Phép màu của tình mẫu tử

Phép màu của tình mẫu tử

Vong linh người mẹ bảo vệ và kêu cứu cho con


Câu chuyện sống sót kì diệu của một em bé 18 tháng tuổi được ví như một phép màu. Nhiều người tin rằng, vong linh người mẹ đã ở lại để bảo vệ và kêu cứu cho con gái bé bỏng của mình.


Cô Lynn Jennifer Groesbeck cùng con gái Lily.
(Ảnh: Internet)

Tối ngày 6/3/2015, bà mẹ trẻ Lynn Jennifer Groesbeck 25 tuổi, lái xe trên đường lộ dọc theo bờ sông Spanish Fork River bang Utah, chở con gái Lily 18 tháng tuổi ngồi băng sau trong chiếc ghế an toàn. Chẳng may cô bị lạc tay lái, đụng vào thành cầu làm chiếc xe bị lộn ngược và đâm xuống sông. Chiếc xe chìm xuống, nước sông lạnh như đá ngập kín chiếc xe, chỉ còn 2 bánh sau ló lên trời, lại bị che khuất sau đám lau sậy nên từ đường lộ không ai nhìn thấy. Mãi đến sáng hôm sau (7/3), một người dân địa phương ra sông câu cá mới phát hiện, ông lội lại gần xem nhưng không thể làm gì được nên vội gọi cứu hộ đến.

Khi 4 nhân viên cứu hộ đầu tiên đến hiện trường thì đã sau 12 tiếng kể từ khi chiếc xe bị nạn. Nhìn tình hình xe ngập sâu dưới nước với độ lạnh cắt da, họ đoán là không còn ai sống sót nổi nên định quay đi lên để gọi xe cần cẩu đến câu xe, thì đột nhiên họ nghe tiếng phụ nữ kêu cứu vọng ra từ trong chiếc xe: 

“Cứu tôi với!”.

Cả 4 nhân viên cứu hộ đều nghe rõ ràng, họ sửng sốt nhìn nhau rồi lật đật quay lại, liều ngâm mình dưới nước lạnh để đập kính xe cứu người bên trong. (Nước lạnh đến nỗi sau đó cả 4 người phải nhập viện chữa trị vì bị hạ thân nhiệt quá thấp).

Khi họ đập được kính xe thì kỳ diệu thay, tuy bà mẹ Lynn Groesbeck đã chết, nhưng bé gái Lily, bị đeo dính trong ghế an toàn vẫn còn sống, mặc dù bé bị treo ngược đầu, hôn mê bất tỉnh và đã phải chịu cái lạnh gần 0 độ suốt 12 tiếng. Một điều kỳ diệu nữa là mặc dù toàn bộ chiếc xe ngập trong nước, và nước tràn theo khe cửa kính vào bên trong, nhưng chỉ vừa ngập sát đến đầu bé Lily là ngừng lại.

Bé Lily được cứu và sau khi nằm viện vài ngày, đã trở về nhà và được dì của bé nuôi nấng. Người dì cho biết bé hoàn toàn khỏe mạnh, không bị di chứng gì.

Còn 4 người cứu hộ vẫn thắc mắc không nguôi vì những điều chính mắt họ thấy, chính tai họ nghe nhưng không thể lý giải.

Nhân viên cảnh sát thành phố Spanish Fork Tyler Beddoes (trái) và Lee Mecham (phải),
hai trong số những nhân chứng nghe thấy tiếng kêu cứu từ trong xe.
(Ảnh: Internet)

“Cả bốn chúng tôi nghe thấy một giọng nói khác biệt từ bên trong chiếc xe”, nhân viên Jared Warner nói với CNN, “Tai tôi nghe đó không phải là tiếng kêu của một đứa trẻ”.

Nhân viên Tyler Beddoes cho biết ông cũng nghe thấy một giọng nói từ trong chiếc xe.

“Từ bên trong chiếc xe đó có người nói ‘cứu tôi với’. Trong hai đêm tôi đã thao thức cố gắng tìm ra chính xác những gì đã xảy ra. Tất cả những gì tôi biết là có tiếng kêu đó, tất cả chúng tôi đều nghe thấy tiếng nói đó”, ông nói.

“Như thể tôi nghe được ai đó nói với tôi, ‘Tôi cần sự giúp đỡ’, nhân viên Bryan DeWitt nói với CNN.

Theo lý bình thường thì nước ngập vào 1 chiếc xe lật ngược như vậy không thể chỉ ngập 1/2 rồi ngừng, một em bé chưa đầy 2 tuổi không thể bị treo ngược trong cái lạnh cắt da suốt 12 tiếng đồng hồ mà vẫn còn sống, và nhất là họ không thể giải thích tiếng người phụ nữ kêu cứu vọng ra từ trong xe mà cả 4 người đều nghe rõ mồn một!


Chiếc xe sau khi được lật ngửa để giải cứu bé Lily.
(Ảnh: Internet)

Phải chăng vong linh người mẹ vì thương con nên tuy đã lìa trần vẫn không đi, ở lại để bảo vệ cho đứa con thân yêu, và để kêu cứu cho con mình? 

Tình mẫu tử thiêng liêng, có thể nào vượt qua cả ranh giới của sự sống và cái chết?

Đối với những người đã từng có những trải nghiệm tâm linh thì câu chuyện nói trên vô cùng dễ hiểu và hoàn toàn đáng tin cậy, rằng tiếng kêu cứu mà các nhân viên cứu hộ nghe thấy chính là tiếng kêu của người mẹ.

 Đúng quá với tựa bài “Phép mầu của tình mẫu tử “. Phải tin đây là một chứng tích tâm linh mầu nhiệm @ thế kỷ 21.

From: Lucie 1937

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn và cầu nguyện

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn và cầu nguyện

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng: “Thưa Ông, Ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?”

Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?” Người thanh niên xấc xược trả lời: “Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi Ông sẽ thấy rằng những gì Ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.”

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên: “Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?” Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời: “Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.”
 
Cụ già từ từ rút ra trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris

TRÁI TIM BỒ-TÁT!

( Mời đọc câu chuyện hay muốn rướm lệ )

TRÁI TIM BỒ-TÁT!!!

Jenny, cô phóng viên Mỹ tuổi đời chưa quá 30.

Ra trường đại học Stanford với số điểm khá cao, sau vài năm lăn lóc với những tờ báo địa phương, Jenny được thâu nhận làm phóng viên tại một tòa báo nổi tiếng tại Chicago!

Chuyến đi xa làm phóng sự đầu tiên của cô là bay sang Nhật, để viết về sự hồi sinh và công cuộc trùng tu của thành phố Miyako, một thành phố đã phút chốc bỗng trở thành bình địa khi cơn sóng thần Tohoku Tsunami khủng khiếp ập tới vào tháng 3, 2011.

Cô đã đi lòng vòng khắp nơi, điều làm cô sửng sốt nhất, là ở nhiều nơi, từ trong thư viện cho đến các nhà hàng, trên những bức tường, người ta vẽ hình một cậu bé Nhật với câu chuyện về nghĩa cử cao đẹp của cậu trong những ngày tang thương của thành phố!

Jenny vẫn còn nhớ đó là chuyện một cậu bé khoảng trên 10 tuổi, trong khi cậu bé đang xếp hàng chờ đợi tới phiên mình được lãnh hàng cứu trợ thì bỗng một người lính cứu hỏa đến bên cạnh và đưa cho cậu một gói khá to với dấu Red Cross đóng bên trên, Đó là một gói hàng cứu trợ nhưng có đầy đủ những đồ gia dụng cần thiết và có cả một ít hiện kim cho một cá nhân! Khẽ nghiêng mình kính cẩn cám ơn, và trước đôi mắt ngạc nhiên của người Lính Cứu Hỏa, cậu bé bước tới góc phố, nơi người ta đã đặt sẵn một thùng giấy to để quyên góp những phẩm vật sẽ được gởi đi cho những người kém may mắn khác! Nhón chân đặt gói quà vào trong thùng, cậu bé lặng lẽ bước về chỗ cũ và kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi.

Câu chuyện thật đơn giản nhưng vô cùng xúc động đó đã nhanh chóng được loan truyền trên khắp thế giới! Hằng trăm hằng ngàn ý kiến, những lời cảm thông chia xẻ, cùng những câu ca ngợi nghĩa cử của cậu bé đã được gởi tới tấp trên internet, trên truyền thông truyền hình như những lời an ủi động viên trước những bất hạnh và khổ đau sau thảm họa sóng thần Tohoku Tsunami!

Sau một ngày lang thang trên đường phố Miyako, Jenny cảm thấy thật phí công khi cô phải viết bài phóng sự về sự hồi sinh và công cuộc xây dựng tái thiết của thành phố Miyako, Jenny thầm nghĩ: “Người Nhật rất quật cường và dũng cảm, họ là một dân tộc biết biến đau thương thành sức mạnh, viết lời ca ngợi hoặc tán dương họ cũng bằng thừa! “Cho nên cô chợt nẩy ra ý tưởng mới, là viết về tầm ảnh hưởng từ hành động cao cả của cậu bé đó với những người trẻ hôm nay!

Kết quả: Bài viết của Jenny khi phổ biến làm người đọc xúc động, tòa báo hài lòng! Ông chủ bút vui vẻ gợi ý cô có thể viết thêm về những người trẻ ở khắp nơi trên thế giới. Wow, cô mừng rỡ và quyết định cô sẽ tới Việt-Nam!

Việt-Nam, một đất nước tuy xa mà lại rất “g”Gần” với cô! Rất gần vì Brittney Nguyen, người bạn thân nhất của cô trong 4 năm đại học, là người Việt-Nam. Năm đầu tiên cô và Brittney cùng chia xẻ chung một phòng trong đại học xá. Brittney rất giỏi và rất lanh lẹ, nhưng điều mà Jenny cảm phục ở cô không phải sự thông minh, mà chính là tinh thần lạc quan của Brittney! Trong bất cứ tình huống nào, cô bạn này luôn tin rằng “Tomorrow will be better than today / ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay”! Lỡ tình trạng vẫn chưa “Khá” hơn, thì Brittney lại cắt nghĩa hoặc bằng một câu khôi hài nào đó, hay bằng một câu chuyện tiếu lâm mà cô luôn có sẵn trong đầu!

Brittney thì dễ thương như vậy, mà gia đinh cô thì càng tuyệt vời hơn nữa! Những ngày cuối tuần Jenny vẫn theo Brittney về nhà cô, một căn hộ chung cư 3 phòng ngủ cho 5 người! Dù căn nhà khá chật chội và hơi thiếu tiện nghi nếu so với căn nhà rộng thênh thang của Jenny ở Chicago, nhưng chính nơi đây Jenny mới hiểu được thế nào là tình gia đình! Cô đã được thưởng thức những món ăn Việt-Nam, được hưởng những sự thương yêu, chăm sóc, lo lắng từ những người thân của Brittney! Cô đã rưng rưng nước mắt khi gọi gia đình Brittney là gia đình thứ hai của cô!!!

Khi nghe Jenny nói như thế, Brittney trả lời với một nụ cười tươi tắn trên môi:

– Nếu đây là gia đình thứ hai, thì Jenny sẽ có thêm một đất nước thứ hai, đó là Vietnam, right?

Đúng như vậy, và bây giờ Jenny đang ngồi trên một chuyến bay, bay về Việt-Nam, một đất nước tuy xa xôi, nhưng lại rất gần gũi với cô! Trước ngày đi, ông chủ bút tờ báo đã nhấn mạnh là cô chỉ có một tuần. Trừ ngày bay đi, bay về, chỉ còn đúng ba 3 ngày thôi đấy nhé!!!***

•••

Sau gần 2 tiếng đồng hồ chờ đợi thủ tục để lấy được hành lý, Jenny chậm chạp kéo lê chiếc vali bước ra phía cổng phi trường. Cô thắc mắc tại sao mọi người cứ phải xô đẩy, chen lấn không sắp hàng? Chính điều này càng khiến mọi công việc trở nên phức tạp và mất nhiều thời gian hơn!!!0

Khi cánh cửa phi trường vừa bật mở, Jenny gần như dội ngược về phía sau bởi hơi nóng hừng hực từ bên ngoài như táp vào mặt cô. Ngần ngừ vài giây, cô bước ra, bên ngoài khung cảnh thật tấp nập, xô bồ, mọi người bước đi vội vã như ma đuổi!

Hình như 24 tiếng đồng hồ vẫn không đủ cho người VN, đó là cảm nhận đầu tiên của Jenny về đất nước này. Cảm thấy thật mệt mỏi vì chuyến bay quá dài, cộng với sự chờ đợi không cần thiết nơi cửa phi trường, Jenny giơ tay vẫy chiếc taxi, cô quyết định về nghỉ tại khách sạn đêm nay, ngày mai sẽ bắt đầu một ngày mới cho bài phóng sự của cô về những người trẻ Việt-Nam!

Bây giờ Jenny đang ngồi trong phòng ăn của khách sạn để dùng bữa điểm tâm với một người thông dịch.

Trước khi lên đường sang Việt-Nam, cô bạn Brittney đã khăng khăng bắt Jenny phải có một hướng dẫn viên, vừa phải là người bản xứ, vừa phải biết tiếng Anh, để giúp cô đi thăm viếng thành phố, và Brittney đã giúp bạn tìm được người đó. Bà Hằng, một phụ nữ trung niên tuổi trên 50, khuôn măt khả ái với nụ cười dịu dàng đằm thắm trên môi, và nhất là cách phát âm tiếng Anh của bà khá chính xác khiến Jenny thật hài lòng! Khi Jenny nói điều này, bà Hằng chỉ mỉm cười khiêm tốn khẽ đáp:

– Tôi là giáo sư Anh văn của một trường đại học thành phố!

Jenny ngạc nhiên:

– Giảng sư dạy đại học mà tại sao bà lại làm thêm công việc này?

Hơi bất ngờ vì câu hỏi của Jenny, bà Hằng ngập ngừng vài giây rồi nói:

– Thật ra đây là cơ hội cho những người dạy Anh văn như chúng tôi luyện giọng! Ngày xưa, khi tôi còn là học sinh, ngoài giờ học chính, chúng tôi thường ghi danh học thêm những course Anh Văn bên ngoài. Trước đây trung tâm Hội Việt Mỹ thường có những phòng thính thị cho chúng tôi luyện giọng, bây giờ thì khộng còn nữa!

Rồi bà bỗng đổi giọng vui vẻ nói:

– Dù sao đi nữa đây là một công việc vừa giúp tôi trau giồi nghiệp vụ, vừa được trả lương, còn gì bằng!

Vừa nghe xong câu đó, Jenny bật cười thoải mái.

Khi nắng chiều đã nhạt dần và cái nóng đã bớt gay gắt, Jenny và bà Hằng đang ngồi nơi quán ăn ở một góc đường. Cô đã đi lang thang qua nhiều dãy phố, đã thu vào ống kính của cô nhiều hình ảnh của đất nước này. Là một phóng viên, cô đã đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng điều làm cô kinh ngạc hơn hết là sự tương phản rất rõ nét giữa cái giàu và cái nghèo tại đây!

Trên đường phố chật hẹp, cô luôn nhìn thấy vài chiếc xe hơi thật đắt giá sang trọng đang cố luồn lách, chèn lấn để vượt qua những dòng xe hai bánh, lẫn lộn cả những chiếc xe đạp trầy sơn cũ kỹ. Ở đây tất cả mọi người đều hối hả, hấp tấp, vội vàng khiến Jenny cảm thấy chóng mặt, và cổ họng cô thật khô rát, Jenny quay lại nhờ bà Hằng gọi cho mình một “Ly chanh đường”. Cô phát âm bằng tiếng Việt 3 chữ đó khá rõ ràng khiến bà Hằng thoáng ngạc nhiên! Có gì đâu, Jenny mỉm cười kể:

– Nhiều lần Brittney vẫn nói nếu có dịp trở về Sài-Gòn, cô sẽ gọi một “Ly chanh đường”! Vì cô vẫn thường nghe các ông nhạc sĩ rên rỉ “.. Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…”! Nên cô muốn thử xem sao?!?

Bà Hằng bật cười thành tiếng, nhưng hình như trong đáy mắt bà chợt thoáng hiện một chút tiếc nuối xót xa!

Jenny nhìn quanh quan sát, cũng vẫn chỉ là khung cảnh cũ với những cụ già hay những em bé mệt mỏi với xấp vé số trên tay đang cố mời chào mọi người mua giúp! Những người hành khất già nua, bệnh hoạn ngồi la liệt chờ sự bố thí của người qua lại, chợt Jenny bắt gặp hình ảnh khiến cô khựng lại. Nơi cuối dãy bàn sát tường, một cậu bé đang ngồi bó gối im lìm, cạnh cậu bé là một chú chó nhỏ!

Hình ảnh này khiến Jenny chợt nhớ đến phim Charlie Chaplin cô vẫn coi ngày còn bé. Cái anh chàng Charlie này thường đóng cảnh nghèo khổ với một khuôn mặt rầu rĩ, thiểu não, bên cạnh cũng có một chú chó con! Đua máy ảnh lên chụp cậu bé qua vài góc cạnh, Jenny quay sang bà Hằng ngỏ ý cô muốn gặp cậu bé. Khẽ gật đầu, bà Hằng lặng lẽ bước về hướng cậu nhỏ đang ngồi!

***

Bước tới và đứng sát cạnh bàn Jenny, nhưng cậu bé vẫn cúi gằm mặt và hai tay buông thõng, chỉ có chú chó con vẫn hồn nhiên vẫy đuôi chạy loanh quanh. Jenny lặng lẽ kín đáo quan sát, cô thấy tim mình nhói đau khi nhìn thân hình gầy gò của cậu bé trong chiếc áo thun rộng thùng thình và rách lỗ chỗ. Cậu bé chắc chỉ khoảng trên 10 tuổi, Jenny thầm nghĩ, cô khẽ rút trong túi áo một khoản tiền và nhẹ nhàng nhét vào tay cậu bé. Cô nhờ bà Hằng nói với cậu những câu vỗ về an ủi. Bây giờ cậu bé mới ngẩng mặt lên lý nhí cám ơn, Jenny thoáng giật mình, vì trên khuôn mặt lem luốc xanh xao, là đôi mắt sáng, trong veo, đen láy toát lên sự linh hoạt, thông minh! “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, Brittney thường hay đùa nói với cô như thế!!!

Sẵn trên bàn còn vài chiếc bánh bao, Jenny với tay đưa cho cậu bé hai chiếc bánh, đưa hai tay đón nhận, cậu cúi đầu thật thấp thay cho lời cám ơn và quay bước trở về góc tối nơi cậu ngồi lúc nãy! Jenny đưa máy hình lên, cô đã sẵn sàng chụp những bức hình cậu bé và chú chó nhỏ cùng ngẫu nghiến ăn chiếc bánh, nhưng ô kìa, Jenny bỏ máy hình xuống sững người nhìn…

Cậu bé mở chiếc túi ny lông cậu vẫn đeo bên hông, bỏ một chiếc bánh vào. Tần ngần vài giây, cậu lại bẻ chiếc bánh còn lại làm đôi, bỏ trở lại bao và cột lại cẩn thận! Còn nửa chiếc bánh trên tay, cậu bé vừa ăn vừa đút cho chú chó nhỏ nãy giờ vẫn ngoan ngoãn đứng chờ!!!

Bây giờ Jenny cảm thấy thật tức giận, tại sao cậu bé có thể “Ăn chận” phần bánh của chú chó bé nhỏ như vậy? Cô nhớ tới bên Mỹ, nhà cô có hai chú chó, hằng tuần Mẹ cô vẫn phải khệ nệ bưng về những bao thức ăn được biến chế đặc biệt cho từng loại chó khác nhau với những “Khẩu vị” khác nhau, khi thì cá, lúc thì bò hay gà. Rồi cứ hai tuần một lần, Mẹ cô phải chở hai chú chó nhỏ này đến những trung tâm để họ chăm sóc, o bế bộ lông và cắt tỉa bộ móng của chúng, “Pets are people too! Thú vật cũng là con người!” Jenny luôn đươc nhắc nhở và bảo ban như vậy!!!

Nhìn chú chó vẫn đang liếm láp thèm thuồng, không dằn lòng nổi, Jenny cầm nguyên chiếc bánh bước về phía cậu bé, trước đôi mắt ngỡ ngàng của bà Hằng và cái nhìn sững sờ của cậu, cô đút cho chú chó trọn vẹn chiếc bánh, nhưng Jenny cũng kịp nhìn thấy đôi môi mím chặt của cậu bé, trước khi cậu quay mặt nhìn về hướng khác!

Trời đã bắt đầu tối đen, Jenny vẫn ngồi nói chuyện với bà Hằng, nhưng cô mơ hồ cảm thấy bà trở nên tư lự và khép kín hơn, giọng nói của bà không còn cởi mở, vồn vã như lúc ban đầu! Bây giờ cậu bé đang đứng trước mặt Jenny, cậu nhờ bà Hằng cám ơn cô về những cái bánh, và nhất là cô đã cho chú chó nhỏ của cậu một bữa tối no nê, đêm nay chắc chắn nó sẽ ngủ yên không làm phiền cậu!!!

Khẽ mỉm cười, Jenny giảng nghĩa cho cậu bé hiểu chó là người bạn vừa thân thiết, vừa trung thành với con người, cho nên cậu phải thương yêu và đối xử vừa đặc biệt, vừa công bằng với chúng! Bà Hằng thông dịch những câu nói đó cho cậu bé, nhưng đôi mắt bà xót xa như muốn nói thật nhiều những ý nghĩ trong đầu bà, nhưng bà đành khẽ thở dài cúi mặt!

Cúi đầu chào Jenny, cậu bé và chú chó quay bước, hối hả băng qua đường. Chăm chú nhìn theo bóng dáng vội vã của cậu bé, bỗng Jenny nẩy ra một ý định táo bạo, cô quay sang vắn tắt nói với bà Hằng cô sẽ đi theo và tìm xem chỗ ở của cậu bé và chú chó nhỏ? Không kịp chờ ý kiến của bà, Jenny đã đứng bật dậy và phóng theo cậu bé!!!

Khẽ thở dài, bà Hằng đành lật đật tất tả bước theo bóng Jenny. Không mấy khó khăn, Jenny đã bắt kịp cậu bé, nhưng không muốn cậu biết có người theo dõi, cô cố giữ một khoảng cách khá xa!

Sau khi băng qua hai góc phố, vài con đường, cuối cùng cậu bé và chú chó nhỏ dừng lại dưới mái hiên của một tiệm sách đã đóng cửa. Jenny và bà Hằng vội ngồi thụp xuống bên lùm cây cách đó không xa, cô cố nhướng mắt nhìn về phía trước. Hình như cậu bé đang tìm ai? Cậu nhớn nhác ngó quanh, chú chó cũng sủa lên vài tiếng!!!

Bỗng từ trong góc tối một bóng người xuất hiện, đúng ra là một người đàn ông, nhưng ông lê “Bước” ra bằng hai bàn tay, bởi đôi chân ông đã cụt qua quá khỏi đầu gối! Bên cạnh ông là một bé trai nhỏ khoảng 3, 4 tuổi. Cậu bé vội bước tới khẽ dìu ông và dắt tay người em trai nhỏ. Họ cùng ngồi xuống bên vệ đường, cậu mở vội chiếc túi và lôi ra chiếc bánh cậu để dành ban nãy đưa cho người đàn ông, xong cậu quay sang ôm người em nhỏ vào lòng, cậu từ tốn đút từng mếng bánh nhỏ cho em. Điều kỳ lạ là chú chó nhỏ vẫn đứng yên lặng vẫy đuôi, dường như đây là hình ảnh rất quen thuộc mà nó thấy mỗi ngày!

Jenny gần muốn như ngã khụyu khi nhìn hình ảnh đó, cô phải ngồi bệt ngay xuống bên vệ đường. Cô chợt nhớ lại lời khuyên của cô với cậu bé khi nãy là hãy thương yêu loài vật, rồi cô lại liên tưởng những tháng ngày cô còn bé. Chỉ một bữa ăn sáng không đúng ý, chỉ vì không có đôi giầy đồng mầu với chiếc váy, cô đã giận Mẹ cô cả tuần, không nói năng, thậm chí có lúc cô còn muốn “Run away from home”, bỏ nhà đi bụi đời! Những lời cô vừa cao giọng giảng giải cho cậu bé thật lố bịch biết bao! So sánh với cậu bé, Jenny cảm thấy mình chỉ như là một giọt nước trước một đại dương bao la!!!

Thò tay vào túi vét hết tất cả những đồng tiền cuối cùng, Jenny quay sang bà Hằng. Bà vẫn ngồi bó gối im lìm, đầu cúi thấp, bóng tối che khuất nên Jenny không thể nhìn thấy khuôn mặt bà cũng đang nhạt nhòa nước mắt!

Vừa dúi vào tay bà những tờ tiền, có tờ còn hơi ướt vì thấm nước mắt của cô, Jenny thổn thức nói:

– Hãy nói với cậu bé ấy là tôi xin lỗi, hãy tha thứ cho tôi!

Trước khi bà Hằng kịp trả lời, cô đã vụt đứng lên và chạy ngược về phía khách san!

Suốt ngày hôm sau, Jenny và bà Hằng đã ngồi chờ cậu bé tại quán ăn, cô cũng quay lại góc phố đêm qua, đi loanh quanh mong sao gặp lại được cậu bé và chú chó! Nhưng cậu bé vẫn biệt tăm!!!

Sáng nay khi chia tay với bà Hằng, cô đã để lại số phone riêng của cô, hy vọng bà sẽ tìm ra cậu nhỏ và chú chó!

Khi nghe Jenny hứa sẽ quay lại đây và sẽ ở lại lâu hơn, bà Hằng nhẹ nhàng nói:

– Đến với VN, đôi khi một ngày cũng quá đủ! Nhưng lắm lúc một trăm ngày vẫn cảm thấy thiếu!!!

Nói xong bà khẽ xiết chặt tay cô và chúc lời thượng lộ bình an!

Đưa tay cột lại giây an toàn, Jenny khẽ tựa đầu vào ghế. Cô chợt nhớ đến hình ảnh cậu bé người Nhật của Miyako, và cậu bé Việt-Nam của Sài-Gòn. Cả hai đều có một tấm lòng vị tha bao la, nghĩ đến người khác hơn nghĩ đến mình, cả hai đúng là có trái tim thật nhân ái tuyệt vời! Nhưng rồi cô bỗng so sánh, cùng bằng nhau số tuổi, nhưng 2 hình ảnh, 2 cuộc đời sao quá khác biệt!

Cậu bé người Nhật rất có thể ngay ngày hôm đó, cậu sẽ được đưa tới một nơi tạm trú, cậu có thể vẫn có những bữa ăn nóng sốt, chăn ấm nệm êm, từ những trung tâm cứu trợ, hay từ chính những người hàng xóm tốt bụng đầy lòng nhân ái!

Có thể cậu phải hứng chịu những sự đau thương, mất mát những người thân yêu của cậu, nhưng chắc chắn Cậu bé vẫn được sống lại trong vòng tay che chở, ấp ủ thương yêu của những người thân còn lại trong gia đình! Cậu rồi sẽ vẫn chân sáo đến trường, những khổ đau rồi cũng sẽ chìm dần vào quá khứ! Cậu bé vẫn có một tương lai tươi sáng trước mặt!!!

Còn cậu bé Việt-Nam đáng thương kia, đừng nói đến tương lai với cậu, với cậu chỉ có ngày mai là làm sao kiếm đủ thức ăn cho người cha già tàn tật và cho cậu em nhỏ dại! Cậu bé là cần câu cơm cho cái gia đình khốn khổ! Dù cậu chỉ mới hơn 10 tuổi, cái tuổi mà đáng lẽ cậu chỉ biết học hành vui chơi! Đôi mắt trong sáng đầy ắp tình thương kia liệu có biến đổi trước những tàn bạo khắc nghiệt của đường phố, hay những bầm dập của cuộc đời?!?

Jenny cảm thấy như có bàn tay ai đang bóp nát trái tim cô. Nước mắt đoanh tròng, Jenny khẽ kéo tấm che cửa sổ máy bay lên, bên ngoài mặt trời vừa ló dạng, ánh lên những tia sáng ban mai trên những đám mây vàng rực rỡ, chợt Jenny nhớ đến một bài nhạc mà cô đã hát bao lần trong đại học:

We are the World, We are the children, We are the ones who’ll make a righter day, So let’s start giving . . . It’s true we’ll make a better day! Just YOU and ME!!!

Phải, chính BẠN và TÔI, chúng ta sẽ tạo nên những ngày tươi đẹp hơn. Jenny cảm thấy như chợt có một làn hơi ấm áp đang len nhẹ vào hồn cô! Cô chưa biết mình sẽ phải viết thế nào về Cậu Bé Việt-Nam nhưng biết rõ đây là nơi cô sẽ còn trở lại! Chắc phải rủ cô bạn thân Brittney cùng trở lại và ở lại lâu hơn!!!

Jenny nhè nhẹ khép đôi mắt và chìm dần vào giấc ngủ thật êm đềm có lẽ vì “Con tim đã vui trở lại!”

Thật ra khi Jenny ca ngợi cậu bé người Nhật và cậu bé VN, cô gọi đó là những người có Trái Tim Nhân-Ái Tuyệt-Vời! Nhưng cô đâu biết, chính cô cũng là người có Trái Tim Thật Từ-Bi!!!

Cô cũng không biết người Việt chúng ta thường gọi những Tấm Lòng Nhân-Ái, Từ-Bi là ‘TRÁI TIM BỒ-TÁT”!!!

Phan-Lê

Trên Đỉnh Phù Vân copy from email.

Biết đủ

Biết đủ

Thanh sang Mĩ được hơn ba mươi năm rồi. Anh lớn lên từ một vùng đất nghèo. Ngày rời quê hương, anh hi vọng sẽ hạnh phúc hơn vì sẽ có một sự nghiệp rực rỡ.

Sau khoảng hai mươi năm bươn chải, làm việc chăm chỉ, anh mua được một căn nhà rộng có 4 phòng ngủ với nội thất toàn đồ đạc sang trọng và một chiếc xe Mercedes hạng sang. Trong xã hội, nhiều người mơ ước giống anh nhưng không được. Có thể nói anh đã ổn định về mặt vật chất và địa vị xã hội. Tuy thế, Thanh vẫn cảm thấy không thỏa mãn với những gì mình đang có. Anh tự hỏi tại sao lại chưa thấy hạnh phúc: Có phải vì tôi chưa có nhiều nên chưa thoải mái? Tôi sẽ hạnh phúc hơn khi có thêm một cái nhà bên bờ biển để cuối tuần đi thư giãn? Tôi sẽ cảm thấy an vui hơn nếu ngồi được vào vị trí cao hơn trong công ty?

Thế là anh tiếp tục lao vào cuộc tích góp của cải vật chất và phát triển tiếng tăm. Cuối cùng, sau gần mười năm, anh có được những điều mình mơ ước. Nhưng anh vẫn không thấy mình thật sự hạnh phúc. Rõ ràng là anh đã có rất nhiều, nhiều hơn rất nhiều người. Câu hỏi tại sao tiếp tục treo lơ lửng trong tâm trí anh.

Một Chúa Nhật kia, gia đình Thanh đi Lễ chung. Đã lâu lắm rồi, cả nhà chưa có dịp cùng đi Lễ với nhau như vậy. Việc đi Lễ đối với Thanh nhiều năm nay chỉ là một bổn phận phải làm theo thói quen mà cha mẹ đã truyền lại. Nhưng không hiểu sao ngày hôm ấy Thanh cảm thấy xúc động mạnh bởi các bài Lời Chúa mà đã nghe khá nhiều lần. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giảng Viên mở đầu thế này: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.”” (Gv 1:1)

“Không. Không thể như thế được.” Thành tự nói trong tâm trí mình như muốn phủ nhận những gì anh đang nghe.

Tiếp theo, bài đáp ca bằng Thánh vịnh 90 được xướng lên:

Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,

Ngài phán bảo : “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !”

Ngàn năm Chúa kể là gì,

tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,

khác nào một trống canh thôi !

“Ừ nhỉ. Câu này nghe có lí vì con người đến trong và ra đi khỏi cuộc đời này như một làn gió thoảng qua.” Thành bắt đầu ngẫm nghĩ sâu hơn.

Trong bài đọc thứ 2 trích từ thư của Thánh Phao-lô, Thanh nghe rõ nhất câu này: “tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (Cl 3:5) Anh chợt thấy … nhột nhột.

Cuối cùng bài Tin Mừng được vị phó tế vĩnh viễn đọc vang lên. Thầy Giêsu dạy: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.“

Chữ “tham lam” làm Thanh suy nghĩ. Anh tự hỏi bản thân có tham lam không. Không, anh không nghĩ mình là kẻ tham lam vì anh chẳng lấy của ai cái gì. Những gì anh có là do bàn tay lao động của anh làm ra.

Thánh Lễ kết thúc. Đang trên đường ra lấy xe để về nhà, Thanh nhìn thấy phía trước mình anh chàng nhân viên lau dọn trong công ty. Bỗng nhiên Thanh nhận ra sự khác biệt rất rõ giữa anh và người ấy. Khác biệt thứ nhất: Xe hơi của Thanh đắt tiền hơn xe hơi của anh ta. Khác biệt thứ hai: Nhà của Thanh mới và rộng hơn nhà anh ta. Khác biệt thứ ba: Thanh tướng tá đẹp trai hơn anh ta. Khác biệt thứ tư: Thanh có bằng cấp cao hơn anh ta. Nhưng khác biệt thứ năm mới làm Thanh để ý nhất, đó là: Thanh cười không tươi bằng anh ta. Nói cách khác, Thanh cảm thấy mình không bình an như người ấy.

Chiều hôm ấy, Thanh quyết định gọi điện với lý do thăm hỏi anh nhân viên nọ nhưng thực ra là đang loay hoay đi tìm câu trả lời cho khúc mắc trong lòng mình. Trong câu chuyện giữa hai người, Thanh nhận ra thêm những thua kém vật chất danh vọng của anh nhân viên. Cuối cùng, Thanh nói người ấy:

“Cậu có cần giúp đỡ gì thì cứ cho tôi biết.”

Người ấy đáp lại một cách chân tình: “Cám ơn sếp. Em thấy mình như vậy là đủ để hạnh phúc rồi.”

Thanh chợt giật mình khi nghe “đủ để hạnh phúc”. Phải rồi, đây là chìa khóa giải gỡ khúc mắc bấy lâu nay. Anh nhân viên lau chùi có thể không đủ tiền để mua cái nhà lớn hơn, không đủ bằng cấp để xã hội phải cung kính, không đủ quyền lực để sai khiến thiên hạ,… nhưng anh ta biết xem những gì mình đang có là đủ để tâm hồn thanh thản hạnh phúc.

Các ý nghĩ bỗng dồn về rất nhanh trong tâm trí giúp Thanh phản tỉnh. Rõ ràng là Thanh đang có “đủ để hạnh phúc”. Anh có một mái ấm gia đình quý giá mà anh lâu nay bỏ lơ. Đức tin cho anh ý nghĩa cuộc đời và bình an, vậy mà bấy lâu nay anh chẳng hề để ý chăm sóc. Của cải anh đang có là những hồng ân, vậy mà anh vẫn nghĩ là đương nhiên. Bầu trời trong veo mùa thu xinh đẹp thế mà hôm nay anh mới thấy…. Nguyên nhân của việc anh cảm thấy mình không hạnh phúc thật sự rất đơn giản: vì anh chưa biết ĐỦ. Vì chưa biết đủ nên anh chưa biết thưởng thức trọn vẹn. Đến lúc này thì anh nhận ra rằng không biết đủ là một dạng tham lam tinh tế. Hóa ra bấy lâu nay anh là một kẻ tham lam ngu ngốc mà không biết. Biết đủ không phải là dậm chân tại chỗ khước từ sự cầu tiến và phát triển, nhưng biết đủ là khôn ngoan tận hưởng những gì mình đang có trong tay một cách trân trọng và đầy tròn nhất.

Cuộc nói chuyện hôm ấy kết thúc bằng những tiếng cảm ơn được lặp đi lặp lại liên tục từ miệng Thanh. Anh nhân viên không hiểu sao sếp lại cảm ơn mình, mà lại cảm ơn nhiều lần nữa chứ. Còn Thanh thì vui mừng như tìm được một kho tàng chôn giấu bấy lâu nay. Thanh tự nhủ sẽ tìm cách “đền ơn” người nhân viên của mình.

Hôm nay, nhờ sống hai chữ BIẾT ĐỦ mà Thanh là một người hạnh phúc hơn nhiều. Anh có thêm không gian và thời gian để thưởng thức những điều quan trọng nhất của cuộc đời. Tốt hơn nữa, Thanh nhận ra một chân lý mà Thánh Tê-rê-xa thành Avila đã khám phá cách đây mấy trăm năm: có Chúa là có đủ.

Lm Jos.Tuấn Việt,O.Carm

15/08/2019 Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt

From: Xuan Nguyen

Người thợ mộc nghèo dành dụm cả đời được gần 3 triệu đô la để tài trợ các bạn trẻ vào đại học

Tác giả Hồng Phúc NguồnĐại Kỷ Nguyên TV Ngày đăng: 2019-08-17
Dale Schroeder – một người đàn ông ở tiểu bang Lowa, Hoa kỳ đã dành cả đời làm việc và tiết kiệm từng xu kiếm được để thực hiện điều ước cuối cùng: Tài trợ cho các em học sinh của thị trấn nhỏ Lowa được đi học đại học.
Có lẽ sẽ là không ngoa nếu nói ông Dale Schroeder là một “Triệu phú khu ổ chuột”. Bởi ông thậm chí chỉ có 2 chiến quần jean, nhưng đã chi tới 3 triệu đô la để tài trợ cho những đứa trẻ đi học.
“Ông ấy là một người lao động phổ thông điển hình, tay cầm hộp cơm trưa”, Steve Nielsen, một người bạn của Dale Schroeder, tại đài truyền hình trực thuộc CBS KCCI cho biết. “Ông ấy làm việc chăm chỉ mỗi ngày và sống đạm bạc như nhiều người trong khu vực”
Lớn lên trong nghèo khó và không thể đi học đại học.
Dale Schroeder không kết hôn, không có con và không học đại học. Ông làm thợ mộc trong một doanh nghiệp suốt 67 năm. Đó là một công việc vất vả và không có nhiều tiền, thế nhưng ông đã tiết kiệm từng xu trong suốt cả cuộc đời công nhân của mình với số tiền lên đến 3 triệu đô la!

Kira Conrad là một trong những “đứa con thừa hưởng của Dale Schroeder “

Trước khi qua đời, ông nói với một người bạn rằng ông muốn dùng tiền đó để giúp đỡ những người kém may mắn như ông đã không được học đại học.
Ông ấy muốn giúp đỡ những người trẻ tuổi, những người có lẽ sẽ không có cơ hội học đại học vì không có tiền, giống như ông trước kia”, Nielsen nói với kênh truyền hình.
Một người tự xưng là đồng nghiệp của ông Schroeder đã bình luận như dưới đây.
“Tôi đã làm việc với Dale 8 năm tại Moehl Millwork,” Deb Sanders Harre nói. “Thật là một người đàn ông tuyệt vời. Ông ấy đã giúp rất nhiều bạn trẻ được đi học đại học”

Đài truyền hình đã đưa tin về câu chuyện của ông Schroeder

“Chúa phù hộ trái tim hào phóng của ông ấy”, người khác bình luận. “Ông ấy đã làm thay đổi những số phận”
ABC Action News cho biết, nhờ sự giúp đỡ hào phóng của Schroeder, 33 sinh viên đã tốt nghiệp đại học. Cô Kira Conrad – một trong những “đứa con của Dale” xúc động chia sẻ: “Tôi đã bật khóc ngay lập tức”
Conrad từng mơ ước được đi học đại học, nhưng là con gái út trong một gia đình mẹ đơn thân, cô không có tiền để trả học phí ở trường đại học. Nhờ quỹ học bổng của ông Dale Schroeder, cô đã tốt nghiệp và giờ đây đang bắt đầu sự nghiệp của mình để cống hiến cho xã hội, như “cha” cô đã từng làm.
“Tất cả những gì chúng tôi muốn các bạn trẻ làm là hãy lan tỏa lòng tốt cho người tiếp theo. Đó là cách “trả nợ” tốt nhất”, Nielsen nói. “Bạn không thể trả lại tiền cho Dale vì ông ấy đã mất. Nhưng bạn có thể nhớ đến ông ấy và giúp đỡ người khác như cách ông đã từng làm.”

Dale Schroeder – người đàn ông khiêm tốn đã thay đổi cuộc sống của rất nhiều người

Câu chuyện về Dale Schroeder đã nhận được rất nhiều phản hồi tích cực từ độc giả.
Mọt người xúc động viết:
Ông ấy quả là một con người tuyệt vời. Tôi hy vọng những bạn trẻ này sẽ làm được nhiều điều tốt.
“Thật là một người đàn ông kỳ diệu! Khi bạn nghĩ rằng mình đã mất niềm tin vào nhân loại, ai đó sẽ đến để chứng minh với bạn rằng những người tốt vẫn còn tồn tại. Tôi hy vọng rằng những “đứa con” của ông ấy sẽ tiếp tục lan toả những hành động tử tế”.Một người khác chia sẻ.
“Một người đàn ông khiêm tốn đã thay đổi cuộc sống của rất nhiều người”, một người khác viết. “Ông ấy đã để lại một di sản đáng quý và tôi hy vọng nó sẽ tiếp tục! Chúa phù hộ ông ấy.”

 

Chúng ta không cần phải giàu có để làm điều tử tế. Bất kể là ai, ở thân phận nào, bạn đều có thể làm nên những điều kỳ diệu. Tôi yêu những câu chuyện đẹp như thế này, và tôi hi vọng bạn cũng thế.

from Đại Kỷ Nguyên – Feed – https://ift.tt/317lDm5

————
Ý kiến độc giả :
Cũng là chết, chết để người tưởng nhớ
Để tiếng lành thơm ngát mãi muôn sau
Cũng là chết, chết có ngàn hoa nở
Vì từ tâm làm tươi lại địa cầuNgô Minh Hằng 

Đừng làm gì khi đang giận dữ

Ngo Thu
Một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.”

Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.”

Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.”

Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng hành động khi đang giận dữ.”

Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.
Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!” Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai. “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói.
“Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời, “Ngươi đã trả nợ rồi.”

No photo description available.

Cuộc sống đã quá mệt mỏi, cớ sao phải nói lời tuyệt tình, ác khẩu với nhau?

Cuộc sống đã quá mệt mỏi, cớ sao phải nói lời tuyệt tình, ác khẩu với nhau?

Trong đời, một câu nói có thể mở ra đường sống cho một người và một câu nói cũng có thể đẩy người khác vào tuyệt lộ. Đúng như câu cổ ngữ: “Thiện ý một câu ấm ba đông, lời ác lạnh người sáu tháng ròng”.

Nữ tài xế taxi trên đường đi làm gặp một tên cướp. Hắn rút dao đe dọa chị phải nộp ra toàn bộ tiền mặt. Chị bình tĩnh giao tất cả số tiền trong người cho hắn, mỉm cười nói: “Hôm nay tôi chỉ kiếm được một chút này, mong rằng cậu không chê ít!”.

Tên cướp hơi sững người vì thái độ của chị, lặng lẽ cầm lấy số tiền trong tay chị, đoạn châm điếu thuốc hút một hơi dài. Nữ tài xế nhìn vẻ mặt đăm chiêu của tên cướp một hồi rồi nói: “Nhà cậu ở đâu? Tiện có xe ở đây, tôi sẽ đưa cậu về. Đã muộn như vậy rồi, đừng để người nhà phải lo lắng!”.

Tên cướp vẫn lặng lẽ châm thuốc đốt từng điếu, từng điếu, mắt vẫn không nhìn nữ tài xế, đột nhiên thu con dao nhọn lại đút vào túi quần. Nữ tài xế tiến lại gần hơn nói: “Tôi hiểu nỗi khổ tâm của cậu. Ngày trước nhà tôi cũng rất nghèo, tôi phải làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Sau này tôi theo người ta học lái xe mới có chút nghề như hôm nay. Dù không kiếm được quá nhiều tiền nhưng cũng không đến nỗi phải bán lương tâm. Mà này, cậu là nam nhi sức dài vai rộng, tứ chi lành lặn, sao không tìm lấy một nghề tử tế mà kiếm sống. Đi vào con đường này để cả cuộc đời bị hủy hoại sao? Năm nay tôi đã ngoài 40, tôi nom cậu còn trẻ lắm, chắc chưa đến 20, tương lai phía trước còn dài”.

Tên cướp lặng thinh chẳng nói một lời, hình như có tiếng thở dài khe khẽ ở phía ghế sau… Đi được một đoạn, tên cướp xin xuống. Nữ tài xế lấy hai chiếc bánh bao vẫn còn nóng để trong cốp xe dúi vào tay hắn mỉm cười: “Tiền của tôi coi như biếu cậu, nhớ dùng nó mà làm chút việc đúng đắn, sau này đừng đi làm cái việc không ra người thế này nữa. Bánh bao còn nóng, chắc từ tối đến giờ cậu cũng chưa ăn gì đúng không?”.

Đến lúc này, tên cướp không thể kìm nổi, đột nhiên bật khóc nức nở, hai tay ôm lấy khuôn mặt, nấc lên thành tiếng. Hắn lấy toàn bộ số tiền vừa cướp được khi nãy nhét vào tay chị tài xế, đoạn nói: “Chị ơi, sau này em có chết đói cũng nhất quyết không làm cái việc này nữa!”. Đường phố chẳng có một ai, người tài xế nữ mỉm cười đầy bao dung, lấy khăn tay lau từng hàng nước mắt không ngừng tuôn rơi trên khuôn mặt chàng thanh niên hiền lành vừa khi nãy vẫn còn là kẻ cướp hung tợn.

***

Lời nói có thể cảm hóa lòng người, cũng có thể đẩy một người vào tuyệt lộ. Lời nói thực sự có năng lượng, đôi lúc là mũi dao nhọn sát thương, đôi khi lại là dòng suối mát tưới tắm tâm hồn. Lời nói xuất phát từ một nội tâm thuần chính, lương thiện thực sự có thể làm tan chảy cả trời đất, có thể cải biến một nhân cách, cứu rỗi một cuộc đời. Ôi, sức mạnh của lời nói lớn đến độ như vậy sao!

Cuộc sống đã quá mỏi mệt rồi, tại sao người ta cứ phải dành những lời “ác khẩu”, cay nghiệt với nhau, tại sao không thể lùi một bước lắng nghe nhau, tại sao không thể trao cho nhau những lời thiện ý? Thiện niệm, lòng từ bi có thể cứu vớt một tên tội phạm trở thành người lương thiện, có thể mở ra ánh sáng cuối đường hầm cho một cuộc đời đầy bi kịch, có thể chiếu rọi ánh Mặt Trời vào những nơi u ám, tối tăm.

Văn Nhược

Image may contain: night and outdoor

  Thiền Sư và Cô Lái Đò

  Thiền Sư và Cô Lái Đò.

Ngày kia, một Thiền sư phải qua sông. Vị Sư bước lên một chiếc đò của một cô lái đò xinh đẹp.

Sau khi thuyền cặp bến, cô lái đò thu tiền từng người như bình thường, chỉ trừ nhà sư bị cô lái đò đòi tiền “gấp đôi.”

Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao?

Cô lái đò mỉm cười:

“Thưa Thầy, vì Thầy đã nhìn em…”

Nhà sư lặng lẽ trả tiền và bước lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền “gấp ba.”

Nhà sư ngạc nhiên lại hỏi vì sao?

Cô lái đò cười bảo:

“Thưa Thầy, Thầy đã nhìn em dưới nước.”

Nhà sư nín lặng trả tiền “gấp ba” giá bình thường, và bước lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.

Đò cập bến cô lái đò thu tiền “gấp năm” lần. Nhà sư ngạc nhiên, lại hỏi vì sao?

Cô lái đò cười, đáp:

“Thưa Thầy, Thầy không nhìn em, nhưng còn nghĩ đến em.”

Lặng lẽ, nhà sư trả tiền gấp năm lần giá bình thường.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò…

Đò cập bến, nhà sư cười hỏi:

“Lần nầy tôi phải trả bao nhiêu?”

Cô lái đò đáp:

“Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền.”

Thiền sư hỏi:

“Vì sao?”

Cô lái đò cười và đáp:

“Thầy đã nhìn em mà không còn nghĩ gì tới hình ảnh em nữa… Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi không lấy tiền…”

(Chú ý: Chưa hết!  Xin xem thêm lời bàn và các lời kết bên dưới)

_______

Lời bàn

Sau đây là 3 lời bàn (“comments”) trên mạng mà tôi thấy cũng   hay:

1- Tiếp cảnh sinh tư tình, rồi hành ý lãng tránh đều đã có dính mắc chấp giữ. Nhìn thẳng thấy rõ đúng như thực, bất khởi vọng niệm…

2- Đó thấy không?! Dzậy mà mấy bà cứ chửi mấy ông là “cứ thấy gái đẹp là tươm tướp, tươm tướp…”  nhưng thật ra đám lão nông chúng tôi là những người đã đắc đạo từ lâu rồi (?!): Chỉ nhìn mà không nghĩ gì cả (vì có nghĩ cũng chẳng được chi mà lại càng thêm tức… vì đã hết xí quách hết dzồi còn gì!!!)

3- Nói một cách khác, mọi sự từ TÂM mà ra, sống ở đời chỉ có chữ TÂM là đáng quý!

Theo thiển ý của bỉ nhân, cô lái đò là hóa thân của một vị giác ngộ muốn dạy cho chúng ta một bài Pháp. Nhà sư gặp cô lái đò 4 lần:

– Lần 1 bị trả tiền gấp 2 vì nhìn cô gái với tâm phàm (ham muốn).

– Lần 2 bị trả tiền gấp 3 vì không dám nhìn thẳng, mà liếc bóng cô gái dưới nước.

– Lần 3 bị trả tiền gấp 5 vì giả bộ nhắm mắt ngồi thiền nhưng vẫn tơ tưởng đến cô gái.

– Lần 4 không phải trả tiền vì mặc dù nhìn thẳng cô gái nhưng tâm không bị dính mắc bởi những ý nghĩ xấu: Nhìn mà như không nhìn vậy!

Trong Đạo Phật, có những câu nghe qua có vẻ nghịch lý nhưng rất thâm thúy như:

– Giúp mà như không giúp, thế mới thật là  giúp.

– Nhẫn mà như không nhẫn, thế mới thật là nhẫn.

– Thương mà như không thương, thế mới thật là thương…

________

Lời kết

(Hai đoạn kết ngắn được Bác Mao Tôn Cương… Ẩu viết thêm vào phần cuối của câu chuyện “Thiều Sư và Cô Lái Đò” ở trên để gọi là góp… gió độc):

Lời kết số 1 viết thêm như sau:

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần này cô lái đò không những không lấy tiền mà còn xin được đi theo hầu.

Nhà sư hỏi: “Vì sao?”

Cô lái đò đáp:

“Thầy không những nhìn em, mà còn nhìn vào giữa hai chân em, một cách đường đường chính chính, không úp mở, không én lút. Đấy gọi là an nhiên trực diện với cái thực thể uyên nguyên, chứ không giả điếc không nghe, giả mù không thấy, giả ngu không hiểu. Tâm thức này chỉ thấy ở những bậc đại chân tu đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nên em bội phần khâm phục, muốn được theo thầy học đạo.”

Nhà sư trầm tư một lúc rồi thong thả đáp:

“Quả là ta đã nhìn vào giữa hai chân cô. Ta cứ tưởng tâm mình đã hoàn toàn tĩnh lặng, không ngờ tâm ta lại ba đào nổi sóng. Thế mới biết còn lâu lắm ta mới có thể đạt đến cái cảnh giới thượng thừa mà cô mong đợi. Ta đã phụ lòng cô, thật đáng tiếc!”

Cô lái đò suy nghĩ một lúc rồi ngập ngừng:

“Nhưng em… vẫn muốn… theo thầy.

Nhà sư hỏi: “Vì sao?”

Cô lái đò đáp:

“Trước em tưởng thầy là bậc chân tu nên xin được theo để học đạo. Nay em biết thầy là kẻ chân tình nên xin được theo để nâng khăn sửa túi.”

Nhà sư chắp tay:

“Thiện tai! Thiện tai!”

*

Lời kết số 2 viết thêm như sau:

Một thời gian sau, những người thường qua đò không còn thấy cô lái đò nữa mà lại có người đàn ông lái đò…  nhìn kỹ ra thì chính là ông Thiền sư ngày nào!

Có người khách cắc cớ hỏi:

“Thế cô lái đò đâu rồi Thầy?”

Nhà Sư (?) trả lời:

“Cô ấy đi lấy chồng dzồi.”

“Mà cổ ấy lấy ai dzậy hà?”

“Thì cổ ấy lấy… tui… Chứ còn lấy ai!”

“Trời đất!”

Trần Văn Giang

From: TU PHUNG

 

XIN CHÚA THA THỨ CHO TÔI

XIN CHÚA THA THỨ CHO TÔI

Sau thời Cách Mạng Pháp, trước cửa một Nhà Thờ tại thủ đô Paris nước Pháp, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây Thánh Giá nhỏ bằng vàng.

Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị Linh Mục trẻ. Vị Linh Mục đến dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ này. Mỗi lần ra khỏi Nhà Thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.

Ngày nọ, vị Linh Mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa Nhà Thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị Linh Mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị Linh Mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau:

“Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân Cách Mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi”.

Nghe đến đây, vị Linh Mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất:

“Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu… Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây Thánh Giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc Thánh Giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi”.

Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị Linh Mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: “Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một Linh Mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…”

Tác giả KHUYẾT DANH

Image may contain: shoes and outdoor

 Người ăn mày may mắn

 Người ăn mày may mắn

Nguyễn Thiêm

Có cô gái bán hoa, một hôm sau khi bán hầu hết số hoa trên sạp hàng cô thấy đã quá muộn nên cô quyết định về nhà. Trên đường về, cô nhìn thấy một người ăn mày ngồi bên vệ đường thế là cô thuận tay tặng một bông hoa hồng còn lại cho người ăn mày, trong lòng cô tràn trề niềm vui.
Có lẽ các bạn cho rằng câu chuyện đến đây sẽ kết thúc, nhưng câu chuyện tôi kể bây giờ mới thực sự bắt đầu.

Đối với người ăn mày đây là chuyện không thể ngờ vì với anh ta được một cô gái xinh đẹp tặng hoa chẳng khác nào mặt trời mọc ở đằng tây.
Có lẽ chưa bao giờ người ăn mày yêu bản thân mình, cũng có lẽ chưa bao giờ anh ta nhận được tình yêu của người khác nên anh ta quyết định là hôm nay không ăn xin nữa mà trở về nhà.
Sau khi về nhà, anh ta tìm cái bình hoa rồi cắm bông hoa hồng vào và đặt nó trên bàn. Bông hoa quả là đẹp, người ăn mày ngồi lặng lẽ ngắm nhìn bông hoa.
Chợt anh ta nghĩ đến điều gì đó, anh ta vội đứng lên bỏ bông hoa ra rồi mang cái bình đi cọ rửa rất sạch sẽ. Hóa ra anh ta cho rằng bông hoa đẹp như thế này mà lại cắm vào cái bình bẩn thỉu thì không thể được, cái bình thật sạch sẽ mới xứng đáng để cắm bông hoa xinh đẹp này.
Xong việc, anh ta lại ngồi lặng lẽ ngắm nhìn vẻ đẹp của bông hoa hồng. Một lúc sau, anh ta lại chợt thấy rằng cái bình hoa đẹp thế này lại đặt trên cái mặt bàn đầy bụi thế là anh ta lại đứng lên lấy giẻ lau chùi cái bàn thật sạch sẽ, sau đó đặt cái bình hoa ngay ngắn ở trên bàn.
Xong việc người ăn mày lại ngồi lặng lẽ thưởng thức vẻ đẹp của bông hoa, bỗng nhiên anh ta thấy rằng cái bình hoa đẹp đẽ đặt được đặt trên cái bàn sạch sẽ lại ở trong một gian phòng vô cùng bừa bộn và đầy rác rưởi?
Nghĩ vậy, anh ta lại quyết định dọn dẹp lại căn phòng và xếp đặt lại mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp… Căn phòng gọn gàng với cái bình hoa đẹp đẽ như ấm áp hẳn lên và hình như người ăn mày quên rằng mình đang ở đâu.
Khi người ăn mày đang chìm trong đắm say thì anh ta bỗng thấy ở trong gương một người đàn ông đầu tóc rối bù, ăn mặc lôi thôi… Anh ta không ngờ rằng mình lại là một người như thế này, một người có bộ dạng như thế có đủ tư cách ngồi trong căn phòng sạch sẽ với bình hoa đẹp như thế này không nhỉ?
Nghĩ vậy, anh ta đi tắm rửa và thay quần áo, mặc dù bộ quần áo hơi cũ nhưng nó rất sạch sẽ. Sau đó, anh ta lại đứng trước gương ngắm mình từ đầu đến chân, anh ta thấy rằng người trong gương cũng là một người có khuôn mặt rất điển trai.
Lúc này, anh ta lại nghĩ: Một người như thế này mà lại phải đi ăn xin à? Đây là lần đầu tiên anh ta tự hỏi mình như vậy. Tâm hồn anh ta bỗng thức tỉnh, kỳ thực mình cũng không đến nỗi nào? Anh ta nhìn căn phòng rồi lại nhìn bình hoa hồng ở trên bàn, cuối cùng anh ta đã đưa ra một quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của mình.
Anh ta quyết định từ hôm nay anh ta sẽ không đi ăn xin nữa mà đi tìm một công việc để làm. Anh ta không sợ mệt, không sợ vất vả nên hôm sau anh ta dễ dàng tìm được một công việc thích hợp. Có lẽ bông hoa hồng nở rộ trong lòng đã truyền cảm hứng cho anh ta, với sự cố gắng không mệt mỏi dăm năm sau anh ta trở thành một ông chủ của một xí nghiệp nhỏ.
Một thời gian sau, anh ta cũng tìm được cô gái đã tặng hoa cho mình và anh ta đã tặng cho cô gái một nửa tài sản của mình để cảm ơn cô gái đã tặng anh ta đóa hoa hồng khi anh ta đang là kẻ ăn mày lang thang.
Đây không phải là một đóa hoa hồng mà là một niềm hy vọng đối với cuộc sống, một niềm hy vọng đối với một tương lai tốt đẹp. Đây là đóa hoa hồng tặng cho người đúng với câu ngạn ngữ kinh điển: Tặng hoa cho người hương thơm dư lại.
Mỗi một con người đều là duy nhất, mỗi một con người đều là đẹp nhất! Chúng ta phải tin ở mình để bất kể như thế nào cũng không nên bỏ cuộc. Không nên để mình rơi vào bờ vực của sự thất bại, chỉ cần mình có sự thay đổi nho nhỏ thì cuộc sống của chúng ta sẽ bắt đầu tốt đẹp lên. Khi ta thay đổi thì mọi thứ tất sẽ thay đổi.
Nguyễn Thiêm

From: Kristie Phan & KimBang Nguyen

NGƯỜI HẠ SĨ NHỨT

NGƯỜI HẠ SĨ NHỨT

Tác giả: Nguyễn Vô Danh

Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, “Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?”. Chuyện tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp – ý tui muốn nói là suôn sẻ đó. Còn chuyện người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng Trời tính mà. Tía hay nói như dzậy.

Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt tui là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng hơi chậm nói – nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.

Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.

Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với cà lem ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.

Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng xong nếu tiếp tục cá đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã xóng xoài – chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.

Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô gôn luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn “đội banh nhà” ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên, và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ.

Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn … hồi nhỏ), tui được huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ. Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh. Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc. Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay, vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ tui.

Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần. Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Tụi Việt Cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng. Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị. Sau thời gian dưỡng thương, tại tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1 quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.

Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm Phó quận trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên kia rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ. Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:

– Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.

Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo, … chắc là người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) – một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi – thường qua lại nhà cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? hay là xem cá có cắn câu chưa? hay là đang dò sét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?… Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là đề phòng thì vẫn hơn.

Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ, … Một buổi chiều tháng tư, tụi Việt Cộng đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn. Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:

– Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thi trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới đây.

Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm.
Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:

– Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú … như người nhà. Cám ơn chú … đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và … đã giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.

Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới -cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời – cái ngày mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.
Hai hôm sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Xã trưởng là 1 tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ nhăn nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt:

– Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.
– Thưa đồng chí xã trưởng …
– Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.
– Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính kiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn giết ai đâu?
– Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được Đảng khoan hồng.
– Thưa Xã Trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.
– Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.

Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty Công An tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An, tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi.
Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn.

Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó được “khoan hồng” về làm rẫy với gia đình ở Cồn Dừa.

Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui 1 tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị sung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm tiền.

Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại cải tạo trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong tại cải tạo mùa thu năm 1977. Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ 1 đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà. Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm 1 bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.

Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn 1 miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn chim, … Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được, tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.

Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa ra đều thất bại, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:

– Chú Sơn có nhận ra tôi không? … anh Đức đây?
– “Hả, … ôi trời, Thiếu Úy Đức, … ông Phó!…”; Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
– Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của tôi mà.
– Dạ, dạ … ông Phó, à quên, … anh Đức. Tưởng là anh đã … Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.
– Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.
– Còn đây là bà xã của anh.
– “Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?”; Tui hỏi.
– “Chú nhìn kỹ xem ai ? Cô Hân ở Suối Dây đó”; TUĐ trả lời.

Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:
– Tui hổng có dè có ngày này… 20 năm rồi. Cám ơn anh chị … đã nhớ đến tui… Tui mừng quá. Sao … tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui có nằm mơ hông ?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
– Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.

* * *
Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi như vậy.

Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la.

Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.

Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm “Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má”

Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.

Ngày đó chắc là phẻ re, há?

Nguyễn Vô Danh

CUỘC ĐIỆN THOẠI GỌI NHẦM SỐ

CUỘC ĐIỆN THOẠI GỌI NHẦM SỐ

Một ngày nọ, đang trên đường về nhà, chuông điện thoại di động reo lên, anh vừa bấm máy thì nghe giọng của một cô bé non nớt vang lên: 

– Ba ơi! Ba nhanh về nhà nhé, con rất nhớ ba!

Anh biết là ai đó đã gọi nhầm số, vì anh không có con gái mà chỉ có một cậu con trai mới 6 tuổi.

Chuyện này cũng không có gì làm lạ, anh lắc đầu: 

– Gọi nhầm số rồi nhé! 

Nói rồi, anh tắt máy.

Thế nhưng những ngày tiếp theo đó, số điện thoại kia vẫn tiếp tục gọi đến máy anh, anh bắt đầu thấy phiền phức, thế nên anh nhất quyết không nghe máy.

Hôm rồi, số điện thoại đó lại gọi đến hết lần này lượt khác, điều khiến anh ngạc nhiên đó là trong khi anh kiên quyết không nghe thì số điện thoại kia vẫn kiên quyết gọi cho bằng được.

Cuối cùng, anh nghe máy, vẫn là giọng của cô bé kia: 

– Ba ơi! Ba nhanh về nhé, con nhớ ba lắm. Mẹ nói con không gọi nhầm số đâu, chính là số điện thoại của ba đấy. Ba ơi con đau lắm! Mẹ nói ba rất bận nên chỉ có mình mẹ chăm sóc con, mẹ rất mệt. Ba ơi, con biết ba rất vất vả, nếu ba không về với con được thì ba hôn con qua điện thoại một lần được không ba ạ?

Yêu cầu ngây thơ của cô bé khiến anh không có cách nào từ chối…Anh hôn vào máy và thì thầm ” Ba yêu con “.

Sau đó, anh nghe thấy tiếng nói đứt quãng của cô bé qua điện thoại; 
– Con… cảm ơn… ba, con… vui… lắm, con…hạnh… phúc… lắm… ba ơi…!!!

Khi anh đang cảm thấy thú vị với cuộc gọi này thì chuông điện thoại anh lại reo lên, nhưng người gọi lần này không phải cô bé lần trước mà là giọng nói nặng trĩu của một người phụ nữ: 

– Xin lỗi anh! Mấy ngày hôm nay thật làm phiền anh nhiều, thực sự xin lỗi! Tôi tính đợi lo xong mọi chuyện cho cháu rồi mới gọi điện xin lỗi anh sau.

Con bé mà mấy lần trước gọi điện cho anh đó là con gái tôi, số nó khổ lắm, mới sinh ra đã mắc bệnh ung thư xương, không lâu sau đó ba nó lại qua đời trong một vụ tai nạn giao thông.

Tôi thực sự không dám cho nó biết bởi hàng ngày nó đều phải chịu sự dày vò đau đớn của đợt điều trị hóa chất. Mỗi lần không chịu đựng được sự đau đớn đó, miệng nó cứ gọi ba không ngừng bởi anh ấy luôn động viên nó phải mạnh mẽ vượt qua. Tôi thực sự không nỡ chứng kiến cảnh nó như thế nên liền tìm ra một số điện thoại để nói dối nó.

Nghe thế anh vội vàng hỏi người phụ nữ: 
– Vậy con bé bây giờ ra sao rồi?

Người phụ nữ nén xúc động: 
– Nó đi rồi anh à… Chắc lúc anh đã hôn nó qua điện thoại thì nó ra đi với nụ cười mãn nguyện,…Trước khi đi tay nó còn ôm chặt cái điện thoại vào lòng.

Nghe xong, anh sững người…Miệng đắng ngắt. Không biết nói gì nữa.

Cô bé giúp mọi người nhận ra tình thân vô cùng quan trọng, giúp mọi người cảm nhận được tình yêu, cảm nhận được sự ấm áp của gia đình. Thế giới vô cùng rộng lớn nhưng với cô bé chỉ là một tiếng nói yêu thương trong gia đình, Gia đình vô cùng nhỏ bé nhưng đối với cô bé, nó là cả một thế giới. 

Chỉ cần một nụ hôn của ba, cô bé đã ra đi cùng với nụ cười thanh thản, mãn nguyện.

(Sưu tầm)

From: Tu-Phung