidency) trong tiếng Anh nhưng để phù hợp ra phải dịch là “chức chủ tịch hội đồng” (chairmanship)) nó có thể được thay đổi chỉ với một sự điều chỉnh về ngữ nghĩa: các quan chức có thể sửa đổi hiến pháp Trung Quốc để chức danh chính thức của ông Tập trở thành “chủ tịch” (president). Bằng việc bảo đảm thêm hai nhiệm kỳ 5 năm mới với tư cách người đứng đầu cả đảng và nhà nước, ông Tập sẽ có thể cầm quyền cho đến tận năm 2032.

Pháp trị

Những câu hỏi lớn nhất về kỷ nguyên mới của Trung Quốc đều xoay quanh chương trình của ông Tập. Ít ai kỳ vọng ông Tập sẽ trở thành nhà cải cách chính trị do những cuộc đàn áp xã hội dân sự và quyền tự do internet trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông. Nhưng những người lạc quan tin rằng, quyền lực tối cao mới giành được của ông Tập sẽ khiến ông được tự do theo đuổi những cuộc cải cách khác nữa, giới thiệu các cải cách kinh tế thân thiện với thị trường và tái cơ cấu hệ thống tư pháp Trung Quốc để bảo vệ quyền tư hữu và thúc đẩy phát triển một cách hiệu quả hơn.

Trong thực tế, ít có điều gì cho thấy rằng một làn sóng mới về cải tổ kinh tế đang hình thành. Ông Tập đã thủ đắc quyền lực to lớn trong suốt nhiệm kỳ đầu, năm 2013 ông đã đưa ra kế hoạch đầy tham vọng nhằm đại tu nền kinh tế Trung Quốc để “[cho phép] các lực lượng thị trường đóng một vai trò quyết định” như kế hoạch đã công bố. Nhưng từ ngày đó, ông chỉ làm được vài bước tiến rất khiêm tốn. Nhờ chính sách tiền tệ lỏng lẻo, mô hình tăng trưởng do đầu tư thúc đẩy và được tín dụng tiếp nhiên liệu vẫn đứng vững, góp phần nâng tỷ lệ nợ so với tổng sản lượng GDP của Trung Quốc từ mức 215% năm 2012 lên 242% năm 2016. Và mặc dù các doanh nghiệp nhà nước nợ nần đầm đìa của Trung Quốc đang trì kéo nền kinh tế quốc gia, chúng vẫn có một vị trí đặc biệt trong tầm nhìn tương lai của ông Tập. Tháng 7-2016, ông lập luận rằng các doanh nghiệp này cần phải trở nên “mạnh hơn, tốt hơn, lớn hơn, không có sự dè dặt nào”.

Niềm tin của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào các chính sách hiện hành là một lý do khác để các nhà quan sát không nên đặt quá nhiều hy vọng vào cải cách kinh tế. Mặc dù đã có những lời cảnh báo rằng nợ nần không chống đỡ được sẽ dẫn tới sụp đổ tài chính, nhưng Bắc Kinh vẫn chưa phải trả một cái giá đắt cho việc bám chặt vào chiến lược bơm tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng. Thật vậy, hoạt động kinh tế gần đây của Trung Quốc – tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ vượt qua mục tiêu chính thức là từ 6,5-6,7% trong năm nay – đã làm sâu sắc thêm niềm tin của các nhà hoạch định chính sách vào mô hình hiện hành.

Cuối cùng, bởi vì tất cả các cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ trong quá khứ đều được thôi thúc bởi những vụ khủng hoảng, những cú sốc nên các nhà quan sát nên giảm nhẹ cái khả năng Bắc Kinh sẽ theo đuổi những sự cải tổ sâu rộng một khi nền kinh tế vẫn đang vận hành tương đối tốt như ngày hôm nay.

Thay vì vậy, ưu tiên chính trị hàng đầu của ông Tập trong tương lai gần rất có thể là cải tổ toàn diện hệ thống tư pháp Trung Quốc, không phải nhắm tới sự thiết lập nhà nước pháp quyền (rule of law) thật sự mà là thực hiện pháp trị (rule by law), theo đó nhà nước sẽ dùng hệ thống tư pháp để duy trì sự kiểm soát về chính trị, xã hội và kinh tế. Nếu như vậy thì kết quả rất có thể là sự đàn áp chứ không phải là sự tiến bộ.

Có ba dấu hiệu cho thấy ông Tập sẽ tập trung vào cải cách tư pháp. Một là, đại hội đảng đã phê chuẩn kế hoạch của ông Tập cải tổ hệ thống tư pháp qua việc thành lập một “nhóm lãnh đạo về quản trị toàn diện đất nước theo luật pháp”, một cơ quan mà ông Tập là người đứng đầu. Thứ đến, ông Tập đã bổ nhiệm tay chân thân tín nhất của ông, ông Lật Chiến Thư, làm chủ tịch Đại hội Nhân dân toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc, cơ quan lập pháp của quốc gia, sẽ soạn thảo và thông qua các luật lệ thiết yếu cho việc hiện thực hóa tầm nhìn của ông Tập. Cả hai biện pháp này cho thấy rằng, chẳng bao lâu nữa, cải cách tư pháp sẽ nhận được rất nhiều sự quan tâm ở cấp cao. Cuối cùng, ông Tập là người tin tưởng sâu sắc vào truyền thống pháp trị của Trung Quốc và trọng tâm của nhóm lãnh đạo mới về quản trị “toàn diện” phản ánh tham vọng đó.

Như đã thấy, trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông Tập đã ban hành một số luật quan trọng nhằm kiểm soát xã hội, siết chặt hoạt động an ninh mạng của Trung Quốc và hạn chế các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Nhưng để tái xác nhận quyền lực của đảng đối với xã hội và để cung cấp nền tảng pháp lý vững chắc cho chế độ độc tài chuyên chế thì còn nhiều chuyện phải làm. Ví dụ, Trung Quốc có thể áp đặt thêm nhiều hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ nội địa, ban hành những luật lệ mới về giáo dục tư tưởng trong các trường đại học, cao đẳng hoặc viết lại bộ luật hình sự sao cho nó trở thành công cụ ngày càng hiệu quả trong việc trấn áp sự phản kháng trong nước. Mục đích sẽ là biến đổi Trung Quốc từ một chế độ tản quyền hậu toàn trị chủ nghĩa thành một chế độ độc tài chuyên chế được cai trị bởi một đảng Leninist có kỷ luật.

Thói quan liêu

Trong ngắn hạn, các kế hoạch của ông Tập sẽ không gặp nhiều sự phản kháng công khai. Cuộc đàn áp thẳng tay giới bất đồng chính kiến và xã hội dân sự của ông đã có hiệu quả một cách đáng buồn, và đã xóa bỏ mọi mối đe dọa đối với sự cai trị của chế độ trong tương lai gần. Giờ đây, vai trò tối thượng của ông Tập trong đảng Cộng sản đã bao trùm tới mức không thể hình dung được có đồng nghiệp nào của ông dám đứng ra thách thức ông.

Sự phản kháng thật sự đối với tham vọng của ông Tập sẽ đến từ guồng máy hành chính quan liêu to lớn của Trung Quốc. Các quan chức cấp thấp và cấp trung của chế độ, số lượng lên tới hàng triệu người, là những con người có tính tư lợi đầu tiên và cao nhất, và họ quan tâm nhiều tới chuyện gia tăng đặc quyền và của cải của chính mình hơn là thúc đẩy những mục tiêu ý thức hệ trừu tượng. Khi ông Tập giải thể cơ chế chia sẻ quyền lực và bổng lộc từng là đặc trưng của trật tự ở Trung Quốc thời kỳ sau biến cố Thiên An Môn, triển vọng về quyền lực và tiền bạc của những cán bộ trong guồng máy quan liêu này cũng phai mờ dần. Đã không còn những băng nhóm tinh hoa để họ nhập vào, cũng không có nhiều người đỡ đầu để họ phục vụ. Ngày nay, mỗi quan chức đều phải cạnh tranh giành ân huệ của một chế độ do một nhóm duy nhất thống trị, và có rất ít con đường để thăng tiến so với thời kỳ trước khi ông Tập nắm quyền. Tệ hơn nữa, công cuộc trấn áp tham nhũng của ông Tập đã xóa sổ những hành vi hối lộ béo bở, những bổng lộc từng bảo đảm cho lối sống của giới cán bộ trong suốt hai thập kỷ qua. Trừ phi ông Tập bớt nghiêm khắc và cho phép đa số quan chức trong guồng máy được tiếp tục thu vén cho cá nhân họ, lòng trung thành sẽ mất đi sức hấp dẫn của nó.

Tất nhiên phần lớn các cán bộ cấp thấp hơn sẽ không từ bỏ đảng Cộng sản hoặc biểu lộ công khai sự bất mãn của họ. Thay vì vậy họ sẽ làm những gì mà guồng máy quan lại Trung Hoa đã làm trong hàng ngàn năm qua: phản ứng một cách thụ động với những mệnh lệnh từ cấp cao nhất. Mục tiêu của những cán bộ này là làm cho ông Tập phải nhận ra giá trị của họ và tưởng thưởng cho họ một cách tương xứng, có thể bằng cách chấm dứt cuộc trấn áp tham nhũng và yêu cầu thắt lưng buộc bụng. Cách thức duy nhất để đạt được điều này là thông qua sự tránh né, dối gạt của hệ thống quan liêu, làm chậm lại vòng quay của guồng máy hành chính và làm trì trệ cỗ máy kinh tế của Trung Quốc nhằm thu hút sự chú ý của ông Tập. Cho dù quyền lực của ông Tập có sâu rộng đến đâu thì nó cũng bị xói mòn nhanh chóng nếu tăng trưởng kinh tế bị trì trệ vài năm và giới quan chức Trung Quốc biết rõ điều đó.

Ông Tập không phải là nhà lãnh đạo đầy quyền năng đầu tiên của Trung Quốc phải đối mặt với guồng máy quan liêu cứng đầu cứng cổ. Ông Mao cũng đã đương đầu với một thách thức tương tự vào đầu thập niên 1960, khi ông nghĩ rằng các cán bộ đảng không có đủ nhiệt tình cách mạng. Một trong những động cơ để ông Mao phát động cuộc Cách mạng Văn hóa là sử dụng khủng bố của đám đông để đưa guồng máy quan liêu vào kỷ luật và phục hồi tinh thần cách mạng.

Nhưng ông Tập không phải là người tin tưởng vào các phong trào quần chúng và ông cũng không có cái uy tín tuyệt đối của ông Mao, người có thể huy động hàng trăm triệu thường dân Trung Quốc vào một hành động chung. Thay vì vậy, ông Tập phải tìm cách mở rộng phạm vi quyền lực của ông từ cấp ủy ban trung ương xuống tới các tỉnh thành quận huyện. Đó là một công việc nặng nhọc và tốn nhiều thời gian, chẳng hạn như nỗ lực xem xét và tuyển dụng cán bộ có triển vọng ở cấp địa phương.

Nhiều viên chức cấp thấp và cấp trung sẽ gia nhập phe của ông Tập. Nhưng khi cơ sở của ông mở rộng, nó cũng có thể gieo những hạt mầm tranh chấp trong nội bộ đảng. Biết rằng trận chiến kế tiếp để giành quyền lực tối thượng sẽ diễn ra trong 10, 15 năm nữa, khi ông Tập tiến tới ngày ra khỏi quyền lực, những thủ hạ bề ngoài có vẻ trung thành của ông sẽ quan tâm nhiều tới việc xây dựng quyền lực của riêng họ hơn là thực thi chương trình của ông Tập. Đây là chuyện đã xảy ra trong thời Cách mạng Văn hóa: sau khi Mao diệt xong các đối thủ thì những thủ hạ trung thành của ông ta, nhóm Lâm Bưu (Lin Biao) và nhóm Tứ Nhân Bang (Gang of Four) đã nhanh chóng đối địch với nhau vì lo sợ rằng nhóm kia sẽ tự đặt mình vào vị thế nối nghiệp vị chủ tịch già nua ấy.

Trong bàn tay của Tập

Trong những năm tháng sau khi Mao Trạch Đông qua đời, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu hiểu rằng, tập trung quyền lực vào tay một nhân vật đơn lẻ có thể gây thảm họa cho đảng. Đó là lý do tại sao những người sống sót sau cuộc Cách mạng Văn hóa đã tập hợp lại trong thập niên 1980 để bảo đảm rằng không bao giờ một lãnh tụ như Mao lại có thể cai trị Trung Quốc. Những sự thay đổi mà nhóm này đưa ra – chẳng hạn như cơ chế lãnh đạo tập thể, những luật lệ không chính thức về sự kế nhiệm, và những sự bảo đảm ngầm về an ninh cho các lãnh đạo cấp cao – đã sinh ra một sự ổn định của giới tinh hoa trước đây chưa từng thấy trong lịch sử của đảng. Chúng cũng giúp cho chế độ tránh được những sai lầm nguy hiểm phát sinh từ sự giao phó quyền lực vào tay một cá nhân.

Các quan chức Trung Quốc dường như đã quên những bài học này. Giờ đây đảng Cộng sản đã quay lại với sự cai trị chuyên chế của một nhà độc tài, tương lai của nó sẽ phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất những quyết định của ông Tập. Sẽ có rất ít hạn chế về cách thức ông này đưa ra quyết định. Lần cuối cùng mà đảng có một lãnh tụ với quyền lực không bị kiểm soát như thế thì hậu quả là thảm họa. Chỉ có thể hy vọng rằng, lần này các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết những gì mà họ đang làm – và rằng kết quả sẽ không giống trước.

Nguồn bài dịch: Viet-studies 

Một phần của Bức tường Berlin được đưa về Fatima

From facebook: Anthanh Linhgiang added 5 new photos.

Fátima, Portugal ·

Một phần của Bức tường Berlin được đưa về Fatima như là dấu chứng và lời tri ân với Mẹ Fatima. Nhiều người (trong đó có tôi) tin rằng, chính nhờ sự phù hộ của Đức Mẹ mà nước Nga và khối Đông Âu đã từ bỏ chủ thuyết Cộng Sản vô thần để trở về với cội nguồn của họ. Điều đặc biệt là sự chuyển đổi hết sức nhẹ nhàng và an lành. Ước mong một ngày cho Việt Nam!

Xem thêm thông tin trên Wikipedia:

Bức tường Berlin (tiếng Đức: Berliner Mauer) từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là “Tường thành bảo vệ chống phát xít” (tiếng Đức: Antifaschistischer Schutzwall) và bị người dân Cộng hoà Liên bang Đức gọi là “Bức tường ô nhục” là một phần của biên giới nội địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người.

Image may contain: plant, tree and outdoor
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: 1 person, outdoor
Image may contain: outdoor

 

Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và phép lạ bị lãng quên

 Last Days In Vietnam full movie

httpv://www.youtube.com/watch?v=iu06xGdvRjY

Last Days In Vietnam full movie 

Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và phép lạ bị lãng quên

Đinh Từ Thức

Last days in Vietnam là bộ phim tài liệu mới nhất về những ngày cuối cùng trước khi VNCH tan rã vào 30 tháng 4, 1975. Trước đây đã có 2 bộ phim tài liệu với nội dung tương tự: The fall of Saigon và The lucky few. Bộ phim mới này đã gây tiếng vang trước khi được phổ biến rộng rãi.

Last days in Vietnam do Rory Kennedy, con gái út của bộ trưởng Tư pháp và nghị sĩ bị ám sát Robert Kennedy, sản xuất cho hệ thống PBS, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản. Bộ phim này mới được chiếu ra mắt tại một số rạp ở California, và Washington DC vào tháng 9 và đầu tháng 10, 2014, và sẽ được cho chiếu rộng rãi vào tháng 4, 2015.

Vì nội dung tương tự, có người tưởng lầm đây là một trong hai bộ phim cũ được chiếu lại. Thật ra, The fall of Saigon do Michael Dutfield sản xuất cho Discovery Channel đã ra đời từ 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất Sài Gòn. Còn The lucky few do Hải quân Hoa Kỳ (US Navy) sản xuất năm 2010, vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam Việt Nam, ghi lại vai trò của hộ tống hạm USS Kirk trong cuộc di tản của toàn thể hạm đội VNCH từ Sài Gòn tới Philippines.

“Hậu sinh khả úy”, tuy cùng là những tài liệu và nhân vật thật, nhưng bộ phim mới nhất có những ưu điểm so với hai bộ phim trước. Về mặt kỹ thuật, Last days in Vietnam được chiếu ở rạp, với màn ảnh lớn và âm thanh tốt, làm tăng cảm giác của người xem. Về nội dung, tuy cũng là phim tài liệu như 2 bộ phim trước, nhưng phim này “có đầu có đuôi” như một cuốn phim truyện. Xem xong, ngoài những hình ảnh đặc biệt, có khi lần đầu tiên được thấy, cuốn phim còn để lại trong lòng người xem những điều đáng suy nghĩ, về danh dự, về trách nhiệm, và tình người.

Từ hòa bình không danh dự…

Cuốn phim đã bắt đầu bằng hình ảnh và tài liệu về kết quả hội nghị hòa bình Paris 1973: Chấm dứt chiến tranh trong danh dự. Nhưng những người ký tên vào hiệp định và những người long trọng hứa bảo vệ hòa bình bằng mọi giá đã coi thường danh dự của mình. Sau khi quân chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam, và sau khi Tổng thống Nixon phải từ chức vì vụ Watergate, chiến tranh tiếp diễn tàn ác hơn trước khi có hiệp định hòa bình.

Frank Snepp, một cựu nhân viên CIA xuất hiện trong phim, nói hiệp định Paris là một “tuyệt tác mơ hồ”, hàm ý văn bản hiệp định hòa bình thiếu rõ ràng, khiến Cộng sản Hà Nội có thể gia tăng chiến tranh, chiếm trọn miền Nam trong 2 năm. Nhận định này không chính xác. Với Cộng sản, những người theo cơ hội chủ nghĩa, khi đặt bút ký vào một thỏa hiệp, là nắm lấy một điểm tựa đề chờ cơ hội, bất chấp văn bản thỏa hiệp rõ ràng hay mơ hồ. Dù văn bản thiếu rõ ràng, khi cơ hội chưa tới, họ vẫn có thể chờ.

Khi Nixon từ chức vào năm 1974, và quốc hội Hoa Kỳ bác yêu cầu tháo khoán 722 triệu mỹ kim cuối cùng đã hứa viện trợ cho Sài Gòn, là cơ hội trời cho, Hà Nội không còn sợ Mỹ trừng phạt, dù hiệp định hòa bình có rõ ràng hay không, họ vẫn tăng tốc cuộc chiến chiếm trọn miền Nam. Bằng chứng là hiệp định đình chiến Genève 1954 đã qui định rõ ràng các viên chức thuộc chính quyền Quốc gia phải vào phía nam, và phe Việt Minh phải tập kết ra phía bắc vĩ tuyến 17. Nhưng, lãnh đạo hàng đầu của Cộng sản như Lê Duẩn, đã cố tình vi phạm hiệp định ngay khi nó mới được bắt đầu thi hành, đã lên tầu cho mọi người thấy, rồi nửa đêm trốn ở lại, đặt cơ sở cho cuộc chiến sau này.

Với những người cộng sản, và đôi khi cả những người không cộng sản, danh dự chỉ là cái vỏ bọc cho cơ hội.

Chỉ 2 năm sau khi Washington và Hà Nội đạt được “hòa bình trong danh dự” tại Paris, bản đồ Việt Nam dưới vĩ tuyến 17 đã bị nhuộm đỏ trong nháy mắt, đưa tới hồi kết không thể tránh: Mỹ rời khỏi Việt Nam. Nhưng ra đi như thế nào, vào lúc nào, và với ai, là điều không đơn giản.

Đến trách nhiệm của người đi

Quân Mỹ chiến đấu đã rút hết khỏi Việt Nam từ sau hiệp định Paris, tuy vậy, vẫn còn lại mấy ngàn người Mỹ là nhân viên ngoại giao, các chuyên viên kỹ thuật, kiến thiết, doanh nhân, ngân hàng… Mỹ có trách nhiệm đưa hết người Mỹ về nước, và trách nhiệm cả với những người Việt đã tin tưởng, cộng tác, hay làm việc cho Mỹ.

Vào tháng 4, tin tình báo cho biết quân Cộng sản cố lấy Sài Gòn để mừng sinh nhật Hồ vào ngày 19 tháng 5, 1975. Mỹ cố gắng hoàn tất việc ra đi vào cuối tháng 4.

Ngược dòng với những người đôn đáo cố gắng ra đi, có những người từ ngoại quốc liều lĩnh quay lại Sài Gòn, như cựu đại úy Bộ binh Mỹ Stuart Herrington, cố gắng xoay sở đưa bạn bè hoặc thân nhân người Việt ra đi. Có 4 kế hoạch ra đi đã được dự trù: đầu tiên là máy bay thương mại, thứ nhì là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thủy, cuối cùng là máy bay trực thăng ra Hạm đội số 7.

Các kế hoạch trên đã không thể thực hiện như dự tính. Những ngày cuối tháng 4, 1975, có tới 5 ngả di tản khỏi Sài Gòn:

1- Đi theo ngả DAO, diễn ra trong 10 ngày cuối cùng của tháng 4, dành cho nhân viên quân sự người Mỹ, người Việt và thân nhân hoặc những người quen biết. Đây là cuộc di tản sớm nhất, kín đáo nhất, do một số giới chức quân sự Mỹ chủ trương, không qua sự đồng ý chính thức hoặc dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền VNCH. Có người đã dùng chữ “lậu” để chỉ ngả ra đi này, bằng máy bay quân sự Mỹ, lúc đầu là máy bay vận tải C-141 và C-130, bay từ Tân Sơn Nhứt tới căn cứ không quân Mỹ Clark Airbase ở Philippines. Sau khi Tân Sơn Nhứt và khu DAO tại đây bị pháo kích sáng sớm 29-4, trực thăng được sử dụng để chở người ra Hạm đội 7. Rất ít hình ảnh được phổ biến cả từ nơi đi và nơi đến của ngả di tản này.

2- Đi theo ngả tòa đại sứ Mỹ. Đây là cuộc di tản ồn ào nhất, lộ liễu nhất, và được chú ý nhiều nhất, bắt đầu từ sáng 29, chấm dứt sáng sớm hôm 30 tháng 4.

3- Đi bằng tầu Hải quân VNCH, rời Sài Gòn tối 29, tập trung ở Côn Sơn ngày 30 tháng 4, tới căn cứ hải quân Mỹ ở Subic Bay, Phi Luật Tân, ngày 7 tháng 5.

4- Một số cá nhân hoặc nhóm, một mình hoặc cùng với thân nhân đi bằng trực thăng loại nhỏ Huey của VNCH, một số không đủ nhiên liệu bay xa, được cho đáp xuống hộ tống hạm Mỹ USS Kirk, chiếc nầy hoạt động gần đất liền hơn Hạm đội 7.

Vì không đủ chỗ chứa, 13 trực thăng sau khi đáp đã bị đẩy xuống biển. Số đông hơn đủ nhiên liệu bay tới Hạm đội 7, gần 20 tầu, dưới quyền chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, xếp hàng chờ đợi cách Vũng Tầu khoảng trên 30 cây số. Tướng Nguyễn Cao Kỳ tự mình lái trực thăng chở tướng Ngô Quang Trưởng cũng đáp xuống Blue Ridge. Một quân nhân TQLC Mỹ kể lại, nhìn lên trời lúc đó, trực thăng tị nạn đông như đàn ong về tổ Có 5 chiếc bị đụng bể khi đáp, mảnh vỡ bay tứ tung, suýt gây tai nạn. Một chiếc rớt xuống biển.

Điều lạ trong Last days in Vietnam, vào thời máy quay phim còn rất hiếm, không rõ bằng cách nào bộ phim đã có được hình ảnh chuyến đi đầy kịch tính của gia đình Thiếu tá phi công Nguyễn văn Ba, khi ông lái chiếc trực thăng khổng lồ CH-47 đáp xuống sân vận động gần nhà, đón vợ và ba con nhỏ và bay đến USS Kirk. Trực thăng quá lớn, dài hơn 30 mét và nặng trên 10 tấn, nếu đáp xuống, có thể gây tai nạn, hoặc làm đắm tầu. Ông Ba đã tài tình cho máy bay quần rất thấp, hai con và vợ với con gái út 1 tuổi lần lượt nhảy xuống, để những bàn tay thủy thủ đỡ lấy. Riêng ông Ba, đã điều khiển cho trực thăng nghiêng về một phía, tạo thế cho cỗ máy trị giá trên 30 triệu đô la “chỏng gọng” trên mặt biển, cùng lúc phóng ra từ phía kia, lặn xuống để tránh những mảnh vỡ khi máy bay chạm nước. Mọi người hồi hộp căng thẳng chờ đợi, rồi reo hò mừng vui thấy đầu ông nhô lên khỏi mặt nước. Không phải chỉ có mình Thiếu tá Ba và vợ con ông là những người liều lĩnh. Những ai tự nguyện đứng dưới bụng chiếc trực thăng nặng hơn 20 ngàn lbs để đỡ người nhảy xuống cũng là những người can đảm cùng mình; chỉ một sơ sẩy nhỏ cũng toi mạng.

5- Đi bằng tầu buôn vào sáng 30 tháng 4, như Việt Nam Thương Tín, Trường Xuân, xà lan, và nhiều tầu nhỏ khác. Ngả di tản này cũng đầy hiểm nguy gian khổ. Chính trên boong tầu Việt Nam Thương Tín, nhà văn nhà báo Chu Tử đã thiệt mạng vào trưa 30-4 vì mảnh đạn pháo kích của cộng sản bắn đuổi theo người ra đi, trước cửa sông Lòng Tảo, ngang Vũng Tầu. Tầu Trường Xuân chở tới 4 ngàn người, vớt từ nhiều thuyền nhỏ, thiếu thốn đủ thứ, gian nan tới được Hồng Kông.

Còn một cuộc ra đi nữa bằng tầu, từ Cần Thơ, ít người biết tới. Khi được phỏng vấn về cuốn phim Last days in Vietnam, Rory Kennedy cho biết đã có đầy đủ tài liệu về chuyến đi này, nhưng sợ quá rườm rà, đã loại khỏi bộ phim. Ông lãnh sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ, khi được lệnh sử dụng 2 trực thăng để ra đi cùng những nhân viên người Mỹ, đã không đành lòng bỏ lại các nhân viên người Việt và thân nhân của họ, sợ họ sẽ bị cộng sản bách hại. Vì tình người, hành động theo lương tâm, ông bỏ trực thăng, dùng tiền của mình mua 2 chiếc tầu, chở tất cả 450 người rời lãnh sự quán theo sông ra biển. Hành trình cũng đầy gian nan, vừa bị bắn, vừa bị phía Hải quân VNCH cản trở. Cuối cùng cũng ra tới biển.

Cuốn phim Last days in Vietnam chỉ chú trọng nhiều tới cảnh ra đi từ tòa đại sứ, không có cảnh tới Hạm đội 7; một phần cảnh tới USS Kirk, và ít hơn về quang cảnh trên hạm đội Việt Nam. Hoàn toàn vắng bóng cuộc ra đi theo các ngả 1 và 5. Ấy là chưa kể cuộc di tản của Không quân VNCH, trước đó các phi công đã được lệnh lái một số phi cơ chiến đấu qua Thái Lan.

Người khổng lồ chậm chạp

Vì tình hình biến chuyển quá nhanh, sau khi phi trường Tân Sân Nhứt bị pháo kích vào đêm 28 rạng sáng 29, phá hư một số máy bay, đường băng, và 2 TQLC Mỹ thiệt mạng tại khu vực DAO, chỉ còn kế hoạch cuối cùng được thi hành: Di chuyển bằng trực thăng từ tòa đại sứ ra Hạm đội 7.

Mật hiệu tập trung để ra đi bằng mẩu tin “thời tiết Sài Gòn nóng 105 độ F và đang tăng”, tiếp theo là bài White Christmas được phát đi trên đài radio quân đội Mỹ vào khoảng hơn 10 giờ sáng 29-4. Những ai đợi lúc đó mới rời nhà coi như quá trễ. Trước tòa đại sứ đã đông nghẹt, khó chen chân vào.

Theo nhân chứng Jim Kean, sĩ quan chỉ huy Đại đội C TQLC có nhiệm vụ canh giữ tòa đại sứ, số đông lúc đó khoảng 10 ngàn người.

Thi hành một công tác lớn, dù là cỡ chiến dịch, thường chỉ do một bộ chỉ huy ra lệnh. Kế hoạch của Mỹ rút khỏi VNCH vào ngày cuối cùng liên hệ tới nhiều cơ quan, nhiều cấp chỉ huy khác nhau, ở rải rác trên nửa địa cầu, trải rộng 12 múi giờ. Vì thế, đã gặp nhiều trục trặc và chậm trễ đáng tiếc.

Tổng thống Ford và ngoại trưởng Kissinger trực tiếp theo dõi, và ra chỉ thị từ Bạch ốc. Đón người là Hạm đội 7, chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, dưới quyền Bộ tư lệnh Thái bình dương ở Hawaii. Phương tiện di chuyển và nhân sự thi hành thuộc Sư đoàn TQLC, chỉ huy từ chiến hạm Okinawa. Người chỉ huy tại hiện trường Sài Gòn là đại sứ Martin.

Sau khi tự mình tới Tân Sơn Nhứt quan sát những thiệt hại do cộng sản pháo kích gây ra vào hồi sáng sớm, đại sứ Martin đồng ý di tản theo kế hoạch cuối cùng bằng 75 trực thăng của TQLC, chở người từ tòa đại sứ ra thẳng Hạm đội 7. Một số người không thể vào được tòa đại sứ đã được bốc từ các địa điểm khác bằng trực thăng nhỏ, đưa vào khu DAO ở Tân Sơn Nhứt, lên trực thăng lớn ra Hạm đội 7. Bức hình nổi tiếng thế giới, chụp những người nối đuôi nhau trên cầu thang dẫn lên trực thăng mà nhiều người vẫn tưởng là đậu trên nóc tòa đại sứ. Thật ra, đó là tòa nhà ở số 22 đường Gia Long, bên dưới là trụ sở USAID, tầng trên cùng do CIA sử dụng.

Kế hoạch “Frequent Wind” được chính thức loan báo bắt đầu vào lúc 10:51 sáng 29-4. Nhưng vì các cấp chỉ huy mỗi thành phần trách nhiệm phải liên lạc, thảo thuận và xác nhận với nhau, rồi cấp thừa hành phải đợi lệnh từ cấp chỉ huy trực tiếp của mình. Kết quả là mãi tới 12:15 PM kế hoạch mới được lệnh thi hành.

Nhưng vẫn còn điều cần làm sáng tỏ, ví dụ, giờ nào là giờ chính thức; giờ GMT, giờ Washington, giờ Hawaii, giờ Okinawa, hay giờ Sài Gòn? Rồi vì quá nhiều thông tin viễn liên được gửi qua gửi lại giữa các cấp chỉ huy, hệ thống truyền tin bị quá tải, trục trặc. Cuối cùng, đến 3 giờ chiều, kế hoạch mới thực sự bắt đầu. Chiếc CH-53 đầu tiên bốc người từ tòa đại sứ đáp xuống tầu Blue Ridge vào lúc 3:40. Nếu không có những trục trặc chậm trễ này, khoảng thời gian phí phạm từ gần 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, đã giúp được hàng ngàn người đi thoát.

Tự mình làm con tin

Qua lời phát biểu của các viên chức xuất hiện trong Last days in Vietnam, cũng như theo quan điểm của một số bài điểm phim, đại sứ Martin là một người thiển cận, không biết rõ tình hình, và cứng đầu. Mãi đến những ngày cuối cùng, ông vẫn không chịu thừa nhận tình trạng tuyệt vọng của VNCH, không chính thức cho thi hành cuộc triệt thoái khỏi Việt Nam. Và cho đến ngày chót, ông vẫn cưỡng lại lệnh ra đi, cố ở lại cho đến lúc không thể trì hoãn thêm.

Người viết bài này nghĩ rằng đại sứ Martin là một người có tinh thần trách nhiệm cao, sáng suốt, và rất nặng tình với người Việt Nam.

Mọi người thừa biết, không có võ khí của Nga, Tầu, miền Bắc không thể đánh miền Nam, và không có sự giúp đỡ của Mỹ, miền Nam không thể ngăn được bước tiến của miền Bắc. Ngay cả những nước mạnh hơn, và trong thời bình, như Tây Đức và Nam Hàn, mỗi nơi cũng cần tới mấy chục ngàn quân Mỹ đồn trú thường trực, để đối phó với Cộng quân khi cần. Cho nên, giây phút Mỹ chính thức cuốn gói rời Sài Gòn, là tín hiệu toàn miền Nam rơi vào tay cộng sản. Xã hội sẽ náo loạn, ngay cả người Mỹ cũng khó rút đi an toàn. Đợi cho đến sáng 29, sau khi có điện văn chính thức của tân Thủ tướng Vũ văn Mẫu, yêu cầu Mỹ rút trong vòng 24 giờ, đại sứ Martin mới chính thức thi hành kế hoạch di tản. Như vậy, trên danh nghĩa, Mỹ ra đi vì bị đuổi, không phải tự ý bỏ đi.

Sau này, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao đuổi Mỹ trong tình trạng nguy ngập như thế, ông Mẫu cho biết đã làm theo yêu cầu của đại sứ Martin.

Chiều 29-4, tòa đại sứ có hai bãi đáp dành cho hai loại trực thăng CH-46 trên nóc nhà, và CH-53 dưới sân đậu xe, sau khi đã đốn một cây me lớn. Washington chỉ thị đại sứ Martin ra đi sớm, và người Mỹ đi ưu tiên. Ông Martin không chống lại lệnh thượng cấp, nhưng chần chừ không chịu đi. Đồng thời, qui định người đi trên mỗi chuyến bay theo tỉ lệ khoảng 10 người có 1 người Mỹ. Ngoài ra, một số nhân viên tòa đại sứ Nam Hàn, đã vào được tòa đại sứ Mỹ, luôn yêu cầu được ưu tiên ra đi, nhưng chỉ được đối xử như mọi người.

Phi công định ngừng cầu không vận khi trời tối. Tòa đại sứ yêu cầu tiếp tục, cam kết có đủ ánh sáng, bằng cách gom một số xe hơi lại, cùng chạy máy, mở đèn pha chiếu thẳng vào bãi đáp. Hơn 9 giờ rưỡi tối, có lệnh từ Hạm đội 7 chấm dứt kế hoạch vào lúc 11 giờ. Ông đại sứ vẫn yêu cầu tiếp tục. Khoảng nửa đêm, lại có lệnh chỉ còn 20 chuyến bay nữa, trong khi vẫn còn 850 người chờ được bốc, chưa kể 225 quân nhân TQLC. Bên ngoài, vẫn còn hàng chục ngàn người.

Khoảng 4 giờ sáng 30 tháng 4, Đại úy phi công Gerald L. “Gerry” Berry, được lệnh đáp chiếc CH-46 trên nóc tòa đại sứ, và phải đợi đến khi đại sứ Martin lên máy bay, mới được cất cánh. Ông Martin vĩnh biệt nhiệm sở lúc 4:58 phút sáng. Sau ông, chỉ còn những chuyến bay chở TQLC ra đi. Ông Martin đã tự biến mình thành con tin, để Bạch ốc không thể ngừng sớm cuộc di tản. Tuy nhiên, ông đã không thành công hoàn toàn; số người kẹt lại trong khuôn viên tòa đại sứ khoảng trên dưới 400.

Tư lệnh Hạm đội 7, Phó đô đốc George Steele, cũng có cùng quan điểm:

“Một điều không được biết nhiều là đại sứ Martin tìm cách mang đi một số lớn người Việt từ tòa đại sứ. Nó có vẻ như một con số bất tận, và người cùng máy móc của chúng tôi bắt đầu thấm mệt… Tôi không muốn cho lệnh bắt ông. Nhân vật số 3 của đại sứ quán đáp xuống Blue Ridge xác nhận báo cáo rằng đại sứ bệnh và kiệt sức. Qua lòng thành đối với các đồng nghiệp Việt Nam của chúng ta, ông đã cố gắng giữ cho cuộc di tản kéo dài bất tận, và theo quan điểm của tôi, ráng giữ cho nó tiếp tục bằng cách tự mình không ra đi”

Phép lạ bị lãng quên

Trong một bài phổ biến trên RFA sau khi xem Last days in Vietnam, tổng biên tập của đài này là nhà báo lão thành Dan Southerland viết:

Cuốn phim cũng kể câu chuyện về Richard Armitage, khi đó 30 tuổi, sĩ quan cố vấn của Hải quân Việt Nam, về sau đảm nhiệm những chức vụ cao cấp trong Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống Reagan và Bush.

Armitage làm việc chặt chẽ với hạm trưởng tàu Kirk cùng các sĩ quan Hải quân khác để đưa 30 chiếc tàu của Hải quân Việt Nam cùng với mấy chục tàu đánh cá và tàu vận tải đầy người tị nạn trốn chạy khỏi Việt Nam. Đài truyền thanh quốc gia NPR của Hoa Kỳ, trong phóng sự riêng về chiến hạm USS Kirk, đã viện dẫn thống kê cho thấy có tới 30 ngàn người chen chúc nhau trên những con tàu này. Một số tàu không thể nhúc nhích được, tàu khác phải kéo đi. Nhiều chiếc khác bị vô nước. Thật là một phép lạ khi đoàn tàu ấy, với sự giúp đỡ của người Mỹ, đã vượt được cả ngàn dặm về hướng đông để đến được bờ bến Philippines an toàn.

(Nếu gọi đây là “phép lạ” thì người viết bài này, nhờ may mắn có mặt trên chiến hạm HQ 3, soái hạm của đoàn tầu Việt Nam, có thể nói rõ những ai đã làm được phép lạ này, và họ đã bị lãng quên ra sao)

Sau này, xem các bộ phim The fall of Saigon, Lucky few, và Last days in Vietnam, tôi mới được biết Đại tá Hải quân Đỗ Kiểm, là người được trao trách nhiệm tổ chức đưa toàn bộ hạm đội Việt Nam ra đi, để khỏi rơi vào tay Cộng sản. Trên HQ 3, tôi cứ đinh ninh Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh là người chỉ huy chuyến đi. Trên tầu, còn nhiều tướng lãnh cao cấp hơn, nhưng chỉ thấy tướng Minh (thủy thủ gọi là “Đô đốc Minh” – hình như trong Hải quân, ai đeo sao cũng được gọi là “đô đốc”) qua lại, đôn đốc, ra chỉ thị, hay lên tiếng trên hệ thống loa phát thanh.

Chiều 30-4-1975, 30 chiếm hạm của VNCH tập trung ở Côn Sơn, đa số chở đầy người tị nạn, chưa biết sẽ đi đâu. Được hỏi, tướng Minh nói vẫn chưa biết đi đâu. Ông thêm: “Có một sĩ quan liên lạc sắp đến từ Hạm đội 7, ông này sẽ cho biết mình đi đâu”. Với thái độ phấn khởi, tướng Minh tiết lộ thêm: “Tay này còn trẻ, rất có cảm tình với Hải quân Việt Nam, tên là Richard Armitage, biết nói tiếng Việt, có tên Việt là Trần văn Phú, vì thánh tổ Hải quân Việt Nam họ Trần, Văn là tên đệm của đa số đàn ông Việt Nam, Phú là giầu (từ tên Richard). Khi ông Armitage, thường phục, từ tầu liên lạc nhỏ leo lên HQ 3, đã được tướng Minh chào đón nồng nhiệt.

Sáng 1 tháng 5, sau khi vớt thêm một số người từ Côn Sơn, cũng như một số người xuống tầu nhỏ trở về, đoàn tầu được lệnh nhổ neo, trực chỉ Philippines.

Nhìn toàn cảnh, đoàn chiến hạm VNCH xếp hàng 3, mỗi hàng 10 chiếc, cùng di chuyển trên mặt nước yên lặng xanh như thủy tinh, giống như trong một cuộc thao diễn khổng lồ, rất ngoạn mục. Ban đêm, đoàn tầu lên đèn sáng trưng, như cả một thành phố di chuyển. Nhưng thực trạng, đó là những chiếc tầu rất cũ, Mỹ đã phế thải trước khi viện trợ cho Việt Nam tái sử dụng. Không hiểu trong tài khoản viện trợ, chúng đã được định giá ra sao. Có thể dân Mỹ vẫn tưởng tiền thuế của họ đã được dùng để mua tầu mới viện trợ cho Việt Nam.

Đoàn tầu di chuyển rất chậm, có chiếc phải ròng dây kéo đi. Có chiếc bị nước vào, phải phân chia người tị nạn sang các tầu khác, rồi bị bắn chìm. Đi từ Côn Sơn đến Phi, bình thường, chỉ mất 2 ngày 2 đêm, đoàn tầu Việt Nam đã phải đi ròng rã trong một tuần.

Hộ tống hạm Mỹ USS Kirk đã hướng dẫn, săn sóc, tận tình giúp đỡ, tiếp tế thuốc men và thực phẩm. Nhưng hạm trưởng Jacobs, cũng như sĩ quan liên lạc Armitage, không phải là các nhà phù thủy có tài hô phong hoán vũ, “bốc” cả đoàn tầu với 30 ngàn người tị nạn đem từ Việt Nam qua Phi. Cái “phép lạ” làm được công việc này, chính là đoàn thủy thủ Hải quân VNCH.

Đại tá Đỗ Kiểm cho biết, chủ đích của kế hoạch là đem tất cả đoàn tầu ra đi, và thủy thủ cùng thân nhân đi càng nhiều càng tốt. Nhưng trước ngày đi, trong khi tướng lãnh và sĩ quan cao cấp biết trước để chuẩn bị, tổ chức cho thân nhân và bạn hữu ra đi, tất cả thủy thủ bị cấm trại 100%. Trước khi ra đi, họ chỉ được vài giờ về đón gia đình. Sợ không sửa soạn kịp, hoặc không kịp trở lại sẽ mang tội đào ngũ, nhất là chưa biết sẽ đi đâu, đa số quyết định đi luôn. Hôm sau tại Côn Sơn, sau khi biết lệnh đầu hàng, một số đã xuống tầu nhỏ trở về.

Những thủy thủ còn gắn bó với tầu, trên nguyên tắc, vì quân ngũ không còn tồn tại, họ không còn bổn phận phục vụ và tuân lệnh cấp trên. Không ai còn quyền ra lệnh, sai bảo họ nữa. Họ, đương nhiên biến thành người tị nạn, như bất cứ ai khác, muốn làm thì làm, không muốn thì thôi. Cũng chẳng còn chính quyền để trả lương cho họ. Tập thể thủy thủ này đã làm việc trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cả về tinh thần và vật chất. Về tinh thần, trong khi cấp trên của họ, và cả những người ngoài không quen biết mà họ đang phục vụ, đem được gia đình, bạn hữu đi theo, riêng họ, nặng trĩu lo âu, không biết gia đình ra sao. Điều kiện làm việc của họ khó khăn hơn, chật chội hơn, thiếu thốn hơn, vất vả hơn, vì phải làm thay cho những người vắng mặt, và giúp đỡ hàng ngàn người tị nạn. Từ người lái tầu tới thợ máy vẫn phải giữ cho mọi việc hoạt động đều đặn. Riêng phần việc nhà bếp gia tăng gấp bội, vừa phải phục vụ các thượng khách và gia đình, vừa phải cung cấp cơm cháo cho đồng bào tị nạn. Trong tình trạng như vậy, các thủy thủ vẫn cố gắng chịu đựng, làm việc trong kỷ luật, trật tự, và tinh thần trách nhiệm, đưa đoàn tầu và người tị nạn tới bến.

Thật ra, chẳng có phép lạ nào hết. Đó chỉ là thành tích đáng kính phục của các thủy thủ Hải quân VNCH, những đơn vị cuối cùng trong quân lực vẫn còn hoạt động theo đội ngũ, một tuần sau lệnh đầu hàng, để phục vụ đồng bào. Trong gần 40 năm qua, đã có những cuộc gặp gỡ của đông đảo người tị nạn, để cảm ơn Hạm đội 7, cảm ơn USS Kirk, nhưng chẳng thấy ai nhắc đến, ghi ơn, hay vinh danh những người lính Hải quân Việt Nam đã tạo thành tích được coi như “phép lạ”

***

Trong một bài đăng trên New York Times ngày 4-9-2014, nhà điểm phim A.O. Scott viết rằng: “Bây giờ, thời gian đã qua lâu, liên lạc Mỹ Việt đã bình thường, sẽ là điều tốt nếu được nghe tiếng nói của một vài người từ phía bên kia, để được biết những người lính đã suy nghĩ như thế nào khi họ vào Sài Gòn lúc người Mỹ ra đi”

Nhà điểm phim này chắc chưa có cơ hội xem The fall of Saigon ra đời cách đây 20 năm. Lúc ấy, Mỹ Việt vừa tái lập bang giao, và hai người phía bên kia đã có cơ hội lên tiếng trong phim, là Trần văn Trà và viên sĩ quan cấp tá chỉ huy đoàn quân tiến vào Sài Gòn. Không cần nhớ rằng chỉ 2 năm trước 1975, phía bên kia đã ký vào hiệp định hòa bình Paris, qui định nhân dân miền Nam sẽ định đoạt tương lai của mình.

Tướng Trà nói rằng: “Mong đợi thương thuyết vào phút chót chỉ là ước mơ tuyệt vọng của những kẻ biết mình thua cuộc, chúng tôi đã dứt khoát đạt chiến thắng bằng quân sự”

Còn viên sĩ quan cấp tá, đề cập việc binh sĩ VNCH cởi bỏ quân phục sau lệnh đầu hàng, nói: “Họ phải làm như vậy, vì biết rằng, đối với những người đã cầm súng bắn vào quân đội nhân dân, thế nào chúng tôi cũng phải tiêu diệt”

Cho nên, trong Last days in Vietnam, không có tiếng nói của phía bên kia lại là điều hay. Nếu không, nó sẽ làm hư cả cuốn phim, như để một vài con ruồi đáp vào tô phở ngon.

Last days in Vietnam, như đã trình bầy, tuy khá hơn 2 bộ phim tài liệu trước có cùng nội dung, nhưng cũng chỉ mới trình bầy được một phần, chừng 30%, về toàn cảnh những gì xẩy ra trong mấy ngày cuối tháng 4 cách đây 40 năm.

Tuy vậy, đối với nhiều người gốc Việt, bộ phim này cũng đáng giữ làm kỷ niệm, và cho con cháu coi, để chúng biết được một phần, ông bà cha mẹ chúng đã ra đi trong hoàn cảnh như thế nào. Chẳng biết 10 năm sau, trong dịp kỷ niệm 50 năm, có còn phim nào, với thêm hình ảnh mới nữa không?

Có một cảnh vào ngày cuối ở Sài Gòn, chưa ai có được, và có lẽ chẳng ai có, đã đươc Larry Berman kể trong Perfect spy. Đó là cảnh diễn ra chiều 29 tháng 4: Sau hai lần đến trước tòa đại sứ Mỹ mà không vào được, theo chỉ dẫn của Dan Southerland, ký giả của báo Christian Science Monitor, “Điệp viên hoàn hảo” của Hà Nội là Phạm Xuân Ẩn chở bác sĩ Trần Kim Tuyến, vốn được coi là “trùm mật vụ” của Đệ Nhất Cộng Hòa, tới trụ sở CIA ở 22 Gia Long. Ông Tuyến đến đúng lúc cánh cổng đang hạ xuống, và chuyến trực thăng chót đang sửa soạn cất cánh Được Ẩn đẩy vào, ông Tuyến chạy vội lên nóc nhà. Một cánh tay từ trực thăng đưa ra kéo bổng ông lên. Đó là tay tướng Trần văn Đôn, thành viên nhóm đảo chánh, đã từng hạ lệnh bắt và đầy ông Tuyến ra Côn đảo.

Anh chị Thụ & Mai gởi

GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ Bí Ẩn 30.4.1975

GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ Bí Ẩn 30.4.1975

Như vậy biến cố 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua bè đảng Kissinger.
..Nhưng thực tế chính trị cho thấy thủ đoạn & tham vọng xâm chiếm đất đai láng giềng của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu độc của thế lực Do Thái khiến xảy ra biến cố 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam mà nay đang dẩn tới đại họa mất nước vào tay Trung Cộng.

GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ Bí Ẩn 30.4.1975

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố khó quên nhứt của đời người. Trong khi đó dư luân quốc tế nhận định cho rằng sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh vào ngày 9.11.1989 là biến cố lịch sử quan trọng nhứt của thế kỷ 20. Thực ra cả hai biến cố lịch sử này đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến người Việt chúng ta. Cho nên cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy – một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, đã nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ – từng đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về hai biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

 

 

 

 

 

 

 

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Khoa trưởng Đại Học Luật 

Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc đối thoại với Giáo sư Huy và đã may mắn ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1989, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của Giáo sư Huy để nắm vững thêm mọi chi tiết thời cuộc. Nhờ vậy, chúng tôi mới thấy được tầm kiến thức uyên bác & đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được. Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

1) Ai đã làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh ? 

Trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày Bức Tường Bá Linh sụp đổ, chúng tôi đã trình bày cái nhìn độc đáo của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy về vấn đề ” Ai đã làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh ? ” 


 

 

 

 

 

 

Bức tường Berlin sụp đỗ ngày 9.11.1989

 Câu hỏi lịch sử này đã tranh cãi sôi nổi từ trên 20 năm qua và có nhiều câu trả lời chủ quan khác nhau tùy theo hoàn cảnh, trình độ hiểu biết và nhứt là lòng tự hào của những dân tộc liên hệ. 

  1. a) Phía Ba Lan cho rằng nhờ hai công dân của họ. Đó là lãnh tụ nghiệp đoàn Walesa và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã dám dũng cảm đi hàng đầu tranh đấu chống độc tài cộng sản. 
  1. b) Phía Hung Gia Lợi cho rằng nhờ Cựu Thủ Tướng Nemeth đã sáng suốt dám cho mở cửa biên giới Áo Hung tạo cơ hội cho làn sóng người tị nạn cộng sản bùng nổ.
  1. c) Phía Đông Đức cho rằng nhờ lực lượng cải cách trong đảng cộng sản Đông Đức đã thành công lật đổ được nhà độc tài Honecker và tạo điều kiện cho lực lượng đối lập dễ dàng tranh đấu.
  1. d) Phía Tây Đức cho rằng nhờ chính sách hòa dịu của Cựu Thủ Tướng Brandt từ từ tạo được biến đổi ôn hòa trong chế độ cộng sản.
  1. e) Phía Liên Xô cho rằng chính Tổng Bí Thư Gorbachev với chính sách cởi mở tạo ra tình thế vuột ra khỏi vòng tay kiểm soát.
  1. f) Phía Hoa Kỳ cho rằng nhờ Cố Tổng Thống Reagan hành xử cứng rắn đối phó với Liên Xô và quan trọng nhứt tại Bức Tường Bá Linh vào ngày 12.6.1987 đã lên tiếng “khích tướng” kêu gọi Tân Tổng Bí Thư Gorbachev muốn chứng minh thực tâm cởi mở thì nên mở cửa và phá sụp bức tường này (nguyên văn: “Come here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down this wall!“) Duy nhứt về phía Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã tiên đoán rất sớm và trình bày rất cặn kẽ ngay trong tác phẩm “Perestroika” ( viết bằng Anh ngữ, dày 402 trang với trên 200 dẫn chứng tài liệu ) cho rằng ông Gorbachev bắt buộc phải cởi mở thay đổi chính sách cai trị để đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Reagan đang trên đà leo thang võ trang quân sự, điển hình là kế hoạch phòng thủ chống hỏa tiễn SDI ( Strategic Defense Initiative ). 

Chỉ trong lúc đi thuyết trình cho đồng bào Việt Nam, Giáo sư Huy mới kín đáo tiết lộ đưa ra một cái nhìn độc đáo rằng dân Nga có truyền thống chơi cờ vua ( Chess ) nên có thói quen suy nghĩ đa nghi nhiều, còn dân Mỹ thích chơi bài phé ( Poker ) nên thường phải ” tháu cáy “với cây bài xấu nhưng vẫn có thể ” tố ” cho địch thủ bỏ chạy. Theo Giáo sư Huy thì Tổng Thống Hoa Kỳ Reagan đang dùng kế hoạch SDI để ” hù ” Tổng Bí Thư Liên Xô Gorbachev với bản chất đa nghi buộc phải cải tổ nền tảng chính trị và kinh tế để có đủ thực lực đương đầu lại với Hoa Kỳ. Quả nhiên ông Gorbachev đã xúc tiến cải tổ, trước hết về kinh tế ( Perestroika ), và sau đó về chính trị ( Glasnost ). Nhưng chính vì sự cải tổ chính trị đã khiến làn sóng đòi hỏi tự do dân chủ dâng cao, kiểm soát không nổi và vuột ra khỏi tầm tay. Bức Tường Bá Linh sụp đổ, Đông Âu thoát khỏi sự chi phối của Mạc Tư Khoa và Liên Xô tan rã vào ngày 21.12.1991 là hậu quả tất nhiên đó. Chính vì vậy, bên ngoài Liên Xô ông Gorbachev được vinh danh là nhân vật có công với cuộc cách mạng dân chủ hóa Đông Âu, nhưng ở trong nước thì trái lại không có chút uy tín gì vì bị chỉ trích là không có khả năng lãnh đạo làm cho Liên Xô tan vỡ và nước Nga không còn sức mạnh gì trên bàn cờ thế giới. Cái nhìn độc đáo của Giáo sư Huy được chứng thực là rất đúng, vì kế hoạch SDI của Mỹ sau đó đã được Mỹ âm thầm hủy bỏ khi mục tiêu đã xí gạt được Liên Xô rồi. Tương tự về biến cố 30.04.1975 của Việt Nam chúng ta, Giáo sư Huy cũng có câu trả lời độc đáo với lời giải thích bất ngờ sau đây. 

2) Ai đã gây ra biến cố 30.04.1975 ? 

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ trên 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” ( “Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference” ) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung… cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra biến cố 30.04.1975? Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra biến cố 30.04.1975. 

Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết ( bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam! ) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan ( Ireland ) và sắc tộc gốc Do Thái ( Israel ). 

– Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống. 

– Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp, lập pháp cũng như tư pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái. 

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger ( một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon ) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ( “đi đêm”! ) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái. 

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow… với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( – World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright 

 

 

 

 

 

 

 

Nữ Ngoại trưởng Albright & Ngoại trưởng Kissinger

 Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 – 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. 

 

 

 

 

 

 

 

Linh mục Cao Văn Luận / Viện trưởng Đại Học Huế 

Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 ( mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ! ), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!). 

Như vậy biến cố 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua bè đảng Kissinger. 

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam ? 

  1. a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại hải ngoại và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng. Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia. org/wiki/List_o f_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem http://en.wikipedia.org/ wiki/List_of_Je wish_American_ politicians#Lis t). 

Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:

– trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái ( so sánh trước đây chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh! ). – trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton…

– trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.

– trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.

– trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan. 

– trong Ngân Hàng Trung Ương ( Fed ) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay. 

Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình và điện ảnh… Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford… (xem website: http://en.wikipedia. org/wiki/List_o f_Jewish_ American_entert ainers).

Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái. Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm. Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) trước đây đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ . 

  1. b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam ? 

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel ( Thụy sĩ ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này. 

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng”. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết ( veto ) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết ( phản bội! ) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo ( 1,3 tỷ ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một. 

  1. c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman ( đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng miền Bắc kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975. 

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson ( dân Texas ! ) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng. 

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan ! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác . Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày ( từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966 ) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. 

Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam! 

 

 

 

 

 

 

 

Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines – South Vietnam 1966 

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller ( Thống đốc New York ) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh. 

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann ( 1925 – 1999 )… Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Cộng tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. 

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo miền Nam, thành công trong việc ép buộc ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichman của T.T Nixon như sau: 

“Tôi nghĩ rằng nếu họ ( chánh phủ miền Nam ) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”. Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “ Huê Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”. 

Bởi vậy biến cố 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái. 

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận. 

4) Kết luận 

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam. Bởi vậy mới xảy ra biến cố 30.4.1975 . Từ thời điểm đó đến nay Do Thái ung dung tồn tại được, vì không những ” độc quyền ” hưởng trọn vẹn sự yểm trợ hữu hiệu của Hoa Kỳ, mà còn khôn khéo tạo được mâu thuẩn chia rẻ để xô đẩy siêu cường số 1 này phải ra tay đối phó với kẻ thù Hồi Giáo của mình. 

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miền Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến nay dư luận vẫn còn bị lường gạt . Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh . Về phía miền Bắc, họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng ” Đồng Minh tháo chạy ” ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng !) bỏ rơi miền Nam . Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì miền Bắc sớm thắng trận. Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng sụp đỗ như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975. 

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh ” Về miền đất hứa / Exodus ” của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ . Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm ” Bài học Israel ( Do Thái ) ” .

Nhưng thực tế chính trị cho thấy thủ đoạn & tham vọng xâm chiếm đất đai láng giềng của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu độc của thế lực Do Thái khiến xảy ra biến cố 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam mà nay đang dẩn tới đại họa mất nước vào tay Trung Cộng. 

Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để dư luận Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị lường gạt nữa . 

Mong thay ! 

Phạm Trần Hoàng Việt

tháng tư 2010 & 2013

Sức Mạnh của Cộng Sản ở Đâu

From facebook: Le Thai Hoa

Sức Mạnh của Cộng Sản ở Đâu

Nhiều người nghĩ rằng sức mạnh của csvn nằm ở quân đội. Quân đội Nhân Dân “bách chiến bách thắng”, “kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Nổ cho lắm, Điện biên Phủ là nhờ Trung Cộng, “điện biên phủ trên không” là nhờ Liên Xô, thắng miền Nam là nhờ Mỹ ngưng viện trợ, VNCH rút quân, chớ từ 1954-1975 là thua tan tác, tổng cộng gần 1 triệu xác bộ đội chất thành núi.

Nếu không là quân đội, sức mạnh cs chắc phải nằm ở công an, an ninh và tình báo, nhiều người nghĩ vậy. Cũng k phải, dù được KGB dày công đào tạo, công an Trung quốc tận tình huấn luyện, công an csvn tuy đông nhưng ô hợp, toàn là bọn đá cá lăn dưa, tham lam vô độ, chỉ giỏi ăn hiếp người nghèo, đàn bà và con nít. Chưa có đất nước nào mà công an bị dân khinh thường như ở Vn.

Không phải quân đội, không phải công an, cái sức mạnh giúp cs tồn tại chính là hệ thống tuyên truyền!

Độc quyền tất Cả phương tiện truyền thông, bao gồm 700 tờ báo, mấy chục cái đài TV, Radio, hàng ngàn loa phường và vô số Bích chương, biểu ngữ giăng đầy đường phố, cs đã điều khiển, định hướng người dân từ khi mới sinh ra; tha hồ đặt điều, nói k thành có, nói có thành k; tha hồ bưng bít, dấu diếm, xảo ngôn ngụy biện; chỉ thông tin cái gì có lợi cho đảng. Nhờ tuyên giáo, cs đã biến cha già dâm dục thành cha già dân tộc, biến đảng cướp thành đảng quanh minh vĩ đại, biến thanh niên sinh viên thành cuồng đảng và biến 1 dân tộc anh hùng thành 1 đàn cừu u mê bạc nhược.

Không lạ gì, khi mới thành lập quân đội, csvn đặt tên là đội Vn Tuyên Truyền Giải Phóng Quân. Cho đến bây giờ, công tác tuyên tuyền vẫn là nhiệm vụ số 1 của đảng, nhất là khi đảng viên và nhân dân ngày nhận ra chân tướng lừa bịp của đảng, đang chuyển hoá mạnh mẽ.

Bởi vì Mặt trận truyền thông là chỗ dựa vững chắc nhất của cs, những người yêu tự do dân chủ cần chiến thắng cs trên mặt trận này. Phải vạch trần những luận điệu xuyên tạc của tuyên giáo, trả sự thật về cho nhân dân. Phải đòi hỏi công khai minh bạch mọi chuyện đất nước , không chấp nhận lừa dối, ngụy biện.

Thua trắng trên mặt trận truyền thông, không lừa bịp được ai nữa, cs lộ nguyên hình là 1 bè lũ thấp kém, hèn hạ, phản dân hại nước và sẽ ra đi trong nhục nhã!

VN đứng 131/167 trong Chỉ số Dân chủ 2016 của Economist

VN đứng 131/167 trong Chỉ số Dân chủ 2016 của Economist

BBC

2-3-2017

Quyền biểu tình được cho là một khía cạnh của dân chủ. Ảnh: FB

Việt Nam đứng thứ 131/167 bảng Chỉ số Dân chủ 2016 của EIU (Economist Intelligence Unit), tổ chức dự báo và tư vấn có uy tín của Anh.

EIU thuộc nhóm The Economist Group, nhà xuất bản tạp chí The Economist.

Đây bảng xếp hạng mức độ dân chủ của 165 quốc gia và hai vùng lãnh thổ được EIU thực hiện hàng năm với đánh giá gần như toàn bộ dân số và đại đa số các quốc gia trên thế giới.

Bảng xếp hạng chia các quốc gia thành bốn loại:

  • Thực sự dân chủ: 19 nước
  • Dân chủ chưa hoàn hảo: 57 nước
  • Dân chủ lai tạp (đang chuyển đổi): 40 nước
  • Chế độ chuyên chế, độc tài: 51 nước

Và Việt Nam (đứng thứ 131), Trung Quốc (136), Lào (151) và Bắc Hàn (167 – cuối bảng) là nằm trong nhóm Chế độ chuyên chế độc tài. So với các nước trong vùng Châu Á và Châu Úc, Việt Nam đứng thứ 24 trong số 28 nước được xếp hạng.

Nhóm nghiên cứu EIU, nhóm thực hiện bảng Chỉ số Dân chủ, gọi năm 2016 là “năm suy thoái dân chủ toàn cầu và với Hoa Kỳ là phá hủy dân chủ”.

Các yếu tố và tiêu chuẩn đánh giá, xếp hạng của EIU

Chỉ số Dân chủ được EIU thực hiện theo đánh giá gồm 5 yếu tố, với thang điểm 10 (tối đa), bao gồm:

I. quy trình bầu cử và đa nguyên;

II. các quyền tự do của công dân;

III. hoạt động của nhà nước;

IV. sự tham gia chính trị; và

V. văn hóa chính trị

và chỉ số dân chủ của mỗi quốc gia được tính trung bình từ 5 yếu tố này.

So với các nước trong vùng Châu Á và Châu Úc, Việt Nam đứng thứ 24 trong số 28 nước được xếp hạng, và Việt Nam và một trong ba nước duy nhất trong số này (cùng với Trung Quốc và Bắc Hàn) có yếu tố Quy trình bầu cử và đa nguyên đạt 0 điểm.

Việt Nam cũng là một trong số 5 nước (cùng với Trung Quốc, Lào, Bắc Hàn và Afghanistan) có chế độ chuyên chế độc tài tại vùng Châu Á-Úc, vùng bị đánh giá là trì trệ, không có chút thay đổi nào về dân chủ so với năm 2015.

Tuy nhiên so với năm 2015, Việt Nam lên được 3 bậc trong bảng xếp hạng (từ 134 lên 131).

Các nhà nước thuộc diện Chế độ chuyên chế, độc tài theo EIU là các nhà nước không có đa nguyên chính trị.

Tại đây một số cơ chế dân chủ chính thức có thể tồn tại nhưng không có thực chất. Bầu cử nếu có diễn ra thì không tự do và công bằng.

Các đặc điểm khác là:

  • Những vi phạm quyền tự do dân sự bị bỏ qua.
  • Truyền thông đặc trưng là thuộc sở hữu nhà nước hoặc do các nhóm có liên hệ với chính phủ cầm quyền kiểm soát.
  • Có tình trạng đàn áp những chỉ trích chính phủ và kiểm duyệt nặng nề.
  • Không có hệ thống tư pháp độc lập.