Hoa rừng

Hoa rừng

Ngày trước làm công chức mắc lỗi mới bị đày lên Buôn Ma Thuột. Trường hợp của tôi thì khác. Tôi mới ra trường lại xung phong lên Buôn Ma Thuột làm việc. Nhiều người ngăn cản. Tôi có lý do riêng của mình. Thời còn đi học tôi mê chuyện đường rừng. Tôi có cô bạn hát bài : “Nụ cười sơn cước” rất hay tôi mê bài hát, mê luôn cảnh núi rừng. Tôi chọn lên Buôn Ma thuột để được dịp sống với núi rừng. Tuổi trẻ có những quyết định quan trọng cho cả đời người chỉ dựa vào những lý lẽ hết sức đơn giản, lãng mạn. Quả nhiên sau đó tôi có được nụ cười sơn cước đẹp như một đoá lan rừng và một cuộc tình giống hệt như tiểu thuyết đường rừng. Ngày nay, sau rất nhiều năm mỗi khi hồi tưởng lại kỷ niệm vẫn cảm thấy lâng lâng như trôi trong màn sương ngan ngát hương rừng, rơi la đà trong men rượu cần xanh rờn sắc núi. Song rồi lại cảm thấy hỗ thẹn và bối rối. Chuyện đã nhiều năm mà tưởng như mới hôm qua. Thật là một đoạn đời khó quên.

Khi chiếc xe đò cũ kỹ vừa qua khỏi Dục Mỹ ì ạch bò lên đèo Phượng Hoàng ngoằn ngoèo vắt mình qua mấy sườn núi, cảnh vật hai bên đường đột ngột mở ra một cõi rừng già nhiệt đới u minh trùng điệp. Mới đây cái nắng gay gắt khi đi ngang qua cánh đồng Dục Mỹ chưa dứt, tiếp tới hơi nóng hừng hực con đường nhựa như chảy ra loang loáng dưới ánh mặt trời lúc băng qua căn cứ Lam Sơn, chiếc xe đò nóng lên chẳng khác gì ngồi trong lò, đến đây bỗng nhiên xe như rơi vào biển băng. Những làn gió thổi trong rừng ra đem theo màn sương li ti lùa vào lòng xe, cho hành khách thấy khoẻ hẳn lên. Những cây rừng cổ thụ mọc sát bên đường dây leo như những con rắn khổng lồ quấn quanh chằng chịt. Cheo leo trên sườn núi là những chiếc chòi canh giữ rẫy nhỏ và dễ thương như tổ chim. Còn hoa rừng, hoa rừng nhiều vô số đủ màu sắc ẩn hiện trong lá. Và ơ kìa! Những người thượng (người dân tộc) từ trong sương bất ngờ hiện ra trông hư thực giống như màu sắc tranh lụa nhạt nhoà. Mấy người con gái để vú trần, vai mang gùi, miệng ngậm ống điếu dài. Những người đàn ông đóng khố da nhăn nheo như vỏ cây, vai mang cung tên. Mấy đứa trẻ con đen đúa trần truồng cùng với con chó săn vằn vện như hổ chạy theo sau. Tôi chồm ra khỏi xe ngoái nhìn theo họ. Giữa quang cảnh núi rừng hoang dại đoàn người lầm lũi đi thành một hàng dọc lặng lẽ, bí ẩn khiến cho tôi lên tưởng đến chuyện bùa ngải ma núi. Cảnh tượng thực lạ mắt, trước đây tôi chỉ đọc thấy trong sách rồi tưởng tượng ra. Tôi thấy cảm xúc của mình giống như người phiêu lưu tìm ra nền văn minh mới. Đất nước ta thực kỳ dị, chỉ mới đây thôi còn nhộn nhịp phố phường mà nay lại lọt vào chính giữa khu rừng nhiệt đới hoang vu bạt ngàn.

Về sau tôi được biết Buôn Ma Thuột là xứ sở của mây mù, buổi sáng mây bay tới tận giờng ngủ. Buôn Ma Thuột còn là xứ sở của hoa, hoa có tên và hoa không tên, hoa như cây dại mọc tràn tới thềm nhà. Buôn Ma Thuột còn là sự yếu mềm của lòng mình, muốn yêu, muốn khóc, muốn làm thơ…

Một buổi chiều, lần đầu tiên tôi làm công việc, hỏi cung các tội nhân. Anh Thư ký dẫn vào phòng một lão già người Thượng. Lão già đóng khố, màu da ám khói giống như quả bầu nậm treo giàn bếp, người Thượng dùng để hứng nước suối đội đầu đem về nhà. Lão ta đứng trước mặt tôi nét mặt như như tượng đá, đang chìm đắm vào cõi suy tư thoát tục. Lão điềm nhiên giống như đang ở một mình trong rừng. Hoàn cảnh khó khăn trước mắt không làm xao động nổi con người đặc biệt nầy. Điều đó thực là hiếm có. Ai đứng chỗ này, trước chiếc bàn của ông Dự Thẩm cũng đều run rẩy khiếp sợ. Số phận của họ trong phút chốc sẽ được định đoạt mà thường thường là bi thảm. Còn lão già này, ngược lại hoàn toàn dửng dưng. Hình như lối sống sơ khai của người miền cao tạo nên cho họ một tâm tính mộc mạc hồn nhiên, họ không lo lắng, không tự dằn vặt hành hạ mình, nhờ thế họ vượt qua dễ dàng những thử thách tinh thần kiểu nầy. Trong khi đó người Kinh nhất người giàu có hoặc có vai vế trong xã hội chỉ cần bỏ tù vài ngày, tinh thần thể xác họ suy sụp hoàn toàn.

Tôi hỏi, lão lắc đầu. Tôi lại hỏi, lão lại lắc đầu. Nhiều lần như thế tôi bối rối. Thế này làm sao hỏi cung ? Có lẽ đây là lần đầu tiên ở phòng Dự Thẩm tội nhân không sợ sệt chỉ có ông Dự Thẩm bối rối. Tôi chưa biết xử trí ra sao, ông lục sự ngồi giúp tôi trong việc chép lời khai nói

– Thưa ông dự thẩm, để tôi đi gọi Hơ Ly Êban.

Lần đầu tiên tôi nghe tới tên nầy. Số phận đã đưa đẩy Hơ Ly Êban đi vào đời tôi kể từ buổi chiều hôm đó. Hơ Ly là đoá hoa rừng, là quà tặng của xứ được mệnh danh là “Buồn muôn thuở”, một thứ trái cây dại vừa ngọt ngào vừa đắng chát, một sự hoà trộn tuyệt vời giữa hạnh phúc và khổ đau…

Lúc đó Hơ Ly khoảng hai mươi tuổi. Nàng là gái dân tộc Êđê, nếu cô ta có một vẻ đẹp như gái người Kinh thì tôi không kể làm gì, đàng này đó là một cô gái dân tộc Êđê có nguồn gốc chủng tộc Indonesien rất rõ, thể hiện ở vóc dáng, màu da, khuôn mặt. Nước da nàng ngâm ngâm một màu nâu vàng đất sét pha hồng của loại đất badan giàu chất sắt. Mái tóc nàng rậm đen đến độ xanh ánh lên như thép. Hai hố mắt nàng rất sâu chứa đầy bóng tối làm cho cái nhìn trở nên mềm như bông. Hai hàng mi cong cứng và cặp lông mày rậm là nét đặc trưng rất rõ của chủng tộc nàng. Khuôn mặt cô ấy vuông vức kiểu mặt chữ điền, tuy xương hàm hơi thô, ngược lại đôi môi nàng có một vẻ dịu dàng với làn da mỏng tanh, khô khô một vài vết nứt rạn li ti màu hồng nhạt như cánh hoa rừng, trông thấy thì muốn hôn. Cô ta thường mặc váy đen, áo sơ mi nhiều màu. Những ngày lễ lạc nàng mặc loại váy đặc biệt may bằng thứ vải đen dệt theo lối thủ công có nhiều đường chỉ màu sặc sỡ. Tôi không thấy Hơ Ly dùng son phấn bao giờ.

Hơ Ly nói tiếng Việt và tiếng Pháp lưu loát. Lúc trước nàng học trường Dòng vơi các Xơ. Hơ Ly làm thông ngôn cho Toà án. Thời đó người Thượng có toà án riêng gọi là toà án sắc tộc xét xử các vấn đề dân sự như tài sản, gia đình, căn cứ theo tập quán tục lệ mà kết quả thường là phạt trâu, phạt chiêng hoặc phạt ché là một loại lọ lớn dùng để ủ rượu cần. Riêng các tội thuộc về hình sự họ phải ra toà án thường. Hơ Ly là cây cầu ngôn ngữ bắt từ những người đồng chủng của nàng tới chúng tôi. Ban đầu tôi nghĩ Hơ Ly là người Eđê làm thông ngôn thì chẳng khó khăn gì. Sau khi hiểu rõ tôi biết sự việc không phải đơn giản như thế. Không phái bất cứ người Eđê nào cũng làm được. Hơ Ly biết gần bốn mươi thổ ngữ. Thực là một khả năng ngôn ngữ hiếm có. Tôi hỏi về chuyện này Hơ Ly nói :

– Ngoài tiếng Êđê ra còn nhiều thứ ngôn ngữ khác như Gia Rai, Sê Đăng, M’ Nông… Tuy cũng là người Êđê nhưng có khi làng nầy cách làng kia chỉ có một con suối nói vẫn không hiểu nhau được.

Tôi hỏi :

– Làm sao em học được nhiều thế ?

– Ngôn ngữ người dân tộc rất đơn giản. Cái gì họ có thì mới có tên gọi. Ví dụ trong cuộc sống giữa núi rừng làm gì có cái chợ, nên không có danh từ chợ. Họ nói “Nao sang chơ ” có nghĩa là đi sang chợ. Họ chỉ có Một chữ “Nao” là đi mà thôi. Cuộc sống thô sơ nên ngôn ngữ cũng hạn hẹp.

Cô ấy độc quyền trong việc nói năng. Cô ta thông ngôn đúng hay sai chẳng ai biết. Cho tới bây giờ tôi cũng không biết cô gái đẹp người Êđê nầy có lần nào tự ý giúp cho những người đồng chủng của nàng hay không ? Có nhiều lúc tôi chỉ nghe tội nhân ấp úng một vài lời nhưng Hơ Ly dịch thành một câu dài với mục đích biện bạch cho được sự vô tội. Nếu có thế thì vẫn tốt. Tôi xưa nay thường thích người yêu quê hương yêu đồng bào mình .

Sau giờ làm việc tôi thường giữ Hơ Ly lại trong văn phòng bắt nàng kể về phong tục tập quán người Tây Nguyên. Tôi hỏi vì sao người Thượng không bao giờ đi hàng ngang hoặc sánh vai bên nhau trên đường phố, dù là hai người thân cũng người trước người sau, còn đông người thì luôn luôn đi thành một hàng dọc. Hơ Ly giải thích :”Từ bao đời nay, người Sơn cước đi trên những con đường mòn trong rừng làm sao sánh đôi sánh ba cho được. Thói quen nầy ăn sâu trong mỗi người”. Hơ Ly kể nhiều truyền thuyết về núi rừng, mãnh thú, lửa, hoa và nhất là tình yêu trai gái. Chính Hơ Ly dạy cho tôi tiếng Êđê, trong đó có câu “anh yêu em”. Và tôi đã ứng dụng ngay bài học vỡ lòng nầy với người thầy của mình. Hơ Ly trả lời bằng một tràng tiếng Thượng, tôi không hiểu gì cả, rồi nàng cười . Ôi! Giọng cười của nàng vui như tiếng chim, xanh như lá mới, ngọt như trái rừng, reo vang như suối đỗ. Tôi nhớ bài “Nụ cười sơn cước” có đoạn :

…Một chiếc khăn màu trắng trong
Một chiếc vòng sáng long lanh
Với nụ cười nàng quá xinh…

Đúng là nụ cười của Hơ Ly. Tình yêu của tôi lớn nhanh như cỏ dại mùa mưa. Chúng tôi rong chơi với nhau trong rừng. Hơ Ly không bao giờ chịu đi dạo phố phường, đi ăn hay đi xem xinê. Tôi hỏi, nàng nói :”Kao khắp kley Hơ dip phung cư chang!” có nghĩa là em chỉ yêu thích thiên nhiên thôi.

Buôn Ma Thuột vào những năm đầu thập niên sáu mươi là một thành phố kỳ dị. Thiên nhiên xanh rờn mạnh mẽ lấn át phố phường. Từ trên máy bay nhìn xuống chỉ thấy một màu xanh ngút ngàn, con đường như sợi chỉ đỏ chạy quanh co. trong thành phố, có nhiều nơi bên này đường là phố xá, bên kia đã là rừng già nhiệt đới áp sát. Rừng thực là môi trường tốt cho những cặp tình nhân sung sức như chúng tôi. Tôi lái xe chở nàng chạy càn lên rừng hướng dương. Nhìn lại phía sau vết xe làm cho cây cối ngã rạp xuống thành một lối đi. Lần đó chúng tôi dừng lại bên suối. Thật là một nơi lý tưởng cho những cuộc tình hoang dại.

Giữa khu rừng vắng vẻ làm cho sự e dè ngượng ngập xâm chiếm cả hai chúng tôi. Chúng tôi ngồi bên nhau chẳng biết nói gì.. Hình như những ý tưởng riêng tư làm vấn đục tâm hồn. Hơ Ly để bàn tay nằm yên trên lớp cỏ xanh. Sau này tôi có làm bài thơ “Bàn tay trên cỏ” trong đó có câu :

Yêu nhau trên cỏ lá xanh mang về.

Sở dĩ có câu thơ trên vì có lần Hơ Ly nói lúc trở về nhà thay áo nàng thấy một mảnh lá cỏ xanh dính ở vú. Nàng cất nó trong chiếc phong bì làm kỷ niệm. Mấy ngón tay nàng nho nhỏ giống bàn tay trẻ con để yên hồi lâu. Tôi đặt tay lên, tay Hơ Ly lạnh, nàng hơi kéo tay lại. Tôi nắm chặt, nàng hơi vùng vẫy. Tôi giữ chặt hơn, Hơ Ly để yên. Đôi mắt nàng mơ màng nhìn về hướng núi đang chìm dần trong sương, nhưng có lẽ tất cả tâm trí nàng lắng nghe sự rung động của da thịt, cảm giác đụng chạm với người con trai Kinh. Tôi ôm nàng và hôn, Hơ Ly chẳng kháng cự gì cả. Nàng hoàn toàn thụ động.Trong khi hôn hàng mi dài của nàng chớp chớp chạm vào da mặt tôi, hàng mi cong và cứng một cách tự nhiên mà những cô gái Việt rất muốn, họ phải chải sáp hoặc mang lông mi giả. Tôi biết trong khi hôn nàng mở cặp mắt to ra nhìn ngạc nhiên sững sờ. Đó có lẽ là nụ hôn đầu tiên trong đời cô gái nầy. Nàng cuống quít nhưng chẳng biết làm gì. Cái hôn gây cho nàng sự lạ lẫm hơn là thú vị. Nên nhớ đây là một cô gái văn minh, có học, nói tiếng Tây như đầm, nhưng trong việc yêu đương cái bản năng hoang sơ vẫn còn ngự trị mạnh mẽ làm cho cô cảm thấy xa lạ lo âu, hôn xong cô ta mở đôi mắt thao láo ra mà nhìn. Tôi luồn tay vào trong áo nàng. Như mọi cô gái Thượng khác Hơ Ly không mặc nịt vú.Cặp vú tròn ấm áp của cảm giác trơn láng và rắn như trái rừng chín tới là tiêu biểu của bộ ngực gái miền sơn cước. Hơ Ly để yên cho tôi tha hồ sờ mó. Nhưng đến khi tôi muốn đi xa thêm một bước nữa thì nàng phản ứng kịch liệt. Nàng nói :”Không được. Phải có cha mẹ, có làng chứng kiến!” Tôi đòi nữa thì nàng nói :”Ở nơi đây không được, rừng cấm !” Tôi cứ đòi. Hơ Ly nói :”Thần núi phạt đó!” . Tôi hỏi phạt làm sao ? Hơ Ly nói :

– Sinh con ra có đuôi như đuôi con khỉ!

Tôi biết đây là cách của mấy người già bày đặt ra để doạ bọn con gái .

Những năm đầu thập kỷ sáu mươi Buôn Ma Thuột là một thành phố nhỏ chỉ có mấy đường phố. Người Kinh lên đây chưa nhiều. Những người làm nghề khai thác gỗ là giàu, người Pháp lập đồn điền cà phê đã lâu, người Hoa buôn bán. Cả phố chỉ có một rạp xi nê Lô đô. Có nhiều người đi buôn Thượng, thường là đổi chác, ít khi dùng tiền. Người ta đem muối, cồng, chiêng, ché và hạt cườm xanh đỏ đổi lấy lợn gà, ngà, xương hổ. Có một số y tá vào các buôn chữa bệnh sốt rét tiền thuốc cũng trả bằng thổ sản. Người Thượng rất thích tiền giấy mới. Có tiền mới thì bao nhiêu cũng bán. Phụ nữ thường mặc váy đen để mình trần. Họ đi ra chợ từng đoàn ẩn hiện trong sương sớm lạnh buốt. Món hàng quen thuộc là nhưng quả mướp khô chỉ còn lại xơ dùng để chùi xoon nồi. Thời gian này xã hội còn rất đơn giản cho nên mặc dù giữ trọng trách tôi vẫn có nhiều thời gian rỗi. Tôi thường vào rừng săn bắn. Tiếng là đi săn bắn nhưng tôi thường kiếm nơi thanh vắng, tìm gốc cây ôm súng ngả lưng đắm chìm vào cõi mộng mơ. Tôi đem giấy bút viết thư, làm thơ cho Hơ Ly. Những vần thơ này trước khi tới tay Hơ Ly nó đã làm cho người viết ra nó tan ra trong niềm hạnh phúc, thăng hoa thành thứ hơi núi màu lam mờ mờ vương vấn trong rừng cây. Có những bức thư trường giang đại hải viết về tình yêu hai người, kể lể về những lần gặp gỡ, và kể lại một cách tỉ mỉ về cảm giác của tôi khi chung đụng nàng. Khi viết lách về tình yêu người ta thường phóng đại sự việc lớn hơn nhiều lần, tôi cũng không tránh khỏi nhược điểm này. Vả lại tình yêu giữa chúng tôi đã tới thời kỳ chín muồi, có những điều thầm kín cần ghi lại và giữ riêng cho nhau. Tôi nghĩ nếu đó là một cô gái người Kinh chắc tôi không bạo dạn và tiến nhanh như thế trong tình trường. Đây là một bông hoa của rừng thẳm hoang dại nguyên sơ tôi cũng theo lối man rợ, yêu không kiểu cách, càn rỡ. Khi gặp nhau trong rừng Hơ Ly rất ít nói. Nàng thường ngồi yên để cho tôi tha hồ mặc sức hành động. Cô ấy chỉ mở cặp mắt to tròn ngơ ngác nhìn tôi một cách tò mò. Nàng buông thỏng hai tay, không một cử chỉ đáp ứng ngoài sự tò mò về những nụ hôn .

Một lần tôi theo Hơ Ly về buôn. Buôn của nàng gần thành phố, thuộc hạng giàu và văn minh. Gia đình nàng lại giàu nhất trong buôn. Cha nàng là người có uy tín trong bộ tộc Êđê và ngoài ra còn có danh tiếng trong giới cầm quyền người Kinh. Đây là lần đầu tiên tôi bước vào một ngôi nhà sàn. Tôi khó nhọc leo lên mấy bậc thang làm thân cây đẽo thành những chỗ để đặt bàn chân. Trong chiếc nhà sàn rất dài có nhiều gia đình. Hình như họ sống theo lối quần cư, nhiều gia đình sống chung trong một ngôi nhà. Bên dưới nuôi gia súc. Họ nuôi theo lối thả rông. Mấy con lợn nái bụng sà tới đất, hàng vú quét trên cỏ đang dẫn bầy con ăn một cành lá rừng. Tôi không biết đó là thứ cây gì, thật là một lối chăn nuôi đơn giản. Còn dê và gà thì nhiều vô số. Mấy con dê mới sinh màu lông chỗ trắng chỗ đen trông rất dễ thương.

Trong khi tôi con bỡ ngỡ thì lạ quá mọi người ở đây dường như đã biết tôi rất rõ . Không cần Hơ Ly giới thiệu họ biết rõ tên tuổi chức vụ của tôi. Mọi người gặp tôi đều chào hỏi niềm nở rồi lại cưòi, một cách cười hóm hỉnh. Lúc đó tôi chưa hiểu gì cả, nhưng chỉ năm phút sau vỡ lẽ. Trời ơi tôi chỉ có nước độn thổ !

Tôi thấy chỗ Hơ Ly ở rải rác đó đấy trên sàn nhà bằng cây nứa đập dập sánh lên láng bóng do con người qua lại nhiều lần là những lá thư và những bài thơ tôigởi cho nàng. Tôi cầm một tờ giấy lên xem, toàn là chữ nghĩa của tôi. Tôi hoảng hồn vì những diều tôi viết cho Hơ Ly là những bí mật của đôi trai gái. Mấy cô gái khác chẳng cần bảo họ cũng cất giấu loại bảo vật này, còn Hơ Ly lại đem thứ văn chương ái tình chia sẻ với mọi người. Tôi không làm sao hiểu nổi đoá hoa rừng này lại dám đem những chuyện riêng tư của mình ra kể cho cả làng nghe. Mấy lá thư đều nhàu, tôi chắc nàng đã đem nó ra đọc và dịch nhiều lần. Tới lúc này tôi mới hiểu vì sao mới gặp lần đầu mà mọi người ở chỗ thâm sơn cùng cốc này lại biết rõ tôi đến thế.

Tôi ngượng nghịu vô cùng chỉ muốn ra về liền. Hơ Ly tiễn tôi ra xe, tôi giận nàng lắm không nói một lời. Xe chạy hồi lâu tôi cũng nguôi ngoai dần. Tôi tự an ủi : Thôi cô ta đem chuyện ra kể cho mấy người trong cái làng Thượng hẻo lánh này cũng chẳng sao, ai ngờ sự việc không dừng lại ở đó. Mấy hôm sau tôi thấy các cô ở trong toà án tụm năm tụm ba lại đọc. Họ thấy tôi đi qua thì giấu, len lén đưa mắt nhìn trộm tôi rồi cười ruc rích. Thôi đích thị Hơ Ly lấy thư của tôi cho mấy người này xem rồi. Đọc xong mấy cô chuyển cho mấy cậu nhân viên xem. Mấy cậu này xem xong đưa cho ông chánh lục sự già xem, ông này trao lại cho ông chánh án thưởng thức thứ văn chương ái tình của tôi. Thực là những bức thư tình ướt át mùi mẫn có đôi chỗ pha thứ văn chương phòng the đồi truỵ. Khổ nhất là thời đó tuy tôi mới hơn hai mươi tuổi đã là một ông quan toà, đi dến đâu người ta cũng thưa bẩm. Một vị thẩm phán cầm cân nẩy mực giữ địa vị cao nhất nhì trong tỉnh lại làm cái chuyện lạ đời là viết thư tình cho một người con gái Thượng. Tôi chắc rồi đây thế nào cả cái thị xã Buôn Ma Thuột này cũng sẽ rõ chuyện. Cũng may không lọt về Bộ nếu không thì sự nghiệp của tôi cũng tan theo gió ngàn Buôn Ma Thuột .

Tôi gặp Hơ Ly trách :

– Tại sao em lại đem thư đọc cho cả làng nghe lại còn đem đến chốn công đường cho người ta xem ?

Không một chút ấp úng, Hơ Ly đáp :

– Ơ, anh viết hay quá mà, em đọc một mình nhiều lần rồi, phải cho người khác xem với chớ!

– Chuyện riêng tư ai lại cho người khác biết ?

– Cho người khác biết chớ, hề chi .

– Em không biết xấu hổ sao ?

– Chyện gì lại xấu hổ ?

– Chuyện kín của hai người mà .

– Chuyện đó có gì kín đâu? Trai gái ai lại không làm ?

Trước lời lẽ mộc mạc hồn nhiên của cô gái miền cao như thế này tôi làm sao trách cứ nàng cho được. Tôi chỉ biết trách mình đã không tìm hiểu đúng mức phong tục người miền núi mà đã dám yêu đương người ta. Thật đáng đời !

Sau đó hỏi chuyện một già làng tôi mới hiểu tâm tính khác thường của những cô gái miền Thượng du. Lão này nghe tôi hỏi thì trầm ngâm thả thứ khói thuốc mùi hăng hắc từ chiếc ống điếu làm bằng một lóng trúc dài với cái vỏ trái rừng khô. Lão ta dùng thứ tiếng lơ lớ giảng giải cho tôi hiểu đại khái rằng, người Êđê theo chế độ mẫu hệ, người nữ có quyền định đoạt mọi việc kể cả việc chọn người nào làm chồng. Con gái Thượng được kẻ nào yêu thương, nếu họ cũng thích người đó nữa thì họ sung sướng lắm. Họ thường đem chuyện yêu đương giữa hai người kể cho nhiều người khác biết để chung vui với họ. Ai ân giữa đôi trai gái là điều thiiêng liêng, tự nhiên, sạch sẽ như con chim con thú, không cần giấu diếm. Nhưng đem nhau vào rừng làm chuyện này thì họ kiêng cử lắm. Làng bắt được thì phạt vạ. Ông lão nói :

– Cái con mái quí lắm! Con gà mái, con heo nái, con chó cái đổi hai ba con đực người Thượng không đổi đâu. Con gái đi cưới chồng. “Bắt cái chồng” không mắc cỡ đâu!

Thời gian sau không hiểu vì sao Hơ Ly tìm cách tránh tôi. Mỗi lần thông dịch xong nàng tất tả đi ngay. Tôi tìm gặp hỏi chuyện, nàng nói :

– Thôi, không được đâu, không gặp nữa, không chơi nữa!

Tôi nói liều :

– “Bắt cái anh” về làm chồng đi !

Hơ Ly cười nói :

– Bắt không được đâu.

– Tại sao?

– Cha mẹ anh đòi nhiều lắm .

Tôi nói :

– Không đòi trâu dê cồng chiêng đâu. Cho em luôn, cho không, không đòi gì cả, cho luôn trái tim…

Hơ Ly lại cười. Ôi ! Nụ cười sơn cước chính hiệu một trăm phần trăm. Trong tôi trào dâng tình yêu nóng rực, tôi chồm tới ôm nàng vào lòng. Hơ Ly vùng vẫy kịch liệt. Tôi bắt chước mấy thằng tù, mấy tên lính nói càn một cách thô tục :

– Cho anh “bắt cái nước” (làm tình) đi !

– Không được, nói bậy! Người tử tế không được nói bậy. Không lấy nhau làm vợ chồng được đâu. Không lấy anh đâu. Không ngủ với nhau được đâu!

Tôi hỏi :

– Tại sao ?

– Không đẻ con ra tốt đâu…

Tôi kinh ngạc hỏi :”Tại sao?” Hơ Ly thì thầm như tiết lộ một điều bí mật huyền hoặc:”Trong buôn của em có chị Hơ Ring lấy anh lính người Kinh ở trung đoàn 45. Con đẻ ra chỗ trắng chỗ đen giống như con chó vá!”. Tôi lại hỏi :”Em có thấy không ?” Hơ Ly nói :” Không. Em nghe mấy người già trong làng nói. Họ không cho em cưới anh!”. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao Hơ Ly lánh mặt tôi. Tôi nói :

– Họ nói bậy, không đúng đâu.

– Đúng mà, người già nói đúng mà !

– Tại sao em biết đúng ?

– Biết chớ. Rồi Hơ Ly kể cho tôi nghe:”Trong nhà em có nuôi con heo cái giống trắng. Tới thời kỳ, nó chạy vô rừng lấy con heo rừng. Con nó đẻ ra loang lổ. Mình lấy nhau con đẻ ra cũng như con heo lang!

Trời ơi cô gái cao nguyên này nghiên cứu cả sinh học. Lý lẽ nàng thực là hùng hồn, trắng đen lấy nhau con sinh ra chỗ trắng chỗ đen. Tôi biết đây là cách của mấy già làng nói doạ Hơ Ly. Tôi hỏi :

– Em không cưới anh thiệt sao ?

– Thiệt! Buồn lắm nhưng không cưới anh đâu. Không cưới ai hết. Sống như cái cây trong rừng vàng lá cành khô già đi rồi chết…

Lần này Hơ Ly ôm lấy tôi hôn rối rít vừa hôn vừa khóc. Không như những lần trước mở mắt ra nhìn, lần này nàng nhắm nghiền hai con mắt lại đẩy nước mắt ra ràn rụa chảy xuống đôi môi hai người làm cho cái hôn mặn chát…

Năm sau đó tôi đi khỏi Buôn Ma Thuột. Tôi về làm việc ở Huế rồi Quảng Ngãi. Được vài năm thì tôi xin thôi. Tôi chẳng có cái duyên mà cũng chẳng hợp với nghề xét xử con người. Từ đó tôi không còn biết tin tức gì của Hơ Ly. Tôi luôn luôn mong cho nàng có một cuộc sống tốt đẹp. Người như nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trong tình yêu.

Quý Thể

Bé Biển

​​Bé Biển

Những con người tử tế.(chuyện có thật)

Trên tường, lẫn trong nhiều bức hình rất đẹp được chụp từ một ống kính chuyên nghiệp là tấm hình của chiếc ghe mong manh, nhỏ bé, bồng bềnh trên đại dương. Trên khoang ghe, các thuyền nhân Việt Nam (những boat people đã đánh động lương tâm thế giới vào những năm 70s và 80s) mặt mày ngơ ngác mệt mỏi nhưng mắt sáng lên hy vọng. Đó là món quà tặng cho BS HQM từ một thuyền nhân cùng tàu vượt biển năm xưa.

blank

Ảnh con thuyền vượt biển đó vị thuyền trưởng một tàu buôn của chụp trước khi đón mọi người lên tàu. BS. Vinh đứng ở mũi thuyền, tay cầm một thùng rỗng để xin nước từ con tàu gặp giữa Thái Bình Dương JUN 1979.

Mọi người trên ghe gọi em là “công dân của đại dương” vì em sinh ra giữa biển trời mênh mông, không thuộc hải phận của quốc gia nào, vào một đêm trời chuyển mưa, trời không trăng sao, lâu lâu có những tia chớp lóe lên soi sáng đêm đen.

Chiếc ghe rời cửa biển Long Hải lúc nửa đêm về sáng để tránh công an biên phòng, đưa gần bảy mươi thuyền nhân trốn khỏi quê cha đất tổ, đem sinh mạng mình đánh cuộc với định mệnh để tìm tự do và tương lai. Trong số đó có hai vợ chồng trẻ, người vợ ốm yếu mảnh mai, lại mang thai lần đầu, mặc hai ba lớp áo quần nên hinh như không ai biết chị có thai đã bảy tháng, ngoài anh chồng trẻ cũng mảnh khảnh như chị.

Mà nếu có biết cũng chẳng ai còn tâm trí nào để nghĩ đến chuyện người khác khi trong lòng mình cũng “ngổn ngang trăm mối”. mà mối lo lớn nhất là có thể bị bắt lại, bị nhục hình, bị tù tội trong khi mình không có tội gì hết, chỉ bỏ xứ ra đi, bỏ ông bà cha mẹ, bỏ tất cả ra đi vì muốn có tự do.

Vừa đặt chân lên sàn ghe, tất cả mọi người đều được đưa xuống lòng ghe để bảo đảm an toàn. Nếu có bất cứ ghe tàu nào đi ngang, nhìn vào người ta chỉ thấy trên khoang ghe có vài ngư phủ đi thả lưới ban đêm để có được một ít cá tôm tươi cho vợ hoặc mẹ mang ra bán ở buổi chợ sáng ngày mai. Nhất là vào ban đêm, ánh đèn bão tù mù, vàng úa giúp những người đang trốn chạy khỏi quê hương che được nét ưu tư lo lắng.

Phía dưới lòng tàu, thông thường chỉ để lưới, xăng dầu, thức ăn của ngư phủ, mấy thùng nước ngọt, và mấy thùng đựng cá tôm lưới được vào những hôm ra khơi nhiều may mắn. Vậy mà bây giờ gần bảy mươi con người ngồi chen chúc, không khí đã thiếu lại càng ngột ngạt hơn khi rất nhiều người bị say sóng ói mửa ngay trên sàn tàu, trên áo quần của mình hay của người ngồi bên cạnh. Không ai nói với ai tiếng nào. Khi ghe chưa ra đến hải phận quốc tế, người ta chưa sợ chết vì đại dương bao la, vì thiếu nước ngọt, thiếu thức ăn, mà đích đến thì còn ở xa mù tít tắp, nhưng nỗi sợ bị công an biên phòng bắt được thì tù tội, nhục hình cũng kinh hoàng như nỗi chết. Nỗi sợ đó lớn quá, bao trùm lên mọi thứ, át đi sự ngột ngạt trong một hầm ghe quá tải, át đi mùi của mọi thứ trong bụng chưa kịp tiêu hóa chạy ngược lên miệng chạy ra ngoài. Khi thức ăn đã ra hết, cả đến mật xanh cũng chạy ra, người ta mệt nhoài, không còn sức để sợ bị bắt lại, không còn sức để cảm nhận được không khí ngột ngạt, nặng mùi chung quanh mình. Ở một góc ghe, người đàn bà trẻ đang mang thai lại tỉnh táo hơn mọi người, hơn cả ông chồng cũng vật vờ say sóng, nôn mửa như hầu hết mọi người trên ghe. Lòng ghe tối đen, không ánh sáng, không cả tiếng động, thời gian tưởng như ngưng lại. Lâu lâu có một chút ánh sáng xanh yếu ớt từ cái đồng hồ đeo tay có dạ quang của ai đó. Đêm dài và sâu hơn với những người đang trốn chạy khỏi quê hương.

Vào đêm thứ nhì của cuộc trốn chạy bằng đường biển, người đàn bà đang mang thai chợt thấy đau nhói ở bụng. Đây là con đầu lòng, chị không có kinh nghiệm về chuyện sinh đẻ. Trong bóng tối đặc quánh trong lòng chiếc ghe mong manh chật như nêm, một tay nắm tay chồng, một tay chị chị nhẩm tính trên những ngón tay xem mình đã có thai bao nhiêu tháng.

*

Họ lấy nhau tháng chín năm ngoái, sau mười lăm tháng quen nhau ở vùng kinh tế mới Đồng Bò, ngoại ô Nha Trang. Chị cố quay lại khúc phim tình yêu lãng mạn của anh chị để quên đi nỗi đau âm ỉ trong bụng. Tình yêu trên vùng đất khô cằn, -ngay cả hoa dại cũng không mọc nổi, không trồng được gì hết ngoài khoai mì, – nhưng rất chân thành, sâu đậm vì đó là tình đầu của cả anh và chị. Họ lấy nhau, không có đám cưới bình thường, chỉ có một lễ ra mắt hai bên họ hàng (cũng chỉ lưa thưa mấy người đàn bà vì đàn ông dạo đó hầu hết đã ở trong lao tù cải tạo vì “tội ngụy quân ngụy quyền”) bằng một mâm cơm… trắng (không bị độn khoai sắn như bữa ăn thuờng ngày của người dân kinh tế mới) và vài món ngon như nem, chả được gởi mua từ chợ Đầm ở Nha Trang. Hôn thú cũng chưa làm vì “ủy ban nhân dân xã kinh tế mới” vừa thành hình, chưa có con dấu. Về nơi ở cũ thì bị từ chối vì “hộ khầu đã bị cắt”. Nhưng gia đình vẫn cho họ lấy nhau, vì “phải nương nhau mà sống, không phải ở cái vùng kinh tế mới hoang vu này, mà sau này, đi đâu cũng nương tựa vào nhau….”. Mẹ chị đã căn dặn anh chị như vậy ở một lễ cưới dã chiến, không có khăn áo, không có make up, và không có cả họ hàng, quan khách. Mấy miếng chả heo màu trắng – chắc là tỉ lệ thịt và bột ngang nhau -, mấy miếng nem hồng nhạt dành cho hai đứa em chưa đến tuổi đi học, lần đầu tiên trong đời được nếm mùi nem chả. Anh chị nhường nem chả cho các em, ăn cơm với canh rau muống, sau khi đã ăn mấy lát gừng mỏng chấm muối như phong tục ngàn xưa “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”.

Hơn nửa năm sau ngày cưới, một lần về Nha Trang mua hạt giống, anh gặp một người lính hải quân làm dưới quyền ba anh ngày xưa. Thương anh cựu sinh viên Khoa học thư sinh kính trắng phải cày sâu cuốc bẩm nuôi mẹ, nuôi em khi ba ở trong tù cải tạo, người lính hải quân sắp lái một chuyến tàu vượt biển, được chủ ghe cho mang theo cả gia đình, cho anh và chị đi theo.

*

Bụng chị vẫn đau, chị ước gì mình bị say sóng ngủ vùi, hoặc lã đi vì mệt như anh, như tất cả mọi người trong lòng ghe. Nhưng cơn đau vẫn chẳng chịu đi, lúc âm ỉ, lúc nhói lên, chị xanh mặt, vả mồ hôi chịu đựng, tự nhủ trong đầu:

– Không sao, đau một chút rồi sẽ hết. Mình chưa đẻ đâu, đến hôm nay nhiều lắm là 29 tuần, ít nhất cũng cả tháng nữa mới sinh.

Hết tự bảo mình, chị cúi xuống rờ tay lên bụng, thì thầm trong bóng tối:

– Con ơi, nằm yên nha, để đến trại tỵ nạn rồi hãy ra nghe con, an toàn hơn cho cả con và mẹ.

Cơn đau chỉ lắng xuống một vài giây, rồi lại nhói lên quặn đau mỗi lúc một nhiều hơn. Chịu không nổi, chị đành lay vai anh:

– Anh ơi anh, chắc em đang chuyển bụng đẻ.

Đang vật vờ say sóng, nghe vợ sắp sinh, anh tỉnh hẳn, mở mắt nhìn quanh, rồi hỏi chung quanh:

– Có ai biết đở đẻ không? Xin giúp vợ tôi.

Câu hỏi làm mọi người trong cái khoang ghe tối đen, ngột ngạt tỉnh hẳn lên. Giữa lúc mọi người đang vượt đại dương, có một phụ nữ trẻ sắp “vượt cạn”. Có ai đó thò đầu lên khỏi hầm ghe, hỏi xin một ánh đèn cho sản phụ.

May là ông chủ ghe cũng thuộc loại người nhân từ, và ghe đã ra đến hải phận quốc tế, nên chị được đưa lên khoang ghe. Anh cũng được đi theo cùng chị. Họ tỉnh hẳn ra khi ra khỏi hầm ghe, được hít thở không khí trong lành của đại dương, cũng là không khí của tự do mặc dù đích đến còn ở xa, xa lắm. Chị thấy khỏe hơn mặc dù cơn đau vẫn không dứt, quặn lên từng cơn.

*

Vinh cũng được rời khỏi hầm ghe, lên sàn tàu cùng với anh chị vì Vinh là bác sĩ duy nhất trên chuyến ghe vượt biển đêm đó. Trời tối đen, Vinh cũng không biết lúc đó là mấy giờ, cái đồng hồ đeo tay đã rớt mất từ lúc nào. Dù đã từng làm việc đở đẻ từ cuối năm thứ tư y khoa trong ca thực tập đầu tiên ở bệnh viện Từ Dũ. Và từ đó đến giờ, dù không chuyên về sản khoa, Vinh cũng đã có dịp trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc trong những trường hợp sinh thường, cũng như sinh khó, phải xoay đầu hài nhi từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, phải mổ để đem con ra khỏi bụng mẹ. Nhưng lần này giữa đại dương, trời tối đen, trên sàn tàu bằng ván lồi lõm còn mùi tanh của tôm cá, chỉ có một ngọn đèn bão tù mù mà người tài công tốt bụng đã cho mượn, không có thuốc khử trùng, không có alcohols, cũng chẳng có bông băng, hay bất kỳ một dụng cụ y khoa nào. Sản phụ lại sinh lần đầu, và Vinh không có một chi tiết nào về hồ sơ bệnh lý của chị. Chưa bao giờ Vinh tưởng tượng mình phải làm công việc tưởng như đơn giản nhưng cả hai sinh mạng đều đặt trong tay Vinh trong một đêm trời tối đen trên sàn một chiếc ghe vượt biển. Mọi thứ đều làm bằng tay, không có cả găng tay, phương tiện còn hạn chế hơn dụng cụ thô sơ của một cô mụ đỡ đẻ ở nhà quê từ nhiều thập niên trước Dưới ánh đèn bão tù mù, phải mất gần một tiếng, từ việc xoay đầu em bé đến việc cắt cuốn rốn, em bé sinh ra đỏ hỏn, sớm hơn kỳ hạn bình thường một tháng nhưng khỏe mạnh. May mắn là sản phụ dù xanh xao, yếu ớt nhưng rất can trường, đã dùng hết sức bình sinh để đẩy được em bé ra ngoài từ cửa tử cung hẹp của một người sinh con lần đầu. Gió của đại dương nhanh chóng làm khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt của Vinh, của anh, và nhất là của chị, sản phụ can đảm nhất nhì thế giới, đã vừa vượt biển, vừa “vượt cạn” lần đầu, không có thuốc tê, không có thuốc mê, không có cả bông băng, nhưng chị không hề rên la, chỉ cắn chặt môi đến rướm máu chịu đựng. Nếu chị không tự đẩy em bé ra được, Vinh cũng không biết mình phải làm gì trong tình trạng không thuốc men, không dụng cụ. Mãi về sau, sau này, sau nhiều năm hành nghề Y khoa ở Mỹ, có dịp chẩn đoán, điều trị cho rất nhiều bịnh nhân thuộc nhiều chủng tộc, nhiều lứa tuổi khác nhau, chị vẫn là bệnh nhân can đảm nhất của Vinh.

Anh đứng bên cạnh là một chỗ dựa tinh thần cho chị, và một phụ tá đắc lực cho Vinh. Người chồng sắp được làm cha, lại vô tình trở thành y tá bất đắc dĩ phụ việc cho Vinh trong một ca đỡ đẻ rất khác thường trên một chuyến tàu vượt biển. Em bé gái mới ra đời được tắm bằng nước biển Đông, được cắt nhau bằng đầu móng tay cái và móng tay trỏ của Vinh. Những đầu móng tay Vinh bắt đầu để dài từ lúc bắt đầu chơi guitar với sự hướng dẫn của một ông thầy dạy môn Nhạc từ những năm đầu Trung học, không ngờ lại được dùng rất có hiệu quả trong trường hợp hy hữu giữa biển khơi. Không có alcohol để tẩy trùng, Vinh đến bên mạn thuyền, múc nước biển lên rửa tay. Muối của đại dương cũng ít nhiều sát trùng những đầu ngón tay của Vinh trước khi Vinh cắt cuốn rún của em bé sơ sinh.

Em được bọc bằng hai lớp áo, lớp trong là cái áo thun của cha, lớp ngoài là cái áo khoác của mẹ. Tiếng khóc đầu tiên của em, của mầm sống mới đem lại nụ cười cho Vinh, cho anh và chị, và hy vọng cho một đời sống mới tự do, tốt đẹp hơn cho mọi người trên ghe. Em ra đời an lành giữa biển Đông, sớm hơn thời hạn bình thường (9 tháng 10 ngày) gần một tháng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Và dĩ nhiên không có cân, không có thước để biết trọng lượng, và chiều cao của em.

Trong niềm vui vừa hoàn thành một ca đở đẻ có một không hai trong đời, Vinh trao em bé cho sản phụ, dùng nước biển để rửa tay. Giữa biển trời mênh mông, không có xà bông, không có alcohol sát trùng, không có cả nước thường để rửa tay. Vinh đến bên thành ghe, một tay bám chặt vào thành ghe, tay kia múc nước biền bằng một cái thùng nylon để rửa tay, và rửa em bé cùng sàn ghe. Sau vài phút vui mừng cạnh vợ con với niềm vui của một người lần đầu làm cha, người chồng trẻ vừa rối rít cảm ơn, vừa giúp Vinh dọn rửa sàn ghe, nơi một con người bé bỏng vừa chào đời trong đêm tối giữa biển trời bao la. Cũng như cha mẹ không được làm hôn thú ở một vùng kinh tế mới, em cũng không được làm khai sinh giữa biển trời, trên một chiếc ghe tỵ nạn. Em được cha mẹ gọi là “bé Biển”.

Trời sáng dần, mọi người tỉnh táo hơn, lạc quan hơn vì ánh sáng mặt trời luôn là người bạn tốt của những con tàu đang lênh đênh trên đại dương. Họ còn vui mừng hơn vì có thêm một mầm sống mới vừa chào đời bằng sự can đảm của người mẹ, bằng sự tận tình của một ông bác sĩ trẻ cùng là đồng hành trên chuyến vượt biển tìm tự do của họ.

Những ngày sau đó, dù vẫn phải ăn uống dè chừng vì không biết khi nào mới đến được đất liền, Vinh vẫn được đối xử tử tế hơn, được ông bà chủ ghe mời lên ngồi trên khoan tàu, được hít thở không khí trong lành của đại dương. Vinh cũng được phân phát thức ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, nhưng Vinh cũng chỉ ăn như khẩu phần của mọi người trên ghe, nhường phần đặc biệt đó cho người mẹ mới sinh ốm yếu mảnh mai, cần ăn nhiều để còn có sữa nuôi con sơ sinh.

Những chuyện bình thường đó được rỉ tai bởi những người còn tỉnh táo, khỏe mạnh trên ghe, và như một vết dầu loang, người ta đối xử tốt đẹp với nhau hơn. Một vài người lớn tuổi được những người trẻ hơn nhường phần nước uống hiếm hoi được phát hai lần mỗi ngày. Các em bé được ăn thêm vài muỗng cơm từ những người lớn trên tàu. Chuyện tưởng như đơn giản trên đất liền trong hoàn cảnh bình thường, nhưng là cả một niềm an ủi, một niềm tin khi con người đang trốn chạy khỏi quê hương, đang lênh đênh trên đại dương, không biết lúc nào mới đến bờ, đến bến.

*

Bốn ngày sau, chiếc thuyền mong manh của những thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản may mắn được một con tàu buôn của Ý trông thấy. Họ đến gần và cho tất cả người tỵ nạn lên tàu của họ, cho ăn uống. Họ đặc biệt cho bé Biển nhiều món quà quý, trong đó có một cái mỏ neo nhỏ như một lóng tay, – làm bằng vàng, biểu tượng của chiếc thương thuyền -, sau khi nghe kể em được sỉnh ra vài ngày trước đó trên sàn con thuyền mong manh không có một dụng cụ thuốc men nào, ngoài sự can đảm của mẹ em, và sự tận tình của một bác sĩ trẻ được đào tạo ở Đại học Y khoa Saigon trước năm 1975. Như luật hàng hải quốc tế vì sinh ra ở hải phận quốc tế nên bé Biển có quốc tịch Ý, chiếc tàu đầu tiên có mang cờ một quốc gia em được mang lên.

Trước khi đưa từng thuyền nhân lên tàu lớn, họ có ghi lại hình ảnh của chiếc ghe mong manh và những thuyền nhân mặt mày hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ vì biết chắc chắn mình sẽ đến được bến bờ tự do. Ông thuyền trưởng đích thân ra trước mũi tàu chụp hình. Bên kia, bác sĩ Vinh được những người trong ghe cử ra nói chuyện với đại diện của tàu Ý. Vinh cũng đứng trước mũi của chiếc ghe tỵ nạn, bên cạnh chiếc tàu buôn như một em bé gầy yếu đứng trước một người khổng lồ. Tấm hình đó không một người tỵ nạn nào có dịp trông thấy. Ngoài một số người muốn được định cư ờ Ý, tất cả thuyền nhân còn lại được đưa đến trại tỵ nạn và được đi định cư ở nhiều nước khác nhau.

Ông thuyền trưởng nghe Vinh kể chuyện đỡ đẻ rất hiếm hoi đã giơ cả hai tay lên trời:

– Tôi cảm phục lòng can đảm của sản phụ, tôi cảm phục sự bình tĩnh và tận tình của bác sĩ. Tôi cảm phục lòng quả cảm của tất cả các bạn. Thượng Đế đã phù hộ các bạn.

Ông ta còn nói nhiều điều nữa, nhưng Vinh chỉ nhớ câu đó, và nhớ nụ cười hiền từ nhân hậu của người thuyền trưởng người Ý da trắng. tóc đen.

Vinh đến Mỹ vào cuối năm 1979, đi học lại một số lớp để có thể thi lấy bằng Medical Doctor ở Mỹ và thi lấy giấy phép hành nghề. Kiến thức của những năm Y khoa Saigon giúp Vinh rút ngắn được hơn nửa đường học trình của một Bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ. Cứ lấy các “equivalent test” của từng giai đoạn, đậu được mỗi bài test là khỏi phải học ít nhất là hai học kỳ (tương đương một năm). Cứ từ dễ đến khó, Vinh lần lượt đậu từng bài thi và không phải học lại, chỉ phải đi thực tập nội trú (Internship) trong một bệnh viện ở New York trước khi được cấp bằng hành nghề. Lúc đó còn trẻ, chưa lập gia đình, dù không phải học lại 5 năm đầu của chương trình Y khoa ở Mỹ, Vinh vẫn chăm chỉ đọc sách và học thêm một lớp căn bản về “Business Law”.

Mỗi tuần làm việc từ bốn đến năm mươi giờ ở bệnh viện từ phòng cấp cứu đến các phòng bệnh nội trú, Vinh gặp bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi, mọi màu da. Có người suốt ngày rên rỉ, có người chỉ nhăn mặt khi thiếu thuốc giảm đau, có người luôn cố giữ nụ cười lạc quan để thêm tinh thấn chiến đấu với bệnh tật. Không có ai can đảm như người sản phụ thuyền nhân giữa đại dương năm nào, kể cả những người sinh con giữa một bệnh viện đầy đủ thuốc men, dụng cụ, y tá, bác sĩ, đã được chích thuốc giảm đau mà vẫn rên la.

Xong một năm nội trú ở New York, những ngày đầu chính thức hành nghề y khoa trong một bệnh viện ở Chicago, những khuôn mặt bệnh nhân đủ mọi cá tính đến rồi đi trong từng ngày làm việc của Vinh, vẫn chưa có ai vượt qua được sự can đảm chịu đựng của người sản phụ trên chiếc ghe mong manh vượt biển ngày trước. Giữa những tiện nghi dành cho một bác sĩ ở Mỹ, thỉnh thoảng Vinh vẫn nhớ đến nước Thái bình dương đã rửa tay cho mình và tắm cho em bé sinh giữa đại dương. Vị mặn của nước biển có thể sát trùng một cách tương đối, đã giúp một em bé thuyền nhân chào đời an toàn, khỏe mạnh trên sàn ghe giữa biển trời mênh mông.

http://vietbao.com/images/file/K2LsKqo80ggBAmo4/image002.png

Họp mặt truyền thống chs Ngô Quyền lần thứ XIII – JUL 2014 ở Milpitas, California. Nhân vật chính: BS Huỳnh Quan Minh– cựu học sinh NQ K6- trước micro. Tác giả NTDH áo dài trắng, đứng giữa hai đàn anh Ngô Quyền.

Rồi Vinh lập gia đình, dọn về San Jose ở California với khí hậu ven biển ấm hơn giống Việt Nam hơn, và để một lúc nào đó những đứa con chào đời sẽ có nhiều cơ hội học tiếng Việt hơn. Lúc đó là đầu thập niên 80s, cộng đồng Việt Nam ở Mỹ chưa lớn mạnh, những lần hiếm hoi gặp bệnh nhân người Việt ở bệnh viện Kaiser, họ cứ hỏi Vinh có khám thêm ở nhà ngoài giờ làm việc để họ đến nhờ giúp khi bệnh hoạn. Một, hai, năm, bảy rồi cả chục lần được yêu cầu như vậy, Vinh quyết định xin thôi việc ở bệnh viện, mở phòng khám tư, tự do hơn.

Lần đầu tiên mở phòng khám tư, lại là phòng khám ở Mỹ, một nơi mà nguyên tắc, và luật pháp rất nghiêm nhặt,Vinh phải mò mẩm từng bước để xây dựng phòng khám bệnh của mình. Thời đó, đầu thập niên 80s, cộng đổng tỵ nạn của người Việt còn non trẻ, bệnh nhân của Vinh thuộc đủ mọi chủng tộc, từ những người bản xứ hay đến phòng mạch của ông bác sĩ trẻ còn giữ nguyên tính kính trọng người lớn tuổi của người Việt Nam, đến những người di dân gốc Nga, gốc Tàu, gốc Ý, gốc Mễ… Và dĩ nhiên cũng có những bệnh nhân Việt Nam chịu khó lái xe vài chục dặm để được một bác sĩ đồng hương chăm sóc.

Cũng chính nơi đây, Vinh gặp lại nhiều bạn học đã mất liên lạc từ ngày xong tú tài, mỗi người mỗi ngả.

Phúc và Lan di tản từ tháng 4 năm 1975, vẫn không thay đổi nhiều so với ngày còn ở Trung học, tương đối thành công, vẫn mang theo cả một thời mới lớn ở Việt Nam có những lý tưởng màu hồng dù lâu lâu vẫn nghe tiếng súng vọng về từ một chiến trường nào đó rất gần thành phố.

Xuân đi từ trường Ngô Quyền vào trường Võ bị, vừa cởi áo trắng học trò, khoác ngay áo treillis của lính, không có thì giờ mặc áo dân sự giữa một đất nước chiến tranh. Nước mất, Xuân phải vào “trại cải tạo”, mặc áo màu sậm, xám xịt như đời “tù… không có tội”. Ra khỏi nhà tù nhỏ, Xuân về nhà tù lớn chỉ vài tháng rồi vượt biển, và chịu khó cắp sách đi học lại đến ngày thành kỹ sư ở thung lũng điện tử của miền Bắc California.

Tuấn rời Việt Nam qua Nhật du học từ năm mười tám. Học vừa xong, thì nước mất, không còn nhà, không còn quê hương để quay về. Một sáng đầu tháng 5 năm 1975, mở mắt dậy, bỗng dưng thành một người “vô gia đình, vô tổ quốc”, Tuấn quyết định đi xa hơn nữa khi Mỹ cấp free pass vào Hoa Kỳ cho các sinh viên VN đang du học ở các nước tự do trên thế giới vào thời điểm tháng 4 năm 1975. Tuấn ổn định đời sống ở Mỹ từ năm 1976. Phiêu bạt từ Việt Nam qua Nhật, rồi Mỹ, ở đâu người bạn thân của Vinh cũng mang theo hình ảnh hiền hòa, thâm trầm như nhân vật cùng tên trong “Tuấn chàng trai nước Việt”.

Tấn đậu tú tài, vào Không quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, về nước chưa kịp đóng góp nhiều cho đất nước thì “chim gãy cánh mây ngừng trôi “, Tấn vô tù vì vận nước, rồi trở về làm đủ mọi nghề để sống đến khi được qua Mỹ theo diện HO, là người đến đất nước tự do muộn màng nhất trong lớp.

Cả một cái lớp tứ hai ở Ngô Quyền xưa lưu lạc khắp nơi trên thế giới, gần một phần tư lớp hội tụ ở San Jose, mỗi lần gặp nhau vui hơn Tết, chuyện trò râm ran, tiếng cười vang lên như ngày xưa còn ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ở quê nhà.

Nhưng vui nhất là lần Vinh gặp thầy Hợp, thầy dạy Toán năm đệ tam ở quê nhà. Thầy định cư ở Mỹ vảo thập niên 90s, lúc đó cộng đồng Việt Nam ở vùng thung lũng điện tử San Jose đã quần tụ khá đông. Chân ướt chân ráo ở quê người, chưa có xe, từ nhà, Thầy đi hai chuyến xe bus đến khu vực thuơng mại đông đúc nhất của người Việt ờ San Jose, lấy một tờ báo quảng cáo để tìm một ông bác sĩ đồng hương ở quê người. Và thầy tìm ra cậu học trò thông minh, hiền lành năm xưa đang hành nghề “lương y” ở một con đường yên tĩnh gần downtown. Trong mục quảng cáo của một tờ báo VN, trong danh sách các Bác sĩ Việt Nam ở San Jose, thầy Hợp tìm thấy tên của cậu học trò thông minh, hiền lành ở cù lao Phố, Biên Hòa ngày xưa. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng ở nhiều trường Trung học lớn ngày xưa, như một người lái đò đưa hàng ngàn người khách qua sông; có một vài khuôn mặt, vài cái tên Thầy không hề quên.

Gần như chắc chắn đó lả học trò cũ của mình ngày xưa, nhưng muốn dành cho cho Vinh một bất ngờ, thầy Hợp vẫn gọi điện thoại lấy hẹn, đến văn phòng đúng giờ, lảm việc với mấy cô thư ký, điền hồ sơ cho một bệnh nhân mới, rồi kiên nhẫn ngồi đợi như bao nhiêu người khác.

Gần cuối buổi làm việc, Vinh được cô thư ký chuyển vào hồ sơ của bệnh nhân kế tiếp. Nhìn cái folder màu vàng nhạt còn mới toanh của một bệnh nhân mới, Vinh liếc qua tên bệnh nhân, và độ tuổi, cùng giới tính. Tên viết theo lối Mỹ, first name, last name, initial middle name, nên Vinh không hề nghĩ đó là thầy dạy Toán của mình thời trung học.

Vinh rời phỏng làm việc của mình, đẩy cửa vào phòng có bệnh nhân, và thả rơi cái folder xuống nền nhà, không tin vào mắt mình. Cứ như một giấc mơ, thẩy dạy Toán Nguyễn Thất Hợp của năm đệ tam đang ngồi cạnh bàn khám bệnh ở San Jose, California, chứ không phải cạnh bàn giáo sư của trường Ngô Quyền Biên Hòa như hai mươi năm trước. Thầy vẫn vậy, chỉ già đi theo năm tháng (như người Mỹ vẫn gọi là aging process) chứ không thay đổi. Ánh mắt nghiêm nghị vẫn còn, lấp lánh sau tròng kính trắng. Vinh quên hết nhiệm vụ của mình, quên hết mình đang khám bệnh, quên là mình đã ở xa quê nhà cả một đại dương, mừng rỡ chào Thầy, vẫn cung kính như ngày xưa còn là học trò trung học.

Từ đó, thầy Hợp được học trò chăm sóc sức khỏe rất chu đáo. Không biết vì bản chất Thầy vốn khỏe mạnh, vì Vinh chăm sóc cho Thầy không chỉ bằng kiến thức chuyên môn của một bác sĩ, mà còn bằng tấm lòng của một người học trò cũ, hay vì cả hai lý do, thầy Hợp trông khỏe mạnh và trẻ hơn so với những người cùng độ tuổi.

*

Tưởng đó là lần hạnh ngộ vui nhất trong đời ở phòng khám bệnh, nhưng có một lần khác, ngạc nhiên òa vỡ lớn hơn, đưa Vinh về với vị mặn của gió biển, với lần duy nhất hành nghề y khoa dã chiến giữa trời nước mênh mông.

Đó là một ngày mùa hè, ngày dài đến hơn 14 tiếng, bóng nắng vẫn còn lung linh trên hàng cây cổ thụ ven đường, Vinh đã cởi áo blouse trắng, chuẩn bị về thì cô thư ký gọi vào cho biết có người quen cũ, đến từ Châu Âu kiên nhẫn đợi đến lúc bệnh nhân cuối cùng rời phòng mạch để được gặp bác sĩ Vinh.

Vinh đặt chìa khóa xe vào lại ngăn kéo, nhờ cô thư ký mời khách vào phòng làm việc. Đó không phải là một người khách, mà là một gia đình gồm ba người. Hai vợ chồng đã qua tuổi trung niên, và một cô thiếu nữ chắc vẫn cỏn trong độ tuổi hai mươi. Vinh cố lục lạo trí nhớ của mình để nhớ ra người quen nhưng vẫn không nhận ra được khách là ai?

Vinh mời khách ngồi, nhã nhặn:

– Xin lỗi, tôi có thể giúp gì được cho quý vị?

Người đàn ông mở lời, giọng Saigon rất thân quen:

– Thưa bác sĩ, chúng tôi từ Ý đưa bé Biển đến thăm bác sĩ, và để cảm ơn bác sĩ đã lo cho mẹ con cháu chu đáo trên biển đông năm xưa.

Vinh tròn mắt ngạc nhiên:

– Ô, anh chị ngày xưa trên con thuyền vượt biển tháng 6 năm 1979 từ Long Hải, Vũng Tàu.

Ngưởi đàn bà cười tươi tiếp lời bằng giọng Huế nhẹ nhàng:

– Thưa đúng rồi, bác sĩ còn nhớ chúng tôi?

– Không những chỉ nhớ mà còn phục sự can đảm chịu đựng của chị năm xưa khi sanh con đầu lòng trên sàn tàu vượt biển không có ánh sáng, không có thuốc men, không có cả dụng cụ.

Đó là lần hội ngộ với một bệnh nhân cũ bất ngờ, cảm động nhất của Vinh.

*

Từ chiếc tàu buôn của Ý năm xưa, 68 thuyền nhân, cộng với “công dân của đại dương”, bé Biển, được đưa về trại tỵ nạn Pulau Bidong của Malaysia. Từ đó, họ đi định cư ở nhiều nước khác nhau. Vinh định cư ở Mỹ. Gia đình nhỏ ba người của bé Biển đi Ý vì cảm kích lòng tử tế của thủy thủy đoàn trên thương thuyền của Ý, và vì bé Biển mang quốc tịch Ý.

Từ đó, bận rộn với cuộc sống mới với một khởi đầu mới ở quê người, Vinh không còn dịp liên lạc với bất cứ một thuyền nhân nào trên chuyến tàu vượt biển năm xưa.

Gia đình bé Biển đến Ý, ổn định cuộc sống. Họ làm hôn thú cho mình và khai sinh cho con ở Ý. Trên khai sinh, tên của bé Biển là Nguyễn Thị Đại Dương. Và như một kỷ niệm suốt đời mang theo, sợi dây chuyền với chiếc mỏ neo bằng vàng luôn nằm trên cổ em từ lúc chỉ mới vài ngày tuổi. Vài năm sau, họ có thêm một cậu con trai sinh ở Rome, vẫn có cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Bình, tên Ý là Grato (nghĩa là cảm ơn). Đó là cách để họ nhớ đến Thái bình dương với ân tình từ rất nhiều người cả Việt Nam lẫn Ý.

Cho đến một ngày nọ, tin tức địa phương từ một tờ báo về chuyện một ngưởi thuyền trưởng tài ba, nhân từ về hưu sau hơn 30 năm lênh đênh trên các đại dương, giúp họ tìm ra vị thuyền trưởng đã cứu vớt con tàu nhỏ bé năm xưa của những người Việt Nam tỵ nạn. Họ tìm đến gặp ông, và lần này đã có thể nghe ông kể lại câu chuyện và tâm trạng của ông năm xưa bằng tiếng Ý. Sau đó, họ được ông tặng tấm hình chụp con tàu tỵ nạn dạo nào, trên đó có họ gầy yếu xanh xao, có đứa con đầu lòng, bé Biển hãy còn đỏ hỏn, không có sữa uống, được nuôi bằng nước cháo.

Tấm hình được họ mang đến tiệm, nhờ chuyển qua dạng một cái plaque treo tường. Họ làm cho mình một, và một plaque thứ hai để dành tặng cho ông bác sĩ trẻ năm xưa giúp bé Biển chào đời an toàn trên sàn tàu vượt biên.

Bước vào thế kỷ 21, khoa học phát triển, google search giúp họ tìm ra bác sĩ Vinh. Vì ngày xưa trước lúc rời trại tỵ nạn, họ có hỏi thăm tên họ của Vinh. Nhờ một người bạn ở San Jose giúp đỡ thêm, họ đưa bé Biển, đã là một Bác sĩ sản khoa ở Ý, qua Mỹ thăm Vinh.

Cô bác sĩ trẻ người Ý gốc Việt nói với ông bác sĩ đã qua tuổi trung niên người Mỹ gốc Việt, bằng tiếng Việt rõ ràng, khúc chiết với giọng Huế pha Saigon:

– Thưa bác, con cảm ơn bác đã giúp cho con chào đời an toàn trên biển. Nghe ba mẹ con kể lại, và nhớ ơn bác năm xưa, con đã học sản khoa. Có lẽ suốt đời con không có cơ duyên đặc biệt như bác đã làm ngày con ra đời. Nhưng con nhớ hoài chuyện đó và vẫn kể cho bệnh nhân của con nghe khi họ sắp chuyển dạ để giúp họ thêm can đảm.. Con cảm ơn bác rất nhiều.

*

Thay cho lời kết:

Tấm plaque treo tường với chiếc ghe nhỏ bé chơ vơ giữa biển xanh đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, một cựu thuyền nhân. Có những tình cờ trong cuộc sống để lại một dấu ấn suốt đời mang theo. Xin được ghi lại vài nét của một trong những chuyện không bao giờ quên trong lịch sử thuyền nhân. Hy vọng đời sống luôn có những người trọng tình nghĩa như những nhân vật trong chuyện, và những hạnh ngộ bất ngờ luôn luôn làm cho đời sống đẹp hơn.

(Viết từ một bức hình ở phòng mạch của BS Huỳnh Quang Minh. Thung lũng hoa vàng- đầu mùa xuân 2015)

Nguyễn Trần Diệu Hương

‘Con bà phước, cái bang’ Galang

‘Con bà phước, cái bang’ Galang

Nguoi-viet.com

Sông Tiền
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Tôi đặt chân đến trại tỵ nạn Galang vào trưa ngày 1 Tháng Sáu năm 1990 sau đúng 2 tháng rời Việt Nam.

Ðoàn tàu chúng tôi đến trại với 655 thuyền nhân trên hai chuyến tàu định mệnh được nhập chung từ nhiều chiếc ghe vượt biển khác nhau đã đến được đất liền Mã Lai nhưng bị hải quân nước này gom lại và xua đuổi sang Nam Dương.

Hồi tưởng lại chuyến hải trình gian khổ và những ngày tháng bất ổn trong quá trình thanh lọc ở trại tỵ nạn mà cảm thấy thật thấm thía cho hai chữ thuyền nhân.


Cổng vào trại tị nạn Galang. Nơi đây nay đã thành di tích. (Hình: VOA)

Như bao thuyền nhân khác đến trại tỵ nạn sau ngày đóng cửa đảo định mệnh 17 Tháng Ba năm 1989, tất cả chúng tôi đều phải trải qua một quá trình ‘thanh lọc’ để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của mình.

Chúng tôi đến Galang vào thời điểm thuyền nhân trôi tấp vào Mã Lai Á bị dồn đẩy sang Nam Dương ồ ạt nên số lượng thuyền nhân trên đảo từ năm 1989 không quá 3,000 người đã tăng đột biến lên hơn 14,000 trong vòng chưa đầy một năm. Tình trạng quá tải không có chỗ ở cho người tỵ nạn là một chuyện khá nhức đầu cho các nhân viên Cao Ủy và phòng kỹ thuật.

365 người chúng tôi được đưa thẳng vào Galang 2 và sống lây lất vật vạ tạm thời bên trong hội trường của văn phòng Cao Ủy và dọc theo hành lang của phòng xã hội. Nhìn cảnh những người “say sóng” nằm ngồi dọc theo hành lang các văn phòng của Cao Ủy Tỵ Nạn và toán JVA được các anh chị thiện nguyện viên của phòng xã hội và gia đình Phật Tử Long Hoa cũng như thanh niên Công Giáo trợ giúp nấu và chia nhau những tô mì gói nóng để đỡ đói qua ngày trong thời gian chờ đợi những nhân viên của phòng kỹ thuật dựng lên các barrack bằng plastic trên các nền barrack cũ của Zone F nó ám ảnh và theo tôi mãi trong những giấc mơ cho đến ngày hôm nay.

Galang, quán trọ trước cổng thiên đường đã không thật sự đến với chúng tôi, những thuyền nhân kém may mắn đã chậm chân đến trại sau cái ngày oan khiên mà Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và chính quyền sở tại áp dụng để ngăn chặn làn sóng thuyền nhân bỏ nước ra đi tỵ nạn Cộng Sản ngày càng dâng cao. Sau những ngày dài chờ đợi và mất ngủ chúng tôi được đưa vào sống trong những barrack được lợp bằng plastic mới được dựng lên trong khu Zone F bốn bề gió lộng theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nó.

Trải tấm chiếu Cao Ủy trên nền xi măng lòi lõm của barrack để xí chỗ xong là chúng tôi phải nghĩ đến việc sinh tồn trong những ngày dài sắp tới. Mỗi thuyền nhân được phát một đôi dép Cao Ủy, một cái mền và một chiếc chiếu, một cái tô, một cái chén và một cái ly bằng nhựa, mỗi 5 người được phát một cái lò xô nấu ăn bằng dầu, một cái can 5 lít đựng dầu hôi. Khẩu phần lương thực nghe đâu đã bị cắt giảm nên hàng tuần chúng tôi mỗi người chỉ được phát 3 gói mì, 2.8 kg gạo, 100 gram đậu xanh, 100 gram đậu nành, 100 gram đường và 100 gram đồ tươi có thể là bí rợ hay rau cải. Mỗi đầu tháng chúng tôi được cấp 9 lon cá mòi loại nhỏ, và 4 lít dầu ăn, có tháng Cao Ủy thay thế bằng ba hộp thịt hộp mà chúng tôi gọi là pa tê, khi thì 3 lon cá mòi loại lớn. Ăn cá mòi và tắm nước suối từ trên rừng chảy xuống được chứa trong những cái hộc được đào sẵn ở dưới hạ nguồn nên đã có rất nhiều người bị ghẻ ngứa, chúng tôi đã phải thức dậy thật sớm để sắp hàng lấy số ở bệnh viện Galang 2 chờ được chích thuốc vào mỗi sáng.

Với sức trẻ của tuổi minor vị thành niên, nhóm con “bà phước” không có thân nhân ở nước ngoài không cách gì chúng tôi có thể tồn tại và sống nổi với khẩu phần lương thực hạn hẹp mà Cao Ủy đã cấp phát thông qua nhà cầm quyền Indo, những người bạn của chúng tôi phải gom lại tìm cách mưu sinh để sống còn trong những ngày dài ở trại.

Có một câu chuyện làm cho tôi còn nhớ mãi là trong những ngày còn say sóng khi mới đến đảo. Tôi có theo chân mấy người bạn đi dạo ngoài chợ Galang 2 tình cờ được gặp lại dì Hai Ngọc Châu là bạn rất thân của mẹ tôi đã vượt biên và đến đảo vào năm 1987. Dì dượng và gia đình các anh chị lẽ ra đã đi định cư từ rất lâu nhưng vì dượng Hai bị bệnh phổi khá nặng nên đã bị các phái đoàn từ chối khi phỏng vấn và còn kẹt lại và đang chờ đi Pháp vào Tháng Tám năm 1990.

Mặc dù gia đình của dì lẽ ra phải đi Mỹ vì dượng Hai là cựu quân nhân của QLVNCH. Dì Hai và các anh chị đã rất thương và giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong khoảng thời gian này. Thấy chúng tôi tơi tả không có quần áo mặc dì mua vải nhờ chị Một và chị Bưởi là người con dâu và người quen của dì may đồ cho chúng tôi, lâu lâu dì mua thịt heo rừng và đồ ăn ngoài chợ đem vào tiếp tế cho chúng tôi.

Mặc dù đã sắp đi định cư và đã hứa cho người khác cái thùng phi đựng nước cũng như cái tủ đựng đồ, nhưng vì thấy hoàn cảnh quá thê thảm của chúng tôi mà dì Hai đã trả tiền lại cho người ta để xin lại cho chúng tôi có cái thùng phi đựng nước uống và có tủ để đựng đồ. Thật quý vô cùng những tấm lòng vàng.

“Bún, bún đây, ai ăn bún đổi cá, đổi gạo không? Num bờ chốc tê, Num bờ chốc đo ko tê,” những tiếng rao lanh lảnh ở Galang 1 và Xóm Miên ngày nào vẫn còn âm vang và là động lực mạnh mẽ giúp cho tôi vượt qua hết những khó khăn và vấp ngã sau này khi đã được định cư tại Hoa Kỳ.

Tôi đến với cái nghề bán bún và biết làm ra tiền đầu tiên trong đời từ trại tỵ nạn Galang qua chú Trung và anh Hùng cùng tàu của tôi. Cuộc sống ở trại khổ quá mà không có liên lạc được với thân nhân ở nước ngoài để viện trợ cứu đói, chú Trung và anh Hùng con của chú Tư Xị đã đột phá tìm cách làm quen với anh Nhân chủ lò bún ở gần Suối Zone F Galang 2 để xin lãnh bún đem đi bán dạo vòng quanh các barrack ở Galang 2.

Chú Trung thấy hoàn cảnh anh em con bà phước của chúng tôi thê thảm quá nên chú kêu lại hỏi thăm tụi tôi có chịu đi bán bún không rồi chú hỏi xin ông chủ lò bún cho chúng tôi lãnh bún đi bán ngoài Galang 1. Tôi, Ðức và 3 anh em Ðành, Ðạt và Chín nhận lời, thế là mấy anh em chúng tôi hàng ngày vào sáng sớm thay nhau gánh bún từ Galang 2 đem ra Galang 1 bán và đổi cá, gạo kiếm tiền mưu sinh trên đảo.

Là những công tử bột chưa nếm bụi trần gian, trại tỵ nạn Galang đã nhào nặn cho chúng tôi trở nên cứng cáp và trưởng thành hơn. Có những ngày mưa gió mà gánh bún thì còn nặng trĩu trên vai, chúng tôi len lỏi qua khỏi khu vực bệnh viện Galang 1 (lúc này đã được trưng dụng làm chỗ ở cho thuyền nhân) đi hoài mà gánh bún thì vẫn chưa vơi chúng tôi bạo gan tìm ra khu xóm Miên (vào cuối năm 1990 đã có gần 1,500 người Cambodia vượt biển đi tỵ nạn) lần đầu tiên món Num Bờ Chốc xuất hiện ở Làng Miên gánh bún ngày hôm đó được mua hết trong vòng 30. Thừa thắng xông lên sau đó anh em chúng tôi tăng số lượng bún lên gấp đôi, hàng ngày gánh ra bán thêm ngoài xóm Miên.

Chúng tôi học thêm tiếng Miên qua chị Hồng đi chung tàu. Chị Hồng là em vợ của chú Y Giang NiekDam là ‘leader’ tàu của chúng tôi, từ đó việc giao tiếp với bà con người Miên được dễ dàng hơn.

Có một câu chuyện bây giờ nghĩ lại rất là tức cười cho sự khờ khạo của tuổi trẻ chúng tôi, vì không quen ai ở ngoài Galang 1 nên chúng tôi cứ gánh hai thùng bún thật nặng đi thẳng ra xóm Miên bán trước, khi qua khỏi Cổng Chùa Quan Âm Tự đến gần khu vực Suối Miên, phần vì hai gánh bún quá nặng phần mệt nên chúng tôi quyết định chui vào một bụi cây ở gần đó giấu một thùng bún và gánh thùng bún còn lại trực chỉ xóm Miên. Trên đường về lại Galang 1 chúng tôi tấp vào lấy cái thùng bún giấu trong bụi cây, cả hai chúng tôi đã cười thật giòn và thật lâu khi nghĩ đến cảnh trở lại chỗ giấu thùng bún mà kiếm không ra vì cắc cớ có ông nào đi ngang tấp vào tè bậy mà thấy thùng bún và vác luôn về thì anh em chúng tôi chắc sẽ khóc bằng tiếng Miên luôn.

Có những người Miên thật tốt bụng khi thấy anh em chúng tôi bận quần áo tả tơi trong lúc vất vả mưu sinh đã kêu lại cho quần áo lành lặn để bận, buôn bán một thời gian thì chúng tôi bắt đầu có những mối tốt, họ đặt bún của chúng tôi hàng ngày để nấu món Bún Cá bán trong làng Miên. Anh em chúng tôi thay nhau mỗi ngày vào buổi chiều gánh bún đi bỏ mối ngoài làng Miên, khi thì 15 kg khi thì 10 kg tùy theo ngày. Thấy chúng tôi làm ăn được người chủ lò bún sinh lòng tham, anh ta tăng giá bún lên và sắm xe đạp chở bún ra ngoài làng Miên giành mối và bán sỉ với giá rẻ hơn. Bất mãn anh em chúng tôi không tiếp tục đi bán bún nữa. Sau này một số anh em trong nhóm con bà phước đã phải đi đánh bắt cá ngoài biển, bán bánh mì, bán cà rem, đào giếng mướn và một vài đứa thì làm nghề báo thư mà chúng tôi gọi đùa là những tay chuyên Bóp Cổ Thiên Hạ.

Galang là một trường đời đầy thử thách đã rèn luyện và huấn nhục chúng tôi được cứng cáp và trưởng thành hơn, từ cách đối nhân xử thế đầy tình người cho đến nhân tình thế thái bạc bẽo của cuộc đời chúng tôi đều được học từ trại Galang, có những bài học rất đắt giá và có những bài học không phải trả tiền mà chúng tôi may mắn được học qua những kinh nghiệm đau thương của bạn bè và chính cá nhân mình.

Trong những năm tháng đầu tiên ở trại tỵ nạn, chúng tôi lam lũ cực nhọc mưu sinh nhưng tinh thần thì rất vui và không có nhiều lo nghĩ cho đến khi bắt đầu có kết quả thanh lọc vào những đợt đầu tiên cho những đồng bào đến trại vào những ngày đầu tiên kể từ sau ngày đóng cửa đảo, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và chính quyền sở tại vì muốn chặn đứng làn sóng thuyền nhân vượt biển tìm tự do nên đã tạo ra rất nhiều chuyện bất công trong vấn đề xác định tư cách tỵ nạn chính trị của thuyền nhân.

Thảm cảnh chèn ép buộc những cô gái Việt phải hiến thân để đánh đổi tấm vé công nhận là tỵ nạn chính trị xảy ra ngày càng nhiều. Nhà cầm quyền Nam Dương có toàn quyền quyết định tư cách tỵ nạn chính trị của thuyền nhân nên vô tình đã tiếp tay cho những nhân vật đang nắm vai trò sinh sát trên đảo lộng hành mặc sức chà đạp nhân phẩm và tiết hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong khoảng thời gian khủng hoảng này.

Ðã có rất nhiều trường hợp cả gia đình phải tốn rất nhiều tiền để hối lộ các giới chức cầm quyền và họ còn bị bắt ép phải hiến dâng con gái dưới tuổi vị thành niên của họ cho những tên phó hay trưởng đảo cũng như những nhân vật coi về phần an ninh và thanh lọc.

Ðã có nhiều trường hợp lường gạt để lấy tiền của thuyền nhân khi hối lộ với chính quyền địa phương dẫn đến giết người để bịt miệng, vụ án ở Suối Chùa Kim Quang mà hai anh Sáu Koler và Nguyễn Văn Viễn là nạn nhân của những tên sát nhân này.

Bất công và đau khổ dày xéo tâm can của những thuyền nhân Galang, sau khi nhận kết quả rớt thanh lọc, anh Diệp Quang Huy đã gặp luật sư người Phi để tư vấn cho vấn đề khiếu nại của mình, bị tên Phi lùn xúc phạm, anh Diệp Quang Huy đã tẩm dầu tự thiêu ngay trước văn phòng Sơ Vấn Galang 2.

Minor Lưu Thị Hồng Hạnh đã đậu thanh lọc nhưng bị rút giấy đậu vì là minor đã phẫn uất tự thiêu ngay trong barrack của mình. Những thảm trạng của thuyền nhân thật là bi thương đã xảy ra rất nhiều vào thời điểm 1991-1996.

Giá trị của hai chữ tự do đã được đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng đói khát của những ngày lênh đênh trên biển, bằng sự tủi nhục của thân xác phụ nữ Việt trên biển và trong đất liền, bằng sự rẻ khinh và xua đuổi của các quốc gia tạm trú, bằng những nấm mồ hoang lạnh trên các trại tỵ nạn của không biết bao nhiêu ngàn thuyền nhân đã bỏ mình nơi rừng sâu, đảo vắng.

Và hơn hết là bằng sự đấu tranh tuyệt thực biểu tình của hơn 4,500 thuyền nhân tại Galang, hơn 2,000 thuyền nhân tuyệt thực ngất xỉu phài vào cấp cứu tại bệnh viện Galang 2, hơn 20 thanh niên đã đâm bụng tự sát không thành. Anh Phạm Văn Châu đã tự thiêu trong buổi sáng biểu tình và được đưa sang Pinang chết mất xác. Anh Lê Xuân Thọ đã tẩm dầu tự thiêu và đâm bụng chết tại chỗ biểu tình được đồng bào quàn và giữ xác trong quan tài tại chỗ biểu tình cho đến ngày cuối cùng sau khi bị cảnh sát đặc nhiệm của Indo trấn áp.

Cuộc biểu tình suốt 179 ngày đêm của thuyền nhân Galang chống cưỡng bức hồi hương và đòi hỏi công bằng cũng như quyền tự do tỵ nạn chính trị của mình là cuộc biểu tình dài nhất và bi thương nhất trong lịch sử của thuyền nhân tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam. Là thuyền nhân vượt biển tìm tự do chúng ta không được phép quên chúng ta là ai và tại sao chúng ta đang ở khắp nơi trên thế giới này.

Galang một trời tâm sự…

Trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín

Trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín

Nguoi-viet.com

Nguyễn Ngọc Dung
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Mùa Xuân đang về, thời tiết lý tưởng, với chồi non, nụ thắm… dễ làm người ta yêu đời hơn.

Ngày dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại một quãng thời gian đầy biến động và thay đổi cho cả gia đình mình. Một công việc đã âm ỉ trong lòng, chưa được viết ra, như một gửi gấm đến các con cháu mình những gì đến với cuộc đời của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các bạn, như một lời tâm tình của một thành viên bé nhỏ trong cái tập thể “vợ những người tù cải tạo” quanh đây.

Phú Quốc – 1970. (Hình: Tác giả cung cấp)

30 Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn cứ hải quân mãi tận Phú Quốc, lúc đi tàu biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn và đơn vị cuối cùng, là giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.

Tôi đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi anh được huy động về tiếp tay với các bạn giữ vùng 4 sông ngòi. Anh và tôi xa nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày của các gia đình quân đội – nhất là hải quân – trong thời chiến, nào có biết rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang hình ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến hải quân.

Chúng tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau, với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư, 1975, tôi biết cuộc đời mình sẽ có những thay đổi rất lớn, mà chẳng biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh trở về Sài Gòn, chờ anh về nhà, tuy biết là không thể trở về với chiếc tàu, để đón gia đình hai bên và tôi. Về sau này, tôi mới biết, giang đoàn của anh được biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè, rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè, một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ.

Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập để bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào, và bảo vệ chính phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.

Bến Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố mẹ tôi, nay đã chẳng còn một chiếc tàu nào mang lá cờ xưa.

Chiều tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay cả ghe nhỏ để cứ đi vào một bến bờ vô định. Đi như trong giấc ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng chẳng ích gì trong việc xin 1 chỗ cho mình tôi lên tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh lùng bỏ đi.

Thôi rồi, số phận mình ra sao, anh ở đâu và có an toàn?

Phi trường Tân Sơn Nhất, 4 Tháng Bảy, 1991. (Hình: Tác giả cung cấp)

Một đêm không ngủ nghe tiếng trực thăng bay liên tục, nhìn những chiến hạm không đèn trên sông Sài Gòn, tôi biết mọi hi vọng ra đi đã bị cắt đứt. Đi qua bộ tư lệnh Hải Quân, qua cầu tàu nơi có khi anh chỉ cho tôi, kia là con tàu anh đang làm việc trên đó, nay chỉ là một quãng sông đen ngòm, đe dọa và nhận chìm mọi hi vọng của chúng tôi.

Ngày qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đã dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác để di tản.

Tôi vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, im lặng, vì quanh mình chẳng biết ai là bạn ai là thù.

Bên cạnh đó, những buổi học tập tại chỗ, những bài tự khai thật nặng nề, những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả lời nào của chúng tôi cũng không thỏa mãn được họ. Nhất là với tôi, khi tôi khai ông chồng tôi…mất tích… Thì đúng là mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu, Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu. Họ đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích kia, cái mất tích hàm nhiều ý nghĩa…có thể là đã chết, di tản, vô bưng hoạt động chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ bắt tôi lên họp, chỉ một với một, họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi cũng hoang mang lắm, không biết anh sống chết thế nào.

Bức màn sắt đã trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có một đường radio VOA, BBC để biết tin nước ngoài, được nghe trong sự trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nhìn những lá cờ đỏ trên đường, rùng mình như màu máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi, ngủ dậy mới thấy đã qua được 1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh, mốt ông điều dưỡng trưởng.

Không khí trong bệnh viện đầy đe dọa, dò xét, ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng được bà trưởng phòng về tiếp quản, đổ ra ngoài xem có dấu gì trong đó, hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương mỹ vị gì.

Đến khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1 điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ hồi hương, cho biết ý kiến.

Bức điện tín ngắn gọn, mà thật là khó giải quyết. Tôi xin ý hai bên cha mẹ. Bố mẹ anh không biết nên bảo anh về lại Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng cho anh, thì lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu quý. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, thì thương anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân tôi, cũng chẳng biết sao là đúng. Biết là anh đang rất cần câu trả lời để có quyết định, về hay ở?

Sau cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy ý quyết định.” Những ngày tháng sau đó, tôi sống như một người có tội, tội đẩy anh vào nơi lao lý, biết có ngày về ?

Sau đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương Tín sẽ đưa một số người muốn hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức đều không thể đến với người dân. Tôi đi làm, lòng đầy hoang mang, anh có về, nếu anh về, thì có phải ở tù không? Người ở đây, còn vào tù, huống gì người đã đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi ngờ về các anh, có phải đã mang về những công việc dọ thám, đánh phá chế độ…

Rồi được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín (VNTT) đã chở người di tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng để đưa đoàn người hồi hương. Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có thì anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài Gòn, còn bị đe dọa đi kinh tế mới, vì đã được đặt tên là vợ của ngụy quân, tội ác đầy mình, cần phải cải tạo cái đầu tư sản bằng con đường lao động.

Hai bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay vì điêu khắc lên miếng trám cho thật đẹp, thật giống những hình dáng thật của răng, nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa (thơm) ở nông trường, cầm cuốc trồng khoai mì sau khi đã cuốc hết sân cỏ xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài Gòn.

Có lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân trên dòng kinh lúp xúp nước, chuyền những miếng đất được các vị bác sĩ, các giáo sư đại học Y Khoa Sài Gòn trao cho, để tạo con kênh dẫn nước phèn vào ruộng. Dòng nước váng lên những phèn, cây nào sống nổi. Sau những lần khổ cực như thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước lại càng tăng lên. Họ đã không trọng vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân, độ thế.”

Qua những sự việc hàng ngày như thế, tôi đã có thể hình dung cuộc sống trong tù “cải tạo” của các quân nhân chế độ cũ, và nhất là các anh đã về theo chuyến tàu VNTT sẽ khổ như thế nào.

Lá thư anh gửi từ trại tù Tuy Hòa đã xác định, anh đã trở về.

Tết đầu tiên ở Hoa Kỳ, 1992. (Hình: Tác giả cung cấp)

Tôi lên phòng nhân viên của bệnh viện tôi làm việc, xin điều chỉnh tình trạng chồng mình. Chữ “mất tích” nay đổi thành một địa chỉ lạ hoắc, ở một nơi rừng sâu núi thẳm nào đó miền Trung. Tưởng rằng đã yên cho mình, tưởng rằng không còn cái cảnh gọi lên làm lại lý lịch tôi đã thuộc lòng, với lời nghi ngờ là ông chồng tôi đang ở một nơi nào, đe dọa đến an ninh của chế độ mới.

Bây giờ họ đem chồng tôi để “dụ” tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng biết dè chừng cái thâm ý của họ.

Đằng sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là sẽ có điều kiện gì đây?

Thì ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten” để tìm hiểu về một nhân vật trong bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy còn non trẻ, nhưng cũng đã biết lưu ý kịp thời, để không mắc mưu họ, giữ an toàn cho người ấy và cả cho mình. Cuộc sống bấy giờ, là một sự đối phó, là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi cũng qua ngày, tôi tìm quên trong công việc. Trong bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đã tìm cho mình một hướng đi, dứt khoát ở lại với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không có điều chi ràng buộc, nhưng tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở về của anh, thì sự dứt khoát kia trở thành một điều không lay chuyển.

Chuyến tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu tiên từ Tuy Hòa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư thứ hai từ Nghệ Tĩnh. Anh đã bị còng tay, giải đi thật xa, đến một nơi nghèo nhất nước, để đói khát, bệnh tật sẽ giết lần mòn nhóm sĩ quan ưu tú của quân đội. Những lá thư được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm là đã hết, anh chẳng đả động gì đến chuyện đi thăm, sự cô lập trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia đình.

Anh sống thế nào nhỉ?

Sự chờ đợi mỏi mòn cho đến cuối năm 1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy ý nghĩa.

Nghĩa là có hai việc trong lần được gặp này: thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các thứ “nuôi” dài thậm thượt, với một người gọi là “khảnh ăn” như anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế, chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm.

Quãng đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ đã là một ám ảnh tôi cho đến bây giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá, cảnh hỗn loạn cho những tay cướp hoạt động, nơi những tay anh chị và đồng bọn hoành hành với những luật chơi riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng trên đường thăm nuôi.

Gia đình, năm 2015. (Hình: Tác giả cung cấp)

Lần đầu tiên gặp lại sau 3 năm xa cách, anh đã trở thành một người khác, cả người sưng phù, khuôn mặt giữ nước trông như mập ra, anh như một người khác trong bộ bà ba đen có lần tôi gửi vào theo đường bưu điện.

Vợ chồng nhìn nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như tội nhân. Chúng tôi tội tình gì nhỉ, muốn nói bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt. Giờ được thăm loáng cái đã hết, chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên tâm là chúng tôi vẫn còn sống, ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai biết.

Anh quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài Gòn. Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay tạm ngưng vì chiến tranh Tháng Mười Hai, 1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở lại, tôi đánh điện tín về bệnh viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi đã vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại, tôi đi làm và đã bị làm khó dễ không ít với sự việc này. Đất nước đã được rêu rao là “thống nhất,” là hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân mình bỏ nước ra đi?

Cuộc sống ngay cả ngoài tù còn đầy rẫy khó khăn, đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do. Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, thì khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính quyền, sự thương cảm của bạn bè, sự tiếc nuối có khi tức giận của những người đang tìm đường vượt biên. Riêng tôi, bị nhìn như nguyên nhân chính của sự trở về của anh.

Tôi tự giận mình, quyết định để anh trở về, như đang ở thiên đường mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi phải tự tìm ra câu trả lời, là, quyết định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy, không ân hận và không tiếc gì. Hỏi rằng có ai can đảm như anh, biết trở về là tù đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ trở về với gia đình và tôi.

Nhiều bạn anh lúc còn ở Guam, đã ngăn anh trở về, nhưng các bạn mạnh miệng vì họ đang ở trong sự đầy đủ của vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi chiều ở Guam, ngồi ở bãi biển, nhìn đôi chim bay cùng nhau trong nắng xế, nhìn người ta bên cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đã về vì chẳng có ai trong gia đình anh, gia đình tôi di tản được.

Mãi đến bây giờ, 40 năm sau ngày đau thương ấy, chúng tôi vẫn thấy quyết định quay về là đúng. Chúng tôi hãnh diện khi có người hỏi, có phải anh đã trở về trên chuyến tàu định mệnh, VNTT. Chúng tôi ngẩng cao đầu với niềm tự hào, với sự can đảm khó có của anh, vui với một kết thúc “có hậu” như bây giờ.

Anh ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là cả một lòng thương yêu của dân chúng, họ giúp đỡ, trên đường di chuyển về Sài Gòn. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con trai thứ ra đời khi tôi đã ở tuổi 40. Bạn bè của anh thường lui tới thăm hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa. Chúng tôi muốn sống yên bình, nhưng thấy luôn luôn có những phân biệt, ngăn cản bước tiến của con mình từ phía chính quyền mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra đi định cư ở Mỹ trong chương trình H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu, bắt đầu một cuộc đời mới ở một xứ sở mới đã dang tay đón nhận chúng tôi.

Chúng tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm đẹp nhất cho việc tạo dựng một cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đã bị cướp đi, phải bắt đầu một cuộc đời mới bằng hai bàn tay trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách gì lấy lại được. Thật là nhiều thua thiệt, chỉ còn những an ủi là những ngày tháng cuối đời được sống bình an nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm quê hương.

Anh đã từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đình chúng tôi đã cùng nhau trở lại “thiên đường” tưởng đã đánh mất, sau 19 năm tuổi trẻ, đã qua đi vô ích, tuổi đẹp nhất của một đời người.

Qua những gian khó ban đầu ai cũng phải sống như thế, chúng tôi đã hội nhập được với “dòng chính,” các cháu học hành nên người, cuộc sống không đến nỗi kham khổ.

Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hãnh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.”

Kén Chồng Cho Con

Kén Chồng Cho Con

Tác Giả: Hoàng Dũng Tuấn

Ở xứ Mỹ này, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra., chính tôi cũng có dính dáng vào. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường, không dám tiếp xúc với ai. Thực sự cô đã băm đi băm lại nhiều lần rồi và năm nay ắt cũng gần bốn mươi cái xuân xanh. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách hơn ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác viếng thăm chuyện vãn. Những chuyện trên tôi chỉ nghe trong cộng đồng người Việt ở Virginia bàn tán thế thôi. Oâng bố cô gái tôi biết vì trước bảy lăm tôi là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái tôi cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, job thơm, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ tôi thêm tiêu chuẩn chống cộng vào đây vì trong các cuộc mít ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẩn cô gái theo. Để tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Chỉ có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, đẹp quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.
Tôi xin dài dòng về những gì tôi biết về ông bà và cô gái của họ.
Năm 1973 tôi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Tên ông ta có họ Tôn Thất, tức là bà con với các vua triều Nguyễn. Ở Huế, người ta thường gọi những người thuộc hoàng tộc là mệ. Mệ đây không phải để chỉ các bà già mà là những người, già, trẻ, lớn, bé có họ hoàng tộc đều là mệ tuốt. Các mệ đi đâu, ở đâu cũng vậy, đều có một phong thái rất đặc biệt. Dù giàu, nghèo, sang, hèn họ đều có cách sống phong lưu, cách nhìn, cách nói trịch thượng không cố ý. Nó như có sẵn từ trong máu, thứ máu di truyền hoàng tộc mà chính họ cũng không biết được.
Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng tôi phải về tỉnh họp. Thấy mệ đại tá tỉnh trưởng tôi nhận ra ngay phong thái đó. Mệ như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Mệ hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do Trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm. Chẳng bao giờ mệ giữ kẻ điều gì. Mệ muốn là mệ làm. Tôi xin kể một chuyện thực. Một lần mệ báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả tôi ra bãi đáp nghênh đón mệ. Trực thăng hạ xuống, mệ xuống đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong mệ lẵng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Mệ đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Đột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Mệ đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện này – chỉ có sai về thời gian thôi – tôi mà sáng tác, nói láo, xin Trời đánh tôi.
Mệ có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa hành chánh tỉnh, mệ thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là mệ vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc mệ thường hút, đưa ra, mệ lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho mệ, mồi thuốc xong mệ bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết mệ vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính mệ tìm cũng không ra, rồi mệ lại hỏi “Có thuốc không?”. Mà chẳng phải mệ nghiện thuốc, mệ chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có mệ là tôi được cái thú đếm xem mệ hút bao nhiêu điếu thuốc trong buối họp. Đến ngày mất nước, mệ không bỏ chạy, mệ đi tù. Lúc ở trại Long Thành tôi có gặp mệ. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ, nên trông mệ chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó mệ được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể – Khi tôi qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp mệ một lần. Chuyện này hồi sau sẽ rõ.
Còn chuyện tôi biết cô gái út của mệ cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của tôi ngồi than thở là tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rĩ bảo “Nhưng trong túi moa, tài sản có mấy nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!” Tôi đề nghị mua một món đồ cổ gì đó, các mệ chỉ thích đồ cổ để bày trong tủ thôi. Thế là hắn giao tôi nhiệm vụ đó. Tôi về đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Mệ đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Tôi ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại , nhưng tôi ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên tôi đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là tôi và em nói chuyện sa đà, đến chiều tôi lại ôm cái tô về. Sở dĩ tôi đến được nhiều lần như thế là vì tôi về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi này sai tài xế lấy xe Jeep đưa tôi đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì.
Tuy nhiên, một lần mệ tỉnh trưởng về sớm “Moa nghe mấy bửa ni toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con Uùt Mai lớn chút nữa, lúc đó, mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái đĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!” Dù sao thì em cũng đã cho tôi hôn em một lần và chúng tôi cũng có tặng hình nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau”. Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp-bê. Hình tôi tặng em là cảnh tôi đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình tôi ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng”Anh hứa yêu em suốt một đời”.
Đáng lẽ cuộc tình của tôi với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Tôi đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào tôi không rõ. Hình em tặng tôi cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, tôi vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em tôi tự tin bao nhiêu thì nay tôi không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ tôi cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa: Tôi đứng bán Mc Donald.
Cho đến một sáng chủ nhật, tôi ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe tôi thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là vợ chồng mệ đại tá tỉnh trưởng của tôi ngày trước. Tôi thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng mệ Tôn Thất của tôi vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng cứ ngồi nhìn tay cảnh sát, như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe…, và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ tôi thông dịch. Tôi nói “Sorry, he chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!” Hắn ta chán cả tôi nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó, mệ mới nhìn tôi cười chím chím rồi hai ông bà vô tiệm. Tôi có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên tôi nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỹ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại , sá gì đến tôi mà đèo bòng nên tôi phe lờ. Trong lúc tôi đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo:
“Toa thấy moa có lanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket”.
“Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế hắn còng tay ngay”.
Ông ta ngạc nhiên.
“Ủa, răng toa biết moa?”
Lúc đó tôi mới bảo là tôi có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là chúng tôi vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, chúng tôi đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác: “Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình rứa?”
“Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy, ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gả con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa.” Ông ta xen vào:
“Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi phải chợ búa phiền phức”.
“Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu.”
Chuyện trò đến đấy thì tôi xin cáo từ, ông bà có mời tôi ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Tôi không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên tôi quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật đi chợ, tôi lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời tôi ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, tôi theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái Uùt của ông bà có pha trà mời tôi. Tôi không dám nhìn, sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, tôi nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa.
Thực ra tôi biết thân phận mình nên dững dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe tôi nói lại những nhận xét, cảm tưởng của tôi lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên tôi chẳng dại gì nhắc đến chuyện tôi tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét tôi ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời tôi tôi đến uống trà trò chuyện. Tôi không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà tôi đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, tôi nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay trong tầm mắt tôi. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại tôi và tặng tôi một nụ cười. Tôi chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu tôi. Nhưng tôi đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như tôi tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, tôi đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì tôi có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm tôi đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim tôi rung động nhưng đầu óc tôi tỉnh táo. Tôi cứ dặn tôi”Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối , lại rước thêm cái xấu hổ vào thân, nhớ nhé!” Có câu hát “Khi cố quên lại càng nhớ thêm. “. Tôi thì khác, hể cố quên là tôi quên bẵng. Tôi lại hay nãn chí, thấy chẳng hy vọng gì nên tôi cứ lơ là dần.
Cho đến một buổi sáng, tôi nghe điện thoại reo.
“Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà.”
Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào ngây thơ không thể tả. Tôi giả giọng Huế hỏi lại.
“Ba mạ cháu ở mô rứa?”
“Dạ ở nhà”.
“Còn cháu ở mô?”
“Dạ cũng ở nhà”.
“Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ.”
Tôi phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi tôi? Khi tôi đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời , dưới đất. Đến khi giả từ, ông bà lại hỏi:
“Bà cụ có mạnh giỏi không?”
“Dạ, cám ơn. Oâng bà già nào lớn tuổi không bệnh này thì bệnh kia.”
Tôi tố thêm một đòn về gia cảnh của tôi.
“Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta. Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ.”
Tưởng ông bà dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc tôi đi làm. Mẹ tôi chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của tôi. Theo mẹ tôi kể, ông bà cứ suýt soa rằng tôi có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Oâng bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ tôi vừa kể vừa cười coi bộ tôi lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Tôi không nói gì, sợ mẹ tôi buồn, nhưng tôi bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gả cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như tôi. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Tôi đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối tôi không tấn công. Tôi bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững. Thế nên tôi rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Tôi chuẩn bị đi thực). Xong tôi chờ đối phương đi nước thứ hai.
Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, tôi được điện thoại của mẹ cô gái gọi.
“Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?”
“Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất”.
“Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ”.
“Dạ cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ.”
Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Oâng bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại vẫn giữ được tướng an toàn.
Sáng đó, thấy tôi ăn mặc tươm tất, mẹ tôi lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện này lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết tôi đã yêu cô gái. Chính tôi cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Tôi không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến tôi cảm động và tôi tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng tôi với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?
Đến nơi tôi để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Tôi thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, tôi đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, tôi đã chào cờ hát quốc ca…Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim tôi theo thời gian như tình tôi thương mẹ, khi mất nước , mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Kẻ mất nước như mất hồn, như người thất tình.
Quên thì thôi, nhớ lại lòng cứ thẩn thờ, ngơ ngẩn.”Ôi! ngựa Hồ hí gió Bắc”…Một lý do nữa là tôi nghĩ “Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa tôi hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục.” Thấy người ta tử tế tưởng bở” Tôi yêu cô, ông bà tử tế với tôi , nhưng chuyện cô yêu lại tôi là viễn vong, vô căn cứ. Cho nên khi nghe tôi bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, tôi mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã muộn rồi nên đành lãng ra, vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẫn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách “Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế này”. Nghe chào cờ xong, tôi đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô nhờ tôi đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Tôi đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo tôi vô nhà nhờ chút chuyện. Tôi lại vâng lời. Tôi ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi tôi sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy tôi thương mẹ , cô đồng ý ngay. Tôi nghe mà tưởng mình mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gả con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như tôi!? Tôi biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên tôi xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi tôi quyết định về ân sũng đó. Bà mẹ chịu liền. Thế rồi một buổi chiều, tôi đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào tôi mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng tôi nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.
“Chào chú ạ!”
“Chú đến thăm Mai”.
“Dạ, mời chú vào”
Cô lùi lại, tôi bước vào, cô gần như đứng sát bên tôi. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thướt tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn tôi nên khi cô ngước nhìn , đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì.
“Có ông bà cụ ở nhà không?”
“Dạ không, mời chú ngồi”
Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hợp bánh ra.
“Mời chú”
Tôi cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười. “Trà còn nóng, cháu vừa mới pha”
Tôi cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của tôi được. Thật khó tin. “Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?
“Dạ không”.
“Thế mạ có nói chuyện này không?”
“Dạ có”.
Không khí như căng thẳng, tôi phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn. “Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế này, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui.”
“Dạ”
“Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm.. Ra tù, chú làm đủ nghề:đạp xích lô, bán vé số…Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh , đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng.” “Chú lập gia đình sẽ hết buồn ngay”.
“Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi muốn lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn.” Cô ngước lên nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?”
“Chú chưa lập gia đình, và chú có yêu ai đâu”.
“Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin”
“Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì, khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất nhà tan, vui thú gì mà yêu với đương”.
“Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?”
“Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất, tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với”. “Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú , khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai.”
“Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù.”
“Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế, mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bọn công an rượt chạy muốn chết.”
Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Tôi biết cô đã hết bối rối rồi.
“Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù. Phải không?”
“Đâu có như chú gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy vẫn ở Saigon, cháu đến thăm mấy lần”
“Gặp nhau mừng mừng tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ”. “Anh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên”.
“Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay”.
“Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao. Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Đến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi.”
Rồi cô thở dài.
“Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được.”
“Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?”
“Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy…Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn”.
“Để chú đoán có đúng không nghe. Đó là một chàng sĩ quan Đà Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn loại mánh mung như thuốc Tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề này mau giàu lắm. Anh ta đi xe Dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?”
“Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Saigon.”
“Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay.” Cô cười bí mật.
“Đố chú biết đó. Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Đức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ”.
“Chú có ngồi đó, chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Đại…Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà.” Tôi nhìn đồng hồ.
“Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều mong Mai thông cảm. Về phần chú, thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên yên lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao. Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú motä thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau này hối cũng không kịp”. Nói xong tôi định đứng dậy. Cô ngước nhìn tôi vẽ giận dữ.
“Thật, xin lỗi chú chứ chú … ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?”
“Trời đất! Làm gì có chuyện đó…Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mới chú mà lại yêu chú được?!”
“Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều này. Theo cháu. Đi ngã này.”
Cô đi trước, tôi rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng đi vào.
“Vô đây”.
Tôi sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cở tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường:
“Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?”
“Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai”.
Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa tôi.
“Nhìn kỹ xem là ai”.
Tôi không tin ở mắt mình. Đó là hình tôi, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”. Tấm hình tôi tặng cô cách đây hơn hai mươi năm cô vẫn còn giữ, hình cô tặng tôi thì tôi vất nơi nào, lúc nào không rõ.
“Oái!hình chú đây mà!”
Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía tôi, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận tôi vô tình. “Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay”.
“Đâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi…Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?”
“Chú nhớ chứ, nhưng chú mặc cảm, đâu có dám mơ đến giây phút này. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?”
“Mặc kệ…Người ta tìm muốn chết!”
Yên lặng một lát.
“Hôm nào đi?”
“Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú..chú…”
Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe. Cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.
“Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó. Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em, rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?”
“Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả”. “Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!”
Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.
Đây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hòa. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Đó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con dành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang ngắc ngoải trong ngục tù Cộng Sản.
Nhưng chuyện cổ tích nào cũng phải có tiên, Phật xuống hóa phép mầu cho những người hiếu hạnh , chung thủy được viên tròn hạnh phúc. Ở đây mấy cô tiên là chị của vợ tôi. Các cô vượt biên, học thành bác sĩ, tiền vô như nước. Thương cô em ở lại cùng mẹ nuôi cha, các cô bao thầu hết mọi chi phí đám cưới – dĩ nhiên tôi cũng chẳng có xu teng nào – lại còn giúp em một cơ sở nhỏ làm ăn…Hôm đám cưới, mấy chị em mừng rỡ, tíu tít chuyện trò có khi quên cả chàng rễ.
Vợ chồng tôi phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi, cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ tôi chỉ thấm môi nên tôi phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Tôi không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ tôi cũng say. Oâng say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai tôi lè nhè.
“Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con út Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn chi mô. Mà vợ chồng moa không biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già! Rứa mới chết chớ. Rứa là gặp đứa mô tuổi bằng cụ mi cũng rước về nhà cho con nhỏ ngó mặt. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó mô… Đáng lẽ tôi còn dài dòng, nhưng tạm chấm hết ở đây vì tôi nghe vợ tôi nôn oẹ, ói mữa gì trong phòng tắm. “Trăng mật cho cố, bây giờ ói mật xanh mật vàng. Rõ khổ!”.

Một đời người, một ước mơ

Một đời người, một ước mơ

Nguoi-viet.com

Cô Hai Vườn Chuối

Trời tối đen như mực. Trên chiếc ghe nhỏ chỉ đủ sức chứa hai người, đứa trẻ 11 tuổi đang nằm ngủ co ro, gối đầu lên chân một người phụ nữ. Trước, sau là hai người đàn ông đang chăm chú nhìn vào màn đêm phía trước, đôi tay không ngừng chèo.

“Bi, dậy đi con, leo lên ngồi cạnh bác Tuấn đi, để Má tạt nước ra,” tiếng của người phụ nữ khẽ nói. Đứa nhỏ choàng thức giấc, nước đã vào nửa mạn thuyền.

“Ráng ăn đi con, đường còn xa lắm. Cơm với trứng chiên con thích ăn nè.”

“Ủa sao mình nấu cơm được vậy Má?”

“Của mấy cô chú bên thuyền bên kia đưa qua. Ăn đi con.”

Đứa nhỏ cầm chén cơm ăn ngon lành. Món ăn nó thích nhất mà. Thêm vào đó là một ngày một đêm không có gì vào bụng.

“Ráng đi con. Rồi mọi chuyện sẽ tốt hơn,” ông linh mục Tuấn (nó luôn gọi như thế) vừa nói vừa đều tay khua mái chèo.

Nó không biết tốt hơn về cái gì, nó chỉ biết rằng Má không cho nó quay đầu nhìn lại ngôi nhà của mình trong buổi sáng bước ra cửa, dù biết rằng phía sau có Ngoại đang nhìn theo cho đến khi Má và nó khuất khỏi con hẻm. Nó chỉ biết rằng trong đêm cuối cùng ngủ ở nhà, Má nói với nó là “mình đi đến một nơi mà con sẽ có khoảng sân rộng phía trước nhà để trồng hoa.”

***

Hơn hai mươi năm rồi, tôi vẫn nhớ không sai một chi tiết nhỏ nào trong đêm hôm đó. Chuyến đi vượt biển lần đó không thành.

Thế rồi tôi quay trở lại trường học. Má quay trở lại với chiếc xe đạp cọc cạch mỗi ngày đến sở làm. Lúc đó, tôi nào biết đồng lương cắc cỏm ba cọc ba đồng của cái thời “xếp hàng mua gạo”, hay “mua thịt theo chỉ tiêu” nó đáng sợ biết chừng nào. Vì tôi nào có được “tận hưởng” một ngày nghèo khó. Tôi vẫn được theo học theo cách “trưởng giả”, đó là được cô giáo đến nhà dạy thêm. Cái thời 7 ngày cúp điện hết 6 ngày rưỡi đó làm cho bọn con nít chúng tôi thích thú vì mỗi tối được chơi đèn cầy, đóng vai hoàng tử công chúa. Vì thích thú nên tôi đâu có thấy cái vất vả của Má ngồi quạt cho tôi mỗi khi tôi ngồi học bài.

Tuổi thơ của tôi cứ thế lớn lên trong sự hồn nhiên và những tiếng cười trong vắt. (Hình: tác giả)

Tuổi thơ của tôi cứ thế lớn lên trong sự hồn nhiên và những tiếng cười trong vắt. Má vui và thưởng cho tôi những tháng tôi được xếp đầu lớp. Má bắt tôi nằm xuống để tự tôi đếm từng nhịp roi vào những lúc tôi không nằm trong “top 3” của lớp. Má mang tôi đi khắp mọi nơi. Những người bạn Gia Long của Má trở thành “bạn già” của tôi. Có thể vì như thế mà tôi thấm nhuần cái mộng tưởng của những cô nữ sinh Sài Gòn ngày xưa. Có thể vì như thế mà tôi thuộc nằm lòng tất cả những bài hát “Vàng” một thời. Và cũng có thể vì như thế, mà tôi cũng luôn khắc khoải trong suy nghĩ của tôi về một Sài Gòn hoa lệ “đâu hết rồi giọng hát Khánh Ly.”

Rồi sau này, cái ngày đưa tôi ra phi trường, Má bỏ vào hành lý của tôi 1 lá thư.

Chuyến bay dài hơn mười tiếng, lần đầu tiên đi xa nhà đến nửa vòng trái đất. Tôi không sao ngủ được dù đèn trong máy bay đã tắt. Mọi người xung quanh đã ngủ say. Có lẽ họ đã quen với những chuyến bay dài thế này. Tôi lấy lá thư của Má ra xem.

Má tôi, sinh viên luật khoa, Đại học Luật Saigon và là thư ký của Phó thủ tướng VNCH Phan Quang Đán. Ngày 30 Tháng Tư, 1975 cũng là ngày chấm dứt tất cả ước mơ, sự nghiệp của Má tôi, cũng như của rất nhiều những người ưu tú của thế hệ đó.

Má tôi đã gói ghém tất cả những mộng ước, những bay bổng của một thời nữ sinh Gia Long nhiều mộng đẹp và gửi vào tương lai của tôi. Tôi rời khỏi Việt Nam với vỏn vẹn $300. Hơn ai hết, tôi hiểu, Má tôi là người dân bình thường. Rất bình thường!

Chiếc máy bay cất cánh đưa tôi rời khỏi Việt Nam cùng với những kỷ niệm của 1 thời đi học, trường lớp bạn bè, và hơn tất cả là 1 ước mơ cháy bỏng mà những người thuộc thế hệ của Má tôi, những người nữ sinh Áo Tím, Gia Long phải gác lại vì biến loạn. Lúc đó tôi như kẻ mang trọng trách thực hiện ước mơ mà Má tôi và những cô, dì, chú, bác, chưa, và không làm được.

Tôi bắt đầu những ngày tháng một mình nơi xứ người. Thời đó, dễ gì để có được cuộc gọi điện thoại về nhà. Vì cước phí rất cao. Tất cả chỉ qua email. Tôi không có máy tính riêng. Má cũng chưa biết dùng internet. Mỗi sáng tôi đến trường rất sớm, tranh thủ vào thư viện để gửi mail. Má cũng đạp xe đến một tiệm internet để nhờ đọc và gửi mail cho tôi. Thời gian đó, những lá thư điện tử của Má có sức mạnh vô cùng để tôi có thể thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, học bài ,đến trường, rồi đi làm thêm, và khi về đến nhà là 1 giờ sáng.

Ngôi trường đại học, nơi tôi thực hiện ước mơ của mình và của một thế hệ của Má tôi. (Hình: tác giả)

Má tôi biết hết những điều đó cho dù tôi không một lần kể ra. Có lẽ tình thương yêu và sự từng trải cùng với nghị lực phi thường của người phụ nữ đã mang đến cho Má tôi những nhạy bén kỳ lạ.

Những năm tháng nơi xứ người, tôi sống với người dưng khác họ cũng có, người “dưng cùng họ” cũng có, sống một mình cũng có. Tôi hiểu được giá trị của cái gọi là “gia đình”, và hơn thế nữa, tôi hiểu được cái gì gọi là “nước mắt chảy xuôi”. Sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ học tập, tôi nhận được cũng khá nhiều thành công trong công việc. Tôi tự hào tất cả những điều đó do tôi đã cố gắng và có được bằng chính bước đi của mình. Nhưng chưa một vinh quang nào, mức lương nào, hay cái title nào trên cái name card có thể làm cho tôi hãnh diện bằng câu nói của mọi người “Má con đúng là người phi thường”, hay là lời nói từ những người bạn: “Mày có hai Bà Mẹ trên cả tuyệt vời”.

Bao nhiêu năm qua, Má tôi vẫn làm bạn với chiếc xe đạp cũ kỹ mỗi ngày đến chỗ làm. Tôi cũng không muốn Má nghỉ làm. Vì tôi hiểu tuổi già sẽ làm cho người ta rất dễ cảm thấy cô đơn. Má vẫn ủng hộ tôi trong những gì tôi làm, tôi muốn. Má thương cả những người bạn của tôi như chính con của bà.

Tôi cũng gặp thất bại như người ta. Cũng đánh mất niềm tin trong một lúc nào đó trong đời. Cũng sai lầm trên bước đường mình đi. Cũng cố chấp cho rằng mình đúng trong những quyết định sai lầm.

Má không bỏ rơi tôi. Chưa bao giờ rời xa tôi. Má luôn đứng ở nơi nào đó, rất gần, trong cuộc đời tôi…dù Má không sanh ra tôi.

Cái Lủng, cô gái bán chè đậu

Cái Lủng, cô gái bán chè đậu

Nguoi-viet.com

Tác giả: Tô Vũ
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

“Em lạy các anh mờ! (mà). Cho em về đi, em còn có chồng và con ở nhà…mờ…!”

Tiếng van lơn khóc lóc nài nỉ của cái Lủng oang oang át hẳn cả tiếng máy xình xịch của chiếc tàu kéo (tug boat) đang nặng nề rề rà kéo chiếc sà lan chở đầy nhóc những con người chạy loạn vào chiều 30 tháng 4 năm 75 ở bến tàu Sài Gòn.

Chiếc sà lan (một loại phà không máy) của hãng Caric bên kia sông đã cặp bến từ xế trưa, giờ nay chất đầy trên đó hằng mấy trăm sinh mạng mặt mũi còn mang đầy nét hoảng hốt sợ sệt. Một số người đứng, số còn lại đang cố ngồi im trên sàn trong lúc người tài công chiếc tàu kéo đàng trước xoay người dùng hai bàn tay chụm lại trên miệng la lối rát cả cổ:

“Bà con cô bác ơi! làm ơn đứng vô trong một chút kẻo rớt hết xuống sông đó.”

Di tản trên chiến hạm Mỹ, tháng 4, 1975. (Hình: Getty Images)

Chiếc sà lan chở đã khẳm chỉ còn cách mặt nước vài ba tấc đang lắc la lắc lư như người say ruợu, nếu chỉ chở thêm vài chục người nữa có thể sẽ chìm xuống lòng sông ngay. Lủng đang bán chè đậu trên bờ cạnh chiếc sà lan cặp cuối đường Nguyễn Huệ ấy thì bị đoàn người đông như kiến chen lấn và xô đẩy Lủng lên sà lan luôn.

Cầm cái đòn gánh trên tay Lủng khều khều cái dây buộc mong kéo chiếc phà lại hầu nhảy lên bờ, nhưng chợt nghe cánh tay trái đau nhói như có ai đang nắm chặt kéo Lủng lại. Lủng thất vọng la toáng lên nhưng chẳng có ma nào thèm nhìn đến nó. Lủng chán nản lặng nhìn con phà rẽ nước theo chiếc tàu kéo mà lắc đầu chịu trận, đôi dòng lệ tuôn tràn trên vẻ mặt còn đầy nét thảng thốt.

Lủng nhìn chiếc phà từ từ tách bến mà trong ruột thì nóng nảy bồi hồi chẳng biết làm sao. Nó đứng đó bất động, một tay buông thõng làm rơi chiếc đòn gánh xuống sàn. Con tàu và chiếc sà lan nặng nhọc từ từ tiến ra giữa dòng sông Saigon vào một chiều tháng 4  đen đầy náo động, và trong lòng những người ở trên sà lan bấy giờ cũng như đám người còn lại trên bờ cũng giao động không kém!

Những chiếc máy bay trực thăng di tản của hạm đội Thứ Bảy Hoa Kỳ cùng toán trực thăng của không quân Việt Nam Cộng Hòa rộn rịp bay sà sà bên trên ngọn cột cờ thủ ngữ hướng về phía biển. Tiếng cánh quạt trực thăng đập xoành xoạch làm kinh hãi đoàn chim chiều đang đậu trên các cây sao gần đấy, chúng hoảng sợ bay túa ra mỗi con đi mỗi ngả.

Một chiếc trực thăng khác bay trờ qua trên đầu chiếc sà lan, chở đầp ắp những người di tản đang lắc lư chao mình qua lại. Đám người dưới sà lan hoảng hốt hỗn loạn một số ngồi thụp xuống né tránh số còn lại ngước mắt nhìn lên, có kẻ lại cố dòm tìm trong đám đông trên trực thăng xem có ai là bà con hay thân nhân quen biết. Nhưng chiếc trực thăng vội bẻ hướng lướt lên cao thật nhanh về phía Thủ Thiêm rồi mất dạng dưới rặng dừa nước.

Lủng nhìn theo thấy bóng hai người đàn ông đang cố bám chặt vào hai cái càng đáp của chiếc trực thăng bên cạnh anh xạ thủ đại liên người Mỹ. Một người cố ôm như muốn cuộn tròn người vào cái thanh sắt đó trong lúc tiếng gió của chong chóng trực thăng quạt nghe phành phạch làm tung cả chiếc áo trắng đã đứt hết khuy nhưng hãy còn dính lại một phần bên vai trái.

Lủng lại gào lên khản cả tiếng nhưng chẳng có ai thèm đáp! Ai ai cũng đang ở trong tình trạng hoảng hốt nhọc mệt vì chen lấn và nỗi sợ sệt nhìn thấy rõ nét trên những gương mặt nhễ nhại mồ hôi vì không biết mình sẽ đi về đâu và sẽ ra sao? Họ chỉ biết nhanh chân rời bỏ cái thành phố này cái đã, cái thành phố thân yêu mà có thể ngày mai ngày mốt đây sẽ là những ngày đầy bất trắc!

Thân ai nấy lo hơi đâu ai mà để ý đến tiếng khóc la của một cô gái nhỏ một tay đang ôm chặt cái nồi nhôm.

Có tiếng “tõm” lớn như tiếng một vật gì nặng vừa rơi xuống sông, mọi người đứng ở góc đó nhớn nhác hẳn lên, nhốn nháo hỏi han rồi lại ngồi xuống vì sợ sà lan lật. Cũng có mấy người đàn ông dạn dĩ đứng phắt lên nghển cổ dòm xuống dòng sông đầy lục bình trôi với ánh mắt tìm kiếm. Bỗng có tiếng người đàn ông đứng gần lan can khóc ré lên:

“Trời ơi, trời… cứu giùm con tôi với bà con ơi! Nó mới rớt xuống sông rồi, tôi không biết lội bà con ơi!”

Mọi người ngó chăm chăm vào người đàn ông mặc chiếc áo trắng đã ngả màu cháo lòng đang run rẩy như cầy sấy mặt cắt không còn chút máu, rồi lại nhìn nhau xem có ai nhảy xuống tiếp cứu không. Nhưng đám đông hoàn toàn im lặng, ai ngồi đâu ngồi đó, ai đứng đâu đứng đó, thoáng vài giây có mấy tiếng chép miệng thở dài lẫn những ánh mắt lấm lét nhìn nhau sợ sệt. Tiếng người đàn ông khóc con lại rú lên nghe áo não giữa ban chiều vang dội cả một khúc sông, tiếp đến có tiếng đấm ngực thình thịch của ông, rồi soạt một cái – tiếng khóc im bặt, chỉ nghe thêm một tiếng “ùm” nữa dưới sông! Mọi người hoảng hốt nhốn nháo đứng lên. Một người đàn bà cất tiếng chửi đổng: Mẹ cha chúng nó, đàn ông thanh niên cả đám mà chết nhát hết chẳng có đứa nào cứu giùm người ta! Có tiếng chửi thề của một thanh niên mặc mỗi chiếc quần xà lỏn đen vai để trần nhễ nhại bực dọc đáp lại một cách bặm trợn:

“Đ.m. thân ai nấy lo bà ơi, bà có giỏi thì nhảy xuống cứu đi!”

Lủng cũng ngồi trong đám người đó lấm lét nhìn xuống dòng sông một cách sợ hãi, tay chân run rẩy chứng kiến thảm cảnh vừa mới xảy ra mặt mày xanh như tàu lá chuối non. Nó im bặt ngay không dám khóc nữa, nhưng trong miệng vẫn còn lúng búng những tiếng rên ư ử như con heo vừa mới bị cắt tiết. Lủng quay qua nhìn người đàn ông ngồi cạnh mình, bây giờ Lủng mới nhận rõ là anh ta độ trên dưới ba mươi, khuôn mặt khắc khổ với chiếc cằm hơi bạnh, trên người khoác một chiếc áo thun màu cứt ngựa đã sờn rách bỏ ra ngoài chiếc quần dài rằn ri. Lủng đoán anh ta là lính chi đó và anh ta đang cố nắm chặt cánh tay phải của Lủng. Lủng dằn mạnh cánh tay cố giật ra và kêu tiếp:

“Ông ơi, đừng có nắm tay tui nữa, nắm chặt đau quá đi, tui không có nhảy xuống sông đâu mà ông sợ.”

Nãy giờ từ lúc anh chàng này cố đẩy Lủng từ dưới bến tàu lên sà lan bấy giờ mới lên tiếng:

“Thôi, im mẹ nó đi, đừng có la khóc, tối rồi sắp qua kinh Cần Giờ đó, tụi VC mà nó nghe được là nó pháo cho chết cả đám đó mẹ!”

Lác đác có vài tiếng súng rời rạc cuối kho năm, Lủng ngước mắt nhìn về phía kho, người là người chen chúc nhau bên cạnh cầu tàu. Tiếng la, tiếng kêu khóc râm ran cả một góc trời. Có tiếng ca nô rẽ nước chạy vụt qua bên phải chiếc sà lan bắn tung tóe nước lên làm một số bà con ngồi cạnh bìa ướt như chuột lột. Lủng ngồi yên, hai tay bấy giờ ôm chặt nồi chè còn một nửa. Chiếc đòn gánh đã lót dưới đít tự bao giờ để khỏi ướt chiếc quần lãnh đen còn mới. Lủng vẫn còn hậm hực, thút thít phân bua: Tui có muốn đi đâu, tui đang bán chè trên bờ mờ!…, mấy người ai đi thì đi chớ sao lại đẩy tui rồi kéo tui lên đây mần chi…hu hu…chồng ơi, con ơi! Tiếng than van của Lủng bây giờ lại bị át bởi tiếng xình xịch của chiếc tàu kéo. Bà con ai nấy mệt nhoài, có người tìm được một chỗ nằm dài trên sàn ngoẹo đầu như ngất xỉu chỉ còn thấy lồng ngực là còn thoi thóp.

Bảy giờ tối, trời đã chạng vạng, ánh sáng yếu ớt trải trên dòng sông làm khó nhìn thấy rõ mặt người. Sà lan đang đi vào một khúc sông nhỏ hai bên dày đặc những đám ô rô và dừa nước. Anh thanh niên ngồi kế Lủng quay mặt lại hướng mắt nhìn về phía Saigon lần chót. Saigon đèn đuốc vẫn sáng choang một góc trời, anh ta chậm chạp lắc đầu thở dài thọc tay vào túi quần móc gói thuốc Salem lấy ra một điếu đưa lên miệng. Tiếng bật lửa zippo trên tay anh kêu nghe đánh “tách,” một vệt sáng lóe lên anh vội đưa ngọn lửa vào điếu thuốc thì có tiếng thổi phà như ai vừa thổi cho tắt ngọn lửa. Một giọng nói sợ sệt vừa đủ nghe của một người đàn ông đứng tuổi ngồi kế bên:

“Trời ơi cha nội, bộ muốn chết hết cả đám hay sao mà bật lửa hút thuốc vậy cha? Tụi VC mà nó thấy ánh sáng là nó pháo cho một quả chết tươi hết bà con sao?”

Tiếng cằn nhằn vừa dứt thì có tiếng Lủng thay vào…

“Ông ơi ông, phà nầy đi đâu dzậy?

Tiếng anh thanh niên cằn nhằn đáp:

“Thì kéo ra Cần giờ rồi ra biển tìm tàu Mỹ để đi chớ đi đâu mà hỏi.”

Lủng lại nức nở: Cha mẹ ui, tui có muốn đi Mỹ đâu, tui đang bán chè mờ, tối nay chồng con tui không thấy tui về nó chờ chết thôi…trời ơi là trời…! Sau đó chỉ nghe tiếng Lủng rên ư ử lùng bùng trong miệng và như có bàn tay ai đang bụm miệng nó lại.

***

Sau một ngày làm việc mệt nhọc vì phải di chuyển nhiều, Phong vừa về đến nhà vội vàng vất chiếc cặp da đựng giấy tờ trên bàn viết, tụt ngay đôi giày và để nguyên cả áo quần lăn đùng lên giường đánh một giấc cho đến gần nửa đêm. Hạnh, vợ Phong phải đi làm ca đêm từ 6 giờ chiều đến 1 giờ sáng mới về. Trước khi đi nàng cũng đã lo cơm nước buổi tối sẵn sàng cho chồng để khi Phong về thì chỉ có việc lôi trong tủ lạnh ra hâm lại. Các con của Phong đứa gái phải đi babysit cho đám con ông bà sponsor ở làng kế cận và hai cậu con trai thì phải đi học lớp đêm ở Đại học cộng đồng cách nhà ba blocks đường. Hôm nay là ngày Phong phải ra phi trường Cleveland từ sáng sớm để đón thêm ba gia đình người Việt di tản nữa mới đến định cư tại thành phố này sau khi họ đã hoàn tất thủ tục tại trại tị nạn Indiangap tiểu bang Pennsylvania miền Đông Hoa kỳ. Lo thông dịch và gìới thiệu cho bà con với các sponsors mới của họ. Sau đó Phong lại phải đi đón một số bà con khác đã hết hạn ở với sponsors để đưa họ ra thuê phòng trong những chung cư rẻ dưới phố. Rồi đến việc phải chở họ đi làm các thủ tục giấy tờ, giới thiệu các công tư sở đã nhận họ vào làm. Ngần ấy việc trong ngày đã là ngất ngư, nên mỗi chiều tan sở về đến nhà là Phong mệt nhoài chả thiết ăn uống gì chỉ lên giường mong đánh một giấc cho đã con mắt.

Phong nhận công tác Field Rep. của thị xã Cleveland bang Ohio này từ đầu tháng 10 năm 1975, đúng 6 tháng sau khi rời Việt Nam sang Mỹ cùng với gia đình. Thật ra công việc cũng chẳng lấy gì làm khó khăn cho lắm, chỉ là cái phải di chuyển nhiều nên lắm lúc Phong cũng không có cả thì giờ dừng lại đâu đó để ăn trưa nên mỗi trưa vừa lái xe vừa cạp hamburger và tu (uống) soda là chuyện thông thường. Nhưng hôm nay đặc biệt có một gia đình hai vợ chồng trẻ mới đến song chưa có sponsor nên Phong phải lo liệu cho họ ngay một chỗ ở trong căn chung cư nửa là hotel nửa apartment sáng nay ở dưới phố. Người chồng là một quân nhân cấp úy và cô vợ, chồng giới thiệu là vợ mình nhưng cô vợ thì cố gạt ra và luôn bảo rằng tôi chỉ là bạn di tản cùng ông ấy chớ không phải vợ con chi hết. Phong chưa hết ngạc nhiên thì cô “vợ” nói tiếp:

“Ông này là thiếu úy Phụng, còn tui tên là cái Lủng, mấy bà Bắc kỳ di cư xóm tui hay gọi tui là: cái Lủng bán chè đậu (cười). Mấy tui là bạn di tản chớ không phải là dzợ chồng, nhưng đi đâu ông này cũng cứ giới thiệu tui là dzợ của ổng ….nghe kỳ woá!”

Trong khoảng thời gian làm công việc tái định cư cho đồng bào bà con người Việt mình, Phong cũng đã gặp nhiều trường hợp tương tự như vậy nên cũng không mấy ngạc nhiên cho lắm. Dẫu vậy nhiều đám sau một thời gian ngắn ở chung với nhau, đôi khi chỉ một vài tháng thì họ cũng thành chồng thành vợ, hoặc chung sống như đôi tình nhân già nhân nghĩa non vợ chồng. Nghĩ đến đó nên Phong phần vì tôn trọng quyền tự do riêng tư của họ, phần thì cũng không muốn hiểu thêm những chuyện rắc rối đó làm chi đôi khi làm cho họ khó xử và cũng lẫn cho mình nên ít khi Phong hỏi thêm, nhưng trường hợp này có dính dáng tới vấn đề nhận lãnh tiền trợ cấp chung (welfare) nên Phong định bụng để đó đến ngày mai sẽ hỏi rõ hơn vì bấy giờ đã chiếu tối rồi.

Sau khi lục tủ lạnh hâm đồ ăn tối, bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang. Phong nhấc máy nghĩ bụng chắc Hạnh hôm nay lại được về sớm nên gọi mình đến đón. Nhưng không, đầu dây bên kia là tiếng một nhân viên trực ở Sở Cảnh Sát địa phương:

Thưa, có phải ông Phong ở văn phòng Human Relations không ạ?

Dạ chính tôi đây..! Có việc gì đó thưa ông?

Xin ông vui lòng đến sở cảnh sát quận ngay vì chúng tôi đang có một việc cần nhờ ông giải quyết và thông dịch giùm gấp.

Vâng ạ, tôi sẽ đến ngay, nhưng ông vui lòng cho biết việc gì đấy ạ?

Có một cặp vợ chồng Việt Nam vừa đánh lộn với nhau trong chung cư A số…đường…lúc 11 giờ tối nay, chúng tôi được người quản lý chung cư gọi đến, song chúng tôi đều không biết lý do và cũng không biết rằng tại sao họ lại đánh nhau, vì cả hai vợ chồng đều không biết nói tiếng Anh…họ chỉ cho chúng tôi địa chỉ và điện thoại của ông và ra dấu xin gọi cho ông.

Vâng ạ, tôi sẽ có mặt trong 10 phút nữa, chào ông.

Phong gác máy vơ vội khúc bánh mì thịt nguội, xỏ đôi giày chạy vội ra xe, sau khi nguệch ngoạc cho vợ vài chữ: “Vì có việc gấp anh phải xuống Ty Cảnh sát địa phương giải quyết một vụ hai vợ chồng Việt Nam đánh lộn nên em cứ đi nghỉ trước, đừng chờ anh sẽ về ngay.”

Đến Ty Cảnh sát Phong ngạc nhiên khi nhìn thấy Lủng và ông Phụng ngồi mỗi người mỗi nơi mặt mũi hai người đều có dấu vết trầy trụa và riêng cái Lủng (từ đây xin gọi tên cô ta là “cái Lủng” như cô ta đã tự giới thiệu) thì bó gối ngồi thút thít một mình. Thấy Phong đến, cái Lủng đứng phắt dậy chạy đến định ôm Phong phân bua gì đó, nhưng Phong vội nhẹ nhàng đỡ lấy tay cô và dìu xuống chiếc ghế kế bên. Vị cảnh sát trực bắt tay Phong và tự giới thiệu cấp bực của mình. Phong cũng tự giới thiệu là nhân viên Field Rep. của thị xã chuyên lo về việc tái định cư cho những người Việt Nam mới đến Mỹ. Sau những lời chào hỏi xã giao, vị sĩ quan trực cho biết rằng tối nay có một cú điện thoại từ chung cư A xin Cảnh sát đến ngay vì có đám đánh lộn. Hóa ra là ông Phụng và cái Lủng! Ông Phụng thấy Phong thì có vẻ như xấu hổ, mặt cúi gầm xuống và không nói lời nào chỉ biết vo ve điếu thuốc trong tay khi nghe Lủng đang dài dòng phân bua:

“Thưa thầy, ông này quá lắm thầy ơi, tui hết chịu nổi rồi thầy. Ổng kéo tui
lên sà lan đậu trước bến tàu Sè goòng bắt tui đi theo ổng di tản qua đây, chớ tui đâu phải là dzợ con chi của ổng đâu?! Tui đâu có muốn đi Mỹ! Tui đang bán chè mờ!…tự nhiên người ta xô đẩy nhau lên xà lan gồi (rồi) ông này (Lủng chỉ thẳng vào ông Phụng) ổng kéo tui theo đẩy tui tuốt lên trển lwuôn”!…(lại khóc) Ông Phụng ngắt lời:

“Tui đâu có kéo bà, tại bà làng chàng trước mặt tui không trèo lên được xà lan nên tui tưởng bà cũng đi tui đẩy bà lên chớ bộ!”

Dừng một chút lấy hơi, Lủng lại hu hu kể tiếp:

“Tui có nói gồi chớ, tui kêu khóc khản cả cổ mà ông cứ núm tay tui lợi, không cho tui nhảy lên bờ, ngừ chi mà ác độc dzậy, tui còn chồng còn con ở nhà mờ!!”…(lại khóc hu hu).

Phong thấy tình cảnh quá thương tâm bèn định an ủi cả đôi bên thì Lủng lại kể tiếp:

“Thầy biết hôn?! Tối hôm nay ổng còn đòi ngủ mí tui, tui hổng chịu, ổng tát tui đau wá, tui tát lại ổng, dzậy là ổng thượng cẳng chân hạ cẳng tay làm tui đau quá trời tui la làng la xóm may nhờ mấy thầy phú lít này tới cản chớ không ổng giết tui gồi…cha wơi, mẹ wơi! hu hu…”

Tiếng cái Lủng thút thít bắt đầu kể lể lại cuộc di tản bất đắc dĩ với một giọng rền rền liên tục đôi khi xen lẫn tiếng nấc. Phong ngồi yên lắng nghe mà hồn để tận đâu đâu. Tiếng cô gái như tiếng kinh kệ đều đều vang vọng từ xa. Phong cố gắng lắm nhưng đôi mắt chàng bắt đầu nặng trĩu, hai mí mắt như muốn sập xuống phải cố gắng lắm mới ngồi yên được…

“Em lạy các anh mờ!…

…Cho em về đi, em còn…co…có.. chồng…chồng….và con ở nhà mờ!….”
***
Los Angeles, California…

Phong đang bận đóng mấy cái đinh để treo mấy tấm hình trong quán ăn của mình thì bất ngờ một người đàn bà trạc 23-24 tuổi đẩy cửa bước vào. Cô ta vận trên mình một chiếc T-shirt màu vàng nhạt bỏ trong cái mini-jupe màu xanh đậm ngắn cũn cỡn cao lên quá đầu gối nom thoáng như một cô học trò trường bà xơ nhưng đã quá lứa tuổi học sinh mặc đồng phục. Phong định mở miệng cho biết quán ăn chưa mở cửa, nhưng người đàn bà đã nhanh nhẩu mở lời trước.

“Dạ thưa thầy…có phải thầy là thầy Phong không?”

Phong ngạc nhiên nhíu mày cố lục tìm trong trí nhớ xem mình đã gặp cô gái trẻ này ở đâu?

Chưa kịp lên tiếng thì cô ta đã đon đả tiếp:

“Thầy không nhớ ra em sao? Em là cái Lủng đây nè, cái Lủng bán chè đậu di tản qua Ohio 3 năm trước đây mà thầy!…”

Phong trố mắt nhìn người đàn bà reo lên một tiếng thật to.

– Ồ, cô Lủng..!

Hạnh, vợ Phong trong bếp nghe có tiếng người nói léo nhéo đàng trước phòng ăn vội chạy ra xem. Phong kéo chiếc ghế định mời cô ta ngồi thì Hạnh chạy lại nhìn chồng và cô gái. Phong cười, xoay mặt qua phía vợ giới thiệu người đàn bà.

“Đây là cô Lủng, cô Lủng mà 3 năm trước ở Cleveland đó em có nhớ không? cô gái mà ông thiếu úy Phụng cứ nhận là vợ… mà.. mà cái đêm hai anh chị đánh nhau anh phải đi thông dịch dưới Ty Cảnh sát Cleveland đó…”

Hạnh nhớ ra và reo lên:

“À.. em nhớ ra rồi, phải cái đêm anh về nhà với xe cảnh sát còi hụ làm em hết hồn tưởng chuyện gì xảy ra cho anh đó mà!”

Hạnh gật gật cái đầu vui vẻ chào cô gái và mời cô ta dùng nước hay cà phê xong nàng quay qua nói với chồng:

“Anh ngồi tiếp cô ta nghe, để em bảo người làm lấy cà phê vì em phải vào ngay trong bếp xem nồi phở kẻo nó cạn nước.”

Phong nhìn vợ gật đầu từ từ quay mặt lại tươi cười nhìn cô gái từ đầu đến chân rồi chép miệng vừa cười vừa nói thật to:

“Trời đất ơi! cô mà không xưng tên thì tôi cứ tưởng là bà đầm xòe nào ấy chớ, đâu ngờ là cô Lủng, cái Lủng ..” Phong hạ thấp giọng tiếp trong tiếng cười:

“Cái Lủng bán chè đậu đây mờ..!”

Phong cố kéo dài tiếng mờ.. và cả hai người nhìn nhau cùng cười giòn tan.

“Thế bây giờ cô làm gì ở đâu? Ủa có còn ở với ông Phụng không? Xuống đây tự bao giờ?

Lủng đáp, “Dạ em xuống đây gần hai năm gồi, ở chung nhà với cô bạn gái và đi làm ắt xâm ly (assembly) cho hãng cà phe Mất wèn (Maxwell) đó thầy.”

“Tại sao cô biết tôi ở đây mà tới thăm?”

“Dạ, cô bạn làm chung sở có đến đây ăn phở và về nói cho em biết, cô cũng nói tên thầy nữa nên em định tới coi có đúng thầy không, nào ngờ đúng chóc..!”

“Vậy hả, trái đất tròn he!” Phong đáp.

“Thầy chờ chút nghe, em ra xe kéo nó dzô thăm thầy luôn. Khoe với thầy em mới sắm chiếc Toyota mới để mai chiều em tới chở thầy cô đi chơi…”

Nói xong rồi Lủng cười ngặt nghẽo đủng đa đủng đỉnh lắc lắc xâu chìa khóa vừa đi ra phía cửa hai chân nhảy con sáo. Phong nhìn theo cô gái lắc đầu lòng bàng hoàng ngỡ ngàng. Chỉ mới 3 năm trước đây Lủng còn là một cô gái bán chè đậu quê mùa hiền lành như thôn nữ, dáng dấp hồn nhiên mắt còn đầy vẻ rụt rè e lệ khóc lóc khi kể lại cho Phong nghe chuyện di tản bất đắc dĩ của mình. Vậy mà mới có 3 năm, nay đã thoát xác thành một cô gái khác nhí nha nhí nhảnh chảnh chọe hơn đầm. Ngẫm nghĩ Phong cười lên thành tiếng. Hạnh ở trong bếp nghe tiếng cười của chồng hỏi với ra:

“Ủa? cô ta còn đó không mà anh cười to thế?”…

Phong không đáp vì có tiếng cô gái mở cửa dắt vào thêm một cô bạn mới…Sau những lời chào hỏi xã giao, Phong hỏi Lủng tiếp:

“Thế còn ông Phụng thì sao? Cô còn ở với ông ta không?”

“Gỗ gá cặp lợi mà thầy! chớ có dziên nợ gì đâu?” (Rổ rá cặp lại mà thầy chớ có duyên nợ gì đâu?)

Đang vui nghe Phong hỏi mặt Lủng bỗng chùng xuống và nàng lại bất đầu kể lể thiên tình sử bất đắc dĩ của“cái Lủng bán chè đậu,” mà đã một lần chính người trong cuộc ngân nga, nay lại cũng với cái giọng rền rền vang vang như kinh nhật tụng về chiều.

Câu chuyện năm xưa mà đêm đó Phong đã cố gắng hết sức vừa nghe vừa cố mở to hai con mắt thật lớn để chống lại cơn buồn ngủ sau một ngày dài làm việc; và cũng mỗi lần khi nhắc đến câu chuyện cái Lủng – cậu Phụng trên là Phong lại mỉm cười tay mân mê cái lọ dầu cù là Mac Phsu nằm trong túi mỗi khi gặp bạn bè hay đồng hương thăm hỏi:

Bây giờ cậu làm chi?

Tôi ấy à?… Bây giờ tôi làm cái việc đi xoa dầu cù là cho bà con di tản mới đến!

Đó là câu trả lời ưng ý nhất của Phong sau khi tay bắt mặt mừng gặp lại bà con bạn bè trên xứ Mỹ, đặc biệt nhất là cái quãng thời gian bất đắc dĩ của một cán sự xã hội Field Rep, ở xứ Cleveland, cái xứ sở quanh năm lạnh lùng giá tuyết.

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH

Khổng Văn Đương

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh !  Mỗi lần muốn gọi, chỉ cần:  “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương ! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.

Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi ?” – Mẹ tôi bảo thế.
Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người ?  Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra !  Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng !…

Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy ?  Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng…

Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm… Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm ?  Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò ?  Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về !  Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.

Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.

Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà !

Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.

Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương song !  Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão !  Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.

Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời !  Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người !

Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm !.

Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn ! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời ! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà ?  Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…

Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về ?  Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.

Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.

Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình :  Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…
Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi :  Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…

Khổng Văn Đương

Dương Phong gời

SAO NỠ LÒNG

SAO NỠ LÒNG

Nguyễn Thị Thanh Dương

Bà Thục đậu xe xong thong thả đi lên lầu 2 bằng thang bộ, bà vẫn thích thế để thêm dịp vận động cơ thể, hơn là dùng thang máy cho tiện nghi và mau chóng.
Unit 1 phòng ngủ của bà trong khu apartment này được thiết kế gọn xinh, địa điểm lại gần khu thương mại Việt Nam cũng như chợ Mỹ nên bà rất vừa lòng.
Bà Thục thay quần áo và nằm ra chiếc ghế mây nghỉ ngơi, bà vừa ra chợ Việt Nam vào dịch vụ gởi tiền để chuyển 10,000 đồng về cho người em trai. Thế là bà đã làm tròn lời hứa hẹn với em và với tình cảm trong con người bà, lòng bà thảnh thơi, nhẹ nhỏm và vui mừng khi nghĩ đến gia đình em trai, chắc là vợ chồng con cháu họ đã sung sướng biết bao nhiêu.
Bà Thục thuê căn apartment với giá trợ cấp của chính phủ dành cho người có lợi tức thấp kể từ khi bà đủ tuổi về hưu 2 năm nay, bà sống ở Mỹ đơn độc không chồng, không con, mà ở Việt Nam cũng chẳng còn ai thân thích gần gũi ngoài gia đình ông Thức, đứa em trai duy nhất, cha mẹ bà đã lần lượt qua đời kể từ khi sau 1975.

Ngày xưa gia đình bà nghèo, nhưng cha mẹ bà cũng chắt chiu nuôi 2 chị em bà ăn học, đứa con gái là bà học hành chăm chỉ giỏi giang bao nhiêu thì thằng em học hành vừa lười vừa dở bấy nhiêu.

Cô Thục đã trở thành 1 dược sĩ. Cô dược sĩ Thục ngày ấy đã đi làm và phụ giúp cha mẹ đắc lực trong cuộc sống hàng ngày, còn Thức học không xong, thi rớt Tú Tài Thức đi lính, ngành tác chiến nay đây mai đó. Cô Thục thương em lận đận, mỗi khi em về phép ngoài các món ngon nấu cho em ăn, cô còn cho em tiền khi trở lại đơn vị.
Cô Thục không mấy xinh đẹp, có bằng cấp, ngành nghề sáng giá, nên hình như đó là những lý do khiến các chàng trai không thích đến gần, và cô miệt mài hi sinh cho gia đình nên hầu như không có cơ hội đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Tuổi xuân trôi qua lúc nào không hay.
Sau 1975 cũng như bao nhiêu gia đình khác, cuộc sống nhà cô Thục trở nên chật vật khó khăn, rồi Thức lấy vợ sinh con, bấy nhiêu người sống cùng trong một nhà đã trở nên chật chội và tài chính càng lúc càng khó khăn hơn.

Năm 1989 cô Thục đi vượt biên tìm tự do và thêm lý do không kém phần quan trọng là vì kinh tế để có thể giúp đỡ gia đình hữu hiệu hơn, chuyến đi vượt biên cuối mùa đã khiến Thục phải chờ đợi ở Thái Lan hơn 4 năm sau khi đậu thanh lọc mới được phép đến Mỹ định cư.
Sang Mỹ ở lứa tuổi về chiều, 49 tuổi rồi, Thục chợt nhận ra mình đã lãng quên chính mình hơn nửa đời người, học lại thì không thể mà lấy chồng cũng không xong.
Cô Thục đã đi làm những công việc trong hãng xưởng để có tiền sinh sống và gởi giúp tối đa những đồng tiền của mình kiếm được về gia đình ở Việt Nam.
Rồi cô Thục cũng lấy chồng.
Nhưng chỉ là một cuộc hôn nhân gượng gạo, cố gắng kéo dài được mấy năm cho có đôi, có cặp thì người chồng đã chia tay trả Thục trở về vị trí độc thân như cũ, thế là cô Thục già chấp nhận duyên phận thiệt thòi hẩm hiu, ở vậy cho đến giờ.

Thỉnh thoảng bạn bè cũng có ý giới thiệu cho bà một ông độc thân góa vợ nào đó, để đỡ đần và bầu bạn cùng nhau cho vui nhà, nhưng bà từ chối ngay, đời chắc gì vui, duyên chắc gì may? lỡ gặp ông khó tính khó nết, hay ông ngã ra ốm đau bệnh hoạn nằm một chỗ thì bà phải hầu hạ, còn nếu ngược lại bà ốm đau nằm một chỗ chưa chắc ông kia hầu hạ được gì.
Cuộc sống độc thân tuổi về hưu tuy có lúc buồn mà thảnh thơi, hàng ngày bà xem các phim truyện trên ti vi vừa để giải trí vừa để duy trì tiếng Anh của mình, rồi nghe nhạc, đọc sách, một đam mê ngày cô Thục còn trẻ để tìm lại cảm giác thú vị của ngày xưa.
Với đồng lương lao động tằn tiện bao lâu nay bà Thục cũng để dành được một món tiền, bà cất kỹ trong nhà băng.

Từ ngày về hưu bà sống bằng những đồng tiền hưu trí của mình cũng gọi là đủ, vì bà không có nhu cầu gì nhiều ngoài hàng năm vẫn gởi chút tiền về Việt Nam cho gia đình Thức hiện vẫn sống tại căn nhà cũ, nơi xóm nghèo xưa do cha mẹ để lại.
Xưa bà Thục thương thằng em vất vả đời lính, nay lại thương em vất vả cảnh nghèo, nên bà vẫn không ngừng gởi về đỡ đần cho em.
Bà Thục đã đưa chồng về thăm Việt Nam 1 lần để giới thiệu chồng với gia đình mình. Sau cuộc hôn nhân gãy đổ bà buồn chán và tủi thân, không có ý định về Việt Nam nữa. Nhưng những chuyện buồn vui của cuộc sống nơi xứ người bà vẫn tâm sự với người em ruột thịt của mình cho vơi nhẹ lòng, hai chị em đã luôn gần gũi từ thuở ấu thơ đến khi khôn lớn và cho đến bây giờ cả hai cùng tuổi xế chiều.

Bà kể từ chuyện bà bị bệnh cao máu, cao mỡ, và bệnh cườm mắt, phải uống thuốc và nhỏ mắt mỗi ngày mấy lần cho đến hết cuộc đời, đến những chuyện vặt vãnh hàng ngày. Từ chuyện bà về hưu và tiết kiệm xin được ở nhà giá rẻ dành cho người già, xin được tiền food stamp, đến chuyện bà dành dụm được món tiền phòng thân sau này.
Tóm lại bà Thục hài lòng với cuộc sống vật chất bảo đảm, dù cô đơn một mình một nhà.
Mới đây ông Thức đã gọi phone cho bà và tha thiết đưa ra một đề nghị mong chị giúp đỡ, thay vì chị gởi cho chút tiền mỗi năm và mỗi khi gia đình em cơ nhỡ thì em xin chị giúp hẳn một món tiền để có vốn làm ăn là 10 ngàn đô la.

Bà Thục đã suy nghĩ rất kỹ, bà đã gìa rồi và một ngày nào đó sẽ chết đi, số tiền dành dụm tuy không nhiều, nhưng là tất cả mồ hôi công sức của bà phải được hữu ích cho người thân của mình. Bây giờ họ đang nghèo khổ, họ đang cần tiền. Thế là bà Thục đồng ý
Và hôm nay bà đã làm xong nhiệm vụ thân thương ấy.
Hai hôm sau bà Thục nhận được phone của ông Thức, người em hoan hỉ báo tin đã nhận 10 ngàn đô của bà và không tiếc lời cám ơn chị. Lòng bà Thục ấm lên, vui lên, nhiều gấp cả chục lần niềm vui của người em.

Từ nay bà Thục sống thanh thản hơn dù món tiền dành dụm của bà đã vơi đi, bà sẽ viết lại một tờ di chúc nếu sau này bà chết, sau phần chi phí cho hậu sự, còn bao nhiêu, dù ít ỏi, nhờ người ta gởi những đồng tiền còn lại về cho Thức.
Vậy mà 3 tháng sau ông Thức gọi phone sang, bà Thục chưa kịp vui mừng hỏi han em đã làm ăn gì chưa thì ông Thức buồn rầu tuyên bố:
– Chị ơi, nhà em mới vừa bị kẻ gian đột nhập xông thuốc mê và lấy cắp hết 10 ngàn đô rồi !
Bà Thục bàng hoàng nghe em nói tiếp:
– Chị có thương em, thương các cháu chị, thì xin chị giúp em lần nữa…
Bà Thục không còn sức cầm lấy chiếc điện thoại nữa, bà buông phone và buông người ngồi phịch xuống ghế như một kẻ không hồn.
Bà đã mất ăn mất ngủ mấy ngày đêm, 10 ngàn đô là bao công lao và tấm lòng của bà gởi về, thế mà bị mất đi một cách gọn gàng êm thắm, nhẹ tênh như bông gòn, như mây bay, gió thoảng, hay như một trò đùa, một màn kịch vụng về không hơn không kém.

Bà không thể nào tin được.
Nhưng em trai bà nỡ lòng nào dựng lên màn kịch này để lừa dối bà, để xin thêm tiền của bà? Bà dằn vặt tự hỏi và không thể trả lời.
Cuối cùng bà Thục quyết định sẽ về Việt Nam bất ngờ, đối diện với em mình để tìm hiểu sự thật cho ra lẽ.

Từ phi trường Tân Sơn Nhất, bà Thục thuê xe Taxi đưa bà đến một khách sạn tại Gò Vấp, bà biết căn nhà cũ sẽ không có chỗ thoải mái cho bà vì theo lời ông Thức kể bấy lâu nay là hai đứa con đã lập gia đình và một đứa còn độc thân đều ở chung với vợ chồng Thức, nhà đất ở Việt Nam rất đắt đỏ, Thức tiền bạc đâu mà lo cho các con chỗ ở riêng.
Cuộc sống là sự tuần hoàn như cây cối, già cỗi thì chết đi, cây con thì sinh sôi nẩy nở…xưa căn nhà ấy có cha mẹ và 2 chị em bà, nay căn nhà ấy đã đông hơn, thêm lên mấy đầu người rồi.

Buổi chiều hôm sau bà Thục tìm về xóm cũ tại khu cầu hang quận Gò Vấp.
Khu xóm nay đã đổi khác rất nhiều nhưng bà làm sao quên được lối cũ, cảnh xưa. Kia vẫn là đường rầy xe lửa dẫn đến ga Xóm Thơm, và bên này là nhà cửa chen chúc.
Bà vừa đi vừa dò tìm theo những dấu vết cũ, cuối cùng bà Thục cũng tìm ra đúng số nhà, nhưng đứng trước căn nhà bà kinh ngạc, không tin đây là sự thật vì căn nhà to đồ sộ và cao ngất 4 tầng lầu, chứ không phải là căn nhà trệt tầm thường ngày xưa cô Thục từng ở từ thuở sinh ra đến khi lớn lên với cha mẹ mình nữa.
Bà ngại ngần, bà ngẩn ngơ, không dám gõ cửa, mà đi ra một quán nước ở đầu con hẻm, đối diện xéo xéo với nhà ông Thức, bà gọi một ly nước uống để định thần lại cho tỉnh táo, kẻo bà tưởng mình đang mơ.

Hay là bà đã nhìn lầm số nhà? Không, chắc chắn là không vì bà đã nhìn kỹ mấy lần rồi.. Hay là em trai bà đã bán nhà cho người khác? Cũng không, vì bà mới gởi số tiền 10 ngàn đô về địa chỉ nhà này.

Khi cô hầu bàn bưng ly nước ra thì bà Thục vờ hỏi bâng quơ:
– Căn lầu 4 tầng kia sao mà đẹp thế…
Cô gái vui vẻ tiếp chuyện:
– Dạ, bởi vì căn lầu đó ông bà Thức mới xây vài năm nay, kiểu đẹp, nhà mới nên ăn đứt mấy căn lầu khác.
– Ông bà Thức giàu có sướng thật…
Cô hầu bàn xuýt xoa:
– Ông Thức còn xây cho hai đứa con có gia đình ra ở riêng mỗi đứa một căn lầu tương tự căn này nữa đó. Căn này thì ông bà ở chung với thằng Út còn độc thân. Ba cha con ông Thức cùng làm chủ một xưởng cưa gỗ xuất khẩu, giàu có lắm lắm luôn, nhất xóm luôn.
Bà Thục cũng xuýt xoa:
– Số họ thật may mắn, làm ăn thành đạt nhỉ.
– Còn nữa bác ạ, nghe nói mới đây người thân ở nước ngoài gởi cho họ 10 ngàn đô nữa cơ, đã giàu có mà tiền ở mãi đâu cứ tự nhiên chảy vào túi.
Thế là bà Thục đã hiểu, gia đình ông Thức đã ăn nên làm ra từ lúc nào nhưng Thức không hề kể cho bà nghe, mà vẫn chăm chỉ than thở xin xỏ bà dù mỗi lần chỉ vài trăm đô, và cuối cùng là món tiền 10 ngàn đô. Nhưng họ chưa chịu dừng lại ở đó, lại nói bị mất cắp để xin thêm, có lẽ vì thấy bà đồng ý cho 10 ngàn đô dễ dàng quá chăng?
Ông Thức biết bà không có ý định trở về thăm Việt Nam nữa, bà ngại đi xa vì đi đâu cũng phải mang theo mấy loại thuốc men lỉnh kỉnh như con mọn, lại sợ ngã bệnh bất ngờ, và vì nơi đó những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui, nơi đó cha mẹ bà đã không còn nữa, thằng em trai của bà đã gìa đi, và các cháu thì dường như xa lạ. Bà chỉ liên hệ với họ qua phone và gởi tiền về giúp em, giúp cháu khi cần thiết là đủ vui rồi.

Bà Thục thất vọng không ngờ em bà đã đổi thay đến thế, nó đã lợi dụng lòng tốt và tình thương của bà dành cho nó từ thuở còn thanh xuân cho đến giờ..
Bà Thục giận lắm, định quay trở về khách sạn, không gặp em, không bao giờ gặp nó nữa, bà sẽ trở về Mỹ và quên đi thằng em đã đối xử với bà không còn tình nghĩa. Nhưng sau khi uống hết ly nước, lòng tự giằng co, bà vẫn quyết định đến nhà ông Thức.
Bà bấm chuông cổng, tiếng chó sủa inh ỏi rồi có người ra mở cổng. Chính là Thức, ông ta ngơ ngác nhìn bà chị rồi thảng thốt kêu lên không biết vì vui mừng hay vì kinh ngạc như bà đã kinh ngạc khi nhìn thấy ngôi nhà:
– Trời ơi, chị Thục hả?
– Vâng, tôi là Thục đây.
– Trời ơi, sao chị về không báo trước để em và các cháu ra phi trường đón ?
Bà theo chân em vào nhà, căn phòng khách rộng lớn với đồ đạc bóng bẩy sang trọng làm bà Thục chóa cả mắt vì bà quen với phòng khách nhỏ gọn ở căn apartment của bà rồi. Từ bộ bàn ghế, vách tường, đến kệ trang trí đều là sản phẩm của gỗ qúy với kiểu dáng đẹp, sành điệu và qúy phái, đúng với phong cách thành đạt của ông chủ kinh doanh đồ gỗ xuất khẩu.
Vợ ông Thức cũng từ dưới nhà chạy ra hớn hở:
– Chị về chúng em mừng quá, hành lý chị đâu? Nhà em rộng rãi xin mời chị…
– Cám ơn em, chị không biết nhà đã xây lại rộng đẹp thế này nên đã ở khách sạn rồi
Sau vài câu thăm hỏi thông thường, bà Thục buồn buồn và nghiêm trang đi vào vấn đề:
– Các em đã làm ăn khá giả, có cơ ngơi thế mà không cho chị biết để chị mừng với, mà còn gây cho chị cảm tưởng là các em vẫn nghèo khó như xưa và xin chị món tiền 10 ngàn đô là thế nào?.
Ông Thức vội lên tiếng bào chữa:
– Nhờ trời thương gia đình em mới phất lên những năm sau này. Em xin lỗi chị, chỉ vì muốn vun đắp tom góp cho con cháu em mới xin tiền chị…
Bà Thục cay đắng:
– Kể cả việc em bịa đặt ra bị mất 10 ngàn đô để xin thêm lần nữa? em tưởng chị giàu có lắm sao?. Chị đã chắt chiu bao lâu mới để dành được số tiền ấy.
Ông Thức cố giải bày:
– Dù gì cuộc sống bên Mỹ chị cũng được bảo đảm lúc tuổi gìa, nhà nước lo hết, có đồng vốn nào chị không cho các cháu thì cho ai bây giờ? Cho trước thì khỏi cho sau, con cháu em cũng như con cháu chị…
Vợ Thức xen vào cho câu chuyện chuyển sang hướng khác:
– Nếu chị muốn về sống ở Việt Nam thì chúng em mời chị về đây ở chung căn nhà này như ngày xưa. Bây giờ những 4 tầng lầu, chị cứ ở hẳn 1 tầng tha hồ rộng rãi, lại có chị có em…
Tình chị em gì khi mà họ đang sống trong giàu có, vợ chồng, con cháu đông đủ quây quần bên cạnh mà vẫn moi móc những đồng tiền dành dụm của bà, một người gìa sống đơn độc nơi quê người, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng trông chờ vào xã hội, vào người dưng giúp đỡ, hơn nữa bà Thục không bao giờ có ý định về sống ở Việt Nam nên bà từ chối ngay:
– Chị ở Mỹ quen rồi, ở đấy có mọi tiện nghi và lợi ích, về đây khỏe mạnh thì không sao, lỡ ốm đau sao bằng bên Mỹ được.
– Chị nghĩ thế cũng phải, nhưng bất cứ lúc nào chị thay đổi ý định thì cứ trở về, chúng em luôn chờ đón chị.
– Cám ơn hai em.
Khi bà Thục đứng lên từ gĩa vợ chồng ông Thức, người em ái ngại cầm bàn tay chị, cố biện minh lần nữa:
– Mong chị hiểu cho chúng em, đằng nào những món tiền dành dụm chị không cần tới, mà bên này thì con cháu đông, công việc làm ăn lúc này lúc khác chẳng biết đâu được, chị bên ấy một thân một mình, có đồng nào cho các cháu là chắc chắn nhất, không đi đâu mà thiệt chị ạ.
Vợ ông Thức vẫn ngọt ngào mời chào:
– Mỗi ngày chị đến ăn cơm với chúng em và các cháu cho vui nhé? chị đồng ý đi để ngày mai em làm món ngon đãi chị.
– Ừ, mai chị sẽ đến đây, chị ăn thế nào cũng được mà…
Vợ chồng ông Thức gọi xe taxi đến và vui vẻ tiễn chân bà Thục ra cổng, đợi người chị vào xe họ mới quay vào nhà.
Bà Thục ngồi trên xe, quay nhìn ngôi nhà lầu 4 tầng lần nữa, từ trong đáy lòng bà Thục vui mừng khi thấy cảnh nhà em trai giàu có, và cũng từ trong đáy lòng bà cảm thấy một sự đổ vỡ, tan nát. Đôi mắt bà rưng rưng nhỏ lệ.…
Bà biết rằng ngày mai, cũng như mỗi ngày sau đó, trong thời gian còn ở Việt Nam, bà sẽ đến đây ăn cơm với em, với các cháu.
Đấy vẫn là tình cảm, là tình ruột thịt bà dành cho họ, bà không nỡ quay mặt với họ, dù rằng bà đau đớn vì mất đi hình ảnh người em ruột thân thương gần gũi ngày xưa, dù rằng bà xấu hổ giùm người em ruột tham lam, tính toán và ích kỷ bây giờ.
Và nỗi đau đớn ấy, sự xấu hổ ấy sẽ theo bà về Mỹ, và theo bà cho đến hết cuộc đời …

Nguyễn Thị Thanh Dương

Lâm Kim Trọng gởi

Người Thợ Điêu Khắc

Người Thợ Điêu Khắc

Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng, nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.

Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!

Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.
– Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?

Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
-Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
– Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.

Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!

Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!

Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!

Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!

Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.

Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!

Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.

Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…

Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.

Giuse Nguyễn Văn Sướng

Tranh cát: Vẻ đẹp trong tim người Mẹ

Tranh cát: Vẻ đẹp trong tim người Mẹ

httpv://www.youtube.com/watch?v=eRZRiWgR3vA

Người mẹ hạnh phúc hỏi bác sĩ sau khi tỉnh dậy: “Tôi có thể nhìn con được không?”.
Bác sĩ đặt đứa trẻ bên cạnh mẹ… Người mẹ nhẹ nhàng mở các nếp khăn để nhìn khuôn mặt nhỏ bé, chợt người mẹ kinh hoàng. Bác sĩ vội quay nhìn ra cửa sổ… Đứa bé sinh ra không có tai…!
Tuy nhiên, thời gian đã cho thấy thính giác của đứa bé hoàn hảo. Chỉ có hình dáng bên ngoài là không hoàn thiện. Cậu bé lớn lên, đẹp trai, bất chấp sự khiếm khuyết. Một học sinh được bạn bè yêu thích, lẽ ra cậu có thể làm lớp trưởng, thế nhưng chỉ vì đôi tai…
Một ngày kia, cậu bé từ trường chạy ào về nhà và lao vào trong đôi tay của người mẹ. Cậu bé nức nở: “Có đứa gọi con là đồ quái thai”, tim người mẹ đau như cắt.
Cậu bé ngày càng bộc lộ tài năng thiên bẩm về âm nhạc và văn chương. Mẹ cậu ân cần động viên: “Còn nhiều người tốt để con có thể hòa đồng… con ạ”. Thế nhưng, trong tim người mẹ vẫn đau buồn vì thương con…
Cha cậu đã liên hệ với một nhà phẫu thuật. Bác sĩ khẳng định: “Tôi tin chắc tôi có thể ghép đôi tai nếu mua được…”
Sau đó là cuộc tìm kiếm người có thể hiến tặng đôi tai… Hai năm trôi qua, người cha nói: “Con sắp được phẩu thuật. Cha mẹ đã tìm được người tặng tai cho con. Nhưng đó là một bí mật”.
Và rồi… cuộc giải phẫu thành công rực rỡ…
Một nhân vật mới bắt đầu nổi lên. Tài năng anh nở rộ xuất chúng, cuộc đời ở trường trung học và đại học là những chuỗi ngày hân hoan. Anh lập gia đình và làm công việc ngoại giao.
Anh luôn van nài cha: “Ai đã tặng con quá nhiều như thế? Con không bao giờ có thể đền đáp xứng đáng cho người ấy”. Người cha trả lời: “Cha cũng tin là con không thể… nhưng cha phải giữ lời hứa là chưa được nói ra…”.
Nhiều năm trôi qua với điều bí mật của họ, nhưng ngày ấy vẫn đến… Một trong những ngày tối tăm nhất chưa từng có trong đời đứa con. Anh cùng cha đứng nghiêng mình trước quan tài người mẹ.
Dịu dàng và chậm rãi, người cha đưa tay vén mái tóc dài màu nâu dày để lộ ra… đôi tai không còn của người mẹ. Ông thì thào vào tai con trai: “Mẹ từng nói rằng mẹ hạnh phúc khi không bao giờ cắt tóc, và không ai có thể nghĩ mẹ bớt đẹp đi phải không?”
Vẻ đẹp thật sự không nằm trong dáng vẻ bên ngoài, mà ở bên trong trái tim…

Ông nội và cháu nội

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Ông Nộivà Cháu Nội

Ông nội là cựu đại úy Việt Nam Cộng Hòa, con trai là đại úy không quân Hoa kỳ, mấy người quen thân gọi đùa cháu là Captain junior. Có hôm buổi sáng ông nội ngủ dậy khệnh khạng bước ra phòng khách, thằng con đang ăn điểm tâm đứng phắt lại giơ tay lên chào “Good morning, Sir!”. Ông nội giật mình đứng lại, không suy nghĩ ông nghiêm túc giơ tay lên chào. Miệng lẩm bẩm “Morning Sir!”. Cả nhà cùng cười, thằng cháu nội cũng cười.

Bước ra xe, con dâu mang cái túi baby có tã, sữa, quần áo. Bà nội dìu ông nội ra, tay mang một cái giỏ. Con dâu hỏi “Mẹ mang theo gì đó?”. Bà nội trả lời “Mang tã, nước và quần cho ba”. Thằng con cười:

– Hai ông cháu thiệt giống nhau.

Thằng cháu đái ướt tã khóc đòi thay. Ông nội lí nhí: “Tui muốn thay tã”. Con dâu vào phòng vệ sinh nữ trước. Ló đầu ra “Mẹ ! Không có ai”. Bà nội dẫn ông nội vào, đẩy nhanh vô phòng toilet đóng cửa lại. Một lúc sau, bà nội đưa ông nội ra nói với con dâu: ” Coi chừng ba, cho mẹ vào rửa tay”. Xong xuôi, ông nội cũng sạch, cháu cũng sạch. Cả nhà lại đi dạo phố. Con trai cười cười:

– Hai ông cháu cùng vào nhà vệ sinh nữ.

*

Chơi chán cả nhà lên xe về nhà. Thằng cháu nội khóc um sùm không chịu nằm vào ghế baby. Thằng con loay hoay lo cho con nó. Bà nội đưa ông nội ngồi vào ghế trước. Ông nội cũng không chịu lên. Bà nội năn nỉ, ông cương quyết phản đối: “Tui muốn nói chuyện với đồng đội của tui, sao bà kéo tui đi”. Thằng con trai hỏi lý do. Bà nội nói là đi ngang mấy người lính Mỹ ngồi uống nước, ông nội đòi ngồi lại đó nói chuyện. Thằng con dụ dỗ: ”Mai con mời họ tới nhà nói chuyện chơi với ba” Ông cương quyết bấu chặt cửa không chịu lên xe. Thằng con gỡ tay bồng ông lên, gài dây an toàn. Xe chạy, ông nội cũng ngủ, thằng cháu cũng ngủ.

*

Thằng cháu nội nhễu, nước miếng chảy lòng thòng. Ai cũng la con dâu: “Lúc có bầu bộ nhịn thèm hay sao mà thằng cu nhểu dữ vậy”. Con dâu chỉ cười. Ông nội không còn nhỏ nhưng ông nội cũng nhểu. Ông nội bồng cháu, mặt quay ra đàng trước. Hai tay ông bấu thật chặt sợ cháu té. Nước miếng ông nội nhểu lòng thòng rớt từng dây trên đầu cháu. Cháu nhểu lòng thòng rớt từng dây trên tay ông. Bà nội chạy lại lau cho cả hai:

– Ông nội và cháu nhểu giống nhau.

*

Thằng cháu đứng chơi trong trong cái xe đi trẻ em. Chơi chán, nó muốn ra ngoài. Cháu la và khóc. Ông nội đang nằm bật dậy, chạy ra. Ông lại gần bồng cháu lên. Hai tay ông bíu chặt vào nách cháu lôi ra. Cháu vùng vẫy, Ông cố sức nắm. Hai bàn tay ông cuối cùng chỉ còn nắm chặt cái áo, Cháu gần rơi xuống đất. Bà nội chạy lên. Kịp thời chụp cháu. Bà nội hết hồn. Ông phân bua: “Con ai mà bỏ khóc um sùm, thiệt là tội”.

– Thì ra ông còn ngái ngủ, không biết thằng bé là cháu mình.

*

Thằng cháu nội tắm trong cái bồn tắm nhỏ xíu trẻ em. Nó thích lắm, hai tay đập vào nước cười ngây thơ. Xong xuôi, cháu được lau sạch thay đồ. Con dâu nói: ”Mẹ! con xong rồi”. Bà nội đem ông nội vào phòng, kéo cái ghế để vào bathtube cho ông ngồi rồi xối nước tắm rửa, kỳ cọ. Ông đưa tay vuốt mặt nói: “Mát quá! Mát quá”. Bà nội tắm ông xong, lau sạch, thoa lotion và thay đồ. Ông ra ngoài, cháu đang nằm ngửa chân đạp lòng còng. Ông được dìu vào giường. Ông nằm yên, hai chân cũng nằm yên;

– Hai ông cháu sau khi tắm giống nhau.

*

Con dâu đút cho cháu nội ăn từng muỗng baby food. Cái yếm đeo trước ngực. Cháu vừa ăn vừa chơi. Thỉnh thoảng lắc đầu không chịu cho đút. Con dâu ngọt ngào: ”Giỏi nè, giỏi nè.” Bà nội cũng dìu ông nội lại bàn, kéo cái ghế ngay mông ông rồi kéo ông ngồi xuống. Bà nội lấy cái tạp đề mang vào cổ cho ông rồi đút cơm cho ông ăn. Ông đôi lúc cũng lắc đầu không chịu nuốt. Bà nội năn nỉ: ”Ăn đi ông, còn vài muỗng nữa thôi. Giỏi đi ông”.

– Khi ăn, ông và cháu cũng giống nhau.

*

Ông muốn bồng cháu nhưng tay ông bấu chặt quá, cháu đau, cháu khóc. Bà nội đem ông vào phòng, cho ông nằm xuống rồi đặt cháu nằm một bên. Cháu nằm trên tay ông, chân quơ lung tung, tay cầm đồ chơi bỏ vào miệng cạp liên tục. Bà nội ngồi nhìn hai ông cháu. Ông đã ngủ khò, còn cháu cứ ê a.

– Bà nội mắt cay xè, muốn khóc.

*

Thằng con nhận lệnh qua Ý công tác 3 năm. Cả nhà làm tiệc tiển đưa. Vợ chồng thằng con buồn, nước mắt ngân ngấn mi, nghĩ mấy năm xa nhà, nghĩ cha già thế này có chuyện gì không biết có về kịp không? Thằng cháu nội vẫn cười, bi bô những âm thanh không rõ tiếng. Bà nội nắm tay ông nội lại gần con nói: ”Con nó muốn nói với ông trước khi đi nè”. Ông cười cười: ”Nói gì! Đi đâu? Ừ đi chơi vui vẻ”. Xong ông đi vào phòng ngủ. Chả biết ông có buồn hay không. Chỉ biết khi bà nội vào phòng ông đã ngủ khò. Thằng cháu nội nằm trong ghế cũng ngủ khò.

– Hai ông cháu ngủ giống nhau.

*

Từ đất Ý, thằng con mở Webcam nói chuyện. Thằng cháu nội đã biết ngồi, đã bập bẹ âm thanh ba ba. Bà nội dẫn ông vào phòng, kéo ghế cho ngồi để nhìn con, dâu và cháu. Hỏi ông: ”Biết ai không ông?”. “Biết chớ, người quen”. Bà nội chỉ cháu và hỏi: ”Ông biết thằng đó không?”. Ông nội trả lời mạnh mẽ: ”Biết chớ sao không. Nó là bà con chú bác của tui mà”. Ông đưa tay rờ rờ màn hình. Bên kia thằng cháu cũng đưa tay quơ quơ. Bà nội muốn khóc.

– Hai ông cháu cùng trẻ con như nhau, không ai biết ai.

* * *

Vậy đó, ông nội và cháu có nhiều điểm giống nhau. Cháu sẽ lớn, sẽ trưởng thành. Ông một ngày nào đó sẽ ra đi. Bà nội nhìn ông mà nhớ cháu. Hạnh phúc của ông bây giờ là sống vô tư như trẻ con. Hạnh phúc của bà bây giờ là không còn giận hờn mà con tim đầy ắp những yêu thương và bổn phận.

Thế là thời gian trôi qua nhanh chóng, thằng cháu nội theo cha mẹ công tác bên Ý đã được 2 tuổi.

Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, “Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta.” Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.

Nhìn ông chồng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.

Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.

Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đỗi!

Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.

Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.

Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.

Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.

Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, “Sao từ qua tới nay không cho tui ăn.”

Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.

Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng, cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm.

Còn ông nội giờ này vẫn tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, “Chân này nè ông, giơ chân lên!” thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.

Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa. Cháu bây giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.

Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông nội thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm.

Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen, ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, “Bạn tui, bạn tui.” Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ”Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp,” có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.

*

Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài, chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.

*

Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau, không còn giống nhau như xưa.

Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh “Bà nọi, bà nọi. My bà nọi.” Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đãng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.

Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.

Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt time out.

Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn.

Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dây ăn uống.

Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.

Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.

*

Thằng con trai vừa sinh thêm một đứa con gái. Đứa con gái đẹp như một con búp bê. Khi đứa con dâu sinh xong, thằng con chụp hình gửi về, rồi vào Webcam nói chuyện. Bà nội vui lắm khi nhìn con bé thật dễ thương nằm gọn trong lớp khăn xinh xắn.

Đứa con trai bồng con giơ giơ trước mặt ông nội:

– Ba biết ai không ba?. Cháu nội ba nè.

Ông nhìn cháu hai mắt lim dim, nước miếng chảy có dây ậm ừ:

– Cái cục gì đen đen vậy bà?

– Cái ông này nói kỳ. Bé Hạnh cháu mình đó. Bà nội vội trả lời

Ông làm thinh dường như mọi sự việc chẳng có gì liên quan đến ông. Đứa cháu gái hay cháu trai cũng không còn quan trọng.

Thỉnh thoảng ông cũng không nhớ bà là ai, ông cũng không phân biệt hai đứa cháu ở chung nhà đứa nào là chị đứa nào là em. Ông cũng không nhớ cháu ông tên gì. Cả đứa con gái đầu lòng ngày xưa ông rất mực yêu thương, thỉnh thoảng ông cũng không nhận ra và gọi là chị.

Thằng cháu nội ngày nào giờ đã được đi học ở thư viện trong base của quân đội. Cháu được dạy và chơi các môn thể thao. Cháu đã biết đếm từ 1 đến 40 bằng tiếng Mỹ và đếm 1 đến 10 bằng tiếng Việt Nam.

Còn ông nội bây giờ nói ông thử đếm xem. Bà nội đưa những ngón tay lên để đố, ông chỉ cười cười không trả lời. Không hiểu ông có biết hay ông chả thèm để ý chi ba cái chuyện đố ai lặt vặt trẻ con của đàn bà con gái.

Thằng cháu nội nhìn ông trong webcam và nói:

– Ông nội, ông nội. Ông nội nhểu giống em bé. Ông nội hư quá.

Ông nội bây giờ hư thật, ông sống trong thế giới của riêng ông và những thói hư tự dưng bây giờ xuất hiện.

Người ta nói đó là những thay đổi tâm tính của người già. Ông lúc nào cũng coi đồng tiền quan trọng lắm. Lúc nào cũng khư khư cái giỏ trong đó có cái ví tiền mà ông giữ thật cẩn thận.

Mỗi sáng ông lấy ra đếm đi đếm lại những đồng tiền mới mà bà nội để vào ví cho ông. Những giọt nước miếng chảy xuống làm ướt nhẹp mấy đồng tiền nằm trên. Ông cẩn thận xăm soi rồi lại bỏ vào. Như đứa bé chơi đồ chơi lấy một nón đồ chơi rồi bỏ vào trong hộp. Lại lôi ra chơi tiếp.

Ông hay sợ mất tiền và hay than hôm nay bị ai đánh cắp mấy trăm. Ông dấu kín dưới gối, kẹt tủ rồi lại hoảng loạn đi tìm vì không biết ở đâu. Ông kêu lên đầy lo lắng.:

– Gói tiền và giấy tờ để làm hồ sơ đi Mỹ đã bị đánh cắp rồi. Mình làm sao lên máy bay?

Vậy đó, ông nội lại trở về quá khứ để sống, còn cháu nhìn về tương lai để lớn lên. Cháu lớn từng ngày và mỗi ngày mỗi hiểu biết thêm một chút để bỏ xa ông nội đằng sau.

Bây giờ ông nội lại sắp hàng giống con em nó là con bé mới sinh được 5 tháng tuổi. Cũng mang tã, cũng ngu ngơ không biết gì như nó mấy năm về trước.

Tôi nhìn ông chồng tội nghiệp của tôi mà suy gẫm ra nhiều thứ.

Trên con đường đời của luật tử sinh vòng xoay bất biến, con người luôn đi theo một vòng tròn.

Khi đứa bé sinh ra bắt đầu bằng tã, sữa. Niềm vui là được bú no, ngủ cho yên giấc. Đứa bé lớn dần học nhiều thứ để trưởng thành. Để biết tham lam muốn cái này cái nọ. Để biết tìm cách lấy phần hơn về cho mình và trưởng thành để tự lập một đời sống riêng tư. Cái tuổi thành niên đến giai đoạn tráng niên là phải vật lộn với đời sống, với mưu sinh. Con người tốt hay xấu, danh vọng hay nghèo nàn, có nhân cách và đạo đức hay không là do mình tạo ra trong giai đoạn này.

Đến lão niên cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Tuổi đời chồng chất, đấu tranh mòn mõi, luật đời đào thải, cơ thể đào thải để cuối cùng cũng chỉ trở lại với tã và sữa.

Đứa bé là một sinh vật trong trắng, thơ ngây. Tã và sữa là những thứ cần thiết để đứa bé lớn lên và phát triển.

Người già là một cơ thể đã hết rồi nhựa sống. Trang sách đời đầy những dấu vết đau thương và tội lỗi. Nên ngoài tả sữa còn mang cả một quá khứ ở tâm hồn và đau đớn ở thân xác. Vì vậy đôi khi họ rất khó tính và câu chấp thiệt hơn. Cái vòng tròn khi về điểm cuối bao giờ cũng nhạt nhòa và mất dần đi nét vẻ đẹp ban đầu. Tất cả rồi sẽ nhập lại để hủy diệt. Để trả lại cái thân xác cho đất, nước lửa và không khí. Để sau đó một mầm sống mới vươn lên của vòng sinh tử, tử sinh bắt lại từ đầu.

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Rất may ông và cháu đều được sống, được là công dân của một đất nước coi trọng người già và trẻ con. Một nước Mỹ tân tiến có nhiều quyền lợi ưu tiên cho cả ông và cháu. Cháu được xã hội nâng niu vì là mần non của đất nước. Cháu được tạo mọi điều kiện để sức khỏe và trí tuệ phát triển đến mức tối đa. Cháu sẽ trưởng thành để góp phần vào sự phồn vinh của đất nước, một người công dân xứng đáng trong xã hội.

Ông được xã hội trân trọng vì đã đóng góp ít nhiều cho xứ sở này. Một đất nước nhân bản coi trọng mỗi cá nhân. Những người già được quan tâm và hưởng những phúc lợi cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình. Để những ngày cuối đời là những ngày hạnh phúc và đáng sống.

Tôi cám ơn nước Mỹ vô cùng đã cho gia đình tôi có cơ hội sống và làm việc. Đã cho chúng tôi có một chỗ thật bình yên và an lành. Cho chúng tôi khi tuổi già không lo cơm áo gạo tiền, vật lộn với đời sống để kiếm miếng ăn. Nếu tôi còn ở VN ông chồng tôi chắc đã ra đi từ lâu lắm… Tôi sẽ không đủ khả năng để lo cho chồng như hiện nay Vì với một sức khỏe cạn kiệt sau bao nhiêu năm trên trại tù Việt Bắc. Bao nhiêu những ám ảnh quá khứ và hiện tại anh sẽ không thể nào đủ sức vượt qua.

Ông trời đã cho chồng tôi sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.

Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười: “Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện cho chồng con sống sót trở về. Con cầu nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con hàng ngày, hằng giờ không bao giờ chia cắt. Con hãy trân trọng những đặc ân ta ban cho con. Chúc con hạnh phúc.”

Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim.

Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng.

Nguyễn thị Thêm