THUỞ ĐI BAY – Minh Thảo Elizabeth Hoàng

Minh Thảo Elizabeth Hoàng

Posted by GLN

Lời Tác giả: Thấy tin tức mấy cô Tiếp Viên Hàng Không của Việt Nam bây giờ đi bay mà mang hàng quốc cấm coi như đời tàn. Nhất là thời buổi văn minh hiện nay đồ đạc đều qua máy kiểm soát họ thấy tất cả mọi thứ rất rõ.

Ngoài ra tất cả các phi trường luôn luôn nhắc nhở hành khách không nên giữ đồ hay mang đồ giùm cho bất cứ người nào mình không quen biết.

Mấy cô Tiếp Viên này đủ thông minh để hiểu.

Cho nên tôi ngẫu hứng viết về Air Việt Nam trước năm 1975 để nhiều người hiểu thêm về công việc của các Tiếp Viên Hàng Không Air Việt Nam [Cộng Hòa] trước kia mà tôi đã từng làm và trong thời gian tôi làm chưa từng thấy Tiếp viên Hàng Không của Air Việt Nam mang đồ quốc cấm. 

Trân trọng.

Minh Thảo Elizabeth Hoàng.

Khi còn nhỏ, mỗi lần tôi theo gia đình ra phi trường đón người nhà. Tôi thích ngắm nhìn các nữ Tiếp Viên hàng không của Air Việt Nam mặc đồng phục với chiếc áo dài màu xanh da trời, đầu đội mũ thêu con rồng, tay đeo bao tay trắng trông đẹp và dễ thương làm sao.

Các cô khi thì đi riêng, khi thì đi từng nhóm với phi hành đoàn.

Tôi ước ao không biết bao giờ tôi cũng được đi bay như họ để được đặt chân tới những nước văn minh trên thế giới để được tận mắt ngắm nhìn những thành phố đồ sộ với những công trình kiến trúc độc đáo, những chiếc cầu vắt chéo chạy ngang dọc hay thăm viếng những di tích lịch sử tôi từng đọc trong sách vở.

Tuy máy bay Air Việt Nam không đi những nước Âu Châu, nhưng mỗi khi đi vacation, tiếp viên phi hành đoàn hay đi ngoại quốc vì vé máy bay được giảm giá tới 90% cho các nhân viên phi hành đoàn theo luật lệ hàng không.

Một hôm chị bạn thân của tôi học Đại học Luật khoa trước tôi đang làm việc cho văn phòng hành chánh của Air Việt Nam cho tôi biết Air Việt Nam đang tuyển lựa Tiếp Viên Hàng Không. Chị thúc dục “Thảo ghi tên đi thi đi, người như bạn nên làm nghề này”.

Tôi liền ghi tên dự thi. Điều kiện ưu tiên là phải đẹp, cao từ 1 mét 55 trở lên, nói được hai thứ tiếng Anh và Pháp. Trình độ học thức Tú Tài trở lên.

Trước tiên tôi phải gặp một vị của Air Việt Nam phỏng vấn. Khi được vị này chấp nhận thì tôi mới chính thức qua 8 vị giám khảo khác gồm cả nam lẫn nữ phỏng vấn. Các vị này thay phiên mỗi người đặt một câu hỏi để dò xét sự hiểu biết của tôi.

Thấm thoắt hôm nay đã đến ngày phỏng vấn. Tôi đứng trước tủ áo lưỡng lự không biết chọn chiếc áo nào mặc cho hợp với thời tiết và nước da của tôi.

Ướm thử từng cái áo trên người cuối cùng tôi chọn chiếc áo dài màu vàng anh, quàng chiếc khăn voan trắng ngà quanh cổ. Tôi trang điểm chút phấn hồng trên hai má, đánh son môi màu hồng nhạt, đánh mascara trên hai hàng lông mi. Ngắm nhìn mình trong gương tôi tạm ưng ý và ra khỏi nhà.

Khi vào phòng để gặp các vị giám khảo, tôi hồi hộp thấy họ nhìn tôi chăm chú. Tôi cố gắng bình tĩnh mỉm cười chào ban giám khảo và tập trung trả lời những câu hỏi của họ.

Cuối cùng tôi đã pass cuộc thi và được đưa đi may đồng phục, họ cho mũ, giầy, bóp đều do hãng Air Việt Nam đài thọ.

Họ phát cho chúng tôi mỗi người một vali nhỏ sách tay để đựng đồ đạc khi đi bay.

Sau đó chúng tôi phải qua một khóa huấn luyện cứu thương do một y tá chuyên môn dậy và hướng dẫn. Môn học này phần lớn ai cũng pass.

Air Việt Nam cũng huấn luyện chúng tôi cách mở phao và những dụng cụ khẩn cấp khi máy bay lâm nạn.

Kế chúng tôi phải đi bay tập sự trong ba tháng cách bưng đồ ăn, cách đọc thông báo trước khi máy bay cất cánh và trước khi máy bay đáp xuống phi trường dưới sự kiểm soát của mấy chị làm lâu năm trong ngành (Chef–de–cabin).

Sau ba tháng tôi đã pass lúc đó mới chính thức được đi bay và làm lâu năm tôi cũng trở thành Chef–de–cabin khi đi bay cùng với những tiếp viên mới vào nghề.

Chương trình sắp xếp đi bay chúng tôi phải bay xen kẽ đường bay quốc nội và quốc ngoại. Khi tôi làm lâu năm được đi bay đường quốc ngoại nhiều hơn.

Tuy nhiên chúng tôi phải pass khóa bơi và lặn do Hàng Không Dân Sự chấm điểm vì đường bay ngoại quốc như Hồng Kông sân bay ngay bờ biển, cũng như để biết ứng phó khi phi cơ khẩn cấp phải đáp xuống biển.

Khi đi thi bơi thật vui. Vì có vài anh biết bơi nhưng không lặn được, người cứ nổi lềnh bềnh trên mặt nước dù rán làm nhiều lần, nước mắt nước mũi chảy ra thật thảm.

Vì vậy mấy ông chấm điểm nói “cứ nhìn sâu dưới đáy hồ thấy tơ lụa, vải vóc thì người sẽ chìm.” Vì khi đó đi đường bay Hồng Kông và Đài Loan mang vải vóc về bán rất có lời.

Tôi đứng trên bờ phì cười nhưng cũng lo không biết mình lặn được nửa hồ bơi theo sự đòi hỏi hay không. Tới phiên tôi, tôi suy nghĩ đánh liều lên đứng trên cầu cao nhảy xuống chắc chắn thân mình sẽ chìm. Tôi nín thở qươ tay lặn qua hẳn bờ hồ phía bên kia lúc nào không hay. Tôi đã pass và chính thức đi bay.

Thời đó Air Việt Nam chỉ có phi cơ Caravel đi ngoại quốc. Sau này bay tới Nhật Air Việt Nam mới có thêm máy bay Boeing mới. Những đường bay quốc ngoại gồm có Nhật, Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Taiwan, Cambodge và Lào. Phần lớn những đường bay ngoại quốc phi hành đoàn phải ngủ qua đêm. Chúng tôi đều có phòng riêng biệt ở Hotel để ở.

Đường bay trong nước là máy bay mướn của Đài Loan, phi công cũng người Đài Loan lái. Máy bay cũ nên hay bị trục trặc, phải sửa nên hay trễ giờ.

Bởi vậy dù ngày phòng hờ (stand by) của tôi nhưng luôn luôn bị gọi đi bay. Nhiều khi tôi muốn nghỉ cũng không được.

Vào thời kỳ tôi làm việc, máy bay Caravel do phi công người Việt Nam lái, Máy bay Boeing do người Mỹ lái và máy bay mướn của Đài Loan do phi công người Đài Loan lái.

Mấy ông Phi công Đài Loan đi bay đường quốc nội, ham ăn hết sức. Mỗi lần tới sân bay họ toàn gọi đồ ăn Tàu mắc tiền để ăn trưa. Tôi nhìn không ăn nổi vì mệt. Nên chỉ ghé quán ở phi trường ăn bún bò hay vài cái nem chua là xong bữa ăn hoặc có khi chẳng ăn gì ngoài uống nước trái cây. Cho nên hồi đó tôi rất eo và mảnh khảnh.

Tất cả những chi phí ăn uống đều được hãng Air Việt Nam đài thọ.

Chúng tôi phi hành đoàn có thể mua hàng hóa ngoại quốc với một mức lượng cho phép. Nếu quá tải sẽ phải đóng thuế hay bị phạt tùy theo loại hàng hóa.

Đường bay Lào, vàng nổi tiếng tốt và rẻ, nhưng chỉ có thể mua đồ trang sức chút đỉnh thôi. Có một tiếp viên hàng không phái nam mới đi bay đã dát vàng mỏng bó vào giầy để che mắt quan thuế đã bị bắt và bị đuổi khỏi hãng. Quan thuế và kiểm nã họ rất tài tình, rất chuyên nghiệp khó có ai qua mặt họ được và họ có đủ dụng cụ để kiểm soát dù bạn cất giữ đồ bất cứ ở đâu.

Về an ninh kiểm soát ở phi trường rất khó khăn. Mọi người phải qua tới 3 cửa ải, trước tiên là quan thuế, thứ hai là kiểm nã và cửa ải cuối cùng ở ngoài sân bay là cảnh sát.

Cho nên khó có ai thoát nếu giấu giếm hay mua đồ quốc cấm.

Vào dịp Noel hay Tết mấy vị này nhờ chúng tôi mua đồ ở ngoại quốc giùm. Chúng tôi không bao giờ tính tiền, chỉ là những món quà nho nhỏ cho vui vẻ.

Thông thường đi những chuyến bay quốc ngoại tôi phải có một người khiêng đồ giúp tôi để mang hành lý ra xe. Những người này làm hãng trả lương để giúp phi hành đoàn. Tôi phải chọn một người vui vẻ, nhanh nhẹn giúp riêng tôi. Dù rơi vào những chuyến bay không đúng giờ cho người này làm nhưng họ vẫn tới phi trường có mặt để giúp tôi. Họ rất vui làm việc cho tôi nhưng tôi luôn luôn không quên cảm ơn họ bằng cách mua những món quà ngoại quốc hay đồ chơi cho con cái họ hoặc đồ dùng cho gia đình họ. Những món quà này thật sự chẳng đáng giá gì nhưng rất quý đối với họ vào thời buổi lúc đó.

Chúng tôi phi hành đoàn không bao giờ kéo vali lớn hay khiêng đồ đạc.

Khi ra khỏi máy bay chúng tôi chỉ đeo trên vai một cái bóp và kéo theo một chiếc vali nhỏ đựng đồ lặt vặt như kiếng, telephone vân vân như quý vị ra phi trường đều thấy tất cả các tiếp viên phi hành đoàn của các công ty ngoại quốc ở phi trường đều làm như vậy. Đồ đạc của phi hành đoàn sẽ do các người khuân vác của Air Việt Nam mướn để giúp chúng tôi mang vào phi trường cho quan thuế kiểm soát rồi mới được mang ra xe.

Một hôm tôi bay trên chuyến DC4 đi Đà Nẵng. Khi đáp xuống phi trường thì thắng không ăn nên đoàn cứu cấp phải quăng những giây cáp dưới bánh xe phi cơ để giữ phi cơ lại đã làm cho một bánh xe phi cơ bị gãy. May mắn phi trưởng nhanh trí đã cho máy bay chạy trên những thảm cỏ và đất bên cạnh phi đạo. Bụng máy bay đã sụt sâu dưới đất nên máy bay mới dừng lại. Xe cứu hỏa, xe cứu thương bóp còi inh ỏi chạy tới giúp hành khách thoát ra khỏi máy bay gấp rút để tránh hỏa hoạn. Tôi và phi hành đoàn vẫn phải bình tĩnh để giúp đỡ hành khách ra khỏi máy bay và chúng tôi ra sau cùng. Cảnh tượng lúc đó không khác gì những cảnh phi cơ lâm nạn chiếu trên màn hình. Tất cả phi hành đoàn và phần lớn hành khách được an toàn, chỉ có mấy người bị thương nhẹ mà thôi.

Tôi cảm ơn Thượng Đế đã cho tôi thoát khỏi tai nạn này.

Tôi bước ra khỏi máy bay, mũ bóp đều mất, tóc tai bù xù và sau đó đã được máy bay của MỸ giúp đưa chúng tôi về Sài Gòn lại. Tuy nhiên cá nhân tôi chẳng thấy Air Việt Nam gửi chúng tôi đi nhà thương để kiểm tra sức khỏe. Thật thiếu sót.

Tôi thấy nghề làm tiếp viên hàng không cũng rất nguy hiểm. Tôi tự hỏi không biết có nên tiếp tục đi bay nữa hay không. Chưa kịp hoàn hồn thì hai ngày sau lại có giấy báo cần tôi đi bay gấp vì thiếu người. Tôi đi làm trở lại và tự an ủi và nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có số mệnh. Nhất là thực tế mưu sinh cần giúp đỡ cho gia đình và bản thân tôi đã thắng thế. Tôi đi bay trở lại cho tới khi lập gia đình với chồng tôi.

Người yêu của tôi yêu cầu sau khi làm đám cưới anh muốn tôi nghỉ bay vì không muốn vợ đi xa vắng nhà vì những chuyến bay ngoại quốc phải ngủ qua đêm. Tôi hoàn toàn đồng ý với anh vì tôi thấy gia đình hạnh phúc là quan trọng hơn tất cả. Mặc dù đi bay tôi có đồng lương khá cao.

Theo tôi khi đã yêu, kiếm được người yêu lý tưởng hợp với mình thì phải biết giữ lấy hạnh phúc dù phải hy sinh về vật chất.

Blaise Pascal đã nói “Hạnh phúc duy nhất trên đời là Yêu và được Yêu”

Minh Thảo Elizabeth Hoàng

Một cuộc hội ngộ làm nghẹn lòng

 Một cuộc hội ngộ làm nghẹn lòng – 28 năm sau vòng tay ấy.

Ngày ấy, cậu bé Brandon chỉ mới chào đời ở tuần thứ 29 của thai kỳ – bé nhỏ, yếu ớt, chiến đấu từng ngày trong lồng ấp tại khoa hồi sức sơ sinh (NICU) của một bệnh viện nhi ở California.

 Người luôn ở bên, chăm sóc và ôm cậu vào lòng suốt những tháng ngày mong manh ấy là cô y tá Vilma Wong – với hơn 30 năm tận tụy trong nghề, cô đã nắm giữ không biết bao nhiêu sinh mạng non nớt bằng cả trái tim mình.

 28 năm sau, trong một ca trực tại bệnh viện ấy, Vilma đọc được cái tên “Brandon Seminatore” trong danh sách bác sĩ nội trú chuyên ngành thần kinh. Cô khựng lại. Cái tên ấy khiến trái tim cô rung lên.

 Và rồi, không thể dừng được sự tò mò đang lớn dần trong lòng, cô hỏi chàng bác sĩ trẻ: – “Cháu có phải sinh ở đây vào những năm 90 không ? Bố mẹ cháu có tên là… ?” 

Brandon ngỡ ngàng, đáp khẽ:

 – “Vâng… Sao cô biết được ?”.

 Vilma mỉm cười, ánh mắt đầy xúc động:

  – “Cô chính là người đã chăm sóc cháu khi cháu mới sinh đấy”.

 Khoảnh khắc ấy – thời gian như dừng lại… Hai con người, hai thế hệ, từng kết nối với nhau bằng tình thương và hy vọng… Giờ gặp lại, nhưng trong một hoàn cảnh không ai ngờ tới : người từng là bệnh nhi giờ đã trở thành bác sĩ, đứng cạnh người y tá năm xưa như một đồng nghiệp.

 Khi biết chuyện, mẹ của Brandon đã gửi đến bệnh viện một bức ảnh cũ :

 “Vilma đang bế cậu bé Brandon sơ sinh trong tay – một vòng tay đầy yêu thương ngày ấy”, nay trở thành khoảnh khắc định mệnh.

 Brandon chia sẻ  :“Bố mẹ tôi luôn nhắc về một cô y tá tên Vilma – người đã mang đến cho tôi sự sống và hy vọng… Nhưng tôi chưa từng nghĩ mình sẽ gặp lại cô – và nhất là như thế này”.

 Một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, để nhắc ta nhớ :

 “Những điều tử tế bạn làm hôm nay có thể gieo mầm cho những điều kỳ diệu mai sau”.

 Pane e Vino – Vivian Phạm sưu tầm 

From: dominhtam9238 & NguyenNThu


 

Bà vợ của triết gia Socrates- Truyện HAY

Chau Doan

Chuyện này quá nổi tiếng trong lịch sử rồi, đăng lại để nhắc anh em ta nhẫn nhịn trong nhà.  

Ai mà ngờ rằng Socrates — nhà triết học vĩ đại nổi tiếng với sự khôn ngoan, điềm tĩnh và những lời nói sâu sắc — lại sống với một người phụ nữ luôn thử thách sự kiên nhẫn của ông? Vợ ông nổi tiếng với chiếc lưỡi sắc bén, tính cách thích làm chủ mọi thứ với những cơn thịnh nộ. Mỗi sáng, bà đẩy ông ra khỏi nhà khi mặt trời mọc, và ông chỉ trở lại khi mặt trời sắp lặn.

Tuy nhiên, bất chấp tính cách khó khăn của bà, Socrates luôn nói về bà với sự tôn trọng và thậm chí là lòng biết ơn. Ông từng thừa nhận rằng một phần sự khôn ngoan của ông có được nhờ bà, bởi nếu không có những thử thách hàng ngày như vậy, ông sẽ không bao giờ học được rằng trí tuệ thực sự sống trong sự im lặng, và bình an được tìm thấy trong sự tĩnh lặng.

Một ngày, khi ông ngồi cùng các học trò, bà lại bắt đầu la mắng ông như thường lệ — nhưng lần này, bà đổ nước lên đầu ông. Không nao núng, Socrates chỉ lau mặt và bình tĩnh nói, “Chà, sau tiếng sấm, mưa là điều dễ hiểu.”

Câu chuyện của bà kết thúc đột ngột. Trong một cơn giận dữ khác, khi Socrates, như mọi khi, vẫn giữ sự bình tĩnh và im lặng, cơn thịnh nộ của bà đã áp đảo. Bà bị đột quỵ và qua đời ngay đêm đó. Trong khi bà bùng lên như một cơn bão, Socrates vẫn là một biển cả bình yên.

Tên bà dần dần phai mờ trong lịch sử. Sự điềm tĩnh của ông trở thành huyền thoại. Đây không chỉ là một câu chuyện về mâu thuẫn — mà là một lời nhắc nhở rằng sức mạnh thường thể hiện trong im lặng, và những người thầy vĩ đại đôi khi lại ẩn mình dưới hình hài của những con người khó khăn nhất trong cuộc sống.


 

Nỗi hối hận muộn màng- Anton Pavlovich Chekhov  -Truyện ngắn HAY

 

 Nhà văn Anton Pavlovich Chekhov 

Anton Pavlovich Chekhov (1860–1904) là một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nước Nga, được coi là bậc thầy của truyện ngắn hiện đại. Ông sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 tại Taganrog, một thành phố cảng nhỏ ở miền nam nước Nga, trong một gia đình nghèo khó. Cha ông là một người bán hàng tạp hóa, tính tình khắt khe với con cái, trong khi mẹ ông là một phụ nữ hiền hậu, có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách của Chekhov.

Tuổi thơ của Chekhov gắn liền với những năm tháng cơ cực, khi gia đình ông phá sản và phải chuyển đến Moscow. Dù hoàn cảnh khó khăn, Chekhov vẫn cố gắng học tập và sau này theo học trường Y tại Đại học Moscow. Ông trở thành bác sĩ và luôn coi nghề y là một phần quan trọng trong cuộc đời mình, nhưng văn chương mới là đam mê lớn nhất.

Chekhov bắt đầu viết truyện ngắn từ những năm 1880 để kiếm sống và nhanh chóng khẳng định được tên tuổi. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào cuộc sống hàng ngày của con người, khai thác tâm lý sâu sắc và chứa đựng những triết lý nhân sinh.

Bên cạnh việc viết truyện ngắn, Chekhov cũng là một nhà biên kịch xuất sắc với các vở kịch như Uncle Vanya (Chú Vanya), Three Sisters (Ba chị em) và The Cherry Orchard (Vườn anh đào). Những sáng tác này phản ảnh sự chuyển biến xã hội và mối quan hệ giữa con người trong một thời đại đầy biến động ở nước Nga cuối thế kỷ XIX.

Không chỉ nổi tiếng ở Nga, Chekhov còn có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn học thế giới. Các nhà văn như Ernest Hemingway, William Faulkner, Raymond Carver đều chịu ảnh hưởng từ phong cách viết của ông.

Khác với nhiều nhà văn cùng thời, Chekhov không cố gắng đưa ra những kết luận rõ ràng trong truyện của mình. Ông tin rằng nghệ thuật không phải để trả lời câu hỏi, mà là để đặt ra câu hỏi. Các câu chuyện của ông thường kết thúc mở, để lại dư âm, những suy gẫm trong lòng người đọc.

Các đặc điểm nổi bật trong văn chương của Chekhov là sự miêu tả cuộc sống một cách chân thực, không tô vẽ hay cường điệu. Thay vì những tình tiết gay cấn, ông tập trung vào những khoảnh khắc đời thường nhưng giàu cảm xúc. Chekhov luôn thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc với nỗi khổ và tâm trạng của con người.

Một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ phong cách này chính là truyện ngắn Nỗi Đau (Grief), nói về sự hối tiếc muộn màng của một người chồng trong cách đối xử với vợ mình.

Grigory Petrov, một người thợ mộc ở một vùng quê nghèo khổ và thiếu thốn của nước Nga vào cuối thế kỷ XIX. Vợ Grigory Petrov lâm bệnh gần cả một năm trời. Họ đã dốc hết tiền bạc vào thuốc men nhưng dường như vô ích. Lúc này, bà đang trên bờ vực của cái chết. Grigory Petrov cố đưa vợ đến bệnh viện trong thị trấn với suy nghĩ còn nước còn tát, còn chút hy vọng nào không?

Trời tuyết rơi nhiều, đường trơn trợt, Grigory đặt vợ lên chiếc xe ngựa cũ kỹ. Con ngựa già nua lê từng bước rã rời, mệt nhọc. Cả hai không nói gì nhiều, chỉ có tiếng gió rít qua những hàng cây, tiếng bánh xe nặng nhọc lăn trên nền tuyết lạnh. (Hình ảnh tuyết rơi nhiều là hình ảnh của cuộc đời lạnh quá. Hình ảnh con ngựa già lê bước là hình ảnh Grigory mang vợ mình về chốn mãi chia xa!)

Trên đường đi, Grigory bắt đầu nói chuyện với vợ, nhưng thực ra Grigory đang tự nói với chính mình. Ông nhắc lại những năm tháng họ sống bên nhau, những khó khăn, gian khổ mà vợ ông đã phải chịu đựng. Suốt 40 năm qua, bà đã làm việc quần quật, gánh vác cả gia đình mà chưa bao giờ nhận được một lời yêu thương hay một cử chỉ dịu dàng từ chồng mình.

Chỉ đến lúc này, khi cái chết cận kề, Grigory mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông nói với bà bằng giọng nghẹn ngào: “Lẽ ra tôi nên đối xử với bà tốt hơn… Cuộc đời quá bất công với bà, và tôi cũng quá bất công. Tôi chưa bao giờ dành cho bà một lời tử tế, một nụ cười dịu dàng. Tôi thật tệ…” Bà vợ khẽ rên lên, hơi thở yếu dần.

“Cố lên bà nhé… Chúng ta sắp đến nơi rồi. Bà sẽ khỏe lại thôi…” Nhưng trong thâm tâm, Grigory biết đó là điều không thể.

Minh họa truyện ngắn Nỗi Đau (Grief)- nguồn X

Cuối cùng, họ cũng đến thị trấn. Ông dừng xe, vội vã bước xuống. Lần đầu tiên trong đời, ông bế bà trên tay để đưa bà vào bệnh viện. Nhưng khi chạm vào bà, ông sững người. Bà đã lạnh ngắt. Bà đã chết. Bà trút hơi thở cuối cùng trên đường đi, trước khi kịp nghe những lời yêu thương muộn màng của chồng mình.

Chekhov không lên án, vì Grigory không phải là người xấu. Ông chỉ là một người nông dân bình thường. Nhà quá nghèo, kiếm được miếng ăn trầy vi tróc vảy, sao mà không cơ cực? Grigory quá bận rộn với cuộc sống mà quên đi giá trị của tình yêu.

Câu chuyện đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Tại sao con người chỉ nhận ra giá trị của nhau khi đã quá muộn?”

Những lời hối tiếc của Grigory chẳng còn ý nghĩa khi người cần nghe chúng đã không còn nữa.

Chekhov không kết luận, không dạy đời phải làm thế này hay phải làm thế nọ. Ông chỉ kể lại một tình huống mà ai cũng có thể thấy được chính mình trong đó, để rồi tự rút ra bài học cho bản thân.

Thông điệp của câu chuyện thật giản dị nhưng thấm thía. Chekhov nhắc nhở chúng ta rằng những điều tốt đẹp về sự yêu thương, chăm sóc cho nhau trong nghĩa vợ chồng không nên để quá muộn. Khi yêu thương một ai đó, hãy thể hiện ngay khi còn có thể, bởi thời gian không chờ đợi ai.

Câu chuyện của Chekhov không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một bài học sâu sắc về cuộc sống. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm về những giá trị quan trọng trong đời: “Đừng trì hoãn yêu thương. Một lời yêu hôm nay đáng giá hơn cả ngàn câu hối tiếc sau này.”

Người phương Tây có câu: “Whispered words—too late. Echoes in the empty room, love left unspoken.”

Lời thì thầm quá muộn để nói ra chỉ vang vọng trong căn phòng trống, lời yêu thương chưa nói, giờ mới nói ai nghe?

Đoàn Xuân Thu 

From: NguyenNThu                              


 

Diễm Xưa – Trần Thị Nhật Hưng -Truyen ngan HAY

Ba’o Nguoi-Viet

April 23, 2025

Trần Thị Nhật Hưng

Diễm và Liễn lấy nhau được đúng 5 năm, chưa có con, biến cố 30-04-75 đến, chồng Diễm khăn gói vào tù, lúc đó nàng vừa 23 tuổi. Ở nhà chỉ còn nàng và cụ Định 70 tuổi, thân phụ Liễn.

Trước đây, cả nhà ba người chỉ sinh sống bằng đồng lương hạn hẹp, ít ỏi của Liễn. Nhờ Diễm biết tằn tiện, quán xuyến, lại không phải hạng người ham vật chất, đua đòi nên cuộc sống gia đình nàng tạm đủ. Đủ theo cái nghĩa biết đủ thì nó đủ. Nhờ thế, mái ấm gia đình nàng êm đềm hạnh phúc dù vắng bóng tiếng trẻ thơ.

Sau 1975, bất ngờ không còn đồng lương, chồng vắng nhà, Diễm thật chới với. Nhưng rồi vốn quen với nếp sống thanh đạm“ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch“ giỏi chịu đựng, mọi sự phải tập quen, cho nên, cũng như bao người miền Nam khác, ăn tiêu, Diễm bán dần đồ đạc và cần kiệm cho qua ngày. Nhà chỉ còn hai người cũng dễ. Lại thêm bố mẹ ruột của Diễm khá giả, thỉnh thoảng từ miền Trung tiếp tế vào Sài Gòn cho con gái, nên về đời sống vật chất tạm thời không đến nỗi âu lo quá đáng. Thế nhưng,“phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí,” độ chừng vài tháng sau, khi cụ Định liên lạc được với bà con họ hàng gia đình ngoài Bắc (cụ di cư vào Nam chỉ hai bố con), Diễm mới vỡ lẽ, trước năm 54 di cư vào Nam, Liễn, chồng nàng từng có một đời vợ và một đứa con trai ngoài đó. Điều này khi kết hôn với Diễm, năm nàng mới 18 tuổi, Diễm không hề nghe tới. Người vợ đó cho đến năm 75, vẫn ở vậy chờ chồng, chắt chiu với đứa con trai chỉ thua Diễm hai tuổi. Biết được điều này, Diễm như tiếng sét đánh ngang đầu, đánh nát cả trái tim nàng. Nước mắt lúc đó không đủ xoa dịu nỗi cơn đau xé ruột, xé gan. Diễm chết điếng với nỗi bàng hoàng không sao giải quyết được. Đêm đêm, Diễm chỉ còn biết khóc…và khóc…

Nỗi đau khổ này, tuyệt nhiên, Diễm không hề than thở với chồng. Liễn đang ở tù, chẳng giải quyết được gì. Trách móc, than thở chỉ làm nát lòng nhau. Nhưng Diễm muốn biết đầu đuôi câu chuyện. Diễm hỏi cụ Định:

-Bố có thể kể cho con nghe cuộc hôn nhân đó như thế nào không?

Bằng giọng bùi ngùi, cụ Định dõi hồn về quá khứ, cụ kể:

-Khi nhà con 17 tuổi, bố và nhà con rời quê lên thị xã thuê một căn nhà nhỏ ở tạm. Nhà con còn đi học. Bố thì trốn lánh vùng mất an ninh, vì ở quê lúc đó, tối Việt Minh về quấy rối, ngày thì Tây bố ráp. Ở thị xã bố chả làm gì. Hai bố con sinh sống bằng tiền ở quê tiếp tế. Ngày ngày có các cụ, bạn bố qua đánh chắn (đánh tổ tôm, một loại bài bạc của người miền Bắc). Các cụ ấy cũng đều ở quê lên cả, nhà rất giàu. Nhìn cảnh hai bố con đơn chiếc, nhà lại thiếu đàn bà, các cụ khuyên bố lấy vợ hai.

Nói đến đây, cụ Định “chậc” một tiếng, lắc đầu:

-Vợ hai, vợ ba, rắc rối lắm con ạ. Bố từ chối, thế là các cụ bàn nhau lấy vợ cho Liễn. Có một con bé, con người bạn, xinh xắn, ngoan hiền, nhưng mới 14 tuổi, bé quá, biết gì. Lấy về lại phải “hầu” nó. Thế là cụ Chánh Hàn giới thiệu ngay cháu gái cụ 20 tuổi.

Vợ Liễn ngoài đó và nhà con, chúng nó chỉ “thấy” nhau một lần thế thôi, rồi tháng sau đám cưới. Một đám cưới chạy tang đơn giản. Phần loạn lạc nên cũng chỉ đại khái theo nghi lễ. Vợ Liễn về nhà bố, hai tháng sau có thai. Ngày ngày nó lo cơm nước, quét dọn, giặt giũ và buôn bán lặt vặt. Nhà có đàn bà, mọi sự ngăn nắp tươm tất hơn. Ngày vợ Liễn gần sanh, nhà con đưa nó về quê, cùng lúc đất nước biến động, hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước. Thành phần địa chủ như bố, ở lại chỉ có nước chết. Bố đành phải chạy vào Nam. Gia đình không muốn để bố ở Nam một mình, cử nhà con đi, khi đó thằng Thịnh, con của Liễn, mới sanh được 5 tháng.

-Tại sao không dắt mẹ con Thịnh theo? Diễm hỏi.

-Bấy giờ ở quê đã rơi vào tay Việt Minh. Muốn đi, phải lén lút trốn tránh. Đùm đề vợ con làm sao trốn được. Lại nữa, mẹ Thịnh vừa mới sanh.

Nói đến đây, cụ Định lại thở dài, “chậc” lên một tiếng bi ai:

-Bố đâu muốn nhà con đi, bỏ vợ con trong hoàn cảnh như thế. Nhưng rồi nó cứ đi, trốn ra được Hải Phòng theo con tàu “há mồm” di cư vào Nam với Bố. Lúc đó ai cũng tưởng rằng, hai năm sau tổng tuyển cử đất nước thống nhất, gia đình có cơ đoàn tụ, nào ngờ kéo dài mãi đến hôm nay.

Cụ Định kể với ánh mắt xa xăm, quá khứ đau thương từ vực sâu ký ức như trỗi dậy đè nặng lòng cụ. Giọng cụ bỗng lạc hẳn đi, chất chứa bao chua xót, uất hờn:

-Ngày bố và nhà con đi rồi, gia đình ta ngoài đó bị ghép vào thành phần địa chủ phản động, bị đấu tố. Toàn bộ tài sản ruộng đất bị tịch thu, một cái chén cũng không còn để mà dùng. Mẹ con Thịnh chỉ còn được tá túc nơi xó bếp. Còn mẹ con và thằng em mới 15 tuổi của Liễn, bị đày đi Lào Cai nơi rừng thiêng nước độc. Hiện giờ Thịnh, sau khi học hết phổ thông, thành phần này không bao giờ ngoi đầu lên được trong xã hội cộng sản, cuối cùng cũng lên Lào Cai với chú. Còn mẹ nó vẫn ở quê làm ruộng với hợp tác xã cho tới bây giờ.

Kể xong, cụ ngồi yên thầm lặng. Vẻ u uẩn hằn lên khuôn mặt gầy gò. Cụ đưa mắt xót xa nhìn sang Diễm. Diễm vẫn ngồi đó, hai tay chắp vào nhau, mặt cúi gằm tư lự. Mọi biến chuyển nội tâm đang xáo trộn tâm tư nàng. Diễm thấy thương số phận mình, thương luôn hoàn cảnh trớ trêu của mẹ con Thịnh. Nàng biết trách ai đây? Cụ Định ư? Liễn ư? Hay trách  cho số phận, định mệnh đã an bài?

Khi Diễm ngẩng mặt lên, ánh mắt nàng mang theo bao nỗi đau khổ. Từ nơi đó, những giọt lệ long lanh tròn như hạt sương mai, trong như pha lê đang thi nhau lăn dài trên má. Diễm nấc lên trong tiếng khóc nghẹn ngào. Nàng đưa tay quẹt nhẹ nước mắt nhạt nhòa trên mặt, rồi hỏi:

-Câu chuyện thương tâm, quan trọng như vậy, tại sao trước ngày cưới của con cũng như 5 năm qua, không ai nói cho con biết?

Cụ Định vẫn ngồi yên lặng, trầm ngâm. Lòng cụ cũng đang xốn xang trước nỗi buồn của cô con dâu trẻ. Một lúc thật lâu, vẫn giọng bùi ngùi, cụ nói như vỗ về, an ủi:

-Lúc đó con còn nhỏ quá. Nói ra chả có ích lợi gì. Bố chỉ nói với ông bà thân sinh của con. Ai cũng nghĩ, chuyện xưa nhiều năm rồi chắc không hy vọng có ngày tái hợp.

Diễm nói, giọng nghẹn ngào:

-Con lấy chồng chứ đâu phải bố mẹ con lấy chồng. Ít ra mọi người cũng nên nói với con. Tại sao tất cả người lớn dối gạt con. Bố cũng biết hồi đó, dù có thương nhà con, nhưng con vẫn chưa muốn lấy chồng. Con còn đi học, ham học, hiếu học và học giỏi. Bây giờ mọi sự đã lỡ dở cả rồi. Con mất hết tất cả rồi. Mất hết. Con sẽ trả lại chồng cho mẹ con Thịnh. Rồi con sẽ rời đây!

Nói xong, Diễm khóc oà, chạy vội vào nhà trong úp mặt vào giữa hai lòng bàn tay nức nở. Cụ Định chẳng biết nói sao hơn, chỉ đưa mắt nhìn theo buông một tiếng thở dài não nuột.

Từ sau hôm nghe câu chuyện cụ Định kể, Diễm tự coi như nàng đã chết. Đúng ra, Diễm đã muốn quyên sinh ngay từ hôm đó. Đã nhiều lần, Diễm ngồi hằng giờ trên căn gác nhỏ nhìn từng đống thuốc ký ninh, dầu nóng, dầu xanh, thuốc cảm, thuốc đau bụng… nàng đã lôi hết ra từ tủ thuốc gia đình, chỉ cần nốc một hơi với ly nước nhỏ, nửa tiếng hay một tiếng sau nàng kết thúc cuộc đời và kết thúc luôn nỗi khổ đau nàng đang gánh chịu. Nhưng trong cơn tuyệt vọng cùng cực, nhập nhòa trong trí Diễm, hình ảnh ông bà Chí, bố mẹ nàng hiện ra. Hai mái đầu bạc thất thểu lặn lội từ miền Trung vô Sài Gòn gục trên chiếc quan tài của nàng khóc thảm thiết. Nàng nằm trong đó không biết gì. Giữa bao tiếng khóc, tiếng cầu kinh, trống kèn ò e tiễn biệt cùng lời xầm xì thương tiếc tò mò của bà con lối xóm, nàng sẽ không còn nghe gì, thấy gì. Mãi mãi Diễm được yên giấc ngàn thu. Sẽ không bao giờ còn đớn đau gì nữa cả, nhưng thay vào đó, sẽ là nỗi đớn đau của chính bố mẹ nàng. Hai ông bà cụ sẽ đau khổ triền miên suốt quãng đời còn lại. Còn cụ Định và Liễn ư, đương nhiên cũng buồn và sẽ ray rứt khôn nguôi với tháng ngày. Vì chính cụ Định và Liễn đã là người trực tiếp gây nên cái chết của nàng. Không, không thể được. Diễm không thể để người khác phải đau khổ vì mình. Thế thì nàng phải sống, can đảm mà sống, chịu đựng để sống, sống cho bao người thân được cười, trong khi chỉ mình nàng thì khóc.

Nghĩ vậy, Diễm cố giữ lại cái xác của nàng. Một cái xác không hồn, một cái xác biết đi, vất vưởng như bóng ma cả ngày lẫn đêm, nhất là những lúc Sài Gòn không đèn, ngọn đèn dầu le lói soi bóng nàng vào ra, héo hắt trong căn nhà nhỏ với cụ Định.

Diễm quyết không than trách với Liễn. Nàng cũng không thư từ bắt bẻ, kể khổ với bố mẹ. Diễm cũng không muốn tâm sự với bất cứ ai, mà xung quanh nàng còn có ai để tâm sự ngoài cụ Định. Bạn bè, kể từ ngày nàng đến với Liễn, cuộc sống rồi việc học, thêm biến cố 75, tản mác kẻ ở người đi, chả còn người bạn nào có thời gian liên lạc với nàng. Diễm sống khép kín, đóng khung trong cuộc đời của Liễn và cụ Định.

Bây giờ nàng ngồi đây một mình, cô đơn khủng khiếp trên căn gác vắng, không còn cách nào hơn, Diễm bắt đầu trút niềm đau qua những trang nhật ký. Diễm viết về Liễn, về nàng, nhắc nhớ lại những kỷ niệm êm đềm ngày chàng và nàng gặp và quen nhau. Ôi định mệnh. Diễm không ngờ định mệnh khiến xui đưa đẩy cuộc đời Diễm sang một lối rẽ, giữa khi cô bé Diễm ngày nào còn quá ngây thơ, thánh thiện của tuổi học trò.

***

Diễm lên xe hoa về nhà Liễn năm nàng 18 tuổi. Hành trang mang theo về nhà chồng một vali toàn sách vở và vài chiếc áo dài trắng nữ sinh. Đám cưới nhằm ngày chủ nhật. Sáng hôm sau thứ hai, Diễm vẫn cắp sách đến trường để hai tháng kế chuẩn bị cuộc thi Tú tài phần một, rồi tiếp tục phần hai, rồi đại học như ước mơ Diễm hằng ấp ủ.

Diễm ham học, hiếu học hơn là ham lấy chồng trong lúc đó. Nhưng Diễm không cưỡng được số phận, không cưỡng nổi ước mong quyết thực hiện câu ca dao “cưới vợ phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” của cụ Định và ông bà Chí, hai gia đình vốn thân nhau qua hội những người Bắc di cư khi cụ Định còn ở miền Trung – Cụ Định là Hội trưởng còn ông Chí là Thủ quỹ – và nhất là tình chàng. Liễn đến. Đến như cơn gió nhẹ, như dòng suối ngọt ngào, nhẹ nhàng chảy thấm dần vào lòng đất. Tuổi tác chênh lệch như chú cháu, cả Liễn và Diễm không có “tiếng sét ái tình”, nhưng thời gian suốt hai năm “nằm vùng” tại gia đình ông bà Chí – đêm đêm, cụ Định, thỉnh thoảng cả Liễn đến ngủ nhờ nhà nàng để tránh những cuộc tấn công kế tiếp của cộng quân sau vụ tết Mậu Thân – thời gian vừa đủ để Liễn và Diễm tuy không quan tâm để ý nhau vẫn “thấy” ra nhiều điểm tương đồng của nhau. Diễm kính Liễn như một người… chú, một người anh cả. Ngược lại, Liễn cũng mến nàng như cô em gái ngoan. Rồi, điều gì đến đã đến. Một đám cưới “thần tốc” không ai ngờ được, thật đơn giản nhưng không kém phần trang trọng với đầy đủ lễ nghi đã diễn ra chỉ sau một tháng khi Liễn ngỏ lời muốn cưới nàng: “Đừng gọi anh bằng chú nữa. Anh muốn cưới em làm vợ, em bằng lòng không?” Diễm cười: “Cháu… ơ … ơ… e…m … em bằng lòng. Nhưng, nhưng… đợi… em… học xong đại học đã.” Đã chẳng ai chịu đợi nàng. Và Diễm thì nhất quyết không muốn bỏ học.

Các cụ nhà ta vẫn bảo, tình yêu thường đến sau hôn nhân. Quan niệm đó không hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp, nhưng với Liễn và Diễm thì rõ ràng như vậy. Những ngày sống bên nhau, tình yêu của cả hai đã tăng theo cấp số nhân tỉ lệ thuận với lòng tương kính. Càng ngày hai người càng thấy “ý hợp tâm đầu”. Cả hai có cùng một ước mơ, một sở thích, một suy nghĩ và nhất là cùng một chí hướng, một hoài bão phụng sự con người, xã hội, dân tộc hơn là đeo đuổi vật chất để phục vụ đời sống bản thân. Với lý tưởng đó, cho nên, dù nắm giữ những chức vụ chỉ huy quan trọng, Liễn đã chọn cho chàng một đời sống trong sạch, thanh liêm. Và Diễm vui vẻ lẫn cả hãnh diện để chấp nhận cái nghèo của chàng. Ngày ngày, ngoài phận làm dâu, làm vợ, quán xuyến mọi việc trong gia đình, Diễm vẫn nỗ lực tiếp tục học hành với hy vọng sau này đem khả năng hỗ trợ cùng chàng thực hiện những ước mơ.

Nhiều lần, ôm Diễm trong vòng tay, Liễn đã thủ thỉ với nàng: “Em là vợ anh, là em gái của anh, và không chỉ là bạn đời của anh, mà còn là bạn tri kỷ của anh nữa.” Diễm đã sung sướng ngả đầu vào vai chàng, gật đầu.

Biến cố 30-04-75 đến, như cơn bão tố quét sạch mọi ước mơ, mộng đẹp của bao người. Cơn bão lửa ấy đã tàn nhẫn cướp luôn của Diễm trái tim, linh hồn, tình yêu, tương lai và niềm hy vọng. Bây giờ thì nàng mất hết cả rồi. Mất hết. Tất cả đối với Diễm chỉ còn lại kỷ niệm, để tiếc, để thương, và để nhớ….

Một ngày, bà Chí từ miền Trung vào Sài Gòn thăm nàng. Bà hỏi thăm cụ Định về vợ con Liễn ngoài Bắc. Khi rõ chuyện, bà tìm riêng nàng, ngậm ngùi nhìn con gái, rồi nói:

-Con nên về với mẹ. Mẹ gả chồng khác cho con. Cũng may, con và Liễn chưa có con cái ràng buộc, cũng dễ. Hãy trả chồng lại cho người ta, con ạ!

Diễm nén tiếng khóc trong lòng, thẳng thắn trả lời bà Chí:

-Mẹ à, vợ chồng đâu phải là quần áo nay thay mai đổi. Mẹ đã gả con đi lấy chồng, chấp kinh tòng quyền, mẹ hãy để cho con tùy cơ ứng biến, tự định đoạt đời con. Con muốn đợi Liễn về, giáp mặt một lời, rồi tuyên bố trả chồng cho người ta cũng không muộn. Sau đó, con sẽ ra đi. Con chưa biết đi đâu, nhưng chắc chắn một điều con không về với mẹ.

Nói xong, Diễm lẳng lặng bỏ xuống nhà bếp để giấu những dòng lệ đang lã chã tuôn rơi.

***

Một năm, hai năm rồi ba năm. Thời gian lặng lẽ trôi, thấm thoát đã ba năm trời. Ba năm đối với Diễm, biết bao mỏi mòn trong nhớ thương, phiền muộn. Và ba năm qua, thời gian vừa đủ để Diễm rùng mình lột xác, rời bỏ bản chất ngây thơ hồn nhiên, để mở thật to mắt nhận diện rõ cuộc đời. À, thì ra, cuộc đời không phải là những trang giấy trắng trinh nguyên học trò mà Diễm từng vẽ lên đó bao hoa bướm với nắng hồng. Cũng không phải là những áng văn, thơ trữ tình lãng mạn như mây bay, suối ngàn, gió thoảng. Mà cuộc đời còn đầy dẫy chông gai, thú dữ, thác ghềnh, bão tố…. Chỉ cần sơ hở, con người  sẽ bị nuốt trộng, cuốn trôi, ngã quỵ…

“Học tập cấp úy mang theo lương thực mười ngày, cấp tá một tháng.”

Đó là lời khuyến dụ của nhà nước cộng sản nói với đồng bào miền Nam. Nhưng, mười ngày đã trôi qua, một tháng đã trôi qua, vài tháng và vài năm rồi cũng trôi qua, Liễn vẫn biền biệt, không thấy trở về.

“Thân nhân gia đình cải tạo phải chấp hành tốt đường lối chính sách của cách mạng. Cách mạng sẽ nhân đạo khoan hồng, cứu xét cho người thân sớm đoàn tụ”.

Một lần nữa, Diễm lại ngây thơ nghe theo một cách ngoan ngoãn. Công tác phường, khóm, thủy lợi đào mương, nàng năng nổ như một… kiện tướng! Cuối cùng, cái tin Liễn bị đưa ra Bắc, bị đày tận Lào Cai như cú đấm… đảng giáng, đẩy Diễm xuống tận cùng của hố thẳm tuyệt vọng. Nhưng chính vào lúc cùng cực của khổ đau, bị ép vào chân tường, trong nàng lại bừng lên sức phản kháng mãnh liệt. Phản ứng tâm lý ấy, một phần là uất ức cá nhân, một phần không thể chấp nhận được chính sách của chính quyền cộng sản. Nhưng làm gì bây giờ? Diễm lắc đầu, bó tay, chịu trận. Dù sao, nàng cũng vẫn là một phụ nữ chân yếu tay mềm. Lúc đầu, nàng chỉ biết bày tỏ lòng phản kháng bằng những giọt nước mắt đắng cay, tự thương cho thân mình, cũng như thương toàn thể nhân dân Việt Nam bị lừa gạt bởi một chính sách mị dân, dối trá.

Nhưng thời gian sau, trong những đêm khuya thanh vắng, thầm lặng bên khung cửa sổ, Diễm đẵm mình vào dòng suy tưởng đến nhân sinh, xã hội, đất nước. Khi niềm đau chung của dân tộc quá bao la to lớn, nỗi niềm ray rứt riêng tư của nàng dường như nguôi ngoai được phần nào. Lắng nghe từ nội tâm, Diễm cảm nhận được niềm thôi thúc mãnh liệt. Cảm giác thôi thúc đó càng lúc càng lớn dần chiếm hữu tâm tư nàng. Phải chăng tiếng gọi của non sông? Phải chăng tiếng thở dài của dân tộc? Tâm thức Việt Nam từ thuở Hồng Hoang dựng nước của cha ông, giờ đây nẩy nở trong tâm hồn nàng, kêu gọi, đánh thức khả năng phân tích nhận định của nàng về xu hướng phát triển của đất nước trong tương lai. Một đất nước làm sao có được thanh bình, thịnh vượng, đạo đức xã hội cao, khi những đứa trẻ ngây thơ trong trắng hôm nay, là rường cột của quốc gia mai sau, không được giáo dục các bài học yêu thương, mà chỉ nhồi nhét vào tâm hồn chúng thù hận ngút ngàn:

Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ.

Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong.

Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng.

Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt.

(Thơ Tố Hữu)

Và:

Người đứng lên, một thân hình ngã gục.

Mắt người đưa, một thác máu rung rinh.

(Thơ Tố Hữu)

Người ta không dạy cho các em thượng tôn ý thức dân tộc, trao truyền cho thế hệ mai sau nền văn hoá bản địa (hoặc đã bản địa hoá lâu đời) và những tư tưởng nhân bản, từ bi, bác ái của tiền nhân Đại Việt, mà đầu độc các em bằng chủ nghĩa ngoại lai, bằng tư tưởng nô lệ quốc tế. Những danh từ “anh cả Liên Xô” hay “chị hiền Trung Quốc” đã cho con dân Việt Nam thấy sự quái thai của chính sách vọng ngoại kỳ quái. Thương thay cho mẹ hiền Việt Nam đã bị những đứa con bất hiếu, vong bản “trả ơn, báo hiếu” bằng những lời thơ nô dịch, mà từ cổ chí kim chưa bao giờ có:

Thương biết mấy khi con tập nói.

Tiếng đầu đời con gọi Stalin.

Hay là:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng.

Thương mình thương một, thương ông (Stalin) thương mười”.

(Thơ Tố Hữu)

Một đất nước không thể phát triển đúng mức khi sơ yếu lý lịch không là khuôn vàng thước ngọc để đo đếm tài năng mà chỉ để phân biệt thù hay bạn. Chính sách “hồng hơn chuyên” hay “lý lịch trao quyền” đã đưa những kẻ vô tài, vô đức vào những địa vị quan trọng. Còn những người con ưu tú của dân tộc, nhưng nếu ông, cha họ khác chính kiến với chính quyền, thì chắc chắn không bao giờ ngóc đầu lên nổi.

Diễm hình dung guồng máy điều hành quốc gia như một cỗ xe. Cỗ xe ấy chỉ có thể vận hành, khi từng bộ phận được đặt đúng vị trí của nó. Không thể đặt chiếc bánh xe vào vị trí tay lái, và tay lái vào vị trí bánh xe. Không thể thay cái cuốc, cái cày vào bàn tay người cầm bút, và cũng không thể đặt bàn tay của người đồ tể giết heo vào cán cân công lý, hoặc bàn tay của một người chỉ có khả năng làm thơ tô hồng chế độ vào vị thế chỉ đạo kinh tế quốc dân. Nhưng hiện tại, cả miền Nam đều đảo ngược, bao nhiêu tài hoa trí thức bị đẩy vào lao tù, đi đày ở vùng kinh tế mới. Một sự phí phạm, lãng phí tiềm năng chất xám không thể nghĩ bàn!

Rồi Diễm lại nghĩ đến Liễn. Giờ này ở Lào Cai rừng thiêng nước độc, chắc chàng đang đói rét, cực khổ trăm bề, mạng sống thật mong manh, ngày về diệu vợi. Chàng tội gì nhỉ? Diễm tự hỏi. Từng sống bên chàng và là tri kỷ của chàng, Diễm thấy rõ cái chính nghĩa nơi chàng. Một người yêu nước, trong sạch, thanh liêm. Chàng vượt lên trên mọi quyến rũ của vật chất tầm thường, để sống cuộc đời thanh đạm, ôm hoài bão phụng sự một đất nước tự do, dân chủ thật sự. Chàng khẳng định rằng những thế lực quốc tế chắc chắn chẳng thương yêu gì dân tộc, đất nước Việt Nam.

Nhiều lần, chàng tâm sự với Diễm: “Đất nước ta chưa độc lập, luôn nằm trong sự tranh chấp của hai phe, ba phái. Những người yêu nước chân chính, không Cộng sản, không Tư bản, chưa có chỗ đứng trên đất nước này, em ạ”.

Càng nghĩ, Diễm càng thấy thương chàng, kính chàng. Diễm cũng nghĩ đến mẹ con Thịnh. Họ đều là những nạn nhân của thời cuộc. Họ tội tình gì, mà phải chịu đựng bao điều đau khổ, con thiếu cha, vợ thiếu chồng? Rồi Diễm thương luôn cả mẹ con Thịnh. Nghĩ như vậy, Diễm dẹp tình riêng, quên đi niềm đau để nghĩ đến những điều cao cả, to tát hơn là những tình cảm vụn vặt đời thường. Diễm quyết chờ Liễn về, không phải để “trả lại chồng cho người ta, rồi bỏ đi” vì như thế Liễn sẽ đau lòng không ít, mà Diễm sẽ cùng chàng, sát cánh bên chàng để thực hiện những ước mơ, hoài bão mà cả hai hằng ấp ủ. “Sát cánh bên chàng” tức là đồng nghĩa với sự chấp nhận cuộc sống chung và sự hiện diện của mẹ con Thịnh. Và như thế, sự chờ đợi của nàng, cuối cùng, chỉ còn… nửa ông chồng! Nhưng mà, “chết cho tri kỷ còn không đáng tiếc”, sá gì hy sinh một nửa ông chồng?!

Tự tìm ra được lối thoát hợp lý giải quyết vấn đề nội tâm, ổn định nội bộ gia đình, Diễm thấy lòng nhẹ nhàng, thanh thản. Nàng không xem chuyện rắc rối vợ nọ, con kia giữa Liễn và nàng là điều quan trọng nữa. Chấp nhận sống chung trong tình thương yêu chân thành sẽ là nhịp cầu thông cảm để mọi người xích lại gần nhau, cùng xây dựng mái ấm gia đình.

Nhưng, Diễm lầm. Hạnh phúc không thể xây dựng từ một phía, mà đòi hỏi sự đồng lòng, thiện chí quyết thực hiện từ hai bên. Cho nên, một ngày, khi mẹ Thịnh vào Nam thăm cụ Định và nàng, mặc dù Diễm đã đối xử với… bà vô cùng thân thiện, trân trọng, chân tình, song nhìn Diễm tươi trẻ, gần gũi, mẹ Thịnh lại có suy nghĩ khác. Bà nói:

-Tôi hết sức ngạc nhiên. Cô trẻ thế, anh Liễn thì già thế, thế mà lấy nhau được? Chắc cô nhí nha, nhí nhảnh… quyến rũ anh Liễn chứ gì?

Diễm đã tròn xoe mắt ngạc nhiên, không nói nên lời. Nàng nhìn sững mẹ Thịnh, người đàn bà đáng thương, đáng tuổi mẹ nàng. Chiến tranh đã cướp của bà trọn tuổi thanh xuân. Phong kiến và cộng sản đã tạo nên bà thành người cam phận trước số mạng, chấp nhận nó một cách đương nhiên không hề biết hay có biết nhưng ý chí và sức phấn đấu đã bị thui chột, tê liệt trước sự tàn bạo của cuộc đời. Như Thịnh, con bà, Thịnh giống mẹ nhiều hơn giống Liễn. Giống mẹ từ hình hài lẫn suy nghĩ. Ngày Thịnh vào Nam, khi chuyện trò, Diễm có nói với Thịnh: “Con trai lấy sự nghiệp làm chính. Thành phần chúng ta không thể ngoi đầu trong xã hội này. Thịnh ở lại trong Nam cùng tôi tìm cách vượt biên. Sau này, Thịnh bảo lãnh cho mẹ Thịnh, còn tôi bảo lãnh cho Liễn.” Nhưng sau khi trở về Bắc, Diễm không ngờ, vài tháng sau, Thịnh lập gia đình khi sự nghiệp chỉ trơ hai bàn tay trắng. Diễm đã hoàn toàn thất vọng về Thịnh, và bây giờ thất vọng thêm về mẹ Thịnh. Nhưng Diễm hoàn toàn không trách bà, trách Thịnh. Nàng chỉ buồn thôi, buồn riêng số phận mình.

Diễm sa sầm nét mặt, cảm nhận điều gì đó đang đổ vỡ trong lòng. Nàng buồn rười rượi, lặng thinh, bâng quơ nhìn nắng lung linh rực sáng ngoài hiên cửa, song lòng nàng ảm đạm, héo hắt tựa mùa Đông.

-Chắc cô ham công danh, địa vị, xúi anh Liễn đi lính để anh bị tù tội ngày hôm nay? Mẹ Thịnh giáng thêm câu kế tiếp.

Diễm vẫn không trả lời. Nàng đứng dậy, thất vọng, lẳng lặng đi xuống bếp.

Kể từ hôm đó, không khí trong nhà trở nên nặng nề ngột ngạt. Diễm biếng nói, biếng cười. Lòng héo úa, cô đơn như bãi sa mạc quạnh hiu. Hằng ngày, vẫn bổn phận thường nhật, Diễm lo cơm nước cho gia đình. Dạo này, bà con họ hàng, con cháu cụ Định ngoài Bắc liên tục vào Nam. Kinh tế gia đình vốn đã khó khăn càng thêm kiệt quệ. Những món tiền bố mẹ Diễm thỉnh thoảng tiếp tế, những đồ đạc, nữ trang trong ngày cưới thi nhau ra chợ trời, Diễm cũng tập tành bươn chải tìm kế sinh nhai, cụ Định vay nợ để chi phí trong nhà càng lúc càng chồng chất, mặc dù chỉ khi riêng cụ Định và Diễm, những bữa ăn đạm bạc vỏn vẹn một đĩa rau luộc vẫn không đủ trang trải tiền thăm nuôi, tiếp tế Liễn và nhất là quà cáp, tàu xe cho con cháu cụ Định.

Trước cuộc sống bế tắc, chế độ khắc nghiệt, tương lai mịt mờ, bao khổ lụy từ vật chất lẫn tinh thần dồn dập, ý tưởng vượt biển tìm tự do lại nung nấu trong lòng Diễm.

Một lần nấu cơm, ngồi quạt những viên than đá trong lò, khói đen mù mịt, trong nỗi chán chường dâng đầy, Diễm bật thốt:

-Ở đây, khó sống quá. Chắc phải vượt biên thôi!

Câu nói trống không, vô thưởng, vô phạt lại có tác dụng mạnh mẽ trong suy nghĩ của mẹ Thịnh. Bà đùng đùng nổi giận, gắt lớn:

-Cô có đi vượt biên thì nên đi một mình. Tôi không giữ anh Liễn cho tôi, nhưng anh ấy phải ở lại để có trách nhiệm với con anh ấy.

Diễm lại tròn xoe mắt ngạc nhiên, nhìn thẳng vào đôi mắt mẹ Thịnh rồi nhẹ nhàng gật đầu:

-Được, chị an tâm. Tôi sẽ đi một mình!

***

Diễm đã đi một mình vào giữa năm 1981. Hành trang nàng mang theo vỏn vẹn chiếc nhẫn cưới vàng tây mỏng mảnh, sợi dây chuyền tượng Phật, cũng vàng tây, ngày bé, mẹ đã đeo cho nàng và tập tiểu thuyết viết tay Diễm tập viết từ những ngày cô đơn, đau khổ. Diễm viết về chính cuộc đời nàng, về xã hội đương thời đầy rẫy những bất công, lọc lừa, áp bức mà nàng cũng như bao người phải cam chịu “có tai như điếc, có mắt như mù, có miệng như câm”. Viết, đối với Diễm bấy giờ vừa là phương cách giải tỏa những u uẩn nội tâm, là sự phản kháng nhẹ nhàng, trút bao uất hờn chất chứa trong lòng, vừa đánh dấu một giai đoạn của thời cuộc mà chính nàng là nhân chứng lẫn nạn nhân.

Diễm chép làm hai bản. Một bản mang theo, một bản giấu ở nhà phòng chuyến đi thất bại.

Ngày ra đi, ngoài cụ Định, nàng không hề tạ từ cha mẹ và anh chị em ruột. Diễm âm thầm theo người chủ tàu, “phu nhân” của một đại tá tình báo Việt Nam Cộng Hoà (chồng đang tù cải tạo) từng đi lại quen biết với gia đình cụ Định, đứng ra tổ chức. Người phụ nữ đó, cũng như Diễm, trưởng thành mau trước sóng gió và những nỗi gian truân của cuộc sống. Bà giúp Diễm một chỗ với sự đóng góp tượng trưng cùng lời nhắn nhủ Diễm: “Ra đi để làm lại cuộc đời!”

Chuyến vượt biên đổ người vào nửa đêm về sáng khi những công an biên phòng lơ là canh gác. Bà chủ tàu lay Diễm dậy giữa khi nàng đang trăn trở với trăm mối ngổn ngang. Nửa muốn ra đi, nửa bịn rịn quê cha đất tổ với bao người thân còn kẹt lại và bao kỷ niệm êm đềm lẫn đau thương nơi quê nhà. Ra đi, không biết bao giờ trở lại, có hy vọng gặp lại người thân hay vĩnh viễn rời xa. Diễm tự hỏi rồi bồi hồi xúc động khi nàng nghĩ đến Liễn, đến hình hài tiều tụy mà những lần thăm nuôi tiếp tế vẫn không thay đổi khá hơn. Nàng thầm nói với chàng: “Anh Liễn ơi, đêm nay em xuống tàu vượt biên, em không biết nên nói với anh lời tạm biệt hay vĩnh biệt. Gia đình không dung chứa em. Tổ quốc cũng không đón nhận em. Không cho em một chỗ đứng dù khiêm nhường nhất. Sáu năm qua, chịu đựng và cố gắng phấn đấu với đời, em không còn đủ sức chống chọi nổi. Em đầu hàng số mạng, tự thả đời em trôi theo dòng sống. Hãy hiểu em, đừng trách em, anh nhé.” Nói rồi, Diễm đưa tay lau nhẹ những giọt nước mắt vừa trào ra, lò dò ngồi dậy, lầm lũi theo bà chủ tàu ra bến. Diễm từ biệt bà, xuống ghe. Còn bà ở lại chờ chồng và chuẩn bị những chuyến vượt biên kế tiếp.

Đêm đó, tàu ra khơi. Tàu dần dần rời xa đất tổ. Con thuyền lướt sóng, lặng lẽ như chiếc lá con giữa biển khơi, bỏ lại sau lưng quê hương, bố mẹ già, anh chị em, cụ bố chồng và… người chồng yêu dấu!


 

1 chú chó chờ đợi gia đình mình tại cây xăng cũ suốt 4 năm..

1 chú chó chờ đợi gia đình mình tại cây xăng cũ suốt 4 năm – và một buổi sáng nọ – phép màu xảy ra ….

Giữa một cây xăng cũ kỹ, phủ đầy bụi thời gian trên tuyến quốc lộ vắng bóng người, có một chú chó đã nằm chờ suốt bốn năm trời. Ngày nắng cháy da, nó nằm co mình dưới bóng cây bơm xăng số ba. Ngày mưa tầm tã, nó vẫn lặng lẽ chờ… Một người. Một gia đình. Một ký ức mà không ai xung quanh còn nhớ rõ – ngoại trừ nó.

Không ai biết vì sao nó ở đó. Không ai hiểu vì sao nó chẳng chịu rời đi. Nhưng rồi, vào một buổi sáng rất bình thường… điều kỳ diệu đã xảy ra.

Trên một đoạn quốc lộ ít người qua lại, nằm giữa hai thị trấn nhỏ miền Trung, có một cây xăng cũ, gỉ sét và đã bị bỏ hoang suốt nhiều năm. Bên dưới mái che đã mục nát, giữa cái nắng cháy da và mưa gió tơi bời, người ta thường thấy một chú chó màu vàng nhạt nằm cuộn mình bên trạm bơm xăng số ba.

Không ai biết tên nó là gì. Dân trong vùng gọi nó là Mực, vì bộ lông có mảng đen loang lổ như mực tàu. Mực không hung dữ, nhưng cũng chẳng thân thiện. Nó không sủa, không đuổi theo  xe, không chạy tới khi ai gọi. Nó chỉ lặng lẽ… chờ đợi.

Người dân quanh đó đồn rằng bốn năm trước, có một gia đình dừng lại cây xăng này. Họ đi xe hơi – loại xe gia đình màu bạc. Trong xe có đôi vợ chồng trẻ và một đứa bé trai tầm 5 tuổi. Mực khi ấy là chú chó vui vẻ, nhanh nhẹn, thường chạy quanh xe trong lúc người cha đổ xăng. Nhưng rồi, vì một lý do nào đó – có thể là tai nạn, hoặc một sự hiểu nhầm – họ rời đi… và để quên Mực lại.

Từ hôm ấy, Mực không đi đâu nữa. Nó ở lại, mỗi ngày nhìn về hướng quốc lộ. Mưa cũng như nắng. Người ta đem cho nó ít cơm nguội, có người mang nước sạch. Nhưng Mực chẳng bao giờ đi theo ai, chẳng chịu rời khỏi mảnh đất hoang tàn ấy.

Bốn năm là quãng thời gian dài. Trên người Mực, những vết thương cũ và mới giao thoa. Có lần nó bị xe tông, một chân sau đi cà nhắc. Có lần bị đàn chó hoang rượt đuổi. Nhưng điều kỳ lạ là Mực vẫn sống sót, như có điều gì đó níu giữ sinh mệnh của nó nơi đây.

Thỉnh thoảng, mỗi khi thấy một chiếc xe màu bạc chạy qua, nó nhỏm dậy, hai tai vểnh lên, mắt sáng rực – nhưng rồi ánh sáng ấy tắt lịm khi xe đi khuất.

Người dân quanh đó ai cũng xót. Có người từng cố bế nó đi, mang về nuôi. Nhưng Mực giãy giụa đến mức bị thương, rồi lại quay về cây xăng cũ ấy, bằng mọi giá.

Một ngày mùa đông, khi sương mù giăng kín con đường, một người phụ nữ mặc áo khoác dài, tóc buộc gọn sau lưng, dừng lại trước cây xăng. Cô tên là Hà, đến từ thành phố. Hà là một phóng viên tự do, nghe câu chuyện về “chú chó chờ chủ suốt bốn năm” qua mạng xã hội và quyết định đi điều tra.

Ban đầu, Mực lẩn tránh cô. Nhưng Hà có kiên nhẫn. Cô đến mỗi sáng, ngồi cách xa, mang đồ ăn đặt trước mặt Mực, rồi im lặng. Sau một tuần, Mực bắt đầu cho cô đến gần. Sau hai tuần, nó để cô chạm nhẹ lên đầu mình.

Hà bắt đầu ghi chép. Cô phỏng vấn người dân, truy vết những gì từng xảy ra. Cô tìm được người chủ trạm xăng cũ, ông lão gần 70, kể lại rằng:

“Cái hôm đó, thằng bé cứ khóc mãi vì quên con chó. Nhưng tụi nó đang gấp, hình như chở ai đi cấp cứu. Tôi cũng không biết sau đó ra sao. Mà rồi chỗ này đóng cửa, tôi về quê, mãi gần đây mới nghe lại câu chuyện.”

Hà không dừng lại ở đó. Cô xin được đoạn camera cũ từ cửa hàng cách đó 3 km – nơi chiếc  xe ấy từng dừng lại sau cây xăng. Hình ảnh mờ, nhưng cô phóng to được biển số. Với sự giúp đỡ của vài mối quan hệ, Hà lần ra danh tính chủ xe – một người đàn ông tên Trịnh Văn An, từng sống tại Huế, nay đã chuyển vào Sài Gòn.

Hà tìm đến Sài Gòn. Cô đến địa chỉ trong hồ sơ, gõ cửa một căn nhà nhỏ trong hẻm. Mở cửa là một cậu bé chừng 9 tuổi. Mắt cậu mở to khi Hà nhắc đến “cây xăng” và “chó tên Mực”.

Mẹ cậu – chị Trang – từ sau bước ra. Khi Hà đưa ra bức ảnh Mực đang nằm trước cây xăng, chị Trang bưng miệng bật khóc.

“Chồng tôi mất trong tai nạn hôm đó. Chúng tôi đang đưa anh đi cấp cứu từ Đà Nẵng về. Mọi thứ hỗn loạn, xe vội vã… Tôi không biết… tôi không biết là nó rơi khỏi xe…”

Cậu bé – tên là Nam – run run đưa tay cầm ảnh.

“Mẹ, đó là Mực. Mực chờ tụi mình thật sao? Bốn năm ạ?”

Một tuần sau, vào một buổi sáng bình thường như mọi ngày, Mực vẫn nằm đó. Trời se lạnh. Gió thổi qua mái che kêu lạch cạch.

Bỗng… từ xa, tiếng động cơ quen thuộc. Một chiếc xe bảy chỗ màu bạc dừng lại.

Cánh cửa mở ra. Một đứa bé trai bước xuống, trên tay cầm quả bóng nhỏ màu đỏ – món đồ chơi năm xưa Mực rất thích.

“Mựcccc!!!” – cậu bé gọi lớn.

Mực giật mình. Đầu nó quay phắt lại. Ánh mắt nó dại đi, rồi mở to. Một tiếng rên khẽ phát ra từ cổ họng khàn khàn.

“Mựccc, là con Nam đây!”

Chú chó bật dậy, cà nhắc chạy về phía cậu bé. Không còn hoài nghi, không còn sợ hãi – chỉ có mừng rỡ, vỡ òa. Mực nhảy vào lòng Nam, liếm tay, vẫy đuôi đến mức mất thăng bằng.

Người phụ nữ bước xuống, đôi mắt đỏ hoe. Cô ngồi thụp xuống ôm cả hai – con trai và chú chó – vào lòng.

Bầu trời sáng lên, dù vẫn mây mù. Người dân quanh đó chạy tới, chứng kiến khoảnh khắc kỳ diệu ấy – một phép màu giữa đời thực.

Hà đứng lặng, ghi lại khoảnh khắc ấy bằng chiếc máy ảnh cũ. Câu chuyện của Mực trở thành tiêu đề chính trên nhiều trang báo lớn trong nước. Một chú chó trung thành, chờ đợi giữa hoang tàn, cuối cùng cũng được đoàn tụ.

Mực giờ đã có ngôi nhà mới – ở Sài Gòn, với Nam và mẹ. Dù tuổi đã cao, sức khỏe yếu dần, nhưng trong ánh mắt Mực không còn buồn nữa.

Mỗi buổi chiều, Nam thường ôm Mực ra hiên nhà, kể chuyện ở trường. Còn Mực, chỉ cần thế – là đủ để sống thêm một đời.

Cuộc đời có thể tàn nhẫn, thời gian có thể lạnh lùng. Nhưng lòng trung thành – như của Mực – chính là thứ cảm động và đẹp đẽ nhất. Và đôi khi, chỉ cần một chút hy vọng, một chút tình thương – phép màu sẽ xảy ra.


 

LƯƠNG THIỆN –  Cang Huỳnh -Truyện ngắn HAY

Nhung Nguyen

Cô gái người Mỹ Liz Woodward là nhân viên một cửa hàng thức ăn nhanh phục vụ 24/24h tại New Jersey. Vào 4 giờ sáng mỗi ngày, trong lúc hầu hết mọi người vẫn còn đang say giấc, thì Liz vẫn phải kìm nén sự buồn ngủ để làm việc.

Một ngày nọ, khi trời mới tờ mờ sáng, hai nhân viên cứu hộ với gương mặt xám tro tiến vào cửa hàng nơi Liz đang làm việc, một trong hai người họ xuất hiện với vẻ mặt mệt mỏi, khàn giọng nói:

– “Cô gái, cho chúng tôi hai tách cà phê espresso.”

Thì ra là cả hai vừa mới tham gia vào một vụ chữa cháy. Ngọn lửa trong nhà kho vô cùng dữ dội, họ không hề chợp mắt suốt đêm và dành 12 giờ để chiến đấu với ngọn lửa. Tại thời điểm này, họ đang kiệt sức, rất cần một ly cà phê để tỉnh táo lại.

Trong quá trình pha cà phê, Liz cẩn thận lắng nghe cuộc trò chuyện giữa hai người và biết rằng hai lính cứu hỏa Tim và Paul đã cứu hỏa thành công. Cô gái lương thiện này đã trả tiền cho 2 ly cà phê và còn tỉ mỉ chuẩn bị một bữa sáng ngon miệng cho họ.

Trên mặt sau của hóa đơn, cô gái viết:

– “Tôi đã trả tiền cho bữa ăn sáng ngày hôm nay. Cảm ơn sự đóng góp của các anh. Khi tất cả mọi người đều tìm cách thoát thân, các anh lại không màng tính mạng lao vào ngọn lửa. Bất kể trách nhiệm là gì, các anh là người dũng cảm, mạnh mẽ nhất, cũng là tấm gương tốt nhất cho tất cả mọi người, cám ơn vì mọi việc các anh đã làm, hãy nghỉ ngơi thật tốt. “

Hai người đàn ông cảm nhận được sự ấm áp qua từng câu từng chữ trên tờ hóa đơn, nó thực sự đã chạm tới nơi mềm yếu nhất trong trái tim họ, sau khi xem xong, họ bất giác khóc.

Cảm giác đau thương sau một vụ hỏa hoạn, chỉ có những người đã từng trải qua mới thấu hiểu. Liz nhìn họ, hai người họ cũng nhìn Liz, họ dành cho nhau ánh nhìn ấm áp và nở nụ cười, cuối cùng vẫy tay tạm biệt.

Sau khi trở về nhà, nhân viên cứu hỏa Tim càng nghĩ càng cảm thấy cảm động, anh đã đem câu chuyện này kể lại một cách chân thật trên mạng xã hội, đồng thời còn nhắn gửi tới bạn bè: Hãy tới cửa hàng đầy ấm áp đó, nếu như gặp được cô gái lương thiện này, hãy trả thêm một ít tiền.

Không ngờ rằng, lời nhắn nhủ đơn thuần của Tim chỉ trong một đêm đã khiến cư dân mạng vô cùng ủng hộ, tấm lòng lương thiện của Liz được truyền đi khắp nơi, đâu đâu cũng ngập tràn lời khen, rất nhiều người đã đích thân tới cửa hàng để thể hiện sự ngợi khen, ủng hộ với cô gái.

Tuy nhiên, khi bài viết của Tim được hơn 30.000 người bình luận, anh đã nhìn thấy một khía cạnh khác của câu chuyện:

Trên thực tế, gia đình của Liz không giàu có, và thậm chí có thể được mô tả là khá túng thiếu. Đầu năm 2010, cha cô bị liệt do tổn thương não. Vì cô không đủ khả năng mua một chiếc xe ô tô có hệ thống đưa xe lăn lên xuống, nên người cha bị ốm của cô quanh năm phải nằm trên giường. Còn Liz, cô phải cáng đáng toàn bộ gia đình, để có thể nhanh chóng mua một chiếc xe, cô đã làm 3 công việc bán thời gian suốt ngày đêm.

Sau khi biết được hoàn cảnh của cô gái, chàng nhân viên cứu hỏa không thể diễn tả được tâm trạng của mình, anh đã bàn bạc với một số đồng nghiệp, phải làm việc gì đó giúp cô gái lương thiện này. Chẳng mấy chốc họ đã tạo ra một trang gây quỹ cộng đồng để mua một chiếc ô tô cho cha của Liz. Mục tiêu ban đầu của họ là 17.000 đô la Mỹ, không ngờ rằng số lượng người tham gia rất cao, 10.000, 20.000, 50.000, lên đến 86.000 đô la.

Ngay sau đó, một số nhân viên cứu hỏa đã mang toàn bộ số tiền tới thăm cha của Liz và trao nó cho cô. Liz đã ôm lấy người lính cứu hỏa Tim và bật khóc. Cảnh tượng này cũng khiến cho anh chàng cứu hỏa đi cùng rơi nước mắt.

Liz nói: “Bữa sáng hôm đó tôi mua cho họ chỉ đơn thuần là lòng biết ơn tôi muốn gửi tới họ, hoàn toàn không hề nghĩ tới kết quả ngày hôm nay, tôi cảm động tới mức không biết nên nói gì nữa.”

Chỉ là một hành động nhỏ, không ngờ lại được báo đáp đầy thiện ý to lớn như vậy. Liz chưa từng nghĩ tới, cũng không dám nghĩ tới.

Lòng tốt sẽ luôn được báo đáp. Trước khi cha của Liz bị liệt, ông đã làm “nhân viên khắc phục thảm họa” trong suốt mấy chục năm liền, sau mỗi thảm họa lớn nhỏ, ông đều không màng tính mạng của bản thân lao vào hiện trường để hoàn thành công việc khắc phục thảm họa của mình. Lòng tốt của ông ấy đã truyền cho con gái mình, và rồi lại quay trở về bên cạnh ông ấy.

Lòng người đổi thay, thói đời bạc bẽo – vậy tại sao chúng ta phải chọn cách sống lương thiện?

Khi làm việc thiện, ngay cả khi bạn không nhận được hồi báo trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nhất định sẽ có một ngày thiện lương cùng sự ấm áp sẽ đến với bạn.

Cang Huỳnh lược dịch từ Histoire de vie.


 

 SAO CHA LẠI GIẤU CON?- Tác giả: Nguyễn Nga- Truyện ngắn HAY

Phuong Tran

Em lừng khừng trước quán, không chịu vào. Tưởng em không thích không gian, tôi ái ngại hỏi:

– Em muốn đổi quán khác à?

Em lắc đầu, chỉ vào cây dù thật lớn bên hông quán, chỗ chú bảo vệ đang ngồi giữ xe, bộc bạch:

– Cách đây hơn 10 năm, đó là chỗ ông ba em đã ngồi…

Em nhớ lại, cái ngày em đậu đại học. Buổi tối, trước hôm, cha dẫn em lên thành phố nhập học, ông gọi mẹ em vào buồng, dặn dò: “Ở quê lúc này mùa màng thất bát, ít việc, tôi đưa con Út vô đó học, sẵn tìm việc làm thêm… kiếm tiền lo cho con”.

Mỗi năm đến mùa tựu trường, em nhớ cảnh hai cha con lặn lội khắp thành phố tìm nhà trọ cho sinh viên. Nhiều ánh mắt tò mò dõi theo cha em với “kho” thức ăn dự trữ từ quê, nào là: miến, măng, cá khô, lạc rang,…

Một buổi trưa, cha điện thoại cho em, giọng ồ ồ: “Nay quán đông khách lắm, ba không sang đưa tiền cho con được. Con chịu khó ghé qua đây lấy!”.

Khi em đến gần cái quán mà cha hẹn, trời bất ngờ đổ mưa. Đang trú mưa bên hiên một ngôi nhà, ngước lên, em khựng lại. Tại góc quán này, một người đàn ông cao gầy, nước da màu nắng cháy, đang cầm trên tay ổ bánh mì ăn dở.

Mỗi khi thấy khách, ông lại đặt vội ổ bánh mì xuống chiếc ghế bên cạnh, nhanh nhẹn chạy ra đẩy xe cho khách. Ông cứ nhấp nhổm theo những chiếc xe khách ra vào quán liên miên.

Khi quán vãn khách cũng là lúc hai vai áo ông ướt đẫm nước mưa, còn ổ bánh mì thì nhũn nhão cả ra. Vậy mà mỗi khi điện cho con gái, cha luôn cười khà khà, giọng tếu táo khoe: “Cha làm việc nhẹ, lương cao. Ở đây được… ăn ngon, mặc đẹp”. Nhìn cha nhai vội ổ bánh mì, cố nuốt cho nhanh, khóe mắt em bỗng cay cay, thầm trách: “Sao cha lại giấu con… công việc nhọc nhằn… ”.

Chiều ấy, chuông điện thoại reo liên hồi, ba gọi, hối em đến lấy tiền. Nhưng em đã đi thẳng về nhà trọ, không ghé vào quán gặp cha nữa.

Một tuần sau, em điện cho cha, chỉ nói ngắn gọn một câu: “Ba về quê với mẹ đi. Con đã kiếm được việc làm thêm. Từ nay con sẽ tự lo cho mình…”.

Nhớ đến ba, em có động lực, miệt mài với những công việc làm thêm: Từ gia sư, phục vụ đến phát tờ rơi… Lúc đầu, ba đâu tin, chỉ khi tận mắt chứng kiến con gái làm việc, ông mới khăn gói về quê.

– Ông cụ vẫn còn mạnh chứ?

Câu hỏi bất chợt của tôi, khiến mắt em rươm rướm.

– Ba em bị tai biến, mất được hơn năm nay!

Sau phút giây trầm tư, thật nhanh, em lấy lại vẻ tươi tắn:

– Dù nhiều năm rồi nhưng mỗi lần đi qua góc đường có quán cà phê này, em vẫn còn nhớ như in hình ảnh ba đang ngồi gặm ổ bánh mì, giữa cảnh trời mưa tầm tã.

Tôi đệm thêm như một lời an ủi.

– Nơi chín suối, ba em sẽ yên lòng. Vì con gái ông đã ăn học thành tài!

Em mỉm cười, đôi mắt vẫn không rời chiếc dù, bên ngoài quán.

Đôi khi ở đời: Chết chưa phải là hết, chưa phải là tan biến vĩnh viễn vào cõi hư vô. Bởi những hình ảnh đẹp đẽ mà khi còn sống, người ta đã đóng dấu sẽ nằm lại mãi mãi trong trí nhớ của những người thân thương! 

Tác giả: Nguyễn Nga

Ánh sáng trong mắt người mù – Nguyễn Thảo Nam -Truyen ngan HAY

Nguyễn Thảo Nam

Tôi đến Nebraska vào đầu mùa Đông giá lạnh. Người đón ở phi trường là một người chưa bao giờ gặp mặt. Tên anh là Thomas. Một vài câu chào nhau lạnh lùng giữa mùa đông lạnh. Lặng lẽ, anh dẫn tôi ra khỏi phi trường và lao mình trên chiếc xe truck trong cơn gió tuyết. Mùa Đông Nebraska quá khắc nghiệt hơn tôi dự đoán. 

Từng cơn gió tuyết réo rắt đến rợn người. Một màu trắng xoá trải dài, dài như vô tận. Những khu nhà thưa thớt của dân nghèo da đen gần phía phi trường phủ ngập tuyết. Tuyết phủ cao có khi lấp hẳn cả những chiếc xe nằm bất động bên đường. Không gian tĩnh mịch. Trong lòng đơn côi. Tôi hoang mang sợ hãi! Không biết mình có vượt qua nổi mùa Đông khắc nghiệt này không? Lần đầu tiên trong đời chạm trán với Mùa Đông Nebraska với mười mấy độ âm. Những ngày trước đây còn háo hức cho chuyến thực tập này bao nhiêu thì bây giờ cảm thấy ớn lạnh bấy nhiêu. Nỗi cô đơn xâm chiếm, một hoang mang vây quanh. Tại sao mình lại chọn mảnh đất xa xăm này? Tại sao lại bỏ gia đình ấm cúng để đi vào trong chốn đơn côi? Một hoang mang khơi dậy trong hồn. 

Về đến nhà trời đã sẩm tối. Đón ở cửa là một người đàn ông mù trạc tuổi 60. Ông có mái tóc bạc trắng đều đặn và một khuôn mặt phúc hậu. Ông mở to đôi mắt, nhưng ông lại chẳng thấy. Lúc đầu chẳng để ý, nhưng khi nhìn ông quờ quạng chiếc gậy dành cho người mù bên cạnh, tôi mới biết ông ta mù. Cái tối ngoài trời, xen lẫn cái tối trong nhà, lại thêm cái tối của một người mù làm cho bầu khí thêm ảm đạm. Rồi một tiếng nói vọng lên trong góc tối và một bàn tay vươn ra để bắt tay: 

– Tôi là Cha Gilick, rất vui được gặp anh. Ngài tự giới thiệu và nở một nụ cười nồng ấm.

– Con là Thảo Nam, rất hân hạnh được gặp cha.

– Chúc mừng anh đến cộng đoàn này. Tôi là Cha bề trên ở đây và sẽ là linh hướng của anh trong thời gian anh ở đây. Hãy coi tất cả như người nhà nhé. Ngài niềm nở tiếp đón. Tôi bối rối tự hỏi: Sao ông mù này lại là Cha bề trên ở đây? Chắc cái cộng đoàn này hết người sáng mắt hay sao mà lại đặt một ông mù làm bề trên của một cộng đoàn mắt sáng?

Thắc mắc. Nghi ngờ. Rồi bắt đầu đón nhận. Một hành trình mới đi vào thế giới người mù. 

Mỗi một người mù có lối sống đặc biệt của riêng mình. Đây không phải là lần đầu tiên tôi sống với linh mục mù. Trước đây tôi đã có dịp chung sống với hai linh mục mù khác, và đây là vị mù thứ ba. Chẳng hiểu có bí ẩn gì đây mà sao lại có duyên ‘‘làm bạn’’ với lắm Cha mù như thế. Câu hỏi ấy vẫn mãi là một chuỗi suy tư. 

Những ngày ở Việt Nam, tôi giúp lễ nhiều năm cho một Linh mục mù về hưu tại nhà riêng. Năm giờ sáng, ngài thức dậy. Quờ quạng. Cầu nguyện. Rồi dâng lễ mỗi ngày. Ngài đã dâng lễ đều đặn suốt hơn mười năm mù lòa như thế. Thánh lễ trong suốt mười năm là một thánh lễ duy nhất: Lễ về Đức Maria. Ngài đã thuộc lòng kinh tiền tụng, không cần sách lễ. Tôi dọn bàn thờ, chọn áo lễ và khoác cho ngài. Rồi hai cha con dâng lễ. Một linh mục, một giáo dân suốt bao năm dài đăng đẳng.

Những thánh lễ êm đềm trong nắng ấm ban mai. Cô quạnh, nhưng cũng tràn đầy ủi an. Có mệt mỏi, nhưng có ân sủng đỡ nâng. Có những ngày muốn bỏ lễ, nhưng rồi lại tiếp tục vươn lên. Tuổi già, lại thêm mù lòa là một thách đố lớn cho đời Linh mục. Tôi không dâng lễ, nhưng cảm nghiệm nỗi mệt mỏi trong từng thánh lễ của người Linh mục mù ấy. Tôi ngần ngại. Liệu sau này mình có rơi vào trong cảnh đơn côi này không?

Rồi những ngày đến Cali, tôi lại có dịp sống với Linh mục mù thứ hai. Ngài không mù hẳn, nhưng mắt bị lóa. Phải viết chữ thật to ngài mới đọc nổi, và ngài chỉ có thể nhận ra anh em trong nhà qua giọng nói. 

Bây giờ, nơi vùng đất xa xăm của Nebraska, vị linh mục mù thứ ba này lại đến với tôi như một ngạc nhiên quá lớn. Sững sờ. Rung động. Ngỡ ngàng. Không ai cho tôi biết về người mù này trước khi đến, nên lần gặp gỡ bất ngờ này đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh, một xúc cảm nội tâm sâu xa. Ngài không mù vì tuổi già, nhưng mù từ lúc bé. Vào dòng chỉ ước mong đơn sơ làm ông thầy vĩnh viễn. Rồi tình yêu Chúa nhiệm mầu, lớn hơn cả lòng người ước mong, dẫn đưa ngài đến chức linh mục với đôi mắt mù. Ai có thể hiểu nổi những huyền nhiệm trong cuộc đời!

Cộng đoàn ở đây có chừng mười người. Một số cha dạy học, còn lại một số anh em vẫn cắp sách đến trường. Cha mù bề trên chuyên lo về linh hướng, chỉ đường thiêng liêng cho anh em sáng mắt. Chao ôi, người mù lại chỉ đường thiêng liêng cho người sáng mắt. Dẫn nhau đi trong u tối cuộc đời để vào ánh sáng huyền nhiệm. Mắt thể xác mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn thì sáng rực. Ngài còn làm lễ tại giáo xứ, và đi giảng tĩnh tâm trên khắp nước Mỹ. 

Có lần cha quản lý khuyên tôi:

– Nếu có gì thắc mắc thì đến hỏi cha mù ấy, ngài mù nhưng lại thấy nhiều sự lắm. Mù mà thấy nhiều sự thì chẳng phải là mù. Tật nguyền đôi mắt không làm cản ngăn lối bước đi về chân lý. Hành trình cuộc đời là hành trình tìm về chân lý, nhưng chân lý lại không phải vật chất để đôi mắt có thể lý trông thấy, nên ánh mắt tâm hồn mới là đèn soi cho mọi khát khao kiếm tìm. Có đôi mắt sáng chưa hẳn là tìm được lối đi. Nhiều khi ta vẫn đi trong đêm tối tội lỗi với ánh mắt sáng ngời.

Đã bao năm, tôi vẫn tự hào mình có đôi mắt sáng, nay đối diện với vị linh mục mù này tôi mới thấy mình mù loà và cần ngài hướng dẫn, chỉ đường. Cuộc sống vẫn luôn có những nghịch lý thú vị. 

Những ngày đầu gặp gỡ, tôi cảm thấy tội nghiệp và thương tâm cho Ngài. Những ngày sau chung sống, tiếp xúc và học hỏi, tôi lại thấy thương hại cho chính mình, vì mình có đôi mắt sáng mà chẳng thấy những gì cần thấy và đáng thấy. Trong khi vị mù này lại có thể thấy những điều từ đáy sâu thẳm của tâm hồn, thấy được ý nghĩa sâu xa của cuộc sống tâm linh và thân phận con người. Thấy Chúa trên cao. Thấy Chúa trong lòng cuộc sống. Thấy Chúa trong hạnh phúc cũng như trong từng nỗi đau. 

Mù mà thấy nhiều sự quá!

Văn phòng của ngài ở ngay trong trường đại học của nhà dòng. Phải mất khoảng mười phút mới có thể tản bộ tới đó; phải băng qua hai con đường xe chạy tấp nập. Vậy mà ngài đã đi qua về lại trên con đường ấy suốt hai mươi năm qua không hề hấn gì. Tôi vẫn thích tản bộ tới trường với ngài mỗi buổi sáng trên con đường ấy. Ngài vẫn thích có ai đi bên cạnh để chuyện trò, níu vai, để khỏi phải quờ quạng chiếc gậy. 

Có lần ngài nắm vai tôi vừa đi vừa nói: – Có cậu đi bên cạnh thì chiếc gậy mù này thất nghiệp!

Tôi cũng nhẹ nhàng đáp lại: – Vậy từ hôm nay con sẽ là cái gậy của cha mỗi sáng trên con đường này nhé. Trong thâm tâm, tôi không nghĩ mình giống chiếc gậy, nhưng giống những con chó đã được huấn luyện để dẫn dắt người mù. Công việc chút xíu như thế cũng có ích cho đời lắm chứ! Và mình lại thấy vui với ý tưởng đó. 

Rồi quay lại với ngài tôi tiếp tục bông đùa: – Con thấy mình giống con chó dẫn dắt người mù hơn là chiếc gậy cha ạ, đời con bất tài nên làm công việc này chắc thích hợp đấy. 

Ngài cũng tinh nghịch phản ứng: – Phải mất hai mươi lăm ngàn dollars mới huấn luyện được con chó đó, cậu có được bằng giá đó không?

Rồi cả hai cùng cười khúc khích, biết đùa với nhau là cả một món quà. 

Sống với ngài được một tuần, ngài bắt đầu nhờ tôi chở đi làm lễ ở một giáo xứ vào mỗi sáng Chúa nhật. Lần đầu tiên ngài nói: – Ngày mai cậu chở cha đi làm lễ nhé! 

– Thưa cha, nhà thờ ở đâu, có xa không? Tôi hỏi. 

– Chừng ba mươi phút lái xe. Ngài đáp. 

Tôi bắt đầu do dự. Đường sá chưa rành, tuyết phủ khắp nơi, chở người sáng mắt thì người ta còn chỉ đường, chứ chở người mù chắc dẫn nhau ra nghĩa địa quá! Trong đầu do dự, nhưng lại không muốn từ chối lòng tín nhiệm của ngài. 

Rồi tôi hỏi: – Cha có bản đồ không? 

– Hình như không. Ngài trả lời. 

Hỏi xong tôi thấy mình ngớ ngẩn. Ngài đâu thấy đường đâu mà hỏi bản đồ, và nếu có bản đồ thì ngài cũng chẳng chỉ đường được. Tôi quay lại nói tiếp: – Nhưng mà con chưa biết đường! 

– Lo gì! Cha sẽ chỉ cho. Ngài tự tin trả lời. 

Tôi thấy nghi nghi trong lòng. Làm sao ngài biết đường? Nhưng rồi tôi cũng đánh liều nhận lời.

Ngày hôm sau, lấy chìa khoá và đề máy xe. Trong lòng run lắm. Ngày Chúa nhật trong nhà đi vắng cả nên chẳng kịp hỏi ai. Lòng nghĩ thầm, ông cha mù này liều quá, dám nhờ mình chở đi đường tuyết phủ ở nơi lạ lẫm thế này. 

Đề máy xong, ngài chỉ đường bằng miệng: – Con ra khỏi cổng, quẹo trái; đến stop sign đầu tiên quẹo phải; qua hai đèn xanh đèn đỏ, quẹo phải, rồi vào xa lộ. Và cứ tiếp tục như thế… Tôi lái xe, ngài chỉ đường; qua bao con đường ngoằn ngoèo để đến nhà thờ. Tôi sửng sốt. Làm sao ngài có thể nhớ đường? 

Rồi tôi tò mò hỏi: – Làm sao cha biết đường hay vậy? 

– Cha có bản đồ. Ngài vừa cười vừa đáp. 

– Sao cha nói với con là cha không có bản đồ. Tôi phản ứng. 

– Bản đồ ở trong đầu. Ngài lại cười đùa giỡn.

Thì ra, người mù lại có một bản đồ thật chính xác trong đầu. 

Giáo xứ ngài đến dâng lễ là một giáo xứ giàu. Ngôi thánh đường xây bằng gạch đỏ tươi trên một khu đất khá cao. Chung quanh là những khu nhà khá sang trọng, nên nó làm cho ngôi thánh đường thêm đẹp. Mùa đông không có những vườn cỏ, cây xanh hoa lá, nhưng nhìn cách chăm nom và trang trí khu vực thánh đường cũng đủ biết là dân có tiền nhiều. Có lần tôi tinh nghịch hỏi ngài: -Thưa cha, tại sao cha khấn khó nghèo mà cha lại đi giao du với dân giàu?

 Ngài vui vẻ đáp lại: – Có người giàu vật chất, nhưng tâm linh nghèo lắm. Phải học biết chia sẻ thì tinh thần mới giàu. Vật chất là ơn huệ Chúa ban. Biết chia sẻ nó tức là đã sống tinh thần nghèo. Cũng như đôi mắt là ơn huệ. Biết nhìn nhau trong yêu thương là đã mở lối cho chân lý đi về. 

Rồi một chiều lạnh giá tuyết phủ, ngài đến bên tôi nhẹ nhàng đề nghị: – Ngày mai con chở cha ra phi trường nhé! 

– Cha đi đâu vậy? Tôi hỏi. 

– Cha đi giảng tĩnh tâm cho một Giám mục. Ngài trả lời. 

Tôi sửng sốt tròn xoe đôi mắt nhìn ngài. Hoá ra, ngài vẫn thường xuyên đi giảng tĩnh tâm cho các Giám mục và linh mục Hoa Kỳ ở nhiều giáo phận, vì thế sân bay đã trở nên quá quen thuộc đối với ngài. Sau chuyến đi này, sẽ có một Tổng Giám Mục Anh Giáo đến tại cộng đoàn này để xin ngài hướng dẫn cắm phòng. Vị Giám mục này vẫn đến đây hàng năm để xin kẻ mù này soi dẫn, và họ đã trở nên bạn thân với nhau suốt bao năm qua.

Tôi lặng im. Một xúc cảm mãnh liệt dâng trào. Lạ quá, Chúa vẫn làm phép lạ hàng ngày trong những hạnh phúc đan quyện nỗi đau, trong những lãnh nhận và trong từng mất mát. Ngài vẫn hiện hữu trong từng đôi mắt sáng và trong những ánh mắt mù lòa. 

Làm sao có thể nghi ngờ về sự hiện hữu của Thượng đế khi tiếp xúc với những con người như vị linh mục mù này. Lòng tin của tôi thì yếu ớt, nhưng khi gặp Ngài, tâm hồn như được nung lên trong niềm tin. Tôi vẫn mãi suy tư, dưới một cái nhìn nào đó, Thiên Chúa đang dùng một người mù để hướng dẫn bao vị lãnh đạo mắt sáng. 

Hôm sau, tôi tiễn ngài ra phi trường. Ngài ra đi và rồi đã trở lại như bao con người bình thường khác. Dù thế, tôi vẫn cảm thấy có cái gì đó thật phi thường trong những cái bình thường ấy. Phi thường của tình yêu, sức mạnh, của ân sủng, của tất cả những gì mà Thiên Chúa có thể làm được cho con người và qua con người, ngay cả trong những con người tàn tật nhất. 

Sáu tháng ở Nebraska qua đi thật nhanh. Tôi phải chia tay ngài trong nuối tiếc, trong lòng kính trọng và yêu thương. Vẫn ước mong một ngày nào đó được ghé lại thăm ngài. Có lẽ lần tới khi trở lại, mình sẽ không còn hoang mang lo sợ như lần đầu mới đến, vì biết rằng nơi mảnh đất xa xôi đó, đang rực lên một tia sáng huyền nhiệm trong ánh mắt của một linh mục mù. 

Nguyễn Thảo Nam


 

Một Chuyến Bay Bình Thường Nhưng Mang Theo Câu Chuyện Không Tầm Thường- Truyện ngắn HAY

Kimtrong Lam

Margaret vừa yên vị trong khoang hạng thương gia của chuyến bay từ Los Angeles đến Boston thì một sự huyên náo ở vài hàng ghế phía trước thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. 

“Tôi không chấp nhận ngồi cạnh bà ta!” 

Một người đàn ông tên Henry gắt gỏng với tiếp viên, chỉ thẳng vào Margaret bằng ánh mắt khinh miệt.

“Thưa ông, đây là chỗ ngồi của bà ấy, chúng tôi không thể thay đổi,” tiếp viên đáp lại dứt khoát.

Henry nhíu mày, liếc nhìn bộ quần áo giản dị của Margaret.

“Ghế hạng thương gia này không hề rẻ,” ông ta nói to, “và bà ta trông chẳng giống ai có thể ngồi ở đây.”

Margaret, một cụ bà ngoài 80, ngồi im lặng, đôi bàn tay run run nắm chặt chiếc túi nhỏ khi những tiếng xì xào vang lên quanh mình. Những hành khách khác bắt đầu ngoảnh lại nhìn.

Cảm thấy xấu hổ nhưng vẫn điềm tĩnh, bà nghiêng người về phía tiếp viên và nói nhẹ nhàng:

“Nếu làm mọi chuyện dễ dàng hơn, tôi có thể chuyển xuống khoang phổ thông. Tôi đã dành dụm cả đời mới có thể mua vé này, nhưng tôi không muốn gây phiền phức.” 

Tiếp viên lắc đầu kiên quyết. 

“Không, thưa bà, bà đã trả tiền cho chỗ ngồi này và có đầy đủ quyền lợi ở đây. Xin hãy yên vị.”

Cô quay sang Henry, giọng nghiêm khắc:

“Thưa ông, nếu ông không bình tĩnh lại, chúng tôi sẽ phải báo cáo hành vi này.” Henry lầm bầm khó chịu nhưng cuối cùng cũng chịu ngồi xuống.

Margaret điều chỉnh lại túi xách và quay mặt ra cửa sổ, mong cơn hỗn loạn này nhanh chóng qua đi. Đây là lần đầu tiên bà đi máy bay, và mọi thứ đã quá sức choáng ngợp. Khi máy bay cất cánh, Margaret vô tình làm rơi túi. Bất ngờ thay, chính Henry cúi xuống giúp bà nhặt lại.

Ông nhặt lên một chiếc mặt dây chuyền bằng vàng nhỏ bé lăn ra từ túi, ngắm nhìn một lát trước khi đưa lại cho bà. “Chiếc locket này thật đẹp,” ông nói, giọng điệu đã dịu đi. 

“Tôi làm nghề thẩm định đồ cổ nhiều năm rồi, và món đồ này rất có giá trị.”

Margaret mỉm cười nhạt nhòa khi nhận lại kỷ vật. 

“Không phải theo cách ông nghĩ,” bà nói. “Nó là món quà cha tôi tặng mẹ trước khi ra trận. Ông ấy đã không trở về, và nó trở thành thứ quý giá nhất của mẹ tôi. Khi tôi còn nhỏ, bà đã truyền lại nó cho tôi. Đây là ký ức mà không có tiền bạc nào có thể mua được.” 

Bà mở mặt dây chuyền ra, bên trong là hai bức ảnh nhỏ. 

“Đây là cha mẹ tôi,” bà nói, chỉ vào một bức ảnh. 

Sau đó, với một nụ cười đầy hoài niệm, bà chỉ vào bức còn lại. 

“Và đây là con trai tôi.” 

Henry nhướn mày. 

“Con trai bà? Bà đến Boston để thăm cậu ấy sao?” 

Margaret ngập ngừng trước khi trả lời. 

“Không hẳn. Tôi đã phải cho con đi làm con nuôi khi nó còn bé. Khi ấy, tôi không đủ khả năng để nuôi dưỡng nó. Gần đây, tôi tìm lại được nó qua xét nghiệm DNA, nhưng nó không muốn gặp tôi. Nó nói rằng nó đã có cuộc sống riêng và không cần tôi xuất hiện trong đó.” 

Henry cau mày. 

“Thật khó khăn. Nếu nó không muốn gặp bà, tại sao bà vẫn lên chuyến bay này?”

Đôi mắt Margaret long lanh, nhưng giọng bà vẫn vững vàng.

“Hôm nay là sinh nhật của nó. Nó là cơ trưởng của chuyến bay này. Tôi chỉ muốn được gần nó, dù nó không biết tôi ở đây.” 

Henry chết lặng. Một tiếp viên đứng gần đó, đã nghe được toàn bộ câu chuyện, vội vàng rời đi. 

Vài phút sau, giọng nói từ loa phát thanh vang lên. 

“Kính thưa quý khách, đây là cơ trưởng của chuyến bay. Hôm nay, tôi muốn gửi lời chào đặc biệt đến một hành khách đáng kính – mẹ ruột của tôi, người đang bay lần đầu tiên trong đời. Mẹ, cảm ơn mẹ vì đã luôn yêu con, dù từ rất xa. Xin mẹ hãy đợi con khi hạ cánh.”

Tiếng xì xào vang lên khắp khoang, rồi nhường chỗ cho những tràng pháo tay rời rạc nhưng chân thành. 

Margaret run rẩy đưa tay lau những giọt nước mắt. Henry, tràn đầy hối lỗi, nắm lấy tay bà. 

“Tôi xin lỗi vì đã đối xử với bà như vậy,” ông nói thật lòng. “Bà là một người mẹ tuyệt vời.” 

Khi máy bay hạ cánh, hành khách dõi theo khoảnh khắc khi cơ trưởng bước ra từ buồng lái và tiến thẳng đến Margaret. Không chần chừ, anh ôm lấy bà thật chặt. Những tràng vỗ tay bùng lên khắp cabin. 

“Cảm ơn mẹ vì đã yêu con đủ nhiều để cho con một cuộc sống tốt đẹp,” anh thì thầm. 

Margaret siết chặt con trai, giọng bà vỡ òa: 

“Con xứng đáng có được điều tốt nhất, và mẹ chưa bao giờ ngừng nghĩ về con.”

Henry đứng lặng lẽ, lòng trĩu nặng vì điều mà ông từng phán xét quá vội vàng.

Chuyến bay này, khởi đầu bằng sự định kiến, đã trở thành một khoảnh khắc đầy nhân văn về sự gắn kết và tha thứ. Nhưng với Margaret, nó còn hơn cả một chuyến bay – đây là sự khởi đầu mà bà đã mong đợi suốt hơn 60 năm qua.

(Theo Facebook Plutos Sale PM Chien )


 

 CHIEF – Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

Một con rắn hổ mang chui vào nhà qua một lối cửa mở ở dưới bếp. Lúc đó khoảng 2h chiều, bà cụ Liberata la Victoria 87 tuổi và chú chó Chief giống American Pit Bull Terrier và cháu của bà đang xem TV thì bỗng nhiên Chief nhảy dựng lên và báo động cho bà cụ biết về sự xuất hiện của một con rắn hổ mang cách đó độ 3 thước.

Maria Victoria vội vàng chạy tới và đẩy bà cụ vào một căn phòng và hy vọng con rắn sẽ bỏ đi. Nhưng khi Victoria quay lại thì cô hoảng sợ nhìn thấy con rắn chỉ còn cách khoảng chưa đầy 1 thước, nó bạnh mang ra và chuẩn bị tấn công. Cô hét lên để cầu cứu. Đúng lúc đó thì Chief lao vào giữa con rắn và 2 người phụ nữ, lấy thân mình để che chở 2 người khỏi cú mổ chết người của con rắn. Sau đó nó cắn cổ con rắn, quật ra sàn và giết chết nó.

Nhưng chiến thắng của Chief đã phải trả một cái giá quá đắt. Nó đã bị con rắn mổ vài nhát vào mõm và không lâu sau đó, nó đã trút hơi thở cuối cùng.

Gia đình Fronteras đã cố gọi bác sỹ thú y, nhưng người ta đã không thể làm được gì để cứu Chief. Vết rắn cắn quá gần não và nọc độc đã phát tán quá nhanh.

Ian De la Rama, một người bạn của gia đình Fronteras đã kể lại: “Chỉ chưa đầy 30 phút từ khi bị con rắn cắn, Chief đã bất tỉnh và mất khả năng kiểm soát cơ thể của nó, nhưng nó vẫn cố chống trả lại Thần Chết để được nhìn thấy chủ nó một lần cuối”.

Chồng của Victoria, tên là Marlone, đã vội vã cấp tốc trở về nhà khi nghe hung tin từ vợ anh. Điều cuối cùng mà Chief làm là đưa ánh mắt nhìn lên Marlone và vẫy đuôi. Nó thở dài lần cuối và vĩnh viễn từ giã cõi đời.

Hình ảnh Chief khi chết…

Sưu tầm

BỊ LỪA DỐI – (theo ANTG) – Truyện ngắn HAY

Xuyên Sơn

Tốt nghiệp đại học xong, tôi đi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp Khắc trong quãng thời gian khá dài. Ngoài 30 tuổi, tôi mới trở về nước và mới bắt đầu tìm hiểu và lập gia đình.

  Tôi về làm việc ở Viện TH.

Trong quá trình tham gia giảng dạy thêm Trường Đại học TH tại Hà Nội, tôi đã gặp một người con gái rất xinh đẹp và hiền dịu.

Người con gái đó là giảng viên ở ngay trong trường nơi tôi cộng tác.

Ngay từ lần gặp đầu tiên, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với vẻ ngoài xinh đẹp và tính cách hiền dịu của cô ấy.

Tôi chủ động tìm hiểu và biết được cô có một mối tình đầu sâu đậm với một người bạn học.

Giống như tôi, người yêu của cô ấy đi tu nghiệp ở nước ngoài, tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Cô đã quên cả tuổi thanh xuân để chờ đợi và chung thủy với người yêu.

Thế nhưng người yêu cô cứ khất lần khất lữa mãi không trở về. Hình như anh ta không có ý định trở về Việt Nam sinh sống, nhưng cô gái thì gia đình rất “hoàn cảnh”.

Nhà được hai anh em, anh đi bộ đội và hy sinh ở chiến trường, còn lại một mình cô nên việc dứt bỏ bố mẹ già để ra nước ngoài cùng người yêu là điều không thể.

Đúng lúc ấy, tôi xuất hiện.

Trước tình cảm chân thành của tôi, cô ấy đã nhận lời yêu tôi.

Ngày tôi đưa cô ấy về giới thiệu với gia đình tôi, ông nội tôi và cha tôi ngay phút ban đầu gặp gỡ đã rất hài lòng trước vẻ ngoài xinh đẹp, dịu dàng và đoan trang của cô ấy.

Chuyện tình cảm của chúng tôi diễn ra chóng vánh trong nửa năm là chúng tôi đi đến kết hôn.

Chúng tôi được phân một căn hộ tập thể 20m2 ở Viện TH nơi tôi làm việc.

Sau khi kết hôn, vợ tôi không giảng dạy nữa mà về công tác ở Viện LS gần nhà.

Gần một năm sau chúng tôi đón cậu con trai đầu lòng.

Những năm đó, cuộc sống vừa thoát khỏi bao cấp nên cũng rất khó khăn.

Chúng tôi quyết định chỉ sinh một đứa con và dồn tất cả để dạy dỗ nó nên người, tạo điều kiện tốt nhất cho nó.

Vợ tôi là người kín đáo, lặng lẽ, ít nói, nên cuộc sống của chúng tôi rất yên ấm, hạnh phúc.

Tôi bằng lòng với hạnh phúc hiện tại và thầm cảm ơn cuộc đời đã ban cho tôi người vợ hiền thảo.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế trôi đi. Cả hai vợ chồng đều làm khoa học, công tác nghiên cứu nên thu nhập cũng đạm bạc, cuộc sống đơn giản, chúng tôi cũng không có nhu cầu nhiều hơn.

Thế nhưng mọi bất hạnh bỗng một ngày ập đến như bão lốc.

Tôi còn nhớ như in ngày đó, tôi vừa đi làm về thì đã thấy vợ tôi đang ngồi với một người khách lạ, cô ấy khóc sưng cả mắt.

Khi tôi vừa vào đến nhà thì vợ tôi cứ thế ôm mặt khóc nấc lên.

Tôi hoảng quá không biết có chuyện gì xảy ra thì ngay lập tức, vợ tôi quỳ sụp xuống dưới chân tôi khóc nức nở:

“Em có tội với anh, xin anh hãy tha thứ cho em. Em có tội với gia đình anh, xin anh hãy tha thứ cho em”.

Tôi đứng như trời trồng, trong lòng hỗn loạn vì không hiểu điều gì đang xảy ra.

Nhưng bằng sự nhạy cảm của một người đàn ông, tôi lờ mờ đoán rằng, gia đình tôi, tổ ấm của tôi đang gặp phải bão lớn, và người đàn ông xa lạ đang ngồi trước mặt vợ chồng tôi có lẽ là một nguyên nhân gây ra cơn bão này.

     Cuối cùng thì vợ tôi cũng bình tĩnh lại. Câu chuyện được vợ tôi nói lại.

Dù chỉ mấy câu thôi nhưng tôi nghe như sét đánh ngang tai.

Tôi đổ sụp xuống, choáng váng và tuyệt vọng.

Vợ tôi nói rằng đã mang tội lớn với tôi, rằng suốt trong 5 năm qua cô ấy đã lừa dối tôi, mặc dù sống cùng với tôi nhưng cô ấy vẫn nhớ tới người yêu cũ.

Và điều khủng khiếp nhất, như một phát đại bác nã vào tim tôi tan nát, đó là vợ tôi nói rằng, đứa con trai của chúng tôi chính là đứa con của người đàn ông đang ngồi trước mặt tôi chứ không phải của tôi.

Trước khi cô ấy kết hôn với tôi, người yêu cô ấy đã bay từ Đức về và họ đã gặp gỡ nhau.

Ngay sau khi kết hôn, cô ấy có thai luôn và theo vợ tôi thì cái thai trong bụng của cô ấy chính là giọt máu của người yêu cũ. Mặc dù không đến được với nhau nhưng tình cảm của hai người khá sâu đậm.

Người yêu cũ của cô ấy cũng đã lấy vợ ở nước ngoài.

Thế nhưng do một trục trặc về sức khỏe, sau một trận ốm khá nặng, người yêu cũ của vợ tôi không còn khả năng có con.

Là con trai duy nhất trong một gia đình, lại là tộc trưởng của một dòng họ, việc không thể có con là một tai nạn quá lớn đối với anh ta và gia đình họ tộc của anh ta.

Khi biết người yêu cũ ở Việt Nam sau lần gặp gỡ trước khi kết hôn đã có thai ngay và sinh con như một chiếc phao cứu sinh anh ta. Anh ta đã ly dị vợ trở về nước sinh sống và tìm gặp vợ tôi để xin nhận giọt máu của mình.

Vợ tôi vẫn còn quá nặng tình với mối tình đầu, với người đàn ông mà cô ấy không thể đến được.

Chính vì vậy khi anh ta trở về, gặp lại và van xin, vợ tôi đã thương cảm và bằng lòng.

Dân gian có câu:

“Tình cũ không rủ cũng đến” quả thật không sai.

Vợ tôi cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ.

Tới đây, cô ấy sẽ xin phép tôi và cùng với con trai tôi sẽ ra đi khỏi căn nhà của tôi cùng với người đàn ông kia đang ngồi trước mặt tôi.

Thú thực tôi không còn nghe được gì nữa, không còn biết gì nữa.

Tôi ngồi như một bức tượng và im lặng để mặc hai người một là vợ tôi, một là anh kia trình bày trước tôi và xin tôi tha thứ.

Chúng tôi là những trí thức, lại từng có thời gian học tập, làm việc lâu năm ở nước ngoài nên có thể trong xử sự chúng tôi văn minh và Tây hóa hơn.

Ngay lúc đó, tôi đã im lặng và bước ra khỏi nhà mình.

Tôi trở về nhà của bố mẹ tôi với tâm trạng suy sụp.

Tôi ở lỳ nhà bố mẹ tôi một tuần liền không quay lại nhà mình.

Sau một tuần gần như nằm liệt giường ở nhà bố mẹ, tôi đã qua đi những cảm giác sốc ban đầu.

Tôi suy nghĩ kỹ và đi đến quyết định nói chuyện với bố mẹ tôi chuyện của gia đình tôi.

Bố mẹ tôi đã khóc khi nghe tôi kể chuyện nhưng cả gia đình đồng ý cho chúng tôi ly hôn để vợ và con tôi có thể trở về với gia đình đích thực của cô ấy.

Tôi trở về nhà sau một tuần.

Vợ tôi cũng suy sụp không kém gì tôi.

Cô ấy đã chuẩn bị cho một cuộc ra đi.

Chúng tôi lặng lẽ làm thủ tục ly hôn.

Sẽ không có điều gì xảy ra sau đó nữa nếu như tôi không nghe theo lời khuyên của bà thẩm phán xử vụ ly hôn của chúng tôi.

Chính thẩm phán đã khuyên tôi nên đi xét nghiệm ADN để mọi thứ được rõ ràng minh bạch hơn.

Kết quả như thế nào thì bản thân mình cũng thỏa mãn, không ân hận.

Tôi hoãn vụ ly hôn và quyết định tiến hành xét nghiệm ADN tìm bố đích thực cho con trai tôi.

Tôi không nói gì với vợ tôi về chuyện tôi âm thầm làm.

Tôi chỉ nói với cô ấy là anh cần một thời gian nữa.

Ngày đó, xét nghiệm ADN trong nước rất khó khăn và phải qua rất nhiều thủ tục rườm rà và giấy phép.

Vì thế tôi đã liên lạc với một vài người bạn nước ngoài và gửi các mẫu vật ra nước ngoài làm giúp trong khoảng thời gian nhanh nhất.

Hơn một tháng sau, tôi đã có kết quả xét nghiệm.

Kính thưa các anh các chị.

Tôi như người đã chết đi rồi được sống lại lần thứ hai.

Như kẻ giữ một báu vật quá lớn bỗng một ngày phát hiện ra báu vật đó đã bị đánh cắp và giờ đây sau bao nhiêu tiếc nuối, đau khổ, giày vò bỗng dưng tôi đã tìm lại được báu vật quá lớn ấy cho mình.

Tôi gần như phát điên lên vì hạnh phúc.

Khỏi phải nói, khi cầm kết quả xét nghiệm rõ ràng mười mươi tôi là cha đẻ của con trai tôi, tôi cảm thấy cuộc đời tôi hạnh phúc lại dâng ngập đến đủ đầy.

Tôi không cần gì hơn nữa, không một mong muốn nào khác nữa.

Tôi đã mang kết quả xét nghiệm đưa cho vợ tôi và trình lên tòa án trước sự choáng váng của vợ tôi. Tiếp theo đó là những chuỗi ngày bi kịch của vợ tôi.

Thật lòng, tôi rất thương cô ấy nhưng sự đổ vỡ quá khủng khiếp, tôi không thể nào hàn gắn lại được cho dù tôi rất muốn giữ mẹ cho con trai tôi.

Vợ tôi sau đó cũng không về sống cùng với người ấy.

Tôi cũng không tìm hiểu lý do vì sao, mà thực ra tôi cũng không hề quan tâm đến những gì xảy ra tiếp theo sau đó của họ.

Tôi chỉ biết rằng vợ tôi rất đau khổ.

Cô ấy đã rời khỏi nhà của tôi và để lại đứa con trai cho tôi nuôi dưỡng.

Tuần nào cô ấy cũng đến trường tìm con và chơi với con.

Tôi đã gặp cô ấy và yêu cầu cô ấy làm sao để tránh sự tổn thương cho con trai tôi.

Có thể sau này khi con đã lớn đã hiểu được mọi chuyện thì mẹ con mới lại gặp nhau nhiều hơn.

Vợ tôi đã đồng ý và sau đó, mỗi tháng cô ấy gặp con trai tôi một lần.

Tôi cũng rất thương cô ấy, rất buồn và cảm thấy có lỗi với con trai nhưng số phận đã vậy, tôi không thể làm khác được.

Tôi sống một mình và không kết hôn nữa cho dù có rất nhiều người phụ nữ yêu thương và chia sẻ với tôi.

Tôi nuôi dạy con trai tôi lớn khôn và cháu trở thành một người đàn ông thành đạt.

Vợ tôi cũng không đi bước nữa.

Bà ấy sau đó mua một căn nhà nhỏ trên Phú Thượng và sống một mình.

Bây giờ con trai tôi đã đi làm ở một công ty nước ngoài, cháu lập gia đình và sinh được hai đứa con một trai một gái.

Giờ đây ngày lễ, ngày Tết cả gia đình lại tụ họp đông đủ.

Lần nào họp mặt gia đình, ăn uống hay lễ Tết, con trai và con dâu tôi đều đón mẹ về quây quần.

Các con tôi năn nỉ chúng tôi hãy quay trở về sống với nhau để cho các con cháu được hạnh phúc, gia đình được sum vầy vẹn toàn.

Thế nhưng không hiểu sao tôi không thể quay lại được với vợ tôi nữa.

Bây giờ chúng tôi đều đã có tuổi, sống nương tựa vào nhau vì con vì cháu.

Không phải tôi không thương cô ấy, không phải tôi còn giận hay hận thù gì cô ấy nhưng mỗi lần nhớ đến cảm giác năm xưa khi tôi đứng trước nguy cơ mất con trai và gia đình bỗng dưng bị tước đoạt hết tất cả, tôi lại thấy ớn lạnh xương sống.

Tôi không thể làm gì khác được nữa. Không biết như vậy tôi có ích kỷ quá không.

Nguồn: fb Vô Ngôn