Tôi đi thăm chồng “cải tạo”

Tôi đi thăm chồng “cải tạo”
Tùy Bút / Tản Mạn

Minh Hòa

Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.

Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng Thầy Mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…

Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến. Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.

Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu tết Tân Hợi 1971, Sư đòan Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong giòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.

Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa. .. Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi “phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.

Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…

Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….

Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.

Rồi mùa hè đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị. .. Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…

Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một tướng Patton của Việt Nam, “Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh sẽ làm Tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà” Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…

Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế…

Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chêt có nhau…

Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi??? …

Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.

Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về… Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đôt nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.

Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…. Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ … Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…

Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi….

Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.

Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.

Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.

Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.

Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???

Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!

Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.

Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tự nguyện đi khai hoang rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của Thầy Mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:

– Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.

Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.

Tôi cúi mặt giận dỗi:

– Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được …

Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:

– Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao động tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!

Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:

– Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…

Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi.

Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà.. anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…

Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:

– Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em … đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…

Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc . Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.

Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…

Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì . Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát.

Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh Hóa.

Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ đội tử tế, không lấy tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi. Ra đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.

Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California.

Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị sâu xa.

Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…

…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:

– Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ … Hà hà..

Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….

Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…

Minh Hòa
Nguồn: Đài Á Châu Tự Do (RFA)

Ô mai gót

Ô mai gót”

“Việt Kiều là giống ngớ ngẩn nhất Trần gian”. Tôi nghĩ thế khi ba mùa hè liên tiếp gần đây, liên tục đón cả đại gia đình các em, các cháu tôi từ bên kia bờ đại dương về lại Sài Gòn.

Năm 1975, cũng như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi cũng trong cơn chấn động kinh hoàng của lịch sử, của thời cuộc. Hai mẹ con tôi quyết định ở lại đón ba tôi đi tập kết trở về( nghe nói cũng làm lớn trong quân đội Bắc Việt và không hề nghĩ đến chuyện vợ lẽ, con thêm)… Chỉ bốn đứa em sau cùng cha dượng của tôi quyết tâm xuống tàu vượt biển.

Chuyến đi vất vả nhưng trót lọt, sau ít năm tị nạn tại Hong Kong, cả 5 được  chính phủ chấp nhận định cư tại Mỹ.

Bằn bặt gần 30 năm sau thì mọi người lần lượt tìm về thăm má già và anh cả là tôi. Sau đó thấy Việt Nam tuy nghèo khổ, lệ thuộc Trung Cộng, nhưng không đến nỗi man ri, mọi rợ như trí óc họ hình dung, và còn dây mơ rễ má với mảnh đất quê hương, nên hai năm một lần, mỗi gia đình gồm cha, mẹ, và hai hoặc ba đứa con lại trở về.

Lần đầu tôi nhìn thằng cháu đích tôn gọi tôi bằng bác, hoàn toàn là người Việt , máu đỏ da vàng, không lai căng, lai kiết gì hết. Nó chào tôi, mắt dửng  dưng xa lạ:

– Hai!

Tôi bất bình sửa lại:

– Hai, ba gì, mày phải gọi đầy đủ là “Thưa bác Hai, con mới về”, nghe chưa?

– Ồ, mẹ nó bênh vực: – Nó chào anh mà, “Hai”! Cũng như “hê lô” là tiếng chào bình thường của người Mỹ thôi, không phải nó bày đặt gọi tên anh đâu.

Ra vậy, buổi trưa hôm sau nó đi đâu về, mồ hôi ướt rượt trên khuôn mặt trắng trẻo, bụ sữa của tuổi …20, tôi yêu qúa, liền bảo, giọng đon đả:

– Đi ăn cơm con!

Nó trả lời bằng tiếng Việt , giọng ráo hoảnh cộc lốc:

– Chưa bây giờ !

– Trời, tôi cười phá lên, nếu nói đầy đủ phải là: “Thưa bác, bây giờ con chưa ăn ạ, vậy mà không hiểu nó nói tiếng Việt kiểu gì mà cùn cằn, cộc lốc như vậy.

Nghe tôi kể lại, mẹ nó đỏ mặt chữa thẹn:

– Thì nó quen với tiếng Mỹ mà: Not now có nghĩa là nó sẽ ăn nhưng chưa phải là lúc này. Vì có thể mới về lại nhà mình, khẩu phần ăn sáng thay đổi, không phải sữa và ốc miu (oak milk) nữa, nên bây giờ nó chưa đói.

-Lại còn thế nữa, tôi lẩm bẩm – Đúng là đồ lai căng, nửa An Nam nửa…American có khác, ai lại uống sữa với ốc miu bao giờ? Tào tháo đuổi cho thì… “quấn ra sòn” suốt ngày.

Đang chí chóe tranh luận trong nhà, tôi bỗng nghe thằng em nó gọi giật giọng:

– Mẹ! chết đuối!

– Trời đất, cả tôi và má nó té ngửa, tưởng mấy đứa mon men ra hồ chơi rồi rơi tòm xuống nước, không biết bơi nên có đứa nào bị chết rồi.
Ba chân, bốn cẳng chạy ra, cả ba chúng tôi đứng chắn ngang thằng Bé, hỏi giật giọng:

– Đâu đâu, ai chết đuối?

Thằng bé đưa tay chỉ, miệng ú ớ;

-Đó đó…chết đuối …

Điểm mặt vẫn đủ mọi thành viên trong nhà, cả tôi và em gái, cháu ruột cùng ngẩn ra rồi cười phá lên khi thấy chiếc xuồng cột ở bờ sông tự dưng bị đứt dây, trôi ra xa bờ và dần dần chìm xuống làn nước hồ mênh mông.

Thay vì mách bác, mách mẹ là chìm xuồng, thì nó la chết đuối, làm quả tim tôi bắn ra khỏi lồng ngực.

Trở lại nhà, thằng lớn lúc này mới thay quần áo, vừa thay nó vừa càu nhàu:

– Sài Gòn nóng qúa, con bắt chước bác Hai, cởi truồng vẫn cứ nóng.

Lại đến lượt anh em tôi phì cười, vì rõ ràng nó vẫn mặc quần xoọc rất bảnh  trên người, chỉ cởi trần giống tôi.

Nhớ lại tối đầu tiên ngủ tại nhà, dù tôi và má đã thu xếp chỗ ngủ tươm tất cho cả 5 thành viên nhà nó. Vậy mà sáng hôm sau, đầu tóc bù xù, mắt đỏ kè, vừa ngồi dạy trên giường, ra phòng khách, nó cự nự:- Nhà này lắm chuột qúa, họ chạy lung tung suốt đêm làm con không ngủ được.

-Ôi đúng là cái giống Việt Kiều ngố, ai lại gọi chuột là họ, coi chuột như người vậy? Bốn chân phải khác hai chân chứ?

Chưa kể con út nhìn thấy bà ngoại lúi húi rửa một đống tô, chén tú hụ, nó không đỡ một tay, còn ngớ ngẩn hỏi:

-Ngoại giặt chén à, sao ngoại không giặt bằng máy mà lại giặt bằng tay vậy? Làm vậy đâu có sạch?

Trong khi bà nó ngơ ngẩn nhìn cháu gái chẳng hiểu mô tê ất giáp gì thì mẹ nó đứng đằng sau giải thích:

-Bà ngoại đang rửa chén bằng tay đó con, ở Việt Nam không có máy rửa chén như ở Mỹ đâu con à, nên đa số làm bằng tay hết.

Nó lật đật chạy về phía bếp và tỏ rõ sự thất vọng vì tuyệt nhiên không thấy một chiếc máy nào hết. Trong khi theo mẹ nó giải thích thì máy rửa chén là một bộ phận không thể thiếu được trong bất cứ gia đình nào ở Mỹ. Ngay từ khi thiết kế bếp nấu, người Mỹ đã gắn luôn chiếc máy rửa bát vào phía dưới bồn rửa cạnh vòi nước để vận hành. Ăn xong chỉ cần cho chén vào máy, đổ xà phòng vào là máy tự xúc, rửa, tráng, lau khô đến mức nóng rẫy, sạch bong mới thôi ,đâu có ướt lẹp nhẹp như chén ngoại rửa?

– Ờ, cứ cho Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu hơn Mỹ đi, nhưng làm sao nó lại có thể nhầm từ rửa chén thành giặt chén được cơ chứ? Hệt thằng anh nó vậy, bảo vào ăn cơm nó lại lật đật chạy vào phía vòi nước bảo: con phải giặt tay, giặt đầu cho cu (cool) đã …Bố ai mà hiểu được?

Cả con mẹ nó cũng thế xa nước gần 40 năm ,ở nhà đã nói tiếng Việt sành sỏi, rành rẽ rồi mà đi với tôi, nó nói gì mà cả má và tôi đều không hiểu, nếu không có thằng chồng đi kèm làm phiên dịch tiếng Việt ra tiếng … Việt:

Đơn giản má biểu:

– Con cho má ra chợ bến Thành mua ít đồ gửi về ngoải cho ông bà thông gia nghe con

Vậy mà nó trả lời:

– Con không “mếch sua” đâu nha. Bộ má tưởng ở American tụi con không “in náp” hả?

Nghĩa là, theo lời thằng chồng phiên dịch lại, vợ nó không chắc chắn sẽ đưa mẹ đi được( Make sure), vì ở bên Mỹ cả gia đình nó ở cùng nhà với bố mẹ chồng, đầy đủ hết, chẳng thiếu thứ gì ( enough)

Đang đi đường, tất nhiên là thuê taxi tự lái, vì cả nhà nó chả ai chịu đi xe ôm cả. Đường đông, người đi qua đi lại nườm nượp như mắc cửi, thỉnh thoảng con vợ lại cự nự chồng:

-Kìa “pát” đi anh, sắp tới rồi, đó đó, ở “con nờ” đó.

Tôi ngồi sau cũng không sao hiểu nổi thứ tiếng pha trộn nửa Việt Nam , nửa Mỹ của nó, nếu cậu em rể không xởi lởi giải thích :

– Dạ, ý nhà em giục em băng ngay qua đường đi (Pass), chứ chờ hết xe mới đi như ở Mỹ thì chờ đến tối cũng không xong. Còn cái địa chỉ mà vợ chồng em định đến ở ngay góc đường( conner) anh à.

Bước chân vào khu biệt thự sang trọng( khác hẳn nhà tôi), thằng bé phát biểu:

– Ở Việt Nam toàn làm nhà bằng gạch nhỉ? Ở Mỹ nhà chỉ làm bằng củi thôi, đẹp lắm, nhưng mà không chắc chắn bằng.

– Trời! Tôi trợn mắt hỏi: – Nhà gì mà làm bằng củi, bộ nhà ở giữa rừng sao?

Ba nó cười bảo: Nhà bằng gỗ chứ con, đâu phải củi?

Nó chất vấn: – Thì “út” (Wood) mà

Hóa ra tiếng Mỹ dịch ra tiếng Việt cũng rắc rối thật, thể nào mà lũ em, lũ cháu tôi, mang tiếng là Việt Kiều mà ngố ơi là ngố, , nói bằng từ Việt Nam là ngố toàn phần , ngố đến mức ông bà, cô bác đến thăm đều nói tiếng Việt mà cả ba anh em nhà nó cứ ú ớ như vịt nghe sấm, như dã tràng nghe…tôn giáo bể. Chả trách có lúc bị gọi chệch là vịt kều.

Ngó trên, ngó dưới , trên lầu, dưới sân, em gái tôi nhấm nháy gọi tôi ra một  góc vườn, bảo, giọng bồi hồi, xúc động: .

– Anh Hai xem kỹ đi, biệt thự này em định mua để má và anh Hai cùng sắp nhỏ ở đó. Nhà rẻ qúa chừng, chỉ cần anh Hai nói má mạnh dạn bán căn nhà đang ở đi, dọn đến đây, thiếu bao nhiêu, vợ chồng em phụ giúp.

– Ủa- Tôi trừng mắt la lớn, khi nhớ ra gốc tích căn nhà:- Coi bộ em khùng hả?. Biệt thự này tuy đẹp nhưng gốc gác là của một tay cán bộ cộng sản cướp nhà đó. Nó không ở được nên mới tìm cách bán rẻ bán tháo, nhưng những người chủ cũ đâu để cho ai yên, đêm đêm họ vẫn kéo về mà.

-“Ô mai gót”, em tôi la: -Sao lại có chuyện lạ dzậy? Em đi từ 75 mà, em đâu  biết . Anh Hai nói rõ cho em nghe được hông?

Tôi thủng thẳng kể:

– Gia đình này có 9 người, 6 trai, 3 gái cùng người mẹ già. Họ giàu lắm, vì cả 6 con trai đều là thiếu tá, đại tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Một người con gái mở tiệm vàng . Ngày 29-4, người con trai cả mang xe Jeep về để đón má, đưa cả nhà di tản, nhưng người mẹ lo cho bố mẹ già và bầy em 9 đứa ở Bắc nên do dự không đi…Khi cách mạng vào, họ bị kiểm kê tài sản và dĩ nhiên là mất trắng. Bà mẹ lúc này mới hiểu rõ bản chất của cách mạng, đặc biệt qua xum họp gia đình , biết bố mẹ đã bị đấu tố trong cải cách rụộng đất, chết tức tưởi, các em ai cũng nghèo nàn túng kiết, nên cố giấu 10 lượng vàng dung thân. Không ngờ tay công an ở kế bên rình mò theo dõi và cũng giỏi “bắt nọn” đã bắt bà phải khai ra số vàng cất giấu, dù bà van lậy như tế sao, đưa nó một lượng , coi như cống nạp, vậy mà nó đòi “ăn chia sòng phẳng” 50/50. Đau khổ, uất hận bà đành phải đưa thêm 4 cây vàng cho nó…

Vậy mà vẫn không yên. Thấy căn biệt thự của bả đẹp, nó tuy chỉ là phó đồn công an phường, một vợ một con, đã có căn nhà hai tầng , tổng cộng 100 m2 , vẫn rắp tâm cướp không căn nhà của bà. Lấy cớ kiểm tra hộ tịch, nửa đêm nó dựng cả nhà dạy, cho quân lục soát, khám xét, xem có giấu vàng ở đâu không? Vàng không có nhưng hở tờ tiền đô nào nó cũng cướp, vì cho đó là tiền của đế quốc Mỹ…Bị o ép, dồn nén đến ngạt thở, một đêm cuối năm 1979, cả nhà bà bảy người liều lĩnh vượt biên ( ba anh con trai đang học tập cải tạo), vài hôm sau, xác nổi lên cùng 193 người nữa ở mũi Cát Lái, nó lấy cớ “ bảo quản  nhà vắng chủ”, dọn sang ở, rồi chiếm luôn…Dù đã phải cống nạp cho thủ trưởng , mua chức mua quyền, không còn là cấp phường nữa mà là cấp quận , thành phố , nhưng đêm nào nó cũng gặp ác mộng. Lúc thì bà chủ nhà về đòi nó trả lại 5 cây vàng. Lúc thì con gái bà trừng trừng nhìn nó trong đêm (Khi nó cho quân kiểm kê, niêm phong tiệm vàng), rồi vợ chồng nó cãi cọ, ly hôn, 3 đứa con nó, đứa lành lặn thì bỏ học, đua đòi , ăn chơi trác táng, đứa đui què sứt mẻ, cả khuôn mặt có đủ các bộ phận tai, mũi, mồm, chỉ trừ đôi mắt. Làn da trắng nhợt kéo thẳng từ trán xuống đến sống mũi trông ngây độn, kỳ quái…

Biết là bị quả báo, nó sợ hãi bán tống bán tháo cho người khác, nhưng người này ở chưa đầy một năm cũng luôn gặp ác mộng nên bỏ không cả mấy năm trời rồi tiếp tục sang tên chủ mới. Từ đó đến nay, đã 30 năm, căn nhà này có tới cả chục chủ, nhưng chả ai ở quá 3 năm ,dù cúng giỗ cầu siêu, xây miếu thờ v.v vẫn trong cảnh thấp thỏm, lo âu. Trong khi giá nhà đất lên vèo vèo thì giá nhà này vẫn đứng yên.

Nghe tôi nói, em tôi lè lưỡi:

– “Ô mai gót”, em tưởng nhà sạch thì mua, chứ gặp “nai me” thường xuyên thì chết à?

– Ồ tôi ngán ngẩm giải thích, nhà rộng, sạch sẽ, sáng sủa nhưng giữa thành phố thì làm gì có nai hả em?

Chồng nó đứng phía sau từ lúc nào, nghe tôi nói vậy liền cười tủm tỉm đỡ lời:

– Nightmare là gặp ác mộng ấy chứ anh. Nếu có nai thật thì tốt qúa rồi, đâu  có gì phải sợ?

Ngày hai vợ chồng và 3 đứa con trở lại Mỹ, tôi và má mua một túi quà cho nó, trong đó không thể thiếu được món ô mai, món mà hồi nhỏ nó rất thích và thường ngước đôi mắt to tròn, đen ánh lên hỏi mỗi khi hai mẹ con đi xa về:

-Má , má và anh Hai có mua ô mai cho con không má?

Còn bây giờ sau gần 40 năm trở về, đầu hai thứ tóc mà hơi một tí là nhắc: “Ô mai gót”. Tuy không biết quả gót là quả gì nhưng cứ nghĩ đến số quà nó đem từ Mỹ về, nào Chà là, nho khô, hạt dẻ cười, táo tàu, v.v hai mẹ con lại động viên nhau phải kiếm cho bằng được để làm quà cho nó cũng như ông bà thông gia, gọi là “hương vị quê hương”

Tìm khắp chợ Bến Thành rồi các chợ xung quanh cả tuần lễ liền, không ai biết quả gót là quả gì. Ai cũng bảo: “Ở Việt Nam chưa bao giờ nghe thấy, chắc ở tận bên tàu, chứ Việt Nam chưa hề nhập về”.

Khệ nệ trở về trên chiếc xe máy cũ kỹ, nhìn thấy túi quà, đủ các loại ô mai xấu, ô mai cóc, ô mai me , ô mai khế, ô mai mơ v.v mỗi túi một cân, cả nhà phát hãi , không khảo mà xưng cùng la tướng lên: “Ô mai gót”.

Má tôi ngại ngùng giải thích:

– Không có ô mai gót đâu con, má biết mày thích loại đó, nên ngày nào cũng nhắc tới, mà má tìm rạc cẳng không có con à.

Đang mải mê sắp xếp đồ đạc cùng sắp nhỏ, bỗng dưng nó cười chảy nước mắt , thay vì ôm chồng lại ôm chầm lấy má:

– Ôi má ơi, con nói tiếng Mỹ mà. Oh, my god, nghĩa là “chúa ơi” , đâu phải con thèm ô mai mà má và anh mua nhiều thế này, cả nhà con ăn bao giờ cho hết? Với lại xách nặng thế này, con đem lên máy bay sao được hả má?

Đến nước này, thay vì kêu chúa như nó vẫn làm, tôi buộc phải kêu trời khi nhận ra sự nhầm lẫn tai hại của mình: Đúng là vịt kìu, sao nó không nói tiếng Việt thuần chủng là “trời ơi”, “chúa ơi” mà lại nhập khẩu cái tiếng Mỹ chết tiệt ấy để tôi hiểu lầm cơ chứ. Oh, my god!

Sacramento Oct 2014

T.K.T.T

TÌNH KHÔNG ĐẸP NHƯ THƠ

TÌNH KHÔNG ĐẸP NHƯ THƠ

Nguyễn thị Thanh Dương

Chị đến Mỹ muộn màng và yêu cũng muộn màng. Các anh chị của chị đến Mỹ từ lâu, họ làm bảo lãnh cha mẹ, rồi đến chị, diện anh chị em không được ưu tiên cao, nên lá đơn bảo lãnh nộp sở di trú khi chị 25 tuổi, đến 37 tuổi, chị mới được đặt chân đến Mỹ.
Mười hai năm chờ đợi ấy, chị đã phải hi sinh rất nhiều, không dám yêu ai và chẳng dám đáp lại tình ai. Bố mẹ chị đã răn đe “ Bất cứ giá nào cũng phải đợi đi Mỹ để đoàn tụ với gia đình, con nhé! không được yêu thương thằng nào hết”. Chị vừa vâng lời cha mẹ, vừa mộng mơ, tưởng tượng: “Thôi thì ráng hi sinh những tình cảm bên này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn một tấm chồng, cỡ bác sĩ, kỹ sư…trở lên, thà muộn mà ngon lành, còn hơn sớm, phải ở lại Việt Nam, tình yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm thì vất vả cả đời”. Và chị hớn hở chờ đợi.
Qua Mỹ, đến nay đã 3 năm, chị đã sốt cả ruột mà chưa tìm đâu ra một ông bác sĩ, hay kỹ sư. Vậy mà, ở Việt Nam, người ta cứ đồn rằng qua Mỹ lấy chồng dễ ợt, bạn bè, hàng xóm khoe con em họ lấy chồng có đủ loại bằng cấp nọ kia, dù những cô gái may phước đó chẳng đẹp hơn chị là bao ! Thì chị cũng có quyền hi vọng như thế lắm chứ.
Bây giờ chị mới hiểu rằng, người Việt Nam ở Mỹ, học hành,thành đạt thật đấy, nhưng con gái Việt Nam ở đây không còn khan hiếm nữa, những thế hệ sau này đã lớn lên, đủ “cung cấp” nhu cầu tại chỗ, chưa kể “thị trường” trong nước Việt Nam thì vô tận, các cô gái trẻ đẹp luôn khao khát, chờ mong được Việt Kiều về cưới và mang họ qua Mỹ.
Thế nên, chị lạc lỏng giữa dòng đời, giữa xứ Mỹ và giữa cái tuổi không còn trẻ và chưa đủ già của chị..
Nước Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc làm bị hạn chế, chị không có tay nghề, kinh nghiệm.Vốn liến tiếng Anh chỉ lưu loát được 3 chữ: “ No,Yes,Thank you”,nên chị xin việc hãng nào là cầm chắc bị hãng đó từ chối. Cuối cùng, chị cũng được một chỗ làm để kiếm ra tiền, khỏi sống nhờ vào các anh chị, là làm may cho một shop của người Việt Nam, họ chỉ cần chị biết may, thế là đủ! Nên khả năng nói lưu loát 3 chữ “ No,Yes,Thank you”của chị vẫn dư thừa, để dành đó, không cần đụng tới.
Cả ngày chị cặm cụi vào cái máy may, vào những miếng vải cắt sẵn, và dăm ba câu chuyện vặt với người bạn may bên cạnh, dần dần cũng thành tẻ nhạt, người ta có chồng có con, nên cứ nói đến đề tài này là chị “né”, vì sợ động vào nỗi đau âm thầm của chị. Chị chỉ còn một niềm vui duy nhất đó là cuối tuần đi chợ, nhìn đủ các gương mặt lạ, những hàng hoá, thực phẩm, để nghĩ đến những món ăn ngon sẽ nấu.Và nhất là xin được mấy tờ báo, về nhà nằm khểnh đọc chơi !
Ở thành phố này, có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng xái xin đủ cho bằng được, thiếu một tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền thì cứ hưởng tối đa, không đọc được mục này thì cũng đọc mục nọ, mà nếu không đọc gì hết cũng…chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra lót bàn, đựng rác. Khi gọt trái cây, dùng để đựng vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước khi nhét vào thùng rác.Tiện lợi mọi bề !
Thường thì chị hay đọc mục “Tìm bạn bốn phương”, thấy người ta đăng báo tìm bạn, chị cũng ham quá, nhưng vẫn thấy ngần ngại, sợ cha mẹ, anh chị biết rõ “tâm địa” chị đang muốn lấy chồng, nên chị chưa bao giờ có ý định đăng lên những lời khao khát của chính mình.
Một hôm, chị ngồi buồn, chẳng biết làm gì, bèn gọt một trái xoài ăn chơi. Trải tờ báo ra bàn, chị vừa gọt vỏ xoài vừa lơ đãng đọc một bài thơ nằm chình ình trên trang báo trước mặt chị. Bài thơ than thân, trách phận và oán đời, nghe mà não nề của tác giả Phong Trần.
Bài thơ đã làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong Trần càng làm chị xúc động hơn, chị tưởng tượng nhà thơ Phong Trần dày dạn gió sương, cũng đang là một kẻ cô đơn, mòn mỏi như chị, chị muốn cắt bài thơ ra để dành, nhưng những vỏ xoài đã dính lên bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp cho nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của mình bị ngược đãi, ơ hờ như thế. Nếu chị không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc bài thơ cho đỡ sốt ruột thì có lẽ chẳng bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong Trần cả.
Từ hôm ấy trở đi, mỗi tuần chị đều chăm chú giở từng trang, tờ báo mà chị đã “gặp” nhà thơ Phong Trần trong lúc gọt xoài, để tìm thơ anh. Chị đọc từng chữ, từng dòng và ghiền thơ anh hồi nào không hay. Chị liền bạo gan, gọi phone tới toà soạn báo để hỏi thăm và xin số điện thoại của nhà thơ Phong Trần với tấm lòng ái mộ. Chị không ngờ, cú phone đầu tiên chị gọi nhà thơ Phong Trần được hân hoan đón nhận đến thế, nghe chị nói rất thích thơ anh, nhà thơ Phong Trần đã kiên nhẫn chép tay cả chục bài thơ và gởi bằng bưu điện cho chị.
Từ đấy, ngành bưu điện đang hồi ế ẩm, bỗng nhiên vớ được hai khách hàng chăm chỉ viết thư cho nhau, nhờ bưu điện chuyển giùm, và cũng từ đấy, mỗi lần thơ anh đăng lên báo, đều ghi tặng tên chị phía dưới, những bài thơ anh dịu dàng hơn, tình tứ hơn, làm chị cảm động.
Chị mang đến shop may một trái tim vui đang yêu, chị dò dẫm để khoe khéo với bà thợ may bên cạnh, mà chị từng trò chuyện mỗi ngày:
– Nhà chị có hay đọc báo chí Việt Nam không?
– Có chứ, cả nhà cùng đọc, ở xứ Mỹ buồn thấy bà. Cuối tuần có báo “chùa” đọc cũng vui.
– Thế chị có đọc tờ báo…
Bà kia cướp lời, nhanh nhẩu:
– Đã nói là báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ có đủ cả. Một mặt ông xã đi lấy, một mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi còn lấy dư, ê hề chật cả nhà..
Chị vừa trách vừa thấp thỏm vui mừng:
– Lần sau lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người khác không có đọc, tội người ta. Thế chị có đọc thơ của nhà thơ Phong Trần không?
Bà bạn may khựng lại:
– Ủa!…thằng đó là thằng nào?
– Sao chị bảo báo nào cũng đọc hết? Phong Trần là một nhà thơ…
Bà kia lại nhanh nhẩu:
– Ôi, ai hơi đâu để ý tới mục thơ thẩn, tôi chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần thôi hà. Thơ của thằng Phong Trần hay của bất cứ ai cũng không nhằm nhò gì với tôi hết.
Chị bực mình, nghĩ thầm “ Con mẹ này trước ở Việt Nam, chuyên mua bán ve chai, lông vịt, trình độ đâu mà đọc văn thơ?”.
Chị lại gói niềm riêng, đợi khi nào gặp được người “cao cấp” hơn sẽ hỏi. Một hôm, có cặp vợ chồng , bạn của người anh, đến nhà chị chơi, cả hai đều là kỹ sư điện, họ rất thân với gia đình chị, chị liền lân la đến gần người vợ để chuyện trò:
– Chị ơi, chị có thích đọc thơ của nhà thơ Phong Trần, đăng trên báo Việt Nam ở đây không?
Bà kỹ sư điện trả lời nhanh như điện:
– Chị không có thì giờ đọc mấy bài thơ đăng trên báo chợ đâu em ạ, thơ chẳng ra thơ, vần một nơi, ý một nẻo, có đọc chỉ thêm bực mình !
Chị cố gỡ gạc, giải thích:
– Cũng tuỳ chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong Trần có hồn lắm…
Bà kỹ sư vẫn chua ngoa:
– Ở Mỹ người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền, đa số những đứa dở hơi mới rảnh để làm thơ đăng báo.
Rồi bà hùng hồn chỉ trích:
– Báo chí ở Mỹ ai làm chả được! Trước kia ở Việt nam, là một anh thợ mổ thịt heo hay đạp xe 3 bánh, sang đây cũng có thể làm chủ báo ngon lành, bài vở lên internet lấy xuống, hay dịch vớ vẩn từ báo Mỹ. Lại thêm có những đứa dở hơi như nhà thơ Phong Trần nào đó, cặm cụi, bỏ thì giờ, sáng tác thơ văn, gởi về đóng góp cho tờ báo.
Chắc bà kỹ sư ngày xưa thất tình một anh nhà báo, nên mới cay cú thậm tệ giới này? Làm một tờ báo ít nhiều cũng phải có kiến thức hay năng khiếu về báo chí, văn thơ, và nhất là lòng yêu nghề thì tờ báo mới sống còn. Chị chẳng hơi đâu tranh luận vấn đề này làm gì !
Chị buồn quá, thế là từ thành phần lao động đến trí thức, không ai biết đến nhà thơ Phong Trần của chị cả, nói gì đến tên chị, đứng khiêm nhường, bé nhỏ dưới mỗi bài thơ của anh? Thì thôi, mình chị đọc thơ anh, mình chị hãnh diện vậy.
Mối tình thơ của hai người kéo dài được hơn hai chục số báo, và mấy chục lá thư qua đường bưu điện, thì họ bắt đầu hẹn để nhìn mặt nhau cho thoả lòng thương trộm nhớ thầm. Chị đã e ấp nhìn anh :
– Anh ơi,tại sao anh lấy bút hiệu Phong Trần, nghe lãng mạn và bụi đời thế?
Anh trả lời thản nhiên:
– Có gì đâu, tên anh là Trần văn Phong !
Thì ra thế! tên anh Trần văn Phong viết ngược theo kiểu Mỹ thành Phong Trần, vô tình trở nên lãng mạn ,rất thích hợp cho một người làm thơ như anh. Chứ anh có phải cất công suy nghĩ cho cái bút hiệu của mình đâu !
Chị không đẹp lắm, độc thân và trinh nguyên nhưng hơi cứng tuổi, còn anh, hơn chị đúng 10 tuổi, đã một đời vợ, li dị, hai con theo mẹ, cho nên mấy năm nay anh trở thành người đàn ông độc thân, đi về một bóng, anh mong có một người đàn bà cho căn nhà ấm lên, cho lòng anh đỡ trống trải.
Thế là họ không có gì để chê nhau cả, mối tình thơ đã đi đến đoạn kết mong muốn: Họ cưới nhau.
Chị lấy anh vì sau 3 năm sống ở Mỹ, chị biết rằng khó có thể kiếm một tấm chồng bằng cấp Bác sĩ, kỹ sư, khi tuổi chị đã xế chiều và nhan sắc chẳng có gì đáng nhớ. Như món hàng ế ẩm, muốn bán được, cần phải hạ giá đến đại hạ giá. Chị đã “on sale” cuộc đời chị, lấy một người chồng chẳng những đã không bằng cấp mà còn có một quá khứ lòng thòng vợ con, dù anh hết tình hết nghĩa với người vợ, nhưng hai đứa con, chắc vẫn đậu lại trong lòng anh nỗi thương nhớ xót xa? Trái tim anh có yêu chị cách mấy, đôi khi cũng tạm ngừng nghỉ để quay về với hai con. Chị cũng đành thôi, ở đời có gì tuyệt đối đâu?
Khi đọc một bài thơ, không nhìn thấy tác giả, bài thơ hay sẽ làm rung cảm lòng người, nhưng khi nhìn thấy tác giả thì những rung cảm ấy sẽ giảm đi một ít, và nếu sống cùng một nhà với tác giả, thì bài thơ bỗng trần trụi như đời thường của người đã sáng tác ra nó.
Những ngày, những tháng trôi qua, chị không còn thấy thơ anh hay nữa, dù mỗi khi đăng báo, anh vẫn đề tặng tên chị, và chị đã ngạc nhiên, không hiểu sao chị lại thay đổi nhanh chóng thế?
Nhà thơ Phong Trần mà chị ngưỡng mộ và yêu mến ngày nào, bây giờ là một thằng đàn ông suốt ngày cởi trần trùng trục vào mùa Hè, anh mặc duy nhất cái quần đùi, đôi vai anh gầy, nhô lên, tưởng gío cũng có thể lung lay, vậy mà trước kia anh đã làm bài thơ với câu: “Đôi vai anh sẽ là nơi em tựa”. Thơ chỉ là bịa đặt và hoang tưởng.
Anh thường ngồi ở ghế, hai chân thô lỗ gác lên bàn, vừa nhâm nhi ly trà nóng vừa sáng tác thơ, trong khi ngoài bếp, chị đang nấu nướng, dao thớt khua lên, chảo mỡ kêu ì xèo. Và trong phòng thì thằng cu Tí bé bỏng của hai người đang nằm o oe chơi một mình, nhưng khi nó khóc ré lên, chính anh là người phải vội vàng hạ chân xuống bàn, cắt đứt dòng tư tưởng đang tuôn ra, để chạy lại tủ lạnh.lấy bình sữa, nhét vô miệng thằng con, hoặc tệ hại hơn, anh phải thay diaper cho nó, mất nhiều thời gian hơn, xong việc thì ý thơ cũng bay xa.Tác phẩm bằng xương bằng thịt, đã hại tác phẩm tinh thần của anh.
Có lần, anh ngồi lì để viết cho xong một ý thơ, không chạy ra đáp ứng ngay tiếng khóc của thằng Cu Tí, thì vợ anh đã lớn tiếng:
– Không ra mà lo cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ…chết đói bây giờ.
Anh tức giận nhìn “nàng thơ”của anh, người đã từng dịu dàng, âu yếm đi vào những bài thơ của anh, bây giờ hiện nguyên hình là một con mẹ khô cằn sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến chuyện thực tế, đói no, bạc tiền. Trước chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương hoa trong cuộc sống, bây giờ những hương hoa ấy đã bay đi, đã trở thành những món phụ tùng không cần thiết.
Một buổi sáng thức dậy, trời chuyển gió lạnh, lòng anh bỗng vu vơ cảm xúc yêu thương khi nhìn ra ngoài trời những chùm lá cây đẩy đưa trong gió. Anh thèm được rủ chị cùng anh đi sóng đôi trong cái không gian lạnh lẽo ấy để tìm hơi ấm của lòng nhau. Anh phấn khởi hỏi chị:
– Em ơi, ngoài kia đang gió lạnh. Em có biết anh đang mơ ước gì không?
Chị đáp sỗ sàng:
– Mơ ước có một tô phở nóng hổi với đầy đủ tương ớt, ngò gai, húng quế ngay trước mặt để ăn cho ấm người chứ gì? Hôm nay tôi không có rảnh mà hầm xương nấu phở cho anh đâu !
Trời ơi! Khi không mà anh thấy lạnh cả lòng, lạnh hơn cả những chùm lá trên cây đang run lên vì gió lạnh ngoài kia.
Nhưng cũng chưa lạnh, chưa đau bằng những bài thơ anh đang viết dở dang, những ý thơ chợt đến, anh đã ghi vội trên tờ giấy để trên bàn đã bị chị “clean up” vứt vô thùng rác thẳng tay, không một thắc mắc. Anh tiếc đứt ruột, trách chị, thì chị nghênh mặt lên, đe doạ:
– Quý hoá gì? Thơ với thẩn viết lung tung rác cả nhà. Lần sau anh còn để bừa bộn tôi giục thùng rác nữa đó.

Anh đành ngậm ngùi ra…moi thùng rác tìm lại mảnh giấy thơ lẫn lộn với những tã dơ của Cu Tí, và những thứ rác rưới khác. Chị đâu biết rằng một cảm xúc nào đó đã qua rồi đâu dễ gì tìm lại được nếu không ghi vội trên những mảnh giấy kia.
Thỉnh thoảng anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ trước, một đứa đã lớn, một đứa còn đang học high school, thương con,anh muốn gởi cho nó một hai trăm làm quà, “Nàng thơ” của anh đã trề môi mai mỉa:
– Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền? Hãy làm bài thơ tặng nó cho có tình nghĩa…Thế mới là vô giá .
Anh đau xót và tủi quá, chẳng lẽ lại cãi nhau, lại li dị? Cuộc đời đâu có đủ dài cho con người, để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như trò chơi trẻ con, thích đó, rồi lại chán chê, muốn bỏ?
Anh vẫn đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng Cu Tí đem gởi bà ngoại chiều tối mới mang về.Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn, và có con muộn, nên muốn làm gấp rút, kiếm nhiều tiền để mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền tháng nào là mất luôn tháng đó. Ước mơ bình thường thế mà trời cũng không để yên. Anh bị lay off, anh không có tội gì cả, hãng không có việc nên phải giảm bớt nhân viên. Vậy mà chị đổ tội cho anh:
– Sao bao nhiêu người, hãng không lay off mà lại là anh? Chắc tại anh mải nghĩ thơ nghĩ thẩn, làm không được việc, nên họ đuổi cho bõ ghét chứ gì?
Anh làm ngơ, chấp chi con đàn bà nông cạn! Anh lo đi làm giấy tờ xin hưởng tiền thất nghiệp, rồi thủng thỉnh xin việc làm sau, nhân lúc rảnh rỗi bất đắc dĩ này, anh nghỉ ngơi và làm thơ. Cuộc đời là thế, ngay cả khi hoạn nạn, cay đắng cũng có thể thành thơ. Nhưng con vợ, không để anh yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguýt, thấy anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào trang giấy, chị chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
– Anh đang làm gì đó?
Anh cười dù thật lòng chẳng muốn cười:
– Làm thơ !
Chị kêu lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
– Trời ơi, không lo viết đơn xin việc mà còn ngồi làm thơ? Thơ có ăn được không? Có đổi ra tiền để đi chợ hay trả bill được không?
Anh kiên nhẫn:
– Tất nhiên là không! Nhưng nó cho anh một niềm vui…
“ Nàng thơ” ngày nào của anh lồng lộn lên:
– Anh sống không có…lập trường như thế à?, phải đối diện với thực tế, phải đi tìm việc làm chứ.
Rồi chị nghẹn ngào như một người vợ đau khổ khi bị chồng phụ rẫy:
– Bây giờ tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn của anh tôi, chị ấy nói “Mấy đứa làm thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên mây…”
– Em cứ làm như nếu anh không đi làm thì vợ con chết đói ngay ấy. Ở Mỹ, chuyện lay off thất nghiệp, đến với tất cả mọi người, bất cứ lúc nào, việc gì em phải đau khổ thế? rồi anh cũng sẽ xin được việc làm khác thôi, nhưng trong lúc rảnh rỗi, anh vẫn có quyền mơ mộng, làm thơ. Thơ đến với anh những lúc hạnh phúc và cả khi thất vọng, khổ đau…
Nhìn vẻ mặt nghiêm trang của anh, nhìn đôi mắt anh ngời sáng long lanh đang nhìn thẳng vào mắt chị với sự phản kháng âm thầm, chị bỗng thấy…khớp không dám làm ầm ĩ thêm nữa. Chị chợt nhớ đã mấy lần mẹ chị khuyên chị rằng: “ Mày có thằng chồng hiền lành, thương vợ thương con là tốt phước rồi, đừng hiếp đáp nó, con chó bị dồn đến nước cùng cũng quay đầu lại cắn chủ. Nó mà tức giận quá, mất khôn, nó li dị, thì mày chỉ có nước ôm con nuôi tới già. Còn nó, nếu ham vui như người ta, về Việt Nam lấy vợ trẻ, vợ đẹp thiếu gì”.
Cho nên chị không dám quát tháo thêm nữa, chị đành bỏ đi làm việc khác sau khi đã quẳng lại cho nhà thơ một cái nguýt mắt đầy đanh đá.
Một mình anh ngồi lại, giận vợ nhưng cũng thương vợ, đàn bà thường thực tế và nông cạn như thế. Anh hiểu, cái tình yêu thơ mộng mới ngày nào, đã thay thế bằng những lo âu, toan tính trong cuộc sống, chị quá lo cho gia đình, cho tương lai của con, chị sợ tuổi đời của cả hai người không đủ dài để làm nên cơ nghiệp như chị mong muốn.
Trên tờ báo hàng tuần vẫn tiếp tục đăng thơ anh, thơ anh vẫn tình tứ, vẫn ướt át, nhưng nếu người ta để ý, thì dưới mỗi bài thơ, anh không còn ghi lời tặng cho chị nữa.
Mục tiêu của đời chị là có tiền để mua nhà, để dành lo cho tương lai thằng Cu Tí, làm đến cả đời chưa chắc xong. Nên chị cần quái gì điều đó, cái tên chị có dính trên báo cũng chả làm túi tiền chị tăng thêm một xu nào!
Những bài thơ của anh đã trở thành vô nghĩa, và mối tình thơ của chị đã chết tự lúc nào.

Nguyễn thị Thanh Dương

Lâm Kim Trọng gởi

Kỹ niệm 70 tuổi.

Kỹ niệm 70 tuổi.

Bài này viết hồi năm 2012 (70 tuổi ,
bổ túc năm nay, 05/2015 hiện 73 tuổi)

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Tháng 07 này kỹ niệm 70 tuổi. Trước đây bảy mươi là hiếm, ngày nay với sự tiến bộ của y khoa, cũng có rất nhiều người sống đến bảy mươi tuổi. Trong năm nay, kỹ niệm đáng ghi nhớ:

45 năm lập gia đình

21 năm làm con cái Chúa Kitô.

Tôi thường hay suy nghĩ vẩn vơ: “Sống trên đời này để làm gì?” và “khi tôi chết Linh Hồn sẽ đi về đâu?”

Về những người Thầy cũ:

Tôi học trường Tiểu Học Rạch Núi nằm ở dưới chân đồi, ngọn đồi không cao lắm. Trên đồi có chùa Núi. Hồi trẻ chúng tôi thường lên chùa Núi để hái trái me hoặc lượm me rớt dưới đất vì trái me ở đây rất nhiều.

Người thầy dạy tôi giúp tôi viết chữ cho ngay ngắn là thầy ba Hương (thầy Trần văn Hương) dạy lớp ba, thầy dạy lớp nhất (lớp 5) là thầy Nguyễn tuấn Kiệt.

Khi tôi lên học trường Trung học Cần Giuộc, tôi được hướng dẫn của Giáo sư Đinh văn Lô dạy toán, Thầy Hà Khải Hoàn dạy Việt văn, Thầy Đào Đức Hoàng dạy Anh văn, ở trường Trung Học Chu văn An có Thầy Đào văn Dương dạy toán, Trương Đình Ngữ dạy Lý Hoá, Vũ Bảo Ấu toán,   Trần văn Hiến Minh triết. Ở Đại học Luật Khoa có Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Vũ quốc Thông, Nguyễn Cao Hách, Nguyễn văn Bông v.v…

Một người thầy nữa không trực tiếp dạy tôi, nhưng tôi rất mến phục, đã có ảnh hưởng rất nhiều trong cuộc đời tôi đó là nhà văn Nguyễn Hiến Lê.

Khoảng năm 1963, tôi cùng người bạn có ghé thăm thầy Nguyễn Hiến Lê ở đường Kỳ đồng.Thăm thầy để mua hai cuốn sách, loại sách “Học làm người” và cũng để gặp mặt thầy cho biết.

Vừa khi vào nhà thầy, thầy nói ngay “Tôi chỉ nói chuyện với các em trong hai mươi phút. Các em có hỏi gì thì hỏi trong thời gian đó mà thôi.” Trong khi ngồi nói chuyện với chúng tôi, thầy đem một ống viết chì khoảng ba bốn chục cây. Vừa nói chuyện, thầy vừa chuốc viết chì. Khi chuốc xong viết chì đã nhọn, thầy để qua ống thứ hai. Thầy viết sách bằng viết chì để dễ sửa chữa khi có đoạn nào không vừa ý. Sau một lúc nói chuyện với chúng tôi, ống thứ hai chứa viết chì nhọn đã đầy. Thầy tận dụng thì giờ. Thầy không bao giờ để phí thì giờ.

Về Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy.

Kỹ niệm về thầy Huy là năm tôi học trường Chính Trị Kinh Doanh ở thương xá Tax. Thầy Huy dạy tôi về môn Chính Trị ban Cao Học.

Thầy Huy ảnh hưởng nhiều nhất trong cuộc đời tôi. Thầy Huy có trí nhớ lạ lùng, từ chuyện xưa cho đến chuyện hiện tại trên thế giới, nhất là ở Trung Hoa ngày xưa, thầy nhớ hết. Thầy có thể nói chuyện liên tục hai giờ không cần giấy tờ gì cả.

Cuộc đời của Thầy là gương sáng “tri hành hiệp nhất”. Từ năm 1973, sau khi vợ Thầy mất, thầy không lấy vợ khác, sống chết cho đoàn thể, Thầy đã mất trên máy bay trên đường đi dự Đại Hội Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến toàn thế giới kỳ ba ở Hoà Lan năm 1990.

Nói về chuyện chánh quyền của Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu đã tham nhũng có một số sinh viên đề nghị cần lật đổ (làm đảo chánh) để thay người mới. Giáo sư Huy trả lời: ” Mấy anh thấy Trần Thủ Độ rất ác với nhà Lý. Nhân ngày giỗ của tôn thất nhà Lý, ông Trần Thủ Độ đã đào hầm lớn, khi tôn thất nhà Lý đến dự lễ, làm sụp hầm, đã chôn sống tất cả dòng họ nhà Lý. Nhưng ông Trần Thủ Độ cũng đã có công đánh đuổi quân Mông cổ, dành độc lập cho nước Việt nam. Con người Trần Thủ Độ rất ác với nhà Lý nhưng vẫn có công với đất nước, dân tộc Việt nam. Muốn thay đổi chế độ của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, không thể dùng giải pháp quân sự, đảo chánh sẽ sinh ra bất ổn, mà cần phải thông qua bầu cử để dân chúng quyết định bằng lá phiếu.

Đi tìm đời sống tâm linh.

Tôi theo anh Ngô Thanh Nhàn Giáo sư dạy trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký để học hỏi về châm cứu.  Anh Nhàn lớn hơn tôi 6 tuổi. Đậu trường Đại Học Sư Phạm một năm. Dạy môn toán. Sau này anh cũng lấy được bằng Cử Nhân Luật Khoa. Gặp những vấn đề khó khăn, buồn khổ không giải quyết được, tôi hay hỏi ý kiến anh Nhàn. Anh thường nói với tôi là “quên mình đi, nghĩ đến người khác đi” sẽ có cách để giải quyết vấn đề khó khăn đó.

Tôi buồn rầu, chán nản vì không có việc làm, không có tiền để sinh sống.Tôi không biết phải làm nghề gì bây giờ. Đã chạy xe xích lô nhưng nặng nhọc quá không làm được. Theo anh hai Khuyên đi dọn dẹp các ống cống, khiêng những tấm “đan” quá nặng, không làm nổi. Trong khi đó lúc nào nhà cầm quyền cũng theo dõi tôi, xem có hành vi chống đối nào không? Tôi hoàn toàn mất tự do. Chẳng những vậy, tôi cảm giác bị coi thường vì không làm gì ra tiền mà cứ phải ăn bám vào bà xã tôi, vào ba má tôi. Tôi cứ ra vô trong nhà không biết làm gì cả thấy mình thật là vô dụng.

Trong khi đó nhà nước đòi tịch thu nhà của tôi nếu tôi được đi Mỹ theo diện HO. Nhà tôi thuộc diện nhà nước quản lý vì tôi là Phó Chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến cấp Quận. Nhà này là nhà của cha mẹ tôi, tôi chỉ đứng tên, chứ không phải là nhà do tôi mua hay xây dựng. Tôi rất đau khổ, lo lắng, buồn phiền về việc này.

Những áp lực nặng nề đó làm cho tôi vô cùng bất an. Tôi không biết làm sao để giải quyết căn nhà này nếu tôi xuất cảnh. Nếu tôi đi mà căn nhà này bị tịch thu thì tôi sẽ đau khổ vô cùng.

Tôi đi xem bói, nghe đồn ai có khả năng xem được tương lai là tôi tìm đến. Tôi theo anh Nhàn lên Thủ Đức để xem.Tôi nhờ anh Phạm Tư dẫn một người nói rằng có khả năng đoán được tương lai. Tôi cũng đến hỏi chừng nào được đi nước ngoài mà có được đi không? Căn nhà có bị tich thâu không?

Rồi cuối cùng, có lẽ có sự dẫn dắt của Thiên Chúa để tôi gặp anh Nguyễn Gia Phách là người công giáo dẫn tôi lên Fatima cầu nguyện. Tôi đến với Thiên Chúa, đến với Đạo Công Giáo thông qua Đức Mẹ. Rồi những biến cố khác cũng ảnh hưởng đến suy nghĩ, tâm tư của tôi. Như trường hợp vợ anh Hà Hớn Liếu, bạn cải tạo của tôi, ba bốn tháng trước khi mất đã xin vào đạo Chúa. Làm đám tang ở nhà thờ. Sau đó, anh Liếu cùng bốn đứa con, cả nhà đều đi học đạo và được rửa tội làm con Chúa cùng một lượt.

Tôi đã vào đạo Chúa ngày 15 tháng 8 năm 1991, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời đến nay (15-8-2012)  đã tròn 21 năm.

Tin có Chúa cuộc đời tôi đổi khác rất nhiều.

Khi tôi gặp khó khăn, gặp vấn đề khó giải quyết, tôi vô nhà thờ cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ. Tôi bớt  nóng nảy rất nhiều, không vì bực dọc mà la lối vợ con hay cự nự người xung quanh nữa. Vì tôi tin rằng đời này khó khăn, đau khổ là để thông phần với đau khổ của Chúa chịu đóng đinh, để sau này sẽ được hưởng phúc trường sinh, hạnh phúc vinh quang vĩnh cửu, sau khi chết.

Tin có Chúa được những gì?

Tôi tập được “Đức khiêm nhường”Chúa nói: ” Hãy bắt chước ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. ” Tinh thần phục vụ” Chúa còn rửa chân cho các môn đệ, con người mình trình độ học vấn đâu có bao nhiêu, trong cuộc sống vướng nhiều lỗi lầm, tội lỗi mà không biết ăn năn sám hối sửa mình và bắt chước Chúa Kitô mà phục vụ anh em để đền bù tội lỗi của mình hay sao?

Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (Mt12, câu 9)

Khó khăn quá thì cầu nguyện vì “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho…( Mt 7,7 )

Không thể nào Chúa không ban ơn khi chúng tha thiết cầu xin.

21 năm làm con cái Chúa.

Trong quảng đời còn lại chưa biết Chúa gọi lúc nào, tôi đã đặt ưu tiên là làm việc cho Chúa, đóng góp phần nào công sức để phục vụ nhà Chúa, hy vọng Chúa thương ban cho đời sống hạnh phúc Thiên đàng mai sau.

Do đó trong mấy năm nay tôi không chỉ đi lễ và phụ giúp lễ hai tối thứ bảy và tối Chúa nhật, mà sáng nào tôi cũng đi lễ. Vừa được nghe lời Chúa, còn được rước Chúa mỗi ngày nữa. Mỗi sáng thức dậy lúc 6 giờ 15, đến 6 giờ 40 lên xe đi đến nhà thờ. Thường đến nhà thờ sớm được 5 , 10 phút. Đi vào nhà thờ cầu nguyện, đọc kinh, thầm thì, than thở với Chúa, với Đức Mẹ. Năm 2012 có đi thăm anh Tuyên ở Cali, mỗi sáng, anh cũng dẫn tôi đi lễ ở nhà thờ “Đức Mẹ Dâng con” thuộc cộng đoàn Riverside, Corona.

Năm nay, các con các cháu, gia đình chú Tư tập họp ở nhà hàng Thiên Phú để mừng tôi 70 tuổi và bà xã tôi 65 tuổi. Có vài ba người bạn thân, được hai bàn tròn.

Tôi không ngờ tôi sống được đến ngày hôm nay. Bảy mươi năm trôi qua. Đời người quá ngắn ngủi. Đời người như “bóng câu qua cửa sổ” tôi đã nghe, đã học, đã biết câu này thời còn đi học ở trung học. Bây giờ sau thời gian dài hơn năm mươi năm, tôi mới cảm nghiệm được câu nói này. Đúng là đời người như “bóng câu qua cửa sổ”, thoáng chút, đã thấy mình già rồi. Đã bước vào tuổi “cổ lai hy” rồi. Có ai nghĩ tới ngày hôm nay đâu?. Rồi chỉ còn thời gian ngắn ngủi nữa thôi, ngày mai hay tháng tới hay năm tới mình sẽ ra đi, nào ai biết được. Có sẵn sàng chưa. Có gì để tiếc không?

Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức vì anh em không biết khi nào giờ ấy đến” (Mc 13, câu 33).

Tôi đã đóng góp gì cho đời và đã làm điều gì không tốt có hại cho linh hồn tôi ở đời sau.

Có người so sánh thời gian còn lại của đời người giống như phần còn lại mỏng manh của cuộn giấy đi cầu. Sau khi ta đã dùng gần hết cuộn giấy đi cầu, phần còn lại của cuộn giấy quả thật là mỏng te, quá ít ỏi. Ta sẽ thấy tiếc không dám phí phạm phần giấy còn lại cũng giống như thời gian còn lại của ta trên cõi đời này còn quá vắn vỏi, ta phải nên yêu quí nó, trân trọng nó. Dùng thì giờ còn lại thật có ý nghĩa, để mai sau được hưởng vĩnh phúc mà Thiên Chúa yêu thương sẽ ban cho.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình muốn bền vững cần có lời Chúa. Lắng nghe, học hỏi và thực hành lời Chúa.

Cha Chu Quang Minh, dòng tên, sáng lập Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình, trong một kỳ tĩnh tâm về gia đình, có nói: “Cầu nguyện trong mọi sự, mọi sự đều cầu nguyện.( Prayer is in every thing, everything is prayer). Luôn luôn cầu nguyện. Cầu nguyện không ngừng. Sáng đi nhà thờ cầu nguyện. Lúc 3 giờ trưa cầu nguyện lòng thương xót Chúa. Khi đi tập thể dục, chạy bộ hay ngăm nước nóng cũng đọc kinh Lòng thưong xót Chúa.Tối đọc kinh Mân Côi.

Cầu nguyện cho gia đình, cho các con, cho thân nhân giòng họ, cho bạn bè và những người quen biết hay không quen biết luôn luôn yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Đức Mẹ. Để chi vậy?

Để con cháu có chỗ dựa vào Thiên Chúa toàn năng, có đời sống tâm linh cao. Biết phó thác những sự khó khăn cho Chúa. Biết chịu đựng khi gặp khó khăn, gian nan thử thách.

Theo thống kê của Hoa Kỳ tuổi trung bình ra đi cho đàn ông là 75, 76 tuổi; đàn bà 80, 81 tuổi.

Như vậy tôi chỉ còn vỏn vẹn có 5, 6 năm nữa sống trên cõi đời này, tại sao mình không vui hưởng mà nghĩ vẫn vơ, than phiền những điều mình không vừa ý.

Sống để làm gì? Tại sao có tôi trên đời này?

Khi ở trong tù ngoài Bắc, tôi thường đặt câu hỏi học hành đỗ đạt để làm gì? Mà vì có học vấn, được hiểu biết, nên mới tham gia các đảng phái chính trị mục đích đóng góp một phần nào cho xã hội. Giả sử như tôi không đi học, không biết gì nhiều, liệu tôi có tham gia Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, đảng Tân Đại Việt hay không.? Như vậy vì có đi học, có hiểu biết, ao ước đóng góp gì cho đất nước, cho xã hội mà cộng sản đã giam giữ tôi vì quan điểm chính trị khác biệt. Tôi đã ở trong các trại cải tạo Long Thành, Lao Cai, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh gần 8 năm.

Đến cuối cuộc đời còn gì để tiếc.

Mỗi ngày vẫn làm việc bình thường đọc báo chí, sách vở, viết bài vở, chia xẻ tin tức mỗi ngày cùng những lời hay ý đẹp với bạn bè khắp nơi trên thế giới.

Còn niềm vui nào bằng. Tạ ơn Chúa tôi còn sáng suốt, còn sức khỏe để làm việc.

Viết xong  năm 2012

Sửa chữa xong tháng 05/2015

Giới thiệu sách mới : Hành trình của người trí thức dấn thân nhập cuộc

Giới  thiệu  sách  mới : Hành  trình  của  người  trí  thức  dấn  thân  nhập  cuộc

Bài của Đoàn Thanh Liêm

Nguyên tác bản tiếng Anh   :  Thinking the Twentieth Century.

by :   Tony Judt with  Timothy   Snyder

Nhà xuất bản The Penguin Press, New York ấn hành năm 2012

Sách dày trên 400 trang với bìa cừng.

www. Penguin.com

*     *     *

Tony Judt (1948 – 2010) sinh trưởng tại London Anh quốc, là một giáo sư về môn lịch sử và chính trị tại nhiều Đại học danh tiếng ở Âu châu và ở Mỹ. Ông cũng là tác giả hay biên tập của 14 cuốn sách, trong đó có cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” xuất bản năm 2005 là được giới thức giả quốc tế chú ý và đánh giá cao. Ông còn đóng góp nhiều bài vở cho các tạp chí nổi tiếng như The New York Review of Books, The Times Literary Supplement, The New Republic… Do bị bệnh liệt não, ông đã sớm từ giã cõi đời tại New York vào năm 2010 lúc mới ở vào tuổi 62.

Nhận thấy bậc đàn anh lâm bệnh ngặt nghèo, nên Timothy Snyder – cũng là một giáo sư trẻ tuổi người Mỹ về môn lịch sử – trong các năm 2009 – 2010 đã đến tư gia của Tony Judt tại New York để trao đổi thảo luận trong nhiều buổi nói chuyện thân mật tay đôi với ông. Và qua việc khai thác các băng ghi âm từ những cuộc đối thọai đó, Timothy đã hòan thành được cuốn sách có nhan đề thật bao quát là : “Thinking the Twentieth Century” –  sách này vừa mới cho ra mắt công chúng trong năm 2012. Có thể nói đây vừa là cuốn sách tự truyện của Tony Judt, vừa là một nhận định tổng hợp về sự dấn thân nhập cuộc của giới trí thức tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX.

Để thuận tiện cho độc giả theo dõi câu chuyện đối đáp giữa hai vị chuyên gia về sử học tại Âu châu trong thế kỷ XX, người viết xin lần lượt trình bày về tiểu sử các tác giả trước khi đề cập đến những mục đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

I – Tiểu sử các tác giả.

1 – Tony Judt (1948 – 2010)

Xuất thân từ một gia đình có cả cha mẹ đều là di dân người Do Thái gốc gác từ Đông Âu, nên Tony Judt dễ có điều kiện tìm hiểu về những biến chuyển lớn lao tại miền đất xưa kia là quê hương của dòng họ bên nội cũng như bên ngọai của mình. Tony được học ở trường Đại học nổi danh bậc nhất của Anh quốc, đó là trường Cambridge – rồi lại còn được học thêm ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm ở Paris (École Normale Supérieure) là cái nôi sản sinh ra những tinh hoa của nước Pháp. Ông thông thạo nhiều ngọai ngữ như tiếng Pháp, Đức,Tiệp khắc… và được coi là một chuyên gia có thẩm quyền về Lịch sử Giới Trí thức của Pháp thời hiện đại.

Luận văn để thi bằng Tiến sĩ của ông tại Cambridge được xuất bản thành cuốn sách trước tiên bằng tiếng Pháp vào năm 1976  – với nhan đề là “La Reconstruction du Parti Socialiste 1921 – 1926” (Sự Tái Xây dựng Đảng Xã hội (Pháp) 1921 – 1926).

Ông đã giảng dậy nhiều năm về Lịch sử và Chính trị tại các Đại học danh tiếng như Cambridge, Oxford và Berkeley và làm Giám đốc Sáng lập của Viện Erich Maria Remarque tại Đại học New York, Viện này chuyên chú vào công cuộc Trao đổi và Đối thọai giữa Âu châu và Mỹ châu.

Tony Judt cũng là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng, điển hình như :” Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956” (xuất bản năm 1992), “Marxism and the French Left : Studies on Labor and Politics in France 1930 – 1982” (xb 1990), “The Burden of Responsibility : Blum, Camus, Aron and the French Twentieth Century (xb 1998)”, “A Grand Illusion? : An Essay on Europe” (xb 1996). Và đặc biệt cuốn “Postwar : A History of Europe Since 1945” (xb 2005), thì được tạp chí New York Times Book Review xếp lọai là “một trong 10 cuốn sách hay nhất trong năm 2005”.

Ở vào tuổi 16 – 20, Tony đã nhiều lần về Do Thái để tham gia xây dựng kibbutz ở nông thôn và làm cả việc phiên dịch cho các đòan thiện nguyện viên trong cuộc chiến tranh 7 ngày năm 1967. Nhưng sau đó, Tony đã có lập trường khác biệt với chính quyền Do Thái và trở về đi học lại để hòan tất học trình thi Tiến sĩ và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu và giảng dậy chuyên môn về lịch sử và chính trị cho đến khi lìa đời vào tháng 8 năm 2010 tại New York.

Năm 2003, Tony Judt đưa ra chủ trương “Một quốc gia – hai dân tộc” (A bi-national State) như là giải pháp cho cuộc tranh chấp Do Thái & Palestine – thì gặp phải sự phản ứng gay gắt trong công luận – khiến cho một vài tạp chí phải từ chối sự cộng tác của ông.

Về đời tư của gia đình, thì Tony Judt có hai người vợ trước đều đã ly dị. Sau cùng, ông sống đến cuối đời với bà vợ thứ ba tên là Jennifer Homans và có hai người con trai với bà này được đặt tên là Daniel và Nicolas.

2 – Timothy Snyder (sinh năm 1969)

Sinh trưởng tại Mỹ, Timothy Snyder theo học tại Đại học Brown ở Mỹ và tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ từ Đại học Oxford Anh quốc. Ông còn tham gia nghiên cứu tại Paris, Warsaw, Vienna và Đại học Harvard. Ông chuyên giảng dậy tại Đại học Yale về môn Lịch sử chính trị của Đông Âu hiện đại.

Ông cũng là tác giả của 5 cuốn sách đều được giải thưởng – trong đó cuốn sách nhan đề “Bloodlands : Europe between Hitler and Stalin” (Miền Đất Đẫm Máu) đã trở thành sách bán chạy nhất tại 4 quốc gia và được 10 nhà xuất bản xếp vào lọai sách hay nhất trong năm.

Timothy Snyder là người thông thạo rất nhiều ngôn ngữ Đông Âu, cụ thể như tiếng Nga, Ba Lan, Ukraine, Belorussian, Tiệp khắc và cả tiếng Yiddish của người Do Thái ở Đức và Trung Âu – đó là chưa kể tiếng Pháp và Đức. Sách của ông đã được dịch ra đến 20 ngôn ngữ khác. Chính Tony Judt đã xác nhận trong Lời cuối sách rằng :  Với sự thông suốt về lịch sử và văn hóa Đông Âu, thì Timothy Snyder là phần bổ túc thật quý báu cho mình, mặc dầu Timothy trẻ hơn 21 tuổi so với Tony.

Tuy vậy, do sự khiêm tốn, trong cuốn sách này Timothy Snyder đã lọai bỏ bớt đi phần nói về tiểu sử của bản thân mình – cốt ý để cho Tony Judt đóng vai trò chính yếu trong việc hòan thành cuốn sách. Độc giả có thể nhận ra chi tiết đó ngay trên trang bìa sách, thì chữ Tony Judt cũng lớn hơn hẳn chữ Timothy Snyder – ông này tự coi như mình chỉ là ‘một tác giả phụ” của cuốn sách mà thôi.

II – Mấy nét chính yếu của tác phẩm.

1 – Có thể xếp lọai cuốn sách này là Lịch sử Tư tưởng Chính trị và giới Trí thức trong sinh họat chính trị của thế kỷ XX ở Âu châu – đó là một lãnh vực mà cả hai tác giả đều đã dày công nghiên cứu trong nhiều năm. Vì thế mà có ấn bản lại ghi thêm một nhan đề phụ nữa là : “ Giới Trí thức và Chính trị” (Intellectuals and Politics) để bạn đọc chú ý hơn đến nội dung của sách. Phần Tự thuật của riêng Tony Judt có tác dụng minh họa cho những nghiên cứu cũng như về sự gặp gỡ trao đổi của ông với nhiều vị thức giả có tên tuổi trong giới học thuật đặc biệt xuất thân từ Đông Âu.

Cuốn sách được thành hình qua nhiều cuộc trao đổi đối thọai giữa hai vị giáo sư chuyên về môn lịch sử ở Âu châu thời cận đại – nên có tính chất linh họat của lối văn nói hơn là văn viết.

2 – Về mặt bố cục, sách được chia thành 9 chương với Lời Nói đầu của Timothy Snyder và Lời Nói cuối của Tony Judt do ông này viết tại New York vào ngày 5 tháng Bảy năm 2010 – chỉ mấy tuần trước ngày ông từ giã cõi đời vào tháng 8 năm 2010. Mỗi chương đều có nhan đề riêng biệt, điển hình như sau :

ñ  Chương 3 : Familial Socialism : Political Marxist

ñ  Chương 5 : Paris, California : French Intellectual.

ñ  Chương 6 : Generation of Understanding : East European Liberal

ñ  Chương 7 : Unities and Fragments : European Historian

ñ  Chương 9 : The Banality of Good : Social Democrat.

Phần cuối sách còn có 6 trang kê khai rất nhiều tác phẩm được hai tác giả đề cập thảo luận tới trong các cuộc đối thọai. Cuốn sách thật hấp dẫn lôi cuốn đối với người đọc – vì trong nội dung mỗi đề tài thảo luận giữa hai tác giả, thì đều ghi xen lẫn cả nhiều chi tiết về quá trình sinh sống, gặp gỡ quen biết với các chuyên gia đày tài năng khác và cả sự miệt mài say sưa trong công việc nghiên cứu không biết mệt mỏi – đó là tính chất đặc trưng của Tony Judt.

3 – Vì chủ đề của những cuộc trao đổi thảo luận quá rộng rãi – bao quát nhiều khía cạnh của lịch sử tư tưởng và sinh họat chính trị tại Âu châu suốt trong thế kỷ XX, nên việc tóm lược cho thỏa đáng về những điểm cốt lõi của cuốn sách là một công việc hết sức khó khăn – nhất là lại phải gói gọn trong một bài giới thiệu không thể kéo dài quá 3,000 chữ như thường lệ. Do vậy, tôi chỉ xin nêu ra vài ba khía cạnh đặc trưng đáng chú ý nhất trong tác phẩm – đặc biệt đối với số người Việt vốn từng quen theo dõi tình hình sinh họat chính trị tại nước Pháp. Đó là nội dung được trình bày trong phần III sau đây.

III – Những khía cạnh đáng chú ý nhất trong cuốn sách.

1 – Cách tiếp cận của người vừa ở trong cuộc, vừa ở ngòai cuộc.  (Insiders/Outsiders Approach)

Như tác giả Timothy Snyder đã ghi trong Lời nói đầu, Tony Judt vừa là người trong cuộc, vì ông dấn thân họat động cụ thể trong một số lãnh vực như một người trí thức nhập cuộc (intellectuel engagé) – mà ông cũng còn là người ngọai cuộc, vì ông chủ trương theo đuổi cái viễn kiến rộng rãi hơn, thông thóang hơn của một nhà nghiên cứu lịch sử vốn đòi hỏi một tinh thần bao quát khách quan hơn. Điều này khác biệt với phong cách của một nhà viết tiểu luận (essayist) vì ông này cần bày tỏ lập trường nhận định của mình với sự xác tín và nhiệt huyết của cá nhân mình trong bài viết – mà không bó buộc phải cân nhắc đắn đo với những đối chiếu thận trong của một nhà viết sử.

Cụ thể là Tony lúc ở tuổi 16 – 20, thì đã từng về bên nước Do Thái để tham gia xây dựng tại các kibbutz. Nhưng sau này Tony lại có ý kiến khác hẳn với chủ trương của nhà đương quyền ở xứ này. Cũng vậy, Tony theo truyền thống Marxist trong gia đình, nhưng khi trưởng thành chín chắn, thì lại theo đường hướng Xã hội Dân chủ mà ông coi là nhân bản tốt đẹp hơn hẳn chế độ tàn bạo sắt máu trong hệ thống cộng sản do Liên Xô đứng đầu. Và nhờ tiếp cận thân thiết với giới trí thức lưu vong từ Đông Âu sau năm 1968, mà Tony có cơ hội thấu hiểu cặn kẽ hơn về cái bối cảnh tòan diện chính trị xã hội và văn hóa của cả hai phía Đông Âu và Tây Âu – điều mà ít có người thức giả thực hiện được.

2 – Nhận định phê phán về Giới Trí thức của nước Pháp.

Là một nhà nghiên cứu lâu năm về tình hình chính trị cận đại của nước Pháp, Tony Judt đã trình bày những nhận xét hết sức rõ rệt sắc nét về giới Trí thức của Pháp trong thế kỷ XX. Tony thẳng thừng phê phán những trí thức thiên tả hàng đầu của Pháp như Jean Paul Sartre, Maurice Merleau-Ponty, Simone de Beauvoir … là những người cố chấp, thiên vị đến độ mù lòa (blindfully) đồng lõa với chủ trương tàn ác của Staline. Họ coi cách mạng ở Nga năm 1917 là sự tiếp nối của cách mạng Pháp năm 1789. Tony coi họ có tinh thần điạ phương cục bộ, khư khư bám víu vào cái hư danh của truyền thống cũ kỹ cổ xưa của mình (parochial). (Xin đọc chi tiết nơi cuốn “Past Imperfect : French Intellectuals, 1944 – 1956 – xuất bản năm 1992)

Trái lại, Tony Judt lại đề cao những trí thức như Léon Blum, Albert Camus và Raymond Aron là những người đã có sự dũng cảm đi ngược lại cái khuynh hướng thiên tả cố chấp của đa số trí thức đương thời – để nói lên sự cảnh báo trước nguy cơ bành trướng của khối cộng sản Liên Xô kể từ sau năm 1945. Ông đã viết cả một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1998 dưới nhan đề là “The Burden of Responsibility…” đề cập chi tiết hơn về ba nhân vật này.

Trong cuộc đàm đạo với Timothy, thì Tony còn thuật lại vào tháng 2 năm 1948, cựu lãnh đạo Mặt trận Bình Dân ở Pháp năm 1936 (Front Populaire) là chính Léon Blum đã phải viết trong bài xã luận của tờ báo Le Populaire của Đảng Xã hội rằng : Ông nhận sự sai lầm của mình khi tin rằng phe Xã hội có thể hợp tác với phe Cộng sản” (trang 214) .

3 –  Về chính sách kinh tế, Tony Judt bênh vực John Maynard Keynes.

Giữa hai quan điểm đối nghịch của John Maynard Keynes là kinh tế gia người Anh giữa thế kỷ XX và của Friedrick Hayek người gốc Áo quốc gần đây, thì Tony Judt có vẻ thiên về tác giả Keynes là người cổ võ cho chính sáchTòan dụng trong nền Kinh tế Vĩ mô (Full Employment in Macro-economics) – mà ông coi là bổ túc cho khuynh hướng của chủ trương kế họach hóa do Sir William Beveridge đề xuất ở nước Anh. Tony biện minh rằng chủ trương của Keynes có tính cách mềm dẻo linh động, chứ không có sự khe khắt khắc nghiệt làm tê liệt sáng kiến của giới doanh nhân –  như Hayek đã nặng nề phê phán, đặc biệt trong tác phẩm nổi danh “The Road to Serfdom” của ông (Con Đường dẫn đến Sự Nô dịch).

Tony coi trọng thành quả của Tây Âu là đã xây dựng vững chắc được các định chế dân chủ và đặt nền móng sâu rộng cho một số quốc gia có nền phúc lợi xã hội khả quan (The Social Welfare State). Đặc biệt là sự thành công của chế độ Dân chủ Xã hội tại các quốc gia ở Bắc Âu châu (Social Democracy).

IV – Để tóm lược lại.

1 – Tuy chủ đề của cuốn sách quá rộng lớn bao quát, nhưng vì nội dung của các buổi thảo luận được trình bày xen kẽ với nhiều chi tiết sinh động về tiểu sử có tính cách tự thuật của Tony Judt, nên người đọc dễ theo dõi câu chuyện với sự thích thú kỳ diệu mà lại nhẹ nhàng. Cả hai tác giả đều là những nhà giáo – nhà nghiên cứu uyên bác và đã từng có những tác phẩm được đánh giá cao trong học giới cũng như trong công chúng độc giả. Vì thế, sự trình bày của họ trong cuốn sách thì rất là phong phú khúc chiết – nó giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng hợp về tư tưởng và hành động của giới trì thức tiêu biểu tại Âu châu trong thế kỷ XX. Có thể nói các tác giả đã cung cấp cho người đọc một thứ lộ đồ (a road map) để khám phá cái không gian tư tưởng cực kỳ bao la đa dạng và phức tạp của thế kỷ XX.

2 – Đúng như nhan đề của bài viết, cuốn sách này là một thứ tự thuật của Tony Judt về quá trình nhập cuộc của bản thân mình trong sự tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng cho xã hội đương thời. Mà đồng thời các tác giả cũng trình bày những nét chính yếu về vai trò của tòan thể giới trí thức ở Âu châu trong sinh họat chính trị văn hóa suốt thế kỷ XX. Các tác giả cũng bày tỏ sự lạc quan và xác tín của mình trước viễn tượng của một nền Dân chủ Xã hội mà các thế hệ trẻ của thế kỷ XXI có thể xây dựng được – sau khi rút kinh nghiệm từ những thất bại của các thế hệ đàn anh của thế kỷ XX.

Người viết xin hân hạnh được giới thiệu với quý bạn đọc cuốn sách rất hấp dẫn lôi cuốn và cũng thật có giá trị vững chắc này vậy./

Costa Mesa California, Tháng 12 năm 2012

Đoàn Thanh Liêm

Người mẹ một mắt

Người mẹ một mắt

(Nhân ngày HIỀN MẪU xin gởi lại bài Người mẹ một mắt để suy tư)

Mẹ tôi chỉ còn một bên mắt. Tôi ghét điều đó, và vì thế tôi ghét luôn cả mẹ. Mẹ có một cửa hàng ọp ẹp ở khu chợ tồi tàn, lượm lặt đủ các loại rau cỏ lặt vặt để bán. Bà làm tôi xấu hổ.

Một ngày kia ở trường tôi có sự kiện đặc biệt, và mẹ đã đến. Tôi xấu hổ lắm. Tôi nhìn mẹ với ánh mắt rất căm ghét rồi chạy đi. Ngày hôm sau đến trường, mọi người trêu chọc tôi: “Ê, mẹ mày chỉ có một mắt thôi à?”.

Tôi ước gì mẹ biến mất ngay khỏi thế giới này, vì vậy tôi nói với bà rằng: “Mẹ, tại sao mẹ chỉ còn một bên mắt thôi? Mẹ sẽ chỉ biến con thành trò cười cho thiên hạ. Sao mẹ không chết luôn đi?”. Mẹ tôi không phản ứng. Tôi nghĩ mình quá nhẫn tâm, nhưng lúc đó cảm giác thật thoải mái vì tôi nói ra được điều muốn nói suốt bấy lâu.

Đêm hôm ấy…

Tôi thức dậy, xuống bếp lấy cốc nước. Mẹ đang ngồi khóc trong đó, rất khẽ, cứ như bà sợ rằng tiếng khóc có thể đánh thức tôi. Tôi vào ngó xem mẹ thế nào rồi quay về phòng. Chính vì câu tôi đã thốt ra với mẹ, nên có cái gì đó làm đau nhói trái tim tôi.

Ngay cả vậy chăng nữa, tôi vẫn rất ghét mẹ. Tôi tự nhủ mình sẽ trưởng thành và thành đạt, bởi vì tôi ghét người mẹ vừa nghèo, vừa chỉ còn có một mắt.

Rồi tôi lao vào học. Tôi đỗ vào một trường đại học danh tiếng với tất cả sự tự tin và nỗ lực. Tôi rời bỏ mẹ đến thành phố.

Tôi kết hôn, mua nhà và làm cha. Giờ đây, tôi là một người đàn ông thành đạt và hạnh phúc. Tôi thích cuộc sống ở thành phố. Sự náo nhiệt, sôi động giúp tôi quên đi hình ảnh người mẹ tội nghiệp.

Cho tới một hôm, người tôi không mong đợi nhất đã xuất hiện trước cửa nhà. Mặt tôi tối sầm lại, tôi đã lạnh lùng hỏi người đàn bà đó: “Có chuyện gì không? Bà là ai?”. Đó là mẹ tôi, vẫn dáng người còm cõi và gầy gò ấy, vẫn là người phụ nữ với đôi mắt không hoàn thiện ấy.

Đứa con bốn tuổi của tôi nhìn thấy bà, nó đã quá sợ hãi, chạy núp vào một góc nhà. Tôi vờ như không nhận ra bà, nhìn bà giận dữ rồi nói: “Bà là ai, tôi không quen bà”. Tôi đang tự lừa gạt mình và thực sự từ bao lâu nay tôi vẫn tự lừa mình như thế. Tôi cố quên đi cái sự thật bà là mẹ tôi. Tôi luôn muốn trốn tránh sự thật này. Tôi đuổi bà ra khỏi nhà chỉ vì bà khiến đứa con gái nhỏ của tôi sợ hãi.

Đáp lại sự phũ phàng ấy, người đàn bà tiều tụy kia chỉ nói: “Xin lỗi, có lẽ tôi đã tới nhầm địa chỉ”, và rồi bà đi mất.

“May quá, bà ấy không nhận ra mình” – tôi thầm nhủ. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, tự nói với mình rằng sẽ không bao giờ quan tâm hoặc nghĩ về bà.

Một ngày, tôi được mời về trường cũ để gặp mặt nhân kỷ niệm thành lập trường. Tôi nói dối vợ rằng sẽ đi công tác mấy hôm.

Sau buổi họp mặt, tôi lái xe đi ngang qua ngôi nhà mà tuổi thơ tôi đã từng gắn bó – một cái lều cũ rách, lụp xụp, ẩm ướt. Bây giờ nó vẫn thế. Tôi xuống xe và bước vào. Tôi thấy bà nằm ở đó, ngay giữa sàn đất lạnh lẽo, trong tay ba có một mẩu giấy. Đó là bức thư bà viết cho tôi.

Con trai yêu quí của mẹ!

Mẹ nghĩ cuộc đời này mẹ đã sống đủ. Mẹ sẽ không thể đến thăm con thêm lần nào nữa, nhưng mẹ có quá tham lam không khi mong con trở về thăm mẹ dù chỉ một lúc? Mẹ nhớ con nhiều, và cũng rất vui khi nghe tin con đã trở về thăm lại lớp cũ. Mẹ đã rất muốn tới trường chỉ để nhìn thấy con. Nhưng mẹ đã quyết định không đến, vì con.

Mẹ xin lỗi vì mẹ chỉ có một mắt, có lẽ mẹ đã làm con thấy hổ thẹn với bạn bè.

Con biết không, hồi còn rất nhỏ, con bị tai nạn và vĩnh viễn mất đi một bên mắt của mình. Mẹ không thể đứng nhìn con lớn lên với khiếm khuyết trên khuôn mặt đáng yêu, vì vậy, mẹ đã tặng nó cho con.

Mẹ rất tự hào vì con trai mẹ có thể nhìn trọn thế giới mới có một phần của mẹ ở đó, mẹ chưa bao giờ buồn vì con hay bất cứ điều gì con đã làm. Con đã từng ghét bỏ hay tức giận mẹ, nhưng mẹ biết, trong sâu thẳm từ trái tim, đó là bởi vì con cũng yêu mẹ.

Mẹ rất nhớ khoảng thời gian khi con trai mẹ còn nhỏ, khi con tập đi, khi con ngã hay những lúc con chạy loang quanh bên mẹ. Mẹ nhớ con rất nhiều, mẹ yêu con, con là cả thế giới đối với mẹ”.

Thế giới quanh tôi cũng như đang đổ sụp. Tôi khóc cho người chỉ biết sống vì tôi.

Nếu câu chuyện làm bạn cảm động, hãy nhấc điện thoại lên và bấm số của bố mẹ, chỉ để nói rằng: Con yêu bố mẹ .

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CẮT RUỘT THẢ XUỐNG BIỂN ĐÔNG

Chuyện đọc thật ngắn cho tháng 4 đen …

CẮT RUỘT THẢ XUỐNG BIỂN ĐÔNG

Con thuyền chật cứng lúc bắt đầu ra Bãi Giá. Bây giờ chắc không ai chợt thấy lòng thuyền bỗng rộng hơn. Mọi người đã đói lã, không còn nghĩ gì ngoài cái ăn. Sau 39 ngày lênh đênh trên biển, hơn một nửa đã vắng mặt vì bịnh và vì đói khát. Xác họ đã làm mồi cho cá mập. Cơn đói khát và mất người thân khiến nhiều người phát điên. Chị Út V. ôm cứng con vào lòng bằng tất cả sức lực còn lại của mình. Con bé mới tuổi rưỡi cũng đang thoi thóp. Từ hai hôm nay những người trên thuyền chỉ muốn ăn thịt con bé. Họ nói dầu gì thì con bé không thể sống được. Chị Út V. biết chị không thể nào chống trả hay kêu gọi nhân tính của họ, những người tìm mọi cách để sống còn. Nửa đêm chị Út V. lần mò ra trước mủi thuyền, nhẹ nhàng thả con trên lượn sóng biển Đông.

Chị thấy từng đoạn ruột của mình đang rỉ máu trên những ngọn sóng vô tình.

Houston, để nhớ ngày này hơn 30 năm trước

Trần Bang Thạch

CẦU BÀ NỘI

Trong mắt bà Tư căn nhà bây giờ bỗng nhiên trống hoác. Nằm trên giường bịnh bà Tư cũng hình dung được  căn buồng bên trái cửa đã đóng kín, cái bàn học kê bên cửa sổ còn xấp bài chưa chấm của con dâu. Chiếc áo lính cũ của con trai còn máng trên vách buồng. Chai sữa nấu bằng gạo rang thằng cháu nội chưa uống hết đang nằm bên cạnh bà đây. Mới hôm qua cả nhà còn đông đủ. Hôm nay chỉ còn một mình bà. Trống vắng.

Đêm qua trời tối đen như mực, cỗng thằng cháu nội mới hơn 1 tuổi trên lưng, bà Tư lần mò từng bước trên cây cầu khỉ bắc ngang Rạch Bần. Mưa lớn và gió mạnh. Cầu lắc lư hay chân tay bà lão sáu mươi đi đứng không vững? Cha mẹ thằng bé đã đi trước với 2 đứa con và mấy túi đồ ăn, thức uống. Hồi chiều có tin cơ quan xã đã nghe phông thanh chuyến vượt biên này. Mọi người phải chạy đua với xã đội, hối hả xuống “taxi” đang đậu chờ ở ngoài vàm để đi ra “con cá lớn”. Khi chiếc ghe nhỏ rời bến, bà Tư trở về. Dâu con đã năn nỉ bà cùng đi, bà nói bà phải ở lại để rủi có bề gì thì còn nhà cửa để con cháu trở về. Bà đi thất thểu dưới mưa mà tưởng chừng như mình bay trong gió. Bà thấy thân thể nhẹ tênh mà trái tim thì nặng như chì. Bà Tư đã vừa bứt ruột, nát lòng đưa tiễn những người thân nhứt của bà ra đi. Sống chết thế nào chưa biết. Từ nay một thân già yếu bà Tư cũng không biết mình sẽ ra sao. Bà bước trở lại cây cầu khỉ. Đi mới được nửa cầu, bà muốn đứt hơi, mắt hoa, chân run, bà dựa vào tay vịn để thở. Khi thân cầu gãy, bà Tư mới hoàn hồn, cố gắng hết sức già, bà Tư mới lội được vào bờ, lê lết về  nhà. Cơn sốt bắt đầu ngay sau đó.

Tin vượt biên thành công của con cháu nhắn gởi từ Songkla bà Tư không nhận được. Bà Tư đã vĩnh viễn ra đi chỉ hai ngày sau cái đêm mưa tầm tả ấy.

Lối xóm nói cơn sốt không thể vật ngã được người đàn bà nhà quê dạn dày sương gió ấy. Chắc chỉ tại nỗi buồn quá lớn khi bà bỗng chốc mất hết những người thân yêu.

Gần ba mươi năm trôi qua, Rạch Bần đã thay bao nhiêu cây cầu khỉ. Xóm giềng vẫn nghèo xác nghèo xơ. Hôm nay cây cầu đúc bắt qua con rạch vừa xong. Không có lễ khánh thành nhưng một số người ở gần đến chờ giờ khai thông cây cầu. Trong làng ai cũng biết cầu này do một kỹ sư cầu đường trẻ nổi danh của Mỹ tự tay thiết kế và xây dựng cả tháng nay. Đứng trước ba má và anh chị, người thanh niên trạc ba mươi tự tay vén tấm vải điều che mặt bia đặt bên này cầu. Người ta đọc mấy chữ trên tấm bia: “BÀ NỘI, con thương Bà”.

Từ đó người làng gọi cầu nầy là Cầu Bà Nội. Một cây cầu gãy gần ba mươi năm trước bây giờ đã được bắt lại, đẹp đẽ, vững chắc. Ở một nơi nào đó trên mây, có người đàn bà quê nhìn xuống đàn con cháu, niềm vui bừng sáng một góc trời chiều.

LUẬT NHÂN QUẢ KHÔNG BỎ SÓT MỘT AI

LUẬT NHÂN QUẢ KHÔNG BỎ SÓT MỘT AI

(Càng đọc càng thấy thấm thía)

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật Nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!

Có một người phụ nữ khi nướng bánh mì cho gia đình mình luôn làm dư ra một cái để cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Và một người gù lưng đều đặn đến để lấy ổ bánh mì đó.
Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác.
Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :
“Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Người đàn bà rất bực bội. Bà thầm nghĩ:
“Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”
Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt.
Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.” Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà thường làm. Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên.
Bà hốt hoảng:
“Ta làm gì thế này?”
Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ.
Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.”
Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ.

Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.
Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa.Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa…
Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:
– Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói:
– Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!
Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!
Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
***
Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật Nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!

Sưu Tầm

Anh chị Thụ Mai gởi

CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM.

CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM.

Cô Giáo Jenny đang nhận quà Giáng Sinh do đại diện trạitỵ nạn traotặng, năm 1982.

Cô Giáo Tỵ Nạn mà tôi và các bạn đề cập tới ngày hôm nay, không phải là cô giáo ở Việt Nam đi vượt biên, sống tạm thời tại các trại tỵ nạn, mà là cô giáo người Úc, từ Úc tới các trại tỵ nạn để dậy tiếng Anh cho những người dân Tỵ Nạn đang sống ở đó.

Cô giáo người Úc này tên là Jennifer Joy Ramm.

San ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, dân Việt chúng ta đã ào ạt bỏ xứ ra đi tìm Tự Do, vì không thể sống dưới chế độ bạo lực, tù đầy và sự trả thù dã man của bọn Cộng Sản. Cả thế giới dang rộng vòng tay và lòng từ thiện thiết lập những trung tâm tỵ nạn tại các hòn đảo trong vùng Á Châu Thái Bình Dương để chúng ta có nơi tạm trú chờ đi định cư ở các quốc gia khác.

Trong thời gian tạm trú này, đã có rất nhiều thiện nguyện viên nam cũng như nữ, già cũng như trẻ, ở khắp mọi nơi trên thế giới tới các trại tỵ nạn để giúp đỡ chúng ta tìm thân nhân thất lạc cũng như học Anh ngữ. Một trong những người trẻ đó là cô Jennifer Joy Ramm mà các bạn hữu và các học viên thường gọi cô bằng cái tên ngắn gọn và đầy tình thân:

“Chị Jenny”.

Jenny là con cả trong một gia đình gốc Anh, sinh sống ở vùng Burra Burri  thuộc Tiểu bang Queensland. Đến khi lớn lên, gia đình đã chuyển về Cooroy để cô có thể tiếp tục học bậc trung học ở Noosa.Tốt nghiệp trung học, Jenny được học bổng của chính phủ Liên Bang để tiếp tục học ở Đại Học Queensland.

Sau khi tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân Văn Chương tại Queensland, cô đã xuống Melbourne học thêm để lấy chứng chỉ về Giáo Dục tại Đại học La Trobe.

Là thành viên của nhóm người trẻ tình nguyện hoạt động ở ngoại quốc “Australian VolunteersAbroad – AVA”, vào năm 1976, cô Jenny được cử đi dậy Anh ngữ tại một trường trung học ở Mukah, thuộc Malaysia. Với giọng nói nhẹ nhàng, vui tươi và thái độ cởi mở, Cô giáo Jenny đã thu phục được nhân tâm của các học sinh và phụ huynh của Mukah, đến nỗi có gia đình đã đặt tên con của họ là Jenny để ghi nhớ thời gian cô dậy học cho các em học sinh tại đây.

Năm 1979, cô lại được cử đến trại tỵ nạn Ban Vmai ở Thái Lan, để lập ra một chương trình giảng dậy tiếng Anh cho 60.000 người Hmong đang sống ở trại tị nạn này. Để có thể dậy tiếng Anh một cách hữu hiệu, cô đã theo cách thức của các nhà truyền giáo là học tiếng bản địa trước. Jenny đã bỏ ra bốn tháng trời để chuyên tâm học tiếng Thái Hmong cho thật trôi chẩy, rồi sau đó mới dùng chính ngôn ngữ của họ mà dậy tiếng Anh cho họ. Trong vòng hai năm trời, cô đã xây dựng lên một trung tâm giảng dậy với nhiều lớp học, thuê giáo viên địa phương và mua cả một chiếc xe chở hàng nữa.

Với những kinh nghiệm giảng dậy này, vào khoảng cuối năm 1981, cô đã được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc mới đi dậy tiếng Anh cho các Thuyền Nhân Việt Nam tại trại Tỵ Nạn Galang, thuộc Indonesia.

Tại Galang, công vỉệc của Cô Giáo Jenny không chỉ đơn giản là dậy tiếng Anh cho người Việt Nam, cô con phải giúp đỡ họ chuẩn bị cho cuộc sống mới ở các nước Tây Phương, mà ở đó, không những họ chỉ phải đương đầu với sư khác biệt về ngôn ngữ, mà còn cả những khác biệt về  phong tục tập quán, cách thức ăn uống và những sinh hoạt hàng ngày nữa. Các học viên của cô, gồm đủ mọi trình độ, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi ý thích.  Từ đó, cô Jenny mới chia lớp học ra thành nhiều nhóm khác nhau: Nhóm nhỏ bạo dạn hơn, nói lung tung mà không sợ bị chê là sai, nên học nhớ chữ mau hơn và  nói đúng giọng hơn. Nhóm lớn tuổi, trí nhớ kém đi và hay bị mặc cảm nên khó nhớ mặt chữ và giọng đọc cứng hơn. Một nhóm đặc biệt mà chỉ có ở trại tỵ nạn Việt Nam, đó là nhóm trai tráng đã đi lính, bị Việt Cộng bắt đi tù “Cải Tạo” rồi trốn về hoặc được thả về. Nhóm người này đa số biết nói một chút ít tiếng Anh, một số nói rất khá.Họ rất chăm chỉ học và cố gắng nói thật nhiều để cô sửa giọng cho họ.Đối với nhóm cựu quân nhân này và những nhóm lớn tuổi, cách giảng tiếng Anh của cô là kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày tại Úc và dậy cho họ những câu đối thoại cần thiết.

Theo kinh nghiệm dậy học cho người Hmong, ngoài giờ dậy học, Jenny thường hay tới thăm viếng những láng trại của người Việt tỵ nạn để nói chuyện với họ, tìm hiểu cách thức sinh sống của họ và nhất là . . . học tiếng Việt bằng cách . . . nói tiếng Anh với người Việt. Từ những buổi tiếp xúc này mà cô giáo Jenny quen biết rất nhiều bạn bè và biết ăn cơm, biết cầm đũa. Một cô thợ may đã đo và may tặng cho Jenny một chiếc áo dài, cô mặc thử, thấy đẹp quá, về thư viện, cô đã tìm sách đọc thêm, và sau khi biết chíêc áo này được coi là quốc phục của người Việt Nam, cô đã khuyến khích các cô gái Việt trên đảo giữ truyền thống áo dài của mình bằng cách . . . tổ chức một cuộc thi áo dài ngay trên đảo tỵ nạn.

Cô Giáo Tỵ Nạn tổ chức thi Hoa Hậu Áo Dài mừng xuân Quý Hợi 1983 tại trại tỵ nạn Galang.

Trong một buổi giảng dậy, cô giáo Jenny để ý thấy có một cậu trai luôn luôn lảng vảng phía ngoài lớp học, nhưng không bao giờ vào dự lớp học của cô.Nghĩ rằng anh này có thể . . . còn ngại ngùng gì đó, nên cô giáo đã đích thân ra mời anh vô lớp để học cho vui, nhưng anh mắc cở đỏ mặt chạy đi nơi khác.Một lúc sau, anh ta lại quay trở lại, nhưng cũng vẫn đứng ở ngoài lớp học chứ không vô trong lớp.Lâu dần, cô không thắc mắc nữa, mà chỉ giảng và đọc lớn hơn để người đứng ở ngoài có thể nghe rõ hơn mà thôi.

Đến năm 1983, cô giáo Jenny trở về lại Melbourne, tiếp tục dậy tiếng Anh tại Trung Tâm Anh Ngữ Cho Những Người Di Dân Lớn Tuổi (Adult Migrant English Service-

AMES), tại đây, Jenny cũng vẫn giúp đỡ người dân tỵ nạn Việt Nam bằng cách khuyến khích họ làm những công việc mà họ có khả năng từ hồi ở Việt Nam, và dậy họ nói Tiếng Anh về chính ngành nghề họ có thể làm, muốn làm và đang làm. Cô giáo Jenny thành công ở chỗ, cô có thể nói tiếng Việt, hiểu tiếng Việt, để nghe người Việt nói ra những điều họ muốn biết, muốn học, do đó đã giúp người Việt có hứng thú khi học tiếng Anh và vì thế mà họ học mau hơn, tiến bộ hơn. Jenny lại có sáng kiến tổ chức những buổi barbecue tại nhà của mình, mới các bạn trẻ người Úc và người tỵ nạn Việt Nam cùng tham dự, để cả hai bên hiểu rõ nhau hơn và nhất là để các bạn trẻ   người Việt có cơ hội nói chuyện, trau dồi khả năng Anh ngữ của mình. Nhiều cô giáo đã rất ngại ngùng phải dậy học cho đám trẻ thiếu niên đi tỵ nạn một mình, vì các em . . . khó dậy, không chịu tiếp xúc . . . Riêng đối với Jenny, cô không thấy có gì trở ngại cả, vì cô hiểu tâm tình của đám trẻ này, cứ để cho các em tâm sự với cô về những khó khăn của cuộc sống, cô nhờ nhân viên xã hội giải quyết những điều các em mong muốn, rồi sau đó mới dậy học cho các em nhỏ này.  Việc quan trọng nhất mà Jenny muốn hướng dẫn họ là, nên đi học trở lại để có kiến thức và có một tương lai tốt đẹp hơn.

Cũng vì tình thân với người Việt, đã có nhiều người mời Jenny dự đám cưới của họ, và cô rất vui khi được mặc áo dài để bưng mâm ngũ quả đi rước dâu.

Gia Đình hạnh phúc.

Trong một buổi barbecue mời tất cả các . . . cư dân của đảo Galang, cô giáo Jenny lại gặp lại người thanh niên thường hay lảng vảng ngoài lớp học của cô hồi còn ở trại tỵ nạn. Anh chàng cũng vẫn đứng một mình, tay cầm lon coca xoay qua xoay lại chứ không bắt chuyện với ai. Cô giáo Jenny nghĩ rằng anh này chắc . . . không biết tiếng Anh, hoặc là ít nói, nên đã tới nói chuyện với anh ta.Anh vui vẻ nói chuyện, tự giới thiệu tên là Sơn, hiện đang làm việc cho Australia Post, tại Blackburn Mail Centre. Cô Jenny rất là ngạc nhiên khi biết anh . . . biết nói tiếng Anh, và lại nói khá nữa:

“Ah! Vì anh biết nói tiếng Anh rồi, nên mới không tham dự lớp học của tôi ở trại tỵ nạn, có phải vậy không?”

Lại trái với dự đoán của Jenny khi anh con trai trả lời:

“Không phải vậy.Hồi đó, quả thực tôi dở tiếng Anh lắm.Vì tình trạng chiến tranh, tôi chỉ mới học hết lớp 11 mà thôi. Đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam, tôi là con Lính Cộng Hòa nên đâu có được tiếp tục học nữa, tôi phải đi bán hàng với mẹ để kiếm sống cho gia đình, bao nhiêu tiếng Anh tôi học ở trường, tôi quên hết trơn, nên tôi đâu có biết học từ đâu? Thấy cô dậy học, tôi cũng muốn vô học, nhưng thấy mình lớn rồi, vô học không biết một câu tiếng Anh tiếng U nào hết . . . mắc cở với đám con nít lắm . . . nên tôi chỉ đứng ngoài nghe lén mà thôi. Hơn nữa, cô nói tiếng Anh của người Úc . . . khó nghe quá, tôi nghe như là . . . vịt nghe sấm . . . chẳng hiểu cô nói gì hết, thì làm sao mà học?”

Cô giáo Jenny lúc nào cũng có thói quen nghề nghiệp, cô khuyến khích Sơn:

-“Anh nói tiếng Anh hay lắm, lại được làm ở Australia Post thì đời sống cũng khá lắm rồi . . . nhưng nếu anh muốn, anh có thể đi học lại, vô đại học học nghành nào mà anh thích, biết đâu lại có tương lai sáng sủa hơn!”

-“Tôi cũng muốn lắm, nhưng tôi . . . mới học xong lớp 11 chứ chưa tốt nghiệp trung học, làm sao tôi có thể vô đại học được?Hơn nữa, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để làm việc thôi, chứ chưa đủ để học đại học đâu.”

-“Anh đừng lo, tôi có thể giúp anh về phần tiếng Anh, anh sẽ dư sức học. Ở Úc có những trường cao đẳng, gọi là trường TAFE (Technical And Further Education) dành cho những người chưa học xong trung học, tôi sẽ giới thiệu anh với chú tôi, một giáo sư của trường Footscray Institute of Technology (FIT- sau này nhập chung với trường Đại học Victoria University) để chú giải thích cho anh nhiều hơn.”

Khi về nhà, anh Sơn mới kể lại câu chuyện cho người bạn cùng phòng là anh Lê Hữu Giàu nghe.Anh Giàu cũng khuyên anh Sơn nên đi học để có tương lai khá hơn.

Thế là anh Sơn đi gặp Giáo sư Douglas Ramm để vấn kế.  Ông Douglas làm đúng luật,  đã đưa đơn cho anh điền để học thử ba môn học về Civil Engineering xem kết quả ra sao cái đã. May mắn, anh đậu hết cả ba môn toán học này, ông Douglas liền hướng dẫn anh một lần nữa nộp đơn xin học khóa Bachelor of Civil Engineering.

Thực sự thì Sơn chưa muốn hoàn toàn định cư ở bên Úc, đầu óc của anh vẫn còn hướng về Việt Nam: Khi Sơn còn ở trên đảo Galang, anh đã có nghe về Phong Trào Phục Quốc của Tướng Hoàng Cơ Minh, Sơn định cư tại Úc đúng vào thời điểm Phong Trào Phản Chiến bộc phát rất lớn, Sơn nhớ lời cha dặn là ráng tìm cách gia nhập bất cứ tổ chức kháng chiến nào, để trở về Việt Nam tiêu diệt bọn Cộng Sản, khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu tràn đầy tự do và lòng nhân ái. Do đó, khi được chấp nhận cho học, Sơn phân vân không biết nên lựa chọn con đường nào? Anh đem việc này ra bàn với Jenny.Tiếc thay, cô giáo Jenny chỉ có thể giúp anh trau dồi Anh ngữ thôi, chứ không có khả năng giúp anh về vấn đề này, nên Sơn quyết định không nộp đơn xin học, mà chờ tin để trở về Việt Nam cùng với các bạn bè trong nhóm.

Buồn thay, tổ chức phục quốc càng ngày càng im tiếng và không có ai liên lạc với anh để nói tới ngày về cả. Sơn đành phải nộp đơn xin đi học và bảo lãnh cha mẹ qua Úc chung sống.

Muốn tỏ tình với một cô gái đã là chuyện khó rồi, huống chi cô gái này lại còn là cô giáo dậy tiếng Anh nữa, công việc càng trở nên phức tạp và . . . khó khăn hơn.

Một lần đến nhà Jenny ăn cơm tối, Sơn đem theo cây đàn hát tặng Jenny bản nhạc “Nắng Chiều”:

“. . . Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà

Gợn buồn nhìn em anh nói: “Mến em!”

Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi

Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi . . .”

(Nhạc Lê Trọng Nguyễn)

Hát xong bản nhạc, Sơn đã hỏi Jenny bằng tiếng Việt:

“Jenny à . . . nếu tôi muốn nói . . . anh yêu em . . . bằng tiếng Anh, thì . . . làm cách nào để nói?”

Jenny thích bản nhạc Nắng Chiêu quá, đang lo hát theo, nên không biết mánh của Sơn, cô ngây thơ trả lời:

“Thì nói . . . I love you . . . dễ mà.”

Thế là Sơn vừa khẩy đàn vừa nhìn Jenny mà hát câu hát để đời:

“I love you . . . I love you . . . and I love you . . .”

Sơn hát đến lần thứ ba thì Jenny mới hiểu, cô đỏ mặt hỏi lại Sơn bằng . . . tiếng Anh:

“Are you serious?”

Sơn lại trả lời bằng . . . tiếng Việt:

“Anh nói thiệt mà!”.

Sơn tốt nghiệp thủ khoa khóa Civil Engineer của FIT vào năm 1990.Một tháng sau khi cha mẹ Sơn qua định cư ở bên Úc, Jenny và Sơn làm đám cưới. Jenny rành đủ sáu câu về đám cưới Việt Nam, nên cô đòi đủ thứ . . . nào là áo cưới cô dâu, vương miện, bông tai, dây chuyền vàng, ngũ quả, heo sữa và pháo nổ . . . thậm chí cả phong bao lì xì cho đám con nít giữ cửa ở nhà gái khi rước dâu cũng phải có đầy đủ.

Ba Mẹ của chàng rể Sơn mới từ Việt Nam qua, nghe đằng nhà gái nói tiếng Anh líu lo cứ như là chim hót, chẳng biết người ta nói cái gì, nhưng cũng biết đó là những lời chúc tụng cho cô dâu chú rể.Khi mẹ chồng được mời ra đeo dây chuyền cho cô dâu, thiếu điều bà phải bắc ghế đứng lên mới quàng dây chuyền qua cổ cô dâu Tây được. Đằng nhà gái lần đầu tiên nhìn thấy cô dâu và đám phù dâu mặc áo dài thật là đẹp, thấy người nhà bưng các khay đựng đủ thứ bánh trái, rồi lại được nghe pháo nổ đì đùng khói bay khét lẹt . . . thật là vui . . . vui quá xá là vui.

Vì tốt nghiệp ưu hạng, Sơn được học bổng của chính phủ để học Master, nhưng việc đầu tiên của người chồng và người con là phải lo làm ăn kiếm tiền lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ, nên Sơn đã từ chối học bổng để đi làm với công ty xây cất John Holland, và được cử đi làm việc ở Kuching, Mã Lai.

Đứa con gái đầu lòng tên Lanna của hai vợ chồng ra đời vào tháng 4 năm 1993, chỉ một tháng sau là Jenny đã được hưởng Mother day lần đầu tiên trong đời.

Cô gọi điện thoại về Úc chúc mừng mẹ:

“Chúc mẹ một ngày “Mother day” vui vẻ . . . và cũng một ngày “Mother Day” vui vẻ cho chính con nữa . . . vì con cũng đã là mẹ của bé Lana rồi.”
Đến năm 1995, em trai của Lana cũng đã chào đời, được ba mẹ đặt tên là Liam (Từ khi Jenny mới bắt đầu mang bầu, hai vợ chồng đã bàn tính suốt chín tháng trời để tìm cách đặt tên cho con, những cái tên nào vừa có sắc thái của Vương Quốc Anh, lại vừa vẫn có vẻ là một cái tên Việt Nam. Lana cũng có nghĩa là Lan và Liam cũng có thể đọc là Liêm.Ông Bà Nội cũng đọc tên các cháu được, mà Ông Bà Ngoại cũng cảm thấy happy khi gọi tên hai đứa cháu của mình.)

Khi các con đã  lớn, và cha mẹ đã có phần già yếu, Sơn và Jenny quyết định xin trở về Úc làm việc. Lana thi đậu vào trườngMac Roberson và tốt nghiệp VCA với số điểm ưu hạng 99.30 nhưng cháu lại không muốn học Y, Nha, Luật . . . mà chỉ muốn theo gót của mẹ, học Art ở Melbourne University, thời giờ rảnh thì cháu . . . đi làm việc thiện nguyện. Còn Liam thì học IT ở RMIT University với ước mơ trở thành . . . tài tử đóng phim, trong khi Jenny thì đi dậy trở lại ở VUT – Victoria University of Technology.

Lana và Liam được mẹ cho biết gốc gác của mình là . . . dân tỵ nạn Việt Nam, vượt biên tới đảo và được định cư ở Úc, nên lâu lâu, hai chị em đùa dỡn với nhau, Liam đóng vai Việt Nam, nói với chị:

“Tôi là . . . Vietnamese Boat people . . . tôi không biết nói tiếng Anh . . .”

Lana đóng vai cô giáo, nghiêm trang trả lời:

“If you be good . . . I will teach you how to speak English . . .”

Jenny và Sơn nhìn nhau cười.

Vào khoảng tháng Ba Năm 2011,trận bão Yasi đã tàn phá hầu hết những trang trại trồng chuối ở Queensland, giá bán chuối ở các siêu thị vọt lên tới con số kỷ lục là $14.00 một Ký, có nơi còn không có chuối để mà bán.

Sáng sớm ngày Mother’ Day năm 2011, ba cha con mặc quần áo đẹp đẽ, trịnh trọng lái xe đi chợ, khệ nệ đem một gói quà thật lớn đưa tặng cho mẹ. Hai chị em cùng la lớn:
“Happy Mother’ Day my dear Mummy”.

Jenny mở gói quà ra: Một nải chuối với năm trái chín vàng óng ánh.

Jenny sung sướng cười thật tươi, nhưng vẫn cự nự chồng:

“Chuối mắc lắm, anh mua làm chi cho tốn tiền.”

Lana và Liam lại đồng thanh nói:

“Chúng con có tiền . . . chúng con mua tặng mẹ.”

Phần của Sơn là một bó hoa đỏ thắm đưa tặng vợ.

Jenny bị cancer ruột từ năm 2006, coi như đã lành bệnh sau nhiều ca mổ, nhưng đến cuối năm 2011 thì bệnh của cô lại tái phát, qua những vết sẹo còn lại của những ca mổ trước đây. Sơn nghỉ làm suốt ngày luẩn quẩn tại bệnh viện St. Vincent lo chăm sóc cho Jenny. Nhà thương thấy vậy, cho Sơn mướn luôn một phòng để ăn ngủ tại chỗ cùng với vợ.

Những ngày cuối của cuộc đời, hai đứa con cũng nghỉ học để ở bên cạnh mẹ.

Lana và Liam nắm tay mẹ mà nói:

“Mẹ sẽ khỏe lại mà . . . Mother’s Day năm tới chúng con sẽ lại mua chuối cho mẹ ăn nữa nha.”

Sơn so lại phím đàn, hát cho Jenny nghe bản nhạc “Bên Kia Sông”:

“. . . Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia sông là ánh mặt trời
Này người yêu, người yêu anh hỡi!
Bên kia đồi, cỏ hoa đan lối
Bên kia núi, núi cao chập chùng
Bên kia suối, suối reo lạnh lùng
Là bài thơ, toàn chữ hư vô . . .”

(Nhạc của Nguyễn Đức Quang.)

Cô Giáo Tỵ Nạn Jenny Ramm ra đi vào ngày 10 01 2012 với tuổi đời 58 còn rất trẻ trung, để lại chồng và hai đứa con.

Từ bốn phương trời, những người dân Việt tỵ nạn ở đảo Galang trước đây đã được cô giáo Jenny dậy học tiếng Anh đã gởi thơ chia buồn đến cho gia đình:

“Jenny . . . chúc chị ra đi bình yên . . . Tên của chị, hình bóng của chị, tiếng Anh của chị dậy . . . sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí óc chúng tôi . . .

Cô Giáo Tỵ Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt thành và tuổi trẻ của mình ra để phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất là người tỵ nạn Việt Nam (Hình chụp tại trại tỵ nạn Galang, Nam Dương.)

CÔ DÂU CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN . . . LÀ NHƯ THẾ ĐẤY.

NGUYỄN KHẮP NƠI.

(Viết theo lời kể của anh Nguyễn Sơn và các con.)

CHIẾC XÍCH LÔ CHỞ MÙA XUÂN

CHIẾC XÍCH LÔ CHỞ MÙA XUÂN

Thanh Thương Hoàng

Chúng ta cùng xem một câu chuyện hay như cổ tích:

1

Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nhìn những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa

Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, vì phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân – những ngày tháng cũ trước 75 – anh đã gặp “người yêu lý tưởng” của mình và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm.

Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc, thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nhìn. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).

“Cô muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả nói:

”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”

Tân hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”

“Đúng!”

Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.

Cô khách đáp: “Tôi sẽ trả anh như đã trả cho những người trước anh.”

“Nghĩa là…?”

“Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”

“Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”

Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi nãy:

“Nghĩa là…?”

“Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”

Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn nì xin thêm. Còn anh xích lô này thì lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.

Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách:

”Cô đã biết chợ Bến Thành này chưa?” Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:

“Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”

Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:

“Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đã dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.

“Cô ăn được cả nước mắm?”

“Cũng hơi… khó chịu một chút lúc đầu.”

Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:

“Tôi hơi tò mò, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”

“Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”

“Cô tới đây lần đầu?”

Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân hình thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc robe xuyến hoa văn xanh đậm thật trang nhã. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xõa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân thì nhan sắc cô nàng ở mức trung bình nhưng khá quyến rũ và hình như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.

“Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi.

Khách khẽ gật.

“Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. thì cũng bang nào vùng đó.”

Lần này cô nàng ngoái hẳn mình về phía sau nhìn Tân:

“Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”

Tân hóm hỉnh cười:

“Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lý tưởng mà các cô gái mơ ước.”

Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động bình dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi còn biết cả nịnh đầm với món “võ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:

“Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina. Lớn lên đi học và sống ở Washington DC.”

Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món gì đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.

“Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”

“Tùy anh.” Tân suy nghĩ một chút:

“Cô đã vào Chợ Lớn chưa?”

“Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”

“Cô đã đến Hồng Kông?”

“Tôi đến đó hồi còn là con nhóc đi với bố mẹ.”

Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:

“Xin lỗi, cô đã lập gia đình?”

“Phải, tôi đã lập gia đình gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”

Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, sau cặp kính mát nhạt, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nhìn vào cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hãi kêu lên vì tưởng nó đâm nhào vào mình. Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:

”Anh thấy đẹp đấy chứ?” Tân thốt lên:

“Tưởng gì, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”

“Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”

Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:

“À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”

“Vì tôi đã ở bên đó và có mua tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”

“Ồ, anh đã ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”

“Tôi đi học.”

Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:

“Đi học? Thì ra anh sang Mỹ du học!”

“Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”

Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đã từng là sỹ quan Không Quân và đã sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, dò đường:

“Anh sống ở Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”

Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:

“Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”

“Anh còn nhớ tên khóa huấn luyện?”

“Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với toán Pilot Hải Quân Mỹ.”

Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu.

Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ý một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:

“Họ chắc không phải là người Việt?”

“Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Hòa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”

“Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”

Ngưng chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh tế. Vì thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân cãi:

“Tôi không đồng ý với cô. Người ta đã dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”

“Tôi nghĩ với Cộng sản thì chỉ có thể dùng vũ lực.”

“Dùng vũ lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”

Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh, hòa bình, cộng sản, tư bản… quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa bãi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon còn nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đã lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:

“Nãy giờ tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại… lại đi đạp xích lô?”

Tân phì cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết gì về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:

“Vì tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”

“À, ra thế!” “Anh bị tù có lâu không?”

“Gần mười năm.”

“Trời! Anh được tha lâu chưa?”

“Mới sáu tháng.”

“Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”

“Tất nhiên. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”

“Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ý chí quật cường, về truyền thống tranh đấu…”

Tân cười nửa miệng:

“Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”

Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ thì cô khách Mỹ đã bước vào trong khách sạn.

Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi – Tự Do đã nhìn thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.

“Hôm nay cô muốn đi đâu?”

“Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều thì giờ để trò chuyện với anh.”

“Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”

Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ý kiến gì, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đã nghèo khổ mà lại còn chê tiền?

Còn Tân bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền hòa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ mình xưa nhận xét thật tài tình tinh vi. Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:

“Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy!”

“Tốt thôi, không có gì đáng phải bàn cãi!”

Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:

“Cho chắc ăn!”

Cô khách cười: “Xe để sát bên cạnh anh, còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”

“Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ thì cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đã tới mức ăn cướp thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”

Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi thì bị mắng trả tục tĩu. Còn cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho mình, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đã bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:

“Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”

Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nhìn trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:

“Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”

“Có chứ! Bạn cùng khóa thì nhiều lắm, nhưng thân thiết thì chỉ một hai người.”

“Anh còn nhớ tên?”

“Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng gì với lão Tổng Thống Jimmy Carter không!”

Cô khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”

Tân vỗ vỗ trán như gọi những hình bóng cũ trở về:

“Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng thì đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.

” Cô khách Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt Tân như quan sát, như dò xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:

“Sao, nếu tôi đoán không lầm thì có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.

” Cô khách không trả lời. Cô lơ đãng nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng gì đó, Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.

“Anh hút thuốc gì mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.

“Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quý đấy cô ạ! Chúng tôi còn hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa kìa!”

“Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để còn giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”

“Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ của cô thì ít ra cũng chết nửa nước.”

“Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đã làm?”

“Tôi còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh.”

“Bây giờ chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ anh? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.

” Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất: “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”

“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi tò mò, thế anh có oán hận người vợ không?”

“Cô ấy còn trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có gì mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.

” Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.

“Còn cha mẹ anh?”

Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy lòng:

“Cha mẹ tôi đều mất khi tôi còn ở trong tù!”

Cô khách Mỹ kêu lên: “Thế còn đứa nhỏ?”

“May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra thì cũng còn có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.

Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nhìn Tân nói:

“Tôi tên Jacqueline Hunter. Còn anh?”

“Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Hòa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”

Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:

“Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra tìm được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”

“Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà…. Hẻm… Đường…. Thành phố Saigon.”

Họ còn ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline có ý mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:

“Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.

” Tân từ chối ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.”

”Không, đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận lấy ở đây một tấm lòng.” Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:

“Tạm biệt Tân, người bạn mới quý mến của tôi.”

Tân nhìn tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng mình bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn:

“Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”

Nhưng Jacqueline đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gã xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:

Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”

Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:

“Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”

“Cái gì?ạ Cô ta đánh rơi tiền à?”

“Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”

Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:

“Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”

Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:

“Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau đi, không nó đổi ý ra đòi lại, thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”

Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm rãi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” mãi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không phải rồi! Cần gì cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho mình cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm lòng? Dù có là gì đi chăng nữa thì sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.

Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác gì tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quý hóa: Tôi rất trân trọng tấm lòng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đã có ân tình nghĩa trọng gì. Cám ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung nòi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.

Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn còn nằm trong đó. Chín giờ đã tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:

“Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”

Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:

”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!” Dứt lời anh ta bước về khách sạn.

Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:

“Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.”

Cô ký tên một chữ tắt “J”.

2

Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do có ý chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời mình chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này thì đúng là “thảm vô cùng” rồi, còn chờ còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” – tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi mình về để đòi đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày thì chị chủ nhà đã tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:

“Chú Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:

“Tin vui? Tôi làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”

Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:

“Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lãnh quà từ Mỹ gửi.”

Tân sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt.

Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:

“Sao? Quà của ai gửi vậy?”

Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”

3

Washington DC. ngày… tháng… năm….

Tân thân mến,

Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đã nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của mình tôi đâu mà còn là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài lòng về số quà tặng “đó là những tấm lòng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn lòng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”

Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố hình dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi mãn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đã mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:

“Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống thì nhất định Jacqueline đã biết tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp:

“Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích còn quá dài. Tôi phải tự đi tìm chồng tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đình có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.

Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức gì. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng thì anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự tình cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt. Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những gì có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có gì trở ngại về phía anh.

Chúc anh vui khỏe.”

J.

Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay cay… Anh đã không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng còn phảng phất đâu đây.

4

Tân đi tù khoảng hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đã dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy, anh không còn gì để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con mình được ông bà ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đã hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không còn chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đãi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, xì ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lãnh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.

Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ lòng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi – Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lý nào cô nàng yêu mình? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại mình thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng gió viết về tình cảm của mình đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy bay, có lúc thì đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài mãi.

Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đình bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở bình dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi thì tất cả mọi sự trên cõi đời này đều… nhẹ như lông hồng!

Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại mãi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lý do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nhìn Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Thì ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm thì được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đã gặp ông trình bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương trình viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.

5

“Anh Hoàng thân quý,

Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đã hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xã hội chủ nghĩa” (còn bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đã giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền. Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quý mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy lòng vòng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suýt nữa thì làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quý và trân trọng giữ gìn nó.

Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.

Xin chúc anh và gia đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.

Quý mến,

Đỗ Tân. ”

Thanh Thương Hoàng

Con Cọp Yêu Quý Của Tôi..

Con Cọp Yêu Quý Của Tôi..

Hưng Yên

Tôi nhất định đòi Thày Bu tôi phải cưới Hương cho tôi. Tôi thích nàng, tôi yêu nàng và tôi phải lấy nàng cho bằng được. Nếu Thày Bu tôi không hỏi cưới nàng cho tôi thì tôi sẽ bỏ nhà ra đi, đi giang hồ hay đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra. Chẳng thà thế chứ sống mà thiếu Hương tôi sống không được. Tôi cũng đã ngỏ ý ấy với nàng và nàng bảo hễ cứ có mai mối bên nhà tôi tới là bên nhà nàng bằng lòng ngay. Tình yêu của tôi đối với Hương nó vĩ đại và mãnh liệt như thế có lẽ cả làng ai cũng biết. Biết nhưng có ai giúp gì được cho tôi đâu, có khi họ còn nói ra nói vô khiến Bu tôi càng quyết liệt không cho tôi lấy Hương, và khi nghe tôi doạ đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra, Bu tôi còn bảo :

– Chẳng thà Tây nó bắn mày chứ Bu giết mày không được con ạ – Bu tôi rơm rớm nước mắt – Ðẻ mày ra, nuôi mày tới bây lớn sao tự dưng mày lại không muốn sống nữa hở con ? Gái làng này thiếu gì sao mày không lấy mà mày lại đòi lấy cái con tuổi Cọp ấy ? Mày tuổi Lợn mà Bu lại cưới vợ tuổi Cọp cho mày thì có khác nào Bu giết mày không ? !

Thày Bu tôi hiếm muộn chỉ sanh được có 8 người con, 5 trai 3 gái. Các chú các bác tôi người nào cũng từ 10 đến 12 con cơ. Chỉ cái việc có 5 thằng con trai thôi mà đã gây ra một sự xì xèo rồi. Người ta bảo sanh 5 đứa con gái là sanh được “Ngũ Long Công Chúa” quý lắm, cha mẹ thế nào cũng được nhờ, tha hồ ngồi rung đùi mà hưởng. Chả thế mà ca dao Việt Nam ta đã có những câu :

Mẹ sinh con trai làm chi

Ðầu gà má lợn đem đi cho người !

Mẹ sinh con gái như tôi

Ðầu gà má lợn mẹ ngồi mẹ sơi !

Lúc đầu Bu tôi làm liền tù tì một lèo 3 đứa con gái, thày tôi khoái chí bảo : “Bu mày ráng thêm 2 con tèo nữa cho đủ Ngũ Long Công Chúa, sau đó làm thêm vài thằng cu tí nữa là tha hồ mà sướng !” Nhưng Bu tôi chỉ sanh có 3 đứa con gái, kế đó lại làm một lèo 5 thằng con trai rồi thôi luôn.

Chơi tam cúc có 4 con tốt cùng loại đỏ hay đen thì gọi là tứ tử, có 5 tốt là ngũ tử. Tứ tử trình làng, ngũ tử cướp cái, khéo chơi một chút là ăn trùm làng. Còn đẻ mà 5 thằng con trai thì người ta lại bảo là ngũ quỷ, thế nào trong 5 thằng cũng có một, hai thằng chẳng ra gì. Trong 5 anh em trai thì tôi là thằng thứ 3, nếu tính cả 3 người con gái thì tôi là thằng thứ 6. Hai ông anh trước tôi đã lập gia đình rồi, các ông ấy củ mỉ cù mì, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Lấy vợ xong là chí thú làm ăn, chỉ mong sao nói được nghiệp nhà, cầy ruộng cấy lúa. Nói một cách giản dị là làm một anh nông dân chứ không có cao vọng gì cả. Hai đứa em trai thì còn đi học, chúng chưa biết gì, có muốn vợ cũng phải chờ vài năm nữa.

“Nữ thập tam, nam thập lục” các cụ ta đã bảo như thế nên dù tôi mới 16 tuổi đã đòi vợ cũng không ai nói gì được. Cái điều ồn ào nhất là tôi tuổi Heo mà lại đòi lấy vợ tuổi Cọp. Hương kém tôi 3 tuổi, mới 13 thôi mà trông cứ mơn mởn ra, mỗi lần gặp nàng là tôi chỉ muốn cắn cho một cái. Trai làng tôi nhiều thằng nhìn nàng đôi mắt cứ hau háu, thèm nhỏ dãi, nhưng chúng chỉ dám đứng xa xa mà nhìn thôi chứ không dám xáp lại gần. Lấy vợ tuổi Cọp để về chầu ông bà ông vải sớm à ? ! Con gái tuổi Dần khó lấy chồng lắm, chả biết đã có bao nhiêu bà bị ở giá suốt đời vì sanh nhằm năm Dần và đã có bao nhiêu ông sớm ngỏm củ tỏi vì lấy phải vợ tuổi Cọp, thế nên người ta vẫn cứ kiêng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà lị !

Thày tôi ngày trước có đi lính Pháp, dù gì thì cũng đã có tiếp xúc với Tây học một tí nên không đến nỗi nào. Thấy tôi tuyên bố nhất định phải lấy Hương, dù hôm trước cưới, hôm sau có đi ngủ với giun ngay cũng cứ lấy, thày tôi bảo :

– Nó đã nhất định như thế thì mình cứ đi nói con đó cho nó. Biết đâu thằng này chẳng đặc biệt hơn người ta, tôi nghe kể heo rừng mà thuộc loại “lăn chai” thì Cọp cũng chả làm gì được !

Nghe thày tôi nói, tôi đã mừng mừng nhưng Bu tôi lại gắt lên :

– Ông có đẻ đâu mà ông đau, đã không cản nó thì chớ lại còn “nối giáo cho giặc”, không nghe cụ Lý Ngọ bảo “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung” đấy à ? Ai lại đi cưới con gái tuổi Dần về cho con mình, có mà điên !

Thày tôi cười khà khà :

– Gớm, cái lão Lý Ngọ ấy nói đã chắc gì đúng. Lão để mồ, để mả, coi hướng nhà hướng cửa, bói toán cho người khác thì được thế mà chính lão lại nghèo rớt mồng tơi !

Cụ Lý Ngọ người làng bên, làm thày địa lý và coi bói, cũng phét lác khiếp lắm. Nhờ cụ coi thế đất hoặc sửa hướng cửa, hướng nhà cho thì chỉ một bữa rượu với vài đồng bạc. Cụ khoe là đã để mồ để mả cho nhiều người, có người nhờ Cụ mà ăn nên làm ra hoặc con cái học hành đỗ đạt làm đến tri phủ, tri huyện, còn những hạng như lý trưởng, chánh tổng thì khối. Có điều Cụ làm cho người ta được, còn làm cho chính mình lại không được, hoặc giả là Cụ quên chưa làm cho mình nên lúc nào Cụ cũng chỉ có một cái quần cháo lòng với cái áo the thâm rách và cái khăn xếp dán nhấm tứ tung. Một hôm đi qua trước cửa nhà tôi, cụ đứng ngắm nghía một lát rồi lững thững bước vào. Nghe chó sủa, thày tôi chạy ra, may mà đúng lúc, nếu không thì Cụ đã bị mấy con chó cắn cho te tua rồi, “chó cắn áo rách” mà lị !

Sau một tuần trà nước, Cụ bảo :

– Tại căn nhà này quay về hướng Nam , chứ nếu mà hướng Bắc thì ông đã có 5 đứa con gái thay vì 5 thằng con trai rồi !

Chắc ý Cụ muốn nói thay vì “Ngũ Quỷ” là “Ngũ Long” chứ gì. Thấy tôi ngồi học ở bàn, Cụ gọi đến cho Cụ coi, ngắm nghía một lát, Cụ phán :

– Thằng này tướng mạo coi cũng tạm được, nhưng mặt này là mặt “bán Trời không mời Thiên Lôi” đây!

Khi Cụ đi rồi, tôi nghe thày tôi lẩm bẩm :

– Làm cửa về hướng Bắc để mùa Ðông gió Bấc thổi vào cho mà chết rét, còn nhà có nhiều con gái chỉ tổ lo ngay ngáy chứ nước mẹ gì, dốt thế mà cũng bàn !

Riêng tôi, chỉ nhìn hình dáng cụ là đã chán rồi, tôi hỏi Thày tôi :

– Chắc nhà ông thày Ðịa Lý này ngon lành lắm hở Thày ?

– Không bằng cái bếp nhà mình !

Có tin vào thày bói cũng chỉ nên tin một phần nào cho nó vui thôi chứ chẳng nên tin nhiều làm gì. Những vị có chân tài, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm chả nói làm gì, còn phần đông là những tay ấm ớ, nghèo rớt mồng tơi lại chỉ cách cho người khác làm giầu mới tiếu lâm chứ ? ! Cứ tin vào những điều các vị ấy tán hiêu tán vượn thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn ! Làm cái gì cũng phải coi ngày, coi giờ, hạp với không hạp, kiêng cái này cữ cái kia … Cứ như việc lấy vợ của hai ông anh tôi thì rõ. Trước khi cưới dâu, Bu tôi đã nhờ thày so tuổi, coi ngày đủ thứ, thế nên 2 ông anh tôi mới dinh về được hai bà vợ, một bà thì như cái hột mít, còn một bà lại gầy đét như con cá hố ! Hai người con dâu này đều do Bu tôi chọn cả. Tôi ấy à, nếu không lấy được người tôi yêu chẳng thà tôi ở giá cho đến già hoặc đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra chứ nhất định không chịu bắt chước mấy ông anh tôi.

Thày tôi xem chừng đã ngả hẳn về phía tôi, chỉ riêng Bu tôi là còn găng lắm, có lúc bà nổi cơn tam bành chửi tôi thậm tệ, bà nhiếc :

– Cho mày đi học ngậm bút sắt hay ngậm cái gì mà mày ngu thế ? Tử tế không muốn lại muốn rước cái của nợ vào mình.

Có lần Bu tôi lại dùng tình cảm để lung lạc tôi, bà mếu máo :

– Mày có chọc phá đền miếu nào không hở con, để đến nỗi những người khuất mày khuất mặt nổi giận mà phạt mày trở nên dở dở ương ương thế ? Có thì bảo cho Bu biết để Bu sửa lễ tạ lỗi cho, kẻo càng ngày nó càng lậm vào thì khổ đấy con ạ, chứ cưới vợ đẹp về rồi lăn đùng ra chết thì cưới làm gì ? ! Mày nghe lời Bu đi, chọn con khác, hễ Bu nhờ thày coi tuổi mà thấy hạp là Bu cưới ngay cho!
Mặc Bu tôi nói gì thì nói, tôi vẫn khăng khăng chỉ lấy Hương của tôi thôi. Nói mãi mỏi mồm, Bu tôi bèn đổi chiến thuật là không thèm nói gì đến tôi nữa. Trong làng tôi lại có tiếng xì xèo : “Ðã bảo là đẻ 5 thằng con trai, Ngũ Quỷ thì thế nào chả có một, hai thằng chẳng ra gì mà” ! Ngoài ra họ còn đồn tôi là thằng dở hơi hoặc điên điên khùng khùng … Một lần Dì Năm, em gái của Bu tôi tới chơi, lấy tay sờ trán tôi như mấy bà mẹ thường khám xem con mình có ấm đầu không, rồi Dì hỏi :

– Mày có bị làm sao không thế hở con ?

Tôi hỏi lại :

– Làm sao là làm sao hả Dì ?

– Nghĩa là mày có ốm đau, bệnh tật gì không mà mày lại kỳ cục thế?

– Con có làm gì đâu mà Dì bảo là kỳ cục ?

– Không kỳ cục làm sao mày tuổi Hợi lại đòi cưới con vợ tuổi Dần ?

– Thế tuổi nào mới lấy vợ tuổi Dần được ?

– Không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được !

Tôi ngập ngừng :

-Thế nếu Dì cũng tuổi Dần thì Dì có bảo là không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được không ?

Bu tôi đứng bên cạnh, cho là tôi hỗn với Dì, sẵn tay cầm cái chổi, bà đập lên đầu tôi cái cốp làm tôi giật mình bỏ chạy.

Thế mới biết ở đời làm chuyện gì cũng phải có quyết tâm mới được. Việc càng khó thì quyết tâm càng phải cao, chứ nếu cứ xìu xìu ển ển, đến đâu hay đến đó thì còn lâu mới thành công được. Thày tôi tuy đã ngả hẳn về phía tôi nhưng là theo kiểu thụ động thôi, chứ Thày tôi cũng không thể bênh vực tôi một cách tích cực được, dù gì thì cụ ông cũng phải nể cụ bà chứ ! Riêng tôi, đã “chót đành phải chết”, làm một phát tháu cáy. Nếu Bu tôi theo ván bài này tới cùng có lẽ tôi phải đổi chiến thuật khác. Thú thật, bỏ Hương để lấy người khác thì tôi không bỏ được, còn bỏ nhà đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra tôi cũng teo lắm, thế nhưng tôi vẫn phải tố một cú chót xem sao.

Một hôm tôi giả vờ sắp xếp quần áo bỏ vào một cái rương nhỏ, như đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Tôi cố làm dềnh dang cho Bu tôi thấy. Quả nhiên, tưởng tôi sắp bỏ nhà đi xa thật, Bu tôi khóc bù lu bù loa :

– Ối giời ơi, con ơi ! Mày tính bỏ Thày bỏ Bu mày đi thật đấy à ? Mày muốn lấy vợ thì Bu lấy cho mày chứ Bu có cấm cản gì mày đâu ? Chẳng qua là Bu chỉ không bằng lòng cho mày lấy cái con tuổi Dần ấy thôi. Ðẻ mày ra, nuôi mày từ lúc một bàn tay không hết, hai bàn tay không đầy cho tới bây lớn để mày giả nghĩa Thày, nghĩa Bu như thế đấy hở con ?!

Dù chỉ mới dàn giáo thế thôi chứ tôi đã định đi ngay đâu, nhưng thấy Bu tôi khóc thảm thiết quá, tôi cũng mủi lòng nước mắt, nước mũi chẩy lã chã, nói không nên lời :

– Bu không thương con thì Bu cứ để con đi chết trận chết mạc, chết Đông chết Tây cho rồi ! …

Quả thật là tiến thoái lưỡng nan. Làm cho Bu tôi tưởng là tôi sắp đi, bây giờ không đi cũng kỳ, còn đi thật thì biết đi đâu ? Ðang lúng túng không biết phải làm sao, thì may quá, cậu Út tôi tới. Bên Ngoại tôi chỉ có cậu Út là người danh giá và có uy tín với chúng tôi hơn cả. Chẳng những cậu có uy tín với đám trẻ mà còn uy tín cả với người lớn nữa. Cậu có bằng “Ðíp lôm” lại đang làm Nhật Trình ở trên Hà Nội. Ngày đó ở quê tôi, các vị làm văn, làm báo được coi là danh giá lắm. Cậu Út làm Nhật Trình tức là làm báo. Thỉnh thoảng cậu mới về thăm nhà một lần, đầu cậu chải “bi-dăng-tin” bóng loáng, tóc để cánh gà úp sát vào tai, chân đi giầy “đơ-cu-lơ,” quần tây trắng, áo sơ mi trắng bỏ trong quần, túi áo cài chiếc bút máy hiệu “Kaolo,” thứ bút mà mỗi khi viết phải mở nắp rồi xoay xoay cho cái ngòi bút trồi lên, viết xong lại vặn cho cái ngòi bút tụt xuống rồi đậy nắp lại. Ngày ấy bọn trẻ chúng tôi thì thào chỉ mấy ông làm Nhật trình mới có loại bút đó. Mỗi lần cậu Út về, cậu kể chuyện Hà Nội tưng bừng, cậu nói gì người lớn cũng như đám trẻ chúng tôi đều tin hết.

Bước vào nhà, thấy Bu tôi đang bù lu bù loa, còn tôi thì mếu máo, cậu mới hỏi đầu đuôi sự việc. Bu tôi kể câu chuyện tôi đòi lấy vợ tuổi Dần cho cậu nghe. Ðợi Bu tôi nói xong, tôi cũng bầy tỏ nỗi lòng để cậu hiểu.

Nghe xong, Cậu cười cười hỏi tôi :

– Cháu định lấy cái con Hương, con ông Chánh Ðoàn ở xóm Giữa chứ gì ? Vừa rồi đi đường cậu cũng có gặp nó, con này được, đã thắt đáy lưng ong lại mảnh mày hay hạt …

Quay về phía Bu tôi, cậu tiếp :

– Chị mà được đứa con dâu như thế là quý lắm rồi còn đòi chi nữa. Còn cái vụ tuổi tác, hạp với không hạp, nó xưa quá rồi chị ơi. Cứ tin vào mấy ông thày bói thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn rồi hoa hồng không trưng đi trưng hoa cứt lợn ! …

Thật cậu là người ăn học có khác, Cậu nói câu nào cứ chắc nình nịch câu ấy. Chiều hôm đó, Cậu ở lại dùng cơm với gia đình tôi và cũng nhờ sự dẫn giải của Cậu mà Bu tôi nghe ra.

Cuối năm đó, tôi rước được con Cọp yêu quý của tôi về nhà. Cậu Út tôi lại còn bảo :

– Cưới vợ rồi, nếu mày không muốn ở nhà quê thì lên Hà Nội làm Nhật Trình với Cậu. Cũng phải ra ngoài để mở mắt ra với người ta, chứ cứ lúi húi thế này mãi đến bao giờ mới khôn được ? !

Người xưa có câu “Không vào hang hùm sao bắt được Cọp con” thật đúng quá sức. Tôi không chỉ vào “hang hùm” một lần, mà đã mò mẫm vào nhiều lần, có thể nói là rất nhiều lần … Cứ thế rỉ rả tôi đã khều ra được gần một tá Cọp con, con nào con nấy đều rất dễ thương, còn con Cọp mẹ thì càng ngày càng hiền khô à. Nghe đến đây có lẽ quý vị thày bói cảm thấy ngứa tai, “nghịch nhĩ” lắm đấy : “Ừ, ba hoa cho lắm vào, đến khi lăn đùng ra chết nhăn răng mới không kịp hối !” Quý vị rủa tôi như thế cũng chẳng sao.

Tôi sinh năm 1935, tuổi Ất Hợi, còn con Cọp cưng của tôi sinh năm 1938, tuổi Mậu Dần. Con Heo 74, con Cọp 71 … Hai con ôm nhau ngủ đã gần 60 năm nay mà chẳng có chuyện gì xẩy ra cả. Giả như bây giờ tôi có nhắm mắt xuôi tay mà về chầu ông bà ông vải đi chăng nữa thì cái câu “Tứ Hành Xung” của quý vị thày bói cũng là sai rồi ! …

Hưng Yên 2009

‘Ngày Ðại Họa’

‘Ngày Ðại Họa’

Nguoi-viet.com

Lê Tuấn
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Ðời Tị Nạn)

Trước năm 1975, tôi là sĩ quan bộ binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ ngày ra trường đến ngày mất nước, 30 Tháng Tư 1975, biên cương là nhà và ít khi tôi có dịp về thăm cha mẹ. Mỗi lần tôi được vài ngày phép về, mẹ tôi mừng mừng tủi tủi và nói: “Con lớn rồi sao không lập gia đình, ưng cô nào cha mẹ cưới cho, có cháu nội cha mẹ vui.”

Trong tù cải tạo. Cảnh trong phim Vượt Sóng của đạo diễn Hàm Trần. (Hình: Internet)

Tôi chỉ cười hề hề và nói: “Từ từ mẹ ạ,” và tôi giải thích cho mẹ tôi hiểu: “Con bây giờ ở nơi tiền tuyến, từng giây, từng phút đối diện với quân thù không biết việc gì xảy ra cho con, độc thân thì quá dễ chẳng liên lụy với ai cả, nếu có vợ có con thì thật là phiền phức, cảnh vợ góa, con côi tội lắm, hơn nữa con và vợ con chỉ gần nhau vài ngày một năm thì đâu có hạnh phúc, chỉ gây thêm cảnh kẻ nhớ người mong, mẹ ạ.” Nghe tôi giải thích, mẹ tôi lặng thinh.

Thế rồi ngày 30 Tháng Tư năm 1975 ập đến đem tang tóc cho cả miền Nam Việt Nam. Ðơn vị tôi lúc đó chạy về Thủ Ðức, sau khi nghe lệnh đầu hàng, tôi rất bàng hoàng và buồn bã trước cái cảnh chia tay giữa đồng đội đã từng sống chết bên nhau, chia nhau từng mẩu thuốc, bây giờ mỗi người tự lo liệu lấy. Khi mọi người đi hết còn lại một mình tôi đứng ngoài hàng hiên một ngôi nhà ngói cũ xưa.

Tôi rút khẩu colt 45 định kết liễu đời mình cho xong thì nghe tiếng gọi: “Anh Tuấn vào đây thay quần áo kẻo nguy hiểm lắm.” Tôi quay lại thấy một thiếu nữ đứng bên cửa, không hiểu sao cô lại biết tên tôi, thì ra tôi còn mặc bộ quân phục, cấp bậc và bảng tên còn nguyên vẹn. Cô đưa cho tôi bộ thường phục và đôi dép. Tôi thay quân phục và cô đem khẩu colt 45 ném xuống giếng bên cạnh nhà. Tôi cảm ơn cô và vội vàng hòa với dòng người di tản về Saigon, về đến nhà mới hay mình mặc áo đàn ông nhưng quần đàn bà.

Nghe tin phải trình diện cải tạo vào sáng mai, chiều hôm đó tôi gấp bộ đồ và đôi dép, đạp xe lên Thủ Ðức để trả lại và cám ơn cô vào khoảng 4 giờ chiều. Cô mời tôi vào nhà và nói: “Cha mẹ em đi Biên Hòa thăm người bà con mới chết, có một mình em ở nhà thôi.”

Tôi và cô nói chuyện đến 6 giờ chiều vẫn chưa thấy cha mẹ cô về, chúng tôi hỏi thăm nhau gia cảnh và đủ thứ chuyện, cô rất lo lắng cho số phận của các sĩ quan đi trình diện cải tạo ngày mai, cô cho tôi địa chỉ và tên họ “Tô Mỹ Phương” cái tên sao mà đẹp quá, tôi nói đùa: “Bộ em là cháu nội của Tô Ðông Pha hay là Tô Ðịnh?” Cô trả lời, “em hổng biết.” Sau cùng trời chuyển mưa, tôi tạm biệt ra về, trong lúc chia tay mắt cô ứa lệ và không hiểu tại sao mà chúng tôi ôm nhau rồi hôn nhau, trong lúc đó tay tôi đụng hẹ vào ngực cô (bên ngoài áo và chỉ vô tình thôi nhé). Cô nói với tôi: “Nụ hôn đầu tiên.”

Thời gian cải tạo lúc ở Long Khánh, Phú Quốc, Hoàng Liên Sơn, khi quân Tàu đánh Lạng Sơn thì di chuyển về Vĩnh Phú. Cô thăm nuôi tôi cả thảy 10 lần, 6 lần ở trong Nam và 4 lần ở ngoài Bắc, lần cuối cùng cô thăm tôi là lúc tôi đang bệnh rất nặng, tôi phải nhờ bạn bè dìu ra và đem đồ thăm nuôi vào trại. Tối hôm đó, tôi hôn mê không còn biết cô đã tiếp tế những thứ gì. Theo bạn bè kể lại, tôi đã chết lúc gần sáng, sáng hôm sau cán bộ cho hai người đào huyệt và sau đó cho hai người khiêng tôi đem chôn, nhưng khi đến nơi huyệt còn nông quá phải cho đào sâu thêm. Họ đặt tôi nằm bên cạnh và cả bốn người cùng đào. Khi xong thì tôi hồi tỉnh lại, thở và chân tay cử động nhẹ. Cán bộ ra lệnh chôn nhưng bốn người bạn năn nỉ xin đem tôi về trại. Cán bộ quyết định chôn và nói: “Trước sau gì nó cũng chết, chôn để khỏi mất thì giờ.” Cả bốn người bạn năn nỉ mãi và cuối cùng tôi được khiêng về trại. Anh em lấy đồ tiếp tế của tôi gồm một ít sữa bột, vài ký gạo, thuốc tây, anh em cho tôi uống sữa và uống thuốc nhưng mất cả 3 tháng trời tôi mới tạm bình phục.

Khoảng 3, 4 năm sau tôi không thấy cô đến thăm, tôi buồn và đặt nhiều nghi vấn, tôi tự hỏi, có thể cô đã sang sông hay việc gì chẳng lành đã xảy ra… “Chết hay cô đã đi lấy chồng?”

10 năm sau tôi được tha về, việc đầu tiên là đi thăm mộ cha mẹ tôi đã qua đời khi tôi còn ở trong tù, hôm sau đạp xe lên Thủ Ðức thăm cô và gia đình cùng cám ơn cô đã thăm nuôi tôi. Vừa bước vào nhà, tôi thấy hình cô trên bàn thờ, lòng tôi quặn đau, nước mắt cứ tuôn trào, tôi khóc và khóc rất nhiều không nói nên lời. Mười phút sau tôi mới thưa chuyện được với cha mẹ cô và được ông bà cho biết, cô chết sau khi ra Bắc thăm nuôi tôi trở về đến Quảng Bình xe bị tai nạn, vì đường sá xa xôi khó khăn, khi gia đình biết tin ra đến Quảng Bình thì cô đã được chôn cất ở nghĩa trang. Ba năm sau, gia đình ra Quảng Bình để đem hài cốt về thì nghĩa trang đã bị giải tỏa để xây nhà cho cán bộ, không biết hài cốt để đâu?

Nghe kể đến đó, tôi lại khóc và thưa: “Thưa hai bác, vì con mà Phương chết, xin hai bác tha thứ cho con.” Ông bà cũng sẵn lòng thông cảm vì chuyện đã rồi.

Thời gian được tha về, thỉnh thoảng tôi đến thăm ông bà, sau mấy lần vượt biên thất bại, sau cùng tôi đi đường bộ sang Campuchia và Thái Lan. Năm 1987, tôi đến Hoa Kỳ, cố gắng học hành và có việc làm ổn định. Tôi đã lấy tên bài hát “10 năm yêu em và cũng là mãi mãi” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng để làm kim chỉ nam cho cuộc sống và thường giúp đỡ cha mẹ Phương hàng năm.

Tháng 5, 2010, tôi về hưu, trong lúc nhàn rỗi, tôi làm một chuyến du lịch Hồng Kông-Trung Quốc-Thái Lan-Việt Nam, lần này cũng như ngày ra tù, việc đầu tiên là đi thăm mộ cha mẹ tôi, hôm sau đi Thủ Ðức thăm cha mẹ Phương.

Nhiều năm xa cách, ông bà không nhận ra tôi, sau khi tôi giới thiệu mới nhận ra nhau, thế là trong nhà như có đám tang, chúng tôi ôm nhau khóc đến nỗi hàng xóm chạy qua xem có chuyện gì xảy ra.

Trong lúc ăn cơm, ông bà hỏi tôi gia cảnh, đời sống bên Mỹ và đủ thứ chuyện, sau cùng ông bà muốn đề nghị “tình chị duyên em” nghĩa là tôi cưới em của Phương là Tô Mỹ Phượng là dược sĩ. Tôi trả lời: “thưa hai bác, cho con suy nghĩ.”

Về đến Mỹ tôi suy nghĩ nhiều, Phương đã chung tình và hy sinh cả mạng sống để cho tôi được sống, vậy bây giờ tôi phụ tình sao? Hơn nữa 60 năm cuộc đời, bây giờ tôi đã lố 6 năm, vậy còn gì là đời nữa. Kính mong quý vị cho vài lời khuyên sao cho “tốt đạo đẹp đời,” đẹp lòng người chết và vui lòng người sống.