Một chuyện tình tuyệt đẹp. Chắc kiếp sau sẽ gặp lại!!!

Một chuyện tình tuyệt đẹp. Chắc kiếp sau sẽ gặp lại!!!

Vương ơi, kể Vương nghe một chuyện tình…

Một sĩ quan sau hơn 6 năm cải tạo được tha về…

Vào nhà thì thấy cái nón cối ! Vợ ra nói, anh xuống dưới nhà ở, cái phòng cạnh  bếp… Em đã có chồng, chính ông ta xin cho anh về…

Ngày 30-4-75, bà vợ tuổi mới 25, trước kia là tiểu thư, hoa khôi, con nhà rất giàu, ở nhà villa lộng  lẫy 3 tầng  má ruột cho, nhà có xẩm giúp việc, bất cứ cái gì cũng không phải đụng  đến ngón tay,  nên ngơ ngác không biết làm gì cả…

Sau 30-4-75, bố mẹ ruột  thì không tin tức, bố mẹ chồng thì đã quy tiên…

Cán bộ việt cộng “lớn”đến cho biết nên đi ngay vùng kinh tế, giao nhà cho nhà  nước, thì chồng sẽ được tha sau khi học tập tiến bộ… sau đó tên cán bộ nói nếu  chịu lấy hắn, nhà sẽ còn và không phải đi kinh tế và hắn sẽ nuôi cả nhà và lo cho  chồng được tha về…Bà vợ ra điều kiện phải lo cho chồng được tha, và khi về phải  lo ngay cho chồng và các con vượt biên chính thức, thì bả sẽ đồng ý là vợ hắn  …  Tên cán bộ đồng ý thuận tình.

Bà vợ xuống dưới nhà nói với chồng cũ : ” trong hai tuần đầu anh ở nhà, chơi với các con, sau đó sẽ tính sau.”Năm hôm sau thì bà vợ báo cho chồng biết : “em đã lo cho anh và các con vượt  biên chính thức, anh và các con sẽ mang tên tầu… nhớ học thuộc kỹ tên tầu nghe…Tối nay sẽ có người đón anh và các con đi, em chỉ xin anh một  điều, là khi đến nơi an toàn, thì điện về ngay cho em biết.”

Khi nhận đuợc tin chồng và các con đã an toàn đến Bến Bờ Tự Do thì bà vợ mừng như điên và hôm sau uống thuốc  độc tự tử chết luôn !

Chồng được tin sét đánh, ở vậy, không tái giá, gà sống nuôi con ăn học thành tài…và cho đến giờ vẫn độc thân luôn ngày ngày thăm các cháu nội ngoại….

THỨC TỈNH

THỨC TỈNH
Trich EPHATA 660
PHAN XUÂN SINH
 
Luật vượt biển đến Hồng Kông năm 1982, sau khi cải tạo tại Tiên Lãnh được sáu năm. Chuyến đi của anh suông sẻ chỉ mất hai ngày hai đêm trên biển. Điều trước tiên, Luật đánh điện tín về nhà báo tin cho vợ con biết anh đã vượt thoát khỏi Việt Nam an toàn để chị mừng.
Anh theo chân những người tỵ nạn vào phố Hồng Kông xin việc làm, anh được một nhà hàng sắp xếp cho anh rửa chén bát, việc làm cũng không đến nỗi khổ cực, lương tương đối khá. Mỗi ngày người ta cho anh mang về trại thức ăn dư thừa để anh chia cho những người không tìm được việc làm. Ở đây anh cảm thấy thoải mái hơn khi ở quê nhà rất nhiều. Không ai quan tâm hoặc theo dõi kẻ khác, không phạm pháp thì không sợ sệt ai. Trong trại ai cũng thân thiện, tận tâm chỉ vẽ nhau những điều người khác không biết. Mọi người chung quanh thương mến anh vì bản tính hiền lành. Ở Hồng Kông gần một năm thì anh được phái đoàn Mỹ nhận cho đi định cư. Thế nhưng có một điều làm Luật thắc mắc mãi, tại sao một ông thầy chùa đã giúp đỡ anh tận tình như vậy ? Anh chưa hề quen biết ông. Anh nhớ lại cái đêm vượt biên bị Công An phát giác, anh nhảy xuống sông vừa bơi vừa lặn, trước khi tàu Công An kẹp sát. Lên bờ vì trời tối anh không biết đây là nơi nào. Anh lần mò trong bóng tối chừng ba tiếng đồng hồ vẫn không thấy đường cái. Bỗng nhiên anh trông thấy ánh đèn từ xa, anh đi tới, thì ra đây là ngôi chùa nhỏ. Anh vào chùa gặp vị sư còn trẻ, Sư hỏi anh cần gì ? Anh tình thật thưa rằng anh đang lạc đường và xin được giúp đỡ.
Vị Sư đưa anh vào chánh điện rồi đến thưa với thầy trụ trì. Thầy trụ trì chừng trên dưới sáu mươi tuổi, mặc bộ đồ màu lam, nước da ngăm đen, khuôn mặt hiền từ. Khi nhìn thấy anh Thầy có vẻ hơi giật mình. Thầy bảo người Sư trẻ dọn cơm cho anh ăn. Trong lúc nói chuyện để anh an tâm, Thầy cho anh biết sẽ không có ai làm phiền hay quấy rối anh. Anh muốn ở đây bao lâu cũng được. Thầy đích thân dọn phòng cho anh ngủ. Anh tự hỏi giữa lúc khó khăn, gạo châu củi quế, thế mà nhà chùa lại rộng lượng quá vậy.
Sáng dậy, anh bước ra phòng rửa mặt thì đã thấy Thầy ngồi tại bàn ăn đang uống trà. Thầy mời anh cùng uống trà và nói chuyện. Tuyệt đối Thầy không hỏi anh về cuộc sống hiện thời, về gia đình, về nơi ăn chốn ở. Thầy dặn anh có ai hỏi thì bảo anh là bà con ở quê ra thăm thầy. Thầy cũng cho anh biết ngôi chùa nhỏ nghèo nàn nên ăn uống sơ sài, không biết anh có chịu được không ? Anh chắp tay cám ơn Thầy và nói “Được Thầy bảo bọc, chuyện ăn uống không thành vấn đề, tất cả đều tốt với tôi. Xin Thầy đừng bận tâm”. Khi còn ở nhà, anh và vợ con bữa đói bữa no, làm gì được như thế này.
Trong những ngày ở chùa, Thầy ít khi gặp anh, ít nói chuyện với nhau ngoại trừ vào bữa ăn.  Không hiểu sao Thầy cố giữ anh lại, mà không cho biết lý do. Chừng mười ngày sau, khi ăn cơm chiều xong, Thầy bảo anh ngồi lại để Thầy nói chuyện. Chỉ còn lại hai người đối diện nhau, Thầy nói với anh:
“Khi anh bước chân vào chùa này, tôi đã biết anh là người trốn thoát Công An lùng bắt vì tội vượt biên. Ở đây tôi đã gặp vài trường hợp giống anh và tôi đã che chở nên họ về nhà an toàn. Như anh biết chùa là nơi mở rộng vòng tay giúp đỡ cho những người sa cơ thất thế, chúng tôi làm hết sức mình trong điều kiện cho phép. Hơn nữa, vượt biên theo tôi không phải là cái tội, họ chỉ trốn thoát chế độ không phù hợp với họ, không chống cự, không phản đối, thì không thể bảo họ mang tội. Trường hợp của anh khác với những người kia, khác như thế nào sau này anh sẽ rõ.
Đêm nay có một chuyến vượt biên uy tín mà tôi tin tưởng, tôi muốn gửi anh đi trong chuyến này, 11 giờ sẽ có người tới dẫn anh đi. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh mọi thứ, gồm có hai bộ quần áo để anh thay đổi khi tới nơi, và một lượng vàng cho anh tiêu dùng trong thời gian chờ định cư đến nước thứ ba.”
Anh trố mắt nhìn Thầy mà không nói nên lời, anh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Không biết lý do gì mà Thầy tận tình giúp đỡ anh như vậy. Thầy bảo anh về phòng nằm nghỉ, chờ đến giờ có người tới đưa đi. Thầy không cho anh nói một lời nào dù là lời cám ơn. Thầy lên chánh điện tụng kinh. Anh nằm suy nghĩ mãi về sự giúp dỡ này của Thầy. Một lượng vàng là một tài sản không nhỏ vào thời điểm đó. Thế mà Thầy lại biếu anh, chưa kể Thầy còn phải đóng tiền cho chủ ghe để được đi, chứ không ai cho đi không. Anh thắc mắc sao lại có một người tốt như vậy. Anh hứa với lòng mình, sau khi an cư lạc nghiệp ở xứ người, anh trở về thăm thầy, anh hỏi thầy lý do tại sao thầy đã giúp đỡ anh. Anh nghĩ sẽ hoàn trả lại số vàng bằng gấp bao nhiêu lần mà Thầy đã chi phí cho anh.
Thầy nói chùa đã từng che chở cho những người vượt biên bị bể, đã đưa họ về nhà, đó là một việc làm tốt, một công đức cao cả mà chỉ có Bồ Tát mới hành xử như vậy. Vì biết bao nhiêu hệ lụy sẽ gây rắc rối cho chùa và cho Thầy nếu chính quyền biết được. Ấy vậy mà Thầy chẳng sợ gì. Niềm tin nào đã làm cho Thầy hành động một cách liều lĩnh như thế. Sống giữa một xã hội mà người dân chỉ còn cách trốn ra nước ngoài mới yên thân, thì còn sợ chi chuyện bắt bớ. Tuy nhiên ở trường hợp của Thầy lại khác, Thầy đứng ngoài mọi liên hệ với những người chạy trốn, mà lại dang tay ra đỡ cho họ khỏi bị tù tội. Còn hoàn cảnh của anh được Thầy che chở rồi lại tìm cách đưa đi tiếp. Qua sự việc này, Thầy đã tạo cho anh một niềm tin vào cuộc đời, vẫn còn có người đầy lòng nhân ái.
Anh nằm trong phòng không nhắm mắt được. Anh nghe tiếng tụng kinh của thầy ngoài chính điện, giọng thầy trầm bổng uy nghi, gieo vào lòng anh một thức tỉnh và suy tư. Anh chưa bao giờ nghe được những lời kinh có uy quyền, thấm đẫm vào lòng anh một cách sâu xa, xoa dịu những nhọc nhằn căng thẳng mà anh đã từng gánh chịu.
Anh suy nghĩ, đây mới chính là nơi Phật hiện diện. Không cần chi chùa phải lớn, phải nguy nga. Chính ngôi chùa nhỏ bé này, ở một nơi hẻo lánh mà đã chứa lực đại hùng của Phật, sáng tỏa trong lòng anh sự từ bi mà bây giờ anh mới ngộ ra được. Người anh lâng lâng như đang bước vào một cõi tâm thức, tiếng kinh như thinh lặng, đôi lúc dìu dặt, đôi lúc khoan thai, có phải chăng đang dìu anh ra khơi trong êm ả, một chuyến đi mà anh không còn mang nỗi sợ. Rồi anh thiếp đi lúc nào không hay.
Gần 11 giờ đêm, Thầy vào gọi anh dậy. Thầy trao cho anh cái bọc nylon chứa hai bộ quần áo và một lượng vàng. Thầy bảo anh cẩn thận cất vàng vào túi quần sau cài nút lại. Trong bọc nylon có một lá thư, Thầy dặn khi lên ghe lớn hãy đọc. Nếu trường hợp bị Công An phát hiện, bằng mọi cách phải hủy lá thư trước. Thầy đứng ngay cửa nhìn anh ra khỏi chùa. Người dẫn đường đưa anh ra ghe nhỏ cách đó chừng nửa giờ. Trên ghe có khoảng mười người, rồi ghe chạy ra sông cái tấp vào ghe lớn đang chờ sẵn. Khi leo lên ghe anh làm rớt bọc Nylon xuống sông không vớt lên được. Như vậy lá thư và hai bộ áo quần mất từ đó.
Đúng như lời Thầy nói, chuyến đi rất an toàn, hai ngày sau tới Hồng Kông. Anh đổi lượng vàng ra thành 10 chỉ, để tiêu dùng trong những ngày sống ở trại tị nạn. Anh tiện tặn vì không biết chờ đợi đến bao lâu mới đi định cư ở nước thứ ba. Anh may mắn được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và cho đi sớm. Một gia đình người Mỹ ở Oakland California làm sponsor cho anh.
Lúc đó Oakland chưa có người Việt nhiều, thành phố toàn người Mỹ đen và Mễ. Dần dần những năm sau người Việt tới định cư và những quán Café mọc lên ở đường E.14. Chính ở đây là nơi truyền những tin tức từ Việt Nam qua, chuyện bàn luận Chính trị bắt đầu sôi nổi trên bàn Café của những chính khách không tên tuổi. Đúng, sai không ai cần biết, có cãi vã với nhau khi bất đồng, nhưng tất cả đều bỏ lại bàn, không ai mang trong lòng. Đó là niềm vui duy nhất của mỗi cuối tuần cho những người Việt tha hương sinh sống trong Thành phố.
Anh share phòng với một gia đình Việt Nam, ăn uống anh tự túc nấu lấy, nên tiết kiệm thêm một ít tiền. Anh viết thư bảo vợ thỉnh thoảng qua chùa Mân Thái cúng Phật và thăm Thầy Trụ Trì. Anh cho chị biết, Thầy là ân nhân của anh và gia đình, chị phải thay anh thăm viếng Thầy thường xuyên.
Sau khi có quốc tịch Hoa Kỳ, anh làm hồ sơ bảo lãnh vợ con. Anh thu xếp một chuyến về Việt Nam, để trước hết thăm Thầy, sau đó hỏi về lý do Thầy đã tận tình giúp anh. Một thắc mắc cứ canh cánh trong lòng khiến anh trăn trở mãi. Thầy thường che chở cho những người vượt biên, nhưng Thầy chưa bao giờ nói là đã giúp ai phương tiện và vật chất để họ tiếp tục đi như anh. Thăm viếng gia đình, bà con hang xóm xong, anh đón xe đi Mân Thái thăm Thầy.
Chùa vẫn y nguyên như xưa, như những ngày anh sống dưới sự bảo bọc của Thầy. Anh gặp vị sư trẻ, vị sư này nhận ra anh ngay. Thầy nhìn anh, đôi mắt Thầy sáng lên đầy ngạc nhiên và vui mừng. Anh chạy đến ôm Thầy, anh cảm thấy sung sướng, nước mắt ràn rụa. Thầy mời anh ngồi trên chiếc bàn ăn ngày nào. Anh tình thật thưa với Thầy là lúc hối hả leo lên tàu lớn trong đêm tối, anh đánh rơi bọc Nylon có lá thư và hai bộ áo quần Thầy cho, nên đến bây giờ anh vẫn không biết trong thư Thầy viết gì. Thầy cười hiền hòa và nói trong thư căn dặn anh phải giữ gìn sức khỏe, luôn luôn nghĩ tới vợ con, chứ không có gì quan trọng. Thế nhưng anh không nghĩ như vậy, có một điều gì bí mật mà Thầy chưa tiện nói ra.
Anh ở lại chùa vài ngày để trò chuyện với Thầy, luôn tiện anh xin Thầy cho anh quy y. Thầy đồng ý. Thế là mỗi đêm, khi Thầy tụng kinh anh cũng chắp tay ngồi phía sau, vừa nghe câu kinh Thầy tụng vừa thấy lòng mình lắng xuống, như ngộ ra được một cái gì đó rất tâm linh mà không thể nào diễn tả được. Mỗi lần tụng xong câu kinh Thầy gõ một tiếng chuông, rồi cúi xuống lạy. Tiếng chuông ngân vang trong đầu anh, như dẫn dắt anh bước vào sâu thẳm của cõi siêu hình. Dạy cho ta những đạo đức để giữ mình, để sống với tha nhân. Anh cảm thấy những ngày ở chùa tuy ngắn ngủi nhưng anh đã học được nhiều điều quý giá. Một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy và anh ngồi uống trà nói chuyện. Thầy nhìn thẳng vào mắt anh, rồi từ từ nói:
“Chắc anh thắc mắc trong lòng bấy lâu nay, là tại sao tôi tận tình giúp anh, tiếp tay làm tròn ước nguyện mong muốn của anh là vượt thoát ra khỏi đất nước. Chẳng qua đó là cái ơn mà tôi phải trả cho anh trong thời kỳ chinh chiến. Có lần anh đã giúp tôi mà anh tuyệt nhiên không hay biết. Bây giờ tôi xin kể đầu dây mối nhợ của câu chuyện. Anh không còn nhớ, nhưng với tôi chuyện gặp anh lúc đó tôi không bao giờ quên được. Trước khi nhắc lại chuyện cũ, Tôi xin nói về tôi.
Tôi có vợ và hai con, hồi đó gia đình chúng tôi sống trong vùng mất an ninh. Tôi hoạt động Cách mạng và làm đến chức Huyện Ủy Viên. Vợ con tôi chết trên chuyến đò tiếp tế bị máy bay phát hiện, từ đó tôi là người không có gia đình. Tôi được cấp trên giao cho nhiệm vụ hoạt động trong vùng Hòa Vang và Điện Bàn. Để dễ dàng đi lại, tôi giả làm một nhà sư mặc áo nâu sòng, trên vai luôn luôn mang cái bị chuông mõ, nhưng thực tế trong đó chứa những tài liệu hoạt động và một khẩu súng ngắn. Tôi tránh đi lại ban ngày vì sợ dễ bị phát giác. Thường di chuyển vào lúc mặt trời sụp tối và Du kích địa phương báo trước cho tôi biết đoạn đường nào an toàn để đi.
Buổi chiều tôi nhận được lệnh là sáng hôm sau tôi có một cuộc họp với thượng cấp tại xã Thanh Trường, huyện Điện Bàn. Tôi và hai cận vệ yên tâm ra đi, người cận vệ đi đầu bi đau bụng nên ngồi lại đi cầu, như vậy tôi trở thành người đi đầu. Đi được một đoạn thì tôi bị một toán lính Quốc Gia phát hiện, người đi phía sau tôi núp vào bụi cây nên thoát được. Tôi được dẫn vào trình diện ông Trung úy Đại đội trưởng, người Chỉ huy cuộc hành quân đó. Tôi nghĩ trong bụng, tôi không thể nào thoát được lần này, thế nào họ cũng xét người và chiếc bị mang trên vai, đầy tài liệu và cây súng ngắn trong đó…
Dưới ánh đèn nho nhỏ, ông Trung úy ngước lên nhìn tôi với khuôn mặt hiền từ, hỏi tôi một câu cho lấy lệ: “Thầy đi đâu trong đêm tối ? Thầy có biết vùng này nguy hiểm lắm không ?” Tôi thưa với ông rằng: “Xóm trên có người mới mất, tôi đến tụng kinh rồi ra về. Không ngờ trời sụp tối mau vậy.” Người lính đứng gần hỏi ông Trung úy có cần xét ông thầy này không ? Ông Trung úy nói khỏi cần, rồi sai người lính trải Poncho cho thầy ngủ lại, sáng mai hãy về, chứ đi trong đêm thế nào cũng bị bắn. Tôi nghĩ lúc đó có người khuất mặt che chở cho tôi nên họ không xét người tôi.
Sáng hôm sau thức dậy, ông Trung úy đưa cho tôi một ca nước trà, rồi tôi lên đường. Suốt trên đoạn đường đi, tôi suy nghĩ mãi về ông Trung úy. Điều gì đã làm cho ông cư xử với tôi như vậy ? Ông có biết rằng trong đêm đó tôi có thể giết ông rồi bỏ chạy, giữa đêm khuya tối mịt làm sao bắn trúng tôi ? Ai đã khiến tôi, ngăn cản tôi không làm điều đó. Trong chiến tranh không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, giết người không một chút cắn rứt. Nhưng giữa anh và tôi, hai kẻ thù gặp nhau ở điểm “lòng nhân ái”, không biết nó đã tiềm ẩn trong người tự lúc nào mà khi nó tỉnh dậy lại vào lúc đúng nhất.
Từ đêm đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về tâm linh, chiếc áo nâu sòng tôi đang mặc, phải có cái duyên tôi mới khoác nó lên người. Trong những năm cuối cùng chiến tranh chiếc áo như đã che chở cho tôi tránh những lằn tên mũi đạn. Tôi nguyện trong lòng, sau khi cuộc chiến chấm dứt, thế nào tôi cũng tìm gặp anh. Ánh mắt và khuôn mặt anh không làm sao tôi quên được. Anh đã cứu tôi không những tại mặt trận, mà còn cứu tôi ra khỏi vũng lầy của sự hận thù. Tôi luôn luôn âm thầm cầu nguyện cho anh thoát khỏi mọi tai ương.
Cái đêm anh bước vào chùa, khi anh ngước lên nhìn tôi, cũng ánh mắt ấy cách đây hơn mười năm giống hệt nhau. Tôi giật mình, ân nhân năm xưa bây giờ đã đến, tôi có bổn phận phải giúp anh, phải đưa anh thoát khỏi nghịch cảnh mà anh và gia đình gánh chịu. Bây giờ anh đã hiểu rồi chứ ? Đây là cơ hội cho tôi trả lại anh món nợ cũ. Điểu làm tôi suy nghĩ mãi là cơ duyên nào đưa anh tới đây ? Có phải chăng ơn trên đã dẫn dắt anh. Trong cuộc sống thiên hình vạn trạng, rất hiếm có trường hợp giống nhau. Thế mà chúng ta lại rơi đúng vào sự trùng hợp này một cách bất ngờ.”
Anh sững sờ nhìn Thầy, một câu chuyện mà anh không hề nghĩ đến, cho đến bây giờ Thầy nhắc. Đúng là trường hợp hi hữu, tất cả đều có sự sắp xếp của ơn trên. Ký ức anh bắt đầu quay về khoảng không gian mười năm trước đây:
“Hồi đó đơn vị anh hành quân ở khu vực Miếu Bông, sát Quốc lộ 1, giữa đường từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện. Gần 6 giờ chiều, anh được lệnh di chuyển vào khu vực xã Hòa Lân gần một con lộ đá từ Non Nước vào Hội An. Chính sự di chuyển này đánh lạc hướng du kích địa phương và những liên lạc viên, vì họ không ngờ đơn vị của anh di chuyển ban đêm. Ông Huyện ủy viên tưởng rằng không có lính Quốc gia hành quân, nên ông mới đi trên lộ trình này. Khi ông bị lính chận lại, ông rất ngạc nhiên tại sao một cuộc hành quân như vậy mà du kích không phát giác được.
 Chỉ huy Đại đội đóng gần cái miễu, anh treo chiếc võng bên ngoài, định nằm nghỉ thì người lính gác dẫn một ông thầy chùa vào trình diện. Anh ngước nhìn thấy ông thầy chùa cũng lớn tuổi, con người khắc khổ tội nghiệp. Anh không nghi ngờ gì cả, bảo ông nghỉ lại đây cho an toàn rồi ngày mai về sớm. Đi trong đêm nguy hiểm vì có thể gặp đơn vị Quốc Gia khác đi kích, lúc đó khó tránh khỏi rắc rối. Đơn giản là như vậy, chứ anh hoàn toàn không có ý nghĩ gì khác, hoặc nghi ngờ ông thầy chùa là Việt Cộng.
Sáng hôm sau khi ông thầy chùa đi rồi, thì anh mới tự hỏi tại sao mình không lục xét ông thầy, biết đâu ông là Việt Cộng thì sao ? Giữa thời buổi chiến tranh bất cứ ai cũng có thể nghi ngờ. Nghĩ như vậy, nhưng anh không cho lính chạy theo gọi ông trở lại. Chuyện này anh cũng lãng quên, bây giờ Thầy nhắc anh mới nhớ lại.”
Anh nhìn Thầy, nhưng hoàn toàn không còn nhớ khuôn mặt. Càng nghĩ anh càng cảm thấy sự màu nhiệm của đức tin, có thể biến đổi được con người, xoa dịu những vết thương tưởng chừng như không bao giờ xóa đi được. Anh lặng người để tâm hồn lắng xuống, nhìn Thầy như cảm nhận có được một luồng hùng lực tỏa sáng. Khuôn mặt Thầy hiền từ, ăn nói chậm rãi, từ tốn. Anh thấy, Thầy hoàn toàn lột xác. Thường thường chính trị viên nào cũng ăn nói lưu loát, cứng rắn, họ là những người nắm sinh mạng của đơn vị, đẩy những chiến binh dưới quyền mình vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Bây giờ lời Thầy có một hấp lực mang đến sự an lành cho mọi người. Ôi, tất cả đều nằm trong nghiệp số.
“Thưa Thầy, thế thì lúc nào Thầy mới chính thức bước vào đường tu hành ?” Thầy nhìn anh cười. Bây giờ anh mới để ý nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu:
“Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi quân Cách Mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v… chỉ xin một điều, hãy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những ngày tôi theo Cách Mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đã đủ. Bây giờ cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường này mới giải thoát được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mỉm cười.
Lúc đầu họ không chịu, nhưng tôi quyết liệt quá, họ đành phải chìu ý tôi. Họ bảo tôi lãnh đạo Phật Giáo tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi dụng chiếc áo cà-sa nữa, vì tôi đã lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh để che đỡ mình.
Lúc đầu khi về chùa tôi thỉnh một bộ kinh và sắm chuông mõ, tôi tự trồng trọt để nuôi thân. Dân địa phương họ biết tôi trước đây hoạt động cho quân Giải Phóng nên họ rất e dè, ít người lui tới. Dần dần người này truyền đạt cho người kia về tôi, họ thấy tôi không nguy hiểm mà trái lại rất dễ thương. Từ đó chùa có một sinh khí mới, buổi tối ai rãnh thì đến chùa tụng kinh với tôi. Đạo hữu họ cũng biết chùa che chở cho nhiều người trốn thoát Công An, họ cho đó là việc làm đúng. Công An họ tin rằng tôi là một đảng viên, không thể chấp chứa những thành phần phản động. Nhưng họ không ngờ rằng tôi bây giờ đã hoàn toàn lột xác, tất cả đều là anh em, không thù không oán. Chính vì vậy chùa đã bao che cho những người vượt biển trốn tại đây.
“Thưa Thầy, chùa này đã có trước đây hay mới làm và người đệ tử theo Thầy từ lúc nào ?” – “Chùa này trước đây là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không còn ai hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, còn tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính điều này cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn gì cũng lạ thật.
Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm thấy an tâm, hình như có một cái gì đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong lòng, sau khi đất nước hòa bình, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đình vợ con không còn nữa, chẳng còn chỗ nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt động. Sau này, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông.
Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những ngày vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi, cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây giờ thầy đã là kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, vì chuyện ở chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ những gì mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc này thì thầy làm việc khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp.
Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ từ nước ngoài về tìm thầy. Khi họ lạc nhau thầy đã 10 tuổi nên thầy dễ dàng nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lãnh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định. Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao tình ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang tìm một người sau này sẽ thay tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được lòng bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị. Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa tìm được người như vậy. Thật tình thì có lo lắng cũng không được. Thôi thì cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự nhiên sẽ đến.
Bây giờ tôi già rồi, những việc nặng nhọc không làm được, người đệ tử của tôi quán xuyến hết. Hơn nữa đạo hữu cũng khá nhiều, mỗi ngày có vài người đến chùa làm công quả, nên tôi có thì giờ nghỉ ngơi, chỉ lo Phật sự. Tôi tự tu hành, học trong kinh sách của Phật dạy. Phần nhiều kinh sách viết bằng chữ Hán nên đã gây cho tôi khó khăn lúc ban đầu.
 Mặc dù Thầy không đi tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên trì học hỏi của Thầy, đã tạo cho Thầy một con người thông hiểu giáo lý nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người này là Thầy Bổn Sư, nên khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy tìm đến những cao tăng xin chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa mình, để tu thân. Chính quyền tại đây biết rõ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. Vì vậy Thầy yên tâm tu hành.
Từ khi chính thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều này, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn chưa đủ tiền thực hiện.
Một buổi sáng trong lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy: “Thưa Thầy, đây là số tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm việc gì mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn mà Thầy đã giúp, vì ơn này to lớn quá con không trả nỗi. Con thấy Chùa hư hại quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.”
Thầy nhìn anh, Thầy cảm thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đã giúp anh vượt biên, nhưng khi nghe anh trình bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay không ? Cuối cùng Thầy quyết định:
“Lòng tốt của anh Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền này của anh Thầy cảm thấy áy náy quá. Thôi thì thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền thì ngưng, có tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời này qua đời khác, không có ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm này, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào Thầy không còn khả năng…”
Thầy và anh bàn nhiều chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một lò nung gạch, đào đất trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau này sẽ trồng sen, trở thành một hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lý, anh cũng vui thích.
Trở lại Mỹ, mỗi đêm anh ngồi trước bàn thờ tụng kinh. Lúc đầu anh không biết tụng kinh như vậy để làm gì, sau vài tháng anh ngộ ra được một điều cái “quả” mà anh nhận được bây giờ, gia đình yên vui, vợ con sẽ đoàn tụ, công việc trôi chảy, chính nhờ vào cái “nhân” mà anh đã gieo. Anh tụng kinh là nhắc nhở mình phải luôn luôn gìn giữ cái tâm ngay thẳng. Anh không nghĩ đến những chuyện cao siêu, chỉ biết đơn giản là tu thân tích đức. Anh cảm thấy tâm hồn anh thanh thản hơn, bỏ ra ngoài những hệ lụy rắc rối không mang tới niềm vui cho mình, cho mọi người. Câu kinh anh tụng trở nên nhiệm màu.
Vợ con anh sau vài năm tới Mỹ theo diện đoàn tụ. Anh có hỏi vợ về ngôi chùa ở Mân Thái. Vợ anh cho biết ngôi chùa đã xây xong, không lớn lắm nhưng khang trang. Thầy có làm một tấm đá gắn trên tường khắc tên những người đóng góp xây dựng nên ngôi chùa như một lời tri ân.
Nhiều đêm không ngủ được anh lại nghĩ tới ngôi chùa, nghĩ tới Thầy. Ngôi chùa nhỏ nhưng chứa một tấm lòng quá lớn. Đối với gia đình anh đây cũng là thánh địa, đã cứu giúp anh vượt qua những khó khăn. Trong chiến tranh, chỉ một lần ngẫu nhiên gặp gỡ mà người Thầy đã giác ngộ, đã từ bỏ hết những danh vọng, những quyền thế, xóa sạch những hận thù, những dĩ vãng đen tối. Chấp nhận một cuộc sống thanh bần khổ cực.
Mấy ai trên đời này làm được như Thầy ? Công đức của Thầy theo anh, đó là một ngọn Thái sơn mấy ai leo tới. Năm nay Thầy đã bát tuần, như một quyển kinh đã đọc đến những trang gần cuối. Thầy không có gì phải vướng bận khi ra đi, chắc Thầy cũng đã sẵn sàng đi theo Phật. Cuộc đời, mọi vật rồi cũng sẽ trở thành cát bụi, chỉ còn chăng là một tấm lòng. Anh viết thư cho quý đạo hữu hãy báo tin cho anh biết khi Thầy viên tịch, anh sẽ thu xếp về ngay để tiễn đưa Thầy lần cuối.
PHAN XUÂN SINH

ÁNH SÁNG TRONG MẮT NGƯỜI MÙ

ÁNH SÁNG TRONG MẮT NGƯỜI MÙ

Trich EPHATA 660

httpv://www.youtube.com/watch?v=frtpyWhuWzg

 Tôi đến Nebraska vào đầu mùa Đông giá lạnh. Người đón ở phi trường là một người chưa bao giờ gặp mặt. Tên anh là Thomas. Một vài câu chào nhau lạnh lùng giữa mùa đông lạnh. 

 Lặng lẽ, anh dẫn tôi ra khỏi phi trường và lao mình trên chiếc xe truck trong cơn gió tuyết. Mùa Đông Nebraska quá khắc nghiệt hơn tôi dự đoán. Từng cơn gió tuyết réo rắt đến rợn người. Một màu trắng xoá trải dài, dài như vô tận. Những khu nhà thưa thớt của dân nghèo da đen gần phía phi trường phủ ngập tuyết. Tuyết phủ cao có khi lấp hẳn cả những chiếc xe nằm bất động bên đường. Không gian tĩnh mịch. Trong lòng đơn côi. Tôi hoang mang sợ hãi ! Không biết mình có vượt qua nổi mùa Đông khắc nghiệt này không ? Lần đầu tiên trong đời chạm trán với Mùa Đông Nebraska với mười mấy độ âm.

 Những ngày trước đây còn háo hức cho chuyến thực tập này bao nhiêu thì bây giờ cảm thấy ớn lạnh bấy nhiêu. Nỗi cô đơn xâm chiếm, một hoang mang vây quanh. Tại sao mình lại chọn mảnh đất xa xăm này ? Tại sao lại bỏ gia đình ấm cúng để đi vào trong chốn đơn côi ? Một hoang mang khơi dậy trong hồn.

Về đến nhà trời đã sẫm tối. Đón ở cửa là một người đàn ông mù trạc tuổi 60. Ông có mái tóc bạc trắng đều đặn và một khuôn mặt phúc hậu. Ông mở to đôi mắt, nhưng ông lại chẳng thấy. Lúc đầu chẳng để ý, nhưng khi nhìn ông quờ quạng chiếc gậy dành cho người mù bên cạnh, tôi mới biết ông ta mù. Cái tối ngoài trời, xen lẫn cái tối trong nhà, lại thêm cái tối của một người mù làm cho bầu khí thêm ảm đạm. Rồi một tiếng nói vọng lên trong góc tối và một bàn tay vươn ra để bắt tay: “Tôi là cha Gilick, rất vui được gặp anh.” Ngài tự giới thiệu và nở một nụ cười nồng ấm. “Con là Thảo Nam, rất hân hạnh được gặp cha.” – “Chúc mừng anh đến cộng đoàn này. Tôi là Cha Bề Trên ở đây và sẽ là linh hướng của anh trong thời gian anh ở đây. Hãy coi tất cả như người nhà nhé.” Ngài niềm nở tiếp đón.

  Tôi bối rối tự hỏi: Sao ông mù này lại là cha Bề Trên ở đây ? Chắc cái cộng đoàn này hết người sáng mắt hay sao mà lại đặt một ông mù làm Bề Trên của một cộng đoàn mắt sáng ?

 Thắc mắc. Nghi ngờ. Rồi bắt đầu đón nhận. Một hành trình mới đi vào thế giới người mù. Mỗi một người mù có lối sống đặc biệt của riêng mình. Đây không phải là lần đầu tiên tôi sống với Linh Mục mù. Trước đây tôi đã có dịp chung sống với hai Linh Mục mù khác, và đây là vị mù thứ ba. Chẳng hiểu có bí ẩn gì đây mà sao lại có duyên ‘‘làm bạn’’ với lắm cha mù như thế. Câu hỏi ấy vẫn mãi là một chuỗi suy tư.

 Những ngày ở Việt Nam, tôi giúp lễ nhiều năm cho một Linh Mục mù về hưu tại nhà riêng. Năm giờ sáng, ngài thức dậy. Quờ quạng. Cầu nguyện. Rồi dâng Lễ mỗi ngày. Ngài đã dâng Lễ đều đặn suốt hơn mười năm mù loà như thế. Thánh Lễ trong suốt mười năm là một Thánh Lễ duy nhất: Lễ về Đức Maria. Ngài đã thuộc lòng kinh tiền tụng, không cần sách lễ. Tôi dọn bàn thờ, chọn áo lễ và khoác cho ngài. Rồi hai cha con dâng lễ. Một Linh Mục, một tín hữu suốt bao năm dài đăng đẳng. Những Thánh Lễ êm đềm trong nắng ấm ban mai. Cô quạnh, nhưng cũng tràn đầy ủi an. Có mệt mỏi, nhưng có ân sủng đỡ nâng. Có những ngày muốn bỏ Lễ, nhưng rồi lại tiếp tục vươn lên. Tuổi già, lại thêm mù loà là một thách đố lớn cho đời Linh Mục. Tôi không dâng Lễ, nhưng cảm nghiệm nỗi mệt mỏi trong từng Thánh Lễ của người Linh Mục mù ấy. Tôi ngần ngại. Liệu sau này mình có rơi vào trong cảnh đơn côi này không ?

 Rồi những ngày đến Cali, tôi lại có dịp sống với Linh Mục mù thứ hai. Ngài không mù hẳn, nhưng mắt bị loà. Phải viết chữ thật to ngài mới đọc nổi, và ngài chỉ có thể nhận ra anh em trong nhà qua giọng nói.

Bây giờ, nơi vùng đất xa xăm của Nebraska, vị Linh Mục mù thứ ba này lại đến với tôi như một ngạc nhiên quá lớn. Sững sờ. Rung động. Ngỡ ngàng. Không ai cho tôi biết về người mù này trước khi đến, nên lần gặp gỡ bất ngờ này đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh, một xúc cảm nội tâm sâu xa. Ngài không mù vì tuổi già, nhưng mù từ lúc bé. Vào dòng chỉ ước mong đơn sơ làm ông thầy vĩnh viễn. Rồi tình yêu Chúa nhiệm mầu, lớn hơn cả lòng người ước mong, dẫn đưa ngài đến chức Linh Mục với đôi mắt mù. Ai có thể hiểu nổi những huyền nhiệm trong cuộc đời !

Cộng đoàn ở đây có chừng mười người. Một số cha dạy học, còn lại một số anh em vẫn cắp sách đến trường. Cha mù Bề Trên chuyên lo về linh hướng, chỉ đường thiêng liêng cho anh em sáng mắt. Chao ôi, người mù lại chỉ đường thiêng liêng cho người sáng mắt. Dẫn nhau đi trong u tối cuộc đời để vào ánh sánh huyền nhiệm. Mắt thể xác mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn thì sáng rực. Ngài còn làm Lễ tại Giáo Xứ, và đi giảng tĩnh tâm trên khắp nước Mỹ.

Có lần cha quản lý khuyên tôi: “Nếu có gì thắc mắc thì đến hỏi cha mù ấy, ngài mù nhưng lại thấy nhiều sự lắm.” Mù mà thấy nhiều sự thì chẳng phải là mù. Tật nguyền đôi mắt không làm cản ngăn lối bước đi về chân lý. Hành trình cuộc đời là hành trình tìm về chân lý, nhưng chân lý lại không phải vật chất để đôi mắt thể lý trông thấy, nên ánh mắt tâm hồn mới là đèn soi cho mọi khát khao kiếm tìm. Có đôi mắt sáng chưa hẳn là tìm được lối đi. Nhiều khi ta vẫn đi trong đêm tối tội lỗi với ánh mắt sáng ngời.

 Đã bao năm, tôi vẫn tự hào mình có đôi mắt sáng, nay đối diện với vị Linh Mục mù này tôi mới thấy mình mù loà và cần ngài hướng dẫn, chỉ đường. Cuộc sống vẫn luôn có những nghịch lý thú vị.

 Những ngày đầu gặp gỡ, tôi cảm thấy tội nghiệp và thương tâm cho Ngài. Những ngày sau chung sống, tiếp xúc và học hỏi, tôi lại thấy thương hại cho chính mình, vì mình có đôi mắt sáng mà chẳng thấy những gì cần thấy và đáng thấy. Trong khi vị mù này lại có thể thấy những điều từ đáy sâu thẳm của tâm hồn, thấy được ý nghĩa sâu xa của cuộc sống tâm linh và thân phận con người. Thấy Chúa trên cao. Thấy Chúa trong lòng cuộc sống. Thấy Chúa trong hạnh phúc cũng như trong từng nỗi đau. Mù mà thấy nhiều sự quá !

Văn phòng của ngài ở ngay trong trường đại học của Nhà Dòng. Phải mất khoảng mười phút mới có thể tản bộ tới đó; phải băng qua hai con đường xe chạy tấp nập. Vậy mà ngài đã đi qua về lại trên con đường ấy suốt hai mươi năm qua không hề hấn gì. Tôi vẫn thích tản bộ tới trường với ngài mỗi buổi sáng trên con đường ấy. Ngài vẫn thích có ai đi bên cạnh để chuyện trò, níu vai, để khỏi phải quờ quạng chiếc gậy.

 Có lần ngài nắm vai tôi vừa đi vừa nói: “Có cậu đi bên cạnh thì chiếc gậy mù này thất nghiệp !” Tôi cũng nhẹ nhàng đáp lại: “Vậy từ hôm nay con sẽ là cái gậy của cha mỗi sáng trên con đường này nhé.”

Trong thâm tâm, tôi không nghĩ mình giống chiếc gậy, nhưng giống những con chó đã được huấn luyện để dẫn dắt người mù. Công việc chút xíu như thế cũng có ích cho đời lắm chứ ! Và mình lại thấy vui với ý tưởng đó. Rồi quay lại với ngài tôi tiếp tục bông đùa: “Con thấy mình giống con chó dẫn dắt người mù hơn là chiếc gậy cha ạ, đời con bất tài nên làm công việc này chắc thích hợp đấy.” Ngài cũng tinh nghịch phản ứng: “Phải mất hai mươi lăm ngàn dollars mới huấn luyện được con chó đó, cậu có được bằng giá đó không ?” Rồi cả hai cùng cười khúc khích, biết đùa với nhau là cả một món quà.

 Sống với ngài được một tuần, ngài bắt đầu nhờ tôi chở đi làm Lễ ở một Giáo Xứ vào mỗi sáng Chúa Nhật. Lần đầu tiên ngài nói: “Ngày mai cậu chở cha đi làm Lễ nhé !” – “Thưa cha, Nhà Thờ ở đâu, có xa không ?” Tôi hỏi. “Chừng ba mươi phút lái xe.” Ngài đáp.

 Tôi bắt đầu do dự. Đường sá chưa rành, tuyết phủ khắp nơi, chở người sáng mắt thì người ta còn chỉ đường, chứ chở người mù chắc dẫn nhau ra nghĩa địa quá ! Trong đầu do dự, nhưng lại không muốn từ chối lòng tín nhiệm của ngài. Rồi tôi hỏi: “Cha có bản đồ không ?” Ngài trả lời: “Hình như không.” Hỏi xong tôi thấy mình ngớ ngẩn. Ngài đâu thấy đường đâu mà hỏi bản đồ, và nếu có bản đồ thì ngài cũng chẳng chỉ đường được.

Tôi quay lại nói tiếp: “Nhưng mà con chưa biết đường !” Ngài tự tin trả lời: “Lo gì ! Cha sẽ chỉ cho.” Tôi thấy nghi nghi trong lòng. Làm sao ngài biết đường ? Nhưng rồi tôi cũng đánh liều nhận lời.

Ngày hôm sau, lấy chìa khoá và đề máy xe. Trong lòng run lắm. Ngày Chúa nhật trong nhà đi vắng cả nên chẳng kịp hỏi ai. Lòng nghĩ thầm, ông cha mù này liều quá, dám nhờ mình chở đi đường tuyết phủ ở nơi lạ lẫm thế này.

Đề máy xong, ngài chỉ đường bằng miệng: “Con ra khỏi cổng, quẹo trái; đến stop sign đầu tiên quẹo phải; qua hai đèn xanh đèn đỏ, quẹo phải, rồi vào xa lộ. Và cứ tiếp tục như thế…” Tôi lái xe, ngài chỉ đường; qua bao con đường ngoằn ngoèo để đến Nhà Thờ. Tôi sửng sốt. Làm sao ngài có thể nhớ đường ? Rồi tôi tò mò hỏi: “Làm sao cha biết đường hay vậy ?” – “Cha có bản đồ.” Ngài vừa cười vừa đáp. “Sao cha nói với con là cha không có bản đồ ?” Tôi phản ứng. “Bản đồ ở trong đầu.” Ngài lại cười đùa giỡn. Thì ra, người mù lại có một bản đồ thật chính xác trong đầu.

 Giáo Xứ ngài đến dâng Lễ là một Giáo Xứ giàu. Ngôi Thánh Đường xây bằng gạch đỏ tươi trên một khu đất khá cao. Chung quanh là những khu nhà khá sang trọng, nên nó làm cho ngôi Thánh Đường thêm đẹp. Mùa đông không có những vườn cỏ, cây xanh hoa lá, nhưng nhìn cách chăm nom và trang trí khu vực Thánh Đường cũng đủ biết là dân có tiền nhiều.

 Có lần tôi tinh nghịch hỏi ngài: “Thưa cha, tại sao cha khấn khó nghèo mà cha lại đi giao du với dân giàu ?” Ngài vui vẻ đáp lại: “Có người giàu vật chất, nhưng tâm linh nghèo lắm. Phải học biết chia sẻ thì tinh thần mới giàu. Vật chất là ơn huệ Chúa ban. Biết chia sẻ nó tức là đã sống tinh thần nghèo. Cũng như đôi mắt là ơn huệ. Biết nhìn nhau trong yêu thương là đã mở lối cho chân lý đi về.”

 Rồi một chiều lạnh giá tuyết phủ, ngài đến bên tôi nhẹ nhàng đề nghị: “Ngày mai con chở cha ra phi trường nhé !” – “Cha đi đâu vậy ?” Tôi hỏi. – “Cha đi giảng tĩnh tâm cho một Giám Mục.” Ngài trả lời.

 Tôi sửng sốt tròn xoe đôi mắt nhìn ngài. Hoá ra, ngài vẫn thường xuyên đi giảng tĩnh tâm cho các Giám Mục và Linh Mục Hoa Kỳ ở nhiều Giáo Phận, vì thế sân bay đã trở nên quá quen thuộc đối với ngài. Sau chuyến đi này, sẽ có một Tổng Giám Mục Anh Giáo đến tại cộng đoàn này để xin ngài hướng dẫn cắm phòng. Vị Giám Mục này vẫn đến đây hàng năm để xin kẻ mù này soi dẫn, và họ đã trở nên bạn thân với nhau suốt bao năm qua.

Tôi lặng im. Một xúc cảm mãnh liệt dâng trào. Lạ quá, Chúa vẫn làm phép lạ hàng ngày trong những hạnh phúc đan quyện nỗi đau, trong những lãnh nhận và trong từng mất mát. Ngài vẫn hiện hữu trong từng đôi mắt sáng và trong những ánh mắt mù loà.

 Làm sao có thể nghi ngờ về sự hiện hữu của Thượng Đế khi tiếp xúc với những con người như vị Linh Mục mù này. Lòng tin của tôi thì yếu ớt, nhưng khi gặp Ngài, tâm hồn như được nung lên trong niềm tin. Tôi vẫn mãi suy tư, dưới một cái nhìn nào đó, Thiên Chúa đang dùng một người mù để hướng dẫn bao vị lãnh đạo mắt sáng….

 Hôm sau, tôi tiễn ngài ra phi trường. Ngài ra đi và rồi đã trở lại như bao con người bình thường khác. Dù thế, tôi vẫn cảm thấy có cái gì đó thật phi thường trong những cái bình thường ấy. Phi thường của tình yêu, sức mạnh, của ân sủng, của tất cả những gì mà Thiên Chúa có thể làm được cho con người và qua con người, ngay cả trong những con người tàn tật nhất.

 Sáu tháng ở Nebraska qua đi thật nhanh. Tôi phải chia tay ngài trong nuối tiếc, trong lòng kính trọng và yêu thương. Vẫn ước mong một ngày nào đó được ghé lại thăm ngài. Có lẽ lần tới khi trở lại, mình sẽ không còn hoang mang lo sợ như lần đầu mới đến, vì biết rằng nơi mảnh đất xa xôi đó, đang rực lên một tia sáng huyền nhiệm trong ánh mắt của một Linh Mục mù.

NGUYỄN THẢO NAM

9/11:Nữ Trung Tá gốc Việt thoát chết bởi Một Giấc Chiêm Bao!

9/11:Nữ Trung Tá gốc Việt thoát chết boi Một Giấc Chiêm Bao!

Tác giả: Lệ Hoa Wilson

Ngày này, 14 năm trước, khủng bố đã tấn công nước Mỹ. Bài viết mới của Lệ Hoa Wilson là chuyện của một bà mẹ Mỹ Tho kể về người con hiện là nữ trung tá làm việc tại Ngũ Giác Đài. Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ. Ông bà có văn phòng Di Trú-Thuế Vụ tại Long Beach.
* * *
blank

Trụ sở Ngũ Giác Đài bị khủng bố tấn công ngày 11 tháng 9, 2001.

Chúng ta tạm gọi nó là Mì Tô, bạn nhé.

Nó là con gái, sinh năm 1968 tại Việt Nam. Ba Mỹ. Má Việt. Và trước sau nó chỉ có một mình, không có thêm anh em nào nữa.

Mỗi tháng nó theo mẹ về Mỹ Tho thăm bà ngoại. Trong đời nó không có món nào ngon bằng chuối chiên của dì Tám, giò chéo quẩy của Hai Hửng và nước mía của Má Thằng Lộc. Nó nghe người lớn kêu sao thì kêu vậy và một lần nó ăn một bạt tay nhẹ của bà ngoại vì nó kéo áo má nó nói: “Con muốn uống nước miá của Má Thằng Lộc”. Bà ngoại hỏi má nó chớ cô có biết dạy con không, sao để nó ăn nói hỗn hào như vậy? Má nó định nói gì đó nhưng lại thôi.

Cái tát tay không làm nó đau nhưng làm nó khó hiểu. Nếu là ba nó thì ông sẽ giải thích cho nó biết nó làm lỗi gì, phải sửa đổi ra sao và ông sẽ nheo một mắt, đưa ngón tay cái của bàn tay mặt lên trời và nói “không có lần sau nữa, phải không con gái yêu quí của ba” và dĩ nhiên nó vui vẻ gật đầu.

Nó cũng không hiểu tại sao khi bị bạt tay nó không khóc mà má nó lại khóc khi bà ngoại nói chuyện nhẹ nhàng với má nó. Nó nằm ngủ trên bộ ván ngưạ, vòng tay ngắn ngủi choàng qua ôm ngang bụng mẹ. Tiếng hỷ mũi sột soạt và từng cơn nấc làm bụng mẹ nó trồi lên hụp xuống khá nhanh khiến nó tỉnh giấc. Một vài giọt nước mắt rơi xuống mu bàn tay làm nó thấy lành lạnh và trong lòng nó nổi lên một cảm giác là lạ. Nó cố gắng nhớ lại coi những khi ở nhà má nó khóc thì ba nó làm gì? Hình như ông nói nhiều lắm nhưng nó chỉ nhớ và thích câu “Em hãy tựa đầu lên vai anh và khóc đi, khóc cho tới khi em hết buồn!” Nó nghiệm ra rằng khi buồn thì người ta khóc và khi khóc thì phải khóc cho đến khi nước mắt không chảy ra nữa thì mới hết buồn.

À thì ra má nó đang buồn. Nó sửa soạn ngồi dậy để nói với má nó cái câu ba nó thường nói và sẽ đưa cái vai nhỏ nhắn của nó ra cho má nó dựa vào. Lòng nó thương mẹ nhiều đến đổi nó vùng dậy như một cây tên bật ra khỏi dây cung, miệng méo xệch và mắt ướt nhẹp.

– Má…má…dựa vào…

Nó lắp bắp cố nhớ lại lời ba nó thì bà ngoại đã nạt ngang:

– Con nít biết gì mà lộn xộn. Ra ngoài sân chơi đi!

Má nó đưa tay vuốt đầu nó rồi nhét vô tay nó hai tờ giấy bạc:

– Con xuống bếp nói dì Hai dẫn con đi mua chuối chiên và nước mía đi. Má thương con.

Khi nó trở về từ đầu ngõ, một tay cầm miếng chuối chiên vàng rợm, một tay ly nước mía lạnh ngọt ngào, nó thấy một đám trẻ bu quanh một người đàn bà mà la hét, quơ tay múa chân. Đám con trai thì nhảy loi choi, miệng hò hét nhẩy … nhẩy, đám con gái thì vừa la liệng… liệng vừa vung tay liệng tất cả những gì chúng đang cầm: lá chuối, bông phượng, đất sét, gạch ngói…

Người đàn bà đầu tóc rũ rượi, mồ hôi chảy đầy trán, quần áo xộc xệch vừa nhảy vừa liệng ra tất cả những gì bà đã nâng niu: hai trái chuối xiêm, nửa đòn bánh tét và một tờ giấy bạc nhàu nát.

Có mấy người lớn làm công việc lặt vặt trước cửa nhà nhưng không ai rầy la ngăn cản đám con nít. Có lẽ chuyện nầy xảy ra thường ngày nên họ cũng chẳng buồn để ý.

Lòng của Mì Tô thắt lại. Ba má nó thường dạy nó phải kính trọng và thương yêu người khác, nhứt là những người tàn tật, bịnh hoạn. Hiện tại, dưới mắt nó, bà già nầy đúng là người ba má nó thường khuyên dạy nó phải giúp đỡ và yêu thương.

Nó kéo tay áo dì Hai và cố gắng dùng tất cả tiếng Việt mà nó biết:

– Dì Hai, ngừng đi… ngừng đi…. Bà già mệt rồi… áo ướt rồi…

Dì Hai hiểu nó nên bước lên nắm tay môt thằng nhỏ có vẻ là đầu đàn và la lớn:

– Đủ rồi tụi bây. Bà Sáu khùng gần xỉu rồi. Đồ quỷ, đi chỗ khác chơi!

Thế là tụi nhỏ tan hàng. Bà Sáu đứng lại thở hồng hộc và lết lại gốc cây phượng ngồi xuống. Mì Tô ngồi xuống cạnh bà, đưa ly nước mía:

– Bà ơi uống nước mía của Má…., nó sực nhớ lại cái tát tay nhẹ của ngoại nên nói lảng:

– Nước mía và chuối chiên ngon lắm, bà ăn đi, uống đi.

Người đàn bà đưa tay ra cầm tay Mì Tô, nhìn nó chăm chăm và hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy dài.

Qua lời thuật lại của dì Hai, má nó biết là lúc đó bà Sáu khùng và Mì Tô nắm hai tay nhau, tay Mì Tô còn cầm ly nước mía và tay kia miếng chuối chiên. Hai tay bà Sáu bọc ngoài hai tay nó và họ nhìn nhau. Cảnh tượng lúc đó có cái gì là lạ làm dì Hai nổi gai ốc, hình như có cái gì xoáy tròn, hình như có cái gì nhẹ nhàng bay lên… Dì Hai sợ ma nên kéo tay Mì Tô lôi về.

Sau đó mỗi lần về thăm ngoại, Mì Tô thường hay đem quà bánh nó để dành và đem lại chia xẽ với bà Sáu. Khi gặp nó thì bà Sáu lại tỉnh táo kể cho nó nghe chuyện con Tấm con Cám, chuyện câu cá bắt cua ở quê bà, chuyện cây xoài gây lộn với cây ổi v.v..và nó cười vui vẻ cùng bà. Hình như nó là đứa trẻ duy nhứt hay có thể nói nó là người duy nhứt đối xử với bà Sáu như Một Con Người.

Nhiều năm về sau Mì Tô mới biết những lần về thăm bà ngoại đã ảnh hưởng tới cuộc đời nó huyền diệu đến thế nào. Nó không thể thay đổi được dĩ vãng, nhưng tương lai thì…
*
blank

Trụ sở Ngũ Giác Đài bị khủng bố tấn công ngày 11 tháng 9, 2001.

Năm 1975, mẹ con nó theo ba nó về Mỹ và từ đây nó trở thành cô Maddison.

Cái tên Mì Tô là do ba nó phát âm tiếng Mỹ Tho ngọng nghịu làm mọi người bật cười và gán cái biệt danh đó cho nó. Còn má nó khóc mỗi lần về thăm ngoại là vì bị mẹ rầy rà đay nghiến về cái tội lấy Mỹ! Bận rộn với cuộc đời mới nó quên hẳn tên Mì Tô cũng như bà Sáu khùng.

Đối với Maddison, mẹ cô là người làm cho cô biết thương yêu đồng loại và sẵn sàng chia xẻ. Nhưng ba cô lại tạo cho cô một tình yêu quê hương thắm thiết, đậm đà. Cô yêu nước Mỹ và nước Việt Nam tuy rằng nước Mỹ đối với cô gần gũi, thiết thực còn nước Việt Nam thì xa lạ, mơ hồ.

Trong suốt thời kỳ theo học đại học, cô lúc nào cũng nghĩ tới học môn gì, làm nghề gì cho có ích lợi cho Mỹ và Việt Nam? Và cô đã chọn ngành Criminal Justice và học rành rẽ tiếng Nga vì cô nghĩ rằng người Nga và người Tàu đã giúp cộng sản chiếm miền nam. Lúc đó tiếng Tàu không thông dụng ở Mỹ nên cô chọn tiếng Nga và gia nhập quân đội. Sau nầy nếu cô có là một spy thì ngoại hình của cô sẽ thích hợp với châu Âu hơn là châu Á.

Năm 2001, Maddison đã là một chuyên viên nghiên cứu, theo dõi và cung cấp các hoạt động tình báo của Nga cho Ngũ Giác Đài và mang cấp bậc thiếu tá.

Tối ngày 10 tháng 09 năm 2001, cô ngủ và có một giấc mơ kỳ lạ. Cô thấy lại bà Sáu mà cô đã quên từ rất lâu. Bà hôm đó sạch sẽ hơn và có vẻ tỉnh táo hơn. Bà đứng nhìn cô và nói:

– Bà điên sẽ cứu con, bà điên sẽ cứu con.

Tỉnh dậy rồi ngủ lại, hai ba lần cô đều có cùng một giấc mơ. Đầu óc cô lộn xộn giữa mộng và thật. Rồi cô ngủ, rồi mơ, rồi ngủ…

Sáng 11 tháng 09 thức dậy cô bần thần, đầu óc thiếu ngủ nên dật dờ. Dù vậy, cô vẫn nhớ là hôm nay có một cuộc họp quan trọng với các trưởng lão của Ngũ Giác Đài và cơ quan tình báo Mỹ (CIA) mà cô là người thuyết trình và giải thích một chương trình mới về các hoạt động gián điệp của Nga. Cô vội vã sửa soạn đi làm. Trên đường đi, giấc mơ tối qua làm cô bối rối. Có cái gì đó thúc đẩy cô khiến cô vừa lái xe vừa dùng điện thoại có loa loại đặc biệt gắn riêng cho xe cô, gọi bà mẹ ở California.

Hai mẹ con dĩ nhiên nói tiếng Mỹ nhưng tôi xin viết lại bằng tiếng Việt cho dễ hiểu hơn:

– Mẹ à, tối qua con nằm chiêm bao kỳ quá. Con thấy cái bà già ở gần nhà ngoại đó…

– Bà già nào con? Có bà con với mình không? Phải dì Tám Phong, má anh Nhơn không?

– Không phải mẹ à. Cái bà con hay cho bánh mỗi khi con về Mỹ Tho đó. Cái bà bị tụi nhỏ bắt nhảy tửng tửng đó…”

– À ạ, “bà Sáu khùng!”

– Phải rồi, bà Sáu. Mà sao con thấy bữa nay bà có vẻ tỉnh rồi mà còn nói cái gì lạ lắm con không hiểu.

– Bả nói gì ?

– Bà nói cái gì mà cứ “ ba đen cưu con, ba đen cuu con”.

Mẹ cô bên CA cũng ngẩn ngơ không biết cô nói cái gì vì cái accent tiếng Việt của cô nặng quá. Cái gì mà “ba đen cuu con”? Mẹ cô nghĩ hoài không ra. Hai mẹ con bàn qua tán lại một lúc cũng không đi đến kết quả. Mẹ cô nói hay là con cúp điện thoại đi để mẹ suy nghĩ một lúc rồi con gọi lại nghe.

Mười phút sau, cô gọi lại. Lại một hồi nói ra nói vào. Lại cũng không kết quả. Không biết có cái gì đó trong cô thúc đẩy cô phải tìm hiểu và cô cứ lằng nhằng với mẹ. Khi cúp điện thoại thì cô nhận ra cô đã đi quá con đường chỗ phải exit để tới sở làm. Có hơi quýnh quáng vì sợ trễ buổi họp, cô lái xe nhanh hơn và quẹo vào cái exit kế đó.

Trời ơi, hôm nay không phải là ngày của cô. Đêm thì chiêm bao lung tung thiếu ngủ. Sáng thì nói cả tiếng mà mẹ không hiểu làm cô mất tự tin. Đi làm thì lố cái ngả rẽ. Bây giờ thì đằng trước có cái gì mà xe lại đùn đống như vậy? Mà cái gì đưa đẩy làm cho cô phải chú tâm tới một giấc chiêm bao tào lao như vậy? Đó không phải là tính cách của một quân nhân trong ngành nghề của cô.

Cô thở dài ân hận. Tại sao cô lại không chờ tới tối rồi hãy hỏi mẹ? Tại sao lại thắc mắc về một giấc mộng mị vặt vãnh, bâng khuâng về lời nói của một người đàn bà đã đi qua đời cô quá lâu rồi?

Vậy là đúng vào ngày 11 tháng 09 năm 2001, cô Maddison vì nói chuyện điện thoại với mẹ nên đi lố ngả rẽ và bị kẹt xe trong ngả rẽ tiếp vì có tai nạn xe cộ đằng trước. Đồng hồ cô chỉ 9 giờ 15 sáng mà buổi họp định sẽ diễn ra lúc 9 giờ sáng và kéo dài tới 11 giờ. Nóng nảy, cô kêu viên trung úy phụ tá và nhờ ông thông báo với mọi người liên hệ là cô xin dời lại giờ họp là một giờ trưa và cô xin trung úy nói với đại tá trưởng phòng là cô thành thật xin lổi và sẽ vui lòng nhận chịu mọi trách nhiệm.

9:37 sáng ngày 11 tháng 09 năm 2001, cô Maddison ngồi trong xe đang chờ cảnh sát dọn dẹp đường thì một tiếng nổ kinh hồn bùng lên. Chiếc xe cô lắc lư, rung rinh. Cô thoáng nghỉ trời ơi sao mà xui quá, tai nạn phía trước chưa dọn xong thì lại có tai nạn nữa, kiểu nầy khi tới được sở chắc là bị đổi đi phòng khác nhỏ hơn, chức vụ khác thấp hơn. Khi cô nhìn lên thấy khói bụi bốc mù mịt từ phía tây của tòa Ngũ Giác Đài thì tim cô từ 70 độ nhảy lên 120 độ và máu thì chảy rần rật trong thân thể. Cô len lõi giữa các xe, lái xe lên bờ lề, bất chấp những tiếng còi và lời ta thán của những người lái xe khác, chìa cái thẻ của NSA (National Security Agency) cho người cảnh sát và lái như điên đến Ngũ Giác Đài. Chiếc máy bay số 77 của hãng American Airline bị bọn khủng bố lái thẳng vào tầng một của mặt tây tòa nhà làm sụp đổ một phần ba các tầng phòng và giết hại một trăm hai mươi lăm nhân viên dân sự và quân đội.

Cô Maddison đứng nhìn đống gạch đá khổng lồ chất chồng lên những thân hình oằn oại máu me rồi ngồi sụp xuống ôm mặt khóc nức nở. Đây là văn phòng cô làm việc, đây là nơi cô có buổi hẹn sáng nay, đây là thân thể đẫm máu của trung úy Garrison vừa mới Yes, Major. Will do” lúc 9 giờ 15 sáng.

Nếu cô không nằm mơ, nếu bà khùng không nói lảm nhảm làm cô phải kêu mẹ, làm cô đi lố đường, làm cô kẹt vì tai nạn, làm cô trễ giờ đến sở thì trong đống gạch vụn đó với tay chân gảy nát, với tim óc tung tóe đã có thêm một thiếu tá Maddison và 20 viên sĩ quan khác.

Cô kêu mẹ vừa khóc vừa nói Mẹ ơi bây giờ con hiểu bà Sáu nói gì trong giấc mơ của con. Sau khi nghe con gái kể lại mọi chuyện, bà cũng khóc nói bây giờ mẹ cũng đã hiểu “Bà điên cứu con. Bà điên cứu con” là những lời mà bà Sáu đã gởi gấm cho con.

Sau đó, mẹ cô có nói cho cô biết là bà Sáu đã chết năm 1985. Sở dĩ bà bị khật khùng là vì đã chứng kiến cái chết đau thương đột ngột của chồng con. Chồng bà là một quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa. Năm ngày trước khi chồng bà về nghỉ phép, một ổ đặc công của việt cộng trong làng đã bị quân đội VNCH càn quét, thiệt hại đáng kể. Để trả thu, một trái lựu đạn đã được bọn đặc công còn lại thảy vào nhà ba. Bốn giờ sáng ngày định mệnh, bà bơi xuồng chất đầy mận, ổi, nhãn ra chợ quận bán để mua thêm thịt cá về đãi chồng trong những ngày nghỉ phép. Khi trở về, Bà đã thả rơi những gói rau thịt xuống đất khi trông thấy xác chồng và đứa con gái 5 tuổi, và từ đó bà đã thả luôn đời mình cho gió bụi và trở thành bà…khùng.

Có lần bà tỉnh lại và tâm sự với mẹ của Mì Tô rằng kể từ ngày bà mất chồng con, chưa có ai đưa cho bà thức ăn với tất cả trân trọng và thương yêu như Mì Tô đã làm. Cũng chưa có ai nhìn bà với ánh mắt như Mì Tô đã nhìn.
*
blank

Trụ sở Ngũ Giác Đài bị khủng bố tấn công ngày 11 tháng 9, 2001.

Mẹ cô Maddison là cư dân San Pedro, CA. Bà làm cho học khu của quận Los Angeles, phục vụ buổi ăn trưa cho học sinh một trường trung học tại Long Beach. Và bà đến văn phòng tôi làm thuế hằng năm. Nhờ thế tôi được bà kể lại rành rẽ chuyện của Mì Tô.

Bà không phải đạo Phật, chỉ là đạo ông bà nên bà cũng không rành lắm về lý thuyết nhà Phật. Tôi không phải là nhà thần học để hiểu được những liên quan của linh hồn, không phải là một người tu hành đạo cao đức trọng thấy được dĩ vãng tương lai, không phải là bà đồng bóng biết chuyện trò với người đã qua đời. Tôi lại càng không tin tưởng vào thần linh và ma quỷ.

Vậy tôi và bạn phải nghĩ sao đây về hành động đầy tình người của một cô bé lúc sáu tuổi, kết quả là hai mươi mấy năm sau nó đã cứu đời cô? Tôi thật không biết. Trong vũ trụ bao la kia, sự hiểu biết của con người như hạt cát mà sự huyền bí thì vô cùng vô tận.

Dù sao, sau khi nghe chuyện, tôi cũng đã chia xẻ với mẹ của cô Maddison hai điều tôi học được trong chuyện nầy. Đúng hay sai tùy theo cảm nghĩ của từng người.

Thứ nhứt là cháu Mì Tô đã cho người mẹ mất con đau khổ kia một tình thương trong sáng, ngọt ngào. Trong lòng bàn tay của đứa bé 6 tuổi, ly nước mía và trái chuối chiên đã bốc hơi lên thành một cái nhân khí huyền diệu đợi chờ. Trong cái phút hai cặp mắt thương yêu, ơn nghĩa nhìn nhau, một kết quả chắc chắn đã thành hình đâu đó: TÌNH NGƯỜI!

Phải rồi bạn ơi. Tình người đã thành hạt mè và ngày đó, hai mươi mấy năm trước, dì Hai đã cảm thấy nó hình như xoáy tròn bay lên không trung và nằm đó đợi chờ, lại cũng hình như vĩnh viễn ngưng đọng giữa hai trái tim cùng dòng máu đỏ. Như một giọt nước li ti bốc hơi lên từ đại dương và chờ ngày thành đám mưa rơi xuống cứu thoát nhân gian.

Thứ hai là lòng biết ơn của người đàn bà điên loạn. Trong một giây phút ngắn ngủi nhận ly nước mía và trái chuối chiên, sự biết ơn sâu đậm đó, sự cảm nhận được yêu thương đó đã làm sống dậy trong bà một nguồn năng lượng vô biên. Nó làm cho cánh cửa tâm hồn bà mở ra, nhận biết lại khổ đau cũng như hạnh phúc. Chỉ một sát na. Nhưng trong cái sát na đó, hai loại tình cảm thiêng liêng đã hòa quyện vào nhau thành một cái nhân nằm đó. Rồi một ngày nào đó với đầy đủ đất nước gió lửa, hột mè sẽ nở. Quả sẽ trổ tròn đầy. Ngay trong cuộc đời hay trong giấc chiêm bao. Và huyền diệu thay, giấc mơ lại tác dụng sâu đậm tới hiện thực, hòa quyện vào nhau cứu độ mạng người. Mộng hay Thực? Vô Thường!

Tôi nhớ lại một lời dạy của đức Phật “Đừng khinh những điều thiện nhỏ mà không làm!” Và tôi tin có một chuyện linh thiêng mà ta có thể cầu khẩn để đời ta luôn có nhiều hạnh phúc! Đó là hãy cầu khẩn cho lòng thương yêu nhân loại luôn đâm chồi nẩy lộc trong tâm hồn ta.

Năm 2006 mẹ cô Maddison có cho tôi đọc một bài viết về cô của Ngũ Giác Đài nhân dịp cô được phong lên chức trung tá, có nhắc lại ngày 11 tháng 09 không thể nghĩ bàn của cô.

Vì chức vị và nghề nghiệp của cô nên tôi đã đổi tên cô khác đi một chút. Có một điều chắc chắn là tên giữa của cô có hai chữ M.T., có nghĩa là Mỹ Tho!

Lệ Hoa Wilson

Thầy Trân

Thầy Trân

TRANG CHÂU

Đến giờ Sử Địa cả lớp học hổi hộp ngồi chờ.Hôm nay ông hiệu trưởng sẽ đưa giáo sư mới đến dạy, thay thế thầy Tuyên vừa về hưu.Con Chín, ngồi cạnh tôi, đoán già đoán non:
-Tao chắc lại một ông giáo sư già lụm khụm. Môn này không mấy hấp dẫn nên không có nhiều thầy trẻ như bên Việt Văn, Toán hay Sinh Ngữ.
Tự nhiên tôi lạc quan một cách vô cớ:
-Biết đâu kỳ này lớp ta sẽ may mắn rước được một thầy Sử Địa trẻ, đẹp trai lại độc thân cho mà xem.
Con Chín nheo mắt nhìn tôi cười:
-Được như mày nói tao sẽ chớp ngay, không để ông độc thân lâu đâu.
Tôi cười cười nhạo nó:
-Giáo sư độc thân trường mình thiếu gì. Nè thầy Vui bên Anh Văn,thầy Ngô bên Toán, sao mày không chớp đi để hai ông độc thân hoài vậy ?
Con Chín nhún vai:
-Không hạp nhãn tao. Độc thân thì độc thân nhưng cũng phải bắt mắt một tí. Tao chấm thầy Thi bên Pháp Văn nhưng tiếc thầy có chủ mất rồi!
Trong lớp đệ tứ, lớp cuối cùng của trường nữ trung học duy nhất ở tỉnh lỵ nhỏ bé này, Chín và tôi là hai nữ sinh lớn tuổi nhất.Chín trể học đến ba năm, còn tôi hai năm. Nó bị sốt rét, tôi thì thương hàn. Tiếp đến là tản cư rồi hồi cư, sau đó lại theo gia đình rời quận lên tỉnh.Cho nên khi học tới lớp chót của trường thì Chín đã 19 tuổi, còn tôi thì sắp 18.Hai đứa tôi thuộc loại học khá nhưng không phải là giỏi nhất lớp. Chín được chọn làm trưởng lớp vì nó vừa lớn tuổi vừa ăn nói dạn dĩ .Nhìn về nhan sắc, hoa khôi trong lớp là con Vy, 16 tuổi.Tôi được xếp hạng nhì.Tôi không rỏ tôi được xếp hạng nhì vì tôi lớn tuổi hơn conVy hay con Vy đẹp hơn tôi thật.Nhưng tôi rất bằng lòng nhận xét của con Chín:
-Con Vy đẹp thật nhưng là một cái đẹp lạnh, đẹp kiêu còn mi đẹp duyên, đẹp mặn.Mi sẽ làm đàn ông con trai mê mệt hơn nó cho mà xem.
Khi ông hiệu trưởng đưa tân giáo sư Sử Địa vào lớp giới thiệu, con Chín hích cùi chõ hông tôi nói nhỏ:
-Mi đoán đúng, thầy Trân sẽ là “ hoa khôi” trong ban giảng huấn trường mình đó.
Tôi cũng phải công nhận thầy Trân trẻ và khôi ngô.Thầy lại có giọng giảng bài ấm, lối giảng của thầy gọn và lôi cuốn .Con Chín phê bình thầy Trân ngay sau giờ dạy đầu tiên:
-Thầy Trân giảng bài hay nhưng không phải mẫu người của tao. Tao không thích đàn ông nho nhã quá. Tao chịu mấy anh chàng sĩ quan tác chiến hơn. Đàn ông là phải hùng.
Bỗng nó quay sang nheo mắt nhìn tôi:
-Mi thích thơ văn chắc mẫu người của thầy Trân hợp với mi hơn.Mà này, mi tên Huyền, thầy tên Trân, trường lại là trường Huyền Trân, không chừng là duyên tiền định đó nghe mi !
Nói xong nó cười khanh khách, xách cặp chạy để tránh cái vói tay của tôi để véo nó.Nhưng câu nói đùa của Chín làm tôi suy nghĩ.Mà lạ thật, sao lại có sự tình cờ như thế được.Trò tên Huyền, thầy tên Trân, chung dưới một mái trường tên Huyền Trân.
Sự tình cờ đó khiến tôi để ý thầy Trân hơn các thầy khác. Và một lần trong lớp, khi gọi tên các nữ sinh để điểm danh, nghe đến tên Huyền tôi ngay ngắn đứng lên nhìn thầy Trân, nở một nụ cười dễ thương nhất mà tôi có thể tạo ra được để trình diện thầy.Tôi thấy thầy Trân có vẽ như khựng lại mấy giây trước nụ cười của tôi; thầy nhìn tôi mỉm cười rồi tiếp tục gọi tên nữ sinh kế tiếp.
Từ đó trong tuần tôi mong cho đến giờ dạy của thầy Trân.Tôi đâm mê môn học này khi nghe thầy Trân kể về tiểu sử của những nhân vật , những biến cố , những trận đánh lịch sữ.Tôi bỗng nhiên trở nên một nữ sinh xuất sắc về môn Sử. Một hôm học về nhà Trần, thầy nói đến công ơn của các vua nhà Trần trong việc mở mang bờ cõi khi đem công chúa Huyền Trân gả cho vua Chiêm Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và châu Rí. Con Chín bỗng đưa tay lên xin hỏi:
-Thưa thầy, vua Trần có công mở mang bờ cõi thật nhưng em nghĩ đem con gả cho vua một tiểu quốc thì không những bất xứng mà còn nhẫn tâm nữa. Vì thế cho nên mới có hai câu ca dao lưu truyền trong dân gian để vừa mai mỉa vua Trần vừa thương hại công chúa Huyền Trân :
“Tiếc thay cây quế giữa rừng
“Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”
Thầy Trân ôn tồn trả lời con Chín:
-Nếu tôi là một nhà đạo đức thì tôi cũng đồng ý với phát biểu của trò Chín. Nhưng vì tôi là một giáo sư dạy Sử nên tôi chỉ trình bày những hành xử có tính cách quốc gia của tiền nhân.Chắc tất cả đều biết Châu Ô và Châu Rí ngày xưa chính là hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, trong đó có cố đô Huế, của ngày nay. Nhưng tôi nghĩ sự hy sinh cho quyền lợi quốc gia của công chúa Huyền Trân đã được tổ quốc ghi ơn,bằng chứng là chúng ta đang ngồi ôn lịch sử dưới một mái trường mang tên Huyền Trân.
Cả lớp vỗ tay râm ran sau khi thầy Trân dứt lời. Đến lượt tôi đưa tay xin hỏi trước sự ngạc nhiên của cả lớp vì ai cũng biết bản tính rụt rè của tôi.
-Thưa thầy, lịch sử có nói đến một tướng nhà Trần tên là Trần Khắc Chung. Xin hỏi thầy có tài liệu lịch sử nào xác nhận tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân không ?
Thầy Trân nhìn tôi cười mỉm rồi nói:
-Tôi chưa đọc được sử liệu nào nói tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân.Chỉ biết vua Trần, khi hay tin vua Chế Mân đột ngột băng hà, để cứu công chúa Huyền Trân khỏi bị thiêu sống theo chồng theo tục lệ người Chàm, đã sai tướng Trần Khắc Chung đem quân qua Chiêm giải cứu và đưa công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam .Lịch sử không ghi về lại Việt Nam công chúa Huyền Trân có tái giá với ai không.Nhưng sự tích Huyền Trân sang Chiêm đã là đề tài sáng tác cho giới văn nghệ sĩ về sau. Đặc biệt có một bài vọng cổ rất hay nói về mối tình Huyền Trân-Trần Khắc Chung .Có trò nào nghe chưa ?
Cả lớp vang lên tiếng chưa.Con Chín bạo dạn gạ thầy:
-Chắc thầy ca hay lắm!Xin thầy ca cho tụi em nghe !
Thầy Trân cười thoái thác :
-Tôi cũng không thuộc, chỉ nhớ có một câu. Mà không hiểu sao tôi chỉ nhớ có câu đó.
Cả lớp nhao nhao:
-Một câu cũng được, xin thầy cho nghe!
Lớp học bỗng trở nên vui nhộn.Thầy Trân đứng trên bục, hai tay nắm sống lưng cuốn Sử được dựng đứng, nhìn lên trần lớp học, mắt mơ màng.Sau cái tằng hắng, thầy cất cao giọng trầm ấm, xuống câu vọng cổ :
“Huyền cô ơi!Huyền cô ra đi khiến cho địa thảm , thiên ơơơ ơ..sầu…”
Thầy Trân ngân dài tiếng “sầu”, mắt rời trần lớp học hướng về chỗ tôi ngồi. Cả lớp vỗ tay khen giọng ca “mùi” của thầy. Thầy Trân kín đáo, qua câu vọng cổ, thổ lộ cảm tình của thầy với tôi chăng ?Tôi nghe hai má mình nóng bừng.Suốt đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ với thắc mắc không biết thầy Trân đã có ai chưa ? Tôi cho thầy Trân nhiều lắm cũng chỉ 25, 26 tuổi thôi.Nghe nói thầy tốt nghiệp sư phạm năm rồi và trường Huyền Trân là nhiệm sở đầu tiên của thầy.Tôi đi vào giấc ngủ muộn với ước mơ thầy Trân còn độc thân.
Nhưng oái ăm thay, nữ sinh đầu tiên trong lớp bị thầy Trân phạt lại chính là tôi.Cũng tại cái con khỉ Chín nó đem khoe cây bút Parker của thằng Thiếu Úy Biệt Động Quân, bồ nó,mới tặng nhân sinh nhật nó.Nhìn cây Parker bạc óng ánh tôi buộc miệng khen: “Ồ ! cây bút đẹp quá !”.Lời khen của tôi tuy không lớn nhưng cũng đủ làm cả lớp, lúc đó đang im lặng nghe thầy Trân giảng,quay đầu về phía chỗ ngồi của con Chín và tôi.Con Chín dấu vội cây bút Parker, làm mặt nghiêm nhìn thẳng lên bảng đen.Thầy Trân nhíu mày nhìn tôi, không nói gì, tiếp tục giảng bài.Hết giờ thầy Trân gọi tôi đến bàn ông.Giọng ông vẫn ôn tồn nhưng sắc mặt lộ vẻ giận. Ông đưa tôi mảnh giấy và nói:
-Trò chép lại câu này 60 lần, sau đó đưa cho phụ huynh trò ký rồi đem nộp cho giám thị trường.
Tôi cầm mảnh giấy liếc nhìn mấy chử “tôi sẽ không lo ra trong lớp”.Nước mắt lưng tròng, tôi nhìn thầy Trân, miệng lí nhí:
-Em xin lổi thầy, em không cố ý làm ồn trong lớp!
Thầy Trân mở cửa, thấy tôi,thầy đứng sửng, ngạc nhiên .Hai tay cầm cuốn tập để trước vạt áo , mặt nóng ran , tôi nói trong hơi thở :
-Em đến xin thầy ký vào tập bài phạt để em nộp cho thầy giám thị. Em không dám đưa cho ba em ký, ông sẽ… đánh em chết ! Xin thầy thương mà thông cảm vì em chưa bao giờ phạm kỹ luật trường cả.
Thầy Trân nhìn tôi, đứng nhích sang một bên rồi nói:
-Em vào đây, ta sẽ nói chuyện
Phòng trọ của thầy Trân rất đơn sơ,chỉ vỏn vẹn một cài bàn viết với 2 ghế ngồi, một tủ nhỏ và một chiếc giường ngủ .Tôi khép nép ngồi xuống ghế đối diện với ghế thầy ngồi và đưa tập bài phạt sang phía thầy.Thầy Trân không mở ra xem, chỉ đẩy tập vở sang một bên và nói:
-Thôi, thầy giữ tập viết này khỏi cần đưa cho thầy giám thị. Coi như thầy không phạt em.Thầy tin là em ngoan nhưng thầy thấy em và Chín là hai em lớn tuổi nhất lớp nên thầy muốn hai em là gương mẫu cho cả lớp.
Tôi sung sướng dạ nhỏ một tiếng rồi bổng dưng bạo dạn hỏi thầy:
-Chị Chín , trưởng lớp,muốn tìm biết sinh nhật của thầy, để đến ngày đó cả lớp chúc mừng thầy như vẫn làm với các thầy khác.Thầy có thể cho em biết để em nói lại với chị Chín?
Thầy Trân cười vui vẻ:
-À, thầy sinh ngày 2 tháng 5. Thế còn sinh nhật của em ?
Tôi ngạc nhiên sao thầy hỏi ngày sinh nhật mình. Một thoáng nghĩ làm tim tôi đập mạnh: Chắc thầy cũng để ý mình.
-Dạ, em sinh ngày 20 tháng 12.
-Như thế em sẽ được quà sinh nhật trước quà Giáng Sinh. Thích quá nhỉ!
Tôi nở một nụ cười buồn:
-Dạ em chưa bao giờ được quà sinh nhật lẫn Giáng Sinh
-Sao lạ vậy ?
-Dạ, vì nhà em rất… đơn sơ và không công giáo
Thầy Trân nhìn tôi, tôi đọc trong đôi mắt thầy một sự trìu mến lạ thường.Giọng thầy trở nên thân thuộc:
-Hy vọng năm nay em sẽ được cả hai.
Nói xong thầy đứng dậy.Tôi cũng đứng dậy theo.Nắng bên ngoài gay gắt chiếu xuống thềm cửa.Tôi dang tay che nắng, nói lời từ giã:
-Em xin cám ơn và xin chào thầy
Thầy Trân đứng yên đưa tay chào trả tôi và nói:
-Khi nào em có việc cần gặp thầy thì cứ đến, thầy không bị phiền đâu.
Tôi ra về, lòng nở hoa.

Hết giờ Toán thầy Ngô gọi tôi đến bàn và nói:
-Bài toán vừa rồi em giải sai phần sau. Nếu em muốn, mỗi tuần em ghé chỗ tôi trọ tôi chỉ thêm cho. Thầy biết em giỏi các môn khác,nếu toán cũng giỏi nữa thì em không những đẹp mà còn giỏi nhất lớp.
Tôi bối rối tìm cách trì hoãn:
-Dạ, em xin cám ơn thầy.Em phải về xin phép ba má .
Thầy Ngô bỗng đổi ý:
– Thôi em khỏi phải cần xin phép ba má.Khi nào em cần hỏi gì về toán thì sau giờ học trên đường về ghé thầy chừng 15 phút là đủ.
Tôi dạ và lặng lẻ cúi đầu chào thầy Ngô.Tôi ái ngại sự ân cần của thầy vì tôi nhớ có lần con Chín nói với tôi:
-Tao thấy thầy Ngô có vẻ chấm mi.
Tôi cũng thấy vậy. Thầy Ngô có bộ mặt nghiêm khắc nên tôi chỉ kính mà không cảm.Thầy Ngô không làm tôi mơ mộng như thầy Trân.Tôi làm bộ ngây thơ trả lời con Chín:
-Tao thấy thầy Ngô đối xử với ai hồi nào cũng như hồi nào.
Con Chín tỏ vẻ sành sỏi:
-Mi đừng nhìn cái bề ngoài của mấy thầy.Núi lửa bên trong cả đó mi.Mi chờ xem, có ngày núi lửa của thầy Ngô sẽ phun ra cho mà coi. Mô phạm gì cũng có lúc tức nước vỡ bờ.Chuyện con tim mà, thánh mới kìm nỗi nó.
Thấy con Chín nói quá đúng tôi làm thinh.Cũng may nó không tra khảo tôi gì về con tim của tôi đối với thầy Trân.Tôi cũng mong cho nó nghĩ tôi chỉ biết lo học chứ chưa thao thức gì về đàn ông.
Một tuần trước lễ Giáng Sinh, lúc tan lớp, đi ngang qua bàn thầy Trân, thầy ra hiệu cho tôi lại gần và nói vừa đủ cho tôi nghe:
-Huyền ghé nhà thầy: có quà tặng cho Huyền.
Lòng tôi rộn ràng khi sực nhớ lời thầy Trân nói với tôi trước đây: sinh nhật tôi và Giáng Sinh năm nay tôi sẽ có quà.Tôi chờ cho đám bạn về hết mới đạp xe đến nhà thầy.Dựng xe trước nhà trọ của thầy Trân, lòng tôi hồi hộp,bồn chồn .Tôi nhìn quanh xem có ai trước khi gõ cửa .
Thầy Trân đưa tay mời tôi ngồi ở chiếc ghế tôi ngồi lần trước.Thầy mở tủ lầy ra hai gói quà bọc giấy hoa, để trước mặt tôi và dịu dàng nói:
-Lần trước nghe Huyền nói chưa bao giờ có quà sinh nhật và Giáng Sinh thầy rất bùi ngùi. Thầy có hai món quà nhỏ tặng Huyền, một cho Giáng Sinh, một cho sinh nhật.Mừng Huyền 18 tuổi, tuổi truởng thành.
Tôi cảm động nhìn thầy Trân, miệng ấp úng:
-Em..em cám ơn thầy !
– Huyền mở quà ra đi. Thầy mong Huyền sẽ ưng ý.
Tôi lóng cóng bóc từng mảnh giấy hoa. Quà là một cây bút parker và một cuốn album.
Tôi nhìn thầy Trân cười sung sướng:
-Cám ơn thầy, quà của thầy là những thứ em mơ ước từ lâu!
Khi đưa tôi ra cửa, thầy Trân thân mật khoác vai tôi, đặt một nụ hôn lên mái tóc tôi. Tôi đứng im, người nóng ran,vừa ngây dại vừa lo lắng cử chỉ kế tiếp của thầy .Nhưng thầy Trân ngừng lại ở đó:
-Cám ơn thầy lần nữa, em về.
– Huyền về, chúc Huyền một sinh nhật và một Giáng Sinh vui tươi, hạnh phúc.
Tôi đập con heo đất, lấy hết tiền để dành cho vào bóp rồi đạp xe ra phố.Phố của tỉnh lỵ nhỏ bé này đi bộ chừng 15 phút là hết. Tôi vừa lấy một quyết định táo bạo là đi mua một chiếc cà vạt tặng thầy Trân nhân dịp lễ Giáng Sinh.Tôi đi nhanh vào tiệm bán đồ đàn ông,chọn chiếc cà vạt màu xanh đậm, mua không cần trả giá, rồi trở ra xe thật lẹ.Tôi sợ có người quen bắt gặp,sợ người ta đọc được tâm tư mình rồi đàm tiếu.Tiền mua chiếc cà vạt chiếm hết hai phần ba số tiền tôi bỏ ống.Nhưng tôi không một chút xót xa.
Thầy Trân ra mở cửa , ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm thầy vào lúc sắp tối.Thấy tôi nháo nhác nhìn quanh, thầy nói nhanh:
-Huyền vào nhà nói chuyện.
Ngồi xuống ghế đối diện với tôi, thầy Trân nhìn tôi như chờ đợi một lời giải thích.Tôi lấy hộp đựng cà vạt trong cái giỏ mây ra để lên bàn rồi rụt rè nói:
-Em..em có món quà Giáng Sinh tặng thầy.
Thầy Trân ồ lên một tiếng, đưa hai tay nhận gói quà, tháo giấy ,mở hộp, lấy chiếc cà vạt đưa lên ngắm nghía:
-Thầy cám ơn Huyền, thầy có một chiếc cà vạt màu xanh đã cũ, chiếc này đến thay thế rất là đúng lúc.
Thầy Trân bỗng đưa hai bàn tay sang úp lên hai bàn tay tôi . Tôi để yên, cúi mặt ngồi im, lòng rộn ràng.Cả phút dài trôi qua.Tôi nghe giọng thầy ngập ngừng:
-Ngoài cho quà, Huyền có ..cảm nghĩ ..gì khác không ?
Tôi vẫn cúi mặt,thu hết can đảm trả lời thầy :
-Ngoài ra em..em muốn đến..thăm thầy !
Tay thầy Trân rời tay tôi. Tôi nghe thầy rời ghế bước sang phía tôi.Tôi nghe thầy đặt tay lên hai vai tôi, kéo tôi đứng lên, xoay người tôi lại. Bóng chiều phủ mờ căn phòng chưa lên đèn.Tôi ngước mắt lên.Trong đáy mắt tôi là cái nhìn đắm đuối của thầy .Rồi môi thầy chạm môi tôi.Thầy ôm sát tôi vào người.Toàn thân tôi mềm nhủn mà hừng hực lữa.Tay thầy, như vừa bức phá mọi trói buộc,xoa nắn ngực tôi. Tôi co rúm người khi tay thầy lần xuống phía dưới. Ở giờ phút nầy tôi biết tôi không cưỡng lại bất cứ ý muốn nào của thầy vì tôi là một kẻ đồng lõa nhiệt tình.Nhưng tay thầy bỗng khựng lại ở thắt lưng tôi, như có một lực cản nào bắt thầy dừng lại.Tay thầy đi ngược trở lên, nhẹ nhàng trên ngực , trên môi, trên mắt, trên tóc tôi.
-Thôi, Huyền về kẻo sắp tối.
Trên đường về tôi nghe thân thể mình khác lạ,có thứ gì vừa mất đi, nhưng cũng có một thứ gì vừa chợt đến. Nhưng tôi không thấy hụt hẫng vì thứ mất đi mà tròn đầy thứ vừa ngập đến.Chưa bao giờ tôi thấy đời đáng yêu và đáng sống như bây giờ.Tôi sắp bước vào tương lai nào thì tôi không rõ, tôi chỉ biết tôi vừa từ giả tuổi thơ không chút luyến tiếc.
Hai tuần trước khi trường đóng cửa nghỉ Tết thì ông hiệu trưởng vào thông báo cho lớp học nghỉ giờ Sữ Địa vì giáo sư bệnh.Tôi lo lắng không biết thầy Trân bệnh gì và nôn nóng muốn đến thăm thầy.Bất ngờ trong giờ ra chơi gặp thầy Ngô trong hành lang.Thầy nhìn tôi rồi nói:
-Giáo sư Trân bị cảm .Có hôn thê của ông xuống săn sóc.
Nói xong ông cười nhạt rồi bỏ đi.Tôi tái mặt vì nghi thầy Ngô biết chuyện tình cảm giữa tôi và thầy Trân. Nhưng điều làm tôi rụng rời, đau điếng là thầy Trân đã có hôn thê.Bây giờ thì tôi hiểu cái khựng lại của bàn tay thầy trên thân thể tôi.Bàn tay ngừng lại vì nó đã có chủ.Lương tri đã cản được đam mê của thầy.Tôi thấy đất như quay cuồng, trời như đang sụp đổ .
Giờ Sữ tuần sau thầy Trân đi dạy lại. Mặt thầy hơi xanh nhưng giọng nói vẫn ấm áp truyền cảm.Có lúc hướng về phía tôi ngồi thầy nhìn tôi lâu hơn thường lệ.Tan lớp,tôi nấn ná để làm người cuối cùng rời lớp.Thấy tôi đi ngang qua bàn,thầy Trân nói khẻ:
-Huyền ra quán cà phê Mimosa chờ thầy. Thầy có chuyện muốn nói với Huyền.
Tôi dạ rồi lầm lủi đi.Tôi cảm thấy mình thương hại mình quá đỗi!Tôi đoán biết gặp tôi thầy Trân sẽ nói gì.
Thầy Trân có mặt ở quán trước tôi .Quán có hai bàn khách nhưng may mắn toàn là khách lạ.Tôi ngồi xuống ghế thì thấy có ly chanh đường để sẵn trên bàn.Thầy Trân khuấy khuấy ly cà phê đen nhưng không uống.Thầy cất tiếng trước,giọng buồn buồn:
-Thầy hiện đang có khách ở nhà trọ, Huyền không nên ghé thầy lúc này.
-Em biết, hôn thê của thầy xuống săn sóc thầy .
Thầy Trân ngạc nhiên:
-Sao Huyền biết ?
– Thầy Ngô nói với em.
-Lại cái thầy Ngô !Cũng chính thầy Ngô báo cho Thu biết !
-Thu là hôn thê của thầy ?
Thầy Trân im lặng gật đầu.Giây lâu thầy mới nói:
-Thầy xin lỗi Huyền về cử chỉ hôm trước Giáng Sinh vì đã không kìm hãm được xao xuyến của lòng mình.Con tim có lúc đã vượt qua lí trí.Thầy không có quyền hành động như thế. Nhưng ít ra thầy cũng đã không để tình cảm đi quá đà.Thầy mong Huyền tha lỗi cho thầy.
Tôi rũ người, rung rung đôi vai, cố nuốt những giòng lệ . Thu hết can đảm tôi thốt ra được mấy lời cảm khái:
-Thầy không có lỗi gì hết.Em vẫn kính trọng thầy và.. thương thầy !
Nói xong tôi với tay lấy ly chanh đường đưa lên môi hớp mấy ngụm nhỏ rồi đứng lên đưa tay vẫy chào thầy.Qua màn mắt nhập nhòa tôi thấy khuôn mặt trái soan của thầy Trân vẫn đáng yêu như hôm thầy hôn tôi lần đầu.
Đó là lần cuối cùng tôi gặp mặt thầy Trân.Sau một tuần nghỉ Tết, đi học lại , cả lớp mới hay thầy Trân đã xin đổi trường.Tôi bàng hoàng khóc lẽ loi một mình suốt cã mấy tuần.Con Chín không hay biết gì chuyện sóng gió vừa xảy cho đời tôi cũng như lý do thầy Trân xin đột ngột đổi trường..Người thứ hai tôi nghĩ hay biết chuyện là thầy Ngô. Điều làm tôi hơi ngạc nhiên là vắng bóng thầy Trân, tôi vẫn không thấy thầy Ngô tỏ vẽ gì săn đón tôi hơn ;trái lại mỗi lần chạm mặt tôi thầy có vẽ ngượng nghịu. Tôi có cảm tưỡng thầy ân hận vì có phần trách nhiệm trong việc đổi trường của thầy Trân.
Thi đậu xong bằng trung học đệ nhất cấp, gia đình gởi tôi lên Sàigòn học tiếp.Và tôi chỉ biết học và học.Tôi không để ý đến đàn ông nữa.Tôi chỉ có một người đàn ông nhưng tôi đã mất ông rồi!Tôi đậu tú tài phần 1 rồi phần 2 dễ dàng.Vào đại học tôi cũng chọn ngành sư phạm, môn Anh Văn; tôi cũng sẽ là một giáo sư như thầy Trân.
Không ngờ năm học cuối cùng của tôi lại là năm mất Miền Nam.Tị nạn sang Hoa Kỳ, một lần nữa tôi lại muộn màng cắp sách đến trường.Nhờ vốn liếng anh ngữ sẳn có tôi học lại dễ dàng. Tôi chọn ngành Luật.Tôi lập gia đình lúc đang tập sự hành nghề luật sư.Chồng tôi là một chuyên gia kinh tế người Việt.Chúng tôi sống êm đềm bên nhau đã 15 năm và có hai con. Mỗi khi chọn tên cho con tự nhiên tôi nhớ đến hai người của ngôi trường củ. Đứa con gái đầu, 14 tuổi, tôi đặt tên Chi để nhớ con Chín, con bạn học ngồi cạnh tôi. Thằng con trai, 12 tuổi, tôi đặt tên Trung để nhớ đến thầy Trân.Chồng tôi không một chút thắc mắc khi tôi chọn tên Việt cho con ; anh chỉ lo kiếm tên tương đương bằng tiếng Mỹ ,Carolyn cho Chi và Tom cho Trung.
Tôi xa quê hương như vậy cũng đã gần hai mươi năm.Một hôm tôi ngỏ ý với chồng, tôi muốn đưa hai đứa nhỏ về thăm Việt Nam một chuyến cho chúng biết đất nước thật của chúng.Chồng tôi không hồ hởi cũng không chống đối.Anh chỉ nói:
-Nếu em quyết định về cùng hai con thì cứ đi.Riêng anh, tình hình chính trị bên đó chưa thuận tiện cho anh về.
Tôi biết chồng tôi nói khéo chứ tôi rỏ lập trường của anh rất dứt khoát:anh chỉ trở về Việt Nam khi chế độ Cọng Sản sụp đổ.
Về lại Việt Nam chuyện đầu tiên tôi làm là về thăm ngôi trường cũ.Tôi thất vọng não nề khi thấy trường biến thành trụ sở nhân dân tỉnh với lá cờ đỏ sao vàng ngất ngưỡng ở đỉnh cột cờ.Tôi không có cảm tình với lá cờ này vì thấy nó không “hiền” như lá cờ vàng ba sọc đỏ của miền Nam trước đây.Về thăm đất nước, sau gần hai mươi năm xa cách, tôi thấy mình chỉ là một du khách.Hiện tại không đưa tôi tìm lại được quá khứ.Dù những cái tên không thay đổi. Vẫn Đà Lạt, Nha Trang, vẫn Huế, Hà Nội,vẫn Hạ Long, Vũng Tàu.Nhưng cái xã hội vô hồn hiện nay khiến cho lòng người về cũng trở nên vô cảm trước cảnh vật. Tuy nhiên tôi cũng cố gắng giảng giải sự tích của những nơi thăm viếng để hai đứa con tôi biết đôi chút lịch sữ mấy ngàn năm của nước nhà.
Ba tuần trôi qua mau. Tuần thứ tư tôi đóng đô ở Sàigòn.Sàigòn xưa của tôi đã mất! Y lời của một bài hát tôi từng nghe:Tôi mất Sàigòn như Sàigòn đã mất tên! Đường phố đầy những kẽ tật nguyền ăn xin, đặc biệt là ở các tiệm ăn.Nhìn những kẻ cụt tay, cụt chân, tôi chạnh nghĩ trong số những người này không hiếm kẻ là thương phế binh của quân đội miền Nam trước đây. Tôi chợt nhớ đến con Chín và người tình đầu của nó, anh chàng Thiếu Úy Biệt Động Quân, người đã tặng nó cây bút Parker,không biết bây giờ ra sao.Còn sống hay đã chết ? Còn ở với nhau hay đã chia tay ? Nhớ tới cây bút Parker tôi lại nhớ chuyện bị thầy Trân bắt chép phạt, nhớ cây bút Parker, quà của thầy tặng tôi sau đó.Mặc cho bác xích lô đạp loanh quanh khắp nẻo Sàigòn, mặc cho hai đứa nhỏ ngồi phía trước líu lo chỉ chỏ cảnh trí bên ngoài,tôi ngả người vào nệm lưng chiếc xe, lim dim mắt, thả hồn về dĩ vãng.
-Mẹ,mẹ, họ bán gì kia ?
Tôi giật mình, nhô đầu ra khỏi mui chiếc xich lô, nhìn sang vệ đường:
-À,họ bán vé số.
-Sao có nhiều người bán vậy ?
-Chắc vì có nhiều người mua.
Vừa nói tôi vừa đảo mắt nhìn những quầy bán vé số. Ngồi đàng sau quầy là những bộ mặt buồn hiu, đàn ông có, đàn bà có .Tuy nói với hai con tôi nhiều quầy hàng vì có nhiều người mua nhưng tôi chẳng thấy người mua nào. Và tôi thắc mắc với ngần ấy quầy hàng, mỗi ngày một người bán được bao nhiêu vé để đủ sống ?Tôi bỗng chú ý đến một người đàn ông ngồi sau quầy hàng cuối cùng.Trông ông ta quen quen. Tóc ông đã muối tiêu, má hóp, da mặt sạm đen. Nhìn mang tai trái của ông tôi giật mình:
-Thầy Trân !
Thầy Trân có cái nút ruồi nơi mang tai trái. Tôi sửng sờ đi một lúc. Sao thầy Trân giờ lại ra nông nỗi này ? Một ông giáo sư đi bán vé số ! Tôi vẫn lạc quan tin nghề giáo, dưới bất cứ chế độ nào, vẫn hữu dụng.Tôi nghe lòng tê tái .Tôi bảo bác xích lô tấp xe vào bờ đường. Tôi mở ví, tìm cuốn sổ tay,xé một trang nhỏ, lấy bút ghi vội dòng chữ: “Ông có phải là thầy Trân dạy Sữ
trước đây ở trường Huyền Trân không ?”.Tôi đưa mảnh giấy cho Chi, con gái lớn của tôi, và nói với nó bằng tiếng Mỹ cho nó dễ hiểu và cũng để bác xích lô không biết chuyện:
-Con xuống xe, đi lại chỗ ông bán vé số quầy cuối cùng, đưa cho ông tờ giấy này. Ông đó là thầy dạy học của mẹ trước đây.
Con gái tôi mở tròn hai mắt:
-Thầy dạy học mà đi bán vé số! My God !
– Chắc tại ông mất việc.
Tôi đưa tiếp cho Chi hai tờ 100 mỹ kim và dặn thêm:
-Nếu ông nhận ông là giáo sư Trân thì con đưa cho ông số tiền này và nói của một học trò cũ của ông tặng. Mẹ dặn thêm, nếu ông có hỏi tên mẹ thì con trả lời: “ Mẹ con dặn đừng nói”.
Thấy con bé ngỡ ngàng không hiểu vì sao tôi lại dặn nó dấu tên tôi, tôi giục nó:
-Con đi ngay và nhớ lời mẹ dặn.
Tôi ngồi thu mình trong xe theo dõi.Tôi thấy người đàn ông cầm tờ giấy tôi viết đọc. Tôi thấy ông nhìn sửng con bé,rồi đưa hai tay ôm vai nó, đầu gật gật.Con bé đưa tiếp cho ông số tiền tôi đưa. Tôi thấy ông cầm tiền, đứng ngây người ra,rồi mắt nhớn nhác nhìn tứ phía như tìm kiếm ai.Tôi thấy ông cúi xuống như muốn gặng hỏi gì con bé . Con bé lắc đầu hai ba cái.Nó đưa tay ra bắt tay ông rồi vừa đi vừa chạy về hướng chiếc xich lô tôi ngồi.Tôi thấy ông cuộn tròn hai tấm giấy bạc, nắm chặc trong lòng bàn tay, mắt đăm đăm nhìn theo hướng con bé chạy.Tôi mở ví lấy cặp kính đen đeo vội để dấu đôi mắt đẫm ướt của mình.
TRANG CHÂU

  Thầy Trân

TIẾNG HÁT TRƯƠNG CHI

TIẾNG HÁT TRƯƠNG CHI

Tạ Quang Khôi

Nữ tỳ Vân Hương khép nép đứng im lặng, cúi đầu nhìn xuống đất. Chưa bao giờ, từ ngày vào làm tôi tớ cho phủ Tướng Công đã nhiều năm, nó thấy chủ có sắc giận như lúc này. Tướng Công vốn là người thâm trầm, ít nói, nhưng rất nghiêm khắc. Ngài làm việc gì cũng tính toán cẩn thận, vì thế, hầu như chưa có việc nào bị hư. Những việc quan trọng, ngài thường hỏi ý kiến những người thân cận.

“Mày có chắc tiểu thư mê tiếng hát của thằng lái đò không ?” Tướng công chợt hỏi.

Vân Hương kính cẩn đáp một cách bình tĩnh :

“Bẩm Tướng công, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.”

“Như vậy, bệnh của tiểu thư là…tương tư ?  Tương tư …thằng lái đò ?”

Vân Hương  lúng túng, không biết trả lời Tướng công ra sao. Nhưng, trong bụng, nó tin chắc tiểu thư mắc bệnh tương tư. Tướng công lại hỏi :

“Tiểu thư đã gặp thằng lái đò lần nào  chưa ?”

Vân Hương lo sợ, ấp úng :

“Bẩm…Bẩm…không ạ…Tiểu thư chưa bao giờ ra khỏi nhà.”.

Tướng công gật gù :

“Ừ, như vậy là chỉ…tương tư tiếng hát thôi ?”

“Dạ, chỉ nhớ tiếng hát.   Đêm nào được nghe hát thì  tiểu thư  vui, còn không thì…buồn bã, thẫn thờ.”…

“Rồi mấy bữa nay không có tiếng hát, tiểu thư bệnh ?  Mày có biết tại sao thằng lái đò không hát nữa ?”

“Con đã đi hỏi dò thì nghe đâu nó cũng bệnh, nghỉ cả chèo đò”.

Tướng công giữ im lặng một lúc khá lâu, rồi hỏi tiếp  :

“Mày có biết tên tuổi, mặt mũi nó ra sao không ?”

“Bẩm tướng công,con chưa gặp nó lần nào, nhưng người ta nói nó còn trẻ, chỉ mười bảy mười tám và…rất đẹp trai.”

Tướng công giật mình :

“Mày nói sao ?  Nó đẹp trai ?  Mà tên nó là gì ?”

“Bẩm Trương Chi ạ….Vì nó đẹp trai lại hát hay, nên có nhiều ngườI mê… Có cả những cô con nhà giầu.”

“Thế nó bằng lòng ai chưa ?”

“Dạ…Dạ…Con cũng không hỏi kỹ chuyện đó….Mới đây tiểu thư không nghe tiếng hát nên nhớ, sai con đi hỏi…Con chỉ biết có vậy thôi.”

Tướng công tỏ vẻ lo lắng :

“Mày đã nói hết cho tiểu thư nghe chưa ?”

“Bẩm, chưa ạ.  Mấy bữa nay tiểu thư lúc tỉnh lúc mê, con chưa nói được.”

Tướng công mừng rỡ :

“Ừ, tốt. Không được nói đó”.

Vân Hương ngạc nhiên :

“Bẩm…Nhưng tiểu thư sai con đi hỏi… »

Tướng công nghiêm giọng :

“Tao nói không là không”.

Thấy tướng công giận, nó sợ, im lặng cúi đầu.

Tướng công chậm rãi bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Không xa lâu đài của Tướng công, một dòng sông nhỏ lấp lánh dưới ánh trăng. Tướng công đã ngắm cảnh trăng này cùng phu nhân không biết bao nhiêu lần và đều thấy cảnh đẹp. Nhưng đêm nay, cái vẻ thơ mộng của nó bỗng biến đi đâu mất. Thật ra, cảnh vẫn thế. Trăng vẫn vằng vặc sáng, dòng sông vẫn lững lờ trôi ngoài xa kia, nhưng lòng Tướng công đã thay đổi. Con gái yêu của Tướng công đã bị bệnh vì cảnh trăng đẹp đó, vì tiếng hát của một tên lái đò. Điều nguy hiểm hơn hết là nó vừa hát hay vừa đẹp trai. Tất nhiên Tướng công không thể gả con gái cho một tên lái đò nghèo hèn. Nhưng phải làm cách nào để tiểu thư quên đi tiếng hát quyến rũ đó. Còn mê tiếng hát là còn thương nhớ tên lái đò. Thoáng trong một giây, Tướng công nghĩ đến việc sai thủ hạ giết chết tên lái đò. Không, Tướng công thầm nhủ, cách đó không ổn, mà còn có thể làm tăng lòng thương nhớ của tiểu thư. Cách nào để tiểu thư  không còn mê tiếng hát  nữa mới quan trọng. Bỗng Tướng công nhớ tơi Mao Nhị, một mưu sĩ đang là khách nhân trong phủ Tướng công. Mao là người khôn ngoan, quỷ quyệt, đã giúp Tướng công giải quyết nhiều công việc khó khăn. Tướng công chợt reo to :”À !” rồi quay trở vào. Thấy con Vân Hương còn khép nép đứng chờ ở một góc phòng, Tướng công hơi ngạc nhiên, nhưng nhớ ngay ra chuyên đang hỏi nó. Ngài vung tay áo ra lệnh “Cho mày lui”.

Dù đã chờ câu nói đó từ lâu, nữ tỳ Vân Hương cũng không dám bỏ đi ngay. Nó kính cẩn cúi gập người chào Tướng công,rồi từ từ đi lùi ra cửa.

Sáng sớm hôm sau, Tướng công cho gọi Mao Nhị lên hầu ngay. Ngài kể lại chuyện tiểu thư ốm tương tư tiếng hát cho Mao nghe. Và cũng cho Mao biết Trương Chi vừa đẹp trai vừa hát hay. Ngài chỉ nói vắn tắt, nhưng Mao hiểu ngay rằng tên lái đò hát hay không còn chỗ đứng ở vùng đất này.

Suy nghĩ một lát, Mao thưa :

“Bẩm Tướng công, muốn tiểu thư không còn thương nhớ tiếng hát của tên lái đò, chỉ có cách là cho tiểu thư gặp hắn”…

Tướng công giật mình :

“Tiên sinh nói sao ?  Tiên sinh quên rằng nó vừa đẹp trai vừa hát hay ?”

Mao Nhị cười, lắc đầu :

“Dạ, bẩm tướng công, tại hạ không quên điều quan trọng đó…”

Rồi Mao nhìn trước nhìn sau, dù biết là vắng người, vẫn ghé tai Tướng công thì thầm một lúc khá lâu.

Nghe xong, Tướng công tươi hẳn nét mặt, nhưng còn thắc mắc :

“Làm sao làm được điều đó càng sớm càng tốt, vì bệnh của tiểu thư mỗi ngày một nặng…”

Mao cười :

“Xin tướng công an tâm. Tại hạ sẽ làm xong việc này trong vòng hai ngày.”

Mao ngưng một chút, rồi lại nói :

“Xin Tướng công cho tại hạ hai tên lính để giúp tại hạ lo vụ này…Tại hạ cần hai tên bạo tợn, nhưng phải biết vâng lệnh trên.”

Tướng công cười :

“Hai thằng hay hai chục thằng cũng có thể có ngay, miễn được việc”

“Dạ, cảm ơn Tướng công. Hai tên là đủ rồi.”

X  X X

Nữ tỳ Vân Hương ngồi trực cạnh giường tiểu thư liên tục ngày đêm. Nó là một con đầy tớ trung thành,hết lòng lo cho chủ. Thật ra, nó cũng rất thương tiểu thư. Ngoài tình chủ tớ, nó còn thêm tình quyến luyến riêng, vì tiểu thư đã đối xử với nó thật tốt, không khác gì tình chị em. Tiểu thư tuy ít tuổi nhưng cách cư sử của nàng tỏ ra rất người lớn. Nàng  rộng lượng, sẵn sàng tha thứ cho kẻ hầu người hạ khi chúng phạm lỗi. Riêng đối với Vân Hương, nàng lại còn đặc biệt hơn.

Thấy tiểu thư cứ li bì mê man nó cũng lo sợ. Lúc nào hơi tỉnh một chút, nàng lại hỏi nó :

“Vân Hương ơi, chị có nghe thấy tiếng hát không ?   Sao…sao người ta lâu quá không hát nữa ? Người ấy tên chi, chị có biết không ?”

“Dạ, thưa tiểu thư, người lái đò đó tên là Trương Chi.”

“À à…tôi nhớ ra rồi…Chàng tên là Trương Chi…Bao giờ chàng lại hát, chị có biết không ?”

“Thưa tiểu thư, em cũng không rõ…Dường như anh ta bệnh…”

“Tại sao chị biết chàng bệnh ?  Chị đã gặp chàng ?”

Vân Hương lúng túng :

“Dạ…Dạ, chưa ạ…Em chỉ nghe người ta nói thôi.”

“Vậy hả ?…Bao giờ chàng khỏi ?”

Vân Hương bỗng nghe xót xa trong lòng. Tiểu thư vốn là người thông minh, nay hỏi như vậy thì nó hiểu nàng không còn minh mẫn nữa. Tiểu thư thẫn thờ nhìn ra cửa sổ, lẩm bẩm :

“Chàng khỏi bệnh thì chàng mới hát được…”

Nàng bỗng hỏi :

”Này, Vân Hương, chị có cách nào cho tôi gặp chàng không ?…Tôi mà gặp chàng thì cả chàng và tôi đều khỏi bệnh đó”

Vân Hương không ngờ tiểu thư lại nói được một câu thật đúng. Nhưng nó chợt hãi hùng tự hỏi rằng sau cuộc gặp gỡ, chuyện gì sẽ xẩy ra ?  Tiểu thư sẽ yêu Trương Chi hơn nữa vì anh ta đã hát hay lại đẹp trai. Về phần Trương Chi , chắc chắn anh ta sẽ không thể không rung động trước nhan sắc xinh đẹp và thùy mị của tiểu thư. Rồi cuộc tình ấy sẽ đi về đâu ?  Một anh lái đò nghèo hèn, dù đẹp trai như Phan An, Tống Ngọc, làm sao có thể sánh duyên với một tiểu thư khuê các, con một vị quan lớn trong triều ?  Trương Chi sẽ chuốc lấy khổ đau, tủi hận, mà bệnh của tiểu thư sẽ mỗi ngày một trầm trọng hơn, khó có thuốc nào chữa khỏi. Cái viễn ảnh khủng khiếp ấy làm Vân Hương hốt hoảng,lo sợ. Không. Nó thầm nói trong lòng, hai người không thể gặp nhau được.

“Vân Hương !” tiểu thư bỗng gọi, “chị có nghe tôi nói gì không ?”

“Dạ, em có nghe…Nhưng làm sao tiểu thư có thể gặp được Trương Chi ?  Anh ta chỉ là một anh lái đò nghèo hèn. Anh ta còn không đáng là tôi tớ của tiểu thư.”

Tiểu thư nhìn người nữ tỳ đăm đăm :

”Sao chị lại bảo chàng không đáng là đầy tớ của tôi ?  Không, chàng không là đầy tớ…”

Giọng nàng bỗng nghẹn ngào, rồi nàng bật lên tiếng khóc. Nàng cũng đã nhận ra cái thực tế phũ phàng trong nhận xét của Vân Hương. Tướng công và phu nhân, cha mẹ nàng, có bao giờ lại chịu gả nàng cho một tên lái đò, trong khi có cả chục vương tôn, công tử đang ngấp nghé hỏi cưới nàng. Người nào cũng mũ cao áo dài, giầu sang tột bực.

Trong khi tiểu thư và Vân Hương đang lo sợ nghĩ tới tương lai đầy khó khăn, cửa bỗng mở. Vân Hương giật mình ngoảnh ra. Nó hốt hoảng vội đứng lên, kính cẩn cúi chào :

“Bẩm phu nhân tới vấn an tiểu thư.”

Phu nhân nhẹ nhàng bước đến gần nó, rồi hỏi khẽ :

”Tiểu thư ngủ ?”

“Dạ bẩm phu nhân, tiểu thư mới thức.”

Thấy mẹ, tiểu thư vội vàng gượng ngồi dậy để chào đón, nhưng không nổi, lại nằm xuống, ngước nhìn mẹ bằng đôi mắt buồn bã, lờ đờ. Phu nhân bỗng nghe xót xa trong lòng. Ngày nào phu nhân cũng tới thăm con gái mấy lần, mà lần nào  cũng thấy nàng đổi khác, cứ sa sút hoài. Bà không ngờ con gái lại ủy mị như vậy, mê tiếng hát của tên lái đò đến mang bệnh liệt giường liệt chiếu. Nàng cất tiếng chào :

”Mẹ !”

Phu nhân khoát tay nói :

”Con cứ nằm tĩnh dưỡng. Hôm nay con thấy trong người thế nào ? “

Tiểu thư cố nói để an lòng mẹ :

“Con thấy khá nhiều rồi.”

Phu nhân gật đầu :

”Ừ !” rồi bà nói tiếp ”Tối nay, Tướng công sẽ cho dẫn tên lái đò đến đây gặp con.”

Cả tiểu thư lẫn Vân Hương đều giật mình, nhưng mỗi người một ý nghĩ khác. Tiểu thư thì mừng rỡ, nũ tỳ thì lo sợ. Nó không hiểu tại sao Tướng công lại dám cho Trương Chi gặp tiểu thư, khi mà nó đã cho Tướng công hay rằng Trương Chi đẹp trai, không thua gì Phan An, Tống Ngọc ngày xưa. Hay là… Tướng công đã bằng lòng cho tiểu thư kết duyên với Trương Chi ?  Không, không bao giờ chuyện đó lại xẩy ra.

Còn tiểu thư thì tỏ vẻ  rất vui. Nghe nói sắp được gặp Trương Chi, nàng bỗng thấy trong người khỏe hẳn ra. Nàng hớn hở hỏi phu nhân :

”Thật không, Mẹ ?  Phụ thân cho phép con được gặp …Trương Chi ?” Suýt nữa thì nàng gọi anh lái đò bằng chàng. Phu nhân gật đầu :

”Chắc chắn như vậy. Tướng công vừa cho mẹ rõ.”

Trong lòng Vân Hương chợt nẩy sinh một mối nghi ngờ. Phải chăng Tướng công có âm mưu gì đây vì nó không tin tướng công lại dễ dãi như vậy. Nó vẫn biết ông là một người nghiêm khắc, việc gì cũng tính toán kỹ lưỡng. Nó tin chắc rằng không đời nào  ông lại dễ dàng cho phép tiểu thư gặp Trương Chi trong khi tiểu thư đang ốm tương tư tiếng hát của người đó.

X X  X

Một tháng sau khi tiểu thư  gặp Trương Chi, nữ tỳ Vân Hương được tướng công và phu nhân cho nghỉ việc để trở về quê hương. Đó cũng nhờ tiểu thư van xin mẹ và phu nhân năn nỉ tướng công. Sau cái đêm người ta đưa Trương Chi vào phòng tiểu thư, với sự có mặt của tướng công và phu nhân, Vân Hương bị khủng hoảng tinh thần khá nặng.. Bộ mặt mà nó nghe nói đẹp chẳng thua gì Phan An, Tống Ngọc chỉ là một mặt quỷ hiện hình, xẹo chằng chịt và có nhiều vết máu mới khô. Vừa nhìn thấy cái mặt đó, tiểu thư hét lên một tiếng rồi ngất xỉu ngay. Vân Hương cũng hét to, nhưng chỉ run rẩy nép sát vào tường, rồi bật tiếng khóc. Phu nhân, dù đã được báo trước, cũng mở to mắt nhìn cái mặt gớm khiếp đó. Mặt bà tái hẳn đi. Chỉ có Tướng công bình tĩnh gật gù, mỉm cười, đánh giá cao “tác phẩm” của mưu sĩ Mao Nhị. Trong một thoáng, Trương Chi đã gây xúc động mạnh cho ba người đàn bà đang ở trong phòng. Thấy đã có tác dụng tốt trong việc chạy chữa bệnh tương tư của tiểu thư, Tướng công phất tay áo cho hai tên lính hầu dắt Trương Chi ra khỏi phòng.

Hôm sau, vì xúc động mạnh, tiểu thư trở bệnh nặng hơn. Một ngự y cao tay nhất triều được triệu tới. Sau mấy thang thuốc, tiểu thư dần dần hồi phục, khỏi dứt bệnh tương tư. Thoạt đầu, nàng không chịu tin rằng “con quỷ hiện hình” ấy là Trương Chi. Phu nhân đã phải đoan chắc với nàng nhiều lần là không ai đánh tráo tên lái đò với kẻ khác. Chả còn biết hỏi ai hơn, nàng đành tin lời mẹ. Bây giờ mỗi lần nghĩ tới anh lái đò có giọng hat ngọt ngào, quyến rũ nàng lại rùng mình hốt hoảng.  Nàng chưa quên hẳn tiếng hát đó nhưng không còn thổn thức khi tưởng nhớ tới.

Riêng Vân Hương, con nữ tỳ trung thành, thì chả có ai săn sóc, chữa chạy. Bệnh của nó là bệnh tâm thần sau một cơn xúc động quá mạnh mà cũng vì uất ức, bất mãn trước hành động tàn nhẫn của Tướng công. Gương mặt đẹp của Trương Chi đã bi Tướng công hủy hoại. Nó vừa sợ vừa ghê tởm Tướng công nên không còn bụng dạ nào ở lại hầu hạ nữa. Nó năn nỉ tiểu thư tìm cách trả lại tự do cho nó. Tiểu thư vốn là người tốt bụng, hiền lành, đã cố van xin mẹ cho nó được về quê.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, Tướng công đã ban cho nó một đặc ân, được trở về quê hương. Hơn mười năm trước, bố mẹ nó, vì nghèo và nợ nần ngập đầu ngập cổ, đã bán nó cho phủ Tướng công. Nó trở thành một con nô lệ, không phải là một con hầu bình thường. Đúng ra nó phải làm đầy tớ cho phủ Tướng công suốt đời và không công. Thế mà khi trả lại tự do cho nó, phu nhân và tiểu thư đã lén lút cho nó một số tiền rất lớn để chữa bệnh và làm vốn lấy chồng.

Khi ra khỏi phủ tướng công, Vân Hương liền đi hỏi dò về anh lái đò Trương Chi. Người ta cho biết Trương Chi đã chết. Sau đêm được đưa vào phòng tiểu thư, anh ta bị ốm nặng, mặt mày xưng vù và đầy mủ. Không tiền chữa thuốc, cũng không thể chèo đò để kiếm ăn độ nhật, Trương Chi chết trong một túp lều ven sông vắng lạnh. Khi có người biết thì xác anh đã bắt đầu rữa. Dân làng thương tình xúm nhau bó chiếu, chôn anh ở một bãi hoang ven rừng, rất xa làng mạc, thôn xóm.

Theo lời chỉ dẫn, Vân Hương tìm đến thăm ngôi mộ của anh lái đò hát hay và đẹp trai trước khi tìm về quê cũ

X X  X

Ba năm trôi qua, Vân Hương đã khỏi bệnh, trở lại chốn cũ để thăm phu nhân và tiểu thư. Nhưng trước khi vào phủ tướng công, nó ghé thăm ngôi mộ Trương Chi. Nhưng nó tìm mãi mà không thấy dấu vết của ngôi mộ hoang ven rừng. Cảnh vẫn không thay đổi, vẫn bụi cây, vẫn đám cỏ gai chằng chịt, nhưng không có một gò đất nào có thể coi là mồ mả. Nó đành trở lại thôn xóm để hỏi thăm.

Người ta cho nó biết cách đây không lâu, cứ vào đêm trăng sáng, dân trong vùng lại nghe tiếng hát, đúng tiếng hát của anh lái đò Trương Chi, như hồi anh còn sống. Tiếng hát vẫn hay, vẫn trong trẻo, nhưng không còn quyến rũ như xưa nữa. Người nghe có cảm giác rờn rợn. Dân làng bèn đi tìm nơi phát xuất của tiếng hát ma quái đó. Nhưng họ không sao tìm ra. Tiếng hát có lúc mơ hồ như gió thoảng trên sông, lại có lúc như tiềng khóc ai oán. Người ta đành tìm đến ngôi mộ ven rừng  và khai quật lên. Trong mộ, chẳng có gì ngoài cái chiếu nát và một hòn đá màu hồng có hình dáng một trái tim.  Họ xem kỹ hòn đá, không có gì đặc biệt, nên định ném trả lại huyệt rồi vùi đất chôn đi. Nhưng một người trong bọn lên tiếng xin hòn đá. Người này là một anh thợ đẽo và mài đá làm thành những vật dụng hàng ngày. Từ ngày đó, tiếng hát ma quái cũng hết luôn.

Vân Hương tìm đến nhà anh thợ đẽo đá  Anh tiếp nó một cách e dè, ngại ngùng. Nó đi thẳng vào chuyện viên đá trong mộ Trương Chi, ngỏ ý muốn được xem. Anh thợ cho biết đã biến nó thành một cái chén uống nước. Anh lấy chén ra cho Vân Hương coi. Đó là một cái chén tống màu hồng, trông thô kệch và hơi nặng so với loại chén người ta thường dùng. Vân Hương bỗng nẩy ra ý muốn mua cái chén để làm quà cho tiểu thư. Nó hỏi :

”Bác định bán cái chén này bao nhiêu ?”

Anh thợ lắc đầu :

”Tôi không biết. Ai thích thì trả bao nhiêu cũng được. Tôi mất mấy ngày công đó.”

Vân Hương mở bọc lấy tiền trả ngay. Số tiền có lẽ quá lớn với anh thợ, nên anh trố mắt nhìn Vân Hương, chưa dám cầm ngay. Nó phải dúi vào tay anh, rồi bỏ chén vào bọc.

X X  X

Trong những món quà nữ tỳ Vân Hương tặng, tiểu thư thích nhất cái chén tống bằng đá hồng, có thể vì lai lịch kỳ lạ của nó.  Anh lái đò có giọng hát quyến rũ đã chết, cả thân xác anh kết tinh lại thành một viên đá hinh trái tim màu hồng, rồi viên đá đó được mài đẽo thành cái  chén. Tiểu thư hỏi Vân Hương  :

”Chén này có dùng để uống nước được không ? “

Vân Hương đáp :

”Em chắc là được. Xin tiểu thư thử rót trà vào xem.”

Tiểu thư liền làm theo lời nó. Nàng vô cùng ngạc nhiên vì trong chén nước có bóng một người chèo một con đò nhỏ xíu, nhưng trông rất rõ, với gương mặt thật đẹp. Nàng càng ngạc nhiên hơn khi nghe bên tai văng vẳng tiếng hát ngọt ngào, quyến rũ.  Đúng là tiếng hát năm xưa đã từng làm nàng say mê đến tương tư. Thấy tiểu thư ngó đăm đăm vào lòng chén với vẻ mặt ngẩn ngơ, khác lạ, Vân Hương cũng vội nhìn vào chén nước, nhưng nó không thấy gì hết. Nó hỏi :

”Tiểu thư làm sao vậy ?”

Nó phải hỏi đến lần thứ ba, tiểu thư  mới giật mình như choàng tỉnh, ngước nhìn nó, hỏi lại :

”Chị không nghe thấy gì sao ?  Tiếng hát…Tiếng hát ngày xưa…Có cả hình bóng người chèo đò nữa…”

Vân Hương lại nhìn vào chén nước và lắng tai nghe, nhưng tuyệt nhiên nó không thấy  mà cũng không nghe gì hết. Nó bỗng lo sợ vì nghĩ rằng cái chén ma quái đã thu mất hồn vía tiểu thư.  Nó định giật cái chén lại, nhưng tiểu thư đã bình tĩnh nói :

”Chị đừng sợ, tôi không sao đâu. Tôi tỉnh mà.”

Vân Hương gặng hỏi :

”Tiểu thư có tỉnh thật không ?  Tiểu thư tỉnh mà sao nói mê ?”

“Ai bảo chị tôi mê ?  Rõ ràng tôi có nghe tiếng hát và thấy bóng anh lái cùng con đò.”

“Vậy tiểu thư cho em coi lại xem sao.”

Lần này Vân Hương cũng không thấy gì. Nó tức mình đổ hết nước đi, rồi trả lại chén cho tiểu thư. Chén không có nước, tiểu thư cũng không nghe tiếng hát và không thấy bóng anh lái đò. Tiểu thư chợt hiểu ra hai điều : phải có nước mới có bóng anh lái đò và có tiếng hát, và chỉ mình nàng được thưởng thức những điều ấy. Khi hiểu ra như vậy, nàng bỗng thấy một niềm vui rào rạt trong lòng. Nàng nói với Vân Hương :

”Anh Trương Chi chỉ muốn mình tôi thấy anh, mình tôi nghe anh hát, có lẽ để đáp lại mối tình tôi dành cho anh khi anh còn sống.”

Vân Hương thắc mắc :

”Tiểu thư có thấy mặt anh ta xấu xí như hôm anh ta được đưa vào phòng tiểu thư không ?”

Tiểu thư lắc đầu :

”Không, người này đẹp lắm. Tôi sợ Phan An, Tống Ngọc ngày xưa còn thua.”

Vân Hương gật đầu :

”Vậy thì đúng anh lái đò Trương Chi rồi. Em nghe người ta nói anh lái đò vừa đẹp vừa hát hay.”

Tiểu thư  cau mày :

”Sao chị không cho tôi biết sự thật từ hồi đó ?”

Vân Hương cẩn thận nhìn trước ngó sau, khẽ nói vào tai tiểu thư :

”Tướng công cấm em nói thật với tiểu thư.”

Trầm ngâm một lát, tiểu thư có giọng buồn buồn :

”Bây giờ tôi hiểu rồi. Phụ thân tôi sai người hủy hoại gương mặt của anh lái đò.”

“Dạ, đúng như vậy, vì tướng công không thể cho phép tiểu thư hạ mình xuống ngang hàng với anh lái đò nghèo hèn.”

Tiểu thư chợt buông một tiếng thở dài não nuột..

Từ ngày Vân Hương trở về quê, tiểu thư lại thui thủi một mình một bóng trong phòng riêng, nhưng nàng không còn thấy cô đơn nữa. Nàng bây giờ đã có bạn, có thú vui riêng, tiếng hát của Trương Chi.

Ba năm trước, khi tướng công và phu nhân trả tự do cho Vân Hương, tiểu thư rất cô đơn, dù rằng phu nhân đã cho một nữ tỳ khác vào hầu hạ thế Vân Hương. Một phần vì nó còn mới quá, phần khác nó không được khôn lanh như  Vân Hương , nàng chỉ coi nó như một đứa ở thuần túy, không tâm sự với nó như đã tâm sự với Vân Hương. Thế rồi bỗng Vân Hương trở lại thăm và tặng nàng một món quà khác thường và vô cùng quý giá.

Từ ngày có chiếc chén tống hồng ngọc, tiểu thư thường đuổi con nữ tỳ  đi nơi khác, để được một mình ở trong phòng. Nàng suốt ngày say mê nghe tiếng hát phát ra từ cái chén và ngắm hình anh lái đò không chán mắt. Nàng cũng luôn luôn từ chối tham dự các cuộc vui tổ chức trong phủ Tướng công. Những ca công, ca nữ trong các buổi liên hoan ấy cũng có vài người hát hay, nhưng họ chỉ được quyền dùng giọng ca hay của họ để ca tụng Tướng công và những việc làm của ngài. Nghe mãi những lời tán tụng vô duyên, tiểu thư cũng thấy nhàm chán. Nay đã có tiếng hát Trương Chi, chỉ hát cho riêng mình nàng nghe, nàng đâu cần tham dự những buổi liên hoan nữa. Trong những lúc đó, nàng cảm thấy được an ủi rất nhiều và vui hẳn lên.

Tạ Quang Khôi

(1999)

Hoa Tím Bằng Lăng

Hoa Tím Bằng Lăng

Nguyễn Duy-An

Vì chiều cao “rất khiêm tốn” của mình, tôi cứ phải loay hoay điều
chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang
từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam
“vinh quy bái tổ”. Tuân là đứa con “rất đặc biệt” của chúng tôi. Vợ
chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22
tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi
mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi
lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội.

Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.
Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con;
thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy
tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau
chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày
nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu
yếm nhìn tôi thỏ thẻ: “Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu
anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân… Tuy
nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui
cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một
đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn…” Đó
là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về
Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người
mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng
tuổi, và Tuân trở thành “con trai” của tôi từ hơn hai mươi năm về
trước tại Bình Giả, Việt Nam.

o0o

Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ… Tôi trở về Bình Giả
năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề “gõ đầu trẻ” tại một
trường tiểu học ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh
đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám
gia đình sống qua ngày. Sau mấy năm vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây
lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã “cắt hộ khẩu” ở trường cũ,
nhưng không xin “nhập hộ khẩu” tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định
tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết
tôi đi dạy học ở vùng “Kinh Tế Mới”, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm
cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp… nên không ai thắc mắc hay hỏi han
giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho
chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo
các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong
một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn
trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người
vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở
cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa
vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc “cây
cổ thụ”, tôi đã “hồn vía lên mây” khi nghe tiếng gọi tên mình vọng
xuống từ ngọn cây:

– Toàn. Toàn phải không?

Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn
mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì
một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên
đầu… Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột
xuống vừa lên tiếng:

– Mình đây. Thành đây.

Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người “đàn anh”
nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da
bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập
ngừng:

– Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?

– Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà
vì sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho mình gặp được Toàn ở đây.
Đúng là số mình chưa chết.

– Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?

– Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình…

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì
ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá
và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua
về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu
tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang,
vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng
trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở
về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên
lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang,
vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả
sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh
Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai
người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi “học tập”. Năm đó Trang
mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo
người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì
hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay.
Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường,
mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai
bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới
hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa,
nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn
thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ
nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.

Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:

– Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành…

Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:

– Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó
mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà
bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa
lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai
bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức
ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng
tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi
làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì
sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng “đi làm thuê” cho tôi để vào
rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày
bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh
Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người
quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi
tôi đón anh ấy ra Long Hương “ở nhờ” nhà một người bạn thân của tôi để
chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người
đi buôn chuyến. Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có
khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm… lo việc
riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi
buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc
dầu tin tôi, nhưng “lời ong tiếng ve” đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp
dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình
tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần
chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người
bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi
như một đứa em ruột, “một vị cứu tinh” đã dám liều mình cưu mang và
giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự
tính vì công việc “bến bãi” bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức
gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên.
Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút
lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một
chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về
thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của
Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất
tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần
về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không
biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng.
Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất
là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và
coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ
trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng
nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin
nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích
của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành
đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho
Trang, nhưng rồi mọi người lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều
hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may
người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong
bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống
vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà
chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho
Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu
bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều
nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang
khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng,
nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần
nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi
thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã “ngồi xổm trên dư luận”
để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi
làm thế để tránh tiếng vì bà đã biết chắc chắn bào thai trong bụng
Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi
vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại
liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì
con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu
bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin
tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì
bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải
qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề
nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau
tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành
nên đã lỡ một “chuyến đò”. Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong
lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi
phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu…
Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác
sĩ và y tá đã ghi tên tôi là “chồng” của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó
là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha
mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước
đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn
qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy
bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ
đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh
Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi
trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định
chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho
chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ “khóa”! Tôi ngang tàng
chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục
chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định
sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi.

Tôi có thể “đạp dư luận xuống bùn đen” để sống, nhưng Trang phải âm
thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén “nỗi oan Thị Kính” từng giờ
từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục
vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà
thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang
đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi
người trong xứ khi biết tin “người ta” không muốn cho tôi chôn Trang ở
nghĩa trang giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi
không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và “trừng phạt” thân xác một người
đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh “Thương Người Có 14
Mối, Thương Xác 7 Mối”, trong đó có ghi rõ việc “chôn xác kẻ chết!”
Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang
từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự
dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã “gieo họa” cho gia đình tôi! Đâu có
ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để “kết
án” nàng đã “liều mình tự tử”!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ
nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn
Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng
tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều
đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương
xót của Chúa thay đổi trái tim “thù hận” của tôi, và tôi cũng xin Ngài
thương tha cho những người đã kết tội “oan” cho chúng tôi! Tôi chỉ
thật sự trở về với Chúa như “một con chiên lạc” mấy tuần trước ngày
vượt biên…

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới
sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình
thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm
ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến
ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó
khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã
vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ
Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc
nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê.

Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn
nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà
Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi
mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc “cha con” tôi từ
bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của
Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một
lần nữa thành trẻ “mồ côi”!

Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng
rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải
chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không
khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì
biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ
đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng “cha con tôi” đã
trồng trước ngày “biệt xứ”.

o0o

Oanh đứng nép sát vào người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt
hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu
Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn
một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra
một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi
cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên
ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói: |  |

– Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha
mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.

Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định nó và
tôi không phải “cha con”!

Nguyễn Duy-An

Đứa con vô tội và nỗi đau của người mẹ khi phải nói ra sự thật

Đứa con vô tội và nỗi đau của người mẹ khi phải nói ra sự thật

Vì muốn cứu cô con gái bị bệnh máu trắng, hai vợ chồng đã nói ra một bí mật đau lòng… Đọc xong câu chuyện, bạn có thể tha thứ cho người đàn ông da đen nọ không?

Cuối năm 2002, trên một số trang báo của Ý đã xuất hiện một thông báo tìm người rất đặc biệt:

Ngày 17/5/1992,

Ở bãi đậu xe đường số 5, khu thương nghiệp thành phố Avenue, một người phụ nữ da trắng bị một chàng trai da đen cưỡng hiếp. Không lâu sau, người phụ nữ kia đã sinh ra một bé gái da đen. Cô và chồng đã không chút do dự mà gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng bé gái này.

Tuy nhiên điều không may chính là, hiện tại cô bé bị bệnh máu trắng, cần phải làm phẫu thuật cấy ghép tủy gấp, ba ruột của cô bé chính là niềm hy vọng duy nhất để cứu sống cô, hy vọng người năm xưa sau khi đọc được lời nhắn này, hãy mau chóng liên hệ với bác sĩ Adrew làm việc tại bệnh viện Elizabeth.

Bản tin tìm người này đã dấy lên một làn sóng dư luận trong xã hội

Tiêu điểm thắc mắc của mọi người chính là: “Người da đen này sẽ đứng ra hay không?”.

Hiển nhiên anh ta sẽ phải đối mặt với hai sự lựa chọn, nếu đứng ra, anh ta sẽ đối mặt với việc mất hết danh dự, gia đình tan nát; nếu giữ im lặng, anh ta một lần nữa sẽ phạm phải tội lỗi… không thể tha thứ được.

Đây là một câu chuyện có thật, và câu chuyện này sẽ có kết cục như thế nào? Đối diện với một kẻ cưỡng gian… Bạn có tha thứ cho anh ta không? Xin hãy xem tiếp…

Cô bé bị bệnh máu trắng liên quan đến một bí mật …

Ở một khu dân cư thuộc thành phố Foyer nước Ý, Marda 35 tuổi là người phụ nữ luôn bị mọi người xì xào bàn tán. Bởi cô và chồng cô Peters đều là người da trắng, nhưng trong hai đứa con của họ, lại có một đứa là da đen.

Hiện tượng kì quặc này đã khiến cho những người hàng xóm bên cạnh không khỏi cảm thấy tò mò, Marda luôn cười nói với họ rằng, do bà nội của mình là người da đen, ông nội là người da trắng, nên đứa con gái Monica mới xuất hiện sự lại giống như vậy.

Để tìm tủy xương thích hợp, bí mật này không còn che đậy được nữa…

Mùa thu năm 2002, cô bé da đen Monica liên tục bị sốt cao. Cuối cùng bác sĩ Andrew chuẩn đoán Monica bị bệnh máu trắng, biện pháp chữa trị duy nhất là làm phẫu thuật cấy ghép tủy.

Bác sĩ phân tích: “Hết thảy những người có quan hệ huyết thống với Monica, hãy đến bệnh viện để làm xét nghiệm tủy xương, bởi những người như vậy là dễ dàng tìm được mẫu tủy thích hợp nhất, cả nhà và người thân họ hàng của hai bên, tốt nhất đều nên đến bệnh viện để làm xét nghiệm”.

Nghe thông báo này, mặt Marda bỗng tái nhợt, nhưng vẫn bảo cả nhà đến làm xét nghiệm tủy xương, kết quả không có ai thích hợp cả.

Bác sĩ lại nói với họ, tình huống giống như Monica, tỉ lệ để tìm được tủy thích hợp thật sự là rất nhỏ.

Bây giờ vẫn còn một biện pháp hữu hiệu nhất, chính là Marda và chồng cô sinh thêm một đứa bé nữa, lấy máu trên cuống rốn của đứa bé này truyền cho Monica.

Hai vợ chồng này nghe xong, im lặng một hồi lâu… Cuối cùng họ nói: “Cho chúng tôi thời gian suy nghĩ”.

Thật không ngờ…

Buổi tối Thứ Hai, bác sĩ Andrew đang trực ban, bỗng cửa phòng bị đẩy ra, là vợ chồng Marda.

Marda cắn chặt môi, chồng cô Peter nắm chặt lấy tay cô, vẻ mặt nghiêm túc nói với bác sĩ: “Chúng tôi có một chuyện muốn nói với ông, nhưng ông hãy hứa là sẽ giữ bí mật cho chúng tôi, bởi vì đây chính là bí mật lâu năm của vợ chồng chúng tôi”.

Ông bác sĩ trịnh trọng gật đầu.

Hai vợ chồng nói ra bí mật giấu kín lâu nay…

“Chuyện xảy ra vào tháng 5/1992. Lúc đó, con gái lớn của chúng tôi Jelena đã được 2 tuổi, Marda làm việc trong một quán ăn, đến 10 giờ tối mỗi ngày mới được về nhà.

Buổi tối hôm đó trời mưa rất to, khi Marda tan ca trở về thì trên đường đã gần như không còn ai nữa.

Khi đi ngang qua một bãi đậu xe bị bỏ hoang, Marda nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân, cô sợ hãi quay đầu lại nhìn, thì thấy một chàng trai da đen đang đứng phía sau cô. Anh ta tay cầm một khúc cây, đánh cô ngất đi, và làm nhục cô.

Đợi đến khi Marda tỉnh lại, loạng choạng trở về nhà thì đã hơn một giờ sáng, tôi lúc đó tựa như đã phát điên lên, xông ra ngoài để tìm người da đen kia tính sổ, nhưng từ sớm đã không có một bóng người nào ở đó cả.

Buổi tối hôm đó, hai vợ chồng chúng tôi ôm nhau khóc thảm thiết, cả bầu trời dường như đều đã đổ sập xuống”.

Kể đến đây, mắt của Peter ướt nhòe.

Anh kể tiếp: “Không lâu sau đó, Marda phát hiện mình đã mang thai.

Chúng tôi vô cùng sợ hãi, lo sợ rằng đứa con này chính là của người da đen kia. Marda muốn phá bỏ cái thai này đi, nhưng lòng tôi vẫn ôm một tia hy vọng, biết đâu đứa bé trong bụng này chính là con của chúng tôi thì sao.

Cứ như vậy, chúng tôi đã thấp thỏm chờ đợi mấy tháng.

Tháng 3/1993, Marda hạ sinh một bé gái, là da đen. Chúng tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng, cũng từng nghĩ rằng sẽ đem đứa bé này giao cho viện mồ côi, nhưng mỗi lần nghe thấy tiếng khóc của nó, chúng tôi lại không nhẫn tâm.

Chúng tôi quyết định sẽ đối xử tốt với cô bé này ……….

Nói cho cùng thì Marda cũng đã mang thai nó, nó cũng là một sinh mệnh mà. Tôi và Marda đều là những tín đồ Cơ Đốc thành kính, sau cùng chúng tôi đã quyết định nuôi dưỡng nó, đặt tên cho nó là Monica”.

Khóe mắt của bác sĩ Andrew cũng đã cay cay, ông cuối cùng đã hiểu vì sao đôi vợ chồng này lại sợ sinh thêm một đứa con như vậy.

Ông gật đầu tựa như đang suy nghĩ: “Nếu đã như vậy, dẫu cho ông bà có sinh thêm 10 đứa nữa, cũng rất khó sinh ra được đứa bé có tủy xương thích hợp với Monica!”

Ông nhìn Marda, như thử thăm dò, nói: “Ông bà phải tìm được cha ruột của Monica, nói không chừng tủy xương của anh ta, hoặc tủy xương của con cái anh ta có thể thích hợp với Monica”.

“Nhưng… ông bà có bằng lòng để cho anh ta xuất hiện trong cuộc đời mình lần nữa hay không?”

Marda nói: “Vì con, tôi bằng lòng tha thứ cho anh ta, nếu như anh ta chịu bước ra để cứu đứa bé, tôi thề sẽ không khởi tố anh ta”.

Bác sĩ Andrew không khỏi chấn động sâu sắc bởi tấm lòng lòng thương con của người mẹ này.

Bản tin tìm người đặc thù này đã dấy lên một làn sóng hiến tủy khắp cả nước. Nhưng trong biển người mênh mông, huống hồ chuyện đã nhiều năm như vậy, biết đi đâu để tìm tên cưỡng gian năm xưa?

Marda và Peter suy nghĩ hết lần này đến lần khác, quyết định dùng hình thức giấu tên, để đăng một bản tin tìm người trên báo.

Tháng 11/2002, trên các tạp chí thành phố Foyer đều đăng một bản tin tìm người đặc biệt như miêu tả ở trên, bản tin khẩn cầu kẻ cưỡng gian đó hãy bước ra, vì đó là hy vọng cuối cùng đối với mạng sống của bé gái bị bệnh máu trắng đáng thương kia.

Bản tin vừa được đưa ra đã gây nên tiếng vang mạnh mẽ trong xã hội. Thùng thư và điện thoại của bác sĩ Andrew mỗi ngày đều không thiếu những cuộc gọi khắp nơi trong nước, mọi người tranh nhau dò hỏi người phụ nữ này là ai, họ rất muốn được gặp cô, hy vọng có thể chung tay giúp đỡ cô.

Nhưng Marda đã cự tuyệt sự quan tâm của mọi người, cô không muốn tiết lộ họ tên của mình, càng không muốn để cho người khác biết Monica chính là con gái của kẻ cưỡng hiếp kia.

Nếu như bạn là người da đen kia, bạn sẽ làm thế nào?

Lúc này giới truyền thông đối với kết cục của sự việc này đã tiến hành thảo luận trước. Các trang của tờ La Mã bình luận: “Người đàn ông da đen này sẽ xuất hiện không? Nếu như người đàn ông da đen này dũng cảm bước ra, vậy chúng ta sẽ nhìn nhận và đối đãi anh ta như thế nào? Pháp luật của chúng ta nên trừng phạt anh ta như thế nào?”

Anh ta vì tội ác của ngày hôm qua mà nhận sự trừng phạt, hay là vì sự dũng cảm của ngày hôm này mà nhận được lời tán dương?

Tin tức Foyer tiếp tục được đăng tải:  “Nếu bạn là người đàn ông da đen đó, bạn sẽ làm thế nào?”

Những thảo luận này, đã khởi lên một làn sóng tranh luận khó cả đôi đường đối với quần chúng độc giả rộng lớn.

Tình mẹ thương con này đã cảm động vô số người, cũng đã tình cờ giúp đỡ những bệnh nhân khác

Cai ngục ở vùng đó cũng tích cực giúp đỡ Marda. Họ đã cung cấp danh sách tội phạm từ sau năm 1992 cho bệnh viện, bởi người da đen trong thành phố này rất ít, vậy nên, kể từ 10 năm trước thì tội phạm da đen cũng không nhiều.

Họ nói với Marda rằng: “Mặc dù có một số tội phạm năm đó không phải vì phạm tội cưỡng hiếp và bị tuyên án, nhưng cũng có khả năng từng làm qua những chuyện như vậy”.

Có những người đã ra ngục rồi, có một số người vẫn còn ở trong ngục, Marda và Peter đã kết nối liên lạc với những người này,  không ít tội phạm đã bị tình mẹ thương con của cô làm cho cảm động, bất luận là người da trắng hay da đen, họ đều tự nguyện trình báo để làm xét nghiệm tủy xương, hy vọng có thể hiến tủy cho Monica, nhưng trong số họ cũng không có tủy xương thích hợp.

Rất nhiều tội phạm năm đó đều bày tỏ sự chân thành và quan tâm sâu sắc, họ đều cung cấp manh mối cho vợ chồng Marda.

Nhưng đáng tiếc thay, họ đều không phải là người da đen cưỡng hiếp năm đó.

Câu chuyện này cũng đã làm cảm động rất nhiều người dân, không ít người tự nguyện làm xét nghiệm tủy, để xem tủy xương của bản thân mình có thích hợp hay không.

Người tình nguyện càng lúc càng nhiều lên tạo thành một làn sóng hiến tủy của những người tình nguyện tại thành phố Foyer, làn sóng ấy đã cứu được khá nhiều sinh mệnh của những người bị bệnh máu trắng, nhưng Monica lại không nằm trong số những người may mắn này.

Marda và Peter vẫn hồi hộp lo lắng mà chờ đợi người da đen kia xuất hiện…

Hơn hai tháng trôi qua, người này vẫn không xuất hiện

Hai vợ chồng thấp thỏm không yên, nghĩ rằng, cũng có thể người đàn ông da đen kia đã không còn trên cõi đời này nữa?

Cũng có thể đã rời khỏi quê nhà, từ lâu đã không còn ở Ý nữa rồi?

Cũng có thể anh ta không muốn hủy hoại cuộc sống của chính mình, nên không muốn bước ra?…

Nhưng bất luận như thế nào, chỉ cần Monica còn sống một ngày, họ sẽ không từ bỏ hy vọng tìm kiếm người đàn ông da đen kia.

Người đàn ông bí ẩn…dần hé lộ

Sau khi bản tin tìm người đặc thù này xuất hiện trên trang báo ở thành phố Napoli, trong lòng ông chủ 30 tuổi của một nhà hàng cao cấp bắt đầu dậy sóng.

Anh là người da đen, tên Achlia.

Ngày 17/5/1992, trong cuộc đời anh đã trải qua một đêm mưa tầm tã tựa như ác mộng, anh chính là người được nhắc đến trong câu chuyện trên.

Không ai có thể ngờ được rằng Achlia thắt lưng bạc triệu của ngày hôm này từng là một người rửa chén bị người ta sai tới sai lui. Bởi cha mẹ mất sớm, một người không được ăn học nhiều như anh đã phải lăn lộn kiếm sống từ rất sớm.

Người thông minh chăm chỉ như anh chỉ mong sao dùng sự cần cù lao động của mình có thể đổi lấy tiền bạc và sự tôn trọng của người khác, nhưng trớ trêu thay ông chủ của anh là người phân biệt chủng tộc, dẫu cho anh cố gắng thế nào, vẫn luôn phải chịu đánh đập chửi mắng từ ông ta.

Hôm đó là sinh nhật lần thứ 20 của Achlia

Anh dự định sẽ nghỉ làm sớm để đón mừng sinh nhật của mình, không ngờ trong lúc loay hoay đã vô tình làm rơi một cái đĩa, ông chủ túm chặt lấy cổ anh bắt anh phải nuốt hết những mảnh vỡ đó. Achlia căm phẫn dâng trào đã cho ông ta một đấm, rồi xông ra khỏi quán.

Anh vẫn chưa hết căm hận và quyết tâm báo thù người da trắng, buổi tối trên đường trời mưa tầm tã dường như không có một bóng người đi lại, trên bãi đậu xe anh gặp Marda, xuất phát từ sự báo thù về phân biệt chủng tộc, anh đã vô tình cưỡng gian người phụ nữ vô tội đó.

Sau sự việc, Achlia trong lòng thấp thỏm không yên. Ngay tối hôm đó, anh đã dùng số tiền đón sinh nhật của mình mua vé xe lửa đến thành phố Napoli, rời xa khỏi thành phố này.

Về sau, Achlia kiếm được một công việc thuận lợi ở nhà hàng của một người Mỹ, đôi vợ chồng người Mỹ đó rất quý tính cách thông minh cần cù của anh, còn đem cô con gái Lina gả cho anh, về sau thậm chí còn giao cho anh quản lý toàn bộ công việc kinh doanh của nhà hàng.

Sự day dứt trong tâm lúc nào cũng đè nặng lên tâm hồn anh

Mấy năm trở lại đây, anh không chỉ phát triển nhà hàng thành một nhà hàng cao cấp sang trọng kinh doanh thịnh vượng, mà còn có được ba đứa con đáng yêu.

Trong mắt người nhà và người làm, Achlia thật sự là một ông chủ tốt,  người chồng tốt và người cha tốt.

Vậy mà trong lòng anh vẫn không sao quên được tội ác năm xưa mà mình đã phạm. Anh luôn cầu nguyện với Thượng Đế xin Người hãy phù hộ người phụ nữ đã từng bị anh làm hại kia, hy vọng cô có thể bình an vô sự sống một cuộc sống hạnh phúc, và không bị tổn hại bởi những gì tội lỗi anh đã gây nên. Nhưng anh trước giờ chưa từng đem bí mật trong lòng này nói với bất kỳ người nào cả.

Buổi sáng hôm đó, Achlia đã đọc đi đọc lại bản tin đó đến mấy lần, trực giác mách bảo rằng anh chính là kẻ cưỡng gian được tìm trên tờ báo đó. Anh không bao giờ nghĩ đến rằng, người phụ nữ đáng thương đó cuối cùng đã mang thai và đã nuôi dưỡng đứa con vốn không thuộc về mình.

Cả ngày hôm đó, Achlia mấy lần muốn gọi điện thoại cho bác sĩ Andrew, nhưng mỗi lần điện thoại còn chưa quay xong anh liền vội cúp máy. Trong lòng Achlia đang giãy giụa đau đớn, nếu như đứng ra thừa nhận tất cả, mọi người sẽ biết được quá khứ xấu xa nhất của anh, những đứa con sẽ không còn yêu thương anh nữa, anh sẽ mất đi gia đình hạnh phúc và người vợ xinh đẹp, cũng sẽ mất đi sự tôn trọng của xã hội đối với mình.

Hết thảy những thứ này là kết quả anh đã không ngừng nỗ lực phấn đấu trong suốt mấy năm nay, vất vả lắm mới có được!

Buổi tối hôm đó, khi đang ăn cơm, mọi người trong nhà  đều bàn luận về những tin tức có liên quan đến Marda trên báo chí như những lần trước. Người vợ Lina nói: “Em thật sự rất khâm phục người phụ này, nếu như đổi lại là em, em sẽ không có can đảm để nuôi dưỡng con gái do mình bị cưỡng hiếp rồi sinh ra, em càng khâm phục người chồng của cô ấy, anh ta quả thật là một người đàn ông đáng được tôn trọng, lại có thể chấp nhận một đứa con như thế”.

Achlia im lặng nghe những lời đàm luận của vợ rồi đột nhiên hỏi: “Vậy em nhìn nhận kẻ cưỡng hiếp đó như thế nào?”

Người vợ lòng đầy căm phẫn nói: “Em tuyệt đối không thể tha thứ cho hắn ta được, năm xưa đã làm sai rồi, vào thời khắc then chốt của bây giờ, hắn ta lại rụt cổ trốn tránh. Hắn ta thật đúng là quá đê tiện, quá ích kỷ rồi, thật là quá ghê tởm! Hắn ta đúng thật là con quỷ hèn nhát!”

Achlia ngơ ngác lắng nghe, muốn đem tất cả sự thật nói với vợ. Buổi tối hôm đó, do cậu con trai 5 tuổi không chịu ngủ, Achlia lần đầu tiên đã đánh nó một bạt tai. Đứa con trai vừa khóc vừa nói: “Ba là người ba xấu xa, con sẽ không còn quan tâm đến ba nữa. Ba không phải là ba của con nữa”.

Trong lòng Achlia xung đột mạnh, anh ôm chặt con vào lòng, nói: “Ba thật sự xin lỗi, ba sẽ không bao giờ đánh con nữa đâu. Tất cả là lỗi của ba, con hãy tha thứ cho ba, được không?”. Nói đến đây, nước mắt Achlia không ngừng trào ra.

Đứa con sợ quá, dường như nó cũng hiểu chuyện, vội lấy tay lau nước mắt và an ủi Achlia: “Được rồi, con tha thứ cho ba. Thầy giáo dạy rằng, đứa bé biết sai mà nhận lỗi mới là đứa bé ngoan”.

Achlia cả đêm trằn trọc không sao ngủ được, anh cảm thấy bản thân mình dường như đang bị dày vò dưới địa ngục, những khung cảnh trong đêm mưa gió tội ác đó và hình bóng của người phụ nữ kia không ngừng đan xen xuất hiện trước mắt, và dường như anh còn nghe thấy tiếng khóc và tiếng gọi đau thương của người phụ nữ kia nữa. Anh không ngừng tự hỏi chính mình: “Mình rốt cuộc là người tốt, hay người xấu đây?”

Nghe thấy hơi thở đều đều của người vợ đang nằm bên cạnh, anh liền mất đi dũng khí để nói ra mọi chuyện.

Ngày hôm sau thần sắc anh cực kỳ tiều tụy, trong lòng càng lúc càng nặng trĩu…

Người vợ rất nhanh đã nhận ra sự khác thường nên quan tâm hỏi han chồng.

Buổi sáng khi đi làm, các nhân viên đều chào hỏi anh thân thiết: Chào ngài tổng giám đốc! Anh sắc mặt tiều tụy chào lại họ, trong lòng cảm thấy toàn là xấu hổ và nhục nhã. Achlia cảm thấy bầu trời dường như đã đổ sụp xuống rồi!

Tình thương của người cha bùng lên

Mấy ngày sau, Achlia không cách nào im lặng được nữa, anh liền gọi điện thoại ẩn danh cho bác sĩ Andreew bằng điện thoại công cộng. Anh cố hết sức để giọng nói của mình trông thật bình tĩnh: “Tôi rất muốn biết bệnh tình của cô bé bất hạnh kia”.

Bác sĩ Andrew trả lời rằng, bệnh tình của cô bé đó rất nghiêm trọng, cuối cùng ông còn thương cảm rằng: “Không biết con bé có thể đợi được đến ngày cha ruột của nó xuất hiện hay không”.

Lời nói này đã chạm đến tận đáy lòng Achlia, tình thương của người cha đã bùng lên từ nơi sâu thẳm trong tâm hồn anh, cô bé đó dù sao cũng là cốt nhục của mình!

Anh quyết định bước ra để cứu Monica, anh đã phạm sai lầm một lần rồi, bây giờ không thể phạm sai lầm tiếp nữa.

Buổi tối hôm đó, anh lấy hết can đảm để nói với vợ tất cả. Cuối cùng anh nói: “Anh rất có khả năng chính là cha ruột của đứa bé đó! Anh phải đi cứu con bé!”

Vợ anh bàng hoàng, căm phẫn, thương tâm, trái tim như vỡ vụn ra khi nghe hết tất cả những điều này rồi nói: “Anh là đồ dối trá!”

Buổi tối hôm đó, cô đã dắt theo ba đứa con, lái xe đến nhà ba mẹ. Khi cô đem hết bí mật của Achlia kể lại với ba mẹ, đôi vợ chồng này lúc đầu cũng vô cùng tức giận, nhưng sau khi nghe xong đã rất mau chóng lấy lại bình tĩnh.

Họ nói với con gái rằng: “Chúng ta nên tức giận về hành vi của Achlia trong quá khứ. Nhưng con có từng nghĩ qua hay chưa, anh ấy có thể bước ra, cần có dũng khí lớn đến dường nào, điều này chứng minh rằng lương tâm của anh ta còn chưa mất đi. Con là hy vọng chồng con là một người từng phạm sai lầm, nhưng bây giờ có thể sửa đổi? Hay là muốn một người chồng mãi mãi chỉ biết chôn vùi quá khứ tàn ác?”

Cô đã im lặng không nói gì cả. Ngày hôm sau, trời vừa sáng Lina vội trở về bên cạnh Achlia, nhìn thấy Achlia cặp mắt đỏ hoe, Lina kiên định nói : “Achlia, anh hãy đến chỗ bác sĩ Andrew đi! Em sẽ đi cùng với anh!”

Trong tuyệt vọng luôn xuất hiện ánh sáng hy vọng

Ngày 3/2/2003, vợ chồng Achlia đã liên lạc được với bác sĩ Andrew. Ngày 8/2, vợ chồng Achlia vội đến bệnh viện Elizabeth, bệnh viện đã làm xét nghiệm DNA và kết quả là anh thật sự chính là cha ruột của Monica.

Khi biết được người đàn ông da đen đã làm nhục mình cuối cùng đã dũng cảm bước ra, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng lăn dài trên má Marda.

Cô đã căm hận Achlia trong suốt 10 năm, nhưng thời khắc này đây cô lại vô cùng cảm động.

Tất cả đều được tiến hành cực kỳ bí mật. Để bảo vệ đời tư của vợ chồng Achlia và vợ chồng Marda, bệnh viện đã không nói ra tên thật và thân phận của họ cho báo chí mà chỉ thông báo với kí giả rằng đã tìm được cha ruột của Monica.

Thông tin này đã khiến toàn bộ người dân thành phố quan tâm đến sự kiện này phấn khởi, họ không ngừng gọi điện thoại và viết thư cho bác sĩ Andrew, nhờ ông gửi sự tha thứ và lòng tôn kính của họ đến người da đen này: “Anh ấy từng là tội nhân, nhưng giờ đây anh ấy là một anh hùng!”

Đối mặt, đó mới là sự cứu vãn và chuộc tội thật sự

Ngày 10/2, vợ chồng Marda yêu cầu được gặp mặt Achlia. Lúc đầu, anh không có dũng khí gặp họ, nhưng Marda cầu xin hết lần này đến lần khác nên anh mới dám nhận lời.

Ngày 18/2, dưới sự sắp xếp bí mật của bệnh viện, Marda gặp Achlia trong phòng khách của bệnh viện. Đầu tóc của anh vừa mới cắt, khi nhìn thấy Marda, bước chân nặng nề khó bước, sắc mặt tái nhợt hẳn lên. Marda và chồng bước đến, nắm chặt lấy tay anh, ngay tức khắc 3 người khóc không thành tiếng, nước mắt của ba người hòa lẫn vào nhau.

Rất lâu sau, Achlia nghẹn ngào nói: “Xin lỗi, xin lỗi, xin hãy tha thứ cho tôi! Câu nói này tôi đã chôn sâu trong lòng suốt hơn 10 năm nay rồi, hôm nay cuối cùng đã có cơ hội để nói với chị”.

Marda nói: “Cảm ơn cậu đã có thể bước ra. Cúi xin Thượng Đế phù hộ, tủy xương của cậu đã cứu sống con gái tôi!”

Ngày 19/2, bệnh viện xét nghiêm xương tủy đối với Achlia, may mắn thay nó hoàn toàn thích hợp với Monica!

Bác sĩ xúc động nói: “Đây thật sự là kì tích!”

Ngày 22/2/2003, thời khắc mà mọi người chờ đợi từ lâu cuối cùng đã đến, xương tủy của Achlia được cấy ghép vào trong thân thể của Monica.

Một tuần sau đó, Monica khỏe mạnh xuất viện. Vợ chồng Marda đã hoàn toàn tha thứ cho Achlia, mời anh và bác sĩ Andrew đến nhà họ làm khách. Nhưng ngày hôm đó  Achlia lại không đến, anh nhờ bác sĩ Andrew mang đến một lá thư.

Trong thư anh vô cùng day dứt nói rằng:

“Tôi không thể quấy nhiễu cuộc sống bình yên của anh chị lần nữa. Tôi chỉ hy vọng Monica và anh chị sẽ sống hạnh phúc bên nhau, nếu như anh chị có khó khăn gì, xin hãy nói với tôi, tôi nhất định sẽ giúp đến cùng! Đồng thời, tôi cũng rất cảm kích Monica, từ một ý nghĩa khác mà nói, là con bé đã cho tôi một cơ hội để chuộc tội, là con bé đã cho tôi có được những khoảnh khắc vui vẻ của nửa cuộc đời còn lại. Đây chính là món quá mà con bé đã tặng cho tôi!”

Đây quả thật là một câu chuyện xung đột tâm can, xúc động lòng người…….

Có lẽ bạn cũng đã từng làm sai, đi lầm đường, nhưng chỉ cần có lòng sửa lỗi thì bạn có thể “bình thản mà đối mặt với tương lai”!

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney

(Tinh Hoa)

Chuyện BI KỊCH!

Chuyện BI KỊCH!

Một người phụ nữ 28 tuổi làm việc cho một công ty ở thành phố, chồng cô và đứa con trai 10 tuổi ở quê nhà, cô hàng ngày đều đến công ty làm việc rất chăm chỉ để kiếm tiền gửi về cho gia đình.

Nhưng một ngày nọ bỗng xảy ra biến cố. Giám đốc công ty để mắt đến vẻ đẹp của cô. Ông ta đã nghĩ đủ mọi cách để theo đuổi, cũng nói với cô rằng dẫu cho cô đã kết hôn và có con đi nữa, ông ta cũng vẫn một lòng yêu cô.

Lúc vừa mới bắt đầu, cô đã thẳng thừng cự tuyệt những lời đường mật

Về sau, ông giám đốc đó luôn tặng hoa và thường xuyên dẫn cô đi ăn. Còn hứa rằng ông sẽ ly dị vợ của mình để có thể được chung sống với cô. Cô đã tin nhưng vẫn không từ bỏ được người chồng và đứa con của mình.

Cô thường mang rất nhiều tiền về nhà. Và chồng cô đã bắt đầu nảy sinh nghi ngờ, anh thường hay âm thầm theo dõi cô. Ngày kia, khi anh đến trước cửa phòng công ty thì nhìn thấy vợ mình đang nằm trong vòng tay của người đàn ông khác.

Cô đã xao động, bỏ rơi người chồng và đứa con

Anh vội xông đến muốn hỏi cho rõ ràng mọi chuyện. Cô im lặng, không nói một lời. Ông giám đốc kia nói: “Anh có thể cho cô ấy cái gì, anh chẳng cho được cô ấy cái gì cả nhưng tôi thì lại hoàn toàn có thể. Cái tôi có chính là tiền”.

Khi anh nghe xong, không nói được lời nào, liền lặng lẽ rời đi.

Đứa con trai còn nhỏ, thực sự không hiểu được tại sao mẹ không về nhà nữa

Anh trở về ngôi nhà cũ. Cũng từ ngày hôm đó, cô không có gọi điện về nhà hỏi thăm, và cũng không gửi tiền về nhà.

Có một ngày, đứa con trai 10 tuổi hỏi ba nó: “Sao mẹ không gọi điện thoại về nhà nữa”.

Anh nói với con rằng mẹ sẽ không bao giờ trở về nữa, bây giờ cô đang sống một cuộc sống giàu sang, hạnh phúc với một người đàn ông giàu có khác rồi.

Đứa con nghe xong tưởng rằng anh đang gạt nó bởi vì mẹ rất thương yêu nó, tình cảm hai mẹ con rất tốt kia mà.

Câu chuyện này chẳng mấy chốc đã đồn ầm lên, mọi người trong làng đều biết hết cả. Thằng bé đến trường cũng bị bạn bè trong trường chọc phá.

Nó tức giận không thèm đến trường nữa, mà cầm bức ảnh chụp gia đình và 350 đồng của ba nó đi mất…

Dốc hết tâm tư, quyết đi tìm mẹ

Nó lén lén gọi điện thoại cho mẹ, nói rằng nó muốn viết thư cho mẹ nên muốn xin hỏi địa chỉ.

Nó mới 10 tuổi, căn bản vốn không biết gì cả, chỉ là muốn đích thân đi gặp mẹ để hỏi rằng có phải là mẹ nó không còn cần nó nữa không.

Nó đứng ở bến xe, đưa ra mảnh giấy có ghi địa chỉ của mẹ cho nhân viên bán vé xem, bảo vệ trạm xe đã đưa nó lên xe.

Xe đưa nó lên thành phố nhưng thực là không biết đến đâu để tìm, nó cầm mảnh giấy đến hỏi cảnh sát giao thông.

Cảnh sát giao thông đưa nó lên xe tắc-xi. Chiếc xe đã chở nó đến trước cổng công ty của mẹ nó. Thằng bé ngồi ở bên ngoài đợi mẹ tan ca.

Năm giờ rưỡi chiều, nó đã nhìn thấy mẹ nhưng bên cạnh còn có một người khác nữa, nó liền chạy đến, gọi một tiếng “mẹ ơi!”

Mẹ nó bị sự xuất hiện bất ngờ này làm cho suýt ngất.

Đứa con lòng đã tan nát, thất vọng tràn trề đối với mẹ…

Nó liền hỏi người đàn ông bên cạnh mẹ nó là ai.

Ông giám đốc đó liền nói thẳng rằng ông là chồng của cô.

Lúc đó, thằng bé vừa khóc òa lên vừa nói: “Tôi không có người mẹ như bà!”. Nói xong, liền cắm đầu cắm cổ bỏ chạy.

Nó đau đớn, tuyệt vọng cứ nhắm mắt mà chạy qua một ngã tư đường, bỗng có một chiếc xe đang chạy như bay lao đến tông nó văng xa mấy mét, tài xế sợ quá, vội vã chạy xuống xe xem thử.

Kết quả nhìn thấy là một đứa bé, máu từ trong miệng nôn ra.

Mọi người chung quanh đều chạy đến xem, có người tốt bụng liền gọi 119. Người tài xế cũng đã gọi cho cảnh sát.

Xe cấp cứu đến nơi liền ôm nó lên xe.

Trên xe, nó cố dốc hết sức xin hỏi mượn điện thoại của bác sĩ. Nó gọi vào số của ba nó rồi gắng sức nói với ba rằng:

“Ba, kiếp sau con vẫn sẽ là con trai của ba nhưng con không cần người mẹ đó nữa”.

Cứ như vậy, đứa bé đó đã chết

Khi ba nó chạy đến nơi thì nó đã nằm trong bệnh viện rồi. Ba nó chạy đến trước cửa bệnh viện, vừa trông thấy đứa con của mình, chân anh khụy xuống, mềm nhũn hẳn ra, khó khăn lắm mới bò được đến bên cạnh giường đứa con đang nằm, anh đưa tay vuốt ve đầu của nó.

Lúc đó, tất cả y tá trong bệnh viện đều khóc chảy nước mắt, cảnh sát đứng bên ngoài cửa cũng ngấn lệ.

Khi anh muốn ôm con về nhà. Mẹ thằng bé đã đến nhưng anh không nói câu nào cả, vừa ôm lấy đứa con vừa lẩm bẩm một mình mà đi.

Mẹ nó khóc lóc thảm thiết, nói rằng: “Mẹ sai rồi…….mẹ sai rồi…..”

Ba nó nói: “Cô không sai. Chỉ là tôi vô dụng. Chúc cô hạnh phúc!”

Nói xong liền bỏ đi.

Anh ôm đứa con về ngôi nhà cũ

Mọi người trong làng đều đã nghe nói cả rồi nên đều kéo đến xem.

Khi mọi người trong làng nhìn thấy anh ôm thi thể của đứa con trai, mọi người trong làng đều không cầm nước mắt.

Ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại đều khóc rất thương tâm.

Khi mọi người còn đang chìm trong nỗi đau đớn cùng cực, mẹ của thằng bé đã trở về.

Người trong làng đều dùng ánh mắt khinh thường để nhìn cô

Ông ngoại thằng bé vừa nhìn thấy, liền đi sang đánh cô một bạt tai, nói: “Tao không có đứa con gái như mày”. Còn mắng cô không biết xấu hổ, là đồ hạ tiện, vì tiền mà chồng con cũng không cần.

Cô vẫn nhất quyết muốn nhìn đứa con trai mình lần cuối nhưng không ai cho cô vào xem. Hết thảy mọi người đều ra sức xua đuổi cô. Ngay đến cha mẹ vốn là người thương yêu cô nhất cũng đuổi cô đi.

Khi cô xoay người đi, đứa em trai ruột của cô chạy đến trước mặt cô, nói: “Sao tôi lại có người chị không biết xấu hổ đến như vậy, thật khiến cho cả nhà chúng tôi cảm thấy vô cùng nhục nhã”.  Mỗi một câu tựa như một nhát dao đâm thẳng vào tim, cô vừa khóc vừa đi khỏi đó.

Trở về công ty để tìm người đàn ông đó, nhưng…

Khi cô đến cổng công ty, bảo vệ liền ngăn cô lại, nói cô đã bị đuổi việc rồi, không cần phải đến công ty nữa.

Lúc đó, cô đã hiểu. Gọi điện thoại của người đàn ông đó đều là khóa máy.

Cô đã biết người đàn ông đó chỉ là đùa cợt với cô, cô liền ở trước cổng công ty đợi ông ta đi ra.

Giờ tan ca đã đến, người đàn ông đó đã xuất hiện.

Cô bước đến, hỏi: “Anh không còn yêu em nữa sao?”

Người đàn ông đó trả lời: “Tôi không thể ly hôn với vợ tôi được, đây là 100 vạn, cô đi đi, từ giờ trở đi đừng đến làm phiền tôi nữa”.

Cô đau đớn ngồi bệt xuống đất, ông ta không thèm nhìn cô một cái, liền lái xe bỏ đi.

Cô một mình bước đi trên đường như người mất hồn, nghĩ đến người chồng trước đây luôn đối xử tốt với cô, liền cầm điện thoại gọi điện cho anh, chồng cô vừa nghe, liền hỏi có chuyện gì.

Cô nói ông giám đốc đó chỉ đùa giỡn với cô, dối gạt cô.

Chồng cô nghe xong, không nói gì cả.

Cô biết rằng chồng cô sẽ không tha thứ cho cô. Bảo anh hãy tìm một người phụ nữ khác, mong anh sẽ sống vui vẻ, hạnh phúc, nói xong liền cúp máy.

Nhưng cô lại không hề biết rằng chồng cô đã khóc

Kỳ thực anh vẫn rất là yêu cô.

Cô tự mình đi mua một lọ thuốc bỏ vào trong bình nước uống rồi đi tìm người đàn ông đó nói, “Ông không chịu trách nhiệm thì tôi sẽ tự sát.”

Cô đem đồ uống đựng đầy nồng nặc mùi thuốc độc, bảo vệ nhìn thấy là đồ uống thì không thèm để ý đến.

Cô thật sự đã uống, uống hết tất cả.

Một lát sau, cô từ từ ngã xuống mặt đất, miệng sùi bọt trắng, bảo vệ mới biết là có chuyện. Gọi điện cho 120 nhưng đã muộn mất rồi.

Cảnh sát gọi anh đến nhận thi thể. Anh nhận thi thể về nhà. Anh chôn cô cùng với cậu con trai.

Anh đã mất đi người vợ và đứa con trai mà mình thương yêu nhất

Anh ngồi trước mộ cô và con 5 ngày 5 đêm, mãi đến ngày thứ 6, anh cảm thấy đầu óc choáng váng, rồi ngã lăn xuống đất.

Khi tỉnh lại thì thấy mình đang ở trên giường trong ngôi nhà của mình.

Anh ngồi dậy, một mình chạy ra ngoài. Anh đi tìm ông giám đốc đó để tính sổ, anh thủ sẵn một con dao, đợi ông ta ở bãi đậu xe. Đợi suốt mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng ông ta đã đến lấy xe.

Khi nhìn thấy anh, ông ta vô cùng hoảng sợ, hỏi anh muốn làm gì. Anh cầm con dao ra, chém 3 nhát vào cánh tay của ông ta, nói: “Ba nhát dao này chính là thay cho một nhà ba người chúng tôi”.

Lúc này, cảnh sát đã đến nơi. Thì ra lúc anh đến đây, anh đã gọi điện cho cảnh sát rồi.

Khi cảnh sát chuẩn bị dẫn anh đi, anh tự sát bằng cách cầm con dao đâm liên tiếp 7 nhát vào người mình.

Anh nói với ông ta rằng: “Tôi không có tiền, nhưng tôi rất yêu cô ấy. Tôi sẽ mãi ở bên cạnh cô ấy. Tôi bằng lòng chết vì cô ấy. Ông có thể làm được không?”.

Chuyện này đã xôn xao dư luận. Vợ của ông giám đốc cũng biết chuyện, liền ly hôn với ông ta. Người đàn ông đó cũng đã biết ân hận về những việc làm của mình.

Khi thi thể anh được đưa về quê nhà, người dân trong làng đều đứng đợi trước cổng làng,

Vào thời khắc cảnh sát xuống xe ấy, nhìn thấy mọi người trong làng đều đang chảy nước mắt tiếp nhận thi thể.

Còn cha mẹ anh khóc đến chết đi sống lại.

Ngày hôm sau, thi thể của anh được chôn cất.  Ngày hôm đó dướng như ông trời cũng đang khóc vì anh. Trời đã mưa rất to nhưng mọi người trong làng không thiếu một người, chẳng có ai che dù, tất cả đều dầm mưa để đưa tiễn anh.

Tro cốt của anh do một người cháu ôm. Đoàn người đều đi về hướng nghĩa địa.

Trước huyệt mộ của anh là ba của anh và người ba vợ, còn có ba người anh trai đầu đội mưa, khóc lóc thảm thiết mà đào lên.

Một nhà ba người đều chôn cùng một chỗ.

Mọi người trong làng nhìn ba ngôi mộ này, vừa ngoảnh đầu lại nhìn vừa quay trở về. Tất cả đau thương đều bắt nguồn bởi một chữ “tiền”.

Cuối cùng, xin gửi một vài lời đến mọi người.

Làm người phải sống đúng với lương tri, đạo đức của một con người

Tiền có thể từ từ mà kiếm, có tiền bạn có thể ăn ngon, mặc đẹp, có đời sống sung túc. Không có tiền, thì ăn không  được ngon, mặc cũng không được đẹp nhưng quan trọng nhất vẫn là vui vẻ, hạnh phúc.

Thông qua bài viết này, cũng xin gửi đến những người có tiền nhưng không có đức, đừng có nghĩ rằng bản thân mình có tiền thì có thể tùy ý đùa giỡn với người khác, nếu không thì tình cảnh sẽ càng thê thảm hơn.

Tiền có thể mua được căn nhà nhưng không mua được “ tổ ấm” !

Mong sao câu chuyện này sẽ có ích cho bạn.

Câu chuyện được dịch từ cmoney.tw

(Tinh Hoa)

Giải cứu binh nhì Ryan

Giải cứu binh nhì Ryan

ĐÀO HIẾU

01

Bà Lê Thị Nghê, hiện còn sống

Tất nhiên tôi không có ý định kể lại câu chuyện trong phim Giải Cứu Binh Nhì Ryan của đạo diễn Steven Spielberg, do diễn viên Tom Hanks thủ vai chính.

Và tôi cũng không muốn làm công việc của một người phê bình điện ảnh để phân tích xem phim hay, dở thế nào.

Nhưng từ lâu tôi vẫn ôm ấp ý định viết về bộ phim nổi tiếng này, bởi vì ở Việt Nam, thời chiến tranh chống Mỹ cũng từng có một câu chuyện mang một thứ triết lý nhân bản kiểu như vậy nhưng lại là một thứ nhân bản lộn đầu. Nó bị đẻ ngược, với hai chân ra trước. Nó là một thứ nhân bản màu máu, mang diện mạo của “chiến tranh nhân dân” trong khi thứ nhân bản trong phim Giải Cứu binh Nhì Ryan có màu xanh của biển cả và bầu trời.

Chuyện giải cứu binh nhì Ryan xảy ra vào giữa năm 1944 trong Thế chiến thứ 2 khi quân Mỹ đổ bộ lên vùng Normandy nước Pháp. Một biệt đội gồm 8 người do đại uý Miller chỉ huy được thành lập chỉ để đi giải cứu một anh binh nhì tên là Ryan theo lệnh của Tổng tham mưu trưởng quân đội Hoa kỳ, tướng Marshall.

Ryan là đứa con cuối cùng còn sống sót của một bà mẹ đã có ba đứa con trai chết trận. Vì thế bằng mọi giá phải đem Ryan trở về với người mẹ đau khổ ấy.

Trong cuộc giải thoát này, sáu người trong số tám người của biệt đội do đại uý Miller chỉ huy đã chết, trong đó có Miller. Biệt đội chỉ còn lại 2 người nhưng họ đã đem được người chiến sĩ dũng cảm: binh nhì Ryan về với mẹ.

Câu chuyện ở Việt Nam thì ngược lại. Nó xảy ra trong một hang đá ở xã Quế Tân thuộc tỉnh Quang Nam mùa đông năm 1969.

Trong cái hang đá kinh hoàng ấy cũng có một người mẹ tên Lê Thị Nghê 32 tuổi và một đứa con trai tên Lê Tân, 3 tháng tuổi.

Lính Mỹ càn quét qua làng Quế Tân. Thông thường thì trong những trường hợp như thế người dân thường bồng bế nhau chạy về thành phố lánh nạn. Nhưng hôm đó những người du kích Việt cộng đã buộc dân cùng họ chạy trốn vào hang Hòn Kẽm ẩn núp. Bé Lê Tân (con của bà Lê Thị Nghê) đói sữa khóc liên tục không cách gì dỗ cho nín.

Sợ bị lộ, những người du kích đã gây áp lực để bà Nghê giết chết con mình.

Nếu những người lính Mỹ trong biệt đội của đại uý Miller đã hy sinh để bảo vệ đứa con trai của một bà mẹ đau khổ, thì ở cái hang Hòn Kẽm này, những người du kích đã buộc người mẹ phải giết con mình để cho họ được sống.

Đó là thứ đạo lý gì vậy? Sao nó lại từng được ca ngợi như một “huyền thoại mẹ”, được “cải biên” thành một sự hy sinh thần thánh của người mẹ Việt Nam anh hùng “vì đại nghĩa mà giết chết con mình”?

Báo Tuổi Trẻ Online số ra ngày 09/6/2008 đã viết lại vụ này ở góc độ là: Chính dân làng trốn trong hang đã khuyên bà Nghê hy sinh đứa con để cứu mọi người.

Nhưng đoạn văn sau đây đã để lộ sơ hở:

“Súng vẫn nổ, mọi người ngồi trong hang cứ nghĩ lính biệt kích Mỹ đang đến gần hang rồi. Lúc này mọi người ngậm ngùi đành nghe theo mấy anh du kích, lại động viên cô Năm: “Thôi cô hi sinh đứa con đi…!”.

Bà Năm hôn núm ruột đang khóc: “Mẹ không bao giờ bỏ con, nhưng vì để cứu dân làng, con phải ra đi…”. Sau khi cháu tắt thở, bà cởi chiếc áo trong người đùm con lại. Bà bế thi thể của con, bò lên khỏi miệng hang về hướng tây 100m, mặc cho mưa rơi, mặc cho đạn pháo bắn rền vang, bà dùng hai tay móc đất ướt lạnh để an táng con mình.”

Sơ hở thứ nhất:

-Rõ ràng là bà Nghê không tự nguyện giết con mà là dân làng “đành nghe theo các anh du kích” làm áp lực buộc bà Nghê giết con.

Sơ hở thứ hai: ác

000-mat dat

Bà Nghê hoàn toàn có thể “ra khỏi hang 100 mét để dùng tay móc đất đào huyệt chôn con” điều đó chứng tỏ bà không sợ lính Mỹ giết (vì họ giết bà để làm gì?).

Từ khi bà Nghê bồng xác con ra khỏi hang, đi 100 mét, cho đến khi đào xong một cái huyệt bằng tay không xong, cũng mất ít nhất một tiếng đồng hồ. Điều đó chứng tỏ lính Mỹ còn ở xa. Và rõ ràng rằng lúc ấy, thay vì giết con, bà hoàn toàn có thể bế con đi ẩn náu một chỗ khác để tiếng khóc của cháu bé khỏi gây nguy hiểm cho mấy anh du kích. Hơn nữa, với đứa bé 3 tháng tuổi trên tay, bà hoàn toàn có thể đi về làng, chẳng những không bị ai giết mà có khi mẹ con bà còn được giúp đỡ.

Vậy thì tại sao bà phải giết con?

Đó chỉ có thể là do một quyết định man rợ.

Đó là một quyết định hèn nhát và phi nhân tính.

Và sự kiện ấy đã nói lên một chi tiết rất cay đắng, đó là: những người du kích không dám cho dân làng bỏ đi vì họ cần một đám đông quần chúng để trà trộn vào.

Người mẹ “huyền thoại” ấy đến nay vẫn còn sống: quắt queo, tàn héo và đói rách. Không một ai đoái hoài, không một chút tiền trợ cấp, không một lời xin lỗi.

Bài báo nêu trên cũng đã viết về gia đình người mẹ ấy hiện nay như sau:

“Bây giờ con trai của bà Năm đã ra đi gần 40 năm và 33 năm đất nước thanh bình. Gần 200 người dân thôn Trà Linh ngày ấy bây giờ nhân lên gấp ba, đời sống tuy nghèo nhưng vẫn còn may mắn hơn bà Năm. Con gái còn lại – chị Lê Thị Liên – có chồng, có một con trai, bây giờ cũng nghèo lắm. Hiện nay vợ chồng chị lên tận Nông trường Phước Đức, huyện Phước Sơn (Quảng Nam) nhận chăm sóc khoán 4ha cao su. Vì xa quá anh chị cũng ít khi về thăm mẹ.

Bà Năm giờ ở một mình trong căn nhà tạm của con gái. Hiện nay bà đang bị nhiều bệnh và sống dưới mức nghèo khổ. Ngoài sự giúp đỡ của bà con lối xóm cùng chạy trú trong hang thời đó thì bà không được Nhà nước trợ cấp một chút gì. Có mấy lần chị Liên làm đơn xin trợ cấp cho mẹ, nhưng ngành Lao động – Thương binh và Xã hội các cấp đều trả lời “không biết xếp mẹ con bà vào diện chính sách gì”.

Vì ám ảnh triền miên, nhiều năm qua tâm trí bà tỉnh điên lẫn lộn. Chiếc khăn của đứa con ngày xưa, đến nay bà vẫn còn giữ và coi đó là “báu vật” bất ly thân. Đêm cũng như ngày, khi không tỉnh bà bế chiếc khăn đó hát ru. Rồi có những khi bà đốt nhang, một mình vào rừng, miệng nói lẩm bẩm đi tìm mộ con. Nhưng mộ con của bà đã mất dấu tích sau khi an táng do mưa quá lớn.”

*

Câu chuyện “Giải cứu binh nhì Ryan” và câu chuyện “Đêm kinh hoàng ở Hòn Kẽm” là hai bi kịch chiến tranh rất thảm thương và khốc liệt. Nhưng triết lý nhân bản trong hai câu chuyện đã khác nhau như ánh sáng và bóng tối.

Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trên mặt đất này, trách nhiệm của người lính là bảo vệ dân chứ không phải là buộc dân giết con để bảo vệ mình.

Và tự cổ chí kim, người lớn luôn đùm bọc, bảo vệ trẻ em chứ không phải trẻ em phải chết để bảo vệ người lớn.

Những người “giải phóng” Việt Nam đã không hề thấy xấu hổ về câu chuyện ở Hòn Kẽm mà còn ca ngợi nó như một thứ “lương tâm của thời đại”.

Đó là thứ lương tâm của loài sinh vật nào vậy?

ĐÀO HIẾU

(Trích trong tập tiểu luận “MẶT ĐẤT VẪN RUNG CHUYỂN”)

ĐẠP XÍCH LÔ

ĐẠP XÍCH LÔ

Tiểu Tử

Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất “đô” con. Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: “Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì “xúc xích – phô mai” như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!”.

Cách đây mấy năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây:

… Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ! Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày.

Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước. Con cám ơn rồi bước ra ngoài.

Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ.

Bác biết không? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó! Ông xích lô của con đó! Bác coi: con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không?

Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang “ trúng mối lớn ”.
Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói :
– “Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây!”.
Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào.
Con hỏi :
– “Bác không đếm sao?”.
Ổng cười, nhìn con :
– “ Khỏi ! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao?”.
Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời:
– “Cậu lên ngồi, đi !”.
Con lắc đầu:
– “Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!”.
Nụ cười của ổng tắt mất:
– “Ủa! Gì kỳ vậy?”.
Con giải thích:
– “Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!”.
Ổng vỗ vỗ lên yên xe:
– “Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!”.
Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
– “Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ”.
Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng:
– “Cậu liệu được không cậu?”.
Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm:
– “Được mà … Dễ ợt hà!”.

Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết.

Một lúc sau bỗng ổng la lớn:
– “Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!”.
Từ đó, ổng chỉ cho con chạy:
– “Từ từ … Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít…”
Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên:
– “Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!” …
Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì … làm gì … Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói:
– “Mình vô ăn cái gì đi”.
Ổng nói:
– “Cậu vô ăn đi, tôi không đói”.
Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại:
– “Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!”. Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên:
– “Ăn gì mau vậy cậu?”.
Con nói trớ:
– “Thấy không ngon nên không ăn”.
Rồi con nói tiếp:
– “Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi”.

Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên “ôm” đi thẳng!

Kể xong, Trung hỏi:
– “Nhà Nước có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?”.

Tôi nói: “Ờ … ”. Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời !

Tiểu Tử

CHUYỆN RẤT CẢM ĐỘNG

CHUYỆN RẤT CẢM ĐNG

Cậu bé 7 tuổi xin bác sĩ được chết. Lý do sẽ làm bạn phải rơi nước mắt

Một cậu bé 7 tuổi làm các bác sĩ hết sức ngỡ ngàng và xúc động khi khẩn khoản xin được từ bỏ mạng sống của mình cho người khác.

Screenshot 2015-07-18 at 10.09.13 AM

Cậu bé Trần Tiểu Thiên nói cậu muốn được chết để cứu người mẹ đang bị bệnh nặng của mình- mẹ cậu bé cũng đang trong tình trạng thập tử nhất sinh- để mẹ cậu có thể nhận thận của cậu trong một cuộc phẫu thuật có thể cứu được bà.

Bác sĩ phát hiện có một khối u ác tính trong não Tiểu Thiên khi cậu mới có 5 tuổi. Mặc dù các bác sĩ đã làm hết sức để chiến đấu với nó nhưng cuối cùng họ đành phải nói với cậu bé rằng cậu sẽ không sống qua được tuổi trưởng thành.

Không lâu sau khi phát hiện ra khối u trong não Tiểu Thiên thì mẹ cậu là cô Chu Lộ 34 tuổi mắc phải căn bệnh suy thận nặng nguy hiểm đến tính mạng.

Hai mẹ con đã phải chống chọi với bệnh tật suốt 2 năm cho đến khi Tiểu Thiên nói với mẹ ” Con muốn dành lại cuộc sống cho mẹ”.

Screenshot 2015-07-18 at 10.04.47 AM

Theo báo Daily Mail kể lại lời bà của cậu bé: “Các bác sĩ tìm gặp tôi chứ không phải mẹ thằng bé bởi vì đây là vấn đề rất nhạy cảm”.

Screenshot 2015-07-18 at 10.04.40 AM

“Họ nói với tôi rằng cháu tôi không muốn tiếp tục sống nữa nhưng thận của nó có thể giúp mẹ nó và hai người khác nữa. Tôi nói chuyện với Chu Lộ nhưng con bé gạt phăng đi, nó nhất quyết không muốn nghe bất cứ lời nào về chuyện đó nữa”.

Cậu bé Tiểu Thiên đã nghe được câu chuyện giữa 2 người và đã yêu cầu mẹ cậu cho cậu được ra đi ngay lập tức để mẹ có thể nhận được thận từ cậu. Lúc này cậu bé đã bị mất thị lực và đang ở trong tình trạng nguy kịch. Cuối cùng mẹ cậu đã đồng ý trong ngập tràn nước mắt, cô nói niềm an ủi duy nhất mà cô có là một phần cơ thể của cậu bé được sống cùng cô.

Sau đó Tiểu Thiên được chấp thuận để sớm ra đi, các bác sĩ đã hiến lại cơ quan nội tạng của cậu cho mẹ cậu và 2 người khác nữa.

Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè.