Thầy Trân

Thầy Trân

TRANG CHÂU

Đến giờ Sử Địa cả lớp học hổi hộp ngồi chờ.Hôm nay ông hiệu trưởng sẽ đưa giáo sư mới đến dạy, thay thế thầy Tuyên vừa về hưu.Con Chín, ngồi cạnh tôi, đoán già đoán non:
-Tao chắc lại một ông giáo sư già lụm khụm. Môn này không mấy hấp dẫn nên không có nhiều thầy trẻ như bên Việt Văn, Toán hay Sinh Ngữ.
Tự nhiên tôi lạc quan một cách vô cớ:
-Biết đâu kỳ này lớp ta sẽ may mắn rước được một thầy Sử Địa trẻ, đẹp trai lại độc thân cho mà xem.
Con Chín nheo mắt nhìn tôi cười:
-Được như mày nói tao sẽ chớp ngay, không để ông độc thân lâu đâu.
Tôi cười cười nhạo nó:
-Giáo sư độc thân trường mình thiếu gì. Nè thầy Vui bên Anh Văn,thầy Ngô bên Toán, sao mày không chớp đi để hai ông độc thân hoài vậy ?
Con Chín nhún vai:
-Không hạp nhãn tao. Độc thân thì độc thân nhưng cũng phải bắt mắt một tí. Tao chấm thầy Thi bên Pháp Văn nhưng tiếc thầy có chủ mất rồi!
Trong lớp đệ tứ, lớp cuối cùng của trường nữ trung học duy nhất ở tỉnh lỵ nhỏ bé này, Chín và tôi là hai nữ sinh lớn tuổi nhất.Chín trể học đến ba năm, còn tôi hai năm. Nó bị sốt rét, tôi thì thương hàn. Tiếp đến là tản cư rồi hồi cư, sau đó lại theo gia đình rời quận lên tỉnh.Cho nên khi học tới lớp chót của trường thì Chín đã 19 tuổi, còn tôi thì sắp 18.Hai đứa tôi thuộc loại học khá nhưng không phải là giỏi nhất lớp. Chín được chọn làm trưởng lớp vì nó vừa lớn tuổi vừa ăn nói dạn dĩ .Nhìn về nhan sắc, hoa khôi trong lớp là con Vy, 16 tuổi.Tôi được xếp hạng nhì.Tôi không rỏ tôi được xếp hạng nhì vì tôi lớn tuổi hơn conVy hay con Vy đẹp hơn tôi thật.Nhưng tôi rất bằng lòng nhận xét của con Chín:
-Con Vy đẹp thật nhưng là một cái đẹp lạnh, đẹp kiêu còn mi đẹp duyên, đẹp mặn.Mi sẽ làm đàn ông con trai mê mệt hơn nó cho mà xem.
Khi ông hiệu trưởng đưa tân giáo sư Sử Địa vào lớp giới thiệu, con Chín hích cùi chõ hông tôi nói nhỏ:
-Mi đoán đúng, thầy Trân sẽ là “ hoa khôi” trong ban giảng huấn trường mình đó.
Tôi cũng phải công nhận thầy Trân trẻ và khôi ngô.Thầy lại có giọng giảng bài ấm, lối giảng của thầy gọn và lôi cuốn .Con Chín phê bình thầy Trân ngay sau giờ dạy đầu tiên:
-Thầy Trân giảng bài hay nhưng không phải mẫu người của tao. Tao không thích đàn ông nho nhã quá. Tao chịu mấy anh chàng sĩ quan tác chiến hơn. Đàn ông là phải hùng.
Bỗng nó quay sang nheo mắt nhìn tôi:
-Mi thích thơ văn chắc mẫu người của thầy Trân hợp với mi hơn.Mà này, mi tên Huyền, thầy tên Trân, trường lại là trường Huyền Trân, không chừng là duyên tiền định đó nghe mi !
Nói xong nó cười khanh khách, xách cặp chạy để tránh cái vói tay của tôi để véo nó.Nhưng câu nói đùa của Chín làm tôi suy nghĩ.Mà lạ thật, sao lại có sự tình cờ như thế được.Trò tên Huyền, thầy tên Trân, chung dưới một mái trường tên Huyền Trân.
Sự tình cờ đó khiến tôi để ý thầy Trân hơn các thầy khác. Và một lần trong lớp, khi gọi tên các nữ sinh để điểm danh, nghe đến tên Huyền tôi ngay ngắn đứng lên nhìn thầy Trân, nở một nụ cười dễ thương nhất mà tôi có thể tạo ra được để trình diện thầy.Tôi thấy thầy Trân có vẽ như khựng lại mấy giây trước nụ cười của tôi; thầy nhìn tôi mỉm cười rồi tiếp tục gọi tên nữ sinh kế tiếp.
Từ đó trong tuần tôi mong cho đến giờ dạy của thầy Trân.Tôi đâm mê môn học này khi nghe thầy Trân kể về tiểu sử của những nhân vật , những biến cố , những trận đánh lịch sữ.Tôi bỗng nhiên trở nên một nữ sinh xuất sắc về môn Sử. Một hôm học về nhà Trần, thầy nói đến công ơn của các vua nhà Trần trong việc mở mang bờ cõi khi đem công chúa Huyền Trân gả cho vua Chiêm Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và châu Rí. Con Chín bỗng đưa tay lên xin hỏi:
-Thưa thầy, vua Trần có công mở mang bờ cõi thật nhưng em nghĩ đem con gả cho vua một tiểu quốc thì không những bất xứng mà còn nhẫn tâm nữa. Vì thế cho nên mới có hai câu ca dao lưu truyền trong dân gian để vừa mai mỉa vua Trần vừa thương hại công chúa Huyền Trân :
“Tiếc thay cây quế giữa rừng
“Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”
Thầy Trân ôn tồn trả lời con Chín:
-Nếu tôi là một nhà đạo đức thì tôi cũng đồng ý với phát biểu của trò Chín. Nhưng vì tôi là một giáo sư dạy Sử nên tôi chỉ trình bày những hành xử có tính cách quốc gia của tiền nhân.Chắc tất cả đều biết Châu Ô và Châu Rí ngày xưa chính là hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, trong đó có cố đô Huế, của ngày nay. Nhưng tôi nghĩ sự hy sinh cho quyền lợi quốc gia của công chúa Huyền Trân đã được tổ quốc ghi ơn,bằng chứng là chúng ta đang ngồi ôn lịch sử dưới một mái trường mang tên Huyền Trân.
Cả lớp vỗ tay râm ran sau khi thầy Trân dứt lời. Đến lượt tôi đưa tay xin hỏi trước sự ngạc nhiên của cả lớp vì ai cũng biết bản tính rụt rè của tôi.
-Thưa thầy, lịch sử có nói đến một tướng nhà Trần tên là Trần Khắc Chung. Xin hỏi thầy có tài liệu lịch sử nào xác nhận tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân không ?
Thầy Trân nhìn tôi cười mỉm rồi nói:
-Tôi chưa đọc được sử liệu nào nói tướng Trần Khắc Chung là người yêu của công chúa Huyền Trân.Chỉ biết vua Trần, khi hay tin vua Chế Mân đột ngột băng hà, để cứu công chúa Huyền Trân khỏi bị thiêu sống theo chồng theo tục lệ người Chàm, đã sai tướng Trần Khắc Chung đem quân qua Chiêm giải cứu và đưa công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam .Lịch sử không ghi về lại Việt Nam công chúa Huyền Trân có tái giá với ai không.Nhưng sự tích Huyền Trân sang Chiêm đã là đề tài sáng tác cho giới văn nghệ sĩ về sau. Đặc biệt có một bài vọng cổ rất hay nói về mối tình Huyền Trân-Trần Khắc Chung .Có trò nào nghe chưa ?
Cả lớp vang lên tiếng chưa.Con Chín bạo dạn gạ thầy:
-Chắc thầy ca hay lắm!Xin thầy ca cho tụi em nghe !
Thầy Trân cười thoái thác :
-Tôi cũng không thuộc, chỉ nhớ có một câu. Mà không hiểu sao tôi chỉ nhớ có câu đó.
Cả lớp nhao nhao:
-Một câu cũng được, xin thầy cho nghe!
Lớp học bỗng trở nên vui nhộn.Thầy Trân đứng trên bục, hai tay nắm sống lưng cuốn Sử được dựng đứng, nhìn lên trần lớp học, mắt mơ màng.Sau cái tằng hắng, thầy cất cao giọng trầm ấm, xuống câu vọng cổ :
“Huyền cô ơi!Huyền cô ra đi khiến cho địa thảm , thiên ơơơ ơ..sầu…”
Thầy Trân ngân dài tiếng “sầu”, mắt rời trần lớp học hướng về chỗ tôi ngồi. Cả lớp vỗ tay khen giọng ca “mùi” của thầy. Thầy Trân kín đáo, qua câu vọng cổ, thổ lộ cảm tình của thầy với tôi chăng ?Tôi nghe hai má mình nóng bừng.Suốt đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ với thắc mắc không biết thầy Trân đã có ai chưa ? Tôi cho thầy Trân nhiều lắm cũng chỉ 25, 26 tuổi thôi.Nghe nói thầy tốt nghiệp sư phạm năm rồi và trường Huyền Trân là nhiệm sở đầu tiên của thầy.Tôi đi vào giấc ngủ muộn với ước mơ thầy Trân còn độc thân.
Nhưng oái ăm thay, nữ sinh đầu tiên trong lớp bị thầy Trân phạt lại chính là tôi.Cũng tại cái con khỉ Chín nó đem khoe cây bút Parker của thằng Thiếu Úy Biệt Động Quân, bồ nó,mới tặng nhân sinh nhật nó.Nhìn cây Parker bạc óng ánh tôi buộc miệng khen: “Ồ ! cây bút đẹp quá !”.Lời khen của tôi tuy không lớn nhưng cũng đủ làm cả lớp, lúc đó đang im lặng nghe thầy Trân giảng,quay đầu về phía chỗ ngồi của con Chín và tôi.Con Chín dấu vội cây bút Parker, làm mặt nghiêm nhìn thẳng lên bảng đen.Thầy Trân nhíu mày nhìn tôi, không nói gì, tiếp tục giảng bài.Hết giờ thầy Trân gọi tôi đến bàn ông.Giọng ông vẫn ôn tồn nhưng sắc mặt lộ vẻ giận. Ông đưa tôi mảnh giấy và nói:
-Trò chép lại câu này 60 lần, sau đó đưa cho phụ huynh trò ký rồi đem nộp cho giám thị trường.
Tôi cầm mảnh giấy liếc nhìn mấy chử “tôi sẽ không lo ra trong lớp”.Nước mắt lưng tròng, tôi nhìn thầy Trân, miệng lí nhí:
-Em xin lổi thầy, em không cố ý làm ồn trong lớp!
Thầy Trân mở cửa, thấy tôi,thầy đứng sửng, ngạc nhiên .Hai tay cầm cuốn tập để trước vạt áo , mặt nóng ran , tôi nói trong hơi thở :
-Em đến xin thầy ký vào tập bài phạt để em nộp cho thầy giám thị. Em không dám đưa cho ba em ký, ông sẽ… đánh em chết ! Xin thầy thương mà thông cảm vì em chưa bao giờ phạm kỹ luật trường cả.
Thầy Trân nhìn tôi, đứng nhích sang một bên rồi nói:
-Em vào đây, ta sẽ nói chuyện
Phòng trọ của thầy Trân rất đơn sơ,chỉ vỏn vẹn một cài bàn viết với 2 ghế ngồi, một tủ nhỏ và một chiếc giường ngủ .Tôi khép nép ngồi xuống ghế đối diện với ghế thầy ngồi và đưa tập bài phạt sang phía thầy.Thầy Trân không mở ra xem, chỉ đẩy tập vở sang một bên và nói:
-Thôi, thầy giữ tập viết này khỏi cần đưa cho thầy giám thị. Coi như thầy không phạt em.Thầy tin là em ngoan nhưng thầy thấy em và Chín là hai em lớn tuổi nhất lớp nên thầy muốn hai em là gương mẫu cho cả lớp.
Tôi sung sướng dạ nhỏ một tiếng rồi bổng dưng bạo dạn hỏi thầy:
-Chị Chín , trưởng lớp,muốn tìm biết sinh nhật của thầy, để đến ngày đó cả lớp chúc mừng thầy như vẫn làm với các thầy khác.Thầy có thể cho em biết để em nói lại với chị Chín?
Thầy Trân cười vui vẻ:
-À, thầy sinh ngày 2 tháng 5. Thế còn sinh nhật của em ?
Tôi ngạc nhiên sao thầy hỏi ngày sinh nhật mình. Một thoáng nghĩ làm tim tôi đập mạnh: Chắc thầy cũng để ý mình.
-Dạ, em sinh ngày 20 tháng 12.
-Như thế em sẽ được quà sinh nhật trước quà Giáng Sinh. Thích quá nhỉ!
Tôi nở một nụ cười buồn:
-Dạ em chưa bao giờ được quà sinh nhật lẫn Giáng Sinh
-Sao lạ vậy ?
-Dạ, vì nhà em rất… đơn sơ và không công giáo
Thầy Trân nhìn tôi, tôi đọc trong đôi mắt thầy một sự trìu mến lạ thường.Giọng thầy trở nên thân thuộc:
-Hy vọng năm nay em sẽ được cả hai.
Nói xong thầy đứng dậy.Tôi cũng đứng dậy theo.Nắng bên ngoài gay gắt chiếu xuống thềm cửa.Tôi dang tay che nắng, nói lời từ giã:
-Em xin cám ơn và xin chào thầy
Thầy Trân đứng yên đưa tay chào trả tôi và nói:
-Khi nào em có việc cần gặp thầy thì cứ đến, thầy không bị phiền đâu.
Tôi ra về, lòng nở hoa.

Hết giờ Toán thầy Ngô gọi tôi đến bàn và nói:
-Bài toán vừa rồi em giải sai phần sau. Nếu em muốn, mỗi tuần em ghé chỗ tôi trọ tôi chỉ thêm cho. Thầy biết em giỏi các môn khác,nếu toán cũng giỏi nữa thì em không những đẹp mà còn giỏi nhất lớp.
Tôi bối rối tìm cách trì hoãn:
-Dạ, em xin cám ơn thầy.Em phải về xin phép ba má .
Thầy Ngô bỗng đổi ý:
– Thôi em khỏi phải cần xin phép ba má.Khi nào em cần hỏi gì về toán thì sau giờ học trên đường về ghé thầy chừng 15 phút là đủ.
Tôi dạ và lặng lẻ cúi đầu chào thầy Ngô.Tôi ái ngại sự ân cần của thầy vì tôi nhớ có lần con Chín nói với tôi:
-Tao thấy thầy Ngô có vẻ chấm mi.
Tôi cũng thấy vậy. Thầy Ngô có bộ mặt nghiêm khắc nên tôi chỉ kính mà không cảm.Thầy Ngô không làm tôi mơ mộng như thầy Trân.Tôi làm bộ ngây thơ trả lời con Chín:
-Tao thấy thầy Ngô đối xử với ai hồi nào cũng như hồi nào.
Con Chín tỏ vẻ sành sỏi:
-Mi đừng nhìn cái bề ngoài của mấy thầy.Núi lửa bên trong cả đó mi.Mi chờ xem, có ngày núi lửa của thầy Ngô sẽ phun ra cho mà coi. Mô phạm gì cũng có lúc tức nước vỡ bờ.Chuyện con tim mà, thánh mới kìm nỗi nó.
Thấy con Chín nói quá đúng tôi làm thinh.Cũng may nó không tra khảo tôi gì về con tim của tôi đối với thầy Trân.Tôi cũng mong cho nó nghĩ tôi chỉ biết lo học chứ chưa thao thức gì về đàn ông.
Một tuần trước lễ Giáng Sinh, lúc tan lớp, đi ngang qua bàn thầy Trân, thầy ra hiệu cho tôi lại gần và nói vừa đủ cho tôi nghe:
-Huyền ghé nhà thầy: có quà tặng cho Huyền.
Lòng tôi rộn ràng khi sực nhớ lời thầy Trân nói với tôi trước đây: sinh nhật tôi và Giáng Sinh năm nay tôi sẽ có quà.Tôi chờ cho đám bạn về hết mới đạp xe đến nhà thầy.Dựng xe trước nhà trọ của thầy Trân, lòng tôi hồi hộp,bồn chồn .Tôi nhìn quanh xem có ai trước khi gõ cửa .
Thầy Trân đưa tay mời tôi ngồi ở chiếc ghế tôi ngồi lần trước.Thầy mở tủ lầy ra hai gói quà bọc giấy hoa, để trước mặt tôi và dịu dàng nói:
-Lần trước nghe Huyền nói chưa bao giờ có quà sinh nhật và Giáng Sinh thầy rất bùi ngùi. Thầy có hai món quà nhỏ tặng Huyền, một cho Giáng Sinh, một cho sinh nhật.Mừng Huyền 18 tuổi, tuổi truởng thành.
Tôi cảm động nhìn thầy Trân, miệng ấp úng:
-Em..em cám ơn thầy !
– Huyền mở quà ra đi. Thầy mong Huyền sẽ ưng ý.
Tôi lóng cóng bóc từng mảnh giấy hoa. Quà là một cây bút parker và một cuốn album.
Tôi nhìn thầy Trân cười sung sướng:
-Cám ơn thầy, quà của thầy là những thứ em mơ ước từ lâu!
Khi đưa tôi ra cửa, thầy Trân thân mật khoác vai tôi, đặt một nụ hôn lên mái tóc tôi. Tôi đứng im, người nóng ran,vừa ngây dại vừa lo lắng cử chỉ kế tiếp của thầy .Nhưng thầy Trân ngừng lại ở đó:
-Cám ơn thầy lần nữa, em về.
– Huyền về, chúc Huyền một sinh nhật và một Giáng Sinh vui tươi, hạnh phúc.
Tôi đập con heo đất, lấy hết tiền để dành cho vào bóp rồi đạp xe ra phố.Phố của tỉnh lỵ nhỏ bé này đi bộ chừng 15 phút là hết. Tôi vừa lấy một quyết định táo bạo là đi mua một chiếc cà vạt tặng thầy Trân nhân dịp lễ Giáng Sinh.Tôi đi nhanh vào tiệm bán đồ đàn ông,chọn chiếc cà vạt màu xanh đậm, mua không cần trả giá, rồi trở ra xe thật lẹ.Tôi sợ có người quen bắt gặp,sợ người ta đọc được tâm tư mình rồi đàm tiếu.Tiền mua chiếc cà vạt chiếm hết hai phần ba số tiền tôi bỏ ống.Nhưng tôi không một chút xót xa.
Thầy Trân ra mở cửa , ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm thầy vào lúc sắp tối.Thấy tôi nháo nhác nhìn quanh, thầy nói nhanh:
-Huyền vào nhà nói chuyện.
Ngồi xuống ghế đối diện với tôi, thầy Trân nhìn tôi như chờ đợi một lời giải thích.Tôi lấy hộp đựng cà vạt trong cái giỏ mây ra để lên bàn rồi rụt rè nói:
-Em..em có món quà Giáng Sinh tặng thầy.
Thầy Trân ồ lên một tiếng, đưa hai tay nhận gói quà, tháo giấy ,mở hộp, lấy chiếc cà vạt đưa lên ngắm nghía:
-Thầy cám ơn Huyền, thầy có một chiếc cà vạt màu xanh đã cũ, chiếc này đến thay thế rất là đúng lúc.
Thầy Trân bỗng đưa hai bàn tay sang úp lên hai bàn tay tôi . Tôi để yên, cúi mặt ngồi im, lòng rộn ràng.Cả phút dài trôi qua.Tôi nghe giọng thầy ngập ngừng:
-Ngoài cho quà, Huyền có ..cảm nghĩ ..gì khác không ?
Tôi vẫn cúi mặt,thu hết can đảm trả lời thầy :
-Ngoài ra em..em muốn đến..thăm thầy !
Tay thầy Trân rời tay tôi. Tôi nghe thầy rời ghế bước sang phía tôi.Tôi nghe thầy đặt tay lên hai vai tôi, kéo tôi đứng lên, xoay người tôi lại. Bóng chiều phủ mờ căn phòng chưa lên đèn.Tôi ngước mắt lên.Trong đáy mắt tôi là cái nhìn đắm đuối của thầy .Rồi môi thầy chạm môi tôi.Thầy ôm sát tôi vào người.Toàn thân tôi mềm nhủn mà hừng hực lữa.Tay thầy, như vừa bức phá mọi trói buộc,xoa nắn ngực tôi. Tôi co rúm người khi tay thầy lần xuống phía dưới. Ở giờ phút nầy tôi biết tôi không cưỡng lại bất cứ ý muốn nào của thầy vì tôi là một kẻ đồng lõa nhiệt tình.Nhưng tay thầy bỗng khựng lại ở thắt lưng tôi, như có một lực cản nào bắt thầy dừng lại.Tay thầy đi ngược trở lên, nhẹ nhàng trên ngực , trên môi, trên mắt, trên tóc tôi.
-Thôi, Huyền về kẻo sắp tối.
Trên đường về tôi nghe thân thể mình khác lạ,có thứ gì vừa mất đi, nhưng cũng có một thứ gì vừa chợt đến. Nhưng tôi không thấy hụt hẫng vì thứ mất đi mà tròn đầy thứ vừa ngập đến.Chưa bao giờ tôi thấy đời đáng yêu và đáng sống như bây giờ.Tôi sắp bước vào tương lai nào thì tôi không rõ, tôi chỉ biết tôi vừa từ giả tuổi thơ không chút luyến tiếc.
Hai tuần trước khi trường đóng cửa nghỉ Tết thì ông hiệu trưởng vào thông báo cho lớp học nghỉ giờ Sữ Địa vì giáo sư bệnh.Tôi lo lắng không biết thầy Trân bệnh gì và nôn nóng muốn đến thăm thầy.Bất ngờ trong giờ ra chơi gặp thầy Ngô trong hành lang.Thầy nhìn tôi rồi nói:
-Giáo sư Trân bị cảm .Có hôn thê của ông xuống săn sóc.
Nói xong ông cười nhạt rồi bỏ đi.Tôi tái mặt vì nghi thầy Ngô biết chuyện tình cảm giữa tôi và thầy Trân. Nhưng điều làm tôi rụng rời, đau điếng là thầy Trân đã có hôn thê.Bây giờ thì tôi hiểu cái khựng lại của bàn tay thầy trên thân thể tôi.Bàn tay ngừng lại vì nó đã có chủ.Lương tri đã cản được đam mê của thầy.Tôi thấy đất như quay cuồng, trời như đang sụp đổ .
Giờ Sữ tuần sau thầy Trân đi dạy lại. Mặt thầy hơi xanh nhưng giọng nói vẫn ấm áp truyền cảm.Có lúc hướng về phía tôi ngồi thầy nhìn tôi lâu hơn thường lệ.Tan lớp,tôi nấn ná để làm người cuối cùng rời lớp.Thấy tôi đi ngang qua bàn,thầy Trân nói khẻ:
-Huyền ra quán cà phê Mimosa chờ thầy. Thầy có chuyện muốn nói với Huyền.
Tôi dạ rồi lầm lủi đi.Tôi cảm thấy mình thương hại mình quá đỗi!Tôi đoán biết gặp tôi thầy Trân sẽ nói gì.
Thầy Trân có mặt ở quán trước tôi .Quán có hai bàn khách nhưng may mắn toàn là khách lạ.Tôi ngồi xuống ghế thì thấy có ly chanh đường để sẵn trên bàn.Thầy Trân khuấy khuấy ly cà phê đen nhưng không uống.Thầy cất tiếng trước,giọng buồn buồn:
-Thầy hiện đang có khách ở nhà trọ, Huyền không nên ghé thầy lúc này.
-Em biết, hôn thê của thầy xuống săn sóc thầy .
Thầy Trân ngạc nhiên:
-Sao Huyền biết ?
– Thầy Ngô nói với em.
-Lại cái thầy Ngô !Cũng chính thầy Ngô báo cho Thu biết !
-Thu là hôn thê của thầy ?
Thầy Trân im lặng gật đầu.Giây lâu thầy mới nói:
-Thầy xin lỗi Huyền về cử chỉ hôm trước Giáng Sinh vì đã không kìm hãm được xao xuyến của lòng mình.Con tim có lúc đã vượt qua lí trí.Thầy không có quyền hành động như thế. Nhưng ít ra thầy cũng đã không để tình cảm đi quá đà.Thầy mong Huyền tha lỗi cho thầy.
Tôi rũ người, rung rung đôi vai, cố nuốt những giòng lệ . Thu hết can đảm tôi thốt ra được mấy lời cảm khái:
-Thầy không có lỗi gì hết.Em vẫn kính trọng thầy và.. thương thầy !
Nói xong tôi với tay lấy ly chanh đường đưa lên môi hớp mấy ngụm nhỏ rồi đứng lên đưa tay vẫy chào thầy.Qua màn mắt nhập nhòa tôi thấy khuôn mặt trái soan của thầy Trân vẫn đáng yêu như hôm thầy hôn tôi lần đầu.
Đó là lần cuối cùng tôi gặp mặt thầy Trân.Sau một tuần nghỉ Tết, đi học lại , cả lớp mới hay thầy Trân đã xin đổi trường.Tôi bàng hoàng khóc lẽ loi một mình suốt cã mấy tuần.Con Chín không hay biết gì chuyện sóng gió vừa xảy cho đời tôi cũng như lý do thầy Trân xin đột ngột đổi trường..Người thứ hai tôi nghĩ hay biết chuyện là thầy Ngô. Điều làm tôi hơi ngạc nhiên là vắng bóng thầy Trân, tôi vẫn không thấy thầy Ngô tỏ vẽ gì săn đón tôi hơn ;trái lại mỗi lần chạm mặt tôi thầy có vẽ ngượng nghịu. Tôi có cảm tưỡng thầy ân hận vì có phần trách nhiệm trong việc đổi trường của thầy Trân.
Thi đậu xong bằng trung học đệ nhất cấp, gia đình gởi tôi lên Sàigòn học tiếp.Và tôi chỉ biết học và học.Tôi không để ý đến đàn ông nữa.Tôi chỉ có một người đàn ông nhưng tôi đã mất ông rồi!Tôi đậu tú tài phần 1 rồi phần 2 dễ dàng.Vào đại học tôi cũng chọn ngành sư phạm, môn Anh Văn; tôi cũng sẽ là một giáo sư như thầy Trân.
Không ngờ năm học cuối cùng của tôi lại là năm mất Miền Nam.Tị nạn sang Hoa Kỳ, một lần nữa tôi lại muộn màng cắp sách đến trường.Nhờ vốn liếng anh ngữ sẳn có tôi học lại dễ dàng. Tôi chọn ngành Luật.Tôi lập gia đình lúc đang tập sự hành nghề luật sư.Chồng tôi là một chuyên gia kinh tế người Việt.Chúng tôi sống êm đềm bên nhau đã 15 năm và có hai con. Mỗi khi chọn tên cho con tự nhiên tôi nhớ đến hai người của ngôi trường củ. Đứa con gái đầu, 14 tuổi, tôi đặt tên Chi để nhớ con Chín, con bạn học ngồi cạnh tôi. Thằng con trai, 12 tuổi, tôi đặt tên Trung để nhớ đến thầy Trân.Chồng tôi không một chút thắc mắc khi tôi chọn tên Việt cho con ; anh chỉ lo kiếm tên tương đương bằng tiếng Mỹ ,Carolyn cho Chi và Tom cho Trung.
Tôi xa quê hương như vậy cũng đã gần hai mươi năm.Một hôm tôi ngỏ ý với chồng, tôi muốn đưa hai đứa nhỏ về thăm Việt Nam một chuyến cho chúng biết đất nước thật của chúng.Chồng tôi không hồ hởi cũng không chống đối.Anh chỉ nói:
-Nếu em quyết định về cùng hai con thì cứ đi.Riêng anh, tình hình chính trị bên đó chưa thuận tiện cho anh về.
Tôi biết chồng tôi nói khéo chứ tôi rỏ lập trường của anh rất dứt khoát:anh chỉ trở về Việt Nam khi chế độ Cọng Sản sụp đổ.
Về lại Việt Nam chuyện đầu tiên tôi làm là về thăm ngôi trường cũ.Tôi thất vọng não nề khi thấy trường biến thành trụ sở nhân dân tỉnh với lá cờ đỏ sao vàng ngất ngưỡng ở đỉnh cột cờ.Tôi không có cảm tình với lá cờ này vì thấy nó không “hiền” như lá cờ vàng ba sọc đỏ của miền Nam trước đây.Về thăm đất nước, sau gần hai mươi năm xa cách, tôi thấy mình chỉ là một du khách.Hiện tại không đưa tôi tìm lại được quá khứ.Dù những cái tên không thay đổi. Vẫn Đà Lạt, Nha Trang, vẫn Huế, Hà Nội,vẫn Hạ Long, Vũng Tàu.Nhưng cái xã hội vô hồn hiện nay khiến cho lòng người về cũng trở nên vô cảm trước cảnh vật. Tuy nhiên tôi cũng cố gắng giảng giải sự tích của những nơi thăm viếng để hai đứa con tôi biết đôi chút lịch sữ mấy ngàn năm của nước nhà.
Ba tuần trôi qua mau. Tuần thứ tư tôi đóng đô ở Sàigòn.Sàigòn xưa của tôi đã mất! Y lời của một bài hát tôi từng nghe:Tôi mất Sàigòn như Sàigòn đã mất tên! Đường phố đầy những kẽ tật nguyền ăn xin, đặc biệt là ở các tiệm ăn.Nhìn những kẻ cụt tay, cụt chân, tôi chạnh nghĩ trong số những người này không hiếm kẻ là thương phế binh của quân đội miền Nam trước đây. Tôi chợt nhớ đến con Chín và người tình đầu của nó, anh chàng Thiếu Úy Biệt Động Quân, người đã tặng nó cây bút Parker,không biết bây giờ ra sao.Còn sống hay đã chết ? Còn ở với nhau hay đã chia tay ? Nhớ tới cây bút Parker tôi lại nhớ chuyện bị thầy Trân bắt chép phạt, nhớ cây bút Parker, quà của thầy tặng tôi sau đó.Mặc cho bác xích lô đạp loanh quanh khắp nẻo Sàigòn, mặc cho hai đứa nhỏ ngồi phía trước líu lo chỉ chỏ cảnh trí bên ngoài,tôi ngả người vào nệm lưng chiếc xe, lim dim mắt, thả hồn về dĩ vãng.
-Mẹ,mẹ, họ bán gì kia ?
Tôi giật mình, nhô đầu ra khỏi mui chiếc xich lô, nhìn sang vệ đường:
-À,họ bán vé số.
-Sao có nhiều người bán vậy ?
-Chắc vì có nhiều người mua.
Vừa nói tôi vừa đảo mắt nhìn những quầy bán vé số. Ngồi đàng sau quầy là những bộ mặt buồn hiu, đàn ông có, đàn bà có .Tuy nói với hai con tôi nhiều quầy hàng vì có nhiều người mua nhưng tôi chẳng thấy người mua nào. Và tôi thắc mắc với ngần ấy quầy hàng, mỗi ngày một người bán được bao nhiêu vé để đủ sống ?Tôi bỗng chú ý đến một người đàn ông ngồi sau quầy hàng cuối cùng.Trông ông ta quen quen. Tóc ông đã muối tiêu, má hóp, da mặt sạm đen. Nhìn mang tai trái của ông tôi giật mình:
-Thầy Trân !
Thầy Trân có cái nút ruồi nơi mang tai trái. Tôi sửng sờ đi một lúc. Sao thầy Trân giờ lại ra nông nỗi này ? Một ông giáo sư đi bán vé số ! Tôi vẫn lạc quan tin nghề giáo, dưới bất cứ chế độ nào, vẫn hữu dụng.Tôi nghe lòng tê tái .Tôi bảo bác xích lô tấp xe vào bờ đường. Tôi mở ví, tìm cuốn sổ tay,xé một trang nhỏ, lấy bút ghi vội dòng chữ: “Ông có phải là thầy Trân dạy Sữ
trước đây ở trường Huyền Trân không ?”.Tôi đưa mảnh giấy cho Chi, con gái lớn của tôi, và nói với nó bằng tiếng Mỹ cho nó dễ hiểu và cũng để bác xích lô không biết chuyện:
-Con xuống xe, đi lại chỗ ông bán vé số quầy cuối cùng, đưa cho ông tờ giấy này. Ông đó là thầy dạy học của mẹ trước đây.
Con gái tôi mở tròn hai mắt:
-Thầy dạy học mà đi bán vé số! My God !
– Chắc tại ông mất việc.
Tôi đưa tiếp cho Chi hai tờ 100 mỹ kim và dặn thêm:
-Nếu ông nhận ông là giáo sư Trân thì con đưa cho ông số tiền này và nói của một học trò cũ của ông tặng. Mẹ dặn thêm, nếu ông có hỏi tên mẹ thì con trả lời: “ Mẹ con dặn đừng nói”.
Thấy con bé ngỡ ngàng không hiểu vì sao tôi lại dặn nó dấu tên tôi, tôi giục nó:
-Con đi ngay và nhớ lời mẹ dặn.
Tôi ngồi thu mình trong xe theo dõi.Tôi thấy người đàn ông cầm tờ giấy tôi viết đọc. Tôi thấy ông nhìn sửng con bé,rồi đưa hai tay ôm vai nó, đầu gật gật.Con bé đưa tiếp cho ông số tiền tôi đưa. Tôi thấy ông cầm tiền, đứng ngây người ra,rồi mắt nhớn nhác nhìn tứ phía như tìm kiếm ai.Tôi thấy ông cúi xuống như muốn gặng hỏi gì con bé . Con bé lắc đầu hai ba cái.Nó đưa tay ra bắt tay ông rồi vừa đi vừa chạy về hướng chiếc xich lô tôi ngồi.Tôi thấy ông cuộn tròn hai tấm giấy bạc, nắm chặc trong lòng bàn tay, mắt đăm đăm nhìn theo hướng con bé chạy.Tôi mở ví lấy cặp kính đen đeo vội để dấu đôi mắt đẫm ướt của mình.
TRANG CHÂU

  Thầy Trân

TIẾNG HÁT TRƯƠNG CHI

TIẾNG HÁT TRƯƠNG CHI

Tạ Quang Khôi

Nữ tỳ Vân Hương khép nép đứng im lặng, cúi đầu nhìn xuống đất. Chưa bao giờ, từ ngày vào làm tôi tớ cho phủ Tướng Công đã nhiều năm, nó thấy chủ có sắc giận như lúc này. Tướng Công vốn là người thâm trầm, ít nói, nhưng rất nghiêm khắc. Ngài làm việc gì cũng tính toán cẩn thận, vì thế, hầu như chưa có việc nào bị hư. Những việc quan trọng, ngài thường hỏi ý kiến những người thân cận.

“Mày có chắc tiểu thư mê tiếng hát của thằng lái đò không ?” Tướng công chợt hỏi.

Vân Hương kính cẩn đáp một cách bình tĩnh :

“Bẩm Tướng công, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.”

“Như vậy, bệnh của tiểu thư là…tương tư ?  Tương tư …thằng lái đò ?”

Vân Hương  lúng túng, không biết trả lời Tướng công ra sao. Nhưng, trong bụng, nó tin chắc tiểu thư mắc bệnh tương tư. Tướng công lại hỏi :

“Tiểu thư đã gặp thằng lái đò lần nào  chưa ?”

Vân Hương lo sợ, ấp úng :

“Bẩm…Bẩm…không ạ…Tiểu thư chưa bao giờ ra khỏi nhà.”.

Tướng công gật gù :

“Ừ, như vậy là chỉ…tương tư tiếng hát thôi ?”

“Dạ, chỉ nhớ tiếng hát.   Đêm nào được nghe hát thì  tiểu thư  vui, còn không thì…buồn bã, thẫn thờ.”…

“Rồi mấy bữa nay không có tiếng hát, tiểu thư bệnh ?  Mày có biết tại sao thằng lái đò không hát nữa ?”

“Con đã đi hỏi dò thì nghe đâu nó cũng bệnh, nghỉ cả chèo đò”.

Tướng công giữ im lặng một lúc khá lâu, rồi hỏi tiếp  :

“Mày có biết tên tuổi, mặt mũi nó ra sao không ?”

“Bẩm tướng công,con chưa gặp nó lần nào, nhưng người ta nói nó còn trẻ, chỉ mười bảy mười tám và…rất đẹp trai.”

Tướng công giật mình :

“Mày nói sao ?  Nó đẹp trai ?  Mà tên nó là gì ?”

“Bẩm Trương Chi ạ….Vì nó đẹp trai lại hát hay, nên có nhiều ngườI mê… Có cả những cô con nhà giầu.”

“Thế nó bằng lòng ai chưa ?”

“Dạ…Dạ…Con cũng không hỏi kỹ chuyện đó….Mới đây tiểu thư không nghe tiếng hát nên nhớ, sai con đi hỏi…Con chỉ biết có vậy thôi.”

Tướng công tỏ vẻ lo lắng :

“Mày đã nói hết cho tiểu thư nghe chưa ?”

“Bẩm, chưa ạ.  Mấy bữa nay tiểu thư lúc tỉnh lúc mê, con chưa nói được.”

Tướng công mừng rỡ :

“Ừ, tốt. Không được nói đó”.

Vân Hương ngạc nhiên :

“Bẩm…Nhưng tiểu thư sai con đi hỏi… »

Tướng công nghiêm giọng :

“Tao nói không là không”.

Thấy tướng công giận, nó sợ, im lặng cúi đầu.

Tướng công chậm rãi bước đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Không xa lâu đài của Tướng công, một dòng sông nhỏ lấp lánh dưới ánh trăng. Tướng công đã ngắm cảnh trăng này cùng phu nhân không biết bao nhiêu lần và đều thấy cảnh đẹp. Nhưng đêm nay, cái vẻ thơ mộng của nó bỗng biến đi đâu mất. Thật ra, cảnh vẫn thế. Trăng vẫn vằng vặc sáng, dòng sông vẫn lững lờ trôi ngoài xa kia, nhưng lòng Tướng công đã thay đổi. Con gái yêu của Tướng công đã bị bệnh vì cảnh trăng đẹp đó, vì tiếng hát của một tên lái đò. Điều nguy hiểm hơn hết là nó vừa hát hay vừa đẹp trai. Tất nhiên Tướng công không thể gả con gái cho một tên lái đò nghèo hèn. Nhưng phải làm cách nào để tiểu thư quên đi tiếng hát quyến rũ đó. Còn mê tiếng hát là còn thương nhớ tên lái đò. Thoáng trong một giây, Tướng công nghĩ đến việc sai thủ hạ giết chết tên lái đò. Không, Tướng công thầm nhủ, cách đó không ổn, mà còn có thể làm tăng lòng thương nhớ của tiểu thư. Cách nào để tiểu thư  không còn mê tiếng hát  nữa mới quan trọng. Bỗng Tướng công nhớ tơi Mao Nhị, một mưu sĩ đang là khách nhân trong phủ Tướng công. Mao là người khôn ngoan, quỷ quyệt, đã giúp Tướng công giải quyết nhiều công việc khó khăn. Tướng công chợt reo to :”À !” rồi quay trở vào. Thấy con Vân Hương còn khép nép đứng chờ ở một góc phòng, Tướng công hơi ngạc nhiên, nhưng nhớ ngay ra chuyên đang hỏi nó. Ngài vung tay áo ra lệnh “Cho mày lui”.

Dù đã chờ câu nói đó từ lâu, nữ tỳ Vân Hương cũng không dám bỏ đi ngay. Nó kính cẩn cúi gập người chào Tướng công,rồi từ từ đi lùi ra cửa.

Sáng sớm hôm sau, Tướng công cho gọi Mao Nhị lên hầu ngay. Ngài kể lại chuyện tiểu thư ốm tương tư tiếng hát cho Mao nghe. Và cũng cho Mao biết Trương Chi vừa đẹp trai vừa hát hay. Ngài chỉ nói vắn tắt, nhưng Mao hiểu ngay rằng tên lái đò hát hay không còn chỗ đứng ở vùng đất này.

Suy nghĩ một lát, Mao thưa :

“Bẩm Tướng công, muốn tiểu thư không còn thương nhớ tiếng hát của tên lái đò, chỉ có cách là cho tiểu thư gặp hắn”…

Tướng công giật mình :

“Tiên sinh nói sao ?  Tiên sinh quên rằng nó vừa đẹp trai vừa hát hay ?”

Mao Nhị cười, lắc đầu :

“Dạ, bẩm tướng công, tại hạ không quên điều quan trọng đó…”

Rồi Mao nhìn trước nhìn sau, dù biết là vắng người, vẫn ghé tai Tướng công thì thầm một lúc khá lâu.

Nghe xong, Tướng công tươi hẳn nét mặt, nhưng còn thắc mắc :

“Làm sao làm được điều đó càng sớm càng tốt, vì bệnh của tiểu thư mỗi ngày một nặng…”

Mao cười :

“Xin tướng công an tâm. Tại hạ sẽ làm xong việc này trong vòng hai ngày.”

Mao ngưng một chút, rồi lại nói :

“Xin Tướng công cho tại hạ hai tên lính để giúp tại hạ lo vụ này…Tại hạ cần hai tên bạo tợn, nhưng phải biết vâng lệnh trên.”

Tướng công cười :

“Hai thằng hay hai chục thằng cũng có thể có ngay, miễn được việc”

“Dạ, cảm ơn Tướng công. Hai tên là đủ rồi.”

X  X X

Nữ tỳ Vân Hương ngồi trực cạnh giường tiểu thư liên tục ngày đêm. Nó là một con đầy tớ trung thành,hết lòng lo cho chủ. Thật ra, nó cũng rất thương tiểu thư. Ngoài tình chủ tớ, nó còn thêm tình quyến luyến riêng, vì tiểu thư đã đối xử với nó thật tốt, không khác gì tình chị em. Tiểu thư tuy ít tuổi nhưng cách cư sử của nàng tỏ ra rất người lớn. Nàng  rộng lượng, sẵn sàng tha thứ cho kẻ hầu người hạ khi chúng phạm lỗi. Riêng đối với Vân Hương, nàng lại còn đặc biệt hơn.

Thấy tiểu thư cứ li bì mê man nó cũng lo sợ. Lúc nào hơi tỉnh một chút, nàng lại hỏi nó :

“Vân Hương ơi, chị có nghe thấy tiếng hát không ?   Sao…sao người ta lâu quá không hát nữa ? Người ấy tên chi, chị có biết không ?”

“Dạ, thưa tiểu thư, người lái đò đó tên là Trương Chi.”

“À à…tôi nhớ ra rồi…Chàng tên là Trương Chi…Bao giờ chàng lại hát, chị có biết không ?”

“Thưa tiểu thư, em cũng không rõ…Dường như anh ta bệnh…”

“Tại sao chị biết chàng bệnh ?  Chị đã gặp chàng ?”

Vân Hương lúng túng :

“Dạ…Dạ, chưa ạ…Em chỉ nghe người ta nói thôi.”

“Vậy hả ?…Bao giờ chàng khỏi ?”

Vân Hương bỗng nghe xót xa trong lòng. Tiểu thư vốn là người thông minh, nay hỏi như vậy thì nó hiểu nàng không còn minh mẫn nữa. Tiểu thư thẫn thờ nhìn ra cửa sổ, lẩm bẩm :

“Chàng khỏi bệnh thì chàng mới hát được…”

Nàng bỗng hỏi :

”Này, Vân Hương, chị có cách nào cho tôi gặp chàng không ?…Tôi mà gặp chàng thì cả chàng và tôi đều khỏi bệnh đó”

Vân Hương không ngờ tiểu thư lại nói được một câu thật đúng. Nhưng nó chợt hãi hùng tự hỏi rằng sau cuộc gặp gỡ, chuyện gì sẽ xẩy ra ?  Tiểu thư sẽ yêu Trương Chi hơn nữa vì anh ta đã hát hay lại đẹp trai. Về phần Trương Chi , chắc chắn anh ta sẽ không thể không rung động trước nhan sắc xinh đẹp và thùy mị của tiểu thư. Rồi cuộc tình ấy sẽ đi về đâu ?  Một anh lái đò nghèo hèn, dù đẹp trai như Phan An, Tống Ngọc, làm sao có thể sánh duyên với một tiểu thư khuê các, con một vị quan lớn trong triều ?  Trương Chi sẽ chuốc lấy khổ đau, tủi hận, mà bệnh của tiểu thư sẽ mỗi ngày một trầm trọng hơn, khó có thuốc nào chữa khỏi. Cái viễn ảnh khủng khiếp ấy làm Vân Hương hốt hoảng,lo sợ. Không. Nó thầm nói trong lòng, hai người không thể gặp nhau được.

“Vân Hương !” tiểu thư bỗng gọi, “chị có nghe tôi nói gì không ?”

“Dạ, em có nghe…Nhưng làm sao tiểu thư có thể gặp được Trương Chi ?  Anh ta chỉ là một anh lái đò nghèo hèn. Anh ta còn không đáng là tôi tớ của tiểu thư.”

Tiểu thư nhìn người nữ tỳ đăm đăm :

”Sao chị lại bảo chàng không đáng là đầy tớ của tôi ?  Không, chàng không là đầy tớ…”

Giọng nàng bỗng nghẹn ngào, rồi nàng bật lên tiếng khóc. Nàng cũng đã nhận ra cái thực tế phũ phàng trong nhận xét của Vân Hương. Tướng công và phu nhân, cha mẹ nàng, có bao giờ lại chịu gả nàng cho một tên lái đò, trong khi có cả chục vương tôn, công tử đang ngấp nghé hỏi cưới nàng. Người nào cũng mũ cao áo dài, giầu sang tột bực.

Trong khi tiểu thư và Vân Hương đang lo sợ nghĩ tới tương lai đầy khó khăn, cửa bỗng mở. Vân Hương giật mình ngoảnh ra. Nó hốt hoảng vội đứng lên, kính cẩn cúi chào :

“Bẩm phu nhân tới vấn an tiểu thư.”

Phu nhân nhẹ nhàng bước đến gần nó, rồi hỏi khẽ :

”Tiểu thư ngủ ?”

“Dạ bẩm phu nhân, tiểu thư mới thức.”

Thấy mẹ, tiểu thư vội vàng gượng ngồi dậy để chào đón, nhưng không nổi, lại nằm xuống, ngước nhìn mẹ bằng đôi mắt buồn bã, lờ đờ. Phu nhân bỗng nghe xót xa trong lòng. Ngày nào phu nhân cũng tới thăm con gái mấy lần, mà lần nào  cũng thấy nàng đổi khác, cứ sa sút hoài. Bà không ngờ con gái lại ủy mị như vậy, mê tiếng hát của tên lái đò đến mang bệnh liệt giường liệt chiếu. Nàng cất tiếng chào :

”Mẹ !”

Phu nhân khoát tay nói :

”Con cứ nằm tĩnh dưỡng. Hôm nay con thấy trong người thế nào ? “

Tiểu thư cố nói để an lòng mẹ :

“Con thấy khá nhiều rồi.”

Phu nhân gật đầu :

”Ừ !” rồi bà nói tiếp ”Tối nay, Tướng công sẽ cho dẫn tên lái đò đến đây gặp con.”

Cả tiểu thư lẫn Vân Hương đều giật mình, nhưng mỗi người một ý nghĩ khác. Tiểu thư thì mừng rỡ, nũ tỳ thì lo sợ. Nó không hiểu tại sao Tướng công lại dám cho Trương Chi gặp tiểu thư, khi mà nó đã cho Tướng công hay rằng Trương Chi đẹp trai, không thua gì Phan An, Tống Ngọc ngày xưa. Hay là… Tướng công đã bằng lòng cho tiểu thư kết duyên với Trương Chi ?  Không, không bao giờ chuyện đó lại xẩy ra.

Còn tiểu thư thì tỏ vẻ  rất vui. Nghe nói sắp được gặp Trương Chi, nàng bỗng thấy trong người khỏe hẳn ra. Nàng hớn hở hỏi phu nhân :

”Thật không, Mẹ ?  Phụ thân cho phép con được gặp …Trương Chi ?” Suýt nữa thì nàng gọi anh lái đò bằng chàng. Phu nhân gật đầu :

”Chắc chắn như vậy. Tướng công vừa cho mẹ rõ.”

Trong lòng Vân Hương chợt nẩy sinh một mối nghi ngờ. Phải chăng Tướng công có âm mưu gì đây vì nó không tin tướng công lại dễ dãi như vậy. Nó vẫn biết ông là một người nghiêm khắc, việc gì cũng tính toán kỹ lưỡng. Nó tin chắc rằng không đời nào  ông lại dễ dàng cho phép tiểu thư gặp Trương Chi trong khi tiểu thư đang ốm tương tư tiếng hát của người đó.

X X  X

Một tháng sau khi tiểu thư  gặp Trương Chi, nữ tỳ Vân Hương được tướng công và phu nhân cho nghỉ việc để trở về quê hương. Đó cũng nhờ tiểu thư van xin mẹ và phu nhân năn nỉ tướng công. Sau cái đêm người ta đưa Trương Chi vào phòng tiểu thư, với sự có mặt của tướng công và phu nhân, Vân Hương bị khủng hoảng tinh thần khá nặng.. Bộ mặt mà nó nghe nói đẹp chẳng thua gì Phan An, Tống Ngọc chỉ là một mặt quỷ hiện hình, xẹo chằng chịt và có nhiều vết máu mới khô. Vừa nhìn thấy cái mặt đó, tiểu thư hét lên một tiếng rồi ngất xỉu ngay. Vân Hương cũng hét to, nhưng chỉ run rẩy nép sát vào tường, rồi bật tiếng khóc. Phu nhân, dù đã được báo trước, cũng mở to mắt nhìn cái mặt gớm khiếp đó. Mặt bà tái hẳn đi. Chỉ có Tướng công bình tĩnh gật gù, mỉm cười, đánh giá cao “tác phẩm” của mưu sĩ Mao Nhị. Trong một thoáng, Trương Chi đã gây xúc động mạnh cho ba người đàn bà đang ở trong phòng. Thấy đã có tác dụng tốt trong việc chạy chữa bệnh tương tư của tiểu thư, Tướng công phất tay áo cho hai tên lính hầu dắt Trương Chi ra khỏi phòng.

Hôm sau, vì xúc động mạnh, tiểu thư trở bệnh nặng hơn. Một ngự y cao tay nhất triều được triệu tới. Sau mấy thang thuốc, tiểu thư dần dần hồi phục, khỏi dứt bệnh tương tư. Thoạt đầu, nàng không chịu tin rằng “con quỷ hiện hình” ấy là Trương Chi. Phu nhân đã phải đoan chắc với nàng nhiều lần là không ai đánh tráo tên lái đò với kẻ khác. Chả còn biết hỏi ai hơn, nàng đành tin lời mẹ. Bây giờ mỗi lần nghĩ tới anh lái đò có giọng hat ngọt ngào, quyến rũ nàng lại rùng mình hốt hoảng.  Nàng chưa quên hẳn tiếng hát đó nhưng không còn thổn thức khi tưởng nhớ tới.

Riêng Vân Hương, con nữ tỳ trung thành, thì chả có ai săn sóc, chữa chạy. Bệnh của nó là bệnh tâm thần sau một cơn xúc động quá mạnh mà cũng vì uất ức, bất mãn trước hành động tàn nhẫn của Tướng công. Gương mặt đẹp của Trương Chi đã bi Tướng công hủy hoại. Nó vừa sợ vừa ghê tởm Tướng công nên không còn bụng dạ nào ở lại hầu hạ nữa. Nó năn nỉ tiểu thư tìm cách trả lại tự do cho nó. Tiểu thư vốn là người tốt bụng, hiền lành, đã cố van xin mẹ cho nó được về quê.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, Tướng công đã ban cho nó một đặc ân, được trở về quê hương. Hơn mười năm trước, bố mẹ nó, vì nghèo và nợ nần ngập đầu ngập cổ, đã bán nó cho phủ Tướng công. Nó trở thành một con nô lệ, không phải là một con hầu bình thường. Đúng ra nó phải làm đầy tớ cho phủ Tướng công suốt đời và không công. Thế mà khi trả lại tự do cho nó, phu nhân và tiểu thư đã lén lút cho nó một số tiền rất lớn để chữa bệnh và làm vốn lấy chồng.

Khi ra khỏi phủ tướng công, Vân Hương liền đi hỏi dò về anh lái đò Trương Chi. Người ta cho biết Trương Chi đã chết. Sau đêm được đưa vào phòng tiểu thư, anh ta bị ốm nặng, mặt mày xưng vù và đầy mủ. Không tiền chữa thuốc, cũng không thể chèo đò để kiếm ăn độ nhật, Trương Chi chết trong một túp lều ven sông vắng lạnh. Khi có người biết thì xác anh đã bắt đầu rữa. Dân làng thương tình xúm nhau bó chiếu, chôn anh ở một bãi hoang ven rừng, rất xa làng mạc, thôn xóm.

Theo lời chỉ dẫn, Vân Hương tìm đến thăm ngôi mộ của anh lái đò hát hay và đẹp trai trước khi tìm về quê cũ

X X  X

Ba năm trôi qua, Vân Hương đã khỏi bệnh, trở lại chốn cũ để thăm phu nhân và tiểu thư. Nhưng trước khi vào phủ tướng công, nó ghé thăm ngôi mộ Trương Chi. Nhưng nó tìm mãi mà không thấy dấu vết của ngôi mộ hoang ven rừng. Cảnh vẫn không thay đổi, vẫn bụi cây, vẫn đám cỏ gai chằng chịt, nhưng không có một gò đất nào có thể coi là mồ mả. Nó đành trở lại thôn xóm để hỏi thăm.

Người ta cho nó biết cách đây không lâu, cứ vào đêm trăng sáng, dân trong vùng lại nghe tiếng hát, đúng tiếng hát của anh lái đò Trương Chi, như hồi anh còn sống. Tiếng hát vẫn hay, vẫn trong trẻo, nhưng không còn quyến rũ như xưa nữa. Người nghe có cảm giác rờn rợn. Dân làng bèn đi tìm nơi phát xuất của tiếng hát ma quái đó. Nhưng họ không sao tìm ra. Tiếng hát có lúc mơ hồ như gió thoảng trên sông, lại có lúc như tiềng khóc ai oán. Người ta đành tìm đến ngôi mộ ven rừng  và khai quật lên. Trong mộ, chẳng có gì ngoài cái chiếu nát và một hòn đá màu hồng có hình dáng một trái tim.  Họ xem kỹ hòn đá, không có gì đặc biệt, nên định ném trả lại huyệt rồi vùi đất chôn đi. Nhưng một người trong bọn lên tiếng xin hòn đá. Người này là một anh thợ đẽo và mài đá làm thành những vật dụng hàng ngày. Từ ngày đó, tiếng hát ma quái cũng hết luôn.

Vân Hương tìm đến nhà anh thợ đẽo đá  Anh tiếp nó một cách e dè, ngại ngùng. Nó đi thẳng vào chuyện viên đá trong mộ Trương Chi, ngỏ ý muốn được xem. Anh thợ cho biết đã biến nó thành một cái chén uống nước. Anh lấy chén ra cho Vân Hương coi. Đó là một cái chén tống màu hồng, trông thô kệch và hơi nặng so với loại chén người ta thường dùng. Vân Hương bỗng nẩy ra ý muốn mua cái chén để làm quà cho tiểu thư. Nó hỏi :

”Bác định bán cái chén này bao nhiêu ?”

Anh thợ lắc đầu :

”Tôi không biết. Ai thích thì trả bao nhiêu cũng được. Tôi mất mấy ngày công đó.”

Vân Hương mở bọc lấy tiền trả ngay. Số tiền có lẽ quá lớn với anh thợ, nên anh trố mắt nhìn Vân Hương, chưa dám cầm ngay. Nó phải dúi vào tay anh, rồi bỏ chén vào bọc.

X X  X

Trong những món quà nữ tỳ Vân Hương tặng, tiểu thư thích nhất cái chén tống bằng đá hồng, có thể vì lai lịch kỳ lạ của nó.  Anh lái đò có giọng hát quyến rũ đã chết, cả thân xác anh kết tinh lại thành một viên đá hinh trái tim màu hồng, rồi viên đá đó được mài đẽo thành cái  chén. Tiểu thư hỏi Vân Hương  :

”Chén này có dùng để uống nước được không ? “

Vân Hương đáp :

”Em chắc là được. Xin tiểu thư thử rót trà vào xem.”

Tiểu thư liền làm theo lời nó. Nàng vô cùng ngạc nhiên vì trong chén nước có bóng một người chèo một con đò nhỏ xíu, nhưng trông rất rõ, với gương mặt thật đẹp. Nàng càng ngạc nhiên hơn khi nghe bên tai văng vẳng tiếng hát ngọt ngào, quyến rũ.  Đúng là tiếng hát năm xưa đã từng làm nàng say mê đến tương tư. Thấy tiểu thư ngó đăm đăm vào lòng chén với vẻ mặt ngẩn ngơ, khác lạ, Vân Hương cũng vội nhìn vào chén nước, nhưng nó không thấy gì hết. Nó hỏi :

”Tiểu thư làm sao vậy ?”

Nó phải hỏi đến lần thứ ba, tiểu thư  mới giật mình như choàng tỉnh, ngước nhìn nó, hỏi lại :

”Chị không nghe thấy gì sao ?  Tiếng hát…Tiếng hát ngày xưa…Có cả hình bóng người chèo đò nữa…”

Vân Hương lại nhìn vào chén nước và lắng tai nghe, nhưng tuyệt nhiên nó không thấy  mà cũng không nghe gì hết. Nó bỗng lo sợ vì nghĩ rằng cái chén ma quái đã thu mất hồn vía tiểu thư.  Nó định giật cái chén lại, nhưng tiểu thư đã bình tĩnh nói :

”Chị đừng sợ, tôi không sao đâu. Tôi tỉnh mà.”

Vân Hương gặng hỏi :

”Tiểu thư có tỉnh thật không ?  Tiểu thư tỉnh mà sao nói mê ?”

“Ai bảo chị tôi mê ?  Rõ ràng tôi có nghe tiếng hát và thấy bóng anh lái cùng con đò.”

“Vậy tiểu thư cho em coi lại xem sao.”

Lần này Vân Hương cũng không thấy gì. Nó tức mình đổ hết nước đi, rồi trả lại chén cho tiểu thư. Chén không có nước, tiểu thư cũng không nghe tiếng hát và không thấy bóng anh lái đò. Tiểu thư chợt hiểu ra hai điều : phải có nước mới có bóng anh lái đò và có tiếng hát, và chỉ mình nàng được thưởng thức những điều ấy. Khi hiểu ra như vậy, nàng bỗng thấy một niềm vui rào rạt trong lòng. Nàng nói với Vân Hương :

”Anh Trương Chi chỉ muốn mình tôi thấy anh, mình tôi nghe anh hát, có lẽ để đáp lại mối tình tôi dành cho anh khi anh còn sống.”

Vân Hương thắc mắc :

”Tiểu thư có thấy mặt anh ta xấu xí như hôm anh ta được đưa vào phòng tiểu thư không ?”

Tiểu thư lắc đầu :

”Không, người này đẹp lắm. Tôi sợ Phan An, Tống Ngọc ngày xưa còn thua.”

Vân Hương gật đầu :

”Vậy thì đúng anh lái đò Trương Chi rồi. Em nghe người ta nói anh lái đò vừa đẹp vừa hát hay.”

Tiểu thư  cau mày :

”Sao chị không cho tôi biết sự thật từ hồi đó ?”

Vân Hương cẩn thận nhìn trước ngó sau, khẽ nói vào tai tiểu thư :

”Tướng công cấm em nói thật với tiểu thư.”

Trầm ngâm một lát, tiểu thư có giọng buồn buồn :

”Bây giờ tôi hiểu rồi. Phụ thân tôi sai người hủy hoại gương mặt của anh lái đò.”

“Dạ, đúng như vậy, vì tướng công không thể cho phép tiểu thư hạ mình xuống ngang hàng với anh lái đò nghèo hèn.”

Tiểu thư chợt buông một tiếng thở dài não nuột..

Từ ngày Vân Hương trở về quê, tiểu thư lại thui thủi một mình một bóng trong phòng riêng, nhưng nàng không còn thấy cô đơn nữa. Nàng bây giờ đã có bạn, có thú vui riêng, tiếng hát của Trương Chi.

Ba năm trước, khi tướng công và phu nhân trả tự do cho Vân Hương, tiểu thư rất cô đơn, dù rằng phu nhân đã cho một nữ tỳ khác vào hầu hạ thế Vân Hương. Một phần vì nó còn mới quá, phần khác nó không được khôn lanh như  Vân Hương , nàng chỉ coi nó như một đứa ở thuần túy, không tâm sự với nó như đã tâm sự với Vân Hương. Thế rồi bỗng Vân Hương trở lại thăm và tặng nàng một món quà khác thường và vô cùng quý giá.

Từ ngày có chiếc chén tống hồng ngọc, tiểu thư thường đuổi con nữ tỳ  đi nơi khác, để được một mình ở trong phòng. Nàng suốt ngày say mê nghe tiếng hát phát ra từ cái chén và ngắm hình anh lái đò không chán mắt. Nàng cũng luôn luôn từ chối tham dự các cuộc vui tổ chức trong phủ Tướng công. Những ca công, ca nữ trong các buổi liên hoan ấy cũng có vài người hát hay, nhưng họ chỉ được quyền dùng giọng ca hay của họ để ca tụng Tướng công và những việc làm của ngài. Nghe mãi những lời tán tụng vô duyên, tiểu thư cũng thấy nhàm chán. Nay đã có tiếng hát Trương Chi, chỉ hát cho riêng mình nàng nghe, nàng đâu cần tham dự những buổi liên hoan nữa. Trong những lúc đó, nàng cảm thấy được an ủi rất nhiều và vui hẳn lên.

Tạ Quang Khôi

(1999)

Hoa Tím Bằng Lăng

Hoa Tím Bằng Lăng

Nguyễn Duy-An

Vì chiều cao “rất khiêm tốn” của mình, tôi cứ phải loay hoay điều
chỉnh cái máy video cầm tay, cố gắng thâu lại hình ảnh của Tuân đang
từ từ bước lên khán đài nhận bằng kỹ sư để mai mốt mang về Việt Nam
“vinh quy bái tổ”. Tuân là đứa con “rất đặc biệt” của chúng tôi. Vợ
chồng tôi mới cưới nhau được 10 năm nhưng Tuân năm nay vừa tròn 22
tuổi! Gia đình bên vợ và người ngoài cứ nghĩ nó là con riêng của tôi
mang theo từ Việt Nam; và chúng tôi nghĩ Tuân cũng tin như thế, vì mỗi
lần gọi điện thoại về Việt Nam nó vẫn gọi mẹ tôi là bà nội.

Tuy nhiên, Tuân vẫn một lòng kính trọng Oanh như mẹ ruột, và vợ tôi cũng rất thương yêu và lo lắng cho nó ngay cả trước khi chúng tôi nên vợ thành chồng.
Sau bao nhiêu lần thử nghiệm và biết chắc chắn tôi không thể có con;
thay vì buồn phiền, Oanh lại săn sóc cha con tôi nhiều hơn. Đã mấy
tháng nay nàng chạy ngược chạy xuôi lo thu tục giấy tờ để tuần sau
chúng tôi về Việt Nam nhận một đứa cháu gái của tôi làm con nuôi. Ngày
nhận được kết quả thử nghiệm xác định tôi không thể có con, Oanh đã âu
yếm nhìn tôi thỏ thẻ: “Ngay từ đầu em vẫn tin anh. Em không buồn đâu
anh ạ! Em chấp nhận số phận, nhất là chúng mình đã có Tuân… Tuy
nhiên, em nghĩ chúng mình cũng nên nhận thêm một đứa con nuôi cho vui
cửa vui nhà. Nếu anh đồng ý, em sẽ lo giấy tờ để chúng mình nhận một
đứa con của chú Khang làm con nuôi. Mình nuôi cháu vẫn tốt hơn…” Đó
là lý do Oanh sắp xếp để ngay sau khi Tuân ra trường, chúng tôi sẽ về
Việt Nam thăm gia đình và nhất là đưa Tuân về thăm lại mộ Trang, người
mẹ ruột của Tuân đã ra đi trong tủi nhục ngày nó mới được 3 tháng
tuổi, và Tuân trở thành “con trai” của tôi từ hơn hai mươi năm về
trước tại Bình Giả, Việt Nam.

o0o

Ngày đó tôi cũng khoảng tuổi của Tuân bây giờ… Tôi trở về Bình Giả
năm 1979, sau mấy năm gồng mình cầm cự với nghề “gõ đầu trẻ” tại một
trường tiểu học ở vùng kinh tế mới thuộc tỉnh Sông Bé. Tôi thương đám học trò nghèo đói nhiều lắm nhưng chính tôi cũng không chịu nổi cảnh
đói nghèo vì lương không đủ ăn nên đành phải bỏ trường về quê ăn bám
gia đình sống qua ngày. Sau mấy năm vừa dạy học, vừa làm rẫy sống lây
lất qua ngày, sức tôi đã kiệt quệ! Tôi đã “cắt hộ khẩu” ở trường cũ,
nhưng không xin “nhập hộ khẩu” tại Bình Giả vì tôi trở về với ý định
tìm đường vượt biên. Đã mấy năm rồi, bà con trong làng ai cũng biết
tôi đi dạy học ở vùng “Kinh Tế Mới”, và thỉnh thoảng vẫn về quê thăm
cha mẹ cũng như xin thêm gạo, bắp… nên không ai thắc mắc hay hỏi han
giấy tờ tạm trú. Mùa mưa năm đó, ngoài việc chuẩn bị dầu nhớt cho
chuyến vượt biên chung với một số bạn bè ngoài Láng Cát, tôi vẫn theo
các em làm rẫy, làm ruộng, và nhất là vào rừng kiếm măng tre. Trong
một dịp mò mẫm giữa rừng tre, tôi đã gặp lại anh Thành, một người trốn
trại cải tạo, đang lẩn trốn trong rừng để tìm cách liên lạc với người
vợ mới cưới được mấy tuần trước ngày anh đi học tập. Hôm đó trời trở
cơn giông đột ngột, tôi chạy vội tới một gốc cây bằng lăng để trú mưa
vì lúc đi rừng tôi quên không mang theo áo mưa. Lúc tới được gốc “cây
cổ thụ”, tôi đã “hồn vía lên mây” khi nghe tiếng gọi tên mình vọng
xuống từ ngọn cây:

– Toàn. Toàn phải không?

Tôi ngơ ngác kiếm tìm xem ai đã gọi mình, nhưng trời đã tối mịt vì cơn
mưa trong rừng nên chẳng thấy gì. Tôi sợ quá, đang định chạy trốn thì
một sợi giây thòng xuống từ một cành bằng lăng rậm rạp phía trên
đầu… Một bóng người trùm kín trong chiếc áo mưa cũ kỹ, vừa tuột
xuống vừa lên tiếng:

– Mình đây. Thành đây.

Anh Thành đã xuống đất. Tôi đứng chết sững ngó đăm đăm người “đàn anh”
nổi tiếng đẹp trai và hào hùng của mấy năm về trước, bây giờ ốm yếu da
bọc xương, đen đủi hốc hác đang run cầm cập vì đói và rét. Tôi ngập
ngừng:

– Trời ơi! Đúng là anh Thành đây mà. Sao anh ra nông nỗi này?

– Mình trốn trại cải tạo về đây đã mấy tuần rồi nhưng không dám về nhà
vì sợ bị bắt lại. Trời xui đất khiến cho mình gặp được Toàn ở đây.
Đúng là số mình chưa chết.

– Anh đừng nói gở. Bây giờ anh tính sao?

– Toàn có gì ăn không? Hơn hai tuần nay mình…

Tôi chỉ định đi kiếm măng vài tiếng đồng hồ nên chẳng mang theo gì
ngoài con dao cán dài để đào măng. Cũng may trong túi còn gói thuốc lá
và mấy miếng kẹo cao-su (chewing gum). Sau khi kể cho tôi nghe sơ qua
về cuộc đào thoát từ trại cải tạo, anh bẻ một cành hoa bằng lăng mầu
tím, khắc một dấu hiệu đặc biệt lên đó và nhờ tôi mang về cho Trang,
vợ anh, đang ở với cha mẹ chồng trên Xuân Mỹ, Làng Ba. Tôi vội vàng
trở về, hẹn hôm sau sẽ dẫn người nhà của anh vô rừng sớm. Thấy tôi trở
về với một cành hoa bằng lăng mầu tím, mẹ và em gái tôi ngạc nhiên
lắm, nhưng tôi cũng chẳng giải thích. Tôi dò hỏi đứa em gái về Trang,
vợ của anh Thành. Lúc đó tôi mới biết chuyện anh Thành trở về Bình Giả
sau năm 1975 với một cô gái người miền Nam, bổn đạo mới. Gia đình anh
Thành không chấp nhận nhưng cũng đành xin cha xứ làm phép cưới cho hai
người mấy tuần trước ngày anh ấy lên đường đi “học tập”. Năm đó Trang
mới 17 tuổi, nhưng vì loạn lạc, gia đình chẳng còn ai nên đã theo
người yêu là anh Thành trở về Bình Giả. Niềm vui chưa trọn vẹn thì
hoàn cảnh ngang trái đã chia cách đôi vợ chồng trẻ hơn bốn năm nay.
Trang ở với gia đình cha mẹ chồng như một chiếc bóng cô đơn bên đường,
mòn mỏi đợi chờ ngày chồng trở lại!

Tôi mang cành hoa bằng lăng mầu tím lên Xuân Mỹ tìm nhà anh Thành. Hai
bác tỏ vẻ khó chịu khi tôi hỏi thăm và muốn gặp Trang. Về sau tôi mới
hiểu là ở Bình Giả đâu có ai mang hoa tới nhà cho con gái; hơn nữa,
nàng lại là một người con gái đã có chồng! Từ nhà bếp đi lên, nhìn
thấy tôi cầm cành hoa bằng lăng mầu tím trong tay, nàng đứng sững sờ
nhìn tôi, miệng ấp úng nói không nên lời. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Có người nhờ tôi trao cành hoa này cho Trang. Có dấu hiệu khắc trên đó.

Trang cầm cành hoa rồi bật khóc nức nở:

– Trời ơi! Anh Thành! Anh đã gặp anh Thành…

Bác gái vừa đỡ Trang ngồi xuống bên cạnh, vừa dồn dập hỏi tôi:

– Cậu Toàn gặp thằng Thành nhà tôi ở mô rứa? Công an đang truy nã nó
mấy tuần nay. Trang nín đi con. Tai vách mạch rừng. Chết! Chết cả nhà
bây giờ! Ngày nào cũng có người tới nhà hạch hỏi về nó. Ông đóng cửa
lại mau đi. Khổ thân con tôi!

Tôi thầm thì kể lại cuộc gặp gỡ anh Thành trong rừng hồi chiều cho hai
bác và Trang nghe. Cuối cùng cả nhà quyết định sẽ chuẩn bị một số thức
ăn và thuốc men rồi tờ mờ sáng hôm sau Trang xuống nhà tôi đi vào rừng
tìm gặp anh Thành. Nếu có ai hỏi thì nói là gia đình tôi thuê nàng đi
làm cỏ lúa ở Đồng Tròn. Bác trai cũng muốn đi theo nhưng không dám vì
sợ hôm sau công an lại tới nhà làm việc.

Suốt một tuần liền, ngày nào Trang cũng “đi làm thuê” cho tôi để vào
rừng gặp gỡ anh Thành. Cám cảnh trước hoàn cảnh hiện tại, sau mấy ngày
bàn bạc cùng gia đình, tôi đã quyết định nhường chỗ trên ghe cho anh
Thành. Chúng tôi cũng sắp xếp cho anh Thành theo xe bò của một người
quen ở Hòa Long đi lấy cọc tiêu để tránh gặp gỡ những người quen, rồi
tôi đón anh ấy ra Long Hương “ở nhờ” nhà một người bạn thân của tôi để
chờ ngày ra đi. Hơn hai tháng trời, tôi và Trang trở thành những người
đi buôn chuyến. Thực ra, tôi chỉ chở Trang ra Long Hương gặp chồng, có
khi ở đó một hai ngày trong lúc tôi đi Hố Nai, Gia Kiệm… lo việc
riêng. Người trong làng đã bắt đầu đồn đãi về việc tôi và Trang đi
buôn chung với nhau, nhất là còn đi qua đêm nữa! Mẹ tôi buồn lắm! Mặc
dầu tin tôi, nhưng “lời ong tiếng ve” đồn thổi nhiều chuyện ly kỳ hấp
dẫn về chúng tôi nên bà rất khổ tâm. Cha mẹ của anh Thành có vẻ bình
tĩnh hơn vì nghĩ rằng những lời đồn đãi đó sẽ làm người ta quên dần
chuyện anh Thành trốn trại cải tạo. Tôi vẫn xem Trang như một người
bạn thân vì tôi cũng chỉ hơn nàng một tuổi, còn anh Thành thì xem tôi
như một đứa em ruột, “một vị cứu tinh” đã dám liều mình cưu mang và
giúp đỡ anh trong cơn hoạn nạn.

Anh Thành và một số bạn bè của tôi đã ra đi đột ngột trước ngày dự
tính vì công việc “bến bãi” bị đổ bể. Sau một tuần không thấy tin tức
gì về chiếc ghe đó, chúng tôi yên chí anh Thành đã ra khơi bằng yên.
Tôi lại theo bạn bè tìm cách mua lại một chiếc ghe cũ ở Cần Giờ, đút
lót xin giấy tờ tạm trú và bắt đầu công việc sửa chữa chuẩn bị một
chuyến đi mới. Công việc bề bộn nên gần ba tháng sau tôi mới trở về
thăm gia đình. Mẹ tôi vừa khóc vừa kể cho tôi nghe về hoàn cảnh của
Trang. Nàng đã có thai, bụng càng ngày càng lớn. Anh Thành coi như mất
tích vì không có tin tức gì. Bà con trong họ chất vấn nàng nhiều lần
về đứa bé trong bụng. Lúc đầu cha mẹ anh Thành tin Trang, nhưng không
biết làm sao để giải thích. Mọi người đổ tiếng xấu cho tôi và nàng.
Dần dà cả gia đình nhà chồng cũng tin lời đồn đãi của thiên hạ, nhất
là chờ mãi không thấy tin tức gì của anh Thành nên bắt đầu hạch hỏi và
coi khinh nàng. Hai bác đã xuống nhà nói chuyện với mẹ tôi, có vẻ
trách móc và đặt vấn đề tại sao chính tôi cũng trốn biệt từ mấy tháng
nay. Mẹ tôi chỉ biết ngồi khóc vì tủi nhục! Em gái tôi cũng nửa tin
nửa ngờ nên đã tìm gặp Trang để hỏi cho ra lẽ. Nó tin lời giải thích
của Trang nên càng ngày càng thân với nàng.

Tuổi trẻ bồng bột và nhiều tự ái nên tôi đã lên gặp cha mẹ anh Thành
đôi co và cãi vã với cả gia đình và giòng họ anh ấy để bênh vực cho
Trang, nhưng rồi mọi người lại càng khinh bỉ và ghét bỏ Trang nhiều
hơn trước. Quá tủi nhục và hổ thẹn, Trang đã liều mình tự tử! Cũng may
người nhà phát giác kịp thời và cứu chữa cho nàng và bào thai trong
bụng. Mặc dầu được cứu sống nhưng Trang trở nên lầm lì ít nói, sống
vật vờ như một cái xác không hồn giữa sự khinh ghét của giòng họ nhà
chồng.

Lúc bấy giờ em gái tôi cũng mới mang thai nên đã bàn với mẹ xin cho
Trang về ở chung cho đỡ buồn và cùng đỡ đần giúp đỡ nhau trong lúc bầu
bì cho có chị có em. Chính vì lòng tốt của em gái tôi mà cả làng đều
nghĩ đứa con trong bụng Trang là của tôi. Mỗi lần tôi về thăm, Trang
khóc nức nở không phải vì nỗi tủi nhục khi bị mọi người phỉ báng,
nhưng nàng khóc vì đã làm hại danh dự của gia đình tôi. Lại một lần
nữa, mẹ tôi gọi hai đứa lên hỏi han ngọn nguồn, và khi nghe chúng tôi
thề thốt không hề có tà ý với nhau, mẹ tôi đã “ngồi xổm trên dư luận”
để nhận Trang làm con tinh thần trong khi mọi người nghĩ rằng mẹ tôi
làm thế để tránh tiếng vì bà đã biết chắc chắn bào thai trong bụng
Trang là cháu nội của bà. Mẹ tôi âm thầm ngậm đắng nuốt cay để an ủi
vỗ về Trang, mong cứu vớt một linh hồn vì mẹ tôi sợ rằng Trang lại
liều mình tự tử như mấy tháng trước. Ôi! Mẹ đã hy sinh chịu nhục vì
con và vì thương một người côi cút trong cơn hoạn nạn. Con xin cúi đầu
bái phục lòng can đảm của mẹ cho đến trọn đời.

Trước ngày ra đi, tôi đã trở về để từ giã gia đình. Ngay khi biết tin
tôi sắp sửa ra đi, Trang đã khóc nức nở và chuyển bụng sinh con. Vì
bao nhiêu biến cố xẩy ra dồn dập suốt thời kỳ mang thai, Trang đã trải
qua một đêm dài đau đớn, quằn quại đến kiệt sức nên y tá trong làng đề
nghị phải đưa nàng đi cấp cứu ở bệnh viện để mổ. Đáng lẽ sáng hôm sau
tôi phải trở lại Cần Giờ để chuẩn bị ra đi, nhưng tôi đi không đành
nên đã lỡ một “chuyến đò”. Tôi theo mẹ và Trang ra bệnh viện. Trong
lúc làm thủ tục giấy tờ trước khi đưa Trang lên bàn mổ, người ta đòi
phải có thân nhân ký tên trong giấy tờ nên tôi đã đứng ra lo liệu…
Cũng có thể vì lầm lẫn, và cũng có thể do số phận an bài nên các bác
sĩ và y tá đã ghi tên tôi là “chồng” của Trang trong hồ sơ bệnh lý. Đó
là lý do tại sao Tuân trở thành con tôi! Khi nghe tin Trang đi mổ, cha
mẹ anh Thành cũng ghé thăm và xin lỗi mẹ tôi vì những hiểu lầm trước
đây. Mẹ tôi cũng không chấp nhất gì nên mọi người đều vui vẻ.

Sau hai tuần Trang được xuất viện, trở về nhà với mẹ tôi. Mẹ tôi bàn
qua với hai bác việc lên cha xin rửa tội cho cháu, và chính tờ giấy
bệnh viện ghi tên tôi là cha đứa nhỏ đã gây nên sóng gió ồn ào cả xứ
đạo. Cha xứ lắng nghe, nhưng Ban Hành Giáo và bà con trong họ anh
Thành quyết liệt phản đối. Họ đến nhà hạch hỏi mẹ tôi đủ điều. Tuổi
trẻ háo thắng nên tôi đã nổi nóng đuổi hết mọi người và quyết định
chẳng thèm xin rửa tội cho Tuân nữa! Tôi chỉ muốn mọi người để cho
chúng tôi yên nhưng miệng người không phải dễ “khóa”! Tôi ngang tàng
chấp nhận sự dèm pha của mọi người và cứ hiên ngang ngẩng đầu tiếp tục
chạy mánh tìm ghe lo chuyện vượt biên lần nữa. Lần này tôi quyết định
sẽ đưa mẹ con Trang cùng đi.

Tôi có thể “đạp dư luận xuống bùn đen” để sống, nhưng Trang phải âm
thầm than khóc từng đêm, nức nở đè nén “nỗi oan Thị Kính” từng giờ
từng phút nên đã bị băng huyết cho đến chết, và chết trong tủi nhục
vào một đêm tôi vắng nhà! Tôi trở về nhìn xác Trang nằm im bất động mà
thấy lòng muốn nổi loạn. Tôi biết chắc chắn những phút cuối đời Trang
đã phải quằn quại trong đớn đau tủi nhục! Tôi đã thực sự thù ghét mọi
người trong xứ khi biết tin “người ta” không muốn cho tôi chôn Trang ở
nghĩa trang giáo xứ vì bà con trong làng nghĩ rằng Trang đã tự tử! Tôi
không hiểu tại sao cả xứ lại lên án và “trừng phạt” thân xác một người
đã chết trong khi hằng tuần ở nhà thờ vẫn đọc kinh “Thương Người Có 14
Mối, Thương Xác 7 Mối”, trong đó có ghi rõ việc “chôn xác kẻ chết!”
Đâu có ai hiểu được nỗi đau đớn và tủi nhục đã gặm nhấm tim gan Trang
từng giây từng phút vì bị cả làng, cả xứ kết tội oan ức, và nhất là sự
dằn vặt nàng phải gánh chịu vì đã “gieo họa” cho gia đình tôi! Đâu có
ai ở gần kề bên Trang trong những giây phút cuối đời của nàng để “kết
án” nàng đã “liều mình tự tử”!!! Mẹ tôi muốn lên xin cha xứ giúp đỡ
nhưng tôi đã điên lên phản đối. Tôi nhờ bạn bè ở xa về đào huyệt chôn
Trang trong một góc rẫy của gia đình tôi ở mép rừng. Tôi đã bỏ xưng
tội, bỏ lễ cả mấy năm trời vì lòng thù hận vẫn chưa nguôi! Đã nhiều
đêm tôi gục đầu dưới tượng chịu nạn van xin lòng nhân từ hay thương
xót của Chúa thay đổi trái tim “thù hận” của tôi, và tôi cũng xin Ngài
thương tha cho những người đã kết tội “oan” cho chúng tôi! Tôi chỉ
thật sự trở về với Chúa như “một con chiên lạc” mấy tuần trước ngày
vượt biên…

Cháu Tuân tuy mồ côi mẹ nhưng được bú nhờ sữa của em gái tôi cũng mới
sinh được vài tháng nên cháu vẫn lớn lên theo ngày tháng trong tình
thương yêu đùm bọc của gia đình tôi. Tôi vẫn đi đi, về về tìm mối làm
ghe vượt biển. Những hôm ở nhà, thỉnh thoảng tôi bế Tuân ra rẫy, đến
ngồi bên mộ Trang khấn nguyện. Công việc làm ghe càng ngày càng khó
khăn nên mãi 4 năm sau tôi mới thành công. Trước khi lên đường, tôi đã
vô rừng tìm kiếm và đào được một cây bằng lăng nhỏ đem trồng bên mộ
Trang để làm kỷ niệm. Lúc bấy giờ Tuân đã chạy nhanh, nói sõi và lúc
nào cũng quấn quít bên tôi những ngày tôi về quê.

Cuối cùng tôi quyết định sẽ dẫn Tuân cùng đi mặc dầu mẹ tôi can ngăn
nhiều lần. Tôi đã đi và tôi đã đến. Chính nhờ sự liều lĩnh của tôi mà
Tuân có được ngày hôm nay. Tôi hãnh diện vì sự thành đạt của Tuân. Tôi
mang ơn Oanh vì nàng đã tận tình yêu thương săn sóc “cha con” tôi từ
bao nhiêu năm qua. Nếu không có tình yêu và lòng vị tha thông cảm của
Oanh, tôi đã ngã quỵ trong cô đơn nơi xứ lạ quê người, và Tuân lại một
lần nữa thành trẻ “mồ côi”!

Nhìn hình ảnh Tuân hiên ngang bước lên khán đài, tôi cảm động rưng
rưng nước mắt. Tôi không khóc khi Trang chết. Tôi không khóc khi phải
chôn nàng ở mép rừng thay vì chôn ở nghĩa trang của giáo xứ. Tôi không
khóc khi từ giã mẹ già và gia đình ra đi, nhưng giờ này tôi khóc vì
biết chắc chắn Tuân đã trưởng thành, và mấy ngày nữa sẽ về thăm mộ mẹ
đang nằm cô đơn hiu quạnh dưới gốc cây bằng lăng “cha con tôi” đã
trồng trước ngày “biệt xứ”.

o0o

Oanh đứng nép sát vào người tôi, run run cảm động nhìn Tuân đốt
hương cắm lên mộ Trang rồi quỳ xuống gục mặt khóc thật to. Tôi dìu
Oanh đến cạnh gốc cây bằng lăng đã bị đốn từ mấy năm trước, chỉ còn
một số chồi non mới lên được vài mét. Tôi kinh ngạc khi khám phá ra
một cành bằng lăng mới chớm vài nụ hoa mầu tím. Tôi với tay bẻ rồi
cùng Oanh đến quỳ bên cạnh Tuân, nhẹ nhàng đặt cành hoa mầu tím trên
ngôi mộ của Trang. Tuân ngẩng mặt lên nhìn hai chúng tôi khẽ nói: |  |

– Con biết mẹ con đang mỉm cười bên kia thế giới. Con xin thay mặt cha
mẹ quỳ lạy ba má đã nuôi con nên người.

Tuân nhẹ nhàng trao cho tôi tờ giấy thử nghiệm mẫu DNA xác định nó và
tôi không phải “cha con”!

Nguyễn Duy-An

Đứa con vô tội và nỗi đau của người mẹ khi phải nói ra sự thật

Đứa con vô tội và nỗi đau của người mẹ khi phải nói ra sự thật

Vì muốn cứu cô con gái bị bệnh máu trắng, hai vợ chồng đã nói ra một bí mật đau lòng… Đọc xong câu chuyện, bạn có thể tha thứ cho người đàn ông da đen nọ không?

Cuối năm 2002, trên một số trang báo của Ý đã xuất hiện một thông báo tìm người rất đặc biệt:

Ngày 17/5/1992,

Ở bãi đậu xe đường số 5, khu thương nghiệp thành phố Avenue, một người phụ nữ da trắng bị một chàng trai da đen cưỡng hiếp. Không lâu sau, người phụ nữ kia đã sinh ra một bé gái da đen. Cô và chồng đã không chút do dự mà gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng bé gái này.

Tuy nhiên điều không may chính là, hiện tại cô bé bị bệnh máu trắng, cần phải làm phẫu thuật cấy ghép tủy gấp, ba ruột của cô bé chính là niềm hy vọng duy nhất để cứu sống cô, hy vọng người năm xưa sau khi đọc được lời nhắn này, hãy mau chóng liên hệ với bác sĩ Adrew làm việc tại bệnh viện Elizabeth.

Bản tin tìm người này đã dấy lên một làn sóng dư luận trong xã hội

Tiêu điểm thắc mắc của mọi người chính là: “Người da đen này sẽ đứng ra hay không?”.

Hiển nhiên anh ta sẽ phải đối mặt với hai sự lựa chọn, nếu đứng ra, anh ta sẽ đối mặt với việc mất hết danh dự, gia đình tan nát; nếu giữ im lặng, anh ta một lần nữa sẽ phạm phải tội lỗi… không thể tha thứ được.

Đây là một câu chuyện có thật, và câu chuyện này sẽ có kết cục như thế nào? Đối diện với một kẻ cưỡng gian… Bạn có tha thứ cho anh ta không? Xin hãy xem tiếp…

Cô bé bị bệnh máu trắng liên quan đến một bí mật …

Ở một khu dân cư thuộc thành phố Foyer nước Ý, Marda 35 tuổi là người phụ nữ luôn bị mọi người xì xào bàn tán. Bởi cô và chồng cô Peters đều là người da trắng, nhưng trong hai đứa con của họ, lại có một đứa là da đen.

Hiện tượng kì quặc này đã khiến cho những người hàng xóm bên cạnh không khỏi cảm thấy tò mò, Marda luôn cười nói với họ rằng, do bà nội của mình là người da đen, ông nội là người da trắng, nên đứa con gái Monica mới xuất hiện sự lại giống như vậy.

Để tìm tủy xương thích hợp, bí mật này không còn che đậy được nữa…

Mùa thu năm 2002, cô bé da đen Monica liên tục bị sốt cao. Cuối cùng bác sĩ Andrew chuẩn đoán Monica bị bệnh máu trắng, biện pháp chữa trị duy nhất là làm phẫu thuật cấy ghép tủy.

Bác sĩ phân tích: “Hết thảy những người có quan hệ huyết thống với Monica, hãy đến bệnh viện để làm xét nghiệm tủy xương, bởi những người như vậy là dễ dàng tìm được mẫu tủy thích hợp nhất, cả nhà và người thân họ hàng của hai bên, tốt nhất đều nên đến bệnh viện để làm xét nghiệm”.

Nghe thông báo này, mặt Marda bỗng tái nhợt, nhưng vẫn bảo cả nhà đến làm xét nghiệm tủy xương, kết quả không có ai thích hợp cả.

Bác sĩ lại nói với họ, tình huống giống như Monica, tỉ lệ để tìm được tủy thích hợp thật sự là rất nhỏ.

Bây giờ vẫn còn một biện pháp hữu hiệu nhất, chính là Marda và chồng cô sinh thêm một đứa bé nữa, lấy máu trên cuống rốn của đứa bé này truyền cho Monica.

Hai vợ chồng này nghe xong, im lặng một hồi lâu… Cuối cùng họ nói: “Cho chúng tôi thời gian suy nghĩ”.

Thật không ngờ…

Buổi tối Thứ Hai, bác sĩ Andrew đang trực ban, bỗng cửa phòng bị đẩy ra, là vợ chồng Marda.

Marda cắn chặt môi, chồng cô Peter nắm chặt lấy tay cô, vẻ mặt nghiêm túc nói với bác sĩ: “Chúng tôi có một chuyện muốn nói với ông, nhưng ông hãy hứa là sẽ giữ bí mật cho chúng tôi, bởi vì đây chính là bí mật lâu năm của vợ chồng chúng tôi”.

Ông bác sĩ trịnh trọng gật đầu.

Hai vợ chồng nói ra bí mật giấu kín lâu nay…

“Chuyện xảy ra vào tháng 5/1992. Lúc đó, con gái lớn của chúng tôi Jelena đã được 2 tuổi, Marda làm việc trong một quán ăn, đến 10 giờ tối mỗi ngày mới được về nhà.

Buổi tối hôm đó trời mưa rất to, khi Marda tan ca trở về thì trên đường đã gần như không còn ai nữa.

Khi đi ngang qua một bãi đậu xe bị bỏ hoang, Marda nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân, cô sợ hãi quay đầu lại nhìn, thì thấy một chàng trai da đen đang đứng phía sau cô. Anh ta tay cầm một khúc cây, đánh cô ngất đi, và làm nhục cô.

Đợi đến khi Marda tỉnh lại, loạng choạng trở về nhà thì đã hơn một giờ sáng, tôi lúc đó tựa như đã phát điên lên, xông ra ngoài để tìm người da đen kia tính sổ, nhưng từ sớm đã không có một bóng người nào ở đó cả.

Buổi tối hôm đó, hai vợ chồng chúng tôi ôm nhau khóc thảm thiết, cả bầu trời dường như đều đã đổ sập xuống”.

Kể đến đây, mắt của Peter ướt nhòe.

Anh kể tiếp: “Không lâu sau đó, Marda phát hiện mình đã mang thai.

Chúng tôi vô cùng sợ hãi, lo sợ rằng đứa con này chính là của người da đen kia. Marda muốn phá bỏ cái thai này đi, nhưng lòng tôi vẫn ôm một tia hy vọng, biết đâu đứa bé trong bụng này chính là con của chúng tôi thì sao.

Cứ như vậy, chúng tôi đã thấp thỏm chờ đợi mấy tháng.

Tháng 3/1993, Marda hạ sinh một bé gái, là da đen. Chúng tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng, cũng từng nghĩ rằng sẽ đem đứa bé này giao cho viện mồ côi, nhưng mỗi lần nghe thấy tiếng khóc của nó, chúng tôi lại không nhẫn tâm.

Chúng tôi quyết định sẽ đối xử tốt với cô bé này ……….

Nói cho cùng thì Marda cũng đã mang thai nó, nó cũng là một sinh mệnh mà. Tôi và Marda đều là những tín đồ Cơ Đốc thành kính, sau cùng chúng tôi đã quyết định nuôi dưỡng nó, đặt tên cho nó là Monica”.

Khóe mắt của bác sĩ Andrew cũng đã cay cay, ông cuối cùng đã hiểu vì sao đôi vợ chồng này lại sợ sinh thêm một đứa con như vậy.

Ông gật đầu tựa như đang suy nghĩ: “Nếu đã như vậy, dẫu cho ông bà có sinh thêm 10 đứa nữa, cũng rất khó sinh ra được đứa bé có tủy xương thích hợp với Monica!”

Ông nhìn Marda, như thử thăm dò, nói: “Ông bà phải tìm được cha ruột của Monica, nói không chừng tủy xương của anh ta, hoặc tủy xương của con cái anh ta có thể thích hợp với Monica”.

“Nhưng… ông bà có bằng lòng để cho anh ta xuất hiện trong cuộc đời mình lần nữa hay không?”

Marda nói: “Vì con, tôi bằng lòng tha thứ cho anh ta, nếu như anh ta chịu bước ra để cứu đứa bé, tôi thề sẽ không khởi tố anh ta”.

Bác sĩ Andrew không khỏi chấn động sâu sắc bởi tấm lòng lòng thương con của người mẹ này.

Bản tin tìm người đặc thù này đã dấy lên một làn sóng hiến tủy khắp cả nước. Nhưng trong biển người mênh mông, huống hồ chuyện đã nhiều năm như vậy, biết đi đâu để tìm tên cưỡng gian năm xưa?

Marda và Peter suy nghĩ hết lần này đến lần khác, quyết định dùng hình thức giấu tên, để đăng một bản tin tìm người trên báo.

Tháng 11/2002, trên các tạp chí thành phố Foyer đều đăng một bản tin tìm người đặc biệt như miêu tả ở trên, bản tin khẩn cầu kẻ cưỡng gian đó hãy bước ra, vì đó là hy vọng cuối cùng đối với mạng sống của bé gái bị bệnh máu trắng đáng thương kia.

Bản tin vừa được đưa ra đã gây nên tiếng vang mạnh mẽ trong xã hội. Thùng thư và điện thoại của bác sĩ Andrew mỗi ngày đều không thiếu những cuộc gọi khắp nơi trong nước, mọi người tranh nhau dò hỏi người phụ nữ này là ai, họ rất muốn được gặp cô, hy vọng có thể chung tay giúp đỡ cô.

Nhưng Marda đã cự tuyệt sự quan tâm của mọi người, cô không muốn tiết lộ họ tên của mình, càng không muốn để cho người khác biết Monica chính là con gái của kẻ cưỡng hiếp kia.

Nếu như bạn là người da đen kia, bạn sẽ làm thế nào?

Lúc này giới truyền thông đối với kết cục của sự việc này đã tiến hành thảo luận trước. Các trang của tờ La Mã bình luận: “Người đàn ông da đen này sẽ xuất hiện không? Nếu như người đàn ông da đen này dũng cảm bước ra, vậy chúng ta sẽ nhìn nhận và đối đãi anh ta như thế nào? Pháp luật của chúng ta nên trừng phạt anh ta như thế nào?”

Anh ta vì tội ác của ngày hôm qua mà nhận sự trừng phạt, hay là vì sự dũng cảm của ngày hôm này mà nhận được lời tán dương?

Tin tức Foyer tiếp tục được đăng tải:  “Nếu bạn là người đàn ông da đen đó, bạn sẽ làm thế nào?”

Những thảo luận này, đã khởi lên một làn sóng tranh luận khó cả đôi đường đối với quần chúng độc giả rộng lớn.

Tình mẹ thương con này đã cảm động vô số người, cũng đã tình cờ giúp đỡ những bệnh nhân khác

Cai ngục ở vùng đó cũng tích cực giúp đỡ Marda. Họ đã cung cấp danh sách tội phạm từ sau năm 1992 cho bệnh viện, bởi người da đen trong thành phố này rất ít, vậy nên, kể từ 10 năm trước thì tội phạm da đen cũng không nhiều.

Họ nói với Marda rằng: “Mặc dù có một số tội phạm năm đó không phải vì phạm tội cưỡng hiếp và bị tuyên án, nhưng cũng có khả năng từng làm qua những chuyện như vậy”.

Có những người đã ra ngục rồi, có một số người vẫn còn ở trong ngục, Marda và Peter đã kết nối liên lạc với những người này,  không ít tội phạm đã bị tình mẹ thương con của cô làm cho cảm động, bất luận là người da trắng hay da đen, họ đều tự nguyện trình báo để làm xét nghiệm tủy xương, hy vọng có thể hiến tủy cho Monica, nhưng trong số họ cũng không có tủy xương thích hợp.

Rất nhiều tội phạm năm đó đều bày tỏ sự chân thành và quan tâm sâu sắc, họ đều cung cấp manh mối cho vợ chồng Marda.

Nhưng đáng tiếc thay, họ đều không phải là người da đen cưỡng hiếp năm đó.

Câu chuyện này cũng đã làm cảm động rất nhiều người dân, không ít người tự nguyện làm xét nghiệm tủy, để xem tủy xương của bản thân mình có thích hợp hay không.

Người tình nguyện càng lúc càng nhiều lên tạo thành một làn sóng hiến tủy của những người tình nguyện tại thành phố Foyer, làn sóng ấy đã cứu được khá nhiều sinh mệnh của những người bị bệnh máu trắng, nhưng Monica lại không nằm trong số những người may mắn này.

Marda và Peter vẫn hồi hộp lo lắng mà chờ đợi người da đen kia xuất hiện…

Hơn hai tháng trôi qua, người này vẫn không xuất hiện

Hai vợ chồng thấp thỏm không yên, nghĩ rằng, cũng có thể người đàn ông da đen kia đã không còn trên cõi đời này nữa?

Cũng có thể đã rời khỏi quê nhà, từ lâu đã không còn ở Ý nữa rồi?

Cũng có thể anh ta không muốn hủy hoại cuộc sống của chính mình, nên không muốn bước ra?…

Nhưng bất luận như thế nào, chỉ cần Monica còn sống một ngày, họ sẽ không từ bỏ hy vọng tìm kiếm người đàn ông da đen kia.

Người đàn ông bí ẩn…dần hé lộ

Sau khi bản tin tìm người đặc thù này xuất hiện trên trang báo ở thành phố Napoli, trong lòng ông chủ 30 tuổi của một nhà hàng cao cấp bắt đầu dậy sóng.

Anh là người da đen, tên Achlia.

Ngày 17/5/1992, trong cuộc đời anh đã trải qua một đêm mưa tầm tã tựa như ác mộng, anh chính là người được nhắc đến trong câu chuyện trên.

Không ai có thể ngờ được rằng Achlia thắt lưng bạc triệu của ngày hôm này từng là một người rửa chén bị người ta sai tới sai lui. Bởi cha mẹ mất sớm, một người không được ăn học nhiều như anh đã phải lăn lộn kiếm sống từ rất sớm.

Người thông minh chăm chỉ như anh chỉ mong sao dùng sự cần cù lao động của mình có thể đổi lấy tiền bạc và sự tôn trọng của người khác, nhưng trớ trêu thay ông chủ của anh là người phân biệt chủng tộc, dẫu cho anh cố gắng thế nào, vẫn luôn phải chịu đánh đập chửi mắng từ ông ta.

Hôm đó là sinh nhật lần thứ 20 của Achlia

Anh dự định sẽ nghỉ làm sớm để đón mừng sinh nhật của mình, không ngờ trong lúc loay hoay đã vô tình làm rơi một cái đĩa, ông chủ túm chặt lấy cổ anh bắt anh phải nuốt hết những mảnh vỡ đó. Achlia căm phẫn dâng trào đã cho ông ta một đấm, rồi xông ra khỏi quán.

Anh vẫn chưa hết căm hận và quyết tâm báo thù người da trắng, buổi tối trên đường trời mưa tầm tã dường như không có một bóng người đi lại, trên bãi đậu xe anh gặp Marda, xuất phát từ sự báo thù về phân biệt chủng tộc, anh đã vô tình cưỡng gian người phụ nữ vô tội đó.

Sau sự việc, Achlia trong lòng thấp thỏm không yên. Ngay tối hôm đó, anh đã dùng số tiền đón sinh nhật của mình mua vé xe lửa đến thành phố Napoli, rời xa khỏi thành phố này.

Về sau, Achlia kiếm được một công việc thuận lợi ở nhà hàng của một người Mỹ, đôi vợ chồng người Mỹ đó rất quý tính cách thông minh cần cù của anh, còn đem cô con gái Lina gả cho anh, về sau thậm chí còn giao cho anh quản lý toàn bộ công việc kinh doanh của nhà hàng.

Sự day dứt trong tâm lúc nào cũng đè nặng lên tâm hồn anh

Mấy năm trở lại đây, anh không chỉ phát triển nhà hàng thành một nhà hàng cao cấp sang trọng kinh doanh thịnh vượng, mà còn có được ba đứa con đáng yêu.

Trong mắt người nhà và người làm, Achlia thật sự là một ông chủ tốt,  người chồng tốt và người cha tốt.

Vậy mà trong lòng anh vẫn không sao quên được tội ác năm xưa mà mình đã phạm. Anh luôn cầu nguyện với Thượng Đế xin Người hãy phù hộ người phụ nữ đã từng bị anh làm hại kia, hy vọng cô có thể bình an vô sự sống một cuộc sống hạnh phúc, và không bị tổn hại bởi những gì tội lỗi anh đã gây nên. Nhưng anh trước giờ chưa từng đem bí mật trong lòng này nói với bất kỳ người nào cả.

Buổi sáng hôm đó, Achlia đã đọc đi đọc lại bản tin đó đến mấy lần, trực giác mách bảo rằng anh chính là kẻ cưỡng gian được tìm trên tờ báo đó. Anh không bao giờ nghĩ đến rằng, người phụ nữ đáng thương đó cuối cùng đã mang thai và đã nuôi dưỡng đứa con vốn không thuộc về mình.

Cả ngày hôm đó, Achlia mấy lần muốn gọi điện thoại cho bác sĩ Andrew, nhưng mỗi lần điện thoại còn chưa quay xong anh liền vội cúp máy. Trong lòng Achlia đang giãy giụa đau đớn, nếu như đứng ra thừa nhận tất cả, mọi người sẽ biết được quá khứ xấu xa nhất của anh, những đứa con sẽ không còn yêu thương anh nữa, anh sẽ mất đi gia đình hạnh phúc và người vợ xinh đẹp, cũng sẽ mất đi sự tôn trọng của xã hội đối với mình.

Hết thảy những thứ này là kết quả anh đã không ngừng nỗ lực phấn đấu trong suốt mấy năm nay, vất vả lắm mới có được!

Buổi tối hôm đó, khi đang ăn cơm, mọi người trong nhà  đều bàn luận về những tin tức có liên quan đến Marda trên báo chí như những lần trước. Người vợ Lina nói: “Em thật sự rất khâm phục người phụ này, nếu như đổi lại là em, em sẽ không có can đảm để nuôi dưỡng con gái do mình bị cưỡng hiếp rồi sinh ra, em càng khâm phục người chồng của cô ấy, anh ta quả thật là một người đàn ông đáng được tôn trọng, lại có thể chấp nhận một đứa con như thế”.

Achlia im lặng nghe những lời đàm luận của vợ rồi đột nhiên hỏi: “Vậy em nhìn nhận kẻ cưỡng hiếp đó như thế nào?”

Người vợ lòng đầy căm phẫn nói: “Em tuyệt đối không thể tha thứ cho hắn ta được, năm xưa đã làm sai rồi, vào thời khắc then chốt của bây giờ, hắn ta lại rụt cổ trốn tránh. Hắn ta thật đúng là quá đê tiện, quá ích kỷ rồi, thật là quá ghê tởm! Hắn ta đúng thật là con quỷ hèn nhát!”

Achlia ngơ ngác lắng nghe, muốn đem tất cả sự thật nói với vợ. Buổi tối hôm đó, do cậu con trai 5 tuổi không chịu ngủ, Achlia lần đầu tiên đã đánh nó một bạt tai. Đứa con trai vừa khóc vừa nói: “Ba là người ba xấu xa, con sẽ không còn quan tâm đến ba nữa. Ba không phải là ba của con nữa”.

Trong lòng Achlia xung đột mạnh, anh ôm chặt con vào lòng, nói: “Ba thật sự xin lỗi, ba sẽ không bao giờ đánh con nữa đâu. Tất cả là lỗi của ba, con hãy tha thứ cho ba, được không?”. Nói đến đây, nước mắt Achlia không ngừng trào ra.

Đứa con sợ quá, dường như nó cũng hiểu chuyện, vội lấy tay lau nước mắt và an ủi Achlia: “Được rồi, con tha thứ cho ba. Thầy giáo dạy rằng, đứa bé biết sai mà nhận lỗi mới là đứa bé ngoan”.

Achlia cả đêm trằn trọc không sao ngủ được, anh cảm thấy bản thân mình dường như đang bị dày vò dưới địa ngục, những khung cảnh trong đêm mưa gió tội ác đó và hình bóng của người phụ nữ kia không ngừng đan xen xuất hiện trước mắt, và dường như anh còn nghe thấy tiếng khóc và tiếng gọi đau thương của người phụ nữ kia nữa. Anh không ngừng tự hỏi chính mình: “Mình rốt cuộc là người tốt, hay người xấu đây?”

Nghe thấy hơi thở đều đều của người vợ đang nằm bên cạnh, anh liền mất đi dũng khí để nói ra mọi chuyện.

Ngày hôm sau thần sắc anh cực kỳ tiều tụy, trong lòng càng lúc càng nặng trĩu…

Người vợ rất nhanh đã nhận ra sự khác thường nên quan tâm hỏi han chồng.

Buổi sáng khi đi làm, các nhân viên đều chào hỏi anh thân thiết: Chào ngài tổng giám đốc! Anh sắc mặt tiều tụy chào lại họ, trong lòng cảm thấy toàn là xấu hổ và nhục nhã. Achlia cảm thấy bầu trời dường như đã đổ sụp xuống rồi!

Tình thương của người cha bùng lên

Mấy ngày sau, Achlia không cách nào im lặng được nữa, anh liền gọi điện thoại ẩn danh cho bác sĩ Andreew bằng điện thoại công cộng. Anh cố hết sức để giọng nói của mình trông thật bình tĩnh: “Tôi rất muốn biết bệnh tình của cô bé bất hạnh kia”.

Bác sĩ Andrew trả lời rằng, bệnh tình của cô bé đó rất nghiêm trọng, cuối cùng ông còn thương cảm rằng: “Không biết con bé có thể đợi được đến ngày cha ruột của nó xuất hiện hay không”.

Lời nói này đã chạm đến tận đáy lòng Achlia, tình thương của người cha đã bùng lên từ nơi sâu thẳm trong tâm hồn anh, cô bé đó dù sao cũng là cốt nhục của mình!

Anh quyết định bước ra để cứu Monica, anh đã phạm sai lầm một lần rồi, bây giờ không thể phạm sai lầm tiếp nữa.

Buổi tối hôm đó, anh lấy hết can đảm để nói với vợ tất cả. Cuối cùng anh nói: “Anh rất có khả năng chính là cha ruột của đứa bé đó! Anh phải đi cứu con bé!”

Vợ anh bàng hoàng, căm phẫn, thương tâm, trái tim như vỡ vụn ra khi nghe hết tất cả những điều này rồi nói: “Anh là đồ dối trá!”

Buổi tối hôm đó, cô đã dắt theo ba đứa con, lái xe đến nhà ba mẹ. Khi cô đem hết bí mật của Achlia kể lại với ba mẹ, đôi vợ chồng này lúc đầu cũng vô cùng tức giận, nhưng sau khi nghe xong đã rất mau chóng lấy lại bình tĩnh.

Họ nói với con gái rằng: “Chúng ta nên tức giận về hành vi của Achlia trong quá khứ. Nhưng con có từng nghĩ qua hay chưa, anh ấy có thể bước ra, cần có dũng khí lớn đến dường nào, điều này chứng minh rằng lương tâm của anh ta còn chưa mất đi. Con là hy vọng chồng con là một người từng phạm sai lầm, nhưng bây giờ có thể sửa đổi? Hay là muốn một người chồng mãi mãi chỉ biết chôn vùi quá khứ tàn ác?”

Cô đã im lặng không nói gì cả. Ngày hôm sau, trời vừa sáng Lina vội trở về bên cạnh Achlia, nhìn thấy Achlia cặp mắt đỏ hoe, Lina kiên định nói : “Achlia, anh hãy đến chỗ bác sĩ Andrew đi! Em sẽ đi cùng với anh!”

Trong tuyệt vọng luôn xuất hiện ánh sáng hy vọng

Ngày 3/2/2003, vợ chồng Achlia đã liên lạc được với bác sĩ Andrew. Ngày 8/2, vợ chồng Achlia vội đến bệnh viện Elizabeth, bệnh viện đã làm xét nghiệm DNA và kết quả là anh thật sự chính là cha ruột của Monica.

Khi biết được người đàn ông da đen đã làm nhục mình cuối cùng đã dũng cảm bước ra, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng lăn dài trên má Marda.

Cô đã căm hận Achlia trong suốt 10 năm, nhưng thời khắc này đây cô lại vô cùng cảm động.

Tất cả đều được tiến hành cực kỳ bí mật. Để bảo vệ đời tư của vợ chồng Achlia và vợ chồng Marda, bệnh viện đã không nói ra tên thật và thân phận của họ cho báo chí mà chỉ thông báo với kí giả rằng đã tìm được cha ruột của Monica.

Thông tin này đã khiến toàn bộ người dân thành phố quan tâm đến sự kiện này phấn khởi, họ không ngừng gọi điện thoại và viết thư cho bác sĩ Andrew, nhờ ông gửi sự tha thứ và lòng tôn kính của họ đến người da đen này: “Anh ấy từng là tội nhân, nhưng giờ đây anh ấy là một anh hùng!”

Đối mặt, đó mới là sự cứu vãn và chuộc tội thật sự

Ngày 10/2, vợ chồng Marda yêu cầu được gặp mặt Achlia. Lúc đầu, anh không có dũng khí gặp họ, nhưng Marda cầu xin hết lần này đến lần khác nên anh mới dám nhận lời.

Ngày 18/2, dưới sự sắp xếp bí mật của bệnh viện, Marda gặp Achlia trong phòng khách của bệnh viện. Đầu tóc của anh vừa mới cắt, khi nhìn thấy Marda, bước chân nặng nề khó bước, sắc mặt tái nhợt hẳn lên. Marda và chồng bước đến, nắm chặt lấy tay anh, ngay tức khắc 3 người khóc không thành tiếng, nước mắt của ba người hòa lẫn vào nhau.

Rất lâu sau, Achlia nghẹn ngào nói: “Xin lỗi, xin lỗi, xin hãy tha thứ cho tôi! Câu nói này tôi đã chôn sâu trong lòng suốt hơn 10 năm nay rồi, hôm nay cuối cùng đã có cơ hội để nói với chị”.

Marda nói: “Cảm ơn cậu đã có thể bước ra. Cúi xin Thượng Đế phù hộ, tủy xương của cậu đã cứu sống con gái tôi!”

Ngày 19/2, bệnh viện xét nghiêm xương tủy đối với Achlia, may mắn thay nó hoàn toàn thích hợp với Monica!

Bác sĩ xúc động nói: “Đây thật sự là kì tích!”

Ngày 22/2/2003, thời khắc mà mọi người chờ đợi từ lâu cuối cùng đã đến, xương tủy của Achlia được cấy ghép vào trong thân thể của Monica.

Một tuần sau đó, Monica khỏe mạnh xuất viện. Vợ chồng Marda đã hoàn toàn tha thứ cho Achlia, mời anh và bác sĩ Andrew đến nhà họ làm khách. Nhưng ngày hôm đó  Achlia lại không đến, anh nhờ bác sĩ Andrew mang đến một lá thư.

Trong thư anh vô cùng day dứt nói rằng:

“Tôi không thể quấy nhiễu cuộc sống bình yên của anh chị lần nữa. Tôi chỉ hy vọng Monica và anh chị sẽ sống hạnh phúc bên nhau, nếu như anh chị có khó khăn gì, xin hãy nói với tôi, tôi nhất định sẽ giúp đến cùng! Đồng thời, tôi cũng rất cảm kích Monica, từ một ý nghĩa khác mà nói, là con bé đã cho tôi một cơ hội để chuộc tội, là con bé đã cho tôi có được những khoảnh khắc vui vẻ của nửa cuộc đời còn lại. Đây chính là món quá mà con bé đã tặng cho tôi!”

Đây quả thật là một câu chuyện xung đột tâm can, xúc động lòng người…….

Có lẽ bạn cũng đã từng làm sai, đi lầm đường, nhưng chỉ cần có lòng sửa lỗi thì bạn có thể “bình thản mà đối mặt với tương lai”!

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney

(Tinh Hoa)

Chuyện BI KỊCH!

Chuyện BI KỊCH!

Một người phụ nữ 28 tuổi làm việc cho một công ty ở thành phố, chồng cô và đứa con trai 10 tuổi ở quê nhà, cô hàng ngày đều đến công ty làm việc rất chăm chỉ để kiếm tiền gửi về cho gia đình.

Nhưng một ngày nọ bỗng xảy ra biến cố. Giám đốc công ty để mắt đến vẻ đẹp của cô. Ông ta đã nghĩ đủ mọi cách để theo đuổi, cũng nói với cô rằng dẫu cho cô đã kết hôn và có con đi nữa, ông ta cũng vẫn một lòng yêu cô.

Lúc vừa mới bắt đầu, cô đã thẳng thừng cự tuyệt những lời đường mật

Về sau, ông giám đốc đó luôn tặng hoa và thường xuyên dẫn cô đi ăn. Còn hứa rằng ông sẽ ly dị vợ của mình để có thể được chung sống với cô. Cô đã tin nhưng vẫn không từ bỏ được người chồng và đứa con của mình.

Cô thường mang rất nhiều tiền về nhà. Và chồng cô đã bắt đầu nảy sinh nghi ngờ, anh thường hay âm thầm theo dõi cô. Ngày kia, khi anh đến trước cửa phòng công ty thì nhìn thấy vợ mình đang nằm trong vòng tay của người đàn ông khác.

Cô đã xao động, bỏ rơi người chồng và đứa con

Anh vội xông đến muốn hỏi cho rõ ràng mọi chuyện. Cô im lặng, không nói một lời. Ông giám đốc kia nói: “Anh có thể cho cô ấy cái gì, anh chẳng cho được cô ấy cái gì cả nhưng tôi thì lại hoàn toàn có thể. Cái tôi có chính là tiền”.

Khi anh nghe xong, không nói được lời nào, liền lặng lẽ rời đi.

Đứa con trai còn nhỏ, thực sự không hiểu được tại sao mẹ không về nhà nữa

Anh trở về ngôi nhà cũ. Cũng từ ngày hôm đó, cô không có gọi điện về nhà hỏi thăm, và cũng không gửi tiền về nhà.

Có một ngày, đứa con trai 10 tuổi hỏi ba nó: “Sao mẹ không gọi điện thoại về nhà nữa”.

Anh nói với con rằng mẹ sẽ không bao giờ trở về nữa, bây giờ cô đang sống một cuộc sống giàu sang, hạnh phúc với một người đàn ông giàu có khác rồi.

Đứa con nghe xong tưởng rằng anh đang gạt nó bởi vì mẹ rất thương yêu nó, tình cảm hai mẹ con rất tốt kia mà.

Câu chuyện này chẳng mấy chốc đã đồn ầm lên, mọi người trong làng đều biết hết cả. Thằng bé đến trường cũng bị bạn bè trong trường chọc phá.

Nó tức giận không thèm đến trường nữa, mà cầm bức ảnh chụp gia đình và 350 đồng của ba nó đi mất…

Dốc hết tâm tư, quyết đi tìm mẹ

Nó lén lén gọi điện thoại cho mẹ, nói rằng nó muốn viết thư cho mẹ nên muốn xin hỏi địa chỉ.

Nó mới 10 tuổi, căn bản vốn không biết gì cả, chỉ là muốn đích thân đi gặp mẹ để hỏi rằng có phải là mẹ nó không còn cần nó nữa không.

Nó đứng ở bến xe, đưa ra mảnh giấy có ghi địa chỉ của mẹ cho nhân viên bán vé xem, bảo vệ trạm xe đã đưa nó lên xe.

Xe đưa nó lên thành phố nhưng thực là không biết đến đâu để tìm, nó cầm mảnh giấy đến hỏi cảnh sát giao thông.

Cảnh sát giao thông đưa nó lên xe tắc-xi. Chiếc xe đã chở nó đến trước cổng công ty của mẹ nó. Thằng bé ngồi ở bên ngoài đợi mẹ tan ca.

Năm giờ rưỡi chiều, nó đã nhìn thấy mẹ nhưng bên cạnh còn có một người khác nữa, nó liền chạy đến, gọi một tiếng “mẹ ơi!”

Mẹ nó bị sự xuất hiện bất ngờ này làm cho suýt ngất.

Đứa con lòng đã tan nát, thất vọng tràn trề đối với mẹ…

Nó liền hỏi người đàn ông bên cạnh mẹ nó là ai.

Ông giám đốc đó liền nói thẳng rằng ông là chồng của cô.

Lúc đó, thằng bé vừa khóc òa lên vừa nói: “Tôi không có người mẹ như bà!”. Nói xong, liền cắm đầu cắm cổ bỏ chạy.

Nó đau đớn, tuyệt vọng cứ nhắm mắt mà chạy qua một ngã tư đường, bỗng có một chiếc xe đang chạy như bay lao đến tông nó văng xa mấy mét, tài xế sợ quá, vội vã chạy xuống xe xem thử.

Kết quả nhìn thấy là một đứa bé, máu từ trong miệng nôn ra.

Mọi người chung quanh đều chạy đến xem, có người tốt bụng liền gọi 119. Người tài xế cũng đã gọi cho cảnh sát.

Xe cấp cứu đến nơi liền ôm nó lên xe.

Trên xe, nó cố dốc hết sức xin hỏi mượn điện thoại của bác sĩ. Nó gọi vào số của ba nó rồi gắng sức nói với ba rằng:

“Ba, kiếp sau con vẫn sẽ là con trai của ba nhưng con không cần người mẹ đó nữa”.

Cứ như vậy, đứa bé đó đã chết

Khi ba nó chạy đến nơi thì nó đã nằm trong bệnh viện rồi. Ba nó chạy đến trước cửa bệnh viện, vừa trông thấy đứa con của mình, chân anh khụy xuống, mềm nhũn hẳn ra, khó khăn lắm mới bò được đến bên cạnh giường đứa con đang nằm, anh đưa tay vuốt ve đầu của nó.

Lúc đó, tất cả y tá trong bệnh viện đều khóc chảy nước mắt, cảnh sát đứng bên ngoài cửa cũng ngấn lệ.

Khi anh muốn ôm con về nhà. Mẹ thằng bé đã đến nhưng anh không nói câu nào cả, vừa ôm lấy đứa con vừa lẩm bẩm một mình mà đi.

Mẹ nó khóc lóc thảm thiết, nói rằng: “Mẹ sai rồi…….mẹ sai rồi…..”

Ba nó nói: “Cô không sai. Chỉ là tôi vô dụng. Chúc cô hạnh phúc!”

Nói xong liền bỏ đi.

Anh ôm đứa con về ngôi nhà cũ

Mọi người trong làng đều đã nghe nói cả rồi nên đều kéo đến xem.

Khi mọi người trong làng nhìn thấy anh ôm thi thể của đứa con trai, mọi người trong làng đều không cầm nước mắt.

Ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại đều khóc rất thương tâm.

Khi mọi người còn đang chìm trong nỗi đau đớn cùng cực, mẹ của thằng bé đã trở về.

Người trong làng đều dùng ánh mắt khinh thường để nhìn cô

Ông ngoại thằng bé vừa nhìn thấy, liền đi sang đánh cô một bạt tai, nói: “Tao không có đứa con gái như mày”. Còn mắng cô không biết xấu hổ, là đồ hạ tiện, vì tiền mà chồng con cũng không cần.

Cô vẫn nhất quyết muốn nhìn đứa con trai mình lần cuối nhưng không ai cho cô vào xem. Hết thảy mọi người đều ra sức xua đuổi cô. Ngay đến cha mẹ vốn là người thương yêu cô nhất cũng đuổi cô đi.

Khi cô xoay người đi, đứa em trai ruột của cô chạy đến trước mặt cô, nói: “Sao tôi lại có người chị không biết xấu hổ đến như vậy, thật khiến cho cả nhà chúng tôi cảm thấy vô cùng nhục nhã”.  Mỗi một câu tựa như một nhát dao đâm thẳng vào tim, cô vừa khóc vừa đi khỏi đó.

Trở về công ty để tìm người đàn ông đó, nhưng…

Khi cô đến cổng công ty, bảo vệ liền ngăn cô lại, nói cô đã bị đuổi việc rồi, không cần phải đến công ty nữa.

Lúc đó, cô đã hiểu. Gọi điện thoại của người đàn ông đó đều là khóa máy.

Cô đã biết người đàn ông đó chỉ là đùa cợt với cô, cô liền ở trước cổng công ty đợi ông ta đi ra.

Giờ tan ca đã đến, người đàn ông đó đã xuất hiện.

Cô bước đến, hỏi: “Anh không còn yêu em nữa sao?”

Người đàn ông đó trả lời: “Tôi không thể ly hôn với vợ tôi được, đây là 100 vạn, cô đi đi, từ giờ trở đi đừng đến làm phiền tôi nữa”.

Cô đau đớn ngồi bệt xuống đất, ông ta không thèm nhìn cô một cái, liền lái xe bỏ đi.

Cô một mình bước đi trên đường như người mất hồn, nghĩ đến người chồng trước đây luôn đối xử tốt với cô, liền cầm điện thoại gọi điện cho anh, chồng cô vừa nghe, liền hỏi có chuyện gì.

Cô nói ông giám đốc đó chỉ đùa giỡn với cô, dối gạt cô.

Chồng cô nghe xong, không nói gì cả.

Cô biết rằng chồng cô sẽ không tha thứ cho cô. Bảo anh hãy tìm một người phụ nữ khác, mong anh sẽ sống vui vẻ, hạnh phúc, nói xong liền cúp máy.

Nhưng cô lại không hề biết rằng chồng cô đã khóc

Kỳ thực anh vẫn rất là yêu cô.

Cô tự mình đi mua một lọ thuốc bỏ vào trong bình nước uống rồi đi tìm người đàn ông đó nói, “Ông không chịu trách nhiệm thì tôi sẽ tự sát.”

Cô đem đồ uống đựng đầy nồng nặc mùi thuốc độc, bảo vệ nhìn thấy là đồ uống thì không thèm để ý đến.

Cô thật sự đã uống, uống hết tất cả.

Một lát sau, cô từ từ ngã xuống mặt đất, miệng sùi bọt trắng, bảo vệ mới biết là có chuyện. Gọi điện cho 120 nhưng đã muộn mất rồi.

Cảnh sát gọi anh đến nhận thi thể. Anh nhận thi thể về nhà. Anh chôn cô cùng với cậu con trai.

Anh đã mất đi người vợ và đứa con trai mà mình thương yêu nhất

Anh ngồi trước mộ cô và con 5 ngày 5 đêm, mãi đến ngày thứ 6, anh cảm thấy đầu óc choáng váng, rồi ngã lăn xuống đất.

Khi tỉnh lại thì thấy mình đang ở trên giường trong ngôi nhà của mình.

Anh ngồi dậy, một mình chạy ra ngoài. Anh đi tìm ông giám đốc đó để tính sổ, anh thủ sẵn một con dao, đợi ông ta ở bãi đậu xe. Đợi suốt mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng ông ta đã đến lấy xe.

Khi nhìn thấy anh, ông ta vô cùng hoảng sợ, hỏi anh muốn làm gì. Anh cầm con dao ra, chém 3 nhát vào cánh tay của ông ta, nói: “Ba nhát dao này chính là thay cho một nhà ba người chúng tôi”.

Lúc này, cảnh sát đã đến nơi. Thì ra lúc anh đến đây, anh đã gọi điện cho cảnh sát rồi.

Khi cảnh sát chuẩn bị dẫn anh đi, anh tự sát bằng cách cầm con dao đâm liên tiếp 7 nhát vào người mình.

Anh nói với ông ta rằng: “Tôi không có tiền, nhưng tôi rất yêu cô ấy. Tôi sẽ mãi ở bên cạnh cô ấy. Tôi bằng lòng chết vì cô ấy. Ông có thể làm được không?”.

Chuyện này đã xôn xao dư luận. Vợ của ông giám đốc cũng biết chuyện, liền ly hôn với ông ta. Người đàn ông đó cũng đã biết ân hận về những việc làm của mình.

Khi thi thể anh được đưa về quê nhà, người dân trong làng đều đứng đợi trước cổng làng,

Vào thời khắc cảnh sát xuống xe ấy, nhìn thấy mọi người trong làng đều đang chảy nước mắt tiếp nhận thi thể.

Còn cha mẹ anh khóc đến chết đi sống lại.

Ngày hôm sau, thi thể của anh được chôn cất.  Ngày hôm đó dướng như ông trời cũng đang khóc vì anh. Trời đã mưa rất to nhưng mọi người trong làng không thiếu một người, chẳng có ai che dù, tất cả đều dầm mưa để đưa tiễn anh.

Tro cốt của anh do một người cháu ôm. Đoàn người đều đi về hướng nghĩa địa.

Trước huyệt mộ của anh là ba của anh và người ba vợ, còn có ba người anh trai đầu đội mưa, khóc lóc thảm thiết mà đào lên.

Một nhà ba người đều chôn cùng một chỗ.

Mọi người trong làng nhìn ba ngôi mộ này, vừa ngoảnh đầu lại nhìn vừa quay trở về. Tất cả đau thương đều bắt nguồn bởi một chữ “tiền”.

Cuối cùng, xin gửi một vài lời đến mọi người.

Làm người phải sống đúng với lương tri, đạo đức của một con người

Tiền có thể từ từ mà kiếm, có tiền bạn có thể ăn ngon, mặc đẹp, có đời sống sung túc. Không có tiền, thì ăn không  được ngon, mặc cũng không được đẹp nhưng quan trọng nhất vẫn là vui vẻ, hạnh phúc.

Thông qua bài viết này, cũng xin gửi đến những người có tiền nhưng không có đức, đừng có nghĩ rằng bản thân mình có tiền thì có thể tùy ý đùa giỡn với người khác, nếu không thì tình cảnh sẽ càng thê thảm hơn.

Tiền có thể mua được căn nhà nhưng không mua được “ tổ ấm” !

Mong sao câu chuyện này sẽ có ích cho bạn.

Câu chuyện được dịch từ cmoney.tw

(Tinh Hoa)

Giải cứu binh nhì Ryan

Giải cứu binh nhì Ryan

ĐÀO HIẾU

01

Bà Lê Thị Nghê, hiện còn sống

Tất nhiên tôi không có ý định kể lại câu chuyện trong phim Giải Cứu Binh Nhì Ryan của đạo diễn Steven Spielberg, do diễn viên Tom Hanks thủ vai chính.

Và tôi cũng không muốn làm công việc của một người phê bình điện ảnh để phân tích xem phim hay, dở thế nào.

Nhưng từ lâu tôi vẫn ôm ấp ý định viết về bộ phim nổi tiếng này, bởi vì ở Việt Nam, thời chiến tranh chống Mỹ cũng từng có một câu chuyện mang một thứ triết lý nhân bản kiểu như vậy nhưng lại là một thứ nhân bản lộn đầu. Nó bị đẻ ngược, với hai chân ra trước. Nó là một thứ nhân bản màu máu, mang diện mạo của “chiến tranh nhân dân” trong khi thứ nhân bản trong phim Giải Cứu binh Nhì Ryan có màu xanh của biển cả và bầu trời.

Chuyện giải cứu binh nhì Ryan xảy ra vào giữa năm 1944 trong Thế chiến thứ 2 khi quân Mỹ đổ bộ lên vùng Normandy nước Pháp. Một biệt đội gồm 8 người do đại uý Miller chỉ huy được thành lập chỉ để đi giải cứu một anh binh nhì tên là Ryan theo lệnh của Tổng tham mưu trưởng quân đội Hoa kỳ, tướng Marshall.

Ryan là đứa con cuối cùng còn sống sót của một bà mẹ đã có ba đứa con trai chết trận. Vì thế bằng mọi giá phải đem Ryan trở về với người mẹ đau khổ ấy.

Trong cuộc giải thoát này, sáu người trong số tám người của biệt đội do đại uý Miller chỉ huy đã chết, trong đó có Miller. Biệt đội chỉ còn lại 2 người nhưng họ đã đem được người chiến sĩ dũng cảm: binh nhì Ryan về với mẹ.

Câu chuyện ở Việt Nam thì ngược lại. Nó xảy ra trong một hang đá ở xã Quế Tân thuộc tỉnh Quang Nam mùa đông năm 1969.

Trong cái hang đá kinh hoàng ấy cũng có một người mẹ tên Lê Thị Nghê 32 tuổi và một đứa con trai tên Lê Tân, 3 tháng tuổi.

Lính Mỹ càn quét qua làng Quế Tân. Thông thường thì trong những trường hợp như thế người dân thường bồng bế nhau chạy về thành phố lánh nạn. Nhưng hôm đó những người du kích Việt cộng đã buộc dân cùng họ chạy trốn vào hang Hòn Kẽm ẩn núp. Bé Lê Tân (con của bà Lê Thị Nghê) đói sữa khóc liên tục không cách gì dỗ cho nín.

Sợ bị lộ, những người du kích đã gây áp lực để bà Nghê giết chết con mình.

Nếu những người lính Mỹ trong biệt đội của đại uý Miller đã hy sinh để bảo vệ đứa con trai của một bà mẹ đau khổ, thì ở cái hang Hòn Kẽm này, những người du kích đã buộc người mẹ phải giết con mình để cho họ được sống.

Đó là thứ đạo lý gì vậy? Sao nó lại từng được ca ngợi như một “huyền thoại mẹ”, được “cải biên” thành một sự hy sinh thần thánh của người mẹ Việt Nam anh hùng “vì đại nghĩa mà giết chết con mình”?

Báo Tuổi Trẻ Online số ra ngày 09/6/2008 đã viết lại vụ này ở góc độ là: Chính dân làng trốn trong hang đã khuyên bà Nghê hy sinh đứa con để cứu mọi người.

Nhưng đoạn văn sau đây đã để lộ sơ hở:

“Súng vẫn nổ, mọi người ngồi trong hang cứ nghĩ lính biệt kích Mỹ đang đến gần hang rồi. Lúc này mọi người ngậm ngùi đành nghe theo mấy anh du kích, lại động viên cô Năm: “Thôi cô hi sinh đứa con đi…!”.

Bà Năm hôn núm ruột đang khóc: “Mẹ không bao giờ bỏ con, nhưng vì để cứu dân làng, con phải ra đi…”. Sau khi cháu tắt thở, bà cởi chiếc áo trong người đùm con lại. Bà bế thi thể của con, bò lên khỏi miệng hang về hướng tây 100m, mặc cho mưa rơi, mặc cho đạn pháo bắn rền vang, bà dùng hai tay móc đất ướt lạnh để an táng con mình.”

Sơ hở thứ nhất:

-Rõ ràng là bà Nghê không tự nguyện giết con mà là dân làng “đành nghe theo các anh du kích” làm áp lực buộc bà Nghê giết con.

Sơ hở thứ hai: ác

000-mat dat

Bà Nghê hoàn toàn có thể “ra khỏi hang 100 mét để dùng tay móc đất đào huyệt chôn con” điều đó chứng tỏ bà không sợ lính Mỹ giết (vì họ giết bà để làm gì?).

Từ khi bà Nghê bồng xác con ra khỏi hang, đi 100 mét, cho đến khi đào xong một cái huyệt bằng tay không xong, cũng mất ít nhất một tiếng đồng hồ. Điều đó chứng tỏ lính Mỹ còn ở xa. Và rõ ràng rằng lúc ấy, thay vì giết con, bà hoàn toàn có thể bế con đi ẩn náu một chỗ khác để tiếng khóc của cháu bé khỏi gây nguy hiểm cho mấy anh du kích. Hơn nữa, với đứa bé 3 tháng tuổi trên tay, bà hoàn toàn có thể đi về làng, chẳng những không bị ai giết mà có khi mẹ con bà còn được giúp đỡ.

Vậy thì tại sao bà phải giết con?

Đó chỉ có thể là do một quyết định man rợ.

Đó là một quyết định hèn nhát và phi nhân tính.

Và sự kiện ấy đã nói lên một chi tiết rất cay đắng, đó là: những người du kích không dám cho dân làng bỏ đi vì họ cần một đám đông quần chúng để trà trộn vào.

Người mẹ “huyền thoại” ấy đến nay vẫn còn sống: quắt queo, tàn héo và đói rách. Không một ai đoái hoài, không một chút tiền trợ cấp, không một lời xin lỗi.

Bài báo nêu trên cũng đã viết về gia đình người mẹ ấy hiện nay như sau:

“Bây giờ con trai của bà Năm đã ra đi gần 40 năm và 33 năm đất nước thanh bình. Gần 200 người dân thôn Trà Linh ngày ấy bây giờ nhân lên gấp ba, đời sống tuy nghèo nhưng vẫn còn may mắn hơn bà Năm. Con gái còn lại – chị Lê Thị Liên – có chồng, có một con trai, bây giờ cũng nghèo lắm. Hiện nay vợ chồng chị lên tận Nông trường Phước Đức, huyện Phước Sơn (Quảng Nam) nhận chăm sóc khoán 4ha cao su. Vì xa quá anh chị cũng ít khi về thăm mẹ.

Bà Năm giờ ở một mình trong căn nhà tạm của con gái. Hiện nay bà đang bị nhiều bệnh và sống dưới mức nghèo khổ. Ngoài sự giúp đỡ của bà con lối xóm cùng chạy trú trong hang thời đó thì bà không được Nhà nước trợ cấp một chút gì. Có mấy lần chị Liên làm đơn xin trợ cấp cho mẹ, nhưng ngành Lao động – Thương binh và Xã hội các cấp đều trả lời “không biết xếp mẹ con bà vào diện chính sách gì”.

Vì ám ảnh triền miên, nhiều năm qua tâm trí bà tỉnh điên lẫn lộn. Chiếc khăn của đứa con ngày xưa, đến nay bà vẫn còn giữ và coi đó là “báu vật” bất ly thân. Đêm cũng như ngày, khi không tỉnh bà bế chiếc khăn đó hát ru. Rồi có những khi bà đốt nhang, một mình vào rừng, miệng nói lẩm bẩm đi tìm mộ con. Nhưng mộ con của bà đã mất dấu tích sau khi an táng do mưa quá lớn.”

*

Câu chuyện “Giải cứu binh nhì Ryan” và câu chuyện “Đêm kinh hoàng ở Hòn Kẽm” là hai bi kịch chiến tranh rất thảm thương và khốc liệt. Nhưng triết lý nhân bản trong hai câu chuyện đã khác nhau như ánh sáng và bóng tối.

Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào trên mặt đất này, trách nhiệm của người lính là bảo vệ dân chứ không phải là buộc dân giết con để bảo vệ mình.

Và tự cổ chí kim, người lớn luôn đùm bọc, bảo vệ trẻ em chứ không phải trẻ em phải chết để bảo vệ người lớn.

Những người “giải phóng” Việt Nam đã không hề thấy xấu hổ về câu chuyện ở Hòn Kẽm mà còn ca ngợi nó như một thứ “lương tâm của thời đại”.

Đó là thứ lương tâm của loài sinh vật nào vậy?

ĐÀO HIẾU

(Trích trong tập tiểu luận “MẶT ĐẤT VẪN RUNG CHUYỂN”)

ĐẠP XÍCH LÔ

ĐẠP XÍCH LÔ

Tiểu Tử

Trung đã cao lớn lại ham chơi thể thao và tập thể dục đều đặn nên anh ta rất “đô” con. Đi với tụi bạn đồng nghiệp người Pháp hay người da đen, Trung là người Việt Nam mà vóc dạc ngang ngửa với tụi nó. Có đứa nói giỡn: “Thằng này, nó ăn phở không mà nó lớn con như vậy. Nếu nó ăn bánh mì “xúc xích – phô mai” như mình chắc nó thành ông khổng lồ quá!”.

Cách đây mấy năm, Trung về thăm Việt Nam. Đó là lần đầu tiên anh về. Tôi không có dịp gặp anh để hỏi thăm. Mãi đến gần đây tình cờ gặp nhau ở khu 13 Paris, anh mới kể cho tôi nghe chuyến về Việt Nam của anh lần đó. Tôi xin ghi lại chuyện nhỏ sau đây:

… Con qua Pháp với ba mẹ hồi con mới năm tuổi, bây giờ về, thấy cái gì cũng lạ! Cho nên con dành mấy ngày đầu để đi vòng vòng cho biết Sài gòn. Con nhờ anh tiếp viên của khách sạn kêu cho con một anh xích lô bao chạy một ngày.

Vậy là sáng hôm sau, đúng theo lời con dặn, anh tiếp viên gọi con dậy bằng điện thoại cho hay xích lô đang đợi, đồng thời cho biết luôn số tiền thuê bao. Con đếm số tiền rồi để riêng vào một túi quần, con muốn tránh móc bóp đếm tiền trước mặt mọi người sợ bọn lưu manh nó giựt. Con xuống tới quầy thì anh tiếp viên vui vẻ chỉ ra phía trước. Con cám ơn rồi bước ra ngoài.

Thấy con, ông xích lô đang ngồi chồm hổm trên vỉa hè vội vã đứng lên chấp tay chào. Tự nhiên, con khựng lại, mặc dù ông ta đang đón con bằng một nụ cười rạng rỡ.

Bác biết không? Ổng già khú, ốm nhom, nhỏ xíu. Cái nón vải đen ổng đội, đã rách bươm. Còn bộ đồ trên người ổng, con không biết tả làm sao cho bác thấy. Nó là cái áo bà ba xanh dương vá chầm vá đụp và không còn hai ống tay! Còn cái quần ka-ki là loại quần dài đã bị xé mất hai khúc ống cỡ ngang đầu gối, một bên cao một bên thấp.
Đó! Ông xích lô của con đó! Bác coi: con như vầy thì nỡ lòng nào lên ngồi cho ông già ốm nhom đó đạp xe đưa con đi. Mà liệu ổng có đạp nổi một ngày cho con xem chỗ này chỗ nọ không?

Con định hồi không đi nhưng nghĩ lại tội nghiệp ông già. Cái cười tươi rói của ổng cho thấy là ổng đang “ trúng mối lớn ”.
Con bước lại bắt tay ổng, móc túi đưa tiền, nói :
– “Đây, tiền công của bác trọn ngày nay đây!”.
Ổng mừng rỡ, móc trong lưng ra một túi vải miệng có dây rút, run run tay mở ra cho tiền vào.
Con hỏi :
– “Bác không đếm sao?”.
Ổng cười, nhìn con :
– “ Khỏi ! Hổng lẽ cậu như vầy mà đi ăn gian tui sao?”.
Rồi ổng xăng xốm chạy lại kềm phía sau xe, mời:
– “Cậu lên ngồi, đi !”.
Con lắc đầu:
– “Không! Bác lên ngồi đi, để tôi đạp!”.
Nụ cười của ổng tắt mất:
– “Ủa! Gì kỳ vậy?”.
Con giải thích:
– “Tôi như vầy mà để cho bác đạp, coi sao được!”.
Ổng vỗ vỗ lên yên xe:
– “Tôi đạp được! Bảo đảm! Cậu đừng lo! Cậu lên ngồi đi!”.
Con nghĩ chắc ổng sợ con chê ổng rồi không đi, lấy tiền lại, nên con ôn tồn nói:
– “Bác yên tâm. Bác cứ giữ số tiền tôi đưa, rồi lên xe ngồi. Tôi đạp từ từ”.
Ổng bắt đầu nhìn con nửa ngạc nhiên nửa hốt hoảng. Để khỏi cù cưa, con bước lại đưa hai tay cặp eo ếch của ổng nhấc bổng lên đặt vào chỗ ngồi của khách. Ổng nhẹ đến nỗi cái xe không nhúc nhích! Rồi con trèo lên đạp đi. Ông già cứ nhìn ngược về phía sau, lo lắng:
– “Cậu liệu được không cậu?”.
Con vui vẻ trả lời cho ông yên tâm:
– “Được mà … Dễ ợt hà!”.

Con men theo lề đường đạp chầm chậm để tránh luồng xe chạy ồ ạt trên lòng đường. Thiên hạ nhìn con chở ông già, cười nói chỉ trỏ. Ông già ngồi không yên, lâu lâu ngoáy nhìn lại coi con ra sao! Có lẽ vững bụng nên không nghe ổng nói gì hết.

Một lúc sau bỗng ổng la lớn:
– “Quẹo mặt! Quẹo mặt! Khúc này cấm xe xích lô!”.
Từ đó, ổng chỉ cho con chạy:
– “Từ từ … Đằng trước có xe đậu. Khi nào kềm bằng chân không nổi thì kéo thắng ở dưới đít…”
Có lúc thấy con xiên xiên định quẹo vô một con đường nằm ngang, ổng la lên:
– “Đừng! Đừng! Đường cấm xe xích lô!” …
Và như vậy, con đạp đi loanh quanh, nhìn ngang nhìn ngửa, yên chí có ông già coi chừng đường nhắc trước con phải làm gì … làm gì … Gần trưa, con tấp vô một quán phở, nói:
– “Mình vô ăn cái gì đi”.
Ổng nói:
– “Cậu vô ăn đi, tôi không đói”.
Con kéo tay ổng để cùng đi vào tiệm, ổng rị lại:
– “Thôi mà cậu! Tôi lạy cậu mà cậu! Cậu để tôi ngồi ngoài này giữ xe!”. Rồi ổng gỡ tay con ra, bước lại vệ đường ngồi chồm hổm bên cạnh xe xích lô, vấn thuốc hút. Trong quán, con nhìn ông già mờ trong khói thuốc sao bỗng nghe bất nhẫn vô cùng. Không còn lòng dạ đâu để ăn phở, con kêu tách cà phê uống đại rồi đi ra.
Thấy con, ổng quăng điếu thuốc, đứng lên vẻ ngạc nhiên:
– “Ăn gì mau vậy cậu?”.
Con nói trớ:
– “Thấy không ngon nên không ăn”.
Rồi con nói tiếp:
– “Bây giờ, tôi trả xe lại cho bác đó! Bác cứ giữ nguyên số tiền tôi đưa hồi sáng, đừng thắc mắc. Tôi đi bộ chơi lanh quanh được rồi”.

Nói xong con bước đi, lâu lâu ngừng coi cửa hàng này cửa hàng nọ. Thấy ông già cứ đạp xe rề rề đi theo, con bèn gọi một xe Honda ôm đang đợi khách ở ngã tư đường, trèo lên “ôm” đi thẳng!

Kể xong, Trung hỏi:
– “Nhà Nước có lịnh cấm sử dụng xe xích lô xe ba gác, không biết bây giờ ông già đạp xích lô sẽ sống làm sao, hả bác?”.

Tôi nói: “Ờ … ”. Rồi nín luôn. Một cách trả lời để không trả lời !

Tiểu Tử

CHUYỆN RẤT CẢM ĐỘNG

CHUYỆN RẤT CẢM ĐNG

Cậu bé 7 tuổi xin bác sĩ được chết. Lý do sẽ làm bạn phải rơi nước mắt

Một cậu bé 7 tuổi làm các bác sĩ hết sức ngỡ ngàng và xúc động khi khẩn khoản xin được từ bỏ mạng sống của mình cho người khác.

Screenshot 2015-07-18 at 10.09.13 AM

Cậu bé Trần Tiểu Thiên nói cậu muốn được chết để cứu người mẹ đang bị bệnh nặng của mình- mẹ cậu bé cũng đang trong tình trạng thập tử nhất sinh- để mẹ cậu có thể nhận thận của cậu trong một cuộc phẫu thuật có thể cứu được bà.

Bác sĩ phát hiện có một khối u ác tính trong não Tiểu Thiên khi cậu mới có 5 tuổi. Mặc dù các bác sĩ đã làm hết sức để chiến đấu với nó nhưng cuối cùng họ đành phải nói với cậu bé rằng cậu sẽ không sống qua được tuổi trưởng thành.

Không lâu sau khi phát hiện ra khối u trong não Tiểu Thiên thì mẹ cậu là cô Chu Lộ 34 tuổi mắc phải căn bệnh suy thận nặng nguy hiểm đến tính mạng.

Hai mẹ con đã phải chống chọi với bệnh tật suốt 2 năm cho đến khi Tiểu Thiên nói với mẹ ” Con muốn dành lại cuộc sống cho mẹ”.

Screenshot 2015-07-18 at 10.04.47 AM

Theo báo Daily Mail kể lại lời bà của cậu bé: “Các bác sĩ tìm gặp tôi chứ không phải mẹ thằng bé bởi vì đây là vấn đề rất nhạy cảm”.

Screenshot 2015-07-18 at 10.04.40 AM

“Họ nói với tôi rằng cháu tôi không muốn tiếp tục sống nữa nhưng thận của nó có thể giúp mẹ nó và hai người khác nữa. Tôi nói chuyện với Chu Lộ nhưng con bé gạt phăng đi, nó nhất quyết không muốn nghe bất cứ lời nào về chuyện đó nữa”.

Cậu bé Tiểu Thiên đã nghe được câu chuyện giữa 2 người và đã yêu cầu mẹ cậu cho cậu được ra đi ngay lập tức để mẹ có thể nhận được thận từ cậu. Lúc này cậu bé đã bị mất thị lực và đang ở trong tình trạng nguy kịch. Cuối cùng mẹ cậu đã đồng ý trong ngập tràn nước mắt, cô nói niềm an ủi duy nhất mà cô có là một phần cơ thể của cậu bé được sống cùng cô.

Sau đó Tiểu Thiên được chấp thuận để sớm ra đi, các bác sĩ đã hiến lại cơ quan nội tạng của cậu cho mẹ cậu và 2 người khác nữa.

Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè.

Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lão

Cô Nhi Viện và Viện Dưỡng Lão

Từ xưa đến nay, tôi chưa bao giờ có ý tìm lại cha mẹ. Tôi hiểu rằng những đứa con lai, nhất là lai Mỹ đen như tôi, là những đứa con ngoài ý muốn; hầu như ít khi biết thực sự cha của đứa trẻ là ai.

Tôi bị Mẹ của tôi bỏ sau khi sinh ra mới có 48 giờ ở tại nhà thương. Tôi lớn lên trong cô nhi viện và trốn ra khỏi cô nhi viện năm 13 tuổi, ra giang hồ bữa đói bữa lạnh; sau cùng ghép hộ làm con một gia đình có 4 em 2 trai 2 gái để ra đi sang Mỹ theo diện Con Lai.

Tôi đến Mỹ năm 20 tuổi và đi làm ngay góp phần nuôi 4 đứa em đi học. Sau 18 năm các em 2 đứa là bác sĩ, 2 đứa là kỹ sư; Tôi bị ba má nuôi đuổi ra khỏi nhà vì gia đình sợ mang tiếng với suôi gia nhà trai nhà gái của 4 đứa em tôi. Tôi chưa được đến trường ngày nào trên đất Mỹ.

Mới 40 tuổi mà mắt đã mờ! Tôi đến gặp Bác sĩ gia đình, xin giấy giới thiệu gặp Bác sĩ chuyên khoa để có đốt hay mổ gì thì họ đưa đi hay chữa cho khỏi mất công.

20 năm rồi trên đất Mỹ; nhưng tiếng Mỹ của tôi chưa đầy lá mít, nên tôi nhờ cô thư ký ở văn phòng bác sĩ gia đình tìm Clinic nào có người nói được tiếng Việt. May sao có clinic lớn mà chỉ đợi có 2 tuần; nhưng lại phải là giờ cuối cùng sắp đóng cửa!

Tôi đến sớm trước giờ hẹn nửa tiếng, đưa giấy giới thiệu cho một bà Mỹ gìa rồi ngồi ở phòng đợi chờ tới phiên. Tôi nhìn quanh coi có ai là Việt Nam mình không, nhưng chẵng thấy ai. Bệnh nhân lần lần được gọi vào phòng khám rồi ra về gần hết vì sắp đến giờ đóng cửa. Sau cùng thì tôi cũng được gọi tên do một cô gái có nét Việt Nam mà từ nảy giờ tôi chưa hề thấy. Cô ta nói tiếng Anh với tôi từ lúc gọi tên đến lúc bảo ngồi ghế nhìn đọc. Tôi không hiểu rõ hết được nên hỏi cô có nói được tiếng Việt Nam không? Cô ta tỏ ra ngạc nhiên.

– Anh không phải là người Mỹ sao?

– Tôi là người Việt Nam.

– Nhưng Anh đâu có nét nào giống người Việt đâu?

Như biết mình lỡ lời, cô ta nói thêm tiếng “Sorry “.

– Chị không phải Sorry, nhiều người nói như thế mà! Tại tôi giống Mỹ Đen. Chị quê ở đâu ở Việt Nam?

– Ba tôi người Mỹ Tho, Mẹ ở Bình Dương nhưng tôi sinh ra ở Miền Trung, Nha Trang. Anh tôi và tôi đều sinh ở Nha Trang vì cha là Hải Quân phục vụ ở Quân Trường Nha Trang.

– Tôi cũng sinh ở Nha Trang; nhưng rất tiếc là không biết cha mẹ của Tôi là ai?

– Anh sinh năm mấy? Cô ta vừa hỏi nhưng nhớ lại hình như câu hỏi có hơi thừa. Hồ sơ bệnh của tôi đang để trên bàn nên cô ta nhìn và ngạc nhiên nói:

– Ngày tháng năm sinh của anh giống y như của tôi! Có phải anh sinh ở nhà Bảo sinh Quân đội Nha Trang hay không?

– Đúng rồi, sau cô biết vậy?

– Ba má tôi có kể cho tôi nghe và tôi còn nhớ. Tôi sinh ra lúc 12 giờ rrưa thì khoảng 8 giờ tối có một bà nữa sinh một bé trai. Sáng hôm sau, khi cha tôi vào thăm, mẹ tôi nói là bà mẹ sinh tối hôm qua muốn cho con của bà. Ba tôi nói, vậy mình xin, sẵn nuôi luôn có gì mướn thêm người giúp việc có sau đâu. Mẹ tôi nói Mỹ đen đó. Cha tôi nghe vậy, có đến nhìn thằng bé, rồi trở lại bảo nó cũng không đen lắm, trông rất dễ thương. Nhưng mẹ tôi không đồng ý, nói sợ người ta đàm tiếu. Cha tôi bảo: Anh bất cần thiên hạ. Chỉ cần em chịu là anh xin ngay. Nhưng cuối cùng mẹ tôi không chịu và nói mình đã có một trai một gái đủ rồi.

Thấy tôi chú ý nghe câu chuyện, cô ta nói thêm:

– Nếu anh là Mỹ trắng, có lẽ mẹ tôi đồng ý nuôi anh, và anh đã là em của tôi.

Sau phần làm thủ tục, tôi phải vào gặp bác sĩ chuyên khoa, khi xong thì cô ta đã về rồi.

Tôi về nhà mà vẫn bị ám ảnh vì câu chuyện do cô y sĩ nhãn khoa kể lại.

Ba của cô ta là người thế nào? Sau ông ta lại có ý tưởng xin tôi để nuôi? Phải tìm gặp ông ta mới được, tôi tự nhủ.

Ít ngày sau, tôi trở lại tìm gặp cô nha sĩ khám bệnh cho tôi hôm trước và xin được gặp Ba của cô ta. Cô ta bằng lòng ngay, viết cho tôi địa chỉ. Nhìn địa chỉ tôi hơi ngạc nhiên với 3 chữ “Viện Dưỡng lão”. Cô ta như đoán biết nên nói:

– Ba của tôi mới được đưa vào Viện Dưỡng Lão hôm tháng rồi.

Ngay Chủ nhật tuần đó, tôi vào Viện Dưỡng Lão xin gặp cái ông đã từng muốn nhận tôi làm con. Nếu tôi là con của ông ta, chắc tôi cũng sẽ như ba đứa con của ông đều tốt nghiệp Đại học cả, vì dù sao những kẻ có lòng tốt không để Tôi thất học.

Tôi chọn cái ghế nhìn được suốt dãy hành lang từ phòng khách đến phòng ăn để dễ nhìn người qua lại bên trong. Một Ông chừng 65 là cùng mặc dù người tôi muốn gặp nay đã 71. Ông ta đi còn nhanh nhẹn lưng không khòm tay chân nhịp đi đúng là người lính nhiều năm trong quân ngũ năm xưa; chẳng có vẻ gì là một cụ già đến độ phải vào Viện Dưỡng lão để chờ chết!

Hình như được con gái báo trước nên ông ta đi thẳng đến đưa tay bắt tay tôi và từ giới thiệu:

– Chú tên là Hùng, cứ gọi tên và gọi Chú cho bớt già hơn là gọiCụ hay Bác.

Ông ta còn lanh lẹ, tiếng nói còn uy nghi rành rọt không có chút gì run rẩy hay khàn giọng của người già.

Ông ta hỏitTôi dành bao nhiêu thì giờ để gặp ông ta. Tôi nói cả ngày hôm nay cũng được. Ông ta hỏi tôi có uống cà phê và hút thuốc được không. Tôi nói được cả hai.

Ông ta đến nói với người quản lý xin được tiếp tôi ở phòng riêng để mời người bạn trẽ ly cà phe; rồi ông bảo tôi đi theo ông ta.

Theo ông ta về phòng riêng, tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác.

Căn phòng có mùi dầu thơm chứ không khai và hôi như thiên hạ thường nói về nơi người già sống. Cái bàn Computer có cả máy in TV DVD player và Multimedia player với mấy chồng CD và DVD ca nhạc. Ông ta bắt đầu nấu nước pha cà phê phin; vừa làm vừa giải thích đây là cà phê Ý pha với cà phê Ban Mê Thuộc cho có đủ vị đắng và thơm.

Xong hai ly cà phê, ông bảo tôi “Đi, mình ra vườn. Ra bằng cửa này.” Cửa hông từ trong phòng riêng của ông mở thẳng ra vườn. Ông nói, áp phe lắm mới được phòng nầy ăn thông ra vườn để trốn ra ngồi hút thuốc.

Khu vườn thoáng mát, vắng vẻ. Ông lấy ra bao thuốc Vogue mời tôi một điếu. Đây là loại thuốc điếu nhỏ chỉ bằng phân nửa điếu thuốc thường nhưng dài hơn và nặng hơn. Ông đốt thuốc cho Ông và đưa quẹt gaz cho tôi để tự tôi đốt lấy. Hớp xong hớp cà phê ông hỏi:

– Vừa không Cháu?

– Dạ ngon và thơm lắm, Chú.

– Nào giờ thì cháu muốn biết gì cứ hỏi. Chú nhớ được gì sẽ nói nấy.

– Cháu không có mục đích tìm cha hay mẹ, vì có muốn chắc cũng không bao giờ tìm được mà tìm để làm gì! Chú biết được nhớ được gì cháu cũng muốn biết hết.

– Con trai lớn của chú và con gái đều sinh ở bảo sinh viện Quân đội thành phố Nha Trang. Con gái của chú sinh lúc 12 giờ trưa. Chú bận nên 2 giờ chiều mới vào thăm sau đó đi làm và chiều vào thăm vợ von đến gần 7 giờ thì về. Sáng hôm sau chú vào thăm vợ con sớm trước khi đi làm thì phòng bên có thêm một sản phụ mới. Vợ chú nói bà ta mới sinh lúc 9 tối, nhưng không muốn nuôi nên cho con.

Chú bước sang đứng cửa phòng bên nhìn vào hơi tối nhưng cũng thấy mặt được cháu bình thường như bao trẻ khác nhưng đẹp hơn con gái chú nhiều; vì khi mới sinh con bé của chú trán nhăn ba lằn, giống y như chú, mũi gãy trán cao gần như giồ. Chú trở lại nói với vợ là mình có thể xin đứa bé. Nếu nuôi luôn 2 đứa chú sẽ mướn thêm người giúp việc. Nhưng vợ chú nói “con Mỹ đen đó. Anh không sợ nhưng Em sợ miệng đời. Chú nói, không lẽ sinh đôi mà một đưa con Việt nam còn đứa kia là con Mỹ hay sau mà sợ. Vọ chú nói thôi, nếu trắng nếu trắng em mới nuôi. Chú Sorry với cháu. Tại chú cháu mình không có cái duyên làm cha con với nhau!

Thấy tôi chăm chú nghe nhưng không nói gì, ông kể tiếp:

– Chiều hôm đó Chú vào thăm thì thấy Má của cháu đi lại nhanh nhẹn chứ không nằm liệt như vợ của chú. Mẹ của cháu là người cao lớn, đẹp, coi mạnh khỏe và lanh lợi hơn vợ của chú. Nghe nói mẹ cháu ở đâu ngoài Chu Lai hay Qui Nhơn gì đó vào Nha Trang sinh; Chồng bà ta là Trung Úy Biệt Kích đi hành quân vùng Một ít khi về thăm. Có lẽ Má của cháu làm sở Mỹ có quan hệ trong sở, nên khi có bầu không biết là con của chồng mình hay với ai nên cứ sinh rồi mới tính. Nếu là con Việt thì đem về nuôi mà là con lai thì cho luôn. Sáng hôm sau, khi chú vào thăm thì vợ chú cho biết người đàn bà đó đã bỏ con và rời nhà thương lúc nửa đêm; nên nhà thương giao cháu cho Ban Xã hội của Quân Đội lo. Hầu hết là đem vào Viện Mồ Côi. Chú chỉ biết bao nhiêu đó. Cháu còn muốn biết đìều gì thì cho biết, nếu chú có thể giải thích thì chú sẽ nói cho Cháu biết.

Tôi nói với ông:

– Chú đã nói ra tất cả những gì cháu thắc mắc. Bấy lâu cháu thắc mắc “Tại sau không muốn sinh con mà không phá thai; sinh ra để bỏ thì sinh làm gi?” nay chú nói cùng môt lúc sống với chồng mà còn phải sống với Mỹ thì làm sao biết con của ai nên cứ phải sinh ra rồi mới tính thì có lẽ là cách giải thích hợp nhứt cho trường hợp của cháu. Cháu hận mẹ hận cha mặc dù cháu không biết họ là ai; Từ thời thập niên 60 đến 1975 không biết đã có bao nhiêu trẻ mồ côi như cháu. Cháu hận bà mẹ, hận đàn bà nên đến nay mà cháu vẫn chưa lập gia đình!

Ông ta mồi thêm điếu thuốc và để gói thuốc cạnh tôi ra dấu mời. Tôi xoa tay từ chối trong im lặng. Ông ta đột nhiên cười khá lớn rồi ngó vào mắt tôi hỏi:

– Cháu có biết Viện Dưỡng Lão để làm gì không?

– Thì để cho người già sống.

– Ừ! Cả miền Nam Việt Nam trước 75 chú chỉ biết có một Viện Dưỡng lão ở Thị Nghè gần Xa Lộ Biên Hoà; nhưng cũng chỉ có mấy chục người, gồm những người không nhà, không con cháu không thân nhân mà người ta gọi là tứ cố vô thân. Tại Việt Nam trước đây, hầu hết người già sống nhờ vào con cháu nuôi vì bởi cha mẹ còn trẻ làm nuôi con cháu đến khi gìa thì nuôi lại coi như trã hiếu hay trả công. Xứ tư bản này, mỗi tiểu bang có mấy chục Viện Dưỡng lão. Gìa thì dù có con hay không con, có nhà hay không nhà giàu sang cũng như nghèo cũng đều phải vào Viện Dưỡng lão, bởi lý do con cháu ai cũng bận đi làm, không chăm sóc được.

Ông thở khói rồi tiêp:

– Chú có ba người con, ba cháu nội thì còn quá nhỏ không tính; nhưng cả đời, chưa bao giờ chú để các con của Chú đói lạnh. Sau 75 khổ sở thế nào Con của Chú vẫn không bị ăn độn. Sau đó chú đi vượt biên để được sống tự do và Vợ Con của Chú sang đây bằng máy bay do Chú bảo lãnh.

Ngày xưa chú còn trẻ sinh con bận bịu tại sau chú không gởi vào Viện Mồ Côi để được rảnh đi làm và hữơng thụ cái tuổi hoa mộng của Chú. Bận rộn đi làm lắm khi đói khổ vẫn không bỏ các Con ; nhưng Cháu có biết tại sau Chú còn mạnh khỏe đáng lý chưa đến độ vào đây; thế mà chú lại ở đây! Chú cũng còn là con người biết đủ hỷ nộ aí ố lạc, 71 tuổi là già nhưng Chú chưa mất trí còn tự mình chăm sóc được nhưng Chú bị tai biến mạch máu; Tim ngừng đập nên xe cứu thương đưa vào bệnh viện. Từ bệnh viện có thể đưa trực tiếp người già vào viện dưỡng lão ít có xét hồ sơ hay phỏng vấn phiền toái coi thực sự gìa lú lẫn hay chưa như trường hợp ở nhà muốn gởi vào Viện Dưỡng lão.

Người già nào hay nói ra người trẻ cũng lắm khi quên tắt lửa lò bếp hay quên chìa khóa hay quên bóp; nhưng gìa mà bị tố là có lắm cái quên như thế thì bị kết tội là “lú lẫn.” Chú bị đưa thẳng vào Viện Dưỡng lão trong trường hợp nầy cho dễ hơn nếu sau nầy chú về nhà thì khó có được sự dễ dàng để vào đây nên các con của chú tố chú lú lẫn để bỏ luôn chú vào đây một cách dễ dàng sớm hơn dự định của Chú.

Có con nhưng chúng bận rộn đi làm chúng có đời sống riêng nên không chăm sóc cho cha mẹ già được. Cháu thấy lý do nầy hợp lý chứ?

Nghe ông hỏi, tôi không biết trả lời ra sao. Ông tiếp tục châm thuốc, tiếp tục nói, vẫn với giọng tỉnh queo:

– Tuổi trẻ chú bận vừa đời lính lại khi VC chiếm Miền Nam thì cơ cực lầm than dễ gì đủ ăn no lòng; sao chú khờ dại không bỏ con mà chạy lấy thân để vui cuộc đời Việt Kiều đôc thân. Tại sao phải thí mạng vượt biên rồi còn bảo lãnh con, nuôi con cho nên người để rồi các con cũng có thời tuổi trẻ bận như mình. Chúng bỏ mình nhưng ngày xưa mình lại không biết bỏ chúng. Cháu biết tại sao không? Là tại mình ngu.

Ông ta cười lớn nhưng sao cái cười quá chua chát:

– Cháu về bỏ hết, quên hết đi cái đời mồ côi của cháu đi mà vui sống. Vì cháu nên người ta mới lập “Viện Mồ Côi.” Và cũng vì có chú nên người ta mới lập “Viện Dưỡng lão.”

Lời an ủi của người từng có ý định làm cha nuôi của tôi làm tôi thấy mềm lòng. Nhìn ông, người cha bị con cái thành đạt bỏ vô viện dưỡng lão, tôi thật cũng muốn nói điều gì đó an ủi ông, nhưng không biết phải nói ra sao.

Trần Thiện Phi Hùng

Một sợi dây thừng thả xuống giếng thấu tỏ nhân tính 3 con người

Một sợi dây thừng thả xuống giếng thấu tỏ nhân tính 3 con người

Ba người bạn thân rơi xuống giếng, sợi dây thừng được thả xuống nhưng chỉ có thể cứu sống một người, câu chuyện này khiến bạn nhìn thấu nhân tính, quả thật là hoạn nạn mới hiểu lòng nhau.


Ba người bạn thân rơi xuống giếng, trong lúc thập tử nhất sinh………..

May thay lúc này có một sợi dây thừng ném xuống, họ cùng lúc nắm chặt sợi dây thừng mà từ từ leo lên.

Leo đến một nửa vách giếng, bên trên có người nói:

Sợi dây này chỉ có thể chịu được trọng lượng của 2 người mà thôi, nếu không dây sẽ bị đứt ngay”.

Ba người ngơ ngác nhìn nhau. Một lát sau, một người trong đó buông tay ra, anh rơi xuống để hy vọng sống sót cho 2 người bạn kia.

Hai người bạn còn lại vừa khóc vừa tiếp tục leo lên trên.

Khi leo đến cự ly chỉ còn một phần ba miệng giếng, bên trên lại có người nói: “Sợi dây thừng bây giờ chỉ có thể chịu được trọng lượng của 1 người thôi, nếu không dây sẽ bị đứt ngay”.

Hai người nắm chặt sợ dây, sững sờ nhìn nhau, cách sự sống chỉ còn có mấy bước, ai cũng không muốn buông tay.

Qua một lúc khá lâu, một người trong đó quả quyết duỗi chân ra, đạp người kia rơi xuống…..

Một câu chuyện tuy là đơn giản, nhưng những người khác nhau sẽ có cảm ngộ nhân sinh khác nhau.

Nhà triết học nói:

Người thứ nhất tuy đã chết rồi nhưng anh sống mãi.

Người thứ ba tuy vẫn còn sống nhưng chẳng khác gì đã chết rồi.

Người tu Đạo nói:

Buông tay tức là có được.

Người thứ nhất buông bỏ sợi dây (sinh tử), sinh mệnh được thăng hoa.

Người thứ ba nắm chặt sợi dây nhưng cuối cùng linh hồn lại bị đọa lạc.

Dân gian lại phán rằng:

Người thứ nhất sẽ được lên thiên đàng.

Người thứ hai thì vào trong nấm mồ.

Người thứ ba thì bị đánh xuống địa ngục.

Đọc xong, phải chăng bạn đang suy nghĩ, nếu đổi lại là bản thân cũng rơi vào trường hợp đó, thì bạn sẽ lựa chọn thế nào? Cũng khó thay…….

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw

Hai “ăn mày” đi dự đám cưới, câu chuyện xúc động lòng người

Hai “ăn mày” đi dự đám cưới, câu chuyện xúc động lòng người

Vào ngày kết hôn, mẹ hỏi tôi: “Hai người trông giống ăn mày ngồi ở nơi vắng vẻ kia là ai vậy?

………Sau khi đọc xong tôi đã khóc..

Gia đình, con cái, cha mẹ già, Bài chọn lọc,

Xin hãy kiên nhẫn đọc tiếp………..

Khi tôi nhìn sang, chợt thấy một ông lão đang nhìn chằm chằm về phía mình, bên cạnh còn có một bà lão. Thấy tôi nhìn sang, họ liền vội vã cúi gầm mặt xuống. Tôi không quen biết gì với cả hai người, nhưng nhìn họ cũng không giống những người ăn xin, quần áo họ mặc trông còn mới. Điều khiến mẹ nói họ giống ăn mày là vì cái lưng còng, bên cạnh còn có cây gậy.

Mẹ bảo Thiên Trì vốn là cô nhi, bên đó vốn không có người thân đến, nếu như không phải chỗ quen biết gì thì hãy đuổi họ đi.

“Thời buổi này, những người ăn xin rất là xấu nết, cứ thích đợi ở trước cửa nhà hàng, thấy nhà nào có đám tiệc liền giả làm người thân đến ăn chực”.

Tôi nói: “Chắc không vậy đâu mẹ, để con gọi Thiên Trì đến để hỏi thử xem sao?”

Thiên Trì giật mình hoảng loạn khiến cho những bó hoa tôi đang cầm trên tay rơi “bịch” xuống đất, cuối cùng anh ấp a ấp úng nói họ chính là ông chú và  bà thím của mình.

Tôi khẽ liếc mẹ một cái, ý nói rằng suýt chút nữa đã đuổi người thân đi rồi.

Mẹ nói: “Thiên Trì, con không phải là cô nhi sao? Vậy thì người thân ở đâu ra vậy?”

Thiên trì sợ mẹ, cúi gầm mặt xuống nói đó là họ hàng xa của anh, rất lâu đã không qua lại rồi, nhưng kết hôn là  chuyện lớn, trong nhà ngay cả một người thân cũng không đến, trong lòng cảm thấy rất đáng tiếc, vậy nên…..

Tôi dựa vào vai Thiên Trì, trách anh có người  thân đến mà không nói sớm, chúng ta nên đặt cho họ một bàn, nếu đã là họ hàng thân thích thì không thể ngồi ở bàn dự bị được.

Thiên Trì ngăn lại, nói là cứ để họ ngồi ở đó đi, ngồi ở bàn khác họ ăn uống cũng không thấy thoải mái.

Mãi đến lúc mở tiệc, ông chú và bà thím cũng vẫn ngồi ở bàn đó.

Lúc mời rượu đi ngang qua bàn hai người ngồi, Thiên Trì do dự một hồi rồi vội kéo tôi đi ngang qua. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại, thấy họ cúi mặt xuống đất, nghĩ ngợi một hồi, tôi kéo Thiên Trì trở lại: “Ông chú, bà thím, chúng con xin kính rượu hai người!”.

Hai người ngẩng đầu lên, có phần ngạc nhiên nhìn chúng tôi.

Đầu tóc hai cụ đều đã bạc trắng hết cả, xem ra già nhất cũng đã bảy tám chục tuổi rồi, đôi mắt của thím rất sâu, mặt tuy đối diện với tôi nhưng ánh mắt cứ lờ đờ, chớp giật liên hồi.

Tôi lấy tay quơ qua quơ lại vô định trước mặt bà thím, không thấy có phản ứng gì, thì ra bà thím là một người mù.

“Ông………ông chú…. bà thím….., đây là vợ con Tiểu Khiết, bây giờ chúng con xin được kính rượu hai người!”, Thiên Trì đang dùng giọng quê để nói chuyện với họ.

“Ờ…..ờ……”, ông chú nghiêng nghiêng ngả ngả đứng dậy, tay trái vịn vào vai của thím, còn tay phải run run nhấc ly rượu lên, lòng bàn tay đều là những vết chai màu vàng, giữa những khe móng tay dày cộm còn dính lại bùn đất màu đen.

Những tháng ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời khiến cho họ bị còng lưng quá sớm. Tôi kinh ngạc phát hiện rằng, chân phải của ông chú là một khoảng trống không.

Bà thím thì bị mù, ông chú thì bị què, sao lại trên đời lại có một đôi vợ chồng như thế?

“Đừng có đứng nữa, hai người hãy ngồi xuống đi”.

Tôi đi sang dùng tay dìu họ. Ông chú loạng choạng ngồi xuống, lúc ấy không hiểu tại sao bà thím lại nước mắt đầm đìa, chảy mãi không thôi, còn ông chú thì chẳng nói chẳng rằng lấy tay vỗ nhẹ vào lưng bà. Tôi thật muốn khuyên họ vài câu, nhưng Thiên Trì đã kéo tôi rời khỏi .

Tôi nói với Thiên Trì rằng: “Đợi đến khi họ về nhà hãy cho họ chút tiền đi, tội nghiệp quá. Hai người đều bị tàn tật cả, những tháng ngày sau này không biết ông bà phải sống thế nào đây”.

Thiên Trì gật gật đầu không có nói gì cả, chỉ ôm chặt lấy tôi.

Đêm trừ tịch đầu tiên sau ngày cưới

Thiên Trì bảo rằng dạ dày bị đau nên không ăn cơm tối được, cứ thế đi về phòng ngủ. Tôi bảo mẹ hãy nấu chút cháo, rồi cũng theo vào phòng. Thiên Trì nằm trên giường, trong mắt vẫn còn đọng nước mắt.

Tôi bảo: “Thiên Trì không nên như vậy, đêm trừ tịch đầu năm mà không ăn cơm tối với cả nhà, lại còn chạy về phòng như thế nữa. Cứ như là cả nhà em bạc đãi anh vậy, cứ mỗi lần đến ngày lễ Tết đều bị đau dạ dày, sao lại có chuyện như vậy được? Thật ra em biết anh không phải là bị đau dạ dày, nói đi, rốt cuộc là có chuyện gì vậy?”

Thiên Trì rầu rĩ một hồi lâu, rồi nói: “Xin lỗi, chỉ là anh nhớ đến ông chú và bà thím, còn có ba mẹ đã mất của anh nữa. Anh sợ trong lúc ăn cơm không nhịn được, sẽ khiến cho ba mẹ không vui nên mới nói là bị đau dạ dày”.

Tôi ôm chầm lấy anh, nói: “Ngốc quá, nhớ họ thì khi đón Tết xong chúng ta sẽ cùng đi thăm họ là được rồi, hơn nữa em cũng rất muốn biết là hai người họ sống thế nào”.

Thiên Trì nói: “Thôi, đường núi đó rất khó đi. Em sẽ mệt, hãy đợi khi nào đường xá thông suốt, chúng ta khi đó chắc cũng đã có con cái rồi, lúc đó sẽ dẫn em đến đó thăm họ vậy”.

Trong lòng tôi rất muốn nói: “Đợi đến khi chúng ta có con rồi, chắc họ đã không còn nữa!”, nhưng không dám nói ra, chỉ nói hãy gửi chút tiền và đồ dùng cho họ vậy!

Giữa kì trung thu năm thứ hai

Tôi vừa khéo đang công tác ở bên ngoài, Tết Trung Thu ngày đó lại không về nhà được.

Tôi rất nhớ Thiên Trì và ba mẹ, nên liền gọi điện cho Thiên Trì nấu cháo điện thoại rất lâu.

Tôi hỏi Thiên Trì rằng những lúc nhớ tôi ngủ không được thì làm thế nào đây?

Thiên Trì bảo là lên mạng hoặc là xem ti vi, nếu như vẫn không được thì nằm ở đó, mở to mắt mà nhớ tôi vậy.

Buổi tối hôm đó, chúng tôi nói chuyện mãi đến khi điện thoại hết pin mới thôi.

Vốn dĩ muốn chọc ghẹo chồng một chút, thật không ngờ……

Nằm trên giường ngủ trong khách sạn, nhìn ánh trăng tròn bên ngoài cửa sổ, tôi làm thế nào cũng không ngủ được. Mở to đôi mắt mà nước mắt cứ chảy mãi không ngừng, tôi thất sự rất nhớ Thiên Trì, nhớ ba và mẹ.

Nghĩ rằng Thiên Trì chắc cũng không ngủ được, nói không chừng vẫn còn đang ở trên mạng.

Tôi liền bật dậy mở vi tính, tạo một cái nick mới tên là “lắng nghe lòng bạn”, để chọc ghẹo Thiên Trì một chút. Dò tìm một chút, quả nhiên Thiên Trì vẫn còn ở đó, tôi chủ động nhập nick của anh, anh chấp nhận.

Tôi hỏi anh: “Ngày Tết trung thu muôn nhà đoàn viên như thế này, sao anh vẫn còn dạo chơi trên mạng vậy?”

Anh trả lời: “Vì vợ tôi đang đi công tác bên ngoài, tôi nhớ cô ấy đến không ngủ được, vậy nên lên mạng xem thế nào”.

Tôi rất vừa ý với câu nói này.

Tôi lại gõ tiếp: “Vợ không có nhà, có thể tìm một người tình khác để thay thế mà, giống như nói chuyện trên mạng vậy nè, tâm sự để tự an ủi mình một chút”.

Một lúc lâu, anh ấy mới trả lời lại: “Nếu như cô muốn tìm người tình, vậy thì xin lỗi vậy, tôi không phải là người cô cần tìm, tạm biệt”.

“Xin lỗi, tôi không phải là có ý đó, anh đừng giận nha”, Pa….pa…pa…Tôi vội vàng gửi tin nhắn cho anh.

Một lát sau, anh ấy hỏi tôi: “Sao bạn lại dạo chơi trên mạng vậy?”

Tôi nói: “Tôi làm việc bên ngoài, bây giờ cảm thấy rất nhớ ba và mẹ. Lúc nãy cũng vừa mới nói chuyện với bạn trai xong, nhưng vẫn không ngủ được, liền lên mạng để giải trí một chút”.

“Tôi cũng rất nhớ ba và mẹ tôi, chỉ có điều là người thân đang ở bên ngoài, con muốn phụng dưỡng mà không được”.

“Người thân ở bên ngoài, con muốn phụng dưỡng mà không được. Nói vậy là sao?”.

Tôi lặp lại câu này rồi gửi cho anh.

Tôi có chút khó hiểu, Thiên Trì sao lại nói những lời như thế?

“Bạn tên là ‘lắng nghe lòng bạn’, hôm nay tôi sẽ kể cho bạn nghe vậy. Có một vài chuyện mà để trong lòng quá lâu thế nào cũng sẽ sinh bệnh, đem nói ra chắc sẽ dễ chịu hơn một chút, dù sao đi nữa tôi và bạn cũng không biết gì nhau, bạn cứ xem như là nghe một câu chuyện vậy”.

Thế là, tôi tình cờ biết được câu chuyện mà Thiên Trì đã cất giấu trong lòng bấy lâu nay

30 năm trước, cha tôi lúc ấy đã gần 50 tuổi rồi mà vẫn chưa lấy được vợ, vì ông bị què cộng thêm gia cảnh nghèo khó nên không có cô gái nào muốn gả về gia đình ông. Về sau, trong làng có một ông lão ăn xin dẫn theo cô con gái bị mù. Ông già đó bị bệnh rất nặng, ba tôi thấy họ đáng thương liền bảo họ vào nhà nghỉ ngơi. Thật không ngờ vừa nằm xuống thì không dậy được nữa, sau này con gái của ông già đó, cũng chính là cô gái mù kia đã được gả cho ba tôi.

Hai năm sau thì sinh ra tôi.

Nhà chúng tôi sống rất kham khổ, nhưng trước sau tôi vẫn không hề đói bữa nào

Gia đình, con cái, cha mẹ già, Bài chọn lọc,

Ba mẹ không thể trồng trọt được, không có thu nhập, đành phải tách hạt bắp cho người ta, một ngày lột đến cả mười ngón tay đều sưng rộp lên chảy cả máu, ngày hôm sau liền quấn tấm vải rồi tách tiếp.

Vì để cho tôi được đi học, trong nhà ba mẹ nuôi ba con gà mái, hai con đẻ trứng bán lấy tiền, con còn lại đẻ trứng cho tôi ăn. Mẹ bảo rằng những lúc bà đi xin ăn ở trong thành phố, nghe nói những đứa trẻ trong thành đi học đều  được ăn trứng gà, con nhà chúng ta cũng được ăn, sau này nhất định sẽ thông minh hơn cả những đứa trẻ khác trong thành.

Vậy mà trước sau họ đều không ăn, có lần tôi nhìn thấy mẹ sau khi đánh quả trứng vào nồi, bà đã dùng lưỡi liếm liếm những lòng trắng còn sót lại trong vỏ trứng, tôi liền ôm chầm lấy bà khóc sướt mướt. Dù nói thế nào, tôi cũng không chịu ăn trứng nữa, ba tôi sau khi biết  được đầu đuôi câu chuyện, tức giận đến mức muốn dùng gậy đánh mẹ. Cuối cùng tôi đã thỏa hiệp, điều kiện tiên quyết chính là chia đều quả trứng đó để ba người chúng tôi cùng nhau ăn. Tuy họ đã đồng ý, nhưng mỗi lần cũng chỉ là dùng răng nhâm nhi một hai miếng cho có vậy thôi.

Những người trong thôn trước giờ đều không hề gọi tên tôi, mà đều gọi tôi là con của ông chồng què  bà vợ mù. Ba mẹ chỉ cần nghe thấy có người gọi tôi như vậy, thì nhất định sẽ liều mạng với người đó.

Mẹ nhìn không thấy thì sẽ lấy miếng gạch mà ném loạn xạ cả lên, miệng chửi rằng: “Cái đồ trời đánh nhà chúng mày, chúng tôi tuy bị què bị mù, nhưng con chúng tôi bình thường lành lặn, nên không cho phép chúng mày gọi như thế. Sau này chúng mày sẽ chẳng có đứa nào bằng được con tao cả”.

Kì thi trung học năm đó, đứa con trai của vợ chồng què mù kia thi được giải nhất huyện, khiến cho họ thật sự được nở mày nở mặt một phen. Mọi người trong thị trấn đã chu cấp tất cả số tiền học phí thay nhà chúng tôi, ngày tiễn tôi đi lên thành phố học, ba tôi cũng lần đầu tiền bước ra khỏi làng vùng sâu vùng xa này.

Lúc lên xe, nước mắt tôi chảy mãi không dừng,

Ba một tay chống gậy, một tay lau nước mắt cho tôi

“Vào thành phố rồi hãy cố gắng học hành, sau này sẽ tìm được việc làm và lấy vợ ở đó luôn. Người khác mà có hỏi đến ba mẹ con thì con hãy nói rằng con là trẻ mồ côi, không có ba mẹ, nếu không thì người khác sẽ xem thường con cho xem. Nhất là con sẽ không lấy được vợ, người ta sẽ chê bai con. Nếu làm lỡ việc lấy vợ của con thì ba cũng không còn mặt mũi nào để đi gặp tổ tiên nữa”.

“Ba!”, tôi bảo ông đừng nói nữa, “đây là những lời gì thế, chỉ có những kẻ không ra gì mời không chịu nhận ba mẹ thôi?”

Mẹ cũng nói: “Những lời này đều đúng cả đấy, con phải nghe mới được. Con có còn nhớ lúc còn ở trong trường hay không? Chỉ cần nói con là con cái của vợ chồng què mù trong làng, mọi người thì lập tức khinh thường chế giễu con ngay. Lúc mới bắt đầu, ngay cả thầy cô trong trường cũng không thích con. Sau này nếu con dẫn vợ thành phố về thì hãy nói chúng ta chính là ông chú và bà thím của con”.

Nói xong, bà vừa khóc vừa lau nước mắt.

Ba nó: “Tốt nhất là đừng có dẫn vợ về nhà, hễ dẫn về nhà, mẹ con lại không nhịn được, như vậy sẽ lộ tất cả thì nguy”.

Sau đó, ông liền dúi mười quả trứng gà đã luộc chín sẵn vào lòng tôi, rồi dẫn mẹ đi mất. Tôi đứng lặng nhìn theo hình bóng của họ, nước mắt chảy mãi không thôi.

Nghe kể đến đây, khóe mắt tôi bỗng thấy cay cay, tàn tật không phải là lỗi của họ, đó chẳng qua chỉ là số mệnh buộc họ phải thế, nhưng họ đã sinh cho tôi một Thiên Trì hoàn mỹ.

Thiên Trì ngốc nghếch này, cha mẹ như thế này, thử hỏi còn có cha mẹ nào hoàn mỹ hơn thế nữa chứ.

Tôi rất tức giận, sao anh ấy lại xem thường tôi như thế?

“Vậy sau đó, anh liền nói với vợ anh rằng họ chính là ông chú và bà thím của anh sao?”.Tôi gõ câu hỏi này rồi gửi cho anh

“Vốn dĩ tôi không tin. Người vợ tôi tìm là tôi, chứ không phải ba mẹ, tại sao ngay cả ba mẹ cũng không thể nhận chứ?

Vậy mà tôi ở bên ngoài mười năm, ba mẹ không hề đến trường thăm tôi dù chỉ một lần.

Năm đầu tiên làm việc, tôi muốn dẫn họ vào thành phố chơi, họ đều không chịu, nói rằng nếu chẳng may để cho người khác biết ba mẹ tôi là người tàn tật, họ sẽ bôi tro trát trấu lên mặt tôi, như vậy sẽ ảnh hưởng đến việc lấy vợ của tôi”.

Người thân ở bên ngoài, con muốn tận hiếu mà không được

Cả đời họ đều ở trong vùng núi xa xôi mà không muốn ra ngoài.

Mẹ có nói rằng bà chính là từ thành thị đến đây, nhưng như vậy nào có ý nghĩa gì đâu.

Sau này, tôi đã quen một người bạn gái, khi tôi cho rằng  thời cơ đã chín muồi rồi, liền dẫn cô ấy về thăm nhà một chuyến.

Nào có ngờ đâu, sau khi đến nhà, cô ấy ngay cả cơm còn chưa ăn một bữa liền bỏ đi ngay, tôi vội đuổi theo sau, cô ấy nói rằng, nếu phải sống với những người như thế, ngay cả một ngày cô ấy cũng không sống nổi. Còn nói gien nhà chúng tôi có vấn đề, con cái sau này nhất định cũng sẽ không được khỏe mạnh.

Nghe xong những lời này, tôi tức đến nỗi bảo cô ấy rằng đi được bao xa thì cứ đi. Về đến nhà, mẹ tôi đang khóc nức nở, còn ba thì luôn miệng trách mắng tôi. Bảo tôi không nghe những lời họ nói, không muốn đứt hương hỏa nhà chúng tôi.

Về sau, tôi đã quen bạn gái thứ hai, chính là vợ tôi bây giờ.

Tôi rất yêu cô ấy, ngay cả nằm mơ tôi cũng sợ mất cô ấy, nhà của cô ấy lại giàu có, họ hàng thân thích đều là những người có địa vị trong xã hội.

Đã có vết xe đổ lần trước rồi, tôi rất sợ, đành phải làm đứa con bất hiếu.

Nhưng mỗi lần đến ngày lễ Tết tôi đều nhớ đến họ, trong lòng như có tảng đá lớn đè lên, rất khó chịu.

“Vậy anh trước giờ không nói cho vợ anh biết sao? Biết đâu cô ấy sẽ thông cảm chuyện này thì sao?”

“Tôi chưa từng nói, cũng không dám nói. Nếu như cô ấy chấp nhận, tôi nghĩ rằng mẹ vợ tôi cũng sẽ không chấp nhận. Tôi sống cùng với họ, ba vợ là người rất có tiếng tăm bên ngoài. Nếu như ba mẹ tôi đến rồi, không phải là bôi tro trát trấu vào mặt họ sao? Tôi cũng chỉ có thể tranh thủ những lúc ra ngoài công tác, học tập mà lén lén trở về thăm họ một lúc…

Cảm ơn bạn đã nghe tôi nói nhiều như vậy, bây giờ lòng tôi đã  thấy nhẹ nhõm thoải mái hơn nhiều rồi”.

Sau khi tắt máy rồi, tôi vẫn không sao ngủ được.

Ai cũng bảo là con cái không chê mẹ xấu, chó không chê nhà nghèo, nhưng hãy nhìn xem chúng tôi đã làm gì đây?

Tôi hiểu được chỗ khó xử của Thiên Trì, cũng hiểu được nỗi khổ tâm của ba mẹ anh.

Nhưng họ lại không biết rằng cả hai đã đẩy người vô tội là tôi vào trong nghịch cảnh vô tình vô nghĩa.

……..

Trời vừa sáng, tôi liền đến gõ cửa phòng ban giám đốc, nói với ông ấy rằng những sự việc còn lại xin ông toàn quyền xử lý, tôi có chuyện vô cùng quan trọng cần phải làm ngay, mọi chuyện giờ đều phải trông cậy vào ông ấy. Sau đó, tôi vội thu dọn ít đồ, rồi đi thẳng ra trạm xe lửa. Cũng may, tôi đã bắt được chuyến xe lửa đầu tiên.

Con đường núi đó quả thật là rất khó đi.

Vừa mới bắt đầu hai chân đã mỏi đến không còn chút sức lực nào nữa, về sau bàn chân sưng phồng cả lên, không thể nào đi tiếp được nữa.

Ngay lúc giữa trưa, trời lại nắng gắt, tôi đành phải ngồi nghỉ bên đường một lúc.

Nước uống mang theo trên người gần như sắp uống hết cả rồi, mà tôi cũng không biết phía sau còn bao nhiêu lộ trình phải đi nữa.

Cởi giày, bóp cho mụn nước dưới chân chảy ra, lúc đó đau đến nỗi tôi khóc bật thành tiếng, thật sự muốn gọi điện bảo Thiên Trì đến rước tôi về nhà, nhưng lại thôi tôi phải có chịu đựng. Tôi lấy tay tóm lấy một nắm hoa cỏ lau ở ven đường lót vào dưới chân, cảm thấy bàn chân thoải mái hơn nhiều.

Nghĩ đến ba mẹ của Thiên Trì, bây giờ vẫn còn làm việc vất vả ở nhà, bàn chân bỗng nhiên tràn trề sức lực, đứng thẳng dậy mà tiếp tục đi tiếp về phía trước. Khi trưởng thôn dẫn tôi đến trước cửa nhà của Thiên Trì, một vùng trời kia, ráng chiều đỏ rực đang chiếu lên cây táo lâu năm trước cửa nhà họ.

Dưới cây táo, ông chú của Thiên Trì, không phải, ba của Thiên Trì đang ngồi ở đó, nhìn ông còn già hơn nhiều so với lúc đám cưới. Tay đang bóc những hạt bắp, cây gậy lặng lẽ dựa vào cái chân tàn tật kia của ông.

Mẹ thì quỳ ở dưới đất chuẩn bị thu dọn số bắp đã phơi xong, bàn tay bà đang gom những hạt bắp lại thành đống.

Tựa một bức tranh, mà trong bức tranh ấy chính là người cha người mẹ hoàn mỹ nhất trên đời này

Gia đình, con cái, cha mẹ già, Bài chọn lọc,

Tôi từng bước từng bước đi về phía họ, ba vừa nhìn thấy tôi, quả bắp ông đang cầm trên tay liền rơi xuống đất, miệng há thật to, giật mình hỏi: “Con, sao con lại đến đây?”

Mẹ ở bên cạnh hỏi dò: “Ba nó à, ai đến vậy?”

“ Vợ…vợ của Thiên Trì”.

“Hả. Ở đâu?”, mẹ hoảng hốt dùng tay sờ soạng chung quanh để tìm về phía tôi.

Tôi khom lưng đặt hành lí xuống đất, sau đó dùng tay nắm chặt tay bà, quỳ mọp xuống đất, nghẹn ngào nói với ba mẹ rằng: “Ba! Mẹ! Con đến đón ba mẹ về nhà đây!”

Ba ho vài tiếng, nước mắt chảy dài khắp gương mặt chi chít nếp nhăn.

“Tôi đã nói rồi mà, thằng con của chúng ta không hề nuôi vô ích!”

Còn mẹ thì ôm chầm lấy tôi, từng hàng từng hàng nước mắt từ trong hốc mắt của bà chảy xuống cổ tôi.

Khi tôi dẫn ba mẹ đi, mọi người trong làng đều đốt pháo hoan hô.

Tôi một lần nữa lại thấy tự hào vì ba mẹ.

Khi Thiên Trì mở cửa ra, nhìn thấy ba và mẹ đứng ở bên trái bên phải tôi, không khỏi lấy làm kinh ngạc, người anh ngây như khúc gỗ, không nói một lời nào.

Tôi nói: “Thiên Trì, em chính là người đã đọc câu chuyện của anh đó, em đã đón ba mẹ chúng ta về rồi này. Ba mẹ hoàn mỹ như thế, sao anh lại nỡ để cho họ ở trong vùng núi xa xôi hẻo lánh được chứ?”

Thiên Trì khóc không thành tiếng, ôm chặt lấy tôi, hai hàng nước mắt lăn dài xuống cổ tôi giống như mẹ anh vậy.

Ba và mẹ, hai từ ngữ thần thánh, thiêng liêng bao quát hết thảy tình yêu trên thế gian này, thật đáng để cho chúng ta dùng cả đời để gọi.

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw

KỶ NIỆM XƯA CẢM ĐỘNG:

KỶ NIỆM XƯA CẢM ĐỘNG:

Tiểu Tử

Anh tôi nằm bịnh viện Saint Camille đã được mười bữa. Chiều hôm qua, ảnh gọi điện thoại về nhà, nói: «Thằng tây nằm chung phòng ra nhà thương rồi, ngày mai chủ nhựt, mầy vô đây anh em mình nói chuyện chơi». Nghe giọng ảnh “có thần” nên tôi vui vẻ trả lời: «Dạ! Mai em vô. Vợ con em đi Mỹ, chớ không thì em cũng chở tụi nó vô thăm anh». Tôi nghe ảnh cười khịt:  «Một mình mầy cũng đủ cho tao vui rồi…».

Phòng anh tôi là loại phòng hai giường ở lầu ba. Ông già người Pháp cỡ hơn tám mươi tuổi nằm chung phòng với anh tôi rất khó tánh. Ổng không thích có nhiều ánh sáng vào phòng nên volet cửa sổ lúc nào cũng chỉ hé lên một chút thôi. Thấy ổng quá già lại hay gắt gỏng nên mấy cô y tá cũng nhân nhượng, chỉ kéo volet lên cao trước giờ bác sĩ trưởng đi thăm bịnh nhân, rồi lại hạ thấp xuống, sau đó! Mỗi lần tôi vào thăm anh tôi, mặc dầu chúng tôi nói chuyện nho nhỏ với nhau, ổng cũng lăn qua trở lại thở dài. Có khi còn lấy gối bịt lỗ tai nữa!

Anh tôi nói: «Tao chưa bao giờ nghe nó… tằng hắng với tao một tiếng!» .

Ông Tây đó xuất viện, chắc anh tôi nghe… nhẹ lắm nên mới vội vã gọi tôi vào chơi, để nói chuyện mà không cần giữ gìn ý tứ gì hết!

Hôm nay, volet cửa sổ được kéo lên hết nên để lộ trời cao lồng lộng và phòng đầy ánh sáng… Thấy tôi, anh tôi vui vẻ nói: «Mừng quá! Hổm rày, cứ làm thinh, bực mình thấy mụ nội! Bữa nay, tụi mình nói chuyện tự do, cho nó đã!».

Tôi nhìn anh tôi mà thấy thương: mới ngoài sáu mươi mà đã già xọm. Bao nhiêu năm tù đày của VC đã ăn mòn cơ thể của ảnh đến nỗi từ khi ảnh qua Pháp sum họp với vợ chồng tôi, ảnh cứ bịnh lên bịnh xuống hoài. Cũng may là ảnh không có vợ con nên không có những cái lo của người có gánh nặng gia đình. Và cũng may là ảnh chỉ có một mình tôi là em đã có cuộc sống ổn định nên ảnh không phải cưu mang một đứa em nào khác.

Hai anh em tôi nói chuyện vui vẻ một lúc, bỗng anh tôi nhìn trời qua khuôn kiếng cửa sổ rồi nói: «Trời đẹp quá, Cu!».

Tôi còn đang ngẩn ngơ không biết ảnh nói với ai thì ảnh cười khịt khịt: «Mầy quên mầy hồi nhỏ tên là Cu hả? ».

Tôi bật cười: cả một trời dĩ vãng bỗng hiện về rất rõ, với những hình ảnh thuở nhỏ ở nhà quê, có bà mẹ một mình trồng rau trồng cải nuôi hai thằng con, đứa lớn tên Hai đứa nhỏ tên Cu… Tôi nhìn anh tôi mà nghe rưng rức ở trong lòng. Tôi “Dạ” như cái máy! Anh tôi nói: «Bác sĩ nói anh ra ngoài chút chút được».

Tôi lại “Dạ” nhưng vẫn còn thấy tôi đang ở quê tôi, ở trong cái nhà tranh vách đất có giàn bầu vắt lên mái tranh che sàng nước nằm bên góc bếp… Tôi nói “Vậy hả anh” mà vẫn còn đứng trong vườn rau của mẹ với mấy cây mít cây ổi cây xoài, vẫn còn nhìn cái giếng có cây cần vọt để kéo nước và cái gàu đeo lủng lẳng ở đầu cây sào dài… Tôi chỉ giật mình dạ lớn khi nghe anh tôi gọi: «Cu! Ê … Cu!».

Ảnh nhìn tôi, mỉm cười: «Tao muốn mầy đưa tao đi một vòng».

Tôi “Dạ” rồi vội vã bước ra cửa. Ảnh ngạc nhiên: «Đi đâu vậy?». Tôi trả lời: «Em đi lấy cái xe lăn!».

Ảnh bật cười: «Không cần xe lăn xe liếc gì hết. Mầy lại đây, tao chỉ cho».

Ảnh tằng hắng mấy tiếng rồi nói tiếp: «Mầy đỡ tao dậy cạnh giường. Đọ… Mầy xây lưng lại thụt sát vô cạnh giường ở giữa hai chân tao nè. Đọ… Rồi mầy rùn người xuống cho tao ôm cổ mầy. Mẹ… Mầy ăn thứ gì mà mầy lớn con quá hổng biết! Rồi! Tao ôm chắc rồi! Bây giờ, mầy choàng hai tay ôm hai bắp vế của tao đây, vừa xóc nhẹ để lấy trớn vừa đứng lên. Đọ… Như vậy, người mình gọi là ‘cõng’. Ở xứ nầy, tao chưa thấy ai cõng ai hết. Có lẽ người ta không biết cõng, mầy à!».

Tôi cõng anh tôi, nhẹ hều. Ảnh nói: «Hồi nhỏ, tao cõng mầy mòn lưng, mầy đâu có biết!».

Một xúc động bỗng dâng tràn lên cổ, tôi vừa nuốt xuống vừa siết chặt hai chân anh tôi như muốn ôm lấy hết con người của ảnh để cám ơn, cái con người đang nằm trên lưng tôi đây, cái người anh đã hy sinh suốt cuộc đời không chịu lập gia đình chỉ vì muốn nuôi thằng em ăn học cho đến nơi đến chốn! Ảnh đã cõng tôi trong thời tuổi nhỏ, về sau, ảnh vẫn tiếp tục cõng tôi – dù dưới hình thức khác – cho đến ngày tôi thành nhân ra đời. Biết bao giờ tôi cõng lại anh tôi suốt hai mươi mấy năm trời như vậy?

Chúng tôi ra hành lang. Gặp một cô y tá, cô ta vội nói: «Để tôi lấy cho ông một chiếc xe lăn!».

Tôi lắc đầu: «Khỏi cần! Cám ơn cô! Anh tôi muốn tôi cõng như vầy».

Cô ta mỉm cười bỏ đi, vừa đi vừa nhìn lại, vẻ ngạc nhiên. Anh tôi nói: «Mầy thấy không? Ở xứ nầy, người ta không biết cõng là gì!».

Thật vậy, đi dài dài theo hành lang, gặp ai cũng bị nhìn với một nụ cười như muốn nói “Làm gì ngộ vậy há!” Tiếng của anh tôi vẫn đều đều nho nhỏ bên tai: «Hồi đó, năm mầy ba tuổi là năm mầy bịnh hoài nên mầy cứ nhề nhệ nhề nhệ đeo theo má đòi ẵm. Chiều nào má cũng nói “Hai! Mầy cõng thằng Cu đi hàng xóm cho má nấu cơm coi!” Vậy là dầu tao đang tưới rau tao cũng quăng đó, cõng mầy đi vòng vòng. Hồi đó, lúc nào mầy cũng ở truồng, còn tao, dầu đã hơn mười tuổi, nhưng lúc nào cũng ở trần, chỉ khi nào đi học mới máng lên mình cái áo sơ-mi. Thành ra, khi cõng mầy tao thương ở cái chỗ là nghe con cu của mầy mềm mềm nằm gọn trên da lưng tao. Nhiều khi thương quá, tao xoay người lại hun mầy trơ trất làm mầy nhột mầy cười đưa mấy cái răng non nhỏ như hột gạo! Mầy coi! Vậy mà đã hơn năm mươi năm rồi chớ bộ!».

Tôi im lặng nghe anh tôi kể mà trong đầu thấy như đang nhìn ngay trước mắt cảnh thằng anh cõng thằng em đi quanh quanh để người mẹ rảnh tay lo nấu bữa cơm chiều… … Đẹp quá! Anh tôi lại nói: “Thiệt ra, tao đâu có cõng mầy đi đâu xa. Đi lòn lòn qua mấy liếp rau mấy bờ mía rồi qua lò bánh tráng của dì Sáu Lộc. Đứng xớ rớ một chút là dì Sáu hay chị Hai Huê con của dỉ cho một cái bánh tráng nướng thơm phức”.

Ngừng một chút, anh tôi hỏi:

“Mầy còn nhớ chị Hai Huê không?”

Tôi đáp: “Dạ có. Hồi đó, chỉ ra sư phạm rồi dạy tụi em ở tiểu học”.

Anh tôi tằng hắng: “Ờ! Chỉ đó! Má khen chỉ lắm, nói: con nhỏ dễ thương, đi làm có lương mà chỉ sắm có hai cái áo dài, hỏi nó thì nó nói nó để dành tiền cất một cái quán cho má nó ra bán bì bún ít cực hơn là xay bột tráng bánh”.

Đến đây thì tôi nhớ rõ cái quán của dì Sáu Lộc: Quán nhỏ nằm cạnh cây gõ trước lò bánh tráng. Bì bún ngon có tiếng. Có điều là dì Sáu không bán rượu đế mà cũng không cho khách hàng mang rượu đế đến quán! Dân nhậu phàn nàn thì dì Sáu nói: «Tôi ghét thứ đó lắm! Cũng tại ba cái đế đó mà ông nhà tôi ba ngù té xuống bàu chết không ai hay!».

Cái quán đó về sau giao cho vợ chồng cô cháu gái của dì Sáu trong nom và được cất rộng ra thành tiệm cà phê, người ta gọi là tiệm “Cây Gõ”…

Ở cuối hành lang bịnh viện là khuôn kiếng rộng. Nhìn xuống dưới thấy nắng đầy… Cây cỏ được cắt xén sạch sẽ đẹp mắt. Tia nước tưới vườn tự động quét qua quét lại coi mát rượi. Anh tôi im lặng nhìn một lúc rồi nói: «Hồi đó, chiều nào đi học về, tao cũng phải đi tưới vườn rau. Mới có mười tuổi mà tao mạnh lắm! Cái gàu nước lớn như vậy mà tao xách chạy bon bon. Phải nói là nhờ có cây cần vọt tao mới kéo nổi cái gàu ra khỏi giếng, chớ nếu kéo bằng sợi dây dừa thì chắc tao chịu thua».

Có lẽ sợ tôi quên nên anh tôi tả cây cần vọt. Tôi vẫn để ảnh nói vì tôi thấy ảnh đang sung sướng với những hình ảnh đẹp của quê hương, cái quê hương ngàn trùng xa cách… Tiếng của anh tôi vẫn đều đều bên tai: «Cần vọt là hai cây tre lớn bằng bắp chân đóng dính chắc vào nhau bằng những thanh ngang coi giống như một cái thang. Chân cái thang đó được chôn đứng cách giếng độ hai ba thước. Trên đầu có một cốt tròn xỏ qua hai thân tre. Bắc dính chắc trên cái cốt đó là một thân tre dài, đầu to là đầu nặng nằm đụng đất, đầu nhỏ chỉ lên trời coi giống như một đòn bẩy hay một cái đu nhún lên hạ xuống của trẻ con. Đó là cái cần. Trên đầu cần là một cây sào bằng tầm vông dài xuống gần miệng giếng, đầu dưới của sào có cái móc để móc cái gàu. Muốn lấy nước, người ta kéo cây sào thòng gàu xuống giếng đợi gàu đầy nước là kéo gàu lên, cây cần làm đòn bẩy giúp cho người kéo nước không phải ráng sức. Hay quá!»

Tôi nói đẩy đưa, cố ý để cho anh tôi nghỉ: «Dạ. Em còn nhớ cây cần vọt chớ! Hồi em lớn lên, em vẫn phụ anh tưới rau cho má, anh quên sao? Em còn nhớ hồi đó phần của em là lo tưới và châm sóc giàn bầu của má”.

Ảnh cười khịt khịt: “Ờ… giàn bầu. Trái dài lòng thòng, đi ngang phải cúi đầu để tránh…”

Rồi giọng của ảnh như vui lên: “Bầu luộc là món mà tụi mình ăn hằng ngày, mầy nhớ không? Bữa cơm nào cũng có bầu luộc, mẻ cá kho và một tô nước luộc bầu. Nước luộc bầu không có con tôm con tép gì hết, chỉ có chút muối, chút tiêu và mấy cọng hành… vậy mà tụi mình chia nhau húp ngon lành, hén Cu!”.

Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh anh em tôi húp nước luộc bầu, nhứt là cái cử chỉ của anh tôi khi ảnh đưa tô sành mẻ miệng, xây chỗ miệng tô còn lành, nói: “Húp ở đây nè, Cu!”. Cha ơi…! Sao mà nó đẹp!

Thấy gần trưa, tôi cõng anh tôi đi lần về phòng. Bỗng ảnh nói: “Ý! Má kêu kìa!”.

Rồi ảnh nghẻo đầu buông thõng hai tay! Tôi đang hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì gặp ông bác sĩ trưởng trong thang máy bước ra. Tôi vội vã gọi: “Bác sĩ! Bác sĩ! Ông coi dùm coi! Anh tôi bị gì rồi!”.

Bác sĩ rờ đầu rờ cổ anh tôi rồi lôi tôi chạy lại phòng trực y tá. Bác sĩ hướng vào trong nói “Cứu cấp”. Mấy cô y tá phóng ra đỡ anh tôi qua giường sắt có bánh xe rồi đẩy nhanh về phòng, theo sau là xe dụng cụ thuốc men. Vào phòng, một cô y tá đẩy nhẹ tôi ra ngoài, nói:  “Ông đừng vào. Cảm phiền đứng đợi ở đây.” Rồi đóng cửa lại. Tôi tỳ người vào tường, nhìn quanh bối rối: hành lang trống trơn bỗng như rộng mênh mông…

Một lúc lâu sau mấy cô y tá mở cửa đẩy giường đẩy xe ra, nói chuyện tỉnh bơ. Đi sau cùng là bác sĩ trưởng. Ổng vỗ vai tôi, nói: “Không có gì hết! Chỉ bị xúc động mạnh thôi. Ông vào được rồi.”.

Tôi nói “Cám ơn” rồi thở dài nhè nhẹ như vừa trút một gánh nặng. Nhìn thấy tôi bước vào, anh tôi mỉm cười, mắt ảnh ngời sáng, nhưng ảnh vừa đưa tay ra dấu vừa nói: “Thôi! Mầy về đi! Để tao ngủ một chút”.

Nói xong, ảnh nhắm mắt mà trên môi vẫn còn nguyên nụ cười. Tôi biết: ảnh đang đi vào giấc ngủ với những hình ảnh đẹp!

Tôi bước ra, đóng nhẹ cửa lại. Hành lang dài tung hút. Chắc cũng đến giờ cho bịnh nhân ăn nên phảng phất có mùi đồ ăn. Tôi bỗng nghe thèm vị ngọt của nước luộc bầu mà anh em tôi chia nhau húp năm chục năm về trước, bây giờ sao vẫn còn nhớ. Và lạ thiệt! Nước luộc bầu quá tầm thường như vậy mà sao cũng mang đầy mùi vị của quê hương?

Tôi nuốt nước miếng…

Tiểu Tử