Câu Chuyện Dì Sáu

Câu Chuyện Dì Sáu

Nguyễn Vạn An

Dì Sáu là một người đàn bà rất đáng phục. Sinh trưởng ở miền nam Việt Nam, lúc nhỏ chắc học hành cũng chẳng bao nhiêu, sau 1975 di tản sang tây, không biết một tí tiếng Pháp nào, vậy mà lại một thân một mình sống được yên hàn từ mấy chục năm nay tại xóm La Tinh, ở ngay trung tâm thành phố Ba Lê hoa lệ. 

  1. Gặp Dì Sáu. Chúng tôi gặp Dì lần đầu trước đây đã mấy chục năm. Khi đó vùng Ba Lê còn ít người Việt, và họ phần lớn sống ở ngoại ô. Trong xóm La Tinh có môt tiệm bán thức ăn Việt Nam rất nổi tiếng. Tôi ở ngoại ô, mỗi cuối tuần là lái xe chở vợ và hai con nhỏ vào xóm La Tinh mua thức ăn Việt. Một ngày nọ, mua hàng xong, tôi vừa mở cửa xe cho hai cháu lên, thì bỗng có một bà người Việt, tuổi cỡ trên năm mươi, quần áo đen, xách một cái thúng lớn xô hai đứa con tôi, chen vào ghế sau, ngồi trốn trong xe. Nhìn phía xa sau xe, tôi thấy có hai người cảnh sát đang rảo bước tới. Tôi không khỏi lo sợ, vì nghĩ bà đã làm điều gì bất chính, bị cảnh sát rượt. Nào ngờ khi hai người cảnh sát đến nơi, thì họ chỉ ghé đầu vào xe, trừng mắt nhìn bà một cách nghiêm khắc, rồi quay nhìn nhau tủm tỉm cười, rồi bỏ đi. Bà lụm cụm chui ra, cảm ơn chúng tôi, rồi xách thúng ngồi ở một cái ghế dài bên lề đường… chờ khách. Thì ra là bà làm món ăn Việt Nam, rồi mang tới bán lậu ở trước cửa hàng kia. 

Sau đó ít lâu, chúng tôi dọn vào ở xóm La Tinh, tình cờ gần nhà bà, thành ra chúng tôi thành hàng xóm và tình bạn với bà kéo dài mấy mươi năm, tới khi bà tự nhiên đi đâu mất tích, nhưng đó là chuyện về sau. 

  1. Một thân một mình từ Rạch Giá đến Ba Lê.Dì Sáu sinh trưởng ở Rạch Giá, con thứ năm một gia đình chuyên làm nước mắm. Vì là con thứ năm, nên chúng tôi gọi bà là dì Sáu. Dì Sáu hồi nhỏ cũng chỉ học cho tới biết đọc biết viết, rồi lớn lên làm lụng quanh nhà, chờ ngày lấy chồng sinh con đẻ cái, như nhiều con gái trong làng thời bấy giờ. Nhưng khi đó, chiến tranh đã tới lúc khốc liệt, con trai trong làng đi lính hết, quân Mỹ càn quét, dân tình người dân, nhất là ở vùng quê, hết sức khổ sở. Sau năm 75, gia đình bà ở lại. Trong cảnh sống cùng cực, bà được chứng kiến nhiều vụ người ta vượt biển, vì nhà bà ở ngay bờ biển. Trước nhà là đường cái, sau vườn là ra cửa biển. Có nhiều người lạ không biết là ai, vào nhà bà, chạy chui ra sau, lên thuyền đã đỗ sẵn, rồi rông tuốt. Một ngày kia, bà thấy nhiều người chạy qua nhà mình ào ào lên thuyền phía sau nhà. Hình như có công an rình rập, bà hốt hoảng chạy theo người ta lên thuyền. Không ai dám phản đối. Rồi người ta đưa bà đi ra tới một cái đảo bà cũng không biết ở đâu. Thời cuộc xô đẩy, bám theo hết nhóm này rồi đến nhóm kia mấy năm trời, không hiểu thế nào sang đến đất Pháp, được vào một trại tị nạn ở gần Ba Lê. Rồi một ban từ thiện tìm cho bà được một căn nhà nhỏ, ngay tại xóm La Tinh. Bà được người ta cho thuê với giá cực rẻ. 
  2. Lẻ loi trong Xóm La Tinh.Hồi con gái Dì Sáu có học nghề gì đâu, chỉ được mẹ dạy cho nấu cơm nấu nước chút đỉnh trong gia đình. Qua tây, có người chỉ cho bà làm món ăn Việt Nam, rồi đem bán cho hàng xóm hay ra đường bán rong một cách kín đáo cho người qua lại. Từ khi biết bà, mỗi khi vào Ba Lê, chúng tôi hay tò mò đứng xa nhìn, thì quả nhiên thấy thỉnh thoảng có mấy bà đầm tới mua hàng của bà. Tôi đã thấy ngay là bà không biết tiếng Pháp, vì người khách nào khi mua cũng tự tay cầm cái túi tiền của bà, nhét tiền vào rồi lấy tiền thối lại một cách rất tự nhiên, không nói một lời nào với bà cả. Hai bên có vẻ đã quen nhau từ trước, họ chỉ cười với nhau một cái, rồi người khách bỏ đi. Chắc bà bán tại đây từ lâu rồi. Bán như thế là không có giấy má, không trả thuế, và cạnh tranh với cửa hàng chung quanh. Dĩ nhiên là nhà hàng Việt Nam biết. Họ thấy bà đâu có bán được bao nhiêu, thành cũng bỏ qua. Còn cảnh sát thì quá biết, nhưng bà hiền lành không gây rối trật tự công cộng gì, nên cảnh sát cũng làm ngơ. 

Dì Sáu người lùn tịt, lúc nào cũng mặc quần áo đen. Tóc đã hoa râm, mặt đầy vết nhăn nheo vì đã quá nhiều gian khổ. Nét mặt đều đặn, mũi cao miệng nhỏ, hồi còn con gái chắc cũng xinh xắn. Da mặt bà bóng loáng vì bao năm làm bếp đầy dầu mỡ. Chân tay gầy guộc nhưng cứng cát vì sáng tối làm việc. Đêm phải làm món ăn, ngày còn phải vác thúng đi bán, như đã nói ở trên. Trời nóng ran hay rét cóng cũng vậy. Nhiều người sống chung quanh đã biết ngày giờ sinh hoạt của bà. Họ tới mua, còn tới đặt hàng, thành bà không những sống thoải mái, còn có chút tiền để dành nữa.

5.Căn nhà kín đáo.Quen nhau ít lâu, chúng tôi đến tận nhà đặt bà làm những món ăn riêng. Nhà Dì ở tầng hai, trong một chung cư đồ sộ, mặt ngoài tường cao cửa lớn đầy chạm trổ. Ngày xưa chắc chắn là nhà rất đẹp, nhưng vì xây từ đầu thế kỷ, nay đã nhiều mục nát, rỉ sét. Vừa vào cửa, theo hành lang, chưa đi lên lầu, đã biết là có bà con ta ở, vì mùi xào nấu nước mắm phảng phất. Hơn nữa lại nghe âm thanh tiếng ca cải lương rề rề cùng tiếng tụng kinh gõ mõ nhè nhẹ. Sau này tôi biết nhiều người ở chung cư ta thán. Người ta cắt nghĩa cho bà thì bà không hiểu, hoặc có hiểu nhưng làm bộ như không. Nhà bà có hai căn buồng. Một căn để ngủ, có giường và hai cái nệm trải trên sàn nhà. Căn kia là bếp, để đầy nồi niêu xoong chảo, một máy ướp lạnh đồ sộ, thức ăn chật cứng. Cửa nhà ngày đêm không bao giờ khoá. Đẩy cửa vào là thấy bà, tay mặt đầy dầu mỡ mồ hôi, hối hả ra chào đón.

  1. Một tấm lòng vàng.Dì Sáu nghèo nàn, nhưng lại có một tấm lòng vàng. Chúng tôi thường nói : “Người này ít chữ nghĩa, nhưng giầu lòng Phật”. Ra đường hễ thấy người Á Châu trông dáng nghèo đói đi lang thang là bà tới hỏi thăm và cho thức ăn. Nếu người đó là đàn bà, thì đem về cho ở nhờ. Vì thế gần như lúc nào trong nhà Dì cũng có người tá túc. Bà nói: “Có người ở dăm ba ngày, có người ở cả tháng. Tôi nuôi cho ăn, rồi còn cho chút đỉnh tiền xài. Có người cũng làm bếp giùm tôi, có người cả ngày chỉ nằm ngủ”. Điều rất mầu nhiệm là những người ở nhờ toàn là dân nghèo khổ, thế nào cũng có kẻ bất lương, nhà bà thì đồ đạc hở hang, vậy mà chưa một ai lừa đảo trộm cắp của bà một thứ gì. Tấm lòng Phật của bà đã cảm hoá được những người nghèo khổ, dù họ rất dễ bị lôi cuốn vào con đường gian giảo.
  2. Người con của Phật.                                                                                               Dì Sáu ngoài tiếng Việt còn nói được tiếng Miên và tiếng Tầu. Hình như bà gốc gác là người Trung Hoa. Bà ít chử nghĩa nhưng lại thuộc kinh làu làu. Nhất là kinh tiếng Phạn, như Chú Đại Bi, Bát Nhã Tâm Kinh. Có hiểu gì đâu, vậy mà bài nào bà cũng thuộc lòng. Nhiều lần chúng tôi đến thăm đứng lại hành lang nghe bà tụng kinh Phổ Môn, tiếng chuông mõ rất nhịp nhàng. Vấn đề là bà để băng nhạc cải lương suốt ngày không ngừng. Ngay lúc tụng kinh bà cũng để băng cải lương. Bà nói : “Cải lương tôi đã thuộc lòng, có nghe gì nữa đâu, nhưng để nhạc cho đỡ lẻ loi”. Trong buồng bà có một cái lò sưởi đã xây sẵn đục vào tường, bà dùng làm bàn thờ. Có lọ hoa, lư hương, chuông mõ, một đĩa nhỏ trái cây, nhiều tranh và tượng Phật. Bà rất hãnh diện có một bức hình Phật Bà Quan Âm hiện ra trên trời ở Sài Gòn trong năm Pháp nạn 1963, nghe nói do một phi công bay lên chụp được. Bức hình này rất nổi tiếng ở Sài Gòn vào dạo đó. 

Dì Sáu biết rất nhiều sự tích về đức Phật nói chuyện là kể lể đủ thứ về đời đức Phật. Không bao giờ thấy Dì than phiền về đời sống vất vả. Lúc nào cũng thấy bà tươi cười. Nếu gặp trắc trở thì coi là kiếp trước làm tội nay phải trả. Luôn luôn lo làm phước, nói là để phúc cho đời sau. Dì tin là ai cũng tốt. Dì trả tiền thuê nhà rất sòng phẳng. Đi chợ, Dì cứ đưa túi tiền ra, người ta móc lấy đúng tiền mua. Tôi biết là dân bán hàng ở đây nhiều lúc lạm dụng du khách, nhưng tôi chắc là chưa ai lừa đảo Dì Sáu một lần nào. Thì ra lòng thành thật của Dì đã vun xới lòng thành thật của mọi người chung quanh. 

  1. Dì Sáu đi đâu?                                                                                                                           Một ngày nọ, chúng tôi đến thăm, thấy đầy thợ đang tu sửa lại hai căn buồng của bà. Dì Sáu đã đi đâu mất. Những người thợ nói là bà đã dọn đi. Họ cho tôi địa chỉ mới của bà, nhưng tới đó, chỉ thấy một căn nhà cũ kỹ, kín cửa cao tường, không một bóng người. Vì lý do gì bà bỏ đi thì có ai biết đâu! 

Từ đó tôi mất tin Dì Sáu luôn. Người đàn bà từ đồng quê nước mặn xứ nghèo, theo xô đẩy của thời cuộc, đã đến tận kinh đô ánh sáng Ba-Lê, sống một thân một mình, rồi biến mất, không biết lưu lạc nơi nào. Dì sống như một nhà tu hành nhỏ phận, dấn thân ngoài đời, tự lập cánh sinh. Dì đã cảm hóa được những người chung quanh trong một khung cảnh thanh đạm, hiền hoà, từ thiện. Gặp người Pháp không nói được gì với nhau thì có khác chi hai bên cùng tịnh khẩu như trong một phép tu hành. Cũng như các nhà tu tịnh khẩu, họ dùng nụ cười chân thật thân tình làm giao thiệp. 

Mới đây, tôi trở về địa chỉ mới của bà xem có tin tức gì không. Ôi, thời cuộc đổi thay, căn nhà đó đã hoàn toàn được sửa lại. Tôi đi vòng quanh cả giờ, không thấy Dì đâu. Có thể Dì đã ra đi. Dì ở hiền gặp lành, được Phật độ. Nếu Dì đã ra đi thì thế nào cũng đã được các Bồ tát đưa về nơi đất Phật.

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Ngàn con hạc giấy

Ngàn con hạc giấy

Có những món quà thật đơn giản nhưng chứa đựng biết bao chân tình. Tôi biết 1 chàng trai đã gấp 1.000 con hạc giấy tặng người anh yêu. Mặc dù lúc đó anh chỉ là 1 nhân viên quèn trong công ty, tương lai chẳng có vẻ gì xán lạn nhưng họ vẫn luôn hạnh phúc bên nhau. Rồi cho đến 1 hôm người yêu của anh nói rằng nàng sẽ đi Paris, sẽ không bao giờ còn có dịp gặp lại anh nữa. Nàng rất lấy làm tiếc nhưng rồi nỗi đau của chàng sẽ trở thành dĩ vãng. Hãy để cho nó ngủ yên trong ký ức của mỗi người.

Chàng trai đồng ý nhưng trái tim tan nát. Anh lao vào làm việc quên cả ngày đêm, cuối cùng anh đã thành lập được công ty của riêng mình. Nó không chỉ giúp anh vươn đến những điều mà trước đây vì thiếu nó mà người yêu đã rời bỏ anh, nó còn giúp anh xua đuổi khỏi tâm trí mình 1 điều gì đó của những tháng ngày xưa cũ.

Một ngày mưa tầm tã, trong lúc lái xe, chàng trai tình cờ trông thấy một đôi vợ chồng già cùng che chung 1 chiếc ô đi trên hè phố. Chiếc ô không đủ sức che cho họ giữa trời mưa gió. Chàng trai nhận ngay ra đó là cha mẹ của cô gái ngày xưa. Tình cảm trước đây anh dành cho họ dường như sống lại. Anh chạy xe cạnh đôi vợ chồng già với mong muốn họ nhận ra anh. Anh muốn họ thấy rằng anh bây giờ không còn như xưa, rằng anh bây giờ đã có thể tự mình tạo dựng 1 công ty riêng, đã có thể ngồi trong 1 chiếc xe hơi sang trọng. Vâng, chính anh, chính người mà trước đây con gái họ chối từ đã làm được điều đó.

Đôi vợ chồng già cứ lầm lũi bước chậm rãi về phía nghĩa trang. Vội vàng, anh bước ra khỏi xe và đuổi theo họ. Và anh đã gặp lại người yêu xưa của mình, vẫn với nụ cười dịu dàng, đằm thắm nàng từng đem đến cho anh, như thể thời gian không bao giờ làm đổi thay nụ cười ấy, đang dịu dàng nhìn anh từ bức chân dung trên bia mộ. Cạnh cô là món quà của anh, những con hạc giấy ngày nào.

Đến lúc nầy anh mới biết 1 sự thật: nàng đã không hề đi Paris. Nàng đã mắc phải căn bệnh ung thư và không thể qua khỏi. Nàng đã luôn tin rằng 1 ngày nào đó anh sẽ làm được nhiều việc, anh sẽ còn tiến rất xa trên bước đường công danh. Và nàng không muốn là vật cản bước chân anh đến tương lai của mình. Vì vậy, nàng quyết định xa anh.

Nàng mong ước cha mẹ sẽ đặt những con hạc giấy lên mộ nàng, để 1 ngày nào đó khi số phận đưa anh đến gặp nàng 1 lần nữa, anh có thể đem chúng về bầu bạn.

Sưu tầm

MÓN NỢ ÂN TÌNH…

8 SÀI GÒN

MÓN NỢ ÂN TÌNH…

Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện H.O – nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba – một cuộc hôn nhân không giá thú – chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:

– Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.

Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ – nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm – nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.

Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:

– Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?

Mẹ trả lời một cách thản nhiên:

– Vì mẹ không thể phản bội cha con!

Tôi tức giận:

– Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.

Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:

– Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.

Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.

– Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta…

Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:

– Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba nuôi nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt…

– Rồi sao nữa? Cái thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt… nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.

Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:

– Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.

Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:

– Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?

Tôi cười chua chát tiếp lời:

Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?… cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.

Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:

– Con này… ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!

Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:

– Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi… ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.

Tôi nghênh mặt khiêu khích:

– Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật… con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?

Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”

*****

Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:

– Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.

Tôi cười trong nước mắt:

– Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!

Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:

– Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.

Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:

– Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa… Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều… đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.

Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:

– Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm… nội già yếu rồi không thăm Ba con được.

Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hoà.

****

Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ – đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân bội nghĩa” – cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến – ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.

Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:

– Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!

Ba cười hiền từ:

– Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!

Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:

– Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ… con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.

Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.

Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.

****

Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.

NGÂN BÌNH

 

Mắt hay tim?

Mắt hay tim?

Gần nhà ngoại tôi có một đôi vợ chồng già bị mù. Họ đã có với nhau một đàn con cháu đông đúc. Nghe ngoại nói, năm nay hai cụ đã ngót nghét tám mươi tuổi.

Ngoại kể, ngày xưa, khi lấy nhau, người chồng ngồi xe bò đi đón vợ. Tuy cô dâu và chú rể đều không nhìn thấy gì, nhưng chú rể vẫn nhờ người cuốn đầy lụa điều lên chiếc xe và đầu con bò, như vậy cho giống đám cưới.  

alt

(Ảnh minh họa: rohan.hehagame.com)

Khi cô dâu vừa về nhà chồng, chú rể dắt tay vợ rà mò từ nhà trên xuống nhà bếp, khắp lượt các ngóc ngách trong  gia đình. Rồi cũng từ đó, suốt hơn nửa thế kỷ, trong cái thôn nghèo chẳng mấy ai biết đến ấy, dù trời mưa hay nắng, người ta luôn nhìn thấy họ tay trong tay, lẳng lặng cùng nhau làm mọi việc.Trong cái thôn nghèo ấy, dù trời mưa hay nắng, người ta luôn nhìn thấy họ tay trong tay, lẳng lặng cùng nhau làm mọi việc…

alt

(Ảnh minh họa: takungpao.com)

Có lẽ trong tất cả công việc thì khó nhất vẫn là múc nước từ giếng lên. Lần nào cũng thế, hai người họ đều dắt nhau đi. Người vợ sờ thấy cây gỗ ở cạnh giếng, một tay ôm chặt cây, còn tay kia níu chặt bàn tay chồng. Người chồng quỳ trên sàn giếng thả gầu xuống múc, kéo nước lên.

Có người nhìn thấy họ múc nước khó khăn ngỏ ý muốn giúp nhưng hai vợ chồng đều cảm ơn rồi từ chối. Họ bảo: “Các ông bà giúp được chúng tôi một lần, nhưng không giúp được chúng tôi một đời”.

alt

(Ảnh minh họa: sunwui.wordpress.com)

Cứ như thế, hai vợ chồng luôn tay dắt tay nhau đi lấy nước cho đến khi đứa con đầu lòng có thể gánh được một gánh nước. Dân làng đều cảm thấy lạ lùng. Trong thôn cũng có nhiều trai gái trẻ từng vì đất trơn mà trượt chân ngã xuống giếng, nhưng đôi vợ chồng mù chưa lần nào té ngã. Càng lạ lùng hơn, dù không thể nhìn thấy nhưng vợ chồng họ vẫn có thể tìm ra nhau trong đám đông đang nói chuyện ồn ào.

Người chồng là một người thổi kèn trong ban nhạc ở thôn quê. Ông thường đến các đám cưới thổi những bài: “trăm con chim phượng hoàng”, “niềm vui đầy nhà” … Dù đi thổi kèn ở đâu, ông cũng có một yêu cầu, để người vợ mù của ông đi cùng. Ông nói, để vợ ở nhà một mình, ông không an tâm.

alt

(Ảnh minh họa: sohu.com)

Mỗi khi tiếng kèn của người chồng cất lên, người vợ ngồi bên rất chăm chú nghe. Dường như những giai điệu ấy đều là ông thổi riêng cho bà.  Người ta bảo, những lúc ấy, khuôn mặt người vợ mù thường đỏ ửng lên, khiến ai nấy đều cảm thấy người phụ nữ đang ngồi lặng lẽ kia xinh đẹp biết nhường nào.

alt

  • (Ảnh minh họa: Fiveprime)

Có lần, người chồng sơ ý bị ngã gãy chân. Những ngày chồng nằm bệnh viện, ba bốn hôm liền người vợ không ăn hột cơm nào vào bụng. Bà bảo, không có bàn tay quen thuộc kia, bà chẳng còn lòng dạ nào mà ăn.

Sau này, khi hai vợ chồng đều đã già và không cần đi ra ngoài nữa, họ bắt đầu trồng hoa trong sân nhà. Dù chẳng thể nhìn thấy được những đoá hoa tươi rực rỡ mình trồng lên, nhưng ông bà đều rất hạnh phúc mỗi khi đến mùa hoa nở. 

alt

  • (Ảnh minh họa: com)

Những người con của ông bà từng hỏi bố mẹ : “Nếu ông trời dành cho bố mẹ một cơ hội, liệu bố mẹ có muốn nhìn nhau bằng mắt không?”

Ông tự hào nói: “Dắt tay nhau một đời, có bao nhiêu đường vân trong lòng bàn tay mẹ con, đều đã in trong trái tim bố. Bố chưa từng trông thấy người đẹp nhất. Trong trái tim bố thì mẹ con là người đẹp hơn cả. Cần mắt để làm gì. Mắt là thứ tham lam nhất  trần đời, nhìn cái gì cũng đánh giá tốt hay xấu, xinh hay không xinh; nhìn cái gì hay là muốn có cái đó. Trên mặt người ta có một vết sẹo cũng có thể để trong tim suốt đời.”

alt

  • Tim sáng hơn mắt. Nó là sáng nhất, thật nhất!.. (Ảnh: cz)

Còn bà thì trả lời: “Người ta nhìn người bằng mắt, bố mẹ nhìn người bằng trái tim. Tim sáng hơn mắt, thật.”

 Bởi chúng ta có mắt. Nên khi chúng ta nhìn người, chỉ dựa vào mắt mà quên dùng trái tim.

Có lẽ người vợ mù đã nói đúng: Tim sáng hơn mắt. Nó là sáng nhất, thật nhất!

From: Bác Sĩ Hạnh Văn Phùng

Một câu chuyện rất hay

Một câu chuyện rất hay

Một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, nộp đơn dự tuyển vào vị trí quản lý tại một tập đoàn lớn. Anh đã vượt qua vòng phỏng vần đầu tiên. Đến vòng cuối, đích thân giám đốc sẽ đặt các câu hỏi và đưa ra quyết định cuối cùng. Ông giám đốc rất ấn tượng với CV của chàng trai bởi trong suốt các năm học, anh luôn đạt thành tích xuất sắc.

– Anh có bao giờ nhận được học bổng từ trường không – vị giám đốc hỏi.
– Thưa, không bao giờ – chàng trai trả lời.
– Vậy là cha mẹ anh đã trả toàn bộ học phí cho anh? – ông hỏi tiếp.
– Cha tôi đã mất từ hồi tôi được một tuổi, toàn bộ số tiền học phí là do mẹ tôi gánh vác – chàng trai trẻ trả lời.
– Vậy mẹ anh làm việc cho công ty nào?
– mẹ tôi làm công việc giặt quần áo – chàng trai trẻ đáp.

Người giám đốc im lặng một lúc. Sau đó, ông đề nghị chàng trai trẻ đưa hai bàn tay ra cho ông xem. Hai bàn tay chàng trai khá đẹp và mềm mại.
– Trước đây, có bao giờ anh giúp đỡ mẹ anh trong việc giặt quần áo chưa? – ông hỏi.
– Thưa ngài, xin thú thực là tôi chưa bao giờ – chàng trai trả lời,
– mẹ tôi lúc nào cũng chỉ muốn tôi học và đọc thật nhiều sách. Hơn nữa, mẹ nói có thể giặt quần áo nhanh hơn tôi. Tôi động vào chỉ khiến công việc của bà chậm lại.
Vị giám đốc nghe xong liền nói: “Tôi có một yêu cầu. Hôm nay lúc về nhà, anh hãy rửa hai bàn tay cho mẹ mình. Rồi đến gặp tôi vào sáng ngày hôm sau”.

Qua ánh mắt và giọng nói của người giám đốc, chàng trai trẻ cảm giác rằng cơ hội trúng tuyển của mình chắc rất cao. Anh vui vẻ về nhà gặp mẹ và nói với mẹ hãy để anh ra rửa hai bàn tay của bà ngày hôm nay. Người mẹ nghe vậy cảm thấy rất lạ, trong lòng dấy lên những cảm xúc vui buồn lẫn lộn. Bà đưa hai bàn tay mình ra cho con trai rửa.

Khi nhìn thấy bàn tay của mẹ từng giọt nước mắt của chàng trai trẻ rơi xuống. Lần đầu tiên anh nhận ra rằng đôi bàn tay của mẹ thật nhăn nheo, hơn nữa chúng còn chằng chịt những vết sẹo và chai sạn. Những vết sẹo này hẳn từng rất đau đớn vì chàng trai cảm nhận được mẹ khẽ rùng mình mỗi khi anh rửa chúng trong nước. Đây cũng là lần đầu tiên chàng trai trẻ nhận ra chính đôi bàn tay này hàng ngày làm công việc giặt quần áo để có thể trang trải đủ tiền học phí trong suốt thời gian anh đến trường. Những vết sẹo trên đôi bàn tay mẹ cũng là cái giá cho kết quả đậu tốt nghiệp, cho những bảng điểm xuất sắc và cho cả tương lai của anh.

Sau khi rửa sạch đôi bàn tay của mẹ, chàng trai trẻ lặng lẽ giặt nốt luôn chỗ quần áo còn lại trong ngày. Tối hôm đó, mẹ và anh đã nói chuyện với nhau rất lâu.

Sáng ngày hôm sau, chàng trai trẻ quay lại nơi phỏng vấn. Vị giám đốc nhận thấy một đêm dài không ngủ trên đôi mắt của anh. Ông hỏi: “Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và học được ở nhà mình ngày hôm qua?”. Chàng trai trả lời: “Tôi đã rửa đôi bàn tay của mẹ và tôi cũng đã giặt nốt chỗ quần áo còn lại”. Giám đốc hỏi tiếp: “Vậy hãy cho tôi biết cảm giác của anh như thế nào?”

Chàng trai trẻ bèn trả lời trong nước mắt: “Thứ nhất, tôi thấu hiểu thêm những gì tôi đã có được ngày hôm nay đều là nhờmẹ. Thứ hai, nhờ việc giúp đỡ mẹ, tôi hiểu được để kiếm tiền được đồng tiền mọi người đã vất vả như thế nào. Thứ ba, tôi đã nhận thức được sự quan trọng và giá trị của tình cảm gia đình”.

Vị giám đốc nói: “Đó chính xác là những gì tôi cần tìm ở một nhà quản lý. Tôi muốn tìm những ứng viên có thể nhận thức được sự giúp đỡ từ những người khác, người có thể hiểu được sự khó nhọc của người khác khi hoàn thành một công việc nào đó, và là người không đặt tiền bạc là mục đích sống duy nhất của mình. Và còn nữa, xin chúc mừng anh. Anh đã được tuyển”.
(St.)

Cõi đời một kiếp yêu em Dẫu là bỏ cuộc, mộng tìm dáng xưa

Cõi đời một kiếp yêu em
Dẫu là bỏ cuộc, mộng tìm dáng xưa

Bùi Giáng (1926-1998): là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…

Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa Nguồn.

Kỳ nữ Kim Cương: chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc đời, trong tâm hồn và trong sáng tác của Bùi Giáng. Trong tâm hồn ông, Kim Cương là “đệ nhất mỹ nhân” trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế gian. Chỉ có thể nói đó là một tình yêu bất tử. Đã có rất nhiều giai thoại xung quanh mối tình kỳ bí này.
Đối với Kim Cương, tuy là mối tình đơn phương từ phía Bùi Giáng, nhưng nữ nghệ sĩ này đã rất trân trọng tình yêu của ông, một sự trân trọng vô cùng cảm động và hiếm thấy.

Nhiều năm qua, nghệ sĩ Kim Cương có những lý do riêng nên đã không lên tiếng một cách chính thức. Lần đầu tiên, bà tiết lộ với báo chí một số sự thật về thiên tình sử này, vì đã đến lúc bà không còn lý do để tiếp tục im lặng…

Có lẽ trong cuộc đời của thi sĩ Bùi Giáng, ngoài chuyện văn chương ra thì chuyện tình đơn phương của ông với Kim Cương là nổi bật nhất, kỳ lạ nhất, và cũng cảm động nhất.

Kim Cương còn giữ rất nhiều bài thơ của ông viết tặng riêng bà, cả hình ảnh nữa, nhưng từ lâu bà từ chối mọi lời yêu cầu của các tờ báo, nhà xuất bản xin được phát hành, đặc biệt sau khi Bùi Giáng qua đời nhiều đơn vị còn đặt vấn đề “mua” những tấm ảnh, tập thơ đó. Bà nói: “Tôi không muốn đem tình cảm của Bùi Giáng ra đánh bóng tên tuổi của mình hoặc làm gì đó có dấu ấn kinh doanh. Dù tôi không yêu ông, nhưng tôi trân trọng tình yêu của ông. Tuy nhiên, bây giờ sau loạt bài của báo TN, tôi thấy đây không còn là chuyện riêng tư nữa, mà Bùi Giáng là một sự kiện văn học chung và nếu không lên tiếng thì có những thêu dệt không đẹp cho Bùi Giáng, vì vậy tôi chỉ muốn

nói rõ một vài sự thật để người ta hiểu ông đúng hơn”.

Kim Cương biết Bùi Giáng lúc bà khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam nhưng Kim Cương đã được mệnh danh là “kỳ nữ”. Thật ra, ông chú ý đến bà trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh – Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo Kim Cương: “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị”.

Kim Cương trả lời: “Ừ, thì mời ổng tới”.

Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có “điên điên” như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời Kim Cương lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi cả cầu hôn, nhưng bà đều né tránh. Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó “kỳ kỳ”, bất bình thường, nên bà sợ. Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói: “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim Cương mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim Cương ngần ngừ: “Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng tính…”. Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới.

Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới… 8 tuổi. Kim Cương hết hồn. Thôi rồi! Ổng đúng là không bình thường!

Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, rồi cứ địa chỉ nhà Kim Cương mà tới. Thằng bé Toro con của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi: “Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá ?”. Tư duy trẻ con thật ngộ nghĩnh, nhưng lại rất chính xác. Thì trên người Bùi Giáng có đủ thứ: nào hộp lon treo lủng lẳng, nào lá cờ giắt sau lưng, nào nhánh cây, vòng hoa trên đầu… cả một nải chuối đeo thường xuyên trên cổ. Không mở cửa cho ông vào là ông la hét, đập cửa, chửi um sùm, ném đá nữa, khiến hàng xóm náo động. Nhưng riết rồi quen, mỗi lần ông tới nhà Kim Cương ai nấy đều cười. Má Bảy Nam ở trên lầu chỉ cần nghe la rùm beng, đập cửa ầm ầm, là hỏi “Bùi Giáng phải không?”.

Nhiều lần ông say khướt, nằm ịch xuống gốc cây trước nhà Kim Cương, mọi người phải khiêng vào. Bà lắc đầu: “Sợ ổng chết. Tướng tá vầy có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khiêng vô rồi cũng sợ rủi ổng chết trong nhà mình. Mà điều, không nỡ bỏ ổng lăn lóc ngoài đường, thấy tội quá”.

Nhưng điều hay nhất là mỗi khi vô nhà Kim Cương ông lại sáng tác thơ để tặng bà. Tiện tay xé bất cứ tờ giấy, tờ lịch nào là ông viết ào vô đó. Nguồn thơ yêu cứ tuôn trào như suối, không vơi cạn theo năm tháng. Về sau, khi ông “quậy” quá thì Kim Cương nghĩ ra cách, không mở cửa, mà lòn một cuốn sổ ra khe cửa cho ông viết thơ. Ông hí hoáy một hồi, rồi vui vẻ bước đi.

Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng “Nương tử Kim Cương”. Bà trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm lạ kỳ.

Kính thưa nương tử Kim Cương
Tấm lòng rộng mở phi thường bấy nay
Ngàn năm điêu đứng đọa đày
Thiên thu sử lịch cau mày về sau
Thưa em đời mộng dạt dào
Tình yêu vô tận yêu đào vô biên
Kể từ tao ngộ đầu tiên
Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng
Bốn mươi năm đã lẫy lừng
Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân
Trái tim thiết thạch vô ngần
Từ tam thu tới tử phần hôm nay
Kể từ sử lịch xa xuôi
Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em
Lang thang vạn dặm độc hành
Cẩm nang bỏ cuôc đời mình trao em.

Phải nói là Kim Cương có “quyền lực” rất lớn đối với Bùi Giáng. Cứ nghe tên bà là ông trở lại ngoan ngoãn như một đứa trẻ con. Một lần, ông làm “chim bay cò bay” giữa phố, gây ách tắc giao thông, công an tới lôi ông vào cũng không được. Tình cờ có ông nhà báo trông thấy, thế là anh ta rỉ tai ông: “Kim Cương nhắn ông tới nhà kìa !”. Lập tức ông riu ríu đi theo nhà báo.

Ông còn “ái mộ” bà theo kiểu “kinh khủng” của ông. Người ta ái mộ thì xin chữ ký, xin hình, còn ông thì xin… quần. Ông tới nhà nằng nặc đòi bà cho ông cái quần. Bà lấy quần của cậu Toro nay đã lớn cỡ ông mặc vừa. Ông giãy nảy không chịu, đòi cái quần của Kim Cương mới được. Bà bực quá, đưa thiệt. Lập tức ông mặc vô và rồi không chịu thay ra. Tắm xong, mặc lại. Tỉnh bơ.

Và sau này khi ông ở nhờ nhà anh Hoài – cháu gọi ông bằng bác họ – tại Gò Vấp, thì cũng chỉ Kim Cương là người phụ nữ duy nhất được ông cho phép bước vào nhà. Nhiều lần, các bạn thơ nữ có ghé thăm ông, nhưng vừa mới nghe cháu vô báo tin là ông đã la hét om sòm, đuổi họ như đuổi tà: “Chỉ có tiên nữ Kim Cương mới được bước tới đây. Đi ra ! Đi ra hết !”.

Nghệ sĩ Kim Cương nói: “Tôi rất trân trọng tài năng của ông, nhưng phải nói thật là ông điên nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ sâu sắc”. Thỉnh thoảng, khi ông hơi tỉnh thì Kim Cương cũng ngồi bàn chuyện thơ văn với ông cho ông vui. Những lúc ấy, ông gọi bà bằng “cô” đàng hoàng chứ không “nương tử”, không “Hằng Nga” gì hết. Nhưng có một lần, ông làm bà hết hồn. Hai người bàn luận đến Kiều, bà đọc mấy câu lỡ có sai một chút, ông liền đập bàn, la hét, nhảy dựng lên: “Tại sao Kiều mà cô nói sai như vậy? Câu vậy mà cô nói là của Kiều hả?”. Thấy ông trợn mắt giận dữ, bà cứ ngỡ ông sắp bóp cổ mình tới nơi. Bà quên mất rằng ông cũng yêu Kiều say đắm như yêu bà

Có một chuyện nhỏ, nhưng cảm động. Kim Cương nói rằng Bùi Giáng có đóng phim gì nữa đó, chắc đóng vai phụ nho nhỏ thôi. Kim Cương nhớ khi ông lãnh tiền thù lao, liền mua hai trái xoài đem tới cho bà. Rất dễ thương.

Kim Cương bùi ngùi nhớ lại: “Suốt 40 năm, ông đối với tôi như một người yêu đơn phương, thì ngược lại, tôi đối với ông như chỗ dựa tinh thần, bất cứ lúc nào nghe ông đau ốm hay bị công an bắt, bị người ta đánh là tôi có mặt”. Bởi đơn giản, trong đầu Bùi Giáng chỉ có một số điện thoại duy nhất, một địa chỉ duy nhất, đó là địa chỉ và số điện thoại của Kim Cương. Nhiều lần ông đứng giữa đường dang tay la hét, làm kẹt xe, công an tới bắt, hỏi cách gì ông cũng chỉ nói một câu: “Người thân cuả tôi là Kim Cương, ở số… Hoàng Diệu, điện thoại 844…”. Thế là công an réo gọi Kim Cương. Bà đi lãnh ông ra. Chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Có khi ông bị té, bị thương, người ta chở vô bệnh viện, ông cũng chỉ “khai báo” y như vậy.

Bệnh viện lại réo bà. Bà lại đến. Hoặc những lúc ông lên cơn, có khi vô quậy cả đám cưới nhà người ta, bị người ta đánh, bà lại đến đưa ông về. Có lần, ông xuất hiện trước nhà bà với tóc tai mặt mũi đầy máu vì mới bị ai đó đánh, bà hoảng hốt gọi xích lô cho ông đi cấp cứu. Ông không chịu: “Chừng nào cô đi với tôi thì tôi mới đi”. Ừ, thì đi. Kim Cương gọi chiếc xích lô chở ông, vừa ngồi xe ông vừa nói vung vít, mặc cho Kim Cương chịu trận.

Và như thường lệ, trong cơn điên điên tỉnh tỉnh, ông lại tiếp tục làm thơ yêu qua cuốn sổ nhỏ nhét vào khe cửa nhà bà:

Yêu nhau từ bấy tới nay
Xiết bao tâm sự từ ngày qua đêm
Thưa em nương tử dịu mềm
Bốn mươi năm lẻ êm đềm vô biên
Đầu tiên tiên nữ Kim Cương
Cuối cùng muôn một phi thường Cương Kim
Cúi đầu bái tạ tình em
Về sau vĩnh viễn êm đềm thương nhau
Làm thơ tiếp tục yêu em
Ồ Kim Cương ạ êm đềm vô song
Kể từ lịch kiếp long đong
Anh điêu tàn tới thong dong bây giờ

Bùi Giáng về ở nhà của anh Hoài vào khoảng năm 1978, thì đến khoảng 1992 đã hơi tỉnh tỉnh. Nhà thơ Trụ Vũ thường ghé chơi với ông. Một lần Trụ Vũ bảo: “Kim Cương hẹn ngày mai lên thăm anh”. Thế là suốt đêm ông không ngủ. Sáng dậy, ông đi tới đi lui, đứng ngồi không yên, và càu nhàu: “Cái thằng Trụ Vũ, chừng nào lên thì lên, nhắn nhe làm chi cho người ta sốt ruột”.

Anh Hoài còn tiết lộ ông phải giả vờ uống một tí rượu để đóng vai “say”, như thế khi Kim Cương lên thăm ông mới có cớ đi ngả nghiêng cho Kim Cương dìu đỡ. Nhưng có lần uống mãi, uống mãi, rồi say thật lúc nào chả biết, khi Kim Cương đến nơi thì ông đã… ngủ khò. Một bữa, Kim Cương đến nhà, tặng ông đóa hoa hồng. Ông sung sướng quá. Kim Cương về rồi, ông hỏi anh Hoài: “Làm sao giữ được hoa tươi mãi hè ?”. “Ba ngày là nó héo thôi bác ơi!”. “Trời ơi, của Kim Cương tặng tao, phải giữ hoài chớ bây !”. “Con có cách. Đem hoa trút ngược xuống thì sẽ giữ giùm bác được vài tháng”. Đúng là giữ được vài tháng, đến khi hoa đã khô nát ông mới đành lòng chia tay.

Gần 60 tuổi, ông tới nhà bà với đôi mắt nheo nheo không nhìn thấy rõ. Bà dắt ông đi mua cặp kính lão. Nhưng chỉ một tháng sau, ông xuất hiện với một bên tròng kính bị bể vì người ta đánh. Bà dỗ ngọt: “Tôi mua cho anh kính mới nghen”. Ông lắc đầu: “Thôi cô, nhìn đời bằng một con mắt đủ rồi.

Kể ra, đâu chỉ có Bùi Giáng kiên nhẫn và thủy chung với kỳ nữ Kim Cương, mà chính Kim Cương cũng đã đáp lại mối tình đơn phương của Bùi Giáng một cách chân thành và kiên nhẫn, thủy chung suốt 40 năm, gần giống một người chị, một người mẹ. Cho nên, có người nói với bà: “Chắc kiếp trước Bùi Giáng mắc nợ bà !”. Bà đáp vui trở lại: “Hổng biết ổng mắc nợ tui hay tui mắc nợ ổng!”. Những lúc tỉnh táo, ông nói: “Cô nhơn hậu lắm cô mới chịu nói chuyện với tôi tới giờ này !”. Nhân đó bạn bè hỏi: “Kim Cương có cái gì mà anh thương dữ vậy ?”. Ông đáp: “Lúc tôi gặp cô trong đám cưới của Hạnh – Thùy, cô mặc cái áo dài lụa trắng, tôi thấy hào quang tỏa tỏa ra, tới bây giờ vẫn còn tỏa”.

15 ngày trước khi chết, Bùi Giáng đến nhà Kim Cương để lại mấy câu thơ như báo trước điềm chia ly:

Thương yêu có lẽ như là
Nghi ngờ nhau mãi vẫn là Kim Cương
Ta đi đau xiết vui buồn
Một mình ở lại muôn trùng em yêu.

Rồi ông té, chấn thương sọ não, chở vào Bệnh viện Chợ Rẫy. Người đầu tiên gia đình gọi đến là Kim Cương. Kim Cương nói : “Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng sạch sẽ. Đầu cạo sạch, không còn mớ tóc bù xù nữa. Và quần áo bệnh viện thì trắng bong. Cho nên tôi nhìn ổng không ra, cứ chạy đôn chạy đáo khắp các phòng tìm ổng”. Những đứa cháu xin bà cho ý kiến. Bà đồng ý để bác sĩ phẫu thuật cho ông dù chỉ còn 1% hy vọng.
Nhưng rồi Bùi Giáng đã ra đi.

Trước mộ ông trước giờ hạ huyệt, Kim Cương nhẹ nhàng thủ thỉ: “Thưa Bùi Giáng! Đời ông là một đời giang hồ, nhưng mọi người vẫn mến thương ông, chắc ông cũng mãn nguyện rồi. Riêng tôi có 3 điều cảm ơn ông. Thứ nhất, ông đã để lại một sự nghiệp thơ cho đời. Thứ hai, cảm ơn mối tình 40 năm ông dành tặng tôi, tới giờ tôi có thể nói đó là mối tình lớn, ông là người yêu tôi chung thủy nhất, lâu dài nhất. Thứ ba, cảm ơn vì ông đã cho tôi một bài học, rằng dù điên hay tỉnh, giàu hay nghèo, già hay trẻ, trong lòng mỗi người cũng phải có một mối tình để sống”.

Nhưng chắc gì Bùi Giáng đã chịu xa lìa Kim Cương. Ông còn một lời nhắn nhủ viết trong cuốn sổ tay tại nhà Kim Cương:

“Kiếp sau gặp lại nhau, anh Bùi Giáng chỉ mong được Kim Cương chấp thuận cho phép anh Bùi được làm đầy tớ trung thành tuyệt đối của Kim Cương”.

Và:
Vô ngần tao ngộ đầu tiên
Em bao giờ biết anh phiền ưu sao
Yêu em từ những kiếp nào
Về sau cũng niệm nguyên màu ban sơ.

Huỳnh Văn Yên
(st)  

Image may contain: 1 person

GẶP GỠ Ở LƯNG ĐÈO-Vũ Thư Hiên

GẶP GỠ Ở LƯNG ĐÈO

Vũ Thư Hiên·Saturday, September 7, 2019·35 minutes

1

Thời gian trôi, chớp mắt đã quá nửa thế kỷ. Không thể níu kéo nó, không thể bắt nó dừng. Nó đi rồi là hết, may chăng còn rớt lại cái bóng.

Tôi có giữ lại một cái bóng có thể bổ sung cho tiểu sử một con người đáng nhớ. Người ấy có thể là người quen của bạn, người ấy có thể không xa lạ với bạn, biết đâu đấy.

Chuyện là thế này.

Cuộc kháng chiến đã vào năm thứ tư. Con đường hàng tỉnh từ Tuyên Quang đi Thái Nguyên vốn hẹp không có ô tô qua lại còn trở nên hẹp hơn nữa. Những bụi cây lúp xúp tràn ra mặt đường. Cỏ gà, cỏ mần trầu mọc thành bụi ở những ổ gà. Ở đôi chỗ hoa lau loà xoà quệt vào mặt khách bộ hành.

Ba lô trên vai, tôi cắm cúi đi.

Một mình. Nắng chói chang.

Đường vắng ngắt, không bóng người. Thỉnh thoảng lắm mới thấy một chiếc xe đạp lọc cọc vượt qua.

Đang đi bỗng dưng tôi thấy người ngây ngấy sốt. Trong người cảm giác rét tăng dần. Sốt rét rồi! Cái thứ bệnh tai quái không đến khi mình còn ở cơ quan tĩnh tại hoặc ở một trạm chờ nào đó, khốn nạn thế, lại nhằm lúc mình đang trên đường, không còn gì tệ hơn.

Tôi sốt đùng đùng và rét run cầm cập.

Thứ ánh sáng tàn nhẫn của nắng quái thiêu đốt tất tần tật mọi thứ nó đụng tới. Những bụi rậm ven đường rũ xuống, lá nào lá ấy quắt queo.

Đến lúc không còn chịu đựng được nữa, tôi tạt ngang, lao bừa vào rừng qua những bụi rậm gai góc và dây leo chằng chịt. Chỉ ở trong ấy, dưới những tán lá rậm của cây cao mới có chỗ trú khỏi cái nắng chết người.

Sức trong người tôi cạn dần cùng với mỗi bước đi, cùng với mỗi hơi thở nóng hổi, như thể nước trong thùng từng đợt ộc ra ngoài. Đi được vài chục bước, tôi kiệt lực, gieo mình xuống thảm lá mục, cố lê đến một gốc cây thấp, tựa vào nó mà thở hồng hộc. Hơi thở làm bỏng môi trên. Những dòng mồ hôi lăn dài trên ngực. Áo quần chẳng mấy chốc đã ướt đẫm.

Dù sao thì cuộc chạy trốn khỏi con đường đá răm vắng ngắt phơi mình dưới ánh nắng kinh khủng ngoài kia cũng ngừng được trong giây lát. Một con chim đỏ chót bay vút qua những bụi rậm trước mắt tôi với một tiếng hót lanh lảnh làm tôi giật mình.

Tôi chợt hiểu: cái mà tôi đang chịu đựng không phải sốt rét thường. Rất có thể nó là một cơn ác tính.

Tôi đã biết sốt rét ác tính cái gì. Nó thường đi kèm với cái chết.

Tôi thì còn quá trẻ để chết.

Không, tôi không thể chết thế này.

Tôi gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao trở lại con đường chói lòa.

Không thể dừng. Phải tiếp tục đi. Ngay lập tức.

Bằng mọi giá, phải tới được trạm quân y, tôi nhớ nó cách đấy không xa lắm.

2

Tiếng đàn làm tôi tỉnh giấc. Tôi nằm yên, lắng nghe những giọt âm thanh thánh thót tan vào không gian im ắng. Nó thoáng hiện, thoáng mất, nhưng không phải trong mơ.

Giai điệu mơ hồ đưa tôi về quá khứ, nhắc tôi tới một cái gì mang máng nhớ mà không sao nhớ ra.

Choàng tấm chăn sui [1] lên vai, tôi đứng lên đi, những bước xiêu vẹo về phía có tiếng nhạc.

Qua tấm liếp khép hờ ngăn với gian ngoài tôi thấy một người đàn ông đang cúi xuống cây ghi ta Hạ Uy Di. Cảnh tượng làm tôi sững sờ – tôi không nghĩ tới, không tưởng tượngnổi giữa rừng Việt Bắc thời chiến lại có người nhàn tản chơi đàn như thế.

Tiếng đàn đột ngột tắt.

Người đàn ông ngẩng lên. Rồi bật dậy, sải bước về phía tôi, ngắm nghía tôi, đoạn buông một câu hỏi bất ngờ:

– Hà Nội hở?

Rất ngạc nhiên, nhưng tôi gật:

– Hà Nội.

Anh ta nhìn tôi chằm chằm, đặt tay lên trán tôi, rồi cười lớn:

– Lạy Trời, cậu sống rồi!

3

Tôi không tới được trạm quân y.

Hình ảnh cuối cùng mà tôi nhớ được là một mái tranh lờ mờ trước mặt.

Tỉnh lại, tôi thấy mình trong gian bếp thấp tè, đen sì mồ hóng với bầu không khí đậm mùi khói lưu cữu.

Người đàn ông kéo tôi đến bên chõng, đặt tôi ngồi.

– Tốt rồi! – anh nắm tay tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, lặp lại lần nữa – Đã tưởng cậu không sống nổi.

Tôi nhìn anh. Dáng thanh mảnh, cao ráo, gương mặt thông minh, đôi mắt sáng, đen láy, cái nhìn thẳng thắn. Tất cả gợi cảm giác tin cậy , thoải mái. Cách xưng hô “cậu, tớ” ngay lập tức xoá nhoà ranh giới giữa tôi và người lạ.

– Lúc khiêng cậu vào, mặt cậu tím ngắt, lay gọi thế nào cũng không tỉnh.

Tôi ấp úng lời cảm ơn.

– Vớ vẩn! – anh lắc đầu, cười hiền – Cảm ơn cái con khỉ. Cảm ơn trời ấy.

Thì ra đây là người cứu tôi. Tôi chỉ nhớ khi quán nước hiện ra lờ mờ trước mặt, thì trời đất bỗng nghiêng ngả rồi đổ sụp.

Anh đặt tay lên vai tôi:

– Cậu nằm đây vài ngày cho lại sức, mọi cái tính sau.

Nụ cười nói về con người nhiều hơn bất cứ ngôn ngữ nào. Qua nụ cười ta có thể biết mọi thật giả, tốt xấu nơi người đối thoại. Nụ cười của anh cho tôi niềm tin.

– Cậu người phố nào?

– Nhà Rượu, anh ạ.

– Ờ, Sergent Larrivet – anh nói, mắt mơ màng – Tớ cũng hay qua đấy. Bên kia Nghĩa địa Tây có cái marbrerie [2] Ngô Văn Vỹ. Tớ quen gia đình này.

Cái xưởng đá với vô số bia mộ đẽo dở nằm ngổn ngang trong một bãi rộng tràn cả ra ngoài đường là hình ảnh quen thuộc với tôi. Tôi thường đi qua đây để ra phố Huế, nơi lũ trẻ chúng tôi đặt những nút bia lên đường tàu điện, chúng sẽ bị bánh tàu điện ép phẳng lì thành một thứ tiền trong tròăn thua của trẻ con, gọi là xèng.

Từ chỗ chúng tôi đang ngồi, Hà Nội xa tít tắp, như ở một thế giới khác.

Anh đặt cây đàn sang một bên, bắt tôi nằm, rồi ngồi bên – Giữa đường được gặp cậu, lại là người Hà Nội, tớ vui lắm.

Tôi nằm, ngước nhìn anh.

– Cậu có hay đi ciné [3] không?

Tôi gật.

Anh mơ màng:

– Mình hay đi Majestic. Cậu cũng hay xem ở đấy chứ?

Tôi lại gật.

Majestic nằm giữa phố Huế, là rạp cho tây đầm, cho nhà giàu, vé đắt. Tôi mê xem phim, nhưng chỉ có thể xem phim ở rạp Moderne phố Hàng Quạt. Giá hạng bét ở rạp này một hào rưỡi, nhưng khi buổi chiếu đã bắt đầu, cửa đã khép, thì chỉ cần giúi vào tay ông gác cửa to béo có hàng ria mép rậm một hào hoặc không đủ một hào là con người dễ tính liền gạt bức màn bằng vải thô nặng nề đẩy tôi vào không gian mơ ước. Tôi thường được vào khi đã qua phần thời sự hoặc phim chính bắt đầu chiếu. Phim nói tiếng Pháp nhưng đọc chương trình tóm tắt có thể hiểu chuyện phim. Chúng tôi, những đứa trẻ mê xi-nê, đứa nào cũng tích được một tập chương trình. Chúng tôi thuộc tên các diễn viên, ngày ấy gọi là tài tử – Clark Gable, Cary Grant, Gary Cooper…

– Phim cuối cùng cậu xem là phim nào?

– Bạch Tuyết và bảy chú lùn, anh ạ.

Tôi không thể cậu tớ với người hơn mình nhiều tuổi

Bạch Tuyết và bảy chú lùn không được chiếu ở các rạp rẻ tiền. Tôi phải hy sinh vài buổi xem ở rạp Moderne để được ngồi ghế hạng bét ở Majestic.

– Thích chứ?

– Thích.

– Còn mình thì thích Pinoccio.

Mắt anh mờ đi.

Nỗi nhớ chung dắt chúng tôi về nơi đã trở thành dĩ vãng.

– Tôi cũng thích Pinoccio. Nhưng thích nhất là những phim cao-bồi như La Chevauché fantastique[4].

– Tớ có xem phim này. Charles Starett vai chính.

– Xem xong, sau buổi chiếu muộn – tôi mơ màng nhớ lại – khi ngoài tiếng guốc gỗ khua trên vỉa hè đêm là tiếng huýt sáo bản nhạc trong phim vừa xem.

Anh huýt sáo giai điệu tôi vừa nhắc:

– Tuyệt. Người Hà Nội rất có khiếu âm nhạc. Không thế thì làm sao nhớ được một giai điệu vừa mới nghe.

4

Một cô gái xuất hiện ở cửa quán.

Ánh sáng ngược tạo ra một vầng hào quang trên mái tóc cô, nó làm gương mặt cô chìm trong tối, trừ cặp mắt long lanh.

– Cô chủ quán – anh ngừng nói, mắt tươi rói.

Nhìn thấy tôi, cô gái reo lên mừng rỡ:

– Ối trời, anh đã dậy được rồi kìa!

Cô đặt bàn tay mềm và mát rượi lên trán tôi, cười khanh khách:

– A lúi, lúc ấy trông anh kinh lắm. Mấy ngày rồi ấy nhỉ? Hôm nay là ngày thứ ba.

– Không có cô ấy thì một mình tớ không tài nào tha nổi cậu đâu – anh nói – Cậu trông thế mà nặng kinh.

Anh cười tươi, mắt không rời cô gái.

– Như chết rồi ấy – cô gái nói – Người chết nặng hơn người sống, các cụ bảo thế.

Nước da trắng hồng, nụ cười phô hàm răng trắng đều đặn – một cô gái xinh. Thoạt nghe cô “a lúi”, tôi nghĩ cô người Tầy, nhưng “may ơi là may” thì chỉ có người Kinh nói.

– Đang nằm xuội anh bật dậy, răng nghiến chặt, bọt mép sùi ra, giãy giụa như lên cơn động kinh – cô miêu tả tình cảnh của tôi – Hai anh em đè không nổi.

Tôi nói xinh là không đủ, hoặc sai.

Tôi đang ở cái tuổi nhìn thấy cô gái nào cũng đẹp, không đẹp lắm thì cũng đẹp vừa. Trong bộ quần áo xanh chàm, trông cô không khác những cô gái Tày. Cô có giọng liến thoắng, rất trong, như hát.

Anh cười theo cô, lắc đầu:

– Khiếp, lại còn đái cả ra quần nữa chứ.

Tôi nhìn xuống.

Tôi đỏ bừng mặt. Ai đã thay cho tôi? Người đàn ông nọ? Hay… cô gái?

Cái ba lô của tôi nằm dưới chân chõng. Tôi kéo nó lại. Bộ quần áo cũ đã được giặt sạch nằm trên cùng. Cái tôi quan tâm hơn hết là bó tài liệu bọc trong vải mưa tẩm nhựa thông. Nó còn nguyên vẹn.

Anh không để ý cử chỉ hấp tấp của tôi. Nếu nhận thấy, anh sẽ giận vì nó chứng tỏ tôi không tin người đã cứu mình.

– Ca ác tính này tớ đã gặp. Khó qua lắm – anh chậm rãi nói – Phải có Quinoform tiêm thẳng vào ven mới xong. Ở cái chốn hẻo lánh này thì làm gì có nó. May sao, tớ còn nhiều ký ninh. Mới hòa thật đặc cho cậu uống. Là còn nước còn tát, chứ chẳng hi vọng gì.

– Cả một vốc thuốc. Răng anh cắn chặt lắm – cô gái kể – hai người cậy mãi mới được. Anh vùng vẫy, phun phì phì.

– Tớ còn sợ làm cậu chết vì thuốc ấy – anh nghiêm nghị – Thôi thì cứ liều, đổ đại cho cậu. Coi như còn nước còn tát.

5

Tôi không quên từng chi tiết cuộc gặp gỡ bất ngờ. Nó hằn sâu trong trí nhớ bề bộn.

Nó đúng là như thế. Bắt đầu không phải cái gì khác, mà một câu hỏi:
– Hà Nội hở?

Làm sao anh có thể thoáng qua đã nhận ra một nét Hà Nội trong tôi?

Tôi không đặt câu hỏi ấy ra với anh. Anh hỏi mà như khẳng định. Không khảo sát, không đánh giá.

Quán nước này giống hệt mọi quán khác – một mái tranh nhỏ, tạm bợ, không chái, không vườn. Những quán nước như thế nằm rải rác trên con đường hàng tỉnh với quãng cách không thể nào biết trước, có thể vài cây số, có thể hơn. Chúng hiện ra bất ngờ ở những khúc ngoặt, những ngả rẽ bên con đường ngoằn ngoèo hết lên lại xuống giữa đồi núi chập chùng.

– Em phải chạy ngay, mẹ em bảo. Đã có các anh ở đây rồi.

Tôi gặp mẹ cô vài lần mấy ngày sau khi bà tạt qua quán – một người hết sức đồng bằng, chít khăn mỏ quạ, thấp bé, nhanh nhẹn, ít nói, cười nhiều. Bà kể: khi làng bị Tây càn, bà đắt con chạy theo gia đình một ông lái gỗ, vùng này ông quen khi còn làm sơn tràng. Thời chiến, nghề buôn gỗ về xuôi không còn đất, ông dựng hai ngôi nhà tạm cho hai gia đình. Đất rộng, hai nhà phát hoang trồng khoai trồng sắn, nuôi gà, chạy chợ.

Trong gian ngoài cái quán có cái chõng tre đã ngả màu cánh gián, trên đó có ấm nước vối sứt vòi, mấy cái bát sành, vài nải chuối, mấy tấm bánh lá, mấy gói kẹo vừng, kẹo lạc, vài phong thuốc lào – hàng hoá muôn thuở của bất cứ quán ven đường nào. Sang hơn cả, được đặt trong một lọ thuỷ tinh không trong suốt là những cái kẹo đen sì làm bằng đường thẻ, có tên là “kẹo đầu Tây”, vì chúng trông giống những cái mũ sắt. Khi vắng chủ quán, khách vãng lai tự ăn tự uống, rồi tự bỏ tiền vào một cái hộp bánh quy đã rỉ sét, không có nắp. Hàng bày trên chõng đều có ghi giá, khi bằng bút chì, khi bằng mực tím, viết nguệch ngoạc trên một mẩu giấy.

Nhiều quán trên mấy tỉnh lộ vùng núi cũng thế – người ta chẳng cần trông, khách không bao giờ ăn uống mà không trả tiền.

– Có lần người ta trả bằng gạo, chắc là của mấy chú bộ đội – bà chủ quán kể – Tội nghiệp, không còn tiền thì thôi, chứ ai nỡ đòi gạo bộ đội.

Ngoài hai mẹ con, trong quán còn có một con chó bốn mắt, thứ chó mực có hai đốm vàng trên mặt, tôi gặp nhiều ở vùng này. Cả ngày nó tha thẩn theo cô chủ, cô đi đâu nó theo đấy. Nhưng khi cô bảo nó ở lại quán thì nó nghe lời, ở lại với hai chúng tôi.

Con bốn mắt không có tên. Nó quấn tôi lắm. Mỗi khi tỉnh giấc thấy con bốn mắt nằm giãi thải dưới chân, mắt lim dim, cùng tôi nghe đàn, tôi có cảm giác đang ở nhà mình.

Khi tôi còn bé, nhà tôi có một con Kiki trắng vá đen. Lứa đầu nó đẻ bốn con rất đẹp, cũng trắng vá đen như mẹ. Suốt ngày tôi chơi với chúng. Khi một đứa con của nó chết, tôi đem con chó tí xíu chôn ở dưới gốc hoàng lan cuối phố, nơi có con đường tắt đầy cỏ may dẫn vào chùa Hai Bà. Những giọt nước mắt đầu tiên của tôi trước sự mất đi không thể nào lấy lại của sinh linh bé bỏng đã nhỏ xuống nấm mồ cũng tí xíu.

Tôi trên đường công tác. Người đàn ông chẳng nói mình đi đâu, làm gì. Tôi cũng không hỏi.

Anh không giống những người tôi thường gặp. Áo sơ mi trắng, quần ka ki, sạch sẽ. Như thế anh không thể là bộ đội, bao giờ cũng xộc xệch, cũng nhếch nhác, không nhiều thì ít. Cũng không phải cán bộ chính trị chỉn chu trong bộ ka ki với cái xà cột bất ly thân, cán bộ cấp cao một chút còn cưỡi xe đạp Sterling. Anh cũng chẳng giống dân “bờ lờ”, cách gọi tắt dân buôn lậu, trong bộ cánh nâu tươm tất, kính đen Stigmal gọn gàng trên sống mũi. Tôi đoán anh là nhạc công trong một đoàn nào đó. Nhưng dân văn công thường đi đoàn với đủ mọi thứ lỉnh kỉnh. Người này chắc hẳn có công việc gì đấy không quan trọng, không cấp thiết. Không thế thì sao anh có thể ở lại giữa đường để trông nom một kẻ không hề quen biết.

Khi tôi hỏi ở lại giúp tôi có làm dở dang công việc của anh không, thì anh thờ ơ: “Chuyện vặt. Người nào gặp trường hợp này thì cũng làm như tớ thôi. Cậu có thể bỏ một người thập tử nhất sinh mà không cứu? Phải đợi cậu khỏe lại hẳn tớ mới đi được.

Mấy ngày tôi nằm lại, anh bắt tôi uống thuốc, chơi đàn cho tôi nghe, trò chuyện với tôi về thành phố từ đó chúng tôi ra đi.

Hà Nội đã tít tắp xa. Chẳng ai biết trước ngày trở lại. Có thể mường tượng nó – những con phố với những cột điện, những hàng cây, lá rụng trên hè, nước lặng lẽ chảy trong rãnh. Và “mái buồn nghe sấu rụng” trong thơ Chính Hữu.

Rõ ràng là con người này chẳng vội vàng, gặp chỗ dừng chân dễ chịu thì dừng, chẳng buồn kén chọn. Rất có thể cuộc gặp gỡ bất ngờ với người cùng quê hương cho anh cái cớ để dừng lâu hơn.

Tôi còn ngờ anh dừng lâu hơn vì cô gái.

– Một bông hoa rừng. Nhưng từ dưới xuôi lên.

Khi nhìn cô, mắt anh vừa sáng lên, vừa mơ màng. Cũng có thể tôi nhầm. Đôi lúc tôi có cảm giác vừa nói chuyện với tôi anh vừa nghĩ về một cái gì khác rất xa, chẳng dính dáng tới điều chúng tôi đang nói.

Ngày nào anh cũng bảo cô chủ quán mua gà, mua trứng về nấu cháo cho tôi ăn. Những bữa ăn như thế giúp tôi lại sức rất nhanh. Không những thế, chúng còn là những bữa ăn sang trọng hiếm có trong đời lính.

Một hôm, thấy tôi có vẻ băn khoăn, anh gọi tôi ra sau quán. Đứng trong những bụi sắn, anh trật quần dài, kéo tay tôi đặt vào cạp quần đùi:

– Cậu nắn đi.

Tôi nắn thấy những vật tròn cứng.

– Vàng đấy. Toàn nhẫn cả. Dự trữ cho kháng chiến trường kỳ. Thỉnh thoảng tớ lấy ra một cái bán đi ăn dần.

Anh xắp lại quần, cười hì hì:

– Đừng lo tớ không có tiền.

Tôi kể dài dòng văn tự chỉ cốt để người đọc những dòng kỷ niệm này hình dung được khung cảnh một thời đã mất. Thời ấy con người với con người là bạn, và còn hơn thế. Mà cũng để ghi lại một cái ơn. Không có cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, biết đâu tôi chẳng còn.

Thời gian ngắn ngủi ở bên nhau đủ để chúng tôi thân nhau, yêu quý nhau nữa, có thể nói như thế. Những cuộc tâm sự đêm khuya trong tiếng sương rơi lộp độp trên mái tranh làm tôi hiểu và quý anh hơn.

Tôi trách mình đã không hoàn toàn tin anh. Thời chiến, tinh thần cảnh giác cách mạng làm cho cuộc chia tay giữa hai chúng tôi không được như lẽ ra nó phải có. Chúng tôi quyết định lên đường đi Thái Nguyên khi tôi đã có thể đi được. Tôi cố ý đi quá nơi tôi phải rẽ vào chừng một cây số mới chia tay với anh:

– Mình sẽ còn gặp lại – tôi nói.

– Chắc chắn – anh nói.

6

Tôi đã gặp Đoàn Chuẩn đúng như thế. Chia tay với anh, tôi chỉ biết cái tên.

Tôi gặp một con người, không phải một danh tiếng.

Những tác phẩm của Đoàn Chuẩn tôi không được nghe trong những năm kháng chiến. Tôi không nghĩ rằng đã có một lệnh cấm những bài hát lãng mạn. Chúng có vẻ không thích hợp trong thời chinh chiến thì người ta không hát, thế thôi. Hoặc giả có một lệnh cấm nào đó mà tôi không biết, không được nghe phổ biến.

Cuộc gặp gỡ thứ hai với người cứu mạng mình xảy ra mấy năm sau.

Ngày 10.10 năm 1954, xong việc quay cảnh thượng kỳ ở Cột Cờ, tôi đi lang thang. Ở phố Huế, trước cửa rạp chiếu bóng Majestic, tôi thấy một chiếc xe hơi bồng bềnh đi chầm chậm theo mình. Một gương mặt lạ – mái tóc bóng mượt, miệng ngậm bót thuốc lá ló ra ở cửa để mở. Người ngồi sau tay lái chăm chú nhìn tôi rồi cho xe vượt lên ngang tầm:

– Hiên hả? Phải Hiên không?

Đến lúc ấy tôi nhận ra anh: Đoàn Chuẩn.

Anh cho xe dừng, bước ra, ôm chặt tôi, mừng rỡ.

– Về khi nào?

– Đêm qua. Mới đi bát phố một lát.

– Cậu ở đâu?

– Khách sạn Splendid.

Anh cười:

– Sang nhỉ?

Rồi kéo tôi vào quán cà phê An Thái Majestic.

Người Hà Nội xưa đều biết quán cà phê này. Nó ở bên trái rạp chiếu bóng nếu đứng từ ngoài đường nhìn vào. Sau này, khi rạp Majestic đổi tên thành Tháng Tám thì nó biến thành một cái gì khác, một quán tạp hoá thì phải.

Quán đầy người. Khói thuốc lá mù mịt.

Đoàn Chuẩn lấy ra một cái hộp đựng thuốc lá lạ mắt bằng nhựa trong, màu vàng. Hộp này có rất nhiều ngăn, trong mỗi ngăn là một thứ thuốc lá: Phillips Morris, State Express, Craven A, Camel, Melia Jaune, Bastos… Các ngăn nối với nhau bằng dây thun. Chọn thứ thuốc loại nào thì bẻ gập nó ra. Tôi ngắm hộp thuốc lá của anh không rời – lần đầu tiên tôi thấy một hộp thuốc lá như thế.

– Cậu chọn loại nào?

Tôi chọn Craven A.

Anh bật lửa cho tôi. Cái bật lửa cũng lạ mắt như hộp thuốc lá, nó nhỏ, mạ vàng. Trong vùng kháng chiến chúng tôi chỉ có thứ bật lửa có khắc hình xe tăng, được gọi là “bật lửa tàu bò” có bán ở các chợ giáp ranh.

Anh nheo mắt ngắm tôi:

– Sao cậu không mặc uniforme (đồng phục)?

– Tôi không thích nó – tôi cười – Mặc vào như người gỗ.

Tôi trở về Hà Nội từ Nam Định. Trong thành phố người Pháp vừa bỏ lại mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Đoàn quay phim chúng tôi được lệnh phải may mỗi người một bộ đại cán để vào tiếp quản Hà Nội.

Đúng vào lúc lên đường, mọi người mới ngớ ra – cả đoàn đều vận đại cán, riêng tôi thì mặc đồ dân sự: áo popeline Thuỵ Sĩ, quần simili, giày tây.

Tôi phân trần:

– Mọi hiệu may đều hết vải ka ki.

Lý do này nghe cũng hợp lý. Tôi không bị “kiểm điểm” về thói tự do chủ nghĩa là cái tôi thường bị phê phán, và người ta phê phán đúng – tôi không vừa cho một cái khung nào.

Tiền tiêu chuẩn phát cho cán bộ may đại cán không đủ cho bộ quần áo tôi chọn. Ông chủ tiệm hào phóng không lấy thêm:

– Có mấy khi ta được gặp nhau như thế này.

Hoà bình ở Việt Nam chỉ có một nghĩa: hết chiến tranh.

Đoàn Chuẩn ngắm tôi:

– Với bộ diện này ai bảo cậu là cán bộ.

Tôi móc túi lấy cái phù hiệu tiếp quản thủ đô mọi cán bộ đều được phát cho anh xem. Đoàn Chuẩn ngắm nó lâu với vẻ tò mò.

– Tôi không đeo nó – tôi phân trần – Như thế tôi lẫn vào mọi người . Mới nghe được những nhận xét: “Quân phục xấu quá! Mà xăng Liên Xô thối kinh!”

Đoàn Chuẩn cười vui, giống hệt anh trong lần đầu chúng tôi gặp nhau.

– Xuống xe điện tôi vẫn nhảy bổ được, chưa quên đâu – tôi khoe.

– Vẫn còn Hà Nội – anh khen.

Tôi không đụng tới chuyện anh bỏ kháng chiến. Có cả đống lý do cho chuyện đó, mỗi người mỗi kiểu. Nghe người ta kể thì Phạm Duy rất bực khi anh đã có trong danh sách đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Berlin, nhưng vào phút chót không hiểu sao anh đã bị gạt ra. Vì thế, và chắc vì nhiều điều khác nữa, anh bỏ kháng chiến. Sau này, tôi gặp Phạm Duy nhiều lần tôi cũng không hỏi anh chuyện đó. Nó không bao giờ là một thắc mắc. Người ta đi, người ta về, chẳng liên quan tới ai.

Đoàn Chuẩn không bực bội gì với kháng chiến. Người ta không quan tâm anh, anh không quan tâm họ. Anh đi kháng chiến như đi vào một cuộc viễn du thú vị, có vẻ chỉ là thế. Rồi anh trở về khi anh thấy đi đã đủ. Chẳng có chính chị chính em gì trong chuyện anh đi và về.

Chúng tôi hàn huyên cả giờ, uống mấy ly cà phê rồi mới chia tay.

Tối hôm đó tôi bị kiểm điểm: “Vừa mới vào đã liên lạc với bọn tư sản”. Tôi không biết mấy cậu bảo vệ đã tình cờ gặp tôi hay đi theo tôi, họ đã báo cáo. Dường như những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người ăn vận sang trọng đều bị coi là thiếu cảnh giác với cái gọi là “viên đạn bọc đường”.

Họ bảo vệ tôi vì được dạy dỗ như thế. Chứ không có ý xấu.

7

Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ với Đoàn Chuẩn tôi được đi Liên Xô học, rồi làm báo, rồi đi tù 9 năm. Giữa những khoảng cách ấy tôi còn gặp Đoàn Chuẩn vài lần. Ngoài anh ra tôi không gặp một người nào chơi ghi ta Hạ Uy Di. Thứ đàn ấy ít người chơi, người ta thành kiến với tiếng ngân nga của nó, chắc vậy.

Ra tù, tôi bận lăn lộn kiếm sống, rồi liều mạng vào Sài Gòn, nơi không có bàn tay quen thuộc nào chìa ra cho mình. Đất phương Nam rộng rãi, người miền Nam phóng khoáng, che chở tôi, cho tôi mái ấm trong tha hương.

Thỉnh thoảng lắm tôi mới ra Hà Nội thăm cha mẹ và các em. Hoá ra bác Đoàn Vạn Vân, cha anh, là bạn với cha tôi. Bác là một trong số ít nhà mà cách mạng gọi là tư sản dân tộc, chủ một hãng nước mắm nổi tiếng. Cha tôi nói bác có giấm giúi cho cách mạng tiền, nhưng tôi không thấy những người viết hồi ký nhắc tới bác. Có lẽ tại bác cho không đủ nhiều. Hoặc vì chẳng bao giờ bác ra mặt ủng hộ cách mạng.

Đoàn Chuẩn vẫn vui khi gặp tôi, chắc hẳn như gặp một kỷ niệm không quên. Có một lần anh nhắc tới cô gái ở quán lưng dèo, mắt mơ màng. Trong đời anh chắc có nhiều bóng hồng lướt qua, cô là một. Mặt thêm nhiều nếp nhăn, anh không đi xe hơi nữa, hút thuốc lá Điện Biên bao bạc.

Chúng tôi hay kéo nhau tới quán cà phê ở gần Cột Đồng Hồ, nơi văn nghệ sĩ Hà Nội thường lui tới. Ông chủ quán có biệt danh Lâm Toét trọng các nghệ sĩ, nhất là các hoạ sĩ, mắt hấp him nhận ra Đoàn Chuẩn, đãi chúng tôi Gold Flake, thứ thuốc lá ngoại không biết của nước nào, vào Việt Nam bằng đường nào.

Thời gian ở Sài Gòn, cũng tới mười năm có lẻ, tôi mới được nghe nhạc Đoàn Chuẩn. Tôi nghe và sung sướng – tôi đã gặp một nhạc sĩ tài ba mà không biết.

Văn Cao đánh giá Đoàn Chuẩn:

– Nhạc hay. Ca từ lạ, là tâm sự mà đi thẳng vào hồn người.

Nhớ lại cuộc gặp gỡ ở lưng đèo Re, tôi đồ rằng những ngày ấy anh cho tôi nghe những bản nhạc anh vừa sáng tác:

Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm…
Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng…
Mơ tới bên em em tô quầng mắt…
Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung…

Tung phấn hương yêu qua muôn lời hát…
Bay tới bên em tới em thầm nhắc…
Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ…
Bóng anh phai dần ái ân tàn theo…

Và:

Chiều nào áo tím nhiều quá

Lòng thấy rộn ràng nhớ người

Đường về Việt Bắc xa cách mây

Nhìn về đường lối muôn khó khăn

Đây núi cao. Đây suối sâu

Đây lá xanh như ngàn xưa

Đường về ngập gió tha phương

Tiếc đời gấm hoa ta đành quên núi rừng…

Đoàn Chuẩn là một tiên ông lạc bước xuống trần. Anh không thuộc về thế giới này. Tôi không thể nghĩ khác thế.

Năm 2001 khi tôi đang lang thang ở miền Nam Ý thì nhận được tin nhắn của một người bạn cho biết Đoàn Chuẩn không còn nữa.

Ông tiên của tôi đã về trời!

2019

[1]Chăn làm từ vỏ cây sui, một thứ cây trong rừng Việt Bắc. Người ta lột vỏ nó, đập giập, ngâm nhiều ngày trong nước suối cho nó cho tới khi mềm nhũn chỉ còn lại những sợi gỗ làm thành một thứ có thể dùng làm chăn.

[2] Xưởng sản xuất đá bia mộ.

[3]Ciné (xi nê, tiếng Pháp, chiếu bóng)

[4]Chuyến đi ngựa kỳ thú.

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

 Hai quả trứng gà và ông hàng xóm

 Hai quả trứng gà và ông hàng xóm

Bảo Huân

Tháng 11 trời Connecticut bắt đầu lạnh, cái lạnh làm se cả lòng người xa xứ. Tôi bước đi chậm rãi, ngắm vội vài lá vàng rơi rụng. Trời trong xanh thì thầm gọi chào buổi sáng. Lần đầu tiên, tui được nhìn thấy mùa thu xứ Mỹ. Đã quá thu rồi! Ừ, vậy mà, thu vẫn đi êm đềm nhẹ nhàng vào lòng người thật khó tả!

Note: Tất cả những hình trong bài này là hình minh họa

Tui nghe tiếng má tui gọi ơi ới “Khanh ơi”. Tui giật thót mình, hồn thu đang dạt dào tự nhiên… bay mất. Tui lật đật quay đầu trở lại, thấy má tui đang đứng lớ ngớ bên ngoài cửa apartment (chà! có chuyện gì đây?) Má tui trả lời gọn lỏn “Cửa đóng rồi, cứng ngắc không mở được. Đang luộc 2 trứng gà, không vặn lửa lớn, nhưng để lâu cháy nhà.” Trời đất, tui nghe tới đây, hồn vía như lên tới tận mây xanh, mới qua Mỹ có 3 ngày đâu biết tiếng Anh tiếng em gì? Réo gọi ai đây, điện thoại cũng không có, tui phải làm sao bây giờ? Trời lạnh mà mồ hôi rịn ra ướt cả lưng áo.

Tự nhiên như có phép lạ, một ông già Mỹ trắng lù lù thò cái đầu từ cửa sổ bên cạnh nhà ra (chắc là nghe tiếng động). Má tui đứng mà nhảy tưng tưng, ông bước ra ngoài, rồi hỏi một tràng tiếng Mỹ, tui không hiểu gì hết (biết trả lời lại chết liền!) Tui nhìn qua nhìn lại, má tui nhanh như hỏa tiễn thời chiến tranh VN, xáp tới ổng, giơ hai tay lên làm dấu như 2 quả trứng, ổng lắc đầu. Má tui tiến thêm bước nữa, đưa hai tay lên (cong ngón cái và ngón trỏ lại với nhau) tạo thành hình tròn rồi chỉ vào bộ ngực của má tui (hình như trên đời này, khi không còn cách nào nói cho đối phương hiểu, chỉ còn cách là làm tín hiệu có sẵn ngay trước mắt). Giống như 2 quả trứng, ổng cũng lắc đầu nguầy nguậy.

Quýnh quáng quá, như là phản xạ tự nhiên, má tui tiến sát vào ổng, và chỉ gần phía dưới bụng (chỗ hiểm) ý nói là giống 2 quả trứng (chà! cái này mới là ghê chứ) rồi đưa tay về phía cửa đang đóng kín. Ông già sợ tái xanh cả mặt mày, ổng lui ra, ổng né. Ổng càng né, má tui càng xáp vô, đến khi nào chỉ đúng “mục tiêu” thì thôi. Mắt ông mở tròn xoe, ổng nhìn má tui như thể nhìn người hành tinh xuống, còn má tui nhìn ổng như thể là ông không có thật trên đời! Rồi ông cuống cuồng chạy vào nhà lấy phone, tui hiểu ngay ý má tui, tui cười chịu không nổi, tui cười tới đâu, tui sởn gai ốc tới đó. Tui thấy ông nói xí xô xí xào gì đó trong phone; không đầy năm phút sau, một đoàn hùng hậu 6 chiếc, xe chữa lửa, cảnh sát một toán người tiến đến. Xe hú còi inh ỏi náo động xé toạc bầu không khí đầy thu vàng đang êm ả của xóm tui. Tui tá hỏa tam tinh, má tui thì xụi lơ, teo héo! Tui nghĩ bụng phen này chết chắc, má tui chắc là bị bắt quá vì cái tội xáp vô ông già Mỹ kia.

Ngay lập tức police bước tới hỏi một tràng tiếng Mỹ (tui và má tui là dân quê thứ thiệt, đi qua Mỹ mà còn đòi đem theo một cặp gà con trống mái gầy giống cho nó đẻ, thì lấy đâu ra tiếng Mỹ mà học). Mà cũng phải, thử nghĩ lại coi, lúc đó sợ cháy nhà, sợ bị bắt muốn chết giấc, hồn vía mất tiêu lấy đâu ra từ ngữ mà nói lại. Một chữ thank you cũng quên tuốt luốt. Tui trả lời bằng động từ tu quơ, quơ qua, quơ lại, Má tui một lần nữa soạn lại “bổn cũ”. Lần này ngay ông police mà tiến tới, đưa hai tay lên ra dấu như 2 quả trứng chỉ vào “chỗ hiểm”, ông police lùi lại, rồi má tui đến đập cánh cửa. Ngó chừng như ổng hiểu ý, họ nạy cửa bung ra. Má tui te te chạy vào: 2 quả trứng gà sắp sửa nổ tung, vì nồi nước đã cạn queo. Mùi khen khét bốc lên như chờ đợi mời mọc mọi người.

Lúc này ông hàng xóm nhìn má tui từ đầu cho tới chân, ông bỗng cười sặc sụa, cười ngặt nghẽo, cười muốn tắt hơi. Rồi mọi người cùng cười vang. Tui mừng rơn trong bụng. Thoát nạn!

Rồi, mùa Thu đi, mùa Đông lại đến. Ông già hàng xóm ấy trở nên thân thiết hơn, gia đình chúng tôi biết tên ông là David. Mà lạ thiệt, má tui không chịu kêu tên đó mà cứ gọi là ông “ÉT” (egg) cho dễ nhớ mà! Cứ mỗi tuần đều đặn, ông ghé nhà tui, tặng cho gia đình tui một vỉ trứng gà. Có hôm vui thiệt, má tui tản bộ ra đầu ngõ (thèm thịt gà nguyên con nấu cháo), vừa đến cửa tiệm quên mất từ con gà. Má tui đưa hai tay lên làm giống như 2 cánh gà đập phành phạch vào đùi, miệng thì kêu ò ó o o như tiếng gà gáy. Ông Mỹ bán hàng mắt như muốn nổ đom đóm, đứng như trời trồng. Bỗng đâu ông già hàng xóm xuất hiện, tới làm thông dịch, nghe thấy “hiểu liền!” biểu đem ra một con gà cho má tui. Vậy đó, ông còn làm tài xế cho cả gia đình tui, chở đi shopping, đi chợ VN, đi học ESL, có khi ông ngồi đợi cả buổi.

Tui kể đến chuyện ngứa. Đầu mùa Đông tới, da tự nhiên ngứa, ngứa gì mà ngứa gãi muốn điên lên, tụi tui đi ra tiệm thuốc đem theo ông ET hàng xóm (thông dịch viên bất đắc dĩ). Tui chỉ cần ra dấu, cởi áo lạnh ra, xắn tay áo lên, gãi “ rột” một cái, là ông biết ý ngay, mua liền cho 1 chai thuốc ngứa.

Vậy đó, rồi ông vui lây cùng chúng tôi theo năm tháng, cho đến ngày mà má tui biết được bập bẹ vài chữ. Hôm đó, ông đem trứng gà cho nhà tui, má tui không nhận vì trong tủ đầy nhóc trứng rồi, Lần này thì má tui nhẹ nhàng say:  “No, thank you, have a nice day,” gọn ơ, ngọt xớt! Mặt ông cười, nụ cười chất ngất một niềm vui, vui như đón bình minh. Ừ, phải rồi, ông đang đón một bình minh của sự đổi đời của cả một gia đình trước mặt ông mà ông không hề hay biết. Bình minh của những con người mới đang bước đi chập chững để tạo dựng cuộc sống ngay trên đất nước ông… Và ông cùng đồng hành với chúng tôi trong những năm tháng đầu tiên mà không mệt mỏi. Mà mệt mỏi làm sao được chứ, khi mà trái tim ông đang vui sướng san sẻ tình thương cho người đang đón nhận.

Đã bao nhiêu năm rồi, bây giờ hỏi lại má tui, má tui nói nhớ ông “ET” quá chừng luôn. Rồi má tui cười xoà, nụ cười có nhiều kỷ niệm. Sáng nay, hai quả trứng gà “ốp-la” được đứa con gái tui bày ra bàn chờ điểm tâm, tui nhìn mà cười tíu tít, nó hỏi “làm gì mà mom cười vui vẻ quá vậy!” Trời đất, nó đâu có biết. Có một ngày nọ, lâu lắm rồi… hai quả trứng gà như câu chuyện hài đã đi vào lòng người thật đậm đà khó quên. Có diễm phúc nào bằng khi mà tui đang có thêm một quê hương, một quê hương mới, một quê hương không sinh ra tui nhưng ràng rịt bước chân tui đến cuối cuộc đời.

Mùa Thu đến, mùa thu mênh mang ngọt ngào chuyên chở những dòng ký ức xa xôi để lại trong lòng người thêm nhiều nỗi niềm nhung nhớ.

Tui Tạ ơn Trời, tui cám ơn đời, tui cám ơn người, tui cám ơn vùng đất đã ưu ái cưu mang tui trong những ngày khốn khó… Hình như mắt tui cay sè…

Bảo Huân

From: Tu-Phung

ĐÊM TRỰC !!!

ĐÊM TRỰC !!!

Nguyễn Bảo Trung

 0 giờ

Một người đàn ông đến cấp cứu vì đau quặn bụng. Khi mình đến khám, ông ta cứ luôn miệng nói: Tôi quen anh giám đốc A. Tôi có làm ăn với chị trưởng phòng B. Có lẽ do ông ta nghĩ rằng, khi nói ra những mối quan hệ ấy, mình sẽ làm việc chu đáo hơn. Mình đã đáp lời rằng:

– Anh có thể thôi nói tên và chức vụ của người khác. Anh hãy nói về chính anh đi, tên, chức vụ và bệnh của anh.

Ông ta trố mắt ra nhìn mình, phải mất vài phút sau ông ta mới có thể bắt đầu khai bệnh.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng hay như vậy, bạn nhỉ? Cứ vỗ ngực tự hào chứng tỏ với nhau rằng: Tôi là con ông C, cháu bà D, tôi quen biết ông E và có mối quan hệ thân thiết với bà F, thay vì chúng ta nói về chính mình.

Nhưng một người trưởng thành thật sự lại là người luôn tự đứng vững trên đôi chân mình, can đảm chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, không dựa vào ai cả, không đổ thừa ai cả.

 0 giờ 30 phút

Một người phụ nữ 70 tuổi, được đưa đến phòng cấp cứu trong tình trạng suy kiệt nặng, da xanh niêm nhạt, thở ngáp cá, toàn thân khai mùi phân dãi. Khi mình xử trí cấp cứu xong, mình hỏi hai người con gái ăn bận rất bảnh bao và thơm tho: Bệnh nhân bị bệnh gì trước đây, điều trị ở đâu, và diễn biến nặng bao lâu rồi?

Mình đã ngỡ ngàng khi nhận được câu trả lời: Bệnh tim mạch và u hạch gì đó không rõ, mẹ tôi đã khó thở cả tháng nay rồi, nhưng tôi nghĩ không sao nên không đưa đi khám bệnh.

– Hai chị là con ruột?

– Ừ! con ruột.

Mình im lặng thở dài khi kết quả xét nghiệm và MSCT trả về là bệnh Lymphoma ác tính di căn não, di căn phổi, đái tháo đường, suy thận, … Làm sao mà cứu chữa? Mẹ thì chỉ có một trên đời.

Tuần trước mình có đi dự đám tang của một bệnh nhân rất thân. Và đã chứng kiến những giọt nước mắt ăn năn của người con út.

– Bác sĩ biết sao không, cả bốn tháng nay tôi chưa gặp mẹ, dù nhà tôi và nhà mẹ cách có vài bước chân. Ai ngờ trưa hôm thứ 7, nhận điện thoại báo mẹ đã mất rồi, … Giá như tôi …

Thật, càng lớn tuổi, mình càng sợ trực cấp cứu. Không phải vì sức khoẻ vì chuyên môn hay vì áp lực phải tiếp xúc phơi nhiễm với những bệnh lây nhiễm hay vì có thể bị hành hung bất cứ lúc nào. Mà vì cứ phải chạm vào thật sâu bên sau mỗi con người dù mình không muốn…

 1 giờ sáng

Bệnh nhân nam 23 tuổi, cơ thể gầy teo, nấm trắng đầy miệng đến cấp cứu vì tiêu chảy. Khi mình giải thích tình hình bệnh và đề nghị nhập viện thì bệnh nhân không chịu vì không có tiền.

– Em điện thoại kêu ba mẹ vào viện đi.

– Ba mẹ em li dị hồi em còn nhỏ xíu. Em sống với bà, mà bà ở tuốt dưới Vĩnh Long, em nói thiệt, em bị nghiện ma tuý đá và bị nhiễm HIV.

– Nhưng nếu em không nằm viện thì phải làm sao?

– Em cũng không biết nữa.

Nhìn cơ thể bệnh nhân chi chít những hình xăm, mái tóc nhuộm vàng khè … sao mà khác quá với cách bệnh nhân trả lời.

– Em chỉ nghĩ mình đau đến đây để bác sĩ cấp cứu, …

Mình lại thở dài, dù tiếng thở dài chẳng làm đêm ngắn lại. Phần lớn những người sa ngã và lầm lạc thường được lớn lên trong gia đình không có hạnh phúc, cha mẹ ly dị, hay nghiện rượu, cờ bạc và thuốc lá. Có bao giờ mỗi bước chân đi, mỗi quyết định trong cuộc đời, chúng ta đều cẩn trọng?

Sinh con rất dễ, nhưng nuôi dưỡng con lại rất khó! Khó vô cùng.

 2 giờ sáng

Một thanh niên xỉn rượu đến để khâu những vết thương vùng mặt và lưng do bị chém. Khi điều dưỡng hỏi phần hành chính, anh ta nạt nộ đập bàn: Sao không khâu liền đi, cứ hỏi mấy cái vớ vẩn làm gì?

– Muốn khâu thì phải làm hồ sơ khai tên tuổi bị đánh ở đâu chứ, rồi còn phải kí tên yêu cầu khâu chứ.

– Tao đ* khai. Bây giờ tao hỏi tụi mày có khâu không thì bảo? Tụi mày có tin tao chém tụi mày bây giờ không?

Mấy anh bảo vệ nghe ồn ào, báo ngay cho công an. Và thanh niên xỉn rượu vừa thấy bóng công an lập tức bỏ chạy. Mới đó còn hùng hổ đòi đâm đòi chém, …

Thật, những người có xu hướng hung bạo và dễ kích động thường là những người sống trong sự sợ hãi và yếu đuối.

Vì sao khi đi trên phố mấy thanh niên trẻ hay nẹt bô rồ ga? Vì sao giữa đám đông mấy người trung niên kia ăn bận diêm dúa, trang điểm cầu kì?

Bởi vì trong sâu thẳm họ khát khao được chú ý, khát khao được công nhận, … Nhưng họ chẳng có gì đặc biệt, buộc họ phải hành động như thế. Họ lạc loài!

 3 giờ sáng

Một người đàn ông, 50 tuổi được đưa vào cấp cứu vì đau đớn vùng hạ sườn phải. Ông ta la hét inh ỏi:

– Bác sĩ đâu rồi? Tụi bây chết hết rồi hả? Tao vào bệnh viện cả tiếng rồi mà chẳng thấy tụi bây đâu…

– Bác sĩ đây, anh mới vào mà, y tá còn chưa kịp lấy dấu hiệu sinh tồn, …

Người nhà vội nói bệnh nhân và quay qua nói với mình:

– Bác sĩ thông cảm, tại ảnh bệnh ung thư đường mật di căn gan, di căn hạch giai đoạn cuối rồi nên đau đớn và hay la hét. Bệnh Viện C đã cho về, khuyên gia đình, bệnh nhân muốn ăn gì thì cứ cho ăn, …

Đêm dường như sâu hơn với tiếng thở dài.

Nỗi đau, niềm thống khổ là có thật, luôn hiện diện bên trong mỗi con người. Ai cũng đau cũng khổ, có người nhờ nỗi đau mà vượt lên được chính mình, tìm ra con đường giải thoát và an lạc, nhưng cũng có người bị chết chìm trong đó.

Lẽ thường, khi người ta gần đến bên kia con dốc cuộc đời, cận kề cái chết, người ta sẽ buông bỏ hết những sân si, người ta sẽ chấp nhận và mỉm cười, … Đằng này …

 Bốn giờ sáng

Cô gái đưa một người phụ nữ đến cấp cứu vì đau đầu, không ngủ được. Trong khi mình đang viết bệnh án thì nghe bà ta kêu lên:

– Chú bác sĩ và cô y tá kia, mau trả điện thoại lại cho tôi.

– Bà coi lại cẩn thận đi, tụi con đâu có lấy điện thoại của bà.

– Cô nói gì? Chỉ có cô và chú bác sĩ kia lại gần tôi, … Không cô thì chú kia lấy. Báo bảo vệ hay công an ngay đi.

Bệnh nhân ngồi bật dậy, khác với lúc mới vào nhăn nhó khó chịu mệt mỏi.

Cô gái chạy vào:

– Ôi mẹ ơi! Mẹ nói cái gì kì lạ vậy? Con giữ điện thoại của mẹ đây. Tại con đi đóng tiền tạm ứng nhập viện nên mẹ không biết.

– Vậy hả? Tao tưởng hai đứa này nó ăn cắp.

Cô gái vừa định lên tiếng, mình vội ngăn lại và thì thầm:

– Thôi bỏ đi em.

*

Mình nhớ một câu chuyện trong Phúc Âm, có người đến hỏi: Nếu ai đó tát vào má con thì sao? Chúa Giêsu đã trả lời: Con hãy đưa luôn má còn lại cho người ta tát. Và nếu có ai xin con cái áo khoác bên ngoài, con cũng hãy cởi luôn cái áo khoác bên trong mà cho.

Thường chúng ta chỉ đến với Thượng Đế khi bị đau khổ, mất mát, muốn mà chưa được…

Và khi chúng ta bị ức hiếp bị bắt nạt, chúng ta mong là luật công bằng, luật nhân quả được thực thi.

Nhưng Thượng Đế luôn im lặng. Ngài dạy: Hãy tha thứ, hãy cho đi nhiều hơn.

Bởi chỉ những người yếu đuối, thiếu thốn, bị bỏ rơi… mới dùng đến bạo lực và đi xin.

Ngài Đạt Lai Lạt Ma từng nói: Cây lúa nào hạt non hạt lép thì nó đứng thẳng vươn cao. Còn những cây lúa nặng trĩu hạt luôn oằn mình xuống dưới thấp.

Cái Tôi của ai nhỏ bé thì tâm lượng người đó mênh mông!

—————–

“Đêm trực” của bác sĩ thật dài, không phải vì thời gian trôi chậm mà vì những câu chuyện éo le của mỗi mảnh đời 😓😓

Tác giả Nguyễn Bảo Trung

( Nguồn : Fanpage Tổng Hợp Y Khoa )

Image may contain: one or more people and people walking

Người phụ nữ gốc Việt hành khất ở Paris

   Người phụ nữ gốc Việt hành khất ở Paris                                                                               

Nguyễn-Đại-Thuật

Mỗi ngày hai buổi đi, về sở làm, Quốc phải đi qua ga xe điện-ngầm Montparnasse làm trạm trung chuyển. 

Có một ngày, đường xe điện ngầm về nhà Quốc tạm ngừng hoạt-động để sửa chữa, Quốc phải xử dụng đường xe điện ngầm khác trên cùng một ga trung chuyển, nhưng phải mượn lối đi qua hai thảm thang máy khá dài…

Khi vừa qua khỏi thảm thang máy thứ hai vài bước, Quốc thoáng thấy có một người phụ nữ ngồi xin tiền. Một chân bà bị teo nhỏ co quặp lai, ngắn hơn chân kia, một cặp nạng bằng kim loại sáng bóng sạch-sẽ nằm hai bên. Bà có vóc dáng của một người Á-châu và ánh mắt của bà khiến Quốc cảm nhận như đã nhìn thấy ánh mắt nầy ở một nơi nào đó rất mơ hồ…

Dòng người phía sau Quốc thúc đẩy Quốc tiến về phía trước. Quốc vẫn đi, lòng tự hỏi, tại sao giữa Paris của nước Pháp lúc nầy lại có người khuyết tật ăn xin ?

Chính-sách an-sinh xã-hội của Pháp không thể để sự việc như thế nầy xẩy ra, trừ trường hợp người nhập-cư bất hợp-pháp chưa được chính-quyền chấp thuận cho cư-trú dài hay ngắn hạn. Người khuyết tật là ưu-tiên của chính-sách an-sinh xã-hội Pháp.

Những ngày sau đó, buổi chiều đi làm về, khi bước ra khỏi thảm thang máy thứ hai Quốc vẫn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi ngay tại một địa-điểm như những ngày hôm trước, dưới đất, trước mặt là một hộp giấy nhỏ để người hảo-tâm bỏ tiền vào. Bà ngồi im-lặng, không một lời hỏi xin khách đi ngang qua. Có lúc Quốc nhìn bà, mỉm cười. Quốc định ngừng lại bỏ tiền vào hôp giấy. nhưng một ý-nghĩ chợt dến, Quốc tiếp tục đi Quốc tự nhủ: “những người như bà nầy được xã-hội ưu-tiên giúp đỡ, không đến nổi nào phải xin ăn… làm ê mặt nước Pháp quá ! “. 

Một ngày giữa tuần, sở làm có công việc cần giải-quyết gấp, tám giờ tối Quốc mới ra khỏi sỏ làm. Khi đến cuối thảm thang máy thứ hai Quốc không nhìn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi nơi chỗ cũ. Sau giờ cao-điểm trong hành lang ga rất thưa người, Quốc có thể nhìn thấy bà nếu bà đang di-chuyển một nơi nào gần đó…

Nhưng khi đến bến xe điện, Quốc thấy người đàn bà khuyết-tật đang đứng chờ chuyến xe đến, trên cùng hướng của tuyến đường Quốc xử-dụng. Quốc đến bên cạnh bà, cũng vừa lúc xe đến. Quốc đưa tay đẩy nhẹ sau lưng bà bước lên tàu. Một hành-động tự phát nhân-cách của một nguời trước một đồng-loại khuyết tật dù không được yêu-cầu. 

Xe thưa thớt khách. Vừa ngồi xuống ghế, người đàn bà khuyết tật xếp hai nạng chung với nhau để qua phiá bên chân bị tật. Quốc ngồi vào ghế đối -diện. Bà mỉm cười nhìn Quôc, nói bằng tiếng Pháp:

– Cám ơn ông.
– Thưa bà không có gì. Quốc trả lời.

Bà nhìn Quốc, hai mắt mở lớn, Quốc vẫn thấy ánh mắt nầy mình đã gặp ở một nơi nào đó. Bà hỏi:

– Nhìn ông, nhận ra ông là người Châu-Á, nhưng không biết ông là người nước nào ?.
– Tôi là người Việt-nam.

Bà cười, giọng cười đầy thiện-cảm :

– Tôi cũng là người Việt-nam như ông, tiếc rằng tôi không nói được tiếng Việt, còn ông, ông nói được tiếng Việt không?. 

Quốc gật đầu:

– Tôi qua đây không lâu lắm nên còn nói được tiếng Việt như người trong nước

Vẻ mặt bà thoáng suy-tư:

– Mình người Việt, không nói được tiếng Việt, cũng thiệt-thòi phải không ông ? .

Quốc chưa kip trả lời câu hỏi thì loa phát-thanh trên tàu điện ngầm thông báo trạm đến để Quốc đổi tàu.

Quốc hỏi:
– Bà xuống trạm nào ?
– Tôi sẽ xuống trạm cuối của đường tàu nầy, nhà tôi gần đó.

Đúng lúc, cửa tàu tự động mở, Quốc xuống xe. Khách xuống xe và khách lên xe che khuất tầm nhìn của Quốc đang quay người lại để chào bà. 

Ngày hôm sau, đường xe điện ngầm tạm ngừng lưu-thông để sửa chữa hoạt động trở lại, Quốc xử dụng đường xe điện ngầm cũ nên không còn gặp, nhìn lại người đàn bà khuyết tật, tuy nhiên lòng Quốc vẫn phân-vân: “Bà ta, người gốc Viêt-nam, không biết nói tiếng Việt, chỉ nói được tiếng Pháp, đi xin tiền giữa thủ-đô nước Pháp, không bị người Pháp có lòng tự ái dân-tộc pha lẫn bản chất kỳ-thị màu da xua đuổi ! Ngay chính bản thân, khi nhìn thấy người đàn bà khuyết-tật nầy xin tiền Quốc cũng cảm thấy khó chịu… bà làm tổn thương đến chính sách an sinh xã hội nước Pháp.! “Quốc nghĩ, không biết có cần-thiết gặp lại người đàn bà nầy không ?. Vì bà là đồng-hương cơ-cực ? Vì sao bà bị tật nguyền như vậy ?

********************
Thời gian trôi qua, Quốc đã không còn nhớ gì đến người đàn bà khuyết-tật. Khoảng sáu tháng sau, buổi tối ngồi xem tin-tức thời-sự của đài truyền-hình France 3, một đài địa-phương của thủ-đô Paris và vùng phụ cận, một bản tin được phát ra với hình ảnh người đàn bà khuyết tật xin tiền trong hầm xe điện ngầm đang trao một phong bì cho cho một người, cùng lời của người phát tin: “Hôm nay là năm thứ sáu, bà Thérèse Tran một người tàn-tật, đã trao tặng cho hội Chữ Thập Đỏ nước Pháp 5.000 Frances Pháp, số tiền nầy do bà quyên được hàng ngày của khách lai vãng trong những hầm xe điện ngầm của thành phố Paris. Quý khán thính giả của đài đã từng được xem bảng thường trình bằng hình ảnh công việc của bà trong một chương-trình ĐÓNG GÓP CHO TỔ CHỨC NHÂN-ĐẠO trước đây trên đài truyền hình của chúng tôi. Bác-sĩ đại-diện hội Chữ Thập Đỏ Pháp đang nhận số tiền nầy từ tay bà”.

Bản tin tức khích-động trí tò mò của Quốc. Ngày hôm sau trên dường từ sở làm trở về nhà, Quốc chọn tuyến đường xe điện ngầm thời gian trước đây đã cùng bà xử dụng chung một chuyến. Khi đi qua khỏi thám thang máy thứ hai, Quốc nhìn thấy bà vẫn còn ngồi tại chỗ. Quốc tiến thẳng vào hành lang dường hầm, đến tuyến đường xe điện, cố ý ngồi chờ gặp bà. Gần mười chuyến tàu ngừng cho khách lên xuống rồi tiếp tục chạy… Quốc nhìn thấy bà đang chống nạng xuất hiện đầu đường hầm, Quốc đi nhanh về phía bà ngỏ lời chào. Bà chào lại và đưa tay bắt tay Quốc. Bà cười rất tươi, nói với Quốc:

– Lần đầu tiên gặp ông cùng trên tuyến xe nầy cũng khá lâu, tưởng là không còn gặp lại ông nữa, Paris có hơn mười tuyến đường xe điện ngầm và hàng vài chục ga trung chuyển… gặp nhau lại trên cùng tuyến xe rất hiếm. Gặp ông lúc đó, thấy ông lạnh lùng đối diện với một người ăn xin vì đói ăn và tàn tật như tôi. Hôm nay có khác, thấy nét mặt ông tươi vui và còn chờ tôi để trể mấy chuyến xe ? Nếu tôi đoán không sai, ông muốn gặp tôi hôm nay vì đêm qua ông đã nhìn và nghe được mẫu tin-tức về tôi trên đài truyền-hình France 3: một người đàn bà Pháp gốc Việt, tật nguyền ăn xin để làm việc thiện ? Và rất tiếc phải để ông chờ… vì tôi có thấy ông đi qua chỗ tôi vừa rồi… giờ nầy ông vẫn còn ở đây ?

Quốc cảm thấy bối-rối trước những lời khẳng định và nhạy bén của bà, Quốc chưa kịp đáp lời thì chiếc tàu điện ngừng, cửa mở, hành khách lên tàu. Một hành khách lịch-sự nhường chỗ cho bà. Quốc đứng bên cạnh và có dịp quan sát khuôn mặt thanh tú của bà, mái tóc đen chen lẫn vài sợi trắng hai bên thái dương.

Cặp mắt của bà có một sức lôi cuốn kỳ lạ, người nhìn cảm thấy như bản thân mình bị thâu nhỏ lại như bị hút vào bên trong… cặp mắt mà Quốc đã nhìn thấy một nơi nào đó vào một thời kỳ rất xa, và rất xa. Xe ngừng. Khách xuống, không có khách lên. Quốc ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh bà. Hai người không nói gì với nhau cho đến lúc loa tàu báo tên trạm ngừng sắp tới, bà hỏi Quốc:

– Chắc ông xuống trạm này vì kỳ trước ông đã xuống đây?

Quốc cười, lắc đầu:

– Hôm nay tôi không xuống đây, xin được theo bà để được nghe bà cho nghe chuyện bà đi quyên xin tiền làm từ thiện.

Bà cười, hai tay ôm hai chiếc nạng vào người, nói:

– Ông thấy đó, vừa rồi tôi nói có sai đâu, hôm nay ông đón gặp tôi chỉ vì tin túc về tôi trên đài truyền-hình tối hôm qua. Có lẽ trước đây ông không theo dõi tin-túc trên truyền hình France 3 nên không biết. Tàu chạy ồn quá, vậy hãy đợi đến trạm cuối, bên ngoài ga có quán nước, chúng ta đến đó nói chuyện thỏa mái hơn, và đây cũng là người Việt-nam đầu tiên trực tiếp muốn biết chuyện nầy. Mong rằng ông không phải là người của tòa Đại-sứ Việt-nam, phỏng vấn, ghi âm lén rồi tráo trở chỉnh sửa, viết lại… trái với trung thực rồi họ cho là đài France 3 tuyên truyền, hư cấu, giàn dựng… Chuyện của tôi là chuyện của tôi, chỉ vậy thôi.

Hai người đi vào một quán nước gần kế lối ra của hầm xe điện ngầm. Thời tiết đang vào cuối tháng tư nhưng vẫn còn se lạnh, bà chọn một bàn bên ngoài quán và nói với Quốc:

– Chắc là hôm nay tôi sẽ về nhà trễ, mẹ tôi sẽ phải đi tìm đón về, ngồi bên ngoài để bà dễ tìm thấy, trời còn lạnh, nếu ngồi bên trong thì ấm hơn. Tôi vẫn có thói quen, những chiều tối không việc gì làm, ở nhà buồn lắm hay ra ngồi đây uống cà-phê nhìn người qua lại, về nhà trễ, bà cụ đi tìm đón về… lại nghe những lời trách hàm chứa yêu thương… đã trở thành thói quen không bỏ được. Nhà cũng gần đây nhưng cũng tội cho bà cụ, vào mùa đông, khi có tuyết rơi, bà cũng đội tuyết đi tìm đứa con tàn tật nầy!

Hai tách cà-phê được mang đến, bà đưa tay phải lấy viên đường. Quốc nhìn thấy bàn tay của bà bị co quắp trừ ngón cái và ngón trỏ còn cử động được, ba ngón còn lại áp chặt vào lòng bàn tay. Bà cầm muỗng khuấy tách cà-phê nhẹ nhàng và rất bình thường, không vướng víu… Quốc thấy lòng dâng lên nỗi ái-ngại khi vừa khám phá thêm bàn tay của bà, Quốc quên đi ly cà-phê của mình… đến khi cà-phê được nhấm nháp rồi để xuống bàn, Quốc đang tìm lời đề vào câu chuyện thì bà nói như để nhắc Quốc:
– Không biết tôi phải gọi ông là gì đây ? Còn tên tôi thì ông đã biết rồi, trên đài truyền-hình France 3, nay giới thiệu thì quá trễ. Khỏi cần lặp lại phải không ông?

Bà cười vui vẻ, tự nhiên. Quốc nhận ra sự vụng về của mình, ấp-úng trả lời:

– Được gặp bà hôm nay, lòng tôi phấn khởi vô cùng, nên quên giới thiệu tên, mong bà thông cảm. Xin bà gọi tôi là Nguyễn… Nguyễn-minh Quốc.
– Việt-nam mình sao nhiều Nguyễn thế! Đi đâu trên xứ Tây nầy cũng gặp Nguyễn. Bà cười, hai mắt nhíu lại nhìn Quốc, tay bị tật cầm chiếc muỗng gõ nhẹ vào thành miệng tách cà-phê.

Quốc vui theo cái vui của bà, đề cập thẳng vào chuyện:

– Bà Trần có thể kể cho tôi câu chuyện về trường hợp nào đưa bà vào việc làm ăn xin để có tiền giúp cho Hội Từ Thiện?

Bà trầm ngâm một chốc rồi bắt đầu câu chuyện:

– Tôi rời Việt-nam vào năm tôi được sáu tuổi vì lý do thương tật của tôi. Vào thời đó Việt-nam đang có chiến tranh và tôi cũng là một nạn-nhân của chiến tranh. Tôi là nạn nhân của chiến-tranh, nhưng bị thương tật do bị tra-tấn, không phải do bom đạn. Lúc đó ba tôi lái xe cho bịnh-viện Grall của Pháp ở Sài-gòn, trong khi mẹ tôi và tôi sống ở quê nhà, thị trấn Vĩnh-điện, miền trung Việt-nam, chí cách xa thành phố cổ Hội An không tới mười cây số. Mẹ tôi có một tủ kính nhỏ buôn bán vòng vàng trong chợ. Buổi sáng tôi theo mẹ ra chợ, buổi chiều tan chợ, theo mẹ về nhà. Buổi tối, thỉnh-thoảng mẹ tôi dạy tôi đọc và tập viết chữ a, b, c, đ. Tôi chưa đến trường, mẹ nói tôi còn quá nhỏ, chưa đủ tuổi đến trường. Đêm nằm ngủ với mẹ, tôi nghe có tiêng ì-ầm từ xa xa vọng vào nhà, tôi hỏi mẹ đó là tiếng gì thì nghe mẹ thở dài, giọng buồn buồn trả lời:
– Đó là tiếng súng đại-bác, chắc là hai bên đang đánh nhau một nơi nào đó, chiến tranh ngày một rộng ra, dân ở quê bắt đầu khổ rồi, buôn bán ế-ẩm.

Nói xong, mẹ ôm tôi vào lòng, im lặng, tôi nghe tiếng đập của tim mẹ.

“ Rồi một đêm đang ngủ, tôi giật mình thức dậy vì nghe tiếng súng nổ “cắc bùm”,..”tạch… tạch”, tiếng “chéo chéo” của đạn bay… tiếng gà kêu “cục tác” “cục cục” tiếng heo kêu “ụt…ụt”, có tiếng trẻ con khóc ré lên có lẽ vì sợ… rồi có tiếng ai đó nói to: ” Chắc mấy Ổng đang đánh úp quận. Ở đâu mà mấy Ổng về tứ bề, đông thiệt là đông?”.

Mẹ lôi tôi ra khỏi giường, đẩy tôi xuống bên dưới giường, mẹ nằm bên cạnh. Người mẹ tôi run rẩy, tôi cũng run như mẹ. 

Trước đấy không lâu, nghe lời khuyên của bạn bè trong chợ, mẹ đã nhờ người ta mua bao cát nhỏ chất quanh giường ngủ thay vì đào hầm để tránh đạn… nay hai mẹ con tôi có chỗ nằm để tránh đạn.

Rồi tiếng súng im bặt. Tiếng chân người chạy vội vã, tiếng đập cửa liên hồi, tiếng gọi tên người nầy rồi người khác… tiếng năn nỉ, ấm-ức khóc… Lại một tiếng la to: ” bắn “… một tiếng súng nổ… tiếng đàn bà con nít khóc ré lên nghe thảm thiết. Mẹ ôm chặt tôi rồi. Mẹ kéo nhẹ tôi ra khỏi gầm giường vừa lúc có tiếng đập cửa ầm ầm, tiếng chân đá vào cửa rầm rầm… Có tiếng ra lệnh: “Mở cửa ! mở cửa ! Nếu không tuân lệnh, quân Giải-phóng sẽ phá cửa… nếu không mở, chống đối, quân Giải phóng sẽ bắn tại chỗ ! “

Mẹ khóc, run lẩy bẩy tiến về phía cửa, trả lời lập cập:

– Tôi mở… tôi mở… nhà không có đàn ông, con trai, chỉ có hai mẹ con tôi là đàn bà con gái.!

Cửa mở, ánh sáng tràn vào. Tôi nhìn thấy có mấy người ùa vào nhà. Mẹ tôi co rúm người lại. Những người nầy có mang súng chạy tìm kiếm, lục lạo khắp nơi trong nhà, họ nhìn xuống hầm giường mẹ con tôi ngủ và hét lên: “Có còn ai trốn trong đó không thì ra ngay, bắt được quân Giải phóng sẽ không tha!”

Áo quần họ mặc không giống như áo quần quân lính Quốc gia ở quận. Người mặc quần ngắn, kẻ mặc quần dài, áo tay ngắn, tay dài. Người đi chân không, người mang dép vỏ lốp xe. Đàn ông mang súng, con gái có nguời cầm gậy, có người tay không.

Sau khi lục soát nhà xong, một người trong toán lục soát tiến ra cửa nói lớn:

– Báo cáo đồng chí, đã lục soát xong, không có gì khả nghi.

Một người đi vào. Lưng có đeo một súng ngắn. Tôi nhận ra ngay là anh Kéo vì anh mặc cái quần kaki đen có cái lỗ bị cháy nơi đầu gối. Cái quần kaki đen nầy ba tôi mua ở Sài-gòn tặng anh Kéo nhân dịp về ăn Tết với gia-đình hơn một năm trước đây mặc dầu anh đội cái mũ tai bèo che phủ hơn nửa phần mặt. Cái lỗ bị rách của cái quần nơi đầu gối là do anh Kéo tạo ra một phần, một phần do tôi. Ngày hôm đó mồng bốn tết mẹ mở cửa hàng, sau tết nên có không ít người đến mua bán. Anh Kéo làm việc cho tiệm vàng của mẹ. Anh thử vàng thật hay giả, anh làm nhẫn, làm giây chuyền. Hôm đó khách hơi đông, anh Kéo quên tắt lửa ống hàn xì khi anh đang trao đổi chuyện với khách hàng, vô-ý, mỏ hàn xì làm quần anh bị cháy thủng một lỗ nơi đầu gối, cái quần kaki đen ba tôi mua tặng mặc dịp tết. Khi không còn khách hàng, tôi tinh-nghịch cho ngón tay trỏ vào cái lỗ bị cháy của ống quần kéo mạnh tay, cái lỗ bị cháy rách rộng ra, anh Kéo không nói gì, chỉ cúi xuống vuốt vuốt chỗ bị thủng rách. Nhưng tôi bị mẹ phát cho mấy bàn tay vào mông vì cái tội tinh-nghịch. 

Mặt trời đã mọc. Anh Kéo lôi mẹ vào góc nhà, anh rút khẩu súng đeo bên hông dí vào trán mẹ. Mẹ tựa lưng vào tường, người khụy xuống nhưng đứng vững bằng hai tay chống trên hai đầu gối. Miệng mẹ hả ra, hai mắt mở to, đầy nước mắt. Anh Kéo hỏi lớn:

– Vàng để đâu, đem hết ra đây đóng góp cho Mặt-Trận.

Mẹ ngồi bệt xuống đất, hai tay chấp lại, vừa vái anh Kéo liên hồi vừa chỉ cái bình hoa cắm hoa giấy trên bàn thờ, nói không thành tiếng:

– Có bao nhiêu tôi giấu hết trong cái bình hoa đó, lạy ông, ông lấy hết đi và tha cho hai mẹ con tôi.

Lúc anh Kéo đi đến bàn thờ cầm cái bình hoa lên, vứt những bông hoa giấy rồi trút hết những vòng vàng trong bình xuống mặt bàn thờ, tôi thấy hai mắt anh sáng lên, mặt mất dần vẻ hung ác. Trong lúc anh Kéo đang lấy những chiếc nhẫn vàng đeo vào những ngón tay, tôi bò đến ngồi bên cạnh mẹ, khóc ấm-ức.

Khi anh Kéo lấy hết vàng trên bàn, anh quay lại đứng trước mẹ, lúc nầy mặt anh trở lại hung dữ như trước.

Anh dí mũi súng vào trán mẹ hét lên:

– Vàng còn dấu nơi nào nữa hãy chỉ mau, nếu còn dấu diếm Cách-mạng sẽ không tha chết đâu !

Mẹ lại khóc, lại chấp tay vái lạy anh Kéo. Lần nầy mẹ quỳ hai gối, đầu rạp xuống trước chân anh Kéo, mẹ nói đứt từng hơi một:

– Ông biết rồi mà, trước đây ông làm việc với tôi, ông biết tôi chỉ có vốn liếng ba lượng vàng, làm thành mẫu mà bày trong tủ kiếng. Khi bán gần hết tôi phải vào Hội-An mua thêm vàng cho đủ số vốn ba lượng. Nay còn bấy nhiêu đã chỉ cho ông rồi đó, ông đã lấy hết rồi, đâu còn mô nữa mà giấu.

Anh Kéo ra dấu tay kêu hai người cùng trong nhóm rồi ra lệnh:

– Hãy trói con mẹ nầy lại hỏi còn vàng giấu đâu, nó ngoan cố, thay mặt chinh quyền Cách-mạng bắn bỏ. 

Tôi nghe nói bắn chết mẹ, tôi vùng đứng lên chạy đến ôm cánh tay anh Kéo, nước mắt chan hòa, tôi xin anh Kéo tha cho mẹ, đừng bắn mẹ. Anh Kéo vung tay thật mạnh làm tôi té nhào xuống đất. Anh ra lệnh:

– Các đồng chí cột chân con nhỏ nầy lại treo lên sà nhà để xem mẹ nó còn ngoan cố tới đâu, còn giấu vàng mà không chịu khai báo.

Tôi bị hai người đè xuống nền đất, họ cột một chân của tôi rồi kéo lên treo lơ lững giữa nhà. Tôi vùng vẫy, kêu la trong sự đau đớn. Mẹ nằm co rúm trên nền nhà, dường như sự sợ hãi chen lẫn đau đớn tột cùng làm mẹ mất trí, mẹ lảm nhảm:

– Anh làm cho tôi, anh biết mà, vốn liếng của tôi chỉ có ba lượng làm mẫu cho khách lựa chọn… khi gần hết hàng… phải vào Hội-an mua thêm vàng cho đủ ba lượng… nay anh làm Cách-mạng, anh lấy hết rồi… còn đâu nữa mà giấu ! Anh tha cho con tôi, nó còn nhỏ, nó có biết gì đâu ! .

Tôi nghe có tiếng họ nói với nhau:

– Con mẹ nầy còn ngoan cố, không nên tha cho nó, các đồng chí đồng ý không ?
– Đồng-ý… đồng-ý !

Cái chân bị cột của tôi càng lúc càng làm tôi đau thêm. Tiếng đồng-ý, đồng-ý làm tôi khiếp người. Đến một lúc tôi nghe từ cái chân bị cột căng đến tột cùng, tôi nghe từ khớp xương mông phát ra một âm thanh nhu một cành cây khô có ai dẫm lên làm gãy, tôi hét lên và không còn nghe biết gì quanh tôi.

Rồi tôi nghe có tiếng gọi nhau, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng súng nổ thưa thớt, tiếng trẻ con gọi cha, gọi mẹ, gọi anh, gọi chị. Tiếng khóc rưng-rức âm độ khác nhau trong cả khu xóm. Tôi mở mắt nhìn quanh nhà, duy nhất chỉ còn mẹ đang đứng trên ghế, nâng người tôi lên, với tư thế nầy tôi cảm thấy chân bị trói của tôi bớt đau một chút. Mẹ tìm cách mở giây đỡ tôi xuống đất không được, mẹ đứng như vậy vừa nâng người tôi vừa ôm tôi vào ngực, áp mặt vào thân tôi. Hơi thở của mẹ dồn dập, nóng hổi, thổn thức. Toàn thân tôi, tay chân tê lạnh, chỉ có đầu và mặt tôi nóng hừng hực, hai mắt tôi như có những ngôi sao nằm bên trong.

Cả khu xóm lại yên-lặng… Tiếng một ai đó nói lớn như muốn cho mọi người cùng nghe:

– Chúng nó rút đi rồi. Lính Quốc-gia từ Đà-nẵng kéo vô, từ Hội-an đổ xuống đông lắm.

Có tiếng vỗ tay rời rạc, có tiếng nói với nhau mang âm hưởng vui mừng và bình tĩnh hơn. 

Mẹ thở ra một hơi dài thật mạnh, rồi kêu lớn:

– Bà con ơi, có ai đó cứu con tôi với… không thì nó chết mất. Bà con ơi, xin cứu con tôi…

Tiêng kêu cứu của mẹ như muốn làm vỡ tung ngôi nhà mái tôn. Nhiều người chạy đến, những ông bà lớn tuổi và con nít. Mấy ông mấy bà tìm cách tháo giây trói không được. Họ dùng dao cắt đứt giây, tôi rơi xuống. Mẹ và mấy ông mấy bà cố đỡ tôi cho khỏi rơi xuống đất, nhưng đà rơi và sức nặng của cơ thể tôi đã không giữ lại được giữa những bàn tay. Tôi rơi xuống nền đất, mẹ ngã trên người tôi vì cố giữ tôi trên tay.

Tôi hét lên… và không còn biết gì nữa.

Chị Thérèse nói tiếp, giọng nhẫn nhục:

– Khi tôi tỉnh lại, mẹ đang ngồi bên tôi, mệt mỏi và buồn rầu. Mẹ cười, hai môi như bị méo, để bàn tay lên trán tôi, mẹ hỏi giọng nghẹn ngào:
– Con tỉnh lại rồi, con còn bị đau nhiều không? Con ráng chịu đựng rồi sẽ khỏi, con của mẹ!
“ Tôi cảm thấy một nửa thân tôi và toàn chân bên trái bị bó cứng, bàn tay bên phải cũng bị bó cứng, tôi không cựa quậy được. Toàn thân tôi còn đau đớn nhưng tôi cảm thấy chịu đựng được nên gật đầu như trả lời cho mẹ tôi rằng không còn đau nhiều, tôi muốn nhìn thấy mẹ an-tâm. Tôi được điều trị thương tật ở bịnh-viện Hội-an. Chân phải của tôi bị trật xương khớp háng, các mạch máu không dẫn máu đến được nên toàn chân phải bị chết. Bàn tay phải của tôi bị gãy mấy ngón tay, vì khi được cắt giây bị treo trên sà nhà rơi xuống, bàn tay tôi chống đất trước. Hội đồng bác sĩ của bịnh-viện không chấp thuận đề nghị của bác sĩ điều trị cắt một phần chân của tôi vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Ba tháng sau tôi được xuất viện, chân tôi không duỗi thẳng được, vẫn cong, nên tôi phải dùng nạng. Ba ngón tay của bàn tay phải bị gãy, khép vào lòng bàn tay không cử động được. Mẹ bán nhà, hai mẹ con vào Sài-gòn sống với ba. Biết được tình trạng thương tật của tôi, bác sĩ người Pháp giám-đốc bịnh viện Grall cũng là hội-trưởng hội Chữ Thập Đỏ của Pháp tại Việt-nam đã làm thủ tục đưa tôi qua Pháp để được tiếp tục chữa trị. Một gia-đình người Pháp không con, nhận bảo trợ cho tôi. Tôi rời Việt-nam năm 1967, vừa đúng sáu tuổi.

Gia-đình người Pháp bảo trợ cho tôi gốc Bồ-đào-Nha rất sùng đạo Thiên-chúa. Chồng làm việc cho một hãng bào chế thuốc. Vợ là y-tá điều dưỡng của một bịnh-viện. Gia-đình cư ngụ vùng Bắc thành-phố Paris.

Một tuần có hai ngày tôi được xe bịnh-viện đón đưa đến trung tâm Phục hồi Chức năng để được săn sóc thương tật. Những ngày còn lại trong tuần tôi cũng đươc xe đưa đón đi học tại một trường dành cho trẻ em khuyết-tật.

Mặc dầu được chữa trị bằng phương tiện y-khoa tân-tiến vào thời đó, thương tật của tôi không trở lại bình thường… và tôi trở thành khuyết tật vĩnh viễn. Gia-đình bảo trợ tôi không muốn tôi trở lại Viêt-nam, làm thủ-tục xin nhận tôi làm con với sự đồng ý của ba mẹ tôi. Tôi tiếp-tục được đi học chữ tại trường cho người khuyết- tật đến hết chương-trình trung-học. Cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ, tôi phụ giúp cho chi hội Chữ-thập-Đỏ địa phương, làm nhiệm vụ tiếp nhận tặng phẩm và tiền bạc của những người hảo-tâm đem đến ủng hộ cho hội hoặc đôi khi lập thành nhóm đi lạc-quyên ngoài đường phố hay tại các trung-tâm thương mại lớn. 

Năm 1975, tôi đang chuẩn bị vào trung-học đệ nhị cấp thì tại Việt-nam chính quyền Cộng sản Miền Bắc đánh chiếm và cai-trị Miền Nam. Ba mẹ tôi được sứ-quán Pháp cho phép theo nhân viên người Pháp phục-vụ tại bịnh-viện Grall qua Pháp tị-nạn vì sợ chính quyền mới qui tội làm việc cho ngoại bang. Tôi tiếp tục học hết trung-học, vào đại-học, rồi ra trường đi dạy. Hai người bảo trợ cũng là cha mẹ nuôi tôi sau nầy lần lượt theo hầu Đức chúa trời vì cao tuổi. Ba tôi cũng rời bỏ hai mẹ con tôi sau một cơn bệnh đột-ngột vì tim. Năm đó, tôi ba mươi bảy tuổi. Me rời bỏ tỉnh, lên Paris sống chung với tôi. Theo lời trăn trối của ba muốn đem tro cốt về quê nhà, mẹ và tôi quyết định đi về thăm Việt-nam. Sau khi tro cốt của ba được được gởi trong chùa ở Hội-an và vài ngày thăm viếng bạn bè quen biết, mẹ và tôi trở ra Vĩnh-Điện thăm làng xóm cũ. Tôi không còn ghi nhớ gì nhiều khung cảnh ở đây vì đã rời gần ba mươi năm trước. Chỉ nghe người thân quen của mẹ nhắc lại chuyện giặc giã ba mươi năm trước tấn công và chiếm đóng thị-xã và tôi là một phần nhỏ trong những tai u xóm cũ lên đường vào Sai-gòn trở lại Pháp, mẹ mời vài người thân quen ngày trước cùng buôn bán trong chợ cạnh tủ vàng của mẹ, tham dự một bữa cơm thân mật tại một nhà hàng nhỏ. Đang lúc ăn và chuyện trò vui vẻ thì bỗng dưng mọi người ngừng nói. Một ông bác hỏi mẹ:

– Thím Ba có nhận người nầy là ai không.? Ông nhìn về hướng cửa vào nhà hàng ăn. Tôi và mẹ nhìn theo hướng nhìn của ông… Một ông già chống nạng cụt một chân, hai mắt bị mù, được một cô gái có cổ nghiêng qua một bên, mặt hướng lên trời dẫn đi. Hai người tiến gần đến bàn ăn của chúng tôi. Họ đang đi xin ăn.

Mẹ tôi lắc đầu trả lời bác, nói “không biết”.

– Thằng Kéo mà thím không nhận ra sao, ngày trước nó là thợ làm vàng cho thím đó? Ông bác nói với mẹ.

Mẹ mở to mắt, miệng hả ra, rồi nhắm mắt lại thở ra, khi nhận ra tên nguời làm hồi truớc. Tôi thấy toàn thân cứng lạnh, sợ hãi khi nhìn lại kẻ đã cột treo mình lên sà nhà để tra khảo mẹ nơi dấu vàng mấy chục năm trước. Ông bác kể:

– Sau cái năm nó kéo du-kích về đánh chiếm Vĩnh-Điện mình một đêm, một ngày, thì thị xã được lính Quốc-gia chiếm lại bọn nó rút về Gò-nổi, bị máy bay Quốc-gia dập bom banh càng, nó mất một chân… Sau chiến tranh, chính-quyền mới cho làm khóm trưởng đâu bên Gò-nổi, một đêm tối, sau khi đi vận động nông-dân vào họp tác-xã nông- nghiêp, trên đường về, nó bị mấy người lạ mặt chận lại đánh bị thuơng nặng, làm mù hai mắt, rôi trói lại bỏ trong ruộng dâu. Đứa con gái dẫn nó đi ăn xin là con của nó, khi sinh ra đã bị tật như vậy.”

Tôi nhìn cô gái, mặt cứ ngữa nhìn lên trời. Tôi chợt nhớ đến cái đêm tôi bị trói, treo lên sà nhà, mặt mẹ lúc nào cũng ngước lên nhìn tôi, đau đớn, sợ hãi và chan hòa nước mắt. Còn cô gái nầy suốt đời phải ngước mặt nhìn trời là tại làm sao vậy? Trần gian nầy đang quá khổ đau nên không dám nhìn xuống? Cầu xin ơn trên tha lỗi cho cha mình đã một thời gieo rắc tang thương cho đồng bào mình? Nếu đúng vậy thì tội tình nầy đã đến với cô một cách bất công và cay nghiệt ! Lòng tôi ái-ngại khi nhìn thấy cô. 

Ông bác kể tiếp:

– Chính-quyền địa-phương xếp nó vào diện thương binh liệt-sĩ, được trợ cấp, nhưng không đủ sống, dân địa-phương xa lánh vì sự tàn bạo nó đã gây ra trước đây, rồi vợ bỏ, để lại đứa con rồi đi biệt xứ. Hàng ngày hai cha con rời làng vào đây xin ăn.

Khi hai người ăn xin đến gần bàn ăn, mẹ tự nhiên đứng lên vội vàng đi vào nhà vệ-sinh. Tôi cũng đứng lên, đi “lọc cọc” theo mẹ. Hai mẹ con đứng yên-lặng trong nhà vệ-sinh, không trao đổi với nhau một lời, chỉ nhìn nhau… Khi hai mẹ con trở ra lại bàn ăn, hai người ăn xin đã đi qua những bàn thực khách khác.

Bữa cơm thân mật chấm dứt, mọi người chia tay với những chúc lành đẹp nhất. Dưới ánh sáng vàng vọt của những cột điện ven đường, hai người ăn xin đang đi phía trước, dưới những hàng cây khẳng khiu, thưa lá. Khi vượt qua hai người ăn xin, tôi dừng lại, cho tay vào túi xách lấy ra mấy tờ bạc dúi vào tay cô gái rồi theo mẹ băng qua đường một cách vội vàng. Trong đêm tối yên tĩnh, tôi nghe rõ tiếng nạng “cộp… cộp “của anh Kéo vang lên chen cùng tiếng nạng “cộp… cộp” của tôi nghe buồn da diết.

Trong những ngay chờ đợi chuyến bay về lại Pháp tại Sài-gòn, một buổi sáng, mẹ và tôi dùng điểm tâm tại một tiệm phở. Khi hai mẹ con tôi vừa ăn xong thì một người đàn ông không còn chân lết đến bên cạnh nhìn thẳng vào hai mẹ con tôi, đưa một một túi nhựa ra trước mặt, hỏi:

– Hai bà ăn xong rồi, phần dư còn lại không ăn hết, xin cho vào túi nhựa của tôi.

Mẹ e-ngại trút phần ăn còn lại của hai tô phở vào túi nhựa với nét mặt đầy xúc động, rồi lặng lẽ lấy mấy tờ bạc để vào tay ông, mẹ nói:

– Chú giữ lấy tiền nầy để mua thêm thứ gì để ăn.

Người đàn ông cầm tiền, cứ chăm chăm nhìn mặt mẹ rồi lết ra bên ngoài tiệm phở. Bên ngoài có một đám con nít, tay xách thùng đánh giày, tay cầm vé số, tay cầm lon xin tiền, tay cầm túi nhựa xin thức ăn thừa, muốn vào tiệm nhưng bị người quản lý ngăn chận. Khi mẹ và tôi bước ra khỏi tiệm phở, lũ con nít ùa tới vây quanh, mỗi đứa nói một câu lao nhao, mẹ đưa tay nhẹ nhàng gạt chúng qua một bên để có lối đi cho hai mẹ con. Giữa lúc đó, từ trong một góc, người ăn xin cụt hai chân lết lần về phía chúng tôi, hỏi lớn:

– Có phải bà là thím Ba ngày xưa có tủ vàng trong chợ Vĩnh-Điện không ? Cháu nhìn không sai đâu. Hồi đó thím nổi tiếng khu Vĩnh-điện, mọi người đều nói như vậy. Mắt thím đẹp, ai cũng biết. Con Chút, con gái của thím cũng có cặp mắt giống thím như vậy. Cô nầy chắc là con Chút ngày xưa, bị mấy thằng trong rừng ra quậy phá phố Vĩnh-Điện bắt treo lên khảo vàng nhà thím, làm nó bị thương, phải không thím?

Ông vừa nói vừa chỉ tay vào tôi. 

Tôi ngạc nhiên, cố tìm trong trí nhớ người nầy là ai… Thấy mẹ do dự một lúc rồi gật đầu xác nhận. Mẹ lại hỏi;

– Tôi nay lớn tuổi rồi, trí nhớ không còn như trước, không nhớ chú là ai vậy ?.

Người ăn xin cụt hai chân nói giọng vui mừng:

– Cháu là con ông Tư Cải cùng xóm với thím đó, cháu là thằng Lự đây. Hồi thằng Kéo đem du-kích của nó đánh Vĩnh-Điện, nó bắt ông già cháu đi theo vì ông không chịu đóng thuế nông-hội cho chúng. Mấy tháng sau dân chúng vớt được xác ông già cháu nổi trên bến đò Hoa-trà. Đêm đó thằng Kéo vào nhà thím treo con Chút lên kèo nhà để khảo vàng, chuyện ấy ai cũng biết.

Mẹ thừ người ra, mặt đượm nét sầu đau. Còn tôi, khi được nghe nhắc đến tên Chút, cái trên mà ba mươi năm nay không còn ai nhắc đến, đã vào trong quên lãng của mọi người, nay được nghe lại, tôi bồi hồi xúc-động. Ký ức tuổi thơ của tôi chợt thức giấc: Thằng Lự đây sao? Hồi đó hai đứa cùng lũ bạn trong xóm, suốt ngày lêu-lỗng ngoài xóm, chơi lò-cò, chơi nhảy dây, chơi u, chơi ném lon… thằng Lự khỏe mạnh, thường hay bênh vực tôi mỗi khi bị bọn trẻ khác hiếp đáp!

Tôi đang nghĩ đến ngày xa xưa, thì nghe tiếng mẹ:

– Tại sao cháu ra nông-nổi tàn tật như thế nầy ?.
– Năm 1979, cháu bị bắt vào lính, đưa ra Bắc đánh nhau với Trung-quốc, cháu bị thương cụt hai chân. Đời sống khổ lắm thím, nhà nước trợ cấp nhưng sống vẫn thiếu trước hụt sau… người ta quy kết trước đây ông già cháu có tội với cách mạng vì không nộp thuế nông-hội, nay mặc dầu cháu hy sinh một phần cơ thể cho đất nước, nhưng cháu phải tiếp tục trả cái nợ trước đây của ông già, vì vậy phần trợ cấp thương binh của cháu bị địa phương cắt giảm không đủ vào đâu nên cháu phải xin ăn.

Tôi nhìn thân thể tật nguyền và teo gầy của Lự, nước mắt ứa ra. Tôi bước lần đến bên Lự, buông nạng, quỳ một chân trước Lự, nhìn sững Lự rồi bật khóc như ngày nào bị chúng bạn hiếp-đáp, khóc to lên để Lự chạy đến bênh vực, che chở. Tôi nghe từ phía Lự cũng có tiếng nấc lên, thổn thức. Trong làn nước mắt, tôi thấy tôi đang chạy trốn thật nhanh, đàng sau, Lự đứng giang hai tay như người hiệp-sĩ ngăn cản lũ cướp là đám con nít đưổi theo sau trong khi hơn thua nhau trong một trò chơi giành giựt nhau của trẻ con.

Tôi im-lặng. Lự im-lặng. Mẹ nhẹ nhàng kéo tay tôi đứng dậy. Tôi đứng lên. Lự vẫn ngồi bất động. Chung quanh có nhiều người hiếu kỳ đứng lại nhìn chúng tôi.

Mẹ gọi hai xe xích-lô, mẹ một chiếc, tôi ngồi chung xe với Lự. Trên đường dẫn về nhà Lự, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài những hình ảnh một thời thơ ấu của tôi cuộn chảy về như một dòng sông ký ức. Tôi nhìn thấy một con bé lúc nào cũng được che chở, được binh-vục dù con bé sai quấy, ngay cả khi con bé đó tham lam lấy đồ chơi của người khác làm của mình. Nhưng rồi cũng có lúc con bé trở nên hung dữ, ném dép và đá sỏi vào Lự vì con bé bị ngăn chận không cho leo lên cây hái mấy trái ổi, sợ bị té. Một viên đá đă làm trán Lự chảy máu, Lự kéo áo lau máu, chạy về nhà. Con bé chạy theo, Lự khép cửa không cho nó vào nhà, Lự giận, con bé ngồi bên ngoài lo sợ cho vết thương của Lự, khóc ấm ức… Kỷ niệm đang trở về, trong vô thức, tôi đưa bàn tay thương tật sờ lên trán Lự, nơi vết thương của ngày nào… Bỗng nhiên Lự cũng đưa một tay lên vỗ nhẹ vào tay tôi đang dặt trên trán Lự. Lự cười và nói như nói với tôi và như nói với chính mình:

– Sẹo của vết thương đã phai theo thời gian, nhưng kỷ-niệm về vết thương vẫn nhớ mãi.

Lự nói, mắt vẫn nhìn về phía trước. Lự đã hiểu lòng tôi khi bàn tay tôi để lên trán Lự để nhớ về tháng năm thơ ấu thân yêu. Tôi nhìn Lự, ngầm nói lên lời cảm ơn tình bạn thân ái vẫn còn lại với tháng năm.

Lự sống với gia-đình em gái trong khu ngã tư Bảy Hiền, nơi dân Quảng-nam, vùng Gò-nổi, vốn tiếng tăm với nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt Lụa, Thao, Đũi, bỏ xứ vào đây lập nghiệp, tránh chiến-tranh ác-liệt. Vợ chồng em gái Lự làm nghề vệ-sinh, hốt rác trong khu phố, nuôi ba đứa con, thiếu trước hụt sau nên việc ăn uống cá-nhân Lự tự giải quyêt. Lự cần một nơi tránh gió tránh mưa nắng nơi nhà em gái. Tôi rất đau lòng cho cuộc sống của Lự. Có lúc tôi vu-vơ nghĩ quanh: “Cái đêm anh Kéo bắt treo tôi lên sà nhà… Lự lúc đó đang ở đâu mà không xuất hiện cứu tôi? “. Rồi tôi tự cười mình… ba mươi bảy tuổi rồi… còn nghĩ đến ngày xưa còn bé ! Tiểu hiệp sĩ ngày xưa oai nghi như một thiên-thần, nay thiên thần đã gãy cánh ! 

Mẹ đồng-ý xin hoãn chuyến bay về lại Pháp ba ngày theo đề nghị của tôi. Tôi có thời gian giúp Lự khám sức khỏe toàn diện cũng như đi mua cho Lự một chiếc xe lăn. Mẹ tôi giúp Lự và gia-đình em gái Lự một số tiền để xoay sở sinh sống. Có một điều Lự phàn nàn với tôi là tại sao không gọi Kéo là tên Kéo, thằng Kéo mà gọi là anh Kéo, nó là tên ác ôn mà. Tôi trả lời một cách thản nhiên: 

– Đó chỉ là thói quen thôi, dù gọi tên Kéo, thằng Kéo hay là gì gì đi nữa thì Kéo vẫn là kẻ độc ác, đáng nguyền rủa.

***************

Sau chuyến về Viêt-nam rồi trở lại Paris, sức khỏe của mẹ bắt đầu sa sút. Cùng lúc trường học giảm tối đa giáo viên giảng dạy vì số lượng học sinh ngày một giảm vì người Pháp không muốn sinh con. Lợi dụng bị thuyên chuyển làm việc xa nhà, thân tàn tật di chuyển khó khăn, tôi xin nghỉ việc để có thời gian lo săn sóc mẹ. Thời gian rảnh rỗi, tôi vẫn tiếp tục làm việc thiện nguyện cho Hội Chữ Thập Đỏ. Rồi chiến tranh ở Bắc Phi, chiến tranh ở Trung-đông liên tiếp xẩy ra, tôi có dịp theo hội cứu giúp trong các trại tỵ nạn nơi xẩy ra chiến cuộc. Sự tàn phá, chết chóc do chiến-tranh tạo ra gây cho tôi kiệt lực. Người ta nhân danh chiến tranh để giải phóng con người ra khỏi đói nghèo và áp-bức, nhưng sau chiến-tranh, đói nghèo và áp bức càng gia-tăng do hậu quả cuộc chiến để lại và lòng tham muốn quyền lực chiếm đoạt và sự trả thù của bên thắng cuộc đối với kẻ thua cuộc.

Cường-độ của độc-ác, bóc lột, đói nghèo gia tăng thì lòng nhân-đạo giúp đỡ nhau đi xuống. Chiến-tranh ở Việt-nam có “Kéo” ác-độc chủ động tham dự, “Lự” bị cưỡng bách, có “Chút” là tôi, một thường dân vô-tội, thì các nạn nhân chiến-tranh ở Trung-đông, Bắc-Phi cũng không khác. Tôi nói lòng nhân đạo đi xuống là muốn nói lòng nhân đạo tự nguyện đối với nạn-nhân của mọi biến cố xa gần, trực-tiếp hay gián-tiếp đã trở nên cằn cỗi… nên một số anh chị em trong hội tự chọn cho mình một phương cách hữu-hiệu, an toàn để tạo thêm nguồn tài-chánh cho trung ương, và tôi đã chọn là mỗi tuần tôi để ra ba buổi chiều xin tiền trong hầm xe điện ngầm. Lúc đầu chuyện không đơn giản, vì anh chị em trong nhóm thấy quyết-định của tôi có vẻ sẽ gây bất mãn và gây dị nghị cho tổ chức, nhưng tôi đã thuyết phục được họ vì tôi làm không nhân danh hội, chỉ có tính cách cá-nhân. Những tuần lễ đầu tiên, khách qua lại trong đường hầm xe điện ngầm ném cho tôi những cái nhíu mày tỏ vẻ bực bội. Tôi biết, một người khuyết tật ở xứ Pháp nầy sẽ được xã-hội bảo bọc chu toàn nên xin ăn là điều sĩ nhục cho đất nước. Tôi để hộp xin tiền trước mặt, ngồi im, hai mắt nhắm lại. Một ngày qua đi, ba ngày trong tuần qua đi, không có một xu nào được ném vào hộp. Qua tuần lễ thứ hai, lác đác tôi nghe có tiếng tiền kim loại được ném vào hộp… Rồi một tuần sau đó, niềm vui và tin tưởng đến với tôi. Một nhóm học trò cũ của tôi được cô thầy giáo hướng dẫn du hành nghiên cứu thực tế bên ngoài xã-hội để áp-dụng cho một chương trình học trong lớp đi ngang qua chỗ tôi ngồi xin. Có lẽ do sự giải thích của cô thầy giáo đồng nghiệp cũ của tôi về việc làm của tôi nên các em vây quanh tôi vỗ tay reo hò, nhiều em bỏ tiền vào hộp. Có em giải thích việc làm của tôi với khách qua lại dùng chân vì hiếu kỳ, họ cũng bỏ tiền vào hộp. Hôm đó, lần đầu tiên trong những ngày bắt đầu xin tiền, tôi nhận được khá nhiều tiền, lòng thật vui, đầy phấn khởi. Cũng có lẽ sau ngày hôm đó, những cái nhìn của khách qua lại ném cho có nhiều thiện cảm hơn, có khách dừng chân, nhẹ nhàng bỏ những tờ giấy bạc hay những đồng tiền bằng kim loại vào hộp, không quên kèm thêm một nụ cười. Hạnh-phúc nhất đến với tôi là sau một năm thực-hiên việc xin tiền, đài truyền hình France 3 đưa tin-tức công việc của tôi cho mọi người biết. Có một câu hỏi mà câu trả lời tôi thích nhất từ đó cho tới nay.

Người ta hỏi:

– Bà là người Pháp, gốc Việt-nam, có phải việc làm của bà nhằm mục-đích có tiền góp cho hội Chữ-Thập-Đỏ dành riêng giúp cho những nhu cầu cần-thiết hàn gắn những vết thương do thiên tai tạo ra bên Việt-nam?

– Thưa không phải là như vậy. Việc tôi làm là để đóng góp tài chánh cho hội Chữ-Thập-Đỏ. Sự đóng góp của tôi không bằng một hạt cát trong đai dương mênh-mông. Việc phân phối giúp đỡ theo nhu cầu ở một nơi nào đó là do Hội nghiên-cứu và quyết- định. Hội Chữ-Thập-Đỏ làm việc cho toàn thế-giới, không riêng cho một nước nào. Ngay tại nước Pháp của chúng ta, cũng có những lúc, có những nơi cần có sự góp sức của hội Chữ-Thập-Đỏ.

***************

Tôi nhấp cạn phần còn lại của tách cà-phê, lòng cảm thấy nhói vì câu chuyện.

Tôi Xin Đưa Em Đến Hết Cuộc Đời

Tôi Xin Đưa Em Đến Hết Cuộc Đời

Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.

Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả lương thực, bệnh không khỏi.

Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

Vì thế bà mối đến, réo rắt: “Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà”.

Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: “Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!”.

Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!

Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mình , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.

Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.

………………………………..

  1. Cười xót xa

Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.

Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.

Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v…

Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: “Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?”.

Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: “Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường…”

Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

“Chị ơi, em yêu chị!”.

Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.

………………………………….

  1. An ủi nhỏ nhoi

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.

Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:

“Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành”.

Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.

Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.

Nhưng anh vẫn nói: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”.

Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.

……………………………………..

  1. Kiếp này

Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.

Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

Lúc đó chị đã 29 tuổi.

Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.

Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!

Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: Dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.

Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.

Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.

Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.

Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: “Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!”.

Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?

Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.

…………………………………….

  1. Xin lỗi

Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.

Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.

Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

“Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?”.

Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:

“Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi”.

Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.

…………………………………..

  1. Năm tháng như bài ca, tình yêu như ngọn lửa

Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.

Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.

Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:

“Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy”.

Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.

Nguồn: HTVn [Gift]

From: BS Hanh Van Phung

 Câu chuyện cảm động của một chàng trai Mỹ.  

Câu chuyện cảm động của một chàng trai Mỹ. 

Trong cuộc sống, không ai không mong mình có cuộc sống an lành, hạnh phúc. Tuy nhiên để đạt được điều đó thì mấy ai làm được. Bạn hãy đọc câu chuyện dưới đây về một chàng trai Mỹ, có thể tự rút ra bài học cho mình.

Câu chuyện cảm động này có thể nhiều người sẽ cảm thấy quen thuộc. Ai chưa từng một lần nhặt được của rơi? Tuy nhiên, ít ai biết được tầm ý nghĩa của một hành động, dù rất nhỏ.

Tommy làm thuê cho gia đình ông George đã nhiều năm. Anh rất được ông chủ coi trọng bởi vì anh là người thật thà, chăm chỉ và luôn chu toàn mọi việc. Một ngày nọ, ông chủ bảo Tommy đi về phía Nam của Texas để thu tiền nợ quý đầu năm.

Tommy rời nhà vào buổi sáng và thu được 100.000 đô la tiền nợ. Anh hào hứng vì đã hoàn thành xuất sắc công việc mà ông chủ giao phó và bỏ tất cả tiền vào chiếc túi nhỏ bên mình. Trên đường trở về, vì đói và khát nên Tommy đã ghé vào một quán ăn bên đường dùng bữa trưa rồi nhanh chóng bắt chuyến xe buýt quen thuộc để trở về giao tiền cho ông chủ.

Túi tiền bị mất

Về đến nhà, Tommy nhận ra chiếc túi da nhỏ bên người cùng tất cả số tiền đã biến mất. Ông chủ rất tức giận và nghi ngờ Tommy đã nói dối về việc đánh mất tiền để chiếm dụng 100.000 đô la cho riêng mình. Ông chủ la mắng Tommy và đe dọa rằng nếu anh không thể trả lại số tiền đó vào ngày hôm sau, ông sẽ trình báo với cảnh sát. Bị oan uổng nhưng lại không thể biện minh cho bản thân, Tommy chán nản, thất vọng và chỉ biết gục đầu khóc thật to.

Cùng khu phố của họ có một cậu thanh niên tên là Jeffery. Anh cũng làm kinh doanh nhiều năm và mặc dù nỗ lực, chăm chỉ, chịu khó tìm tòi, sáng tạo nhưng Jeffery thường xuyên gặp thất bại trong công việc.

Mệt mỏi với những kế hoạch không thành, Jeffery quyết định đóng cửa cửa hàng kinh doanh và trở về quê nhà trông nom trang trại cùng cha mẹ. Và điều trùng hợp ngẫu nhiên chính là khi Tommy có mặt trong quán ăn ven đường, Jeffery cũng đã ở đó trong khi chờ đợi chuyến xe để trở về quê.

Người đàn ông chính trực tìm thấy được túi tiền

Sau khi Tommy đứng lên và rời khỏi quán, Jeffery đã thấy chiếc túi nhỏ của anh. Jeffery để ý thấy bên trong có rất nhiều tiền và trong thoáng chốc anh nảy ra ý định muốn có số tiền đó.

Jeffery nhanh chóng di chuyển tới chỗ chiếc túi da và vui sướng khi biết rằng mình đang nắm giữ trong tay 100.000 đô la. Nỗi buồn vì thất bại trong kinh doanh và tâm trạng ủ rũ kéo dài suốt nhiều ngày tháng của anh bỗng chốc tan biến. Anh mơ về viễn cảnh tươi đẹp cùng những kế hoạch, dự định mới với số tiền lớn này. Tuy nhiên, vào lúc anh quyết định bỏ tiền vào trong túi của mình, những suy nghĩ khác nhau giằng xe trong tâm anh.

Jeffery thầm nghĩ:

“Nếu mình giữ lại số tiền này, cuộc sống của mình khi trở về quê sẽ dễ dàng và vui sướng biết bao. Mình sẽ dùng nó để mua thêm một số giống vật nuôi, mở rộng kinh doanh trang trại của cha mẹ.

Nhưng rất có thể chủ nhân của túi tiền này sẽ bị oan ức suốt đời, bị mất chức vị hay thậm chí có thể mất mạng chỉ bởi vì họ đã đánh mất túi tiền. Hành động tham lam của mình có thể sẽ khiến một gia đình hạnh phúc trở nên tan vỡ, hoặc khiến một người chắt chiu tích góp cả đời bỗng chốc về tay không. Nếu như vậy thì mình sẽ gây ra tội lỗi quá lớn rồi.

Nghèo khó hay giàu sang đều có nguyên nhân, mình nên thuận theo an bài của số phận. Vì thế mình nên đợi ở đây cho đến khi chủ nhân của số tiền này quay trở lại. Số tiền nạy nhất định phải trở về với chủ nhân của nó”.

Trời tối dần và người vào quán ăn càng lúc càng tấp nập. Jeffery cố gắng quan sát từng người, nhưng không ai có vẻ lo lắng vì mất đi túi tiền lớn cả. Mặc dù Jeffery đói sôi bụng nhưng anh lại chẳng có tiền để mua thức ăn, tuy nhiên anh vẫn cố chờ đợi để tìm cho ra chủ nhân túi tiền trong dòng người ra vào quán.

Jeffery ngồi đợi cho tới khi khách trong quán bắt đầu thưa dần và cửa hàng chuẩn bị đóng cửa. Đột nhiên, Jeffery nhìn thấy một người thanh niên khác trạc tuổi anh bước vào quán, nét mặt thể hiện rõ sự lo lắng, căng thẳng và đau khổ.

Đó chính là Tommy. Tommy đã xin ông chủ cho đi tìm túi tiền nhưng sợ Tommy bỏ trốn nên cử thêm hai người đi theo giám sát anh.

Túi tiền được trả lại

Jeffery quan sát rất kỹ rồi đi lại bên người thanh niên và hỏi: “Anh đánh mất thứ gì sao?”. Tommy tường thuật lại sự việc cho Jeffery và nói rằng nếu không tìm thấy số tiền ấy, anh không biết cuộc đời mình sẽ ra sao. Jeffery mỉm cười đáp lại: “Cuối cùng anh cũng đến rồi. Tôi đã đợi anh mãi”.

Nhận lại túi tiền, Tommy ôm chặt lấy Jeffery và nghẹn ngào: “Tôi vô cùng biết ơn anh, Jeffery ạ. Nếu không phải một người chính trực như anh tìm được túi tiền và kiên nhẫn ngồi đây chờ đợi, tôi đã thực sự đi đến bước đường cùng và dự định tìm cho mình một cái chết. Anh đã cứu cuộc đời của tôi và tránh cho người thân của tôi khỏi những lụy phiền. Anh quả thực đã làm một việc vô cùng vĩ đại”.

Tommy đề nghị đưa lại cho Jeffery 1/5 giá trị số tiền tìm được nhưng Jeffery đã một mực từ chối. Tommy rút xuống còn 1/10 nhưng Jeffery vẫn cương quyết không nhận. Cho tới khi Tommy nói: “Vậy anh hãy cầm 20 đô la này để mua đồ ăn”, Jeffery vẫn lắc đầu và tỏ ý Tommy hãy mang đầy đủ số tiền trả lại cho ông chủ.

Cuối cùng, Tommy nói: “Vậy sáng mai tôi mời anh dùng bữa có được không?” và Jeffery đã đồng ý.

Một hành động tốt, hai người được cứu

Sáng hôm sau, Jeffery mang theo tâm trạng vô cùng phấn khởi tới điểm hẹn của hai người. Khi Tommy có ý định định mời Jeffery ăn sáng trong một nhà hàng sang trọng, anh ngay lập tức ngăn lại và nói:

“Tôi rất biết ơn anh Tommy. Hôm qua tôi định bắt xe về quê, nhưng vì đợi anh nên tôi đã lỡ mất chuyến xe ấy. Sáng nay, tôi nghe tin chuyến xe đã gặp tai nạn và rất nhiều hành khách đã bị thương. Anh mới là người đã cứu mạng tôi và làm một việc vĩ đại”.

Hành động chính trực của Jeffery đã cứu mạng cả hai người. Khi ông chủ của Tommy nghe được câu chuyện đã vô cùng ngưỡng mộ sự thành thật của Jeffery và trò chuyện với anh một hồi lâu. Sau đó, ông giữ Jeffery ở lại làm kế toán tại cửa hàng của mình. Sau nhiều năm làm việc và học hỏi kinh nghiệm từ ông chủ, cuối cùng Jeffery đã thành công với công việc kinh doanh riêng của mình và trở thành một doanh nhân thành đạt trong xã hội.

***

Trong cuộc đời ngắn ngủi, con người ai cũng muốn có được nhiều lợi ích vật chất để sống tốt. Tuy nhiên, không mấy ai hiểu được đạo lý “Lấy đủ làm vui”, vì thế mà luôn vận dụng các loại thủ đoạn để giành lợi cho riêng mình. Họ không biết rằng, phàm là những thứ dùng thủ đoạn, cưỡng cầu để có được đều mang theo nghiệp chướng rất lớn.

Ngược lại, con người nếu biết sống tốt, tích đức hành thiện, có phúc báo thì tự nhiên sẽ được mọi thứ.

Người xưa vẫn dạy rằng một người cần sống lương thiện, làm điều tốt mà không cần suy tính, mang ơn mà không bao giờ quên. 

Nếu có thể làm được như vậy thì chính là đang tích phúc báo, đó mới là cái lợi vĩnh hằng.

 From: Kristie Phan $ Kim Bang Nguyen